- Home
- Truyện Kiếm Hiệp
- Phong Kiếm Xuân Thu dịch
- Tập 2: Giả thân hình khuấy chơi Vương Tiễn – Hóa nước lửa đốt phá dinh Tần (c11-c20)
Phong Kiếm Xuân Thu dịch
Tập 2: Giả thân hình khuấy chơi Vương Tiễn – Hóa nước lửa đốt phá dinh Tần (c11-c20)
❮ sautiếp ❯Chương 11 : Giả thân hình khuấy chơi Vương Tiễn – Hóa nước lửa đốt phá dinh Tần.
Nói về Vương Tiễn đánh với Tôn Tẫn một hồi, quày ngựa bỏ chạy, Tôn Tẫn quất trâu rượt theo. Vương Tiễn quay đầu ngó thấy rất mừng, miệng đọc thần chú, rút bửu kiếm liệng lên, nạt lớn rằng:
“Thằng cụt chân, không được làm dữ, coi bửu kiếm của ta kia kìa”. Tôn Tẫn dừng trâu ngước mặt lên, xem thấy vầng mây chói ánh, hiện ra ngọn gươm sáng ngời nhắm ngay dầu bay xuống, liền rút cây Hạnh huỳnh kỳ, miệng niệm chú phất lên nạt rằng:
“Bửu kiếm sao không trở lại, còn đợi chừng nào”. Tức thì cây gươm bay trở lại đầu Vương Tiễn. Vương Tiễn ngó thấy bửu kiếm cách đầu chẳng xa, thất king hồn bất phu thể, liệu bề tránh không khỏi nhắm mắt chờ chết mà thôi.
Tôn Tẫn thấy vậy nghĩ thầm rằng:
“Nếu mình giết Vương Tiễn thì được rồi, song sợ e ông Hải Triều tháng nhân quở trách, thì lấy lời chi nói được”. Nghĩ rồi bèn lấy Hạnh huỳnh kỳ chỉ lên, cây gươm bay tuốt qua dinh Tần, dưới cây cờ lớn có một viên phó tướng tên là Tất Tịch chết ngay trước mắt mà không hay, bỗng thấy cây gươm thình lình bay tới, đầu rơi xuống đất, lúc ấy cây gươm có máu rồi bay trở lại Vương Tiễn thâu về. Tôn Tẫn nạt rằng:
“Vương Tiễn! Mi có phép chi hãy đem ra cho hết:
“Vương Tiễn thất kinh, ngó thấy cây gươm chém không được Tôn Tẫn mà trở lại giết chết một tên phó tướng của mình, thì giận lắm, hươi mâu đâm tới, Tôn Tẫn hươi gậy rượt đánh, hai người đánh vùi đến ba mươi hiệp. Vương Tiễn nghĩ rằng:
“Thương pháp của mình vốn không lập công được, duy nhờ cây bửu kiếm mà thôi, khi nãy là tại ta kêu chỉ cho nó, nên nó biết trước giữ gìn, nên không giết được bây giờ ta lén liệng bửu kiếm, chắc nó trở tay không kịp”. Ấy là:
Gió vàng chưa động ve đã biết, Gươm lên thình lình chết chẳng hay.
Nghĩ rồi một tay hươi mâu đánh đỡ, còn một tay thì rút bửu kiếm liệng lên, bên kia Tôn Tẫn cười và nói rằng:
“Tần tặc, khi nãy ta tha giết mi, sao mi muốn lén hại ta như vậy”.
Nói rồi bèn xuất hồn thiệt ra khỏi xác, lúc ấy Vương Tiễn đang đánh, ngó thấy Tôn Tẫn chẳng đề phòng, trong lòng mừng lắm, nạt lên một tiếng, hươi mâu đâm tới, Tôn Tẫn vừa cử gậy lên đỡ, thì cây gươm đã chém, đầu rơi xuống đất. Vương Tiễn rất mừng, quày ngựa lại, lấy thủ cấp Tôn Tẫn, nhưng ngó thấy cái thây không đầu, hãy còn ngồi trên lưng trâu, tay thì cầm gậy. Vương Tiễn khen rằng:
“Thằng cụt chân quả có nửa phần tiên thể, nên cái thây không đầu, mà chẳng hề rớt xuống đất”.
Vương Tiễn bước lại gần mà coi, ngó thấy trên cổ Tôn Tẫn sôi lên một cái bọt, thì nghĩ thầm rằng:
“Thằng cụt này, ngày thường ăn những đồ chay, nên chết không có máu”. Giây phút bọt ấy lớn bằng cái đầu, Vương Tiễn thất kinh nói:
“Thằng cụt rất nên quái lạ, bèn lấy cán mâu hất cái bọt ấy, tức thì trên cổ mọc ra một cái đầu, cười mà rằng:
“Vương Tiễn, chớ nên vô lễ, sao mi đâm cán mâu nhằm con mắt ta như vậy”.
Vương Tiễn hồn phi thiên ngoại, phách tán cửu tiêu, quày ngựa thối lui, run lập cập và nói rằng:
“Khi nãy rõ ràng thấy bửu kiếm ta chém đầu ngươi đứt rồi, sao lại mọc ra đầu khác?” Tôn Tẫn cười lớn nói:
“Vương Tiễn a! Mi chém đầu ta chẳng được đâu, làm cho mệt mỏi tinh thần”. Tôn Tẫn nói:
“Chẳng giấu chi ngươi, trong mình ta tám muôn bốn ngàn lẻ lỗ chân lông, thì có tám muôn bốn ngàn cái đầu, dẫu cho mi có chém đến sang năm, ta cũng chẳng sợ, nếu ngươi có tài nghệ chi, thì chém cho ta rớt xuống thanh ngưu, mới gọi là người giỏi”. Vương Tiễn nghe nói giận lắm nạt rằng:
“Thằng cụt, mi dùng tà thuật gạt ta, ta cũng liều sống chết với ngươi mà thôi”. Nói dứt lời, hươi mâu đâm tới, Tôn Tẫn cử gậy lên đỡ, Tôn Tẫn cười lớn rằng:
“Tần tặc, mi có tài nghệ chi, đem ra cho hết, nếu ta không vị cái tình Hải Triều thánh nhơn thì chẳng một mi mà thôi,dẫu có trăm ngàn thằng Vương Tiễn đi nữa, cũng phải chết dưới tay ta”.
Nói rồi nghĩ thầm rằng:
“Chi bằng nhơn kế mà ra mưu trước làm cho nó vui mừng, sau rõ tài ta lợi hại”. Nghĩ rồi hươi gậy nhắm ngay đầu Vương Tiễn đánh xuống, Vương Tiễn cử mâu gạt khỏi, xốc ngựa lướt tới, với tay bắt sống Tôn Tẫn đê?
qua lưng ngựa mình, Tôn Yên xem thấy lật đật giục ngựa xốc ra. Tôn Tẫn bèn dùng phép định thân, làm cho chúng tướng không đi được, lúc ấy Tôn Yên thấy ngựa không nhúc nhích chút nào, thì giận lắm nói rằng:
“Lạ cho con ngựa này, vì sao lại sanh chứng như vầy kìa”. Vừa muốn hươi kích mà đánh con ngựa thình lình tay giơ?
không lên. Tôn Yên hoảng kinh kêu lớn rằng:
“Chúng vị tướng quân, chú tôi bị giặc bắt rồi, sao không ra mà tiếp cứu”. Chúng tướng nói:
“Tiểu tướng quân hãy ra mau mà cứu, chớ anh em tôi tay chân giở lên chẳng đặng, và con ngựa cũng sanh chứng không đi”. Lý Tòng nói:
“Cha chả, vì sao mà hai chân tôi cũng cứng như mọc rễ nữa, bước đi cũng chẳng được”.
Nói về Vương Tiễn bắt sống Tôn Tẫn, giục ngựa chạy về dinh, bỏ Tôn Tẫn xuống đất, hối quân trói lại vào báo cho Nguyên soái haỵ Chương Hàng bèn tâu cùng Thủy Hoàng rằng:
“Điện tây hầu bắt được Tôn Tẫn còn ở ngoài cửa chờ lệnh”.
Thủy Hoàng nói:
“Lúc đầu bắt Tôn Yên, thì sanh ra cái họa lớn như vậy, nay bắt Tôn Tẫn nữa, chưa biết giả thiệt thế nào”. Bèn truyền chỉ cho vào, Vương Tiễn vào đến bửu trướng, lạy ra mắt, mặt vui hớn hở tâu rằng:
“Nhờ phước lớn của bệ hạ, nên tôi ra trận bắt sống được Tôn Tẫn, mà đem về đây”. Thủy Hoàng nói:
“Tôn Tẫn thiệt hay là Tôn Tẫn giả đó?” Vương Tiễn tâu rằng:
“Tôi đánh với nó hơn hai trăm hiệp, bắt sống trên lưng trâu, nào có giả đâu”. Thủy Hoàng rất mừng, truyền đem rượu mà thưởng công Điện tây hầu. Vương Tiễn vui mừng hớn hở, uống ba chung rượu lạy ta.
ơn, rồi truyền dẫn Tôn Tẫn vào.
Thủy Hoàng xem thấy một người tướng mạo tươi tốt, mặt tợ trăng tròn, môi như thoa mỡ, đầu đội mão tam sa, mình mặc áo bát quái, lưng mang Huỳnh tư đái, chân đi giầy da cá, tay cầm cây gậy trầm hương, lưng thắt cờ hạnh huỳnh, Thủy Hoàng xem rồi, có ý khen thầm, Tôn Tẫn cúi mình tâu rằng:
“Bệ hạ Ở trên, bần đạo xin ra mắt”. Thủy Hoàng đáp lễ nói:
“Nam quận vương miễn lễ, lúc trước trẫm tuy có gặp một hai phen, song chưa đặng sớm tối gần nhau, nay Nam quận vương bị bắt, trẫm há nỡ giết sao, nếu chịu quy hàng nước trẫm, chừng dẹp an thiên hạ rồi, trẫm sẽ gia phong quyền tước, chẳng biết ý Nam quận vương thế nào?” Tôn Tẫn nghe nói, sa nước mắt tâu rằng:
“Tôi mang ơn bệ hạ tha tôi mà nạp dung, thiệt cảm ơn chẳng xiết, bệ hạ rộng ơn, vì cha, anh tôi cả nhà chết rất thảm thương, thân thể chẳng toàn, xin mở ơn trời đất, mà đem thủ cấp của cha, anh tôi, đặng tôi thấy một chút, cho trọn niềm hiếu đạo”. Thủy Hoàng gậtđầu nói:
“Nếu Nam quận vương có lòng đầu trẫm, thì trẫm nào có tiếc chi mấy cái xương mục”. Bèn truyền đem mấy cái thủ cấp của họ Tôn vào.
Kim Tử Lăng tâu rằng:
“Bệ hạ chẳng nên tin người ấy, vốn va đạo phép vô cùng, sợ e người lấy mất đi chăng?”. Thủy Hoàng cười rằng:
“Quân sư chớ lo, nay nó ở giữa muôn quân, có lẽ nào bay đâu cho khỏi”. Bèn truyền chỉ đem vào cho mau.
Thừa tuyên quan liền đem bốn cái thủ cấp đến trước mặt Tôn Tẫn, Tôn Tẫn xem thấy ruột gan đứt đoạn mà khóc rống lên.
Nói về Tôn Tẫn thiệt ở bên dinh, rõ biết sự tình, miệng niệm chơn ngôn, thỉnh bốn vị Công tào, Công Tào hỏi rằng:
“Chẳng hay chơn nhơn đòi chúng tôi có việc chi sai khiến chăng?” Tôn Tẫn nói:
“Xin cậy Tôn thần qua dinh Tần, lấy bốn cái thu?
cấp về đây cho ta”. Công tào vâng lịnh bay tuốt lên mây, xem thấy Tôn Tẫn gia?
đang ở trong dinh Tần khóc lóc, liền bay xuống lấy bốn cái thủ cấp, đem về giao cho Tôn Tẫn. Tôn Tẫn bèn rút gươm, chỉ lên, miệng đọc thần chú giải phép định thâu.
Lúc ấy Tôn Yên, Lý Tòng cùng mười hai vị học trò, tay chân chuyển động như thường, vừa muốn giục ngựa phá dinh Tần, xảy nghe trong dinh mình truyền lịnh đòi về, Tôn Yên lấy làm lạ nói rằng:
“Khi nãy chú mình giặc Tần bắt rồi, vì sao lại ơ?
trong dinh mà truyền lịnh”.
Bèn cùng chúng tướng vào trướng ra mắt xong rồi, kinh nghi chẳng xiết. Tôn Tẫn nói:
“Chúng ngươi về dinh chờ lịnh, còn Tôn Yên thì đemthủ cấp này vào thành”. Tôn Yên quay đầu ngó thấy quả thiệt là đầu ông, cha chú và em mình, thì nửa buồn nửa vui, mới hay chú mình có chước diệu kế mầu, dẫu cho quỷ thần cũng không biết đặng, bèn lật đật đem vào phủ, rồi trở về chờ lịnh.
Nói về Thủy Hoàng ngó thấy bốn cái đầu vùng bay bổng trên không, liền hối quân hiệu úy rượt theo, không thấy hình dạng, Thủy Hoàng hỏi Tôn Tẫn rằng:
“Thiệt nhà ngươi chịu đầu trẫm không?” Tôn Tẫn cười nói:
“Bây giờ không thấy thu?
cấp của anh, cha tôi, thì biểu tôi làm sao mà đầu cho đặng”. Vương Tiễn đứng một bên giận lắm, rút gươm xốc tới sau lưng Tôn Tẫn chém một đao, đứt làm hai đoạn.
Thủy Hoàng than thở rằng:
“Tiếc thay vị Đại la thần tiên, cũng phải chịu đau khô?
như vậy”. Vương Tiễn ngó thấy thây không ra máu, bọt lại sôi lên, thất kinh nói:
“Không xong, nó muốn làm như khi nãy nữa rồi”. Hai tay cầm gươm đứng giữ cái thây, chờ có ráp lại thì đặng chém. Thủy Hoàng thấy vậy hỏi rằng:
“Tôn Tẫn đã chết rồi, sao Tiên hành quan còn cầm gươm đứng giữ làm chi vậy?”.
Vương Tiễn nói:
“Tuy chém nó rồi song cũng chưa hết lo, vì e nó ráp lại nữa chăng?”. Thủy Hoàng cười nói:
“Một cái thây xả làm hai, có lẽ nào hiệp lại đặng”.
Vương Tiễn nói:
“Thằng cụt rất nên quái lạ, khi nãy bị bửu kiếm của tôi chém nó, đầu rơi xuống đất, tức thì nơi cổ mọc lên một cái bọt trắng, tôi lấy cán mâu gạt hất liền ra một cái đầu, làm cho tôi kinh sợ chẳng xiết, nên bây giờ phải phòng bị nó mới xong”.
Thủy Hoàng nghe nói sự lạ như vậy, lấy làm hồ nghi, ngó chừng lom lom, chúng tướng cũng đứng vây chung quanh cái thây mà coi, giây lâu chẳng thấy cựa quậy chi hết. Vương Tiễn rất mừng nói:
“Phước Bệ hạ lớn bằng trời, cho nên phen này Tôn Tẫn quả thiệt chết rồi”. Liền truyền quân đem thây ra ngoài mà bỏ, gia tướng vâng lịnh, áp lại ra tay vừa muốn kéo thây, tức thì cái thây cục cựa, vùng đứng dậy ráp lại mà đi, làm cho vua tôi nhà Tần hoảng kinh, và mạnh ai nấy chạy, trốn hết, bỏ một mình Vương Tiễn với cái thây chết ở lại đó mà thôi. Vương Tiễn lấygươm chém xả làm hai, mỗi bên thì một tay, một chân, một con mắt, tay cầm gậy trầm hương rượt theo Vương Tiễn, kêu biểu:
“Thường mạnh cho ta” Vương Tiễn lật đật vừa muốn chạy ra ngoài, bị thây chết rượt theo, nắm áo kéo lại.
Vương Tiễn hoảng kinh xô ngã xuống đất, thì nửa cái thây khác rượt tới níu lại.
Vương Tiễn trong lòng bối rối than rằng:
“Người đồn rằng thằng cụt lợi hại, qua?
nhiên chết mà còn dữ như vậy, có khi ngày nay không tốt, phạm nhằm ngày thiên địa trùng tang, cho nên thằng cụt mới hiện hồn như thế”.
Nói rồi quay lại ngó thấy Kim Tử Lăng ở trong đó ló đầu lên dòm ra, liền kêu lớn rằng:
“Quân sư ạ! Tôi bị hồn ma níu kéo, sao người để vậy mà coi, người ngày thường hay bắt thần sai quỷ,sao nay chẳng thỉnh thần đuổi cái oan hồn đi”. Tử Lăng nói:
“Có người nhắc, chớ không thì ta đã quên phức đi rồi, thôi Điện hầu chớ lo, đê?
tôi bắt cái thây thằng cụt, mà đày nó qua núi Minh Sơn cho rồi”.
Nói dứt lời chân đạp la đẩu, miệng đạp thần chú, còn đang làm phép, bên kia Tôn Tẫn ở trong dinh, đã biết rồi liền niệm chú đòi Thành Hoàng, thổ địa, đến trướng, nói rằng:
“Nay có Kim Tử Lăng đòi chúng ngươi đến, vậy chúng ngươi hãy lýp tới dinh nó mà nói như vầy…. Như vầy…. bằng trái lịnh cứ theo luật trị tội”. Hai thần lãnh lịnh, tuốt qua dinh Tần, ra mắt KimTử Lăng, nói rằng:
“Chẳng hay Tôn sư đòi tôi có việc gì chăng?”. Tử Lăng nói:
“Nếu việc khác thì chẳng dám phiền nhọc đến Tôn thần, vì Điện tây hầu Vương Tiễn chém Tôn Tẫn chết, mà cái oan hồn thiên tiên chẳng tan, quấy rối trong dinh, làm cho tướng sĩ kinh sợ, xin phiền Tôn thần xua đuổi quỷ hồn, cho khỏi tai họa”.
Hai thần đáp rằng:
“Tiểu thần đâu dám bắt cái hồn ấy, nguyên va Liễu nhứt chơn nhơn, tu thành tiên thiên, trên hay ba mươi từng trời, dưới quản mưới tám từng địa phủ, dẫu người có chết đi nữa, thì cũng cai trị bọn tôi, chúng tôi đâu dám bắt, nay oan hồn chẳng tan, vậy để tôi năn nỉ với người, coi người có chịu cùng chăng”. Nói rồi hai thần bước ra đại trướng, giây phút trở vào. Tử Lăng hỏi:
“Chẳng hay oan hồn Tôn Tẫn thế nào?” Thành hoàng, Thổ địa đáp rằng:
“Chúng tôi nhiều phen cầu xin, song Liễu nhứt chơn nhơn chẳng khứng y lời, người nòi họ Tôn lớn nhỏ bốn mạng, đều chết nơi ray Vương Tiễn, thì cái thù ấy chẳng đội trời chung, quyết chẳng chịu thôi; như muốn cho oan hồn giải tan, thì phải bắt Vương Tiễn mổ lấy tim, mà tế tiên linh, người mới an lòng, nếu chẳng vậy thì người làm cho binh tướng dinh Tần chẳng đặng an sanh”. Nói rồi hai thần từ biệt trở về. Tử Lăng thuật lại Vương Tiễn nghe nói giận lắm nạt rằng:
“Rất chướng cho oan hồn, buông lời bá láp, ta là người sống, há đi sợ con quỷ chết sao?” Nói rồi bước tới nắm nửa cái thây chết, rút bửu kiếm chặt nhào xuống đất, thì nửa cái thây kia hươi gậy đánh tới, Vương Tiễn tránh khỏi, chặt luôn mộm gươm ngã xuống đất, bằm thây tan nát, cơn giận hãy còn, lấy tay chỉ mà nói rằng:
“Phen này sao mi không giỏi đòi nhân mạng với ta nữa”. Bèn thỉnh Thủy Hoàng lên trướng, Thủy Hoàng xem thấy đống thịt thì than rằng:
“Một vị Đại la thiên tiên thịt nát như bùn, chết rất thảm thương”. Vương Tiễn dạy quân lấy giỏ tre, hốt những xương thịt đem ra ngoài mà bỏ, gia tướng vâng lịnh, người người áp lại cúi lưng vừa muốnđộng thủ, vùng nghe trong đống thịt, kêu lớn nói rằng:
“Sao mà chặt đứt tay ta, chặt đứt lưng ta, làm cho ta đứng không được”. Gia tướng hoảng kinh, quăng giỏ đâm sầm chạy hết.
Vua tôi Thủy Hoàng hãi kinh thất sắc, mắt ngó trân, miệng không nói được.
Vương Tiễn giận lắm hối quân lấy củi chất đốt, gia nhân vâng lịnh, giây phút đốt lên rần rần, xảy nghe trong lửa chửi mắng om sòm, Vương Tiễn càng giận lắm, nói rằng:
“Thằng cụt rất nên lợi hại, đốt như vậy mà mắng chửi chẳng thôi”. Dạy quân chế dầu đốt cho xương sọ nó tiêu nát ra tro, coi thằng cụt còn dám làm ma quỷ nữa chăng? Bên kia Tôn Tẫn biết rằng:
Vương Tiễn dùng lửa đốt thây, bèn lấy Hạnh huỳnh kỳ nhắm Tây bắc chỉ lên, kêu rằng:
“Phong bá sao không đến cho mau, còn đợi chừng nào?”. Xảy đâu giông gió ầm ầm, bụi mây mù mịt, lửa gặp gió lửa càng thêm mạnh, gió có lửa gió lại càng hung, làm cho dinh Tần lủa cháy tưng bừng, Thủy Hoàng thất kinh, hối quân cứu lửa, ba quân lớn nhỏ rần rộ, kẻ gàu, người thùng, nhắm trên lửa tưới vào, nước nhiều lửa tắt.
Thủy Hoàng trong lòng bớt sợ, xem lại đống thây Tôn Tẫn chẳng còn một mảy, giây phút trong dinh mây đen mù mịt, nước lên cuồn cuộn. Thủy Hoàng hỏi rằng:
“Trong dinh nước ở đâu chảy vậy?”. Vương Tiễn nói:
“Nước lửa khi nãy đó”. Thủy Hoàng dạy quân lấy đất, đắp ngăn mấy chỗ thấp, đắp chừng nào nước tràn lên chừng nấy trong dinh nước chảy ào ào, dường như khai suối, mênh mông lầy nhầy, vua tôi hoảng kinh, lật đật lên ngựa thì nước đà tới rún, quân binh chạy lên mấy gò cao mà tránh nước, bị một trận nước lụt, chết hơn muôn người, bên kia Tôn Tẫn truyền lịnh cho Tôn Yên, Lý Tòng tới dinh kêu đánh, phải làm như vầy…. như vầy…. Không được trái lịnh.
Hai tướng lãnh lịnh ra đi, Tôn Tẫn niệm chú, nước dinh Tần rút hết, khi ấy vua tôi mới dám về trại, Thủy Hoàng lên trướng, các quan đến hỏi thăm, điểm quân mã chết hơn một muôn. Thủy Hoàng đang lúc lo rầu, xảy nghe quân báo nói:
“Nay có binh tướng Tôn Yênđến kêu đánh”. Thủy Hoàng nghe báo thở dài mà nói rằng:
“Thây chết phá mới vừa rồi, người sống lại tới nữa, cũng là chước quỷ mưu thần của Tôn Tẫn đó, chi bằng rút binh về nước tránh nó mới xong”. Vương Tiễn vội vàng tâu rằng:
“Xin bệ hạ chớ mặc, chớ lo sợ, để tôi ra trận, quyết bắt cho đặng Tôn Yên, đem về mà trả thù”.
Thủy Hoàng giận nói rằng:
“Thôi, thôi, ngươi chớ nói phách, bởi tại ngươi đem về dinh, làm cho cây đá đáng chết quân binh, cũng vì ngươi bắt người đá mà đem về, sau lại bắt Tôn Tẫn, mới sanh ra cái tai nước lửa như vầy, lại thêm hao binh mã dư muôn, bây giờ thở chưa hết mệt, Tôn Yên lại đánh nữa, không biết thằng Tôn Yên đó, nó là người đá, hay là người sắt, chớ nên chọc đến nó, mà sanh tai họa, chi bằng dở trại về nước thì xong”. Vương Tiễn tâu rằng:
“Xin bệ hạ chớ lo, để tôi ra đó, trước thăm nghe Tôn Tẫn thế nào, sau nữa coi Tôn Yên thiệt giả”. Thủy Hoàng nói:
“Ngươi muốn ra trận thì ta đóng cửa dinh lại mới xong, hễ là người bên Lâm Tri, thì không nên bắt nó đem về dinh”.
Vương Tiễn lạy tạ, rồi dẫn Vương Bôn cùng năm trăm gia tướng, đề mâu lên ngựa, xông ra trước trận, ngó thấy Tôn Yên thì giận lắm, nói rằng:
“Thằng con nít, không biết gì, mi có nghề bao nhiêu, mà dám ra trận hoài như vậy, nay ta quyết bắt cho đươc mi, phân thây muôn đoạn, mới hết nư giận của ta”. Tôn Yên nạt rằng:
“Thằng mặt đen mi hại cả nhả ta chết bốn mạng, cái thù ấy sâu như biển, vì vậy nên ta lên núi Thiên Thai, thỉnh chú ta xuống đây, hôm qua ra trận, lại bị mi bắt đem về dinh, mi phải nói cho thiệt, đem chú ta ở đâu, thì phải đốt nhang lạy mà đưa cho mau, nếu diên trì thì ắt thây ngươi phải nằm dưới ngựa”. Vương Tiễn nghe nói trong bụng mừng thầm đáp rằng:
“Bớ thằng nhỏ kia, mi hỏi thằng cụt chân của mi phải không? Ta không nói,thì mi đâu rõ đặng, chú mi bị ta bắt đem về dinh, thì chúa ta cũng muốn dung tha tánh mạng cho người, vì tại nơi người dùng tà thuật lấy mất bốn cái thủ cấp, nên vua ta giận chém quách người đi”.
Tôn Yên cười rằng:
“Mi khéo gạt ta, chú ta vốn là Đại la thần tiên, có đâu mà bị giết được, bây giờ thây bỏ chổ nào”, Vương Tiễn nói:
“Chú mi quả thiệt có phép thần thông, chết rồi còn hiện hồn, làm cho trong dinh ta rối loạn, bây giờ thây người đã đốt cháy tiêu”. Tôn Yên nghe nói, nhíu mặt nhăn mày, mà nạt rằng:
“Thằng mặt đen! Sao ngươi dám cả gan mà hại chú ta như vậy, ta cùng mi chẳng đứng chung trời”. Nói dứt lời, hươi kích đâm nhầu, Vương Tiễn cử mâu đỡ khỏi, hai người đánh vùi với nhau, bụi bay mù mịt, trời đất tối tăm, Tôn Yên đâm một kích giả thua bo?
chạy, Vương Tiễn rượt theo rất gần, bèn nhắm cửa dinh chạy tuốt. Vương Tiễn rượt tới, không thấy Tôn Yên, bỗng nghe trong dinh tiếng pháo nổ vang xông ra một đạo binh, đi đầu một viên đại tướng, giáp vàng, bào đỏ, tay cầm đại đao, mình cao một trượng, giục ngựa như bay, nạt rằng:
“Thằng đen, mi chạy đi đâu, hãy trả lại thầy cho tạ Ta là hổ tướng Lý Tòng đây”.
Vương Tiễn cười rằng:
“Mi khí lực bao nhiêu, dám ra đây đòi thầy của mi, thằng cụt chân đã đi đầu thai rồi, mà chưa biết chổ nào”. Lý Tòng giận lắm, hươi đao chém sả, Vương Tiễn rước đánh, đánh đến mười hiệp, xảy nghe ba tiếng pháo nổ rền trời, quân la hét dậy, mười hai tên học trò, áp một lượt phủ vây bốn phía, kêu nói với nhau rằng:
“Chớ cho Vương Tiễn chạy thoát, hãy bắt sống nó mà trả thù cho Nam quận vương”. Vương Tiễn nghe nói hãi kinh, chẳng dám đánh, bèn cùng Vương Bôn xông phá, khai đường huyết lộ, chạy tuốt ra đồng hoang. Tôn Yên, Lý Tòng cùng chúng tướng hiệp nhau rượt theo.
Chương 12 : Phá Dịch Châu, Tử Lăng khiển tướng; Dẹp binh Tần, Tôn Tẫn ra mưu
Nói về Vương Tiễn bị Tôn Yên, Lý Tòng và mười hai tên học trò, đánh một trận cả thua chạy dài. Vương Tiễn quay đầu ngó thấy năm trăm gia tướng bị chết rất nhiều, coi lại còn vài mươi người, thì sa nước mắt. Vương Bôn khuyên giải rằng:
“Nghĩa phụ (là cha nuôi) xin chớ lo rầu, việc binh gia thất bại là sự thường, song con nghe chắc Tôn Tẫn chết thiệt rồi thì thành Dịch Châu chẳng bao lâu phá đặng, bây giờ phải tìm đường trở về dinh”. Vương Tiễn nói:
“Ta đánh trọn một ngày, người ngựa mỏi mệt, chi bằng đến trước cụm rừng nghỉ ngơi một chút, và sai quân đi kiếm người ở chổ này, hỏi thăm đường sá”.
Quân binh vâng lệnh ra đi, giây lâu trở lại, thưa rừng:
“Chỗ này bốn phía đều là núi hoang đồng trống, chẳng có nhân dân, cũng không có nhà cửa chi hết”. Vương Tiễn nghe nói, thêm lo sợ, lúc ấy ác vàng chen lặn, bỗng nghe phía Bắc, tiếng sấm vang trời, thình lình mây đen mù mịt chelấp mặt trăng, trời đất tối tăm, giông gió ầm ầm, giây phút cuồng phong cả dậy, sấm chớp tưng bừng, trời mưa như xối. Vương Tiễn cùng chúng tướng đang ở giữa rừng bị một trận mưa lớn gió to, cả mình ướt át, khôi giáp dầm dề, đến canh ba trời vừa ngớt hột, mưa tạnh gió êm, xem thấy ngoài rừng đèn xanh leo lét, lửa quỷ chói lòa, khi lu khi sáng, hoặc không hoặc không, bốn phía văng vẳng có tiếng ma quỷ khóc than, bỗng đâu lại nghe trâu rống ba tiếng, đi sạt sạt dường như Tôn Tẫn cỡi trâu khua gậy, cát bay đá liệng tưng bừng, làm cho Vương Tiễn, Vương Bôn thất kinh hồn vía, không nơi trốn núp, Vương Tiễn chạy trơ?
ra, xảy thấy một viên đá bay rớt ngang tai vùn vụt, thất kinh hồn bất phụ thể, lật đật chạy trở vào rừng.
Vương Bôn nói:
“Không xong, ở trong này tối đen như mực, phần thì cây đá liệng quăng chịu sao nổi? Chi bằng chạy ra hay hơn”. Vương Tiễn nói:
“Cát đá quăng lênrầm rầm khó bề ngăn đỡ, lại thêm thằng cụt ở ngoài kêu đòi nhân mạng, biết liệu làm sao bây giờ?” Vương Bôn nói:
“Sao chẳng khấn vái một phen đặng cho oan hồn tiêu tán thì ra mới khỏi rồi sẽ kiếm đường mà trở về dinh”. Vương Tiễn nghe theo liền quỳ xuống đất, vái rằng:
“Tôn Bá Linh chơn nhơn, vốn là người tiên thể, nay việc đã tiêu giải, chừng tôi trở về dinh, tụnh kinh siêu độ cho người lên chốn thiên đình”. Vái rồi lại lạy lia lịa.
Nói về Tôn Tẫn đang ở trong dinh làm phép, xảy nghe mấy lời Vương Tiễn khấn vái, thì tức cười thầm, bèn thâu phép thần thông.
Lúc ấy cha con Vương Tiễn, cùng vài mươi quân binh đang quỳ lạy dưới đất, đến chừng ngước mặt lên thất kinh như ngây như dại, coi lại chẳng có rừng bụi chi cả, vẫn là một nơi đường cái đất bằng, mặt trời đứng bóng, đang nửa giờ ngọ, chúng nhân đều lồm cồm đứng dậy. Vương Tiễn rất hổ thẹn, đỏ mặt tía tai bèn nói rằng:
“Khi nãy rõ ràng bị quỷ hồn thằng cụt, làm cho trời đất tối tăm, cát bay đá chạy, chẳng biết quân lýnh có bị thương tích cùng chăng?” Vương Bôn nói:
“Không có thương tích chi hết”. Vương Tiễn nói:
“Thôi chúng ta tìm đường mà về dinh cho chóng”. Nói rồi dẫn binh lên đường lộ tuốt về dinh, bẩm cùng Nguyên soái, vào ra mắt Thủy Hoàng. Thủy Hoàng hỏi:
“Chẳnh hay Tiên hành quan thắng bại thế nào?” Vương Tiễn đem việc đánh với Tôn Yên rồi bị mười học trò của Tôn Tẫn, ra sức đánh trả thù, khi ấy tôi vừa chạy vào rừng, lại gặp hồn Tôn Tẫn làm cho bối rối, mà tỏ hết nguồn cơn. Thủy Hoàng rất mừng nói:
“Quả thiệt Tôn Tẫn chết rồi, thì trẫm cao gối chẳng lo, lấy thành Dịch Châu dễ như thổi lửa”. Truyền bày tiệc đặng vua tôi uống rượu thái bình cùng nhau, đang lúc ăn uống, quân vào báo nói:
“Quân mã đất Lâm Tri, đóng dinh cửa phía Tây thành Dịch Châu thình lình đi mất chẳng còn một người, chưa rõ đi đâu, nên tôi phải vào phi báo”. Thủy Hoàng dạy tên quân ấy do thám lại cho chắc, rồi hỏi chư tướng rằng:
“Chẳng hay binh nó, vì cớ nào mà đi đâu vậy?” Kim Tử Lăng tâu rằng:
“Bệ hạ há chẳng nghe lời tục nói:Hễ là, rắn không đầu thì làm sao đi được, chim không cánh lấy gì mà bay, nay Tôn Tẫn bị Tiên hành quan chém chết, thì ba quân không chúa, tự nhiên như ngói lở giá tiêu có ai mà khứng giúp cho nước Yên, có khi chúng nó dỡ trại trốn về Đông Tề rồi”. Thủy Hoàng rất mừng nói:
“Nếu vậy thì nước Yên đâu có người tài ra phụ giúp” Tử Lăng tâu rằng:
“Nước Yên vốn không người giỏi, duy có một mình Tôn Yên, tuy có sức anh hùng mặc dầu, song một mình nó, cô chưởng nan minh, chẳng đủ lo gì, để đêm nay tôi xem thiên văn, coi thử kiết hung họa phước thế nào”. Thủy Hoàng nói:
“Quân sư hãy hết lòng xem coi cho kỹ”. Tiệc xong rồi, các quan tạ Ơn, ai về dinh nấy.
Lúc ấy ác vàng vào núi, thỏ bạc ló lên, mây trong gió lặng, sao tỏ sáng ngời.
Kim Tử Lăng ra trướng ngước mặt ra xem, ngó thấy ngôi sao của vì tướng trong các xứng, tỏ sáng chói ngời, duy sao bổn mạng Tôn Tẫn chẳng có, bèn xem lại thành Dịch Châu, thì vương khí (là khí tượng vua) lờ mờ, còn nơi dinh Tần khí đỏ xông lên mịt trời, nói thầm rằng:
“Quả thiệt lòng trời phụ giúp dấy nên cho nhà Tần”. Coi rồi vào trướng nghỉ ngơi, qua ngày thứ, Thủy Hoàng lên trướng hỏi quân sư rằng:
“Chẳng hay khi hôm quân sư xem coi tinh tú thế nào?” Tử Lăng tâu rằng:
“Tôi xem ngôi càn tượng (là xem thiên văn) thì sao bổn mạng Tôn Tẫn chẳng thấy hình dạng chi hết, liệu có khi va chết thiệt đi rồi”. Thủy Hoàng nói:
“Nếu Tôn Tẫn chết rồi, sao chẳng phát binh đánh thành, lấy tờ hàng thơ của vua nước Yên cho sớm?” Tử Lăng tâu rằng:
“Xin bệ hạ để đêm nay, tôi ra kế phá thành Dịch Châu, mà bắt Chiêu Vương, đặng có bảo hộ bệ hạ vào thành an nghỉ”. Thủy Hoàng cả mừng, đáp rằng:
“Nhờ chước diệu mầu của quân sư, mặc tình muốn điều chi, thì cho trẫm biết”. Tư?
Lăng cúi đầu từ tạ lui về trướng, đánh trống nhóm tướng quân lớn nhỏ, nghe trống kéo vào ra mắt, phân đứng hai hàng. Tử Lăng vòng tay nói chúng tướng rằng:
“Lời xưa có nói:
Nuôi binh ngàn ngày dùng trong một thưở, đêm nay phải cho hết sức đồng lòng phá Dịch Châu duy tại trận này”. Chúng tướng đáp rằng:
“Xin nghe theo lời quân sư sai khiến”. Tử Lăng lấy một cây lệnh tiễn, nói với Chương Hàng:’Xin phiền Nguyên soái dẫn ba ngàn binh, chờ đến canh ba, nghe tiếng pháo nổ, bắc thang hãm thành, vào cửa phía nam”. Lại sai Triệu Cao, Bạch Viên, đem ba ngàn binh mai phục, hễ nghe pháo nổ thì đánh thẳng vào cửa phía Tây, không được trái lệnh. Vương Tiễn thì lãnh một muôn binh, chờ đến canh ba, binh kia đánh vô thành thì phải tiếp ứng ba phía mà ngăn ngừa việc xảy đến, còn Mông Điềm thì lãnh lệnh tiễn vào năm dinh, tuyển lựa người mập mạp cao lớn, sức lực mạnh mẽ, trong một ngàn thì lấy một trăm, trong một trăm chọn lại mười người, trong mười lựa lấy một người, cộng là ba mươi tên rồi dạy thợ vẽ dùng màu xanh, đỏ, trắng, vàng, mà vẽ mặt mấy tên quân ấy, còn nơi mình mặc áo ngũ sắc, chân đi giày cao gót, tay cầm búa lớn giả dạng Thiên thần, đến canh ba chia ra mỗi cửa mười tên, hễ nghe súng nô?
làm hiệu phải ra sức trèo trước vào thành, làm cho quân giữ thành thất kinh vỡ chạy, đặng tiện bề quân sĩ công phá, chẳng nên chậm trễ, và sai Nhân Chơn qua cửa phía Đông, cất một toà pháp đài (chỗ để làm phép) bề cao ba trượng sáu thước, và một cây cờ trắng, hai mươi bốn cái trống lớn, hai mươi bốn tên quân đánh trống, hai tấm kiếng, và cặp bạch châu sa, giấy vàng cho sẵn. Tử Lăng bài tríxong rồi, chúng tướng chia tay nhau ra đi, ai lo việc nấy.
Nói về Tôn Tẫn dùng phép độn giáp che khuất binh mã cho nên Tử Lăng xem sao, thì ngỡ là Tôn Tẫn ngỡ thiệt chết nơi tay Vương Tiễn rồi, bèn sai tướng phát binh chờ đến canh ba, đặng cố ra sức phá thành, không dè Tôn Tẫn xem thấy trong dinh Tần, sát khí xông lên, lần tay đoán quẻ, trước biết nguồn cơn, trong lòng rất mừng nói rằng:
“Để đêm nay ta phá binh Tần, hầu giết cho chúng nó manh giáp chẳng còn, mới rõ chước diệu của người tiên”. Nói rồi lên trướng. Truyền đòi hết mười hai tên học trò vào ra mắt. Tôn Tẫn viết ít lá thiệp, nói với chúng học trò rằng:
“Hiền đồ! Đêm nay đến canh ba, thì có binh Tần kéo tới đánh thành, vậy chúng tướng phải hết lòng phòng giặc, nếu trái lệnh hãy theo quân pháp chẳng dung”.
Chúng tướng đều xá nói:
“Xin vâng theo quân lệnh”. Tôn Tẫn cầm một cây lệnh tiễn và một lá thiệp, kêu Tôn Yên hãy ra mà lãnh thiệp cùng lệnh tiễn vào thành coi theo đó mà làm. Tôn Yên lãnh lệnh lui ra, về trướng giở xem, trong thiệp dạy rằng:
“Vào thành tâu cùng hoàng thượng, trên thành cửa phía Bắc, chứa nước cho nhiều, đến canh ba tự nhiên có chỗ dừng, còn cửa bên Nam, phải thêm cây gỗ đá gạch cho thật nhiều, tới canh ba, binh Tần tới đánh, thí trên áp liệng lăn xuống, trên cửa thành phía Tây, thì dựng một cây cờ trắng, dưới cờ cắm những gươm đao kiếm kích cho nhiều, cấm không cho người qua lại nơi ba cửa ấy”. Tôn Yên xem rồi chạy ngựa vào thành, coi theo đó mà làm. Tôn Tẫn rút hai cây lệnh tiễn, hai tấm thiệp, kêu Mã Thăng, Giải Tính dạy rằng:
“Hai người lãnh thiệp này coi theo đó mà làm, không được trái lệnh”. Hai người vâng lệnh lui ra, giở thiệp xem coi, trong thiệp của Mã Thăng dạy rằng:
“Vào thành tâu cùng hoàng thượng bắt quân đem hết cỏ khô trong kho ra ngoài, cách thành Dịch Châu năm dặm rải khuất ba cửa, bề rộng năm dặm”.
Thiệp của Giải Tính thì dạy rằng:
“Kíp mau vào thành tâu cùng hoàng thượng, đái lãnh một ngàn binh mã, đem thuốc pháo, diêm tiêu lưu hoàng rải khắp trên cỏ khô, mỗi tên quân phải đem một sợi dây dẫn hỏa, coi chừng trên dịch lầu, thành Dịch Châu, hễ lửa cháy, thì đâu đó đều nổi lửa lên, và dặn quân đến khi lửa cháy rồi, phải chạy phía dưới thành mà lãnh mạng chẳng được trái lệnh”. Hai người xem rồi đều tuốt vào thành, ai lo việc nấy. Tôn Tẫn lại sai Tôn Long, Ngụy Hổ, dẫn một ngàn binh ra phía Nam thành Dịch Châu, nơi rừng Giả trừ mai phục chừng canh ba lửa dậy phải đốt pháo la hét trợ Oai, nếu để cho binh Tần chạy thoát, thì chém quách chẳng dung; lại sai Ngô Năng, Ngô Thắng, lãnh một ngàn binh, mai phục ngoài cửa phía Tây, hễ binh Tần hãm thành, lửa hiệu đốt lên, thì dẫn binh la hét trợ Oai gặp binh Tần bị ngập nước, bắt sống chớ cho chạy thoát, và sai Triển Đắc Năng, Ngô Đắc Thắng, Ân Đắc Hải lãnh ba trăm bộ binh, dùng câu liêm, câu móc, mai phục ba phía cửa thành, chờ đến canh ba, trong dinh Tần pháo nổ, thì có giả Thiên thần phá thành thì sẽ dùng câu liêm, câu móc giựt té nhào xuống, chém chết chẳng để cho sống một người, sai Lý Tòng, Triển Lực lãnh một ngàn binh, ra góc phía Đông thành, đào đất để mà địa lôi, binh Tần thấy ba phía lửa dậy, chắc làm sao cũng chạy sang nơi ấy, hễ nghe pháo hiệu nổ, liền đốt địa lôi, rồi dẫn binh tuốt lên pháo đài, chặt ngã cây cờ đen, và đánh pháp đài, tuy không bắt được Kim Tử Lăng, song nó cũng phải bay hồn mất vía, điều khiển xong rồi, mười hai tên học trò chia tay ra đi các nơi.
Nói về Kim Tử Lăng truyền lệnh canh một ăn cơm, canh hai nai nịt, canh ba khởi hành, người thì ngậm thẻ, ngựa thì cất lạc, sửa soạn phá thành, truyền lệnh rồi dẫn vài tên quân, từ biệt Thủy Hoàng, ra khỏi đại binh, trèo lên pháo đài, đốt hương vái lạy trời đất, dùng châu sa, họa đạo linh phù, còn đang vẽ bùa tỉnh tướng, bên kia Tôn Tẫn đà xách gậy cỡi trâu, bay bổng lên không, xem thấy Tử Lăng đang ở trên pháp đài làm phép thỉnh thần, thì nói thầm rằng:
“Ta ở đây đặng coi nó làm sao cho biết”.
Xem thấy Tử Lăng đang ở trên pháp đài, miệng niệm chơn ngôn, chân đạp la đẩu, đốt một đạo linh phù mà thỉnh thần, lúc ấy Tôn Tẫn ở trên mây, liền tiếp lấy đạo binh phù, Tử Lăng thỉnh một hồi lâu không thấy thần tướng đến, trong bụng hồ nghi, bèn đốt luôn đạo bùa thứ hai, cũng bị Tôn Tẫn tiếp lấy. Tử Lăng thấy bùa phép chẳng linh trong lòng cả giận, đầu xõa tóc ra, tay cầm gươm, miệng đọc chơn ngôn, Tôn Tẫn đang ở trên không xem thấy tức cười và mà nghĩ thầm rằng:
“Chi bằng ta nhơn kế ra mưu, chẳng cần ta phá phép nó làm chi”. Giây phút trời đất tối tăm, bỗng thấy năm vị ngũ lôi (là thần làm sấm sét) bay tới. Tôn Tẫn hỏi:
“Chẳng hay các Tôn thần đi đâu đó vậy?” Lôi thần vòng tay cúi mình đáp rằng:
“Không có việc, tôi đâu dám đi bậy, vì có pháp chỉ Kim Tử Lăng đòi chúng tôi, chưa biết việc chi”. Tôn Tẫn nói:
“Xin phiền Tôn thần đến canh ba tới cửa cửa thành Dịch Châu, bên Bắc nổi trận sấm sét, chẳng nên trậm trễ”. Lôi thần đáp rằng:
“Xin vâng phép dạy”. Tôn Tẫn nói:
“Nếu có Kim quân sư đòi các vị, thôi hãy đi đi cho chóng”. Chúng thần từ biệt Tôn Tẫn, rồi hạ mây bay xuống pháp đài hỏi rằng:
“Chẳng hay pháp sư đòi chúng tôi có việc chi sai khiến chăng?”. Tử Lăng nói:
“Không có việc đâu dám làm nhọc đến Tôn thần, xin phiền Tôn thần nổi trận sấm sét, dẫn động hai mươi bốn cái trống đến ba cửa thành Dịch Châu, làm hôn mê quân sĩ nước Yên, đặng dễ phá thành”. Các thần vâng lệnh bay đứng trên mây, qua đến canh ba, bên dinh Tần, người thì ngậm thẻ, ngựa đều cất lạc, cuốn cờ dứt trống, im lìm ra đi. Mông Điềm dẫn ba mươi tên quân mạnh mẽ, giả dạng Tôn thần, đến phía Nam, phía Bắc, phía Tây, ba cửa trèo lên hãm thành, ở sau thì có binh bộ, vác thang đặng bắc trèo vào, đương cơn tăm tối, đều kéo đến dưới thành, nghe một tiếng pháo nổ, ba cửa bắc thang áp trèo lên, ra sức phá thành. Tử Lăng dạy hai mươi bốn tên quân nổi trống lên, và dùng hai tấm kiếng liệng giữa thinh không, rất nên lợi hại, tấm bay lên, tấm bay xuống nhấp nháy đường như nhớp sáng bủa giăng, tiếng trống đánh vang dậy, khác nào sấm vang chuyển động. Tử Lăng ở trên tháp đài, đánh cái lệnh bài thức thì lôi công (là lôi thần) Điền mẫu là bà chớp) đều dậy lên ầm ầm, dường như đất rúng trời lay làm cho thành Dịch Châu thiếu chút nữa hòng tan vỡ hết.
Nói về Tôn Yên ở trên thành phía Nam ngăn giữ, xảy nghe pháo nổ đánh thành liền xô cây lăn đá, liệng vãi tưng bừng. Chương Hàng lên không được, lúc ấy Triển Đắc Năng, dẫn quân cầm câu liêm móc, giựt thiên thần giả té nhào xuống đất mà giết hết.
Nói về Triệu Cao lãnh binh phá cửa phía Bắc, xảy nghe tiếng pháo nổ tợ sấm vang tai, bèn đốc quân trèo lên hãm thành, bỗng thấy mười tên quân giả thiên thần, bị Ngô Đắc Thắng, dùng câu móc liêm giựt té nhào xuống đất còn Tôn Tẫn ở cửa phía Bắc, lấy cờ Hạnh huỳnh kỳ chỉ lên, nạt rằng:
“Lôi thần ở đâu”. Các vị lôi thần liền đến cửa bên Bắc, sấm sét vang trời làm cho những đồ chứa nước, dội rúng bê?
tan, nước chảy cuồn cuộn chẳng khác nào suối Huỳnh Hà, chảy tràn xuống, binh tần ngập chết không xiết kể. Triệu Cao đánh liều chạy qua cửa phía Tây, lúc ấy Giải Tính xem thấy đạo binh Tần vào nơi hiểm địa, truyền dạy ba quân sửa soạn dây lửa sẵn sàng. Tôn Tẫn đưa lôi thần trở về, tưcù thì sấm sét lặng tang, rồi bắn xẹt tên lửa trên không làm hiệu, Giải Tính xem thấy chẳng dám chậm chễ, đốt lên một tiếng pháo, ba phía lửa dậy rần rần sáng rực trời đất, binh Tần xem thấy, hồn bất phụ xá.
Chương Hàng đang ở phía Nam, vừa muốn dẫn binh bỏ chạy, bỗng nghe tiếng nơi rừng Giả trư, cờ phất lao xao, quân la hét dậy, thì không dám chạy tới, còn Triệu Cao bị nước ngập dẫn binh tàn trốn chạy qua cửa phía Tây đặng cố hiệp với Bạch Viên, chẳng dè giữa đàng lại gặp Triển Đắc Năng, Ngô Đắc Thắng, cả đánh một trận, vội vàng nhắm phương Bắc đào sanh, lại nghe tiếng la ó và phất cờ, chẳng dám tới trước.
Nói về Bạch Viên dẫn binh phá thành, đến nơi thì giả Thiên thần, đều bị Ân Đắc Hải chặt nhào, Bạch Viên ngước mặt lên xem ngó thấy trên thành cờ xí lăng xăng, gươm đao chơm chởm, thì nghĩ thầm rằng:
“Nguyên tại thành này đã có phòng bi.
rồi”. Lúc ấy Tôn Tẫn ở giữa thinh không, miệng niệm chơn ngôn tức thì những gươm giáo, đao thương bay múa tưng bừng, như muôn vầng bông huệ, gió thổi lộn nhào.
Bạch Viên xem liền dẫn binh liều bỏ chạy, xảy đây lại gặp một người cỡi trâu cầm gậy, Bạch Viên hoảng kinh thối lui vài bước, hồn phách đều bay, ngồi không vững, hai chân chầu trời, mình nhào xuống ngựa (Ấy là Tôn Tẫn mới ra mặt mà làm cho một vị lão tướng Tần, thấy kinh hãi chết tốt) thế lửa càng thêm lợi hại, binh tan không nơi trốn tránh, đều bị cháy phỏng trán, Chương Hàng, Triệu Cao, Mông điềm, hiệp binh một chỗ mà than thở cùng nhau.
Nói về Vương Tiễn lãnh binh tiếp ứng ba nẻo, mình đã lâm vào chỗ hiểm, ba phía lửa dây tưng bừng, trong lòng hoảng kinh, liền dẫn chúng tướng hiệp với Triệu Cao, Chương Hàng, Mông Điềm, rồi nói với chúng tướng rằng:
“Không xong, phen này trúng kế rồi, vậy chúng ta ráng sức đánh ra mới xong”. Chúng tướng nói:
“Ba phía lửa rần rần đường nào ra đặng”. Còn đang bàn luận, bỗng nghe ba quân ở trước than khóc kêu vang, bị lửa cháy tanh hôi khó chịu, càng thêmbối rối. Vương Tiễn nói:
“Ba phía đều những lửa khó nổi đào sanh, duy có phía Đông không lửa, sao chẳng phá nơi ấy mà ra” Chương Hàng nói:
“Nơi ấy không có lửa ắt có phục binh”.
Vương Tiễn nói:
“Tuy có phục binh hãy còn khá, hơn ở đây mà chịu chết, thôi hãy đánh ra cho mau”. Nói rồi dẫn binh phá phía Đông mà chạy, ngỡ là trốn ra hang cọp, thoát khỏi miệng hùm.
Nói về Lý Tòng, Triển Lực, dẫn binh mai phục phía Đông, xảy nghe người reo ngựa hí, xông qua phần đất mình giữ, thì biết là binh Tần vào nơi hiểm địa rồi, liền đốt pháo nổ lên một tiếng, tức thì một ngàn binh bộ dùng lửa đốt địa lôi, bốn phía nô?
lên ầm ầm, dường như trời lay đất rúng. Hỡi ôi! Vài ngàn binh, đều hóa ra khói đen tro lạnh. Vương, Triệu, Mông bốn tướng hồn phách tan mất, tìm đường lánh nạn.
Nói về Tử Lăng ở trên pháo đài xem thấy bốn phía lửa cháy hỏa hào. Thất kinh vừa rút gươm làm phép cứu lửa, xảy nghe dưới pháp đài có tiếng chào rào. Lý Tòng đi trước, tuốt lên pháp đài nạt lớn rằng:
“Thằng yêu đạo, mi chạy đi đâu cho thoát!” Vừa nói vừa hươi đao xốc tới, nhắm ngay đầu Tử Lăng chém xuống. Lúc ấy tử Lăng đâu có làm phép cho đặng, vội vàng cử gươm lên đỡ. Lý Tòng hươi đao vùn vụt tơ.
mưa tuôn gió thổi, Tử Lăng đỡ sao cho lại, vốn va là học trò của Hải Triều thánh nhân, lâu thông ngũ đọn, thấy Lý Tòng mạnh mẽ dữ dằn bèn đâm bậy một đao, độn thổ chạy mất, Lý Tòng bắt hai mươi bốn tên quân giết sạch, rồi nổi lựa đốt đài cháy sáng ánh trời.
Lúc ấy Vương, Triệu, Chương, Mông bốn tướng còn đang tìm đường thoát thân, bỗng thấy bốn phía lửa cháy rần rần, không đường thoát khỏi, tức thì giận bừng lên, Tôn Tẫn ở trên không ngó thấy một lằn khí giận xung lên, thì gật đầu than rằng:Nay ta dùng lửa đốt binh, làm cho trái nghịch lòng trời, thôi thôi ta hãy dung tha mạng nó”. Liền lấy cây quạt nga mi mà quạt, nộ khí bay tan, rồi rút cờ vàng nhắm lên không chỉ lên nạt rằng:
“Sao không mưa xuống, còn đợi chừng nào”. Nói dứt lời mưa như xối, lửa đều tắt rụi, bọn Vương Tiễn rất mừng nói:
“May nhờ có hoàng thiên phò hộ cứu mạng chúng ta” Bèn coi lại thì còn hơn một trăm quân cỡi ngựa theo mình đều bị thương tích hết, Chương Hàng nói:
“Nhân lúc trời mưa, bọn ta phải trốn mà chạy cho mau”. Triệu Cao, Mông Điềm nói:
“Nay binh ta còn ít, phải giữ cho lắm, nếu sa vào bẫy rập khó nỗi thoát thân”. Nói rồi quất ngựa chạy nhào, lật đật như chó nọ lạc nhà, vội vàng tợ cá kia thoát lưới, nhắm đồng hoang chạy miết, cách rừng Gia?
trư chẳng xa bỗng nghe pháo nổ vang. Tống Long, Ngụy Hổ hai người giục ngựa xông ra đón đường nạt lớn rằng:
“Tần tặc, chớ chạy, ta vâng mạng Nam quận vương, chờ đây đã lâu, sao không xuống ngựa chịu trói cho rồi, kẻo nhọc ta ra sức”. Các tướng nghe nói ba chữ Nam quận vương, thì thất kinh lấy mắt nhìn nhau nói:
“Tại sao mà có Nam quận vương nữa kìa, vậy thì Tôn Tẫn chưa chết, hèn chi nó đốt bạn ta dữ tợn thế ấy”. Bốn tướng thất kinh chẳng dám đánh, quày ngựa nhắm phương Bắc bo?
chạy. Tống Long, Ngụy Hổ rượt theo chẳng kịp, nên thâu binh trở lại. Vương Tiễn tra binh tàn chết hơn năm trăm người, chưa đi mấy dặm đến rừng Hắc Long, xảy nghe một tiếng pháo nổ, Ngô Quang, Ngô tính xông ra đón đường nạt lớn rằng:
“Tần tặc, sao không để thủ cấp lại, còn đợi chừng nào?” Vương Tiễn chẳng dámđánh, quất chạy nhắm phía Tây chạy tuốt, bị Ngô Quang, Ngô Tính rượt đánh một trận cả thua chạy nhào đến sáng, bọn Vương Tiễn chạy ra khỏi rừng, duy còn có mười bảy tên quân, và bốn viên chúa tướng cộng là hai mươi mốt người mà thôi.Vương Tiễn lòng rầu chẳng xiết, cứ nhắm phía Tây chạy trốn, xảy nghe chiêng trống vang dậy, thấy một đạo binh đầu kia đi lại, có hai cây cờ lớn, ở giữa lộ ra một con trâu bàn đốc thanh ngưu, ngồi trên lưng trâu, một người đạo nhân tay cầm gậy trầmhương, qua?
thiệt Tôn Tẫn không sai, lúc ấy đường hẹn gặp nhau khó bề trốn lánh, bốn tướng quày ngựa nhắm phía Đông bỏ chạy, chưa đặng vài dặm lại nghe tiếng quân reo dậy. Vương Tiễn than rằng:
“Bốn phía đều có binh phục, dẫu có tháp cánh cũng khó bay khỏi được, chi bằng tự vận cho rồi”. Nói dứt lời rút gươm đâm họng. Chương hàng vội vàng cản lại nói:
“Tiên hành quan, xin đừng nóng nảy, đạo binh đi lại kia kìa, cờ đề Tây Tần, có khi nước ta sai đến tiếp cứu mình chăng”. Vương Tiễn nghe nói coi kỹ lại, quả thiệt cờ đề chữ tần, lòng rất vui mừng, giây phút đi lại một tướng bào đỏ, giáp vàng, quả thiệt Vương Bôn dẫn một đạo binh mã, rần rộ kéo đến, ngó thấy Chương Hàng, liền xuống ngựa nói rằng:
“Mạt tướng đến chậm, cứu ứng không kịp, xin dung thứ tội”. Chương Hàng nói:
“Mang ơn tướng quân đường xa đến cứu”.
Các tướng hiệp binh một chỗ, vừa đến dinh Tần, Thủy Hoàng truyền chỉ đoài vào.
Chương Hàng, Triệu Cao, Vương Tiễn, Mông Điềm, vào quỳ dưới trướng. Thủy Hoàng hỏi:
“Các khanh phá thành, chẳng hay thắng bại thế nào?” Bốn tướng cúi đầu tâu rằng:
“Chúng tôi phá thành lầm vào bẫy rập, bị Tôn Tẫn dùng một trận lửa, đốt bọn tôi ở giữa, nếu không có trời xuống đám mưa, thì ắt bọn tôi cháy ra tro bụi, bọn tôi sa cơ thất trận xin chịu tội”. Thủy Hoàng hỏi Vương Tiễnrằng:
“Ngươi đã giết Tôn Tẫn rồi, sao lại còn Tôn Tẫn nữa?” Vương Tiễn tâu rằng:
“Nguyên vì Tôn Tẫn ngụy kế đa đoan, giả chết mai danh ẩn tích, chớ chưa thiệt chết”. Thủy Hoàng nói:
“Chết bao nhiêu nhơn mã?” Vương Tiễn nói:
“Tôi tôi đáng thác, ba ngàn binh, bi.
nước lụt, lửa cháy và địa lôi chết rất thảm thương, nay còn có mười ngàn mà thôi”.
Thủy Hoàng nghe nói khí giận xung lên, truyền chỉ bắt Chương Hàng, Vương Tiễn.
Triệu Cao, Mông Điềm dẫn ra viên môn chém đầu mà răn chúng. Võ sĩ xông ra bắt bốn tướng trói lại, dẫn ra viên môn.
Chương 13 : Thẹn cả thua, Tử Lăng cầu cứu; Giận cừu xưa, Huỳnh Thúc xuống non.
Nói về Chương Hàng, Vương Tiển đánh phá Dịch Châu, cả thua một trận hao hết ba ngàn binh mã. Thủy Hoàng nổi giận truyền chỉ bắt bốn tướng chém đầu răn chúng. Lúc ấy Cam La bước ra tâu rằng:
“Xin bệ hạ dưới đao dung người, tôi cũng có nghe rằng:
Ba quân dễ đặng, một tướng khó tìm, nay mà bốn tướng sa cơ thất trận, lẽ phải tránh theo phép nước, song bât giờ đang lúc bệ hạ gồm thâu sáu nước, một thành Dịch Châu này mà chưa phá đặng, nếu trước chém bốn đại tướng, tôi e làm như vậy thì e làm như vậy thì ngăn trở lòng quân, cầu xin bệ hạ ra ơn, tạm dung tội chết cho người chờ ngày sau lập công chuộc tội”. Thủy Hoàng nhận theo lời tấu Quan đương giá, liền tha bốn tướng, bốn tướng vào trướng lạy tạ. Thủy Hoàng nói:
“Trẫm vì tình Thừa tướng, dung thứ một phen, ngày sau phải hết lòng báo nước”. Rồi hỏi rằng:
“Bạch Viên ở đâu chăng thấy?” Vương Tiễn tâu rằng:
“Bạch tướng quân đánh ở phía tây, thua chạy giữa đàng lại gặp Tôn Tẫn, chẳng rõ vì cớ nào mà chết nơi giữa loạn quân”. Thủy Hoàng nghe nói sa nước mắt mà rằng:
“Tiếc thay! Một viên đại tướng chết không minh bạch”. Lại hỏi:
“Quân sư vì sao mà không thấy?” Chương Hàng tâu rằng:
“Tử Lăng lên pháp đài làm phép chẳng biết đi đâu, có khi va bị hao binh tổn tướng, cho nên hổ thẹn chẳng mặt mũi nào về thấy bọn tôi, ắt là tới các danh sơn động phủ thỉnh người cao nhơn xuống núi trả thù cũng chưa biết chừng, xin bệ hạ hãy chậm rãi vài ngày xẽ tường cội rễ”. Thủy Hoàng thở dài mà rằng:
“Trẫm nay đã cỡi lên lưng cọp rồi, thế khó xuống đặng”. Bèn dạy Mông Điềm lãnh chỉ, kíp về Trường An điều thủ cứu binh đến cho mau mà tiếp ứng. Mông Điềm lãnh chỉ ra khởi dinh, suốt đêm trở về Trường An cầu cứu.
Nói về Tôn Tẫn cả thắng về dinh miệng niệm chơn ngôn thâu phép độn giáp, rõ bày một tòa dinh bàn, rất nên tề chỉnh. Bèn lên trướng báo công, tôn Tẫn truyền lệnh kéo cờ phát pháo, theo ra thành giao chiến, truyền lệnh xong rồi, thót lên thanh ngưu, chúng tướng rần rộ theo sau, tuốt lên dinh Tần, dạy quân kỳ bài tới trước khiêu chiến. Quân vào phi báo, Thủy Hoàng thất kinh, nói:
“Quả thiệt Tôn Tẫn chưa chết, trẫm nay binh hèn tướng ít, khó bề chống cự, chi bằng rút quân về nước, sau sẽ toan mưu khác”. Vương Tiễn nghe nói, trong lòng chẳng đẹp, bước ra tâu rằng:
“Nước Tần ta là nước lớn đường đường, há đi sợ một nước nhỏ sao? Tôi tuy bất tài, xin ra trận này mà bắt thằng Tôn Tẫn trả thù”. Thủy Hoàng mỉm cười nói:
“Tiên hành quan, tuy có sức mạnh, song không phải là tay đối thủ với Tôn Tẫn đâu, ngày trước bị nó đánh manh giáp chẳng còn, nay không nên làm mất oai phong nước ta nữa”.
Vương Tiễn nghe Thủy Hoàng chê mình, thì trong lòng bồi hồi, tâu rằng:
“Tôi chẳng dám khoe khoang lỗ miệng, thiệt lòng cùng Tôn Tẫn thề chẳng chung đứng trong trời, nay tôi ra trận tình nguyện liều chết đánh nó, như thắng thằng cụt, thì công ấy sẽ chuộc tội kia, nếu có thua nữa, thì tôi cam hại tôi”. Thủy Hoàng nghe Vương Tiễn nài nỉ hoài, túng phải nghe theo. Vương Tiễn lạy tạ luôn ra, trở về trướng nai nịt hẳn hòi, nói với chúng tướng rằng:
“Ngày nay ra trận, không phải tầm thường như mấy trận trước đâu, quyết liều chết với Tôn Tẫn mà thôi, vậy chúng ngươi phải hết lòng bắt cho đặng thằng cụt chân, ta sẽ trọng thưởng”. Chúng tướng đáp rằng:
“Chúng xong rồi, để mâu lên ngựa dẫn chúng tướng ra dinh, ngó thấy Tôn Tẫn thì giận lắm, hươi mâu đâm nhàu, Tôn Tẫn hươi gậy rước đỡ, và cười lớn rằng:
“Vương Tiễn hãy dừng tay đã, ta muốn phân giải đôi lời, chẳng biết ngươi có khứng nghe chăng?
Ngươi là người hảo hán, thiên hạ thường khuyên rằng:
“Nước Tần có Bạch Viên, Vương Tiễn, nước Triệu có Liêm Pha, Lý Mục, dụng binh như thần, nay Liêm Pha, Lý Mục, Bạch Viên hồn đã về trời, còn một mình ngươi đó mà thôi, ngươi phải hiểu thông thời vụ, tri bỉ tri kỷ, trăm trận trăm thắng, ta lợi hại thế nào, ngươi điều rõ biết, chi bằng quày ngựa trở về, tâu với Thủy Hoàng rút binh về nước, cùng các nước giảng hòa, muôn việc điều thôi, nếu còn chậm trễ, ắt ngươi không chịu nổi một gậy của ta”. Vương Tiễn nghe nói nổi giận nạt rằng:
“Thằng cụt sao dám buông lời nói phách”. Nói rồi hai tay hươi mâu đâm tới, Tôn Tẫn rước đánh. Đánh đến vài mươi hiệp, Tôn Yên ở nước dinh lược trận, xem thấy khen thầm rằng:
“Tam thúc mình (là chủ thứ ba), quả nhiên võ nghệ cao cường”. Nhìn hai người đánh luôn đến ba mươi hiệp nữa, không phân thắng bại, mâu qua gậy lại, gậy đánh mâu đỡ nhộn nhàng, Tôn Yên cả giận, giục ngựa hươi kích xông ra tiếp đánh Tôn Tẫn, Tôn Yên đánh vùi, làm cho Vương Tiễn mệt đà thở dốc, lúc ấy chúng tướng Toàn sơn áp ra một lượt phủ vây Vương Tiễn. Vương Tiễn đánh với Tôn Tẫn một người còn khó nỗi chống ngăn, có đâu mà cự cho lại một phe học trò của Tôn Tẫn. Hai bên quân binh cả giết một trận, binh Tần kêu khóc vang rân, bốn phía vỡ chạy. Vương Tiễn đâm đỡ một mâu, đánh khai một đường huyết lộ chạy dài, Tôn Tẫn ở sau rượt tới kêu lớn rằng:
“Vương Tiễn mi chạy đi đâu”. Rồi hươi gậy nhắm ngay đầu đánh xuống.
Vương Tiễn quay lại nhìn thấy, cả kinh trở không kịp, bị một gậy sau lưng té sấp trên yên, thổ huyết chạy dài. Tổn Tẫn thấy Vương Tiễn chạy xa, truyền lệnh gióng chiêng thâu binh.
Nói về Vương Tiễn thất cơ thua chạy, bị một gậy về dinh xuống ngựa. Vương Bôn cùng chúng tướng phò đỡ vào trướng, ra mặt Thủy Hoàng xin tội. Thủy Hoàng thấy Vương Tiễn mặt như giấy vàng, cúi đầu mặt sắc, thì biết va bị thua về đây, bèn nói:
“Trẫm đã đôi ba phen ngăn trở, mà ngươi gắng gượng đòi đi, nay đã bị thương, trẫm dung thứ tội, thôi hãy về đình điều dưỡng, thuốc thang mạnh rồim, sẽ ra mắt trẫm”. Vương Tiễn lại ta lui ra, về trướng mình điều trị vết thương.
Nói về Kim Tử Lăng lúc ở trên pháp đài làm phép, thì ngỡ là phá đặng thành Dịch Châu, không dè bị Tôn Tẫn đánh một trận hỏa công, làm cho binh tướng ca?
thua, và bị Triển Lực, Lý Tông đán lên pháp đài, cự không nổi độn thổ chạy mất, hô?
thẹn trăm bề, không mặt mũi nào về thấy Thủy Hoàng, tính qua Đông Hải, động Vân quang, đặng cố thỉnh thầy mình xuống núi. Đang đi trên mây bỗng thấy một tòa nhà núi cao, mười phần hiểm trở. Tử Lăng có ý khen thầm, bèn bay xuống núi, xem khắp bốn phía, thấy tùng xanh liễu tía, cụm trước xum xuê, tiếng nước chảy, sóng bủa ba đào, luồng gió phất phơ, muôn hoa xao động, quả thật phong cảnh khen thầm, bèn tướng rằng:
“Người sanh trong cõi, quan âm thấm thoát, dường như ngựa qua lỗ hở, tranh danh đoạt lợi, luống nhọc nhặn, tham luyến cõi trần, nào có ích chi, ta là Kim Tử Lăng đây non cao học tập, thành nhàn không việc, nhân vì bảo hộ Thủy Hoàng gồm thâu sáu nước, xuống nơi sát giới (là chỗ đau thương chém giết), trọn ngày chẳng được an ninh, lại bỏ thú vui chơi sơn thủy thanh nhàn, biết bao giờ ta được thành công, mà trở về động tiêu diêu thong thả”. Than thở một hồi nghĩ thầm rằng:
“Ta xem đã nữa ngày, mà không rõ nơi này tên núi là chi”. Quay đầu nhìn thấy một tấm bia đá có khắc ba chữ:
“Dược lâm sơn. Coi rồi vừa muốn dời gót ra đi, bỗng nghe tiếng người kêu, là ai biết ta mà kêu, chẳng dè Châu Huệ Trân đạo huynh đó mà”. Liền vội vàng bước ra tới xá nói rằng:
“Xin chào đạo huynh”. Tên đạo nhân lật đật đáp lễ, hai người ngồi trên hòn đá ngọa ngưu. Tử Lăng hỏi rằng:
“Đạo huynh, sao không ở trong động, tu chơn luyện tánh, lại đến chỗ này làm dạo chơi?”. Tên đạo nhân cười rằng:
“Tôi ở trong động không có việc chi, thường đến chỗ này cùng với một vị Chơn nhơn giải muộn, không dè ngày nay tình cờ lại gặp anh ở đây, thật rất vui mừng. Tôi nghe đạo huynh làm chức Quân sư, hưởng lộc giàu sang trong đời, vĩnh hiển biết là có việc chi chăng?”. Tử Lăng thở dài một tiếng, mặt có sắc thẹn, đáp:
“Đạo huynh đâu rõ việc bổn phận của tôi, tuy là tôi xuống núi, ở nơi trướng Thủy Hoàng, mặc áo mãng bào, lưng mang ngọc đái, làm chức Hộ quốc quân sư, ơ?
dưới một người ngồi trên trăm họ, thiệt cũng vinh dự đó chút, nhưng mà anh đâu rõ được sự cực nhọc của tôi”. Huệ Trân hỏi:
“Anh ở bên nước Tần, chẳng hay có việc chi lo được chăng.” Tử Lăng bèn đem việc binh thua Dịch châu, bị Tôn Tẫn che sao độn giáp, lén mai phục nhơn mã, dùng trận Hỏa công, đốt cháysáng trời, làm cho quân binh chẳng còn manh giáp, rất nên hổ thẹn, và đem hết các việc trước thuật lại một hồi. Châu Huệ Trân nói:
“Nguyên hai tướng huynh chịu lấy cái giận ấy, nay toán đến chỗ nào?”. Tử Lăng nói:
“Làm người chẳng trả oán cứu ấy, uống chí đấng trượng phu, tôi nay tính trở về thỉnh thầy tôi xuống núi, bắt Tôn Tẫn trả thù rửa hận”.
Châu Huệ Trân nói:
“Cắt cổ gà đâu dùng dao trâu, tôi tưởng lại Tôn Tẫn có tài nghê.
chi cho lắm, mà làm khinh động đến Hải Triều thánh nhơn, bây giờ đây có một ông thầy cùng với thằng Cụt oán thù, vậy tôi cùng anh đến đó, thỉnh va xuống núi, mà bắt Tôn Tẫn, để như thò tay trong túi lấy đồ”.
Tử Lăng rất mừng hỏi rằng:
“Chẳng hay anh nói người ấy là ai, mà ở chốn nào?”.
Châu Huệ Trân nói:
“Xa ước xa ngàn chăng?”. Tử Lăng nói:
“Thưở nay tôi chưa từng gặp mặt”. Huệ Trân nói:
“Hèn chi mà anh không hiểu, ngày trước ông thầy ở động này tên là Hùynh Bá Đương, bị Tôn Tẫn làm hại đến nay cứu ấy chưa trả được, em của người là Huỳnh Thúc Đương ở đây, tu chơn luyện tánh, nếu anh đến đó mà thỉnh người, thì chắc là người chịu đi”. Tử Lăng cả đẹp, rồi hai người đứng dậy, dắt nhau qua khỏi vài đỉnh núi, xem thấy một cái cửa động, có tên đồng tử đang chơi trước cửa. Châu Huệ Trân tới bước hỏi rằng:
“Thầy ngươi có ở nhà chăng?”. Đồng Nhi đáp rằng:
“Thầy tôi ở trong động, đang cùng Tẫn chơn nhơn đánh cờ”. Huệ Trân nói:
“Ngươi mau vào thông báo”. Đồng Nhi nghe nói, liền vào trước mặt Huỳnh Thúc Đương thưa rằng:
“Nay có Châu nhơn, ở Vân quan cùng với một Tẫn chơn nhơn xuống thềm nghinh tiếp. Thúc Dương hỏi rằng:
“Vị này là ai?” Huệ Trân nói:
“Người này vốn là học trò của ông Hải Triều thánh nhơn, ở động Vân quanh vâng sắc mạng xuống phó tá Tây Tần, gồm thâu sáu nước, làm quan Hộ quốc quân sư, họ Kim hiệu là Tử Lăng”. Thúc Đương nói:
“Nguyên lai Kim Tử Lăng đạo huynh đósao? . Tôi có lòng trông tưởng đã lâu”. Bốn người đều phân chủ khách mà ngồi uống trà, Huỳnh Thúc Đương nói:
“Tử lăng đạo huynh, anh đã ở nơi Trường An lộc giàu sang trong đời, vì sao mà đến núi hoang này, có việc chi chăng?”. Tử Lăng đứng đậy đáp rằng:
“Đệ tử (là tiếng nói khiêm tốn chớ không phải thiệt học trò Thúc Đương đâu) tuy rằng ở đất Trường An, phò tá Thủy Hoàng, hưởng việc giàu sang, chẳng dè mới đây chịu lấy cái khổ vô cùng”. Thúc Dương hỏi:
“Khổ ấy vì đâu mà ra vậy? ‘.
Tử Lăng sa nước mắt, bèn đem việc binh đánh Dịch Châu, đầu đuôi thuật lại cho Thúc Dương nghe, và bị Tôn Tẫn dùng trận hỏa công, đốt chết quân binh vô số và nói:
“Nay tôi muốn đến Đông Hải đặng thỉnh thầy tôi xuống mà giúp sức, đi ngang qua báu sơn này (là núi báu, iếng kính trọng) xảy gặp Châu đạo huynh, nói đây có động của thầy, nên tôi vào ra mắt”. Thúc Dương nghe rồi nạt lớn lên, trợn mắt dựng mày, giận lắm nói rằng:
“Nếu vậy thì đạo huynh mắc thằng cụt phải không?”. Tư?
Lăng hỏi:
“Đệ tử bị nó làm hại, vì cớ nào mà thầy có sắc giận dữ như vậy?”. Thúc Đương nói:
“Ta cùng thằng cụt ấy, vốn có cái cừu một trời dông dài, thằng Cụt ấy nó chẳng qua là con thứ ba của Tôn Tháo, ở phủ Yên Sơn tên là Tôn Tẫn, vào núi Vân Tịch, động Thủy Liêm học nghệ, vốn học trò của Vương Thuyền quỷ cốc, lúc trước ơ?
nước Ngụy, đất Hà Nam, cùng với Bàng Quyên thù oán, rồi bị Bàng Quyên dùng kế chắt đứt mười ngón chân, hóa ra một thằng vô dụng, lúc nọ vua Tể Mẫn Vương sai đại phu là Bốc Thương, lén đem về nước, phong làm Nam quận vương chức Á phu.
đề binh qua Hà Nam trả thù, nó thiệt là thằng xảo kế rất nhiều, dùng kế giảm táo (là bớt xếp lửa) gạt Bàng Quyên đến đường Mã lục, bị loạn tên mà chết, vậy nên thằng cụt nồi danh thiên hạ, bảy nước chư hầu đều nhượng nước Tề là nước trên, đến sau Tề Xuân vương giá băng (chết) Mẫn vương vô đạo, mê đám nàng Trân Phi, chẳng xem việc triều chánh, ba lần xua Tôn Tẫn, lửa đốt cung Tuyền Dương, sau nước hiệp binh đánh vua vô đạo, lúc ấy Yên Chiêu Vương, nơi điện Kim Thai tôn soái, trọng dùng Nhạc Nghị, dấy binh đánh Tề, phá đất Quận Hải và đất Lâm Tri, nơi rừng Hạnh Điệp, giữa đường gặp giết Trân Phi, phơi nắng Mẫn Vương, các quan văn võ nước Tề, bảo phò ấu chúa, đồn binh núi Thiên La, bang Hồng Từ, Nhạc Nghị lãnh binh vây khốn Hồng Từ, Viên Thuật xông ra đối địch, bị thần sa của Nhạc Nghị mà thác, lúc ấy Tôn Tẫn xuống núi. Nhạc Nghị có đâu mà cự lại Tôn Tẫn, cho nên nó bi.
bắt đem về núi đánh hai chục côn. Nhạc Nghị chịu sao nổi, túng phải năn nỉ ở làm tôi tớ, vậy chớ đạo huynh có biết thầy của Nhạc Nghị là ai không?”. Tử Lăng nói:
“Đệ tử đâu rõ đặng”. Thúc Đương nói:
“Vốn là anh của tôi, ở động này tu luyện, hiệu là Bá Đương, cùng với Vương Thuyền, Vương Ngao bạn học đồng thầy, anh tôi hay đặng cớ sự như vậy, nổi giận xuống núi, cùng với Tôn Tẫn giao chiến, chẳng dè ra trận rủi bị Tôn Tẫn làm thua, túng phải khai sát giới (là sanh lòng chém giết), bày ra cái trận kêu là Âm hồn trận, mà vây Tôn Tẫn, rồi bị Mao Toại trộm thuốc linh dơn cứu nhưng mà cũng không ra khỏi đặng, đến sau anh em Vương Thuyền thỉnh Chưởng giáo Nam Cực xuống núi, dùng câu tiên bài (là cái bài để bắt các tiên) mà anh bắt tội, đánh tám mươi trượng, lột mất đinh thượng tam huê (là ba cái bông trên mão) thành ra xác phàm mà chết nơi Hồng Từ Cốc, hóa ra làm con hạc trắng một chân, cũng vì Tôn Tẫn làm ra cớ sự như vậy, tôi cùng nó cừu sâu như biển, nếu không nói ra có khi đạo huynh chẳng biết”.
Tử Lăng nói:
“Nguyên lai thầy với Tôn Tẫn có cừu sâu, nay đệ tử muốn thỉnh thầy xuống núi ra mắt Thủy Hoàng, toan mưu ra kế mà bắt Tôn Tẫn, một là cùng huynh trưởng trả thù, hai nữa là rõ tài thần thông của thầy, dẹp an sáu nước, để tiếng lại ngàn thú. Lúc ấy Châu Tần hai vị chơn nhơn ngồi một bên nói tiếp rằng:
“Nếu tô?
sư bằng lòng giúp sức cùng tôi, thì tôi tình nguyện xuống núi, thì anh em tôi rán sức giúp giùm”. Thúc Đương nói:
“Hai vị nếu quả thiệt bằng lòng giúp sức cùng tôi, thì tôi tình nguyện chẳng chung trời, vậy thì chúng vị Ở đây vài ngày, rồi đi một lượt với nhau”. Tử Lăng nói:
“Cứu binh như cứu lửa, xin hai thầy kịp xuống cho mau”. Châu, Tần hai vị chơn nhơn nói:
“Hãy chờ một chút, đặng chúng tôi về động lấy pháp bửu, qua Dịch Châu giao chiến”. Thúc Đương nói:
“Có đi thì đi cho mau, lại cho chóng, kẻo chờ đợi lâu ngày”. Hai vị chơn nhơn cáo từ về động, giây phút đều đến núi Dược Lâm, cùng với Thúc Đương hộ thân bửu bối, ra động cỡi mây bay thẳng qua Dịch Châu, giây phút đến nơi, Tử Lăng nói:
“Xin chúng vị hãy ở đây chờ một chút, để tôi vào trước thỉnh vua Tần bày giá nghinh tiếp, mới rõ lòng trọng kẻ hiền tài”. Tử Lăng nói rồi thẳng vào viên môn, qua Lam kỳ giữ gìn ngó thấy Kim Tử Lăng thì mặt vui phơi phới, hỏi rằng:
“Quốc sư đi đâu mà về vậy?”. Tử Lăng nói:
“Tôi đi thỉnh chơn nhơn đã đến, ngươi mau mau vào báo”. Lam kỳ quan vội vàng vào trướng tâu cùng Thủy Hoàng. Hoàng nghe nói rất mừng mà rằng:
“Trẫm ngở kà Quốc sư đã bị lửa cháy rồi, hay đâu còn sống”.
Liền truyền chỉ mời vào. Lam Kỷ trở ra truyền lệnh, Tử Lăng theo vào đến trướng chầu lạy xong rồi, tâu rằng:
“Tôi có thất cơ bị thua, ngửa trông lượn thánh bao dung”. Thủy Hoàng nói:
“Thắng bại binh gia lẽ thường, trẫm tha khanh vô tội”. Tư?
Lăng tạ Ơn tâu rằng:
“Lúc tôi bị thua, rồi tuốt đến thánh sơn, thỉnh đặng ba vị chơn nhơn xuống núi giúp bệ hạ đặng bắt Tôn Tẫn trả thù, còn ở ngoài dinh chờ lệnh”.
Thủy Hoàng nghe nói rất mừng mà rằng:
“Nếu có chơn nhơn đến đây, vậy thì mơ?
hoắc cửa dinh, đặng trẫm dẫn bá quan ra nghinh tiếp”. Tử Lăng lạy tạ, văn võ ra đến dinh tiếp rước, ba vị chơn nhơn xem thấy Thủy Hoàng bèn dẫn bọn Cam La, Chương Hàng, cùng một phe văn võ ra đến dinh tiếp rước, ba vị chơn nhơn xem thấy Thủy Hoàng ra đnh, vội vàng bước ra lạy ra mắt, và nói rằng:
“Chúng tôi có tài đức chi, dám đâu làm nhọc đến thánh chúa phải ra dinh tiếp rước”. Thủy Hoàng nói:
“Nước trẫm thiệt rất may, nên có tiên trưởng xuống phàm giúp sức”. Nói rồi mời ba vị chơn nhơn vào Kim dinh huỳnh la bửu trướng, phân chủ khách ngồi uống trà, và bày chỗ động núi, cùng là tên họ đạo hiệu, lại hỏi Thủy Hoàng rằng:
“Mấy ngày rày có cùng Tôn Tẫn giao chiến chăng?”. Thủy Hoàng thở dài đáp rằng:
“Trẫm đâu dám phát binh, thằng Tôn Tẫn ấy thần thông quảng đại, nguy kế rất nhiều, hôm trước bị một trận hỏa công của nó, trẫm đã kinh lòng vỡ mật, ba quân bài, trông chờ Trường An binh cứu, đặng chúng nó định quyết hơn thua, nếu thua một lần nữa, thì phải lui về Hàm Dương, chẳng dám mong tưởng đến việc gồm thâu sáu nước”. Thúc Dương nói:
“Xin bệ hạ hãy an lòng, nay tôi xuống đây, quyết bắt cho đặng Tôn Tẫn, mà trả thù cứu xưa”. Thủy Hoàng nói:
“Việc ấy đều nhờ nơi phép diệu của chơn nhơn”. Bèn truyền bày tiệc thiết đãi. Thủy Hoàng ở nơi đại tướng, cùng ba vị chơn nhơn và quan lớn nhỏ uống vùi rất vui, đến tối tiệc tan ba vị chơn nhơn vào trướng an nghỉ một đêm, qua ngày thứ hừng sáng, Thủy Hoàng lên trướng văn võ chầu lạy xong rồi, ba vị chơn nhơn cũng vào trướng mà ngồi. Thúc Đương tâu rằng:
“Ngày xưa xin Thánh thượng cho tôi ra cùng Tôn Tẫn giao chiến”.
Châu chơn nhơn nói:
“Có đâu phải nhọc đến tổ sư ra trận, để cho tôi ra đánh trận đầu”. Thủy Hoàng cười nói:
“Nhờ chơn nhơn ra sức, trẫm trông nghe tin tức”. Châu Huệ Trân hăm hở xuống trướng, sửa mão đạo quan, cột dây tư điều, miệng niệm chơn ngôn, lấy tay chỉ qua phía nam kêu rằng:
“Khước lực (là con thú dùng cỡi cho đỡ chân) của ta ở đâu?”. Xảy thấy một trận gió thổi tới ù ù, giữa thinh không hay xuống ba con thú rất kỳ lạ, một con bát hoa mai huệ lộc (con nai mình có bông), một con kim tiền báo (con beo có đốm tròn như đồng tiền), một con bạch ngạch hổ (là con cọp trắng trán, đều ngoắt đuôi nhìn chủ, con mai huệ lộc thì tới trước Huỳnh Thúc Dương, con kim tiền báo thì nhìn Tần đạo nhơn, con bạch ngạch hổ quỳ trước.
Chân chơn nhơn, làm cho ba quân người người kinh sợ chẳng xiết. Châu Huệ Trân thót lên lưng cọp ra dinh, dạy quân dịep miễn chiến bài, rồi phát ba tiếng pháo, tuốt đến dinh Yên, nói với quân giữ cửa rằng:
“Quân! Bây mau vào báo với Nam quân vương Tôn Tẫn hay rằng:
“Nay có ta là Châu chơn nhơn đến đây kêu đánh, bảo Tôn Tẫn phải ra cho ta nói chuyện”. Quân vào báo, Tôn Tẫn nghe báo, liền sai Tôn Yên ra dinh đối địch, và dặn rằng:
“Khi nãy quân báo nói có tên đạo nhân, phải giữ gìn yêu thuật tà phép, cho hết lòng cẩn thận”. Tôn Yên vâng mạng đề kích lên ngựa phất cờ nổ pháo, hai bên có hai cây cờ trắng, giục ngựa bạch long câu, tới trước trận.
Huệ Trân ngó thấy nạt lớn rằng:
“Tiểu tướng khoan tới, hãy thông tên họ đã. Tôn Yên hươi kích chỉ và hỏi rằng:
“Thằng đạo nhân kia, mi là người nào mà nhìn không biết ta là Tôn Yên bên Dịch Châu đây?”. Đạo nhân cười rằng:
“Ta ơ động Hỏa vân tu luyện nhiều năm, đạo hiệu Huệ Trân, cũng là người đạo đức, có đâu biết được mi là đứa tiểu bối vô danh, kíp mau kêu thằng cụt mi ra đây, hãy còn đánh được ít hồi, chớ mi là thằng tiểu bối, khổ gì ra mà chịu chết”. Tôn Yên nghe nói nạt rằng:
“Gia?
Trương đạo chạy đâu, hãy coi ta lấy đầu mi”. Vừa nói vừa hươi kích ngay chơn nhơn đâm tới, chơn nhơn hươi gươm rước đánh, đánh đến hai mươi hiệp, chưa định ăn thua, Tôn Yên thấy khó hơn yêu đạo, bèn ráng sức tinh thần, hươi kích vùn vụt, tợ núi thương nhấp nháng, đâm dưới đánh trên, nhộn nhàng túi bụi, làm cho Huệ Trân sức mỏi gân yếu, khó nổi trở đương, đâm bạy một thương bỏ chạy. Tôn Yển chẳng bỏ, giục ngựa đuổi theo. Huệ Trân quay đầu ngó thấy rất mừng, vội vàng thò tay vào túi, lấy ra một cái Tỉ hồ lô, cầm nơi tay, giở ra, miệng niệm chơn ngôn, nạt lớn rằng:
“Thằng tiểu bối, chớ ham rượt, hãy coi bửu bối của ta”. Tôn Yên đang giục ngựa rựơt theo, nghe nói bửu bối, liền dừng ngựa xem coi, thấy Huệ Trân cầm hồ lô vụt ra ít cái, thì xông ra một lằn khói đen, kế đó lửa cháy rần rần, Tôn Yên bị một trận hẩn hỏa cả thua chạy dài. Huệ Trân đắc thắng về dinh, Thủy Hoàng chúc mừng thưởng công.
Lúc ấy Tôn Yên thua chạy về dinh, vào trướng quỳ xin tội, Tôn Tẫn nói:
“Thắng bại là việc thường, ngươi có tội chi đâu, về trướng an nghỉ?” tôn Yên lui ra, kế quân vào báo nói:
“Nay có một đao nhân ở bên dinh Tần đến, hình dung quái lại, tướng mạo dữ dằn, cỡi một con thú rất kỳ, cầm cây Lang nha bổng, mười phần lợi hại đang ở trước dinh kêu đánh, xin Vương gia toan liệu”. Tôn Tẫn nghe báo, kinh nghi chẳng xiết, nói rằng:
“Sao mà lại đến một người đạo nhân, chẳng biết trong dinh nó còn đạo nhơn nhiều ít”. Bèn hỏi:
“Có ai dám ra chăng?”. Xảy nghe một tướng, tiếng như Chuông đồng, xông ra xa nói:
“Tôi xin đi”. Tôn Tẫn xem thấy Lý Tòng thì nói:
“Ngươi có ra trận phải tiểu tâm cẩn thận”. Lý Tòng lãnh binh trở về nai nịt tề chỉnh, đi bộ chẳng cỡi ngựa, tay cầm đại đao, xông ra trước dinh xem thấy một người đạo nhơn, mười phần dự tợn, đầu đội kim niếp, mặc áo bát quái bào, tóc bỏ râu dựng, mắt như lục lạc, răng lựa lưỡi cưa, cỡi con kim tiền báo, tay cầm lang nha bổng, liền nạt rằng:
“Thằng cỡi beo kia! Mi có tàichi hòng dám đến dinh ta mà khiêu chiến, hãy thông tên đã, chớ cái đao ta chẳng chém con quỷ vô danh”. Tần đạo nhơn nghe hỏi ngước mặt xem thấy, một người cao lớn dềnh dàng, tay cầm đồng đao mình cao trượng hai, tướng đi dữ tợn, cẳng bước như bay, giống tạc Thiên thần xuống thế, thì đáp rằng:
“Ta chẳng phải người nào đâu, vốn là Linh Cầu chơn nhơn ở núi Linh Cầu, động Linh Cầu, đại hớn (là người cao lớn mạnh dạn) còn mi tên gì?”. Lý Tòng cười lớn rằng:
“Nguyệt chướng, đến ta mà mi nhìn cũng chẳng được, ta là học trò của ông Liễu nhứt chơn nhơn, ở động Thiên Thai, hổ tướng Lý Tòng là ta đây. Yõêu đạo! Lẽ thì mi ở chốn thâm sơn, dưỡng tánh tu lòng, vui chơi ngay tháng, vì làm sao xuống núi phò tá Thủy Hoàng, đem mình đến nạp, thiệt rất nên đáng tiếc”.
Nói về Tần Mãnh nghe Lý Tòng nói mấy lời, thì cả giận đáp rằng:
“Thất phu, mi ỷ mi là cao lớn dềnh dàng, buông lờ nói phách, chớ ta coi mi chẳng qua là một đứa mọi của người, đến đây mà làm con quỷ mở đường, bộ mi tài cán bao nhiêu, dám ra cùng ta đối trận”. Lý Tòng nghe nói giận lắm, lướt tới hươi đao nhắm ngay đầu Tần Mãnh đâm tới. Tần Mãnh vội vàng rước đánh, đánh đến ba mươi hiệp. Lý Tòng gia?
thua bỏ chạy, Tân Mãnh xem thấy cười ngất, nói rằng:
“Thằng lớn này không quen đánh giặc, mi biết chạy, ta lại không thể lượt sao”. Nói rồi giục beo đuổi nà theo, Lý Tòng quay lại ngó thấy trong bụng rất mừng, liền vén chiến bào, lấy ra một cái kêu là bá luyện chùy, cầm sẵn nơi tay, Tần Mãnh rượt tới rất gần, Lý Tòng liệng ra một chùy, lúc ấy Tần Mãnh đang rượt, bỗng thấy một lằn sáng bay lại gần đầu, liền cúi sấp lên lưng beo, nghe một tiếng chùy rồi co giò phóng theo như gió thổi. Tần Mãnh chờn vợn gần rớt xuống beo, nằm yên trên thổ huyết chạy dài. Lý Tòng rượt tới, trong lòng nghĩ thầm rằng:
“Ta tuy bị thương, song phép báu hãy còn, cùng chưa dùng đến, chi bằng ta cho nó một cái, một là rõ phép đạo tiên, hai là lấp che tai mắt ba quân, ba nữa thua mà trở nên thắng, như vậy chẳng là hay hơn”. Nghĩ rồi thò tay vào túi, lấy ra một cục đá, kêu là ngũ quang thần thạch, quay lại thấy Lý Tòng rượt tới chẳng xa, bèn liệng ra một cái, đánh nhằm mặt Lý Tòng, choáng váng mặt mày, nhức nhối khó chịu, lật đật co giò phóng riết về dinh, Tần Mãnh thâu thần thạch, rồi cũng về dinh.
Chương 14 : Huỳnh Thúc Đương năm nẻo phục binh; Tôn Bá Linh một cờ phá phép
Nói về Lý Tòng thua chạy về trướng là:
“Cháu ôi! Không xong rồi, bị người ta đánh gần chết đây này! Thầy ra cho mau mà coi”. Tôn Tẫn ngó thấy mặt mày sưng vù, dầu tích rất nặng hỏi rằng:
“Vì sao mào để cho người đánh thân thể như vầy?”.
Lý Tòng bèn đem liệng chùy đánh nhằm đạo nhơn, rồi rượt theo nó, không đề phòng, bị nó đánh một cục đá, mà thuật lại cho Tôn Tẫn nghe. Tôn Tẫn nói:
“Không hề chi”. Bèn kêu:
“Khoái Văn Thông, cháu hãy ra đây bác biểu”. (vì sao mà Tôn Tẫn kêu Văn Thông bằng cháu, vì Văn Thông là học trò của Mao Toại, còn Tôn Tẫn cùng Mao Toại kết làm anh em bạn nên xưng là bác cháu) Tôn Tẫn dạy rằng:
“Cháu mau vào lấy một hờn linh đơn, hòa với nước mà thoa cho Lý Tòng. Văn Thông vân mạng, lấy thuốc thoa nơi dấu sưng, tức thì tiêu hết như cũ; Lý Tòng tạ Ơn lui ra, Tôn Tẫn thấy Lý Tòng bị thua, trong lòng buồn bực chẳng vui, với Tôn Tẫn là vị bốc tiên tri, há đi chẳng biết Huỳnh Thúc Đương xuống núi hay sao? Nguyên vì năm nạn chưa mãn, nạn thứ nhứt là chặt chân, nạn thứ nhì là Bàng Quyên dùng binh đầu thất tiễn, nạn thứ ba là Liệt tịch trận, ấy là số mạng Tôn Tẫn phải chịu lấy mấy nạn đó, cho nên chẳng dám trái trời.
Nói về Thủy Hoàng ở nơi bửu trướng, bày yến cùng Châu Huệ Trân ăn mừng, ngày thứ Vương Tiễn vào ra mắt tâu rằng:
“Bệnh tôi đã lành nay xin ra đối trận, quyết bắt Tôn Tẫn trả thù một gậy ngày trước”. Chưa dứt lời, Thúc Đương bước ra cản rằng:
“Điện tây hầu chẳng cần ra trận làm chi, tôi xuống núi chưa lập đặng công gì, hôm nay xin ra mắt bắt thằng Cụt đặng giao cho Điện tây hầu, chém tha mặc tình liệu định”. Vương Tiễn vội vàng xưng tạ rằng:
“May nhờ phép lực tổ sư, mà trả thế cái thù một gậy cho tôi, thì ơn ấy chẳng dám quên”. Thủy Hoàng mừng thầm hỏi rằng:
“Chơn nhơn ra trận muốn dùng bao nhiêu người ngựa? ‘. Huỳnh Thúc Đương nói:
“Binh đủ ba ngàn mới dùng bao nhiêu ngựa?”. Huỳnh Thúc Đương nói:
“Binh đu?
ba ngàn mới dùng?”. Thủy Hoàng truyền chỉ chọn ba ngàn binh, giao cho Huỳnh chơn nhơn điều khiển, Thúc Đương lãnh chỉ ra trướng, nói với Nguyên Soái rằng:
“Xin Nguyên soái hãy dẫn năm trăm binh mai phục phía đông, còn điện tây hầu lãnh năm trăm binh mai phục phía tây, Triệu tướng quân, lãnh năm trăm binh mai phục phía bắc, kim quân sư, lãnh năm trăm giữa trung ương mai phục, nay tôi quyết cùng Tôn Tẫn giao chiến, nếu mà thắng đặng, thì chúng tôi kéo binh phá vào đại dinh của nó, còn như thua thì ắt nó rượt theo, chúng tương cũng đánh vào dinh nó, làm cho nó đầu đuôi không tiếp ứng đặng, ắt là một trận phá đặng thành công”. Kim Tư Lăng, Chương Hàng, Vương Tiễn, Triệu Cao và Vương Bôn đều lãnh lệnh chia nhau mai phục, Huỳnh Thúc Đương từ giã Thủy Hoàng rồi lãnh năm trăm người ngựa cùng Châu, Tần hai vị chơn nhơn, tay cầm trà điều trượng, ra dinh tuyền lệnh phất cờ gióng trống, nhắm dinh Yên kêu lớn rằng:
“Quân bây vào báo nói:
Có quân sư nước Tần, thỉnh ba động chơn nhơn, ở núi Dược Lâm tới đánh, hãy mời Nam quân vương ra đây ta hỏi”. Quân vào phi báo. Tôn Tẫn nghĩ thầm rằng:
“Nay nó đến đấy ắc việc chẳng lành, nếu lành thì không đến, vậy mình phải đề phòng hay hơn”. Nghĩ rồi mình rút binh tiễn sai Tôn Yên, Lý Tòng, Triển Năng, Triển Lực, Triển Thắng, lãnh binh ra dinh năm dặm, mai phục bốn phía, hễ nghe tiếng sấm nổ làm hiệu, nhắm trong dinh đánh vào. Vây khổn binh Tần, giết cho nó chẳng còn manh giáp. Chúng tướng vân kế chia nhau:
“Cháu hãy lãnh bùa này, ra khỏi dinh năm dặm lên chỗ gò cao, hễ bên dinh Tần lập bày đội ngũ, thì chúa hãy đốt đạo phù này, nghe giữa thinh không tiếng sấm nổ lên thì chạy về dinh”. Văn Thông lãnh mạng lui ra, Tôn Tẫn bước ra xuống thanh sa trướng sửa áo thanh bào, cột dây tư điều, cầm gậy thót lên lưng trâu, dẫn Mã Trân, Giải Tính cùng tám vị môn đồ, trăm năm gia tướng, phát pháo mở hoặc cửa dinh, lúc ấy Huỳnh Thúc Đương nghe pháo nổ, ngước mặt xem, thấy hai cây cờ dẫn tiên kỳ rẽ làm hai bên, ở giữa một đội quân binh, tám viên đại tướng ra khỏi dinh phân đứng hai hàng, người hùng phong vũ vũ, đội mũ mặc giáp, kẻ đỏ người xanh, kẻ tía người vàng, mười phần nghiêm chỉnh, rồi nghe một tiếng pháo nổ, ở sau một cây cờ trắng, có ba chữ vàng:
Nam quân vương, dưới cờ lộ ra một con bàn đốc thanh ngưu, ngồi một người tiên nhơn rõ ràng là Tôn Tẫn chẳng sai, Huỳnh Thúc Đương coi rồi nghĩ thầm rằng:
“Hèn chi thằng Cụt tiếng vang thiên hạ, quả thiệt điều binh có phép, cũng chúng chẳng đồng”. Bèn lấy cây trà điều trượng chỉ lên rằng:
“Thằng cụt, mi chạy đi đâu, ta chờ đây đã lâu, sao chẳng xuống trâu là lạy tả”. Tôn Tẫn cười rằng:
“Sư thúc đã đến đây, tôi không hay biết chẳng làm đặng trọn lễ, cầu xin miễn chấp”. Thúc Đương nói:
“Thằng khốn khiếp, người đồn ngươi nhiều điều xảo trá, hôm nay thiệt không sai, ta ở trước dinh khiêu chiến, có lẽ nào quân nhơn không báo cho ngươi hay rằng:
Có ta đến kêu đánh sao, mà ngươi lại dám dẫn binh tướng, diệu võ giương oai, phát pháo ra dinh, ta tưởng có khi ngươi muốn cùng ta đối địch chăng?
Lại tâu với Chiêu Vương sớm nạp tờ hàng, muôn việc điều thôi, bằng có chút chi chống trả, thì ngươi phải chết nơi trước mắt, ngươi hãy nghĩ xét lại cho kỹ”. Tôn Tẫn cười đáp rằng:
“Sư thúc, trăm thắng, ngươi ở núi Dược Lâm tu luyện, khổ gì mà nghe chi cái lời nói, đến nỗi núi cùng ta giao chiến, lời tục bất lưu tình”. Nghĩa là:
“Trước trận chẳng nhượng cha, cất tay chẳng vị tình”. Thúc Đương giận lắm nạt rằng:
“Đồ khốn khiếp, ai cần mi nhượng ta sao?”. Nói rồi giục Mai huê lộc, hươi cây trà điều nhắm ngay đầu Tôn Tẫn đánh xuống, Tôn Tẫn hươi gậy lên đỡ, cười nói rằng:
“Sư thúc, xin hãy dừng tay, vốn tôi cùng sư thúc chẳng có lỗi chi, nhân nhà tôi, cha, anh bốn mạng, đều bị Vương Tiễn sát hại, cháu tôi là Tôn yên vâng lịnh tổ mẫu nó, lên núi Thiên Thai, năn nỉ tôi xuống núi, cực chắng đã tôi mới đến đây, thoảng như sư thúc có cái cứu cha, anh làm vậy, thì há chẳng lo mà trả sao? Nay tôi cũng không nói đến việc trả cứu Cha, miễn là xin hài cốt cha, anh đem về mai táng, rồi cùng nước Tân giải hòa, tôi sẽ trở về thiên thai, chẳng muốn lưu truyền hồng trần, lẽ thì sư thúc đem lòng thương tôi mới phải, vì thấy tôi cùng Vương Tiễn có cứu giết chạ Sư thúc đã chẳng có lòng vì cháu mà rửa oán thì chớ sao lại trở lại trước trận muốn cùng tôi giao chiến, sư thúc nghĩ đómà coi có ai phải ai không cho biết, nếu tôi ra tay trước thì còn chi cái tình nghĩa”. Thúc Đương nói:
“Cái thằng khốn khiếp! Mấy lời mi nói đó, đều là những việc tư kỷ của mi mà thôi, há chẳng biết Tần Thủy Hoàng gồm thâu sáu nước, chẳng phải tự tư khởi mình, vốn là vân phật điệp, cùng sắc chỉ Ngọc Hoàng, nay ngươi ỷ có ba bốn thiên thơ, gậy đánh Vương Tiễn, lửa đốt Tử lăng, sao chẳng sợ ngũ lôi đánh giết, phen này ta xuống núi đây, nguyên vì có ý khuyên dứt ngươi cho tiêu trừ tai họa, không dè ngươi dám cả gan khua môi múa mỏ, tính lý khó dung”. Nói dứt lời hươi trà điều trượng đánh xuống.
Tôn Tẫn hươi gậy trầm hương đánh với ba người. Thúc Đương cỡi nai huê lộc, tay cầm trà điều trượng đánh phía trước, Châu Huệ Trân múa liên huê kiếm đánh ngang hông, còn Tần mãnh cầm lang nha bồng, ở sau đánh tới, ba tên đạo nhơn liều chết phủ vây Tôn Tẫn, Tôn Tẫn quả thiệt võ nghệ tinh thông, nào có lo sợ, hươi múa cây gậy, đỡ cây trà điều, đánh lang nha bổng, hất liên huê hiếm, trên dưới qua lại mau lẹ dường như tên, gió bay không lọt, mưa tuôn chẳng thấu, gậy múa lăng xăng, xem như rồng lộn, đánh riết ba tên đạo nhơn ngăn đỡ không kịp, coi bộ gần thua, Huệ Trân bèn lấy hồ lô vụt ra vài cái, lửa cháy rần rần, Tần Mãnh thì lấy đá ngũ quang, nhắm ngay Tôn Tẫn liệng tới. Thúc Đương xem thấy rất mừng, cầm cây trà điều trượng miệng niệm chơn ngôn, tức trà điều trượng biến ra con rồng, bay bổng trên Tôn Tẫn thấy ba tên đạo nhơn đều phép thuật thì mỉm cười mà rằng:
“Đồ yêu đạo cậy có phép mọn, sao dám khi ta, nếu chọc cho ta giận, ắt ba đứa bây thác hết chẳng còn, song ta là người xuất gia tu hành, lấy lòng từ bi làm gốc, chẳng nỡ sát hại, chi bằng làm cho nó biết rằng talợi hại thì thôi”. Nghĩ rồi lấy cớ vàng phất lên ba cái, nạt rằng:
“Đồ tà thuật, sao không trở lại còn đời chừngnào”. Tức thì ngọn lửa liền cháy lại ào ào, đốt cái hồ lô, còn đá ngũ quang trở lại đánh Tần Mãnh, mặt núi sưng vù, rồng kia nhắm Thúc Đương bay lại, làm cho ba tên đạo nhơn thất kinh, hồn phách đều bay, vội vàng dẫn năm trăn ngàn binh, nhắm dinh Tần chạy tuốt, Tôn Tẫn lấy gậy hươu sau lưng một cái, tám vị học trò người ngựa đều xao động, ngó thấy ba tên đạo nhơn thua chạy, thấy mình rượt theo, liền ngục ngựa rần rần, rượt giết binh mã.
Nói về Chương Hàng, Vương Tiễn, Triệu Cao, Kim Tử Lăng, Vương Bôn, năm viên tướng Tẩn, dẫn hai ngàn năm trăm binh mã mai phục bốn phía, ngó thấy Huỳnh Thúc Đương thua chạy, Tôn Tẫn rượt theo, dinh trại bỏ trống, đều kéo binh phất cờ la hét, đánh vào dinh yên, xem thấy dinh Yên chẳng xa, đốc quân rượt tới, rượt chừng nào càng xa chừng nấy, chúng tướng đà mỏi mệt, thấy tòa dinh ở trước mặt, cách chừng một lằn tên, mà chạy hoài không tới, Vương Tiễn thất kinh hỏi:
“Bọn ta trúng kê Tôn Tẫn rồi”. Kim Tử Lăng nói:
“Quả thiệt không sai, vậy trở lại cho mau, kẻo lầm gian kế nó”. Chúng tướng nghe nói, liền truyền lịnh thối binh, nguyên lai binh đi đây, là quán ngày trước bị Tôn Tẫn giết còn sót lại đó, nên nghe nói trúng kế Tôn Tẫn, thì hãi kinh bỏ chạy.
Lúc ấy, Khoái Văn Thông đang ở trên gò cao, thấy binh Tần vào nơi trọng địa, liền đốt lịnh phù, tức thì giữa thinh htông nổ ba tiếng sấm, rúng động núi non, chúng tưởng hãi kinh, ngước mặt lên xem, nói với Vương Tiễn rằng:
“Mặt trời tỏ sáng, mây gió cũng không, vì sao lại có sấm sét nổ vang? ‘. Triệu Cao nói:
“Không phải sấm sét đâu, có khi trống của trời đánh, nên nghe vang như vậy”. Nói về những tướng bên yên, nghe tiếng sấm nổ liền nổi trống chiên, phất cờ la hét, áp tới phủ vây.
Lúc ấy chúng tưởng bên Tần, nghe súng nổ rổi, thấy bốn phương tám hướng, đều có binh Yên, dường như lở núi đổ sông; rần rần kéo tới, chúng tưởng cả kinh thất sắc, có đâu dám cự, rủ nhau chạy hết. Tôn Yên, Lý Tòng rượt tới, cả giết một trận, hai ngàn năm trăm binh chết hơn tám phần, bọn Chương Hàng ra sức chết đánh phá trùng vây. Tôn Yên cùng chúng tưởng ở sau rượt tới, bọn Chương Hàng chạy thẳng bao xa, ngước mặt xem thấy một tòa dinh bàn, Vương Tiễn hỏi:
“Chẳng biết dinh nào đó vậy? Chương Hàng nói:Ấy là dinh của Tôn Tẫn, vì làm sao mà đóng ở chỗ này? Xem thấy trước cửa viên môn, đao thương chơm chởm, gươm giáo như rừng, chẳng dám chạy tới trước, bèn quày ngựa nhắm phía đông bỏ chạy, đang chạy xảy thấy trước mặt có một tòa dinh, Vương Tiễn hỏi Tử Lăng rằng:
“Phía đông chẳng biết ai mà đóng dinh chỗ này?”. Tử lăng nói:
“Cũng là dinh của Tôn Tẫn đó”.
Chương Hàng nói:
“Thôi rồi, có dinh Tôn Tẫn đón đường, làm sao mà đi đặng?”.
Liền quày ngựa đi qua phía bắc.
Nói về Tôn Tẫn dùng phép độn giáp, phủ vây tướng Tần làm cho Huỳnh, Châu, Tần ba tên đạo nhơn cả thua trốn chạy, rồi dẫn tám học trò cùng năm trăm nhân mã đón đánh binh Tần.
Nói về Chương Hàng, Triệu Cao, Kim Tử Lăng, Vương Tiễn và Vương Bôn, thâu góp binh tàn, nhắm về phía bắc trốn chạy, bỗng thấy trước mặt bụi bay mù mịt, bọn Chương Hàng không rõ binh mã xứ nào, xa xa xem thấy một cây cờ lớn, có đề ba chữ Nam quận vương, dưới cờ lộ ra một người đạo nhân, cầm gậy cỡi trâu, đâu kia đi lại, thì hãi kinh nói:
“Không xong, quả thật Tôn Tẫn đến rồi”. Chúng run rẩy lập cập, Tử Lăng nói:
“Các ngươi đều là người vô dụng hết, đã trúng ngụy kế Tôn Tẫn rồi, bốn phương tám hướng đều là dinh trại của nó, vây bọn ta ở giữa chốn này, đánh thì cũng chết, không đánh cũng chết, chi bằng đánh nhau ra thì chết cho rạng danh, họa may thoát khỏi được chăng?”. Tôn Yên rượt tới, Tôn Tẫn đốc chúng tướng phủ vây năm viên tướng Tần rất gấp.
Chương 15 : Thúc Đương đốt nhang cầu đạo hữu; Thiên Dân hóa phép bố trận đồ
Nói về Tôn Tẫn vây phủ binh Tần, đánh nhau một trận, binh Tần cả thua bị chết rất nhiêu, còn lại một trăm kỵ (là quân cỡi ngựa) bọn Chương Hàng liều mình ra sức đánh phá trùng vây chạy khỏi. Tôn Tẫn cả được trọn thắng, kéo binh về thì thấy Khoái Văn Thông đã bày tiệc sẵn mà ăn uống.
Nói về bọn Chương Hàng thua chạy về dinh tra điểm quân sĩ, chết hơn hai ngàn, kéo nhau vào trước Thủy Hoàng mà xin tội, Thủy Hoàng giận nói:
“Trẫm thường khuyên bọn ngươi không nên khinh động, mà chẳng chịu vâng lời lành, lại đến cao sơn thỉnh ba vị đạo nhân phụ giúp, trẫm ngỡ là có phép lực gì giỏi, ai dè không hơn được Tôn Tẫn mà trái lại còn bị nó đánh giết cả thua, hao tổn bao nhiêu người ngựa, còn mặt mũi nào vào đây thấy trẫm”. Tử Lăng cúi đầu chịu tội chẳng dám nói chi, kế ba vị đạo nhân vào trướng ra mắt. Nguyên mấy lần trước, hễ khi nào Thủy Hoàng thấy ba vi đạo nhân đến thì vội vàng quỳ xuống ngai nghinh tiếp, nắm tay dắt vào, hôm nay thấy ba người bị thua chạy về, thì có ý khi dễ, gật đầu mời ngồi. Ba vị đạo nhân mặt mày hổ thẹn, túng thế phải bước tới làm lễ ra mắt, rồi ngồi xuống. Thủy Hoàng chẳng thèm mời uống trà cũng không truyền dọn tiệc, bèn hỏi rằng:
“Chân nhân ra trận thắng bại thế nào”. Ba vị đạo nhân mặt mày sượng trân, gượng gạo đáp rằng:
“Bệ hạ đã rõ biết rồi, còn hỏi mà làm chi, khi nãy trước trận bi.
thua mà về, lẽ nào quan lược trận lại không thông báo, vì Tôn Tẫn thần thông quảng đại, tôi không hơn đặng, phải thua mà về, còn đang toàn mưu định kế trả thù rửa hận”. Thủy Hoàng cười gằn rồi nói rằng:
“Ối thôi, toan mưu gì định kế chi, số mình biết người, và Tôn Tẫn ngụy kế rất nhiều. Chân nhân đâu hơn cùng nó đối thủ làm gì, mà làm cho hao binh tổn tướng của ta, chi bằng nghe theo lời trẫm, Chân nhân xin về cổ động đặng cố tu chân luyện tánh, còn trẫm thì rút binh về nước, ấy là chước vẹn toan đó”. Thúc Đương nghe nói đỏ mặt tía tai, thẹn thùa chẳng xiết, tâu rằng:
“Bệ hạ! Xin chớ ưu phiền, tôi cùng Tôn Tẫn gây nên cứu sâu như biển, tuy tài tôi không bằng nó, nậy để tôi thỉnh một vị đạo nhân, đặng cùng nó định bề cao thấp”. Nói rồi hối quân dọn bày hương án, Thúc Đương quỳ xuống đốt hương, nhắm núi Vạn Huê sơn cúi lạy, khói hương nghi ngút, bay bổng trên không, thẳng tới núi Vạn Huê Sơn.
Nói về núi Vạn Huê, động Đại thạch, có một vị lão tổ, họ Ngụy hiệu Thiên Dân, ngày kia đang ở trên Tam thanh đại điện đọc kinh, lão tổ tiếp lấy đầu khói, kê nơi mũi hửi, rồi rõ biết sự tình, bèn tưởng lại rằng:
“Huỳnh Thúc Đương đã khai sát giới thì chớ, sao lại kêu ta xuống hồng trần làm chi, nếu mình đóng cửa chẳng quản được việc người, lại e trái tình ngày trước giao kết với nhau, chi bằng xuống núi cho trọn niềm bằng hữu”. Nghĩ rồi trở vào sau động lấy ít vật bửu bối, đem theo liệu dụng, rồi thót lên Mai huê lộc, dặn dò đồng nhi gìn giữ cửa động, ta xuống núi ít ngày sẽ trơ?
về, dặn rồi bay bổng trên mây nhắm Dịch Châu thẳng tới, giây phút bay tới dinh Tần, xuống mây thẳng tới cửa dinh. Quân giữ cửa xem thấy một đạo nhân thì hỏi rằng:
“Người đạo kia ở đâu mà đến?”. Ngụy Thiên Dân đáp rằng:
“Phiền người vào báo giùm, tôi ở núi Vạn huê, tên Ngụy đạo nhơn đến xin ra mắt”. Quân nhơn lật đật chạy vào thông báo. Thủy Hoàng nói:
“Ngụy đạo nhơn ấy là người thế nào?”. Thúc Đương cả mừng nói rằng:
“Người đạo huynh của tôi đó, vốn là một vị thiên la đại tiên, nay khứng lòng phụ giúp thì có lo gì Tôn Tẫn chẳng chết”. Thủy Hoàng nói:
“Quả nhiên tiên đến đây, hãy truyền mở cửa dinh, trẫm phải bổn thân nghinh tiếp”.
Rồi thúc Đương cùng Châu, Tần hai vị đạo nhơn theo Thủy Hoàng ra đến cửa dinh rước Ngụy Thiên Dân vào trong đại trướng mời ngồi. Thủy Hoàng xem kỹ tên đạo nhơn ấy thiệt là mặt mày xinh đẹp, đạo cốt tiên phong, có ý mừng thầm, Ngụy Thiên Dân hỏi Thúc Đương:
“Chẳng hay hiền đệ xuống núi cùng Tôn Tẫn đối trận thắng bại thế nào?”. Thúc Đương buồn bực đáp rằng:
“Nhắc tới thằng cụt chân, thiệt khiến cho người thêm giận, tưởng lại lúc trước anh tôi nơi Hồng Từ cốc bị nó làm hại, ngày nay em xuống đây mà trả thù, may chút nữa thì đã chết nơi gậy nó, cực chẳng em phải đốt hương thỉnh cầu huynh trưởng đến giúp sức cùng em, xin anh có ra tài phép gì giúp em trả thù, ơn ấy dầu chết chẳng quên”. Thiên Dân nghe rồi nổi giận lắm nói rằng:
“Tôn Tẫn buông lung như thế thiệt khiến cho người rất nên giận dữ. Hiền đệ!
Em hãy an lòng có sợ chi nó thần thông quảng đại, để anh làm cho nó phải chết liền trước mắt”. Chúng đạo nhơn nghe nói, vui mừng chẳng xiết. Thủy Hoàng lên trướng, có quân thám thính vào báo rằng:
“Mông tướng quân về Trướng An điều binh này đã đến, binh hùng sâu chục muôn, chiến tướng ngàn viên, đem hết binh mã trong nước đến đây, còn ở ngoài cửa chờ lệnh cho vào. Mộng Điềm vào trướng lạy tạ ra mắt xong rồi tâu rằng:
“Tôi vâng chỉ về Trường An, điều thủ binh mã sáu mươi muôn, chiến tướng tám viên, phó tướng ngàn viên”. Thủy Hoàng cả mừng nói:
“Tốt lắm, trẫm nay bị Tôn Tẫn giết binh mã chết hơn phân nửa, đang lúc binh vi tướng quả, nay có cứu binh đã đến, thì trẫm nào có lo chi”.
Bèn truyền chỉ tám tướng vào ra mắt. Chúng tướng vâng chỉ vào trướng, tung hô xong rồi, Thủy Hoàng xem khắp, đều là tôi lương đống, bọn anh hùng, bèn truyền chỉ đứng dậy xưng tên ta rõ. Tám tướng cúi đầu tâu rằng:
“Bọn tôi là Anh Bố, Bành Việt, Đổng bá, Tư Mã Hán, Đinh Công, Ung Kế, Ngụy Báo và Lý Thiệt”. Thủy Hoàng nghe nói, trong lòng cả đẹp truyền bày tiệc thết đãi, rồi lạy tám tướng vào dinh an nghỉ.
Lúc ấy Ngụy Thiên Dân, Huỳnh Thúc Đương, Châu Huệ Trân, Mãnh cùng Kim Tử Lăng vào trướng ra mắt Thủy Hoàng mời ngồi, bèn quay lại nói với Thiên Dân rằng:
“Hôm nay trong nước trẫm mới đến binh hùng sáu chục muôn, chiến tướng ngàn viên quyết đạp bằng đất Dịch Châu, thì cũng cậy nhờ chước mầu kế diệu chơn nhơn, bắt cho được Tôn Tẫn, trẫm cảm ơn sâu”. Thiên Dân nói:
“Xin bệ hạ an lòng, mặc chớ lo lường, chẳng phải tôi dám khoe khoang lỗ miệng, nếu muốn bắt Tôn Tẫn, thì chẳng cần phải dụng binh mã làm chi, để tôi ra phép mọn, bày một trận nhỏ, dẫu nó là người đại tiên đi nữa, cũng không thoát khỏi tay tôi”. Thủy Hoàng ca?
mừng nói:
“Chẳng hay chơn nhơn muốn dùng vật chi yểm trấn, hãy xin sai người dư.
bị cho sẵn”.
Thiên Dân nói:
“Xin bệ hạ sai người ra phía đông, cất một cái tòa cao đài, cao ba trượng sáu thước, rộng hai trượng bốn thước, trước đài đào một cái hầm, mỗi phía một trượng tám thước sâu một trượng hai thước, trước hầm ấy dựng một cây cờ đỏ, trên vẽ hình Châu tước, phía sau hầm một cây cờ đen, vẽ thần Huyền võ, bên tả một cây cờ xanh, họa tượng Thanh long, bên hữu một cây cờ trắng vẽ hình Bạch hổ, bên tả pháp đài thì đựng một cây cờ trắng, bên hữu một cây cờ xanh, phía sau một cây cờ vẽ thất tinh, trên pháp đài để một cái bàn sơn son đỏ, dọn hương đăng huê chúc, châu sa, bạch cập, giấy vàng, và lấy đất nắn một cái hình Tôn Tẫn cầm gậy cỡi trâu, mình mặc bào xanh, chân mang giày da cá, cũng làm ra hình dạng cụt chân, bề dài bảy tấc, đến canh ba ứng dụng, và chọn bốn mươi chín người cao lớn mạnh dạn, mỗi người thì cầm cây cờ, trên viết bốn chữ:
“Tôn Tẫn chi hồn, phía đông pháp đài thì làm một cái cửa, kêu là tru tiên môn, dùng bốn mươi chín con chó đen, bốn mươi chín con gà đen, bốn mươi chín con trâu đen, bốn mươi chín con ngựa đen, một người đàn bà chửa, cùng những thú ấy giết rồi chôn dưới đất, còn phía tây làm một tòa cửa, kêu là trảm tiên môn, dùng chó đen, ngựa đen, gà đen y số như trước và một người con trai, giết rồi chôn ở cửa phía tây, phía nam lập một tòa cửa kêu là triệt tiên môn, dùng chó, gà, trâu, ngựa đen như trước và môt đứa con gái, cũng giết chôn nơi cửa phía nam, bên bắc làm một tòa cửa, kêu là hãm tiêu môn, dùng chó, trâu, gà, ngựa đen như trước và một người mồ côi, giết chôn ở cửa ấy, lấy tám đấu huỳnh sa (cát vàng) để trên pháp đài ứng dụng, không đặng thiếu trễ”. Thủy Hoàng nói rằng:
“Trận ấy kêu là trận chỉ”. Thiên Dân nói:
“Ấy là ngũ hành kim sa tru tiên trận, hễ người phàm vào trận, giây phút chết liền, còn đại la thiên tiê, chẳng qua năm đêm năm ngày, luyện đủ mười tám hột kim sa, liền tiêu ra máu mủ mà chết, dẫu có phép ngũ độ (là độn trong đất, nước, cây, vàng, lửa) cũng không ra khỏi đặng”. Thủy Hoàng nghe nói cả mừng, truyền chỉ cụ bị những đồ ứng dụng sẵn sàng, và lập pháp đài cho chóng, rồi dạy Vương Tiễn dẫn ba ngàn binh ra cửa đông đóng binh, Chương Hàng dẫn ba ngàn binh ra cửa tây đóng đinh, Anh Bố thì lãnh ba ngàn binh ra cửa bắc đóng đinh. Yên Dịch lãnh ba ngàn binh ra cửa bắc đóng đinh; điều khiển xong rồi, đến tối có quan Đương Thực tâu rằng:
“Pháp đài làm rồi, các việc đều đủ, nên tôi phải vào mà thỉnh lệnh”. Thủy Hoàng vòng tay nói với Ngụy Thiên Dân rằng:
“Pháp đài cùng các vật sẵn rồi, xin chơn nhơn hãy làm phép”. Thiên Dân dạy đem nước tới trước án tiền, mời Thủy Hoàng rửa mặt, thành tâm đối hương, chúc cao trời đất, còn tôi thì trước cáo thượng thiên, lạy rồi đứng dậy. Ngụy Thiên Dân cùng mấy vị đạo nhơn, khẩn vái một hồi, chờ đến canh ba sẽ làm phép, Thủy Hoàng nghe nói, vội vã truyền bày hương án, kiền thành vái lạy, chúc cáo thượng thiên, lạy rồi đứng dậy. Ngụy Thiên Dân cùng mấy vị đạo nhơn, khẩn vái một hồi, chờ đến canh ba, Ngụy Thiên Dân từ biệt Thủy Hoàng, dẫn Huỳnh Thúc Đương, Tần Mãnh, Châu Huệ Trân, bốn mươi chín tên quân dưới đài, tay cầm cờ, nhắm trên đài mà phất, hễ nghe trên đài Kêu Tôn Tẫn, thì mọi người đều nói Tôn Tẫn đến rồi, phép ấy kêu là kiến hồn, chẳng đặng trái lệnh. Ngụy Thiên Dân dạy Huỳnh Thúc Đương, Châu Huê.
Trân, Kim Tử Lăng, Tần Mãnh ở dưới pháp đài, niệm chú cầu hồn, còn mình thò tay trong túi lấy ra một cái hộp nhỏ, tên là trang tiên hạp, rồi lấy hình Tôn Tẫn bằng đất để trên bàn tay, dùng châu sa, vẽ một đạo linh phù nơi bụng Tôn Tẫn bằng đất rồi đểvào hộp trên vẽ ít đại linh phù, đốt hương bắt ấn, đạp la bộ đầu, còn bốn vị đạo chơn kia, niệm chú cầu hồn miệng kêu Tôn Tẫn. Tức thì quân nhơn dưới đài đều ứng tiếng đáp rằng:
“Tôn Tẫn tới rồi”. Ngụy Thiên Dân đốt một đạo linh phù miệng niệm thần chú, bỗng nghe giữa trời, tiếng nổ liên thinh, xem thấy một vầng sao, bay dật dờ khi lên khi xuống. Thiên Dân rút gươm chỉ lên nạt rằng:
“Xuống cho mau”.
Tức thì vì sao liền rớt trong hộp, nhập vào thây đất ấy. Thiên Dân đậy nắp hộp, niệm phong ba đạo linh phù, rồi miệng niệm thần chú đốt bùa, xảy thấy trên mây bay xuống một vị Thái Bạch tinh quân. Thiên Dân nói:
“Xin phiền tinh quân ở giữa trung ương pháp đài, gìn giữ cái trang tiên hạp, trong ấy có vì sao bổn mạng của Tôn Tẫn, phải cho hết lòng giữ chắc, nếu mà Tôn Tẫn thoát khỏi thì cứ theo thiên thơ biếm truất”. Thiên Dân đốt một đạo quân nữa, bắt ấn đạp la bộ đầu, bỗng thấy kim pháp, tay hữu nắm cây phương thiên kích, sa xuống trước đài, hỏi rằng:
“Chơn nhơn có việc chi khiến”. Thiên Dân nói:
“Xin phiền tôn thần, hễ gặp Tôn Tẫn vào trận bi.
kim sa chôn lấp, thì tôn thần dùng huỳnh kim pháp đè lên, chẳng nên để cho nó chạy thoát”. Lý Thiên Vương đáp rằng:
“Xin vâng pháp chỉ”. Thiên Dân bèn đối bùa niệm chú, tức thì bay xuống một vị linh tiên điện Cao nguyên soái, tóc bới hai chòm, tay cầm phong kiếm. Thiên Dân nói:
“Phiền tôn thần, nếu gặp Tôn Tẫn trận, bị kim sa rồi thì tôn thần qua phía đông, hầm tru tiên trấn giữ, chớ để cho nó chạy thoát”. Cao nguyên soái, lãnh lệnh lui ra, Thiên Dân miệng niệm chơn ngôn, đổi đao linh phủ, bay xuống một vị linh tiêu điện, Vương nguyên soái, mình ngồi sài cang, tay cầm côn ngô kiếm, đến trước pháp đài, cúi mình ra mắt, Thiên Dân nói:
“Xin phiền Nguyên soái qua phía tây, hầm tru tiên trấn giữ chẳng nên cho Tôn Tẫn chạy thoát.
Vươngnguyên soái lãnh lệnh lui ra, Thiên Dân đốt một đạo linh phủ, thấy bay xuống một vị Lý Nguyên soái, hình dung cổ quái, mặt mày dữ tợn, đứng trước pháp đài chờ lệnh. Thiên Dân nói:
“Xin phiền nguyên soái qua phía nam, hầm trụ tiên trấn giữ”. Và đốt một đạo linh phù, thỉnh một vị Dương nguyên soái, mình ngồi đảo thố, tam cầm tay tiêm đao, tới trước pháp đài nghe lệnh. Thiên Dân nói:
“Xin phiền Nguyên soái qua phía bắc, hầm trụ tiên trấn giữ”. Dương nguyên soái vâng lệnh lui ra, Thiên Dân điều khiển xong rồi, bèn lấy bốn đạo linh phù cầm nơi tay, miệng niệm chơn ngôn đốt hết một lượt, xảy thấy giữa thinh không, mây đencuồn cuộn, sát khí đằng đằng, khôi giáp rỡ ràng, gươm đao chớp nháng, có bốn vị đại thiên vương rần rộ bay xuống, vị thứ nhứt mình cao hai trượng bốn thước, mặt như cua biển, tóc cứng tợ kim, mắt như lục lạc, tay cầm thanh vân kiếm:
Vị thứ hai, mình cao hai trượng tóc đỏ, râu hồng, bốn răng cửa đều lộ, tay cầm hỗn ngươn toán; vị thứ ba, mình cao hai trượng sáu, mặt trắng giáp bạch, tay cầm tỳ bà; vị thứ tư mình cao hai trượng bốn thước, giáp bào đen, mặt như da sắt, đều rập lên hỏi rằng:
“Chẳng hay chơn nhơn có việc chi sai khiến?”. Thiên Dân thấy bốn vị thần đến, rất nên hung ác liền vội vàng cúi mình làm lễ, nói rằng:
“Xin phiền bốn vị đại vương, trấn giữ bốn cửa nơi trận tru tiên, nếu Tôn Tẫn đến đánh, thì cho vào chớ chẳng cho ra, xong việc rồi tôi sẽ đưa về, các thần quý vị”. Bốn vị thiên vương vâng chỉ lui ra, Thiên Dân lấy ra bốn bửu bối, nói với Thúc Đương rằng:
“Đạo huynh hãy đem cây tru tiên kiếm và đạo phu này qua cửa tru tiên, đến khi Tôn Tẫn vào trận rồi, ắt có người đến phá trận, đạo huynh hãy đốt linh phù, tự nhiên cây gươm ấy bay bổng trên không, xa trăm bước, chém đặng đầu người, rồi người ra tài phép của ngươi, dàn binh tướng nơi dinh phía đông rượt giết binh mã Lâm Tri, chẳng đặng trái lệnh.
Thúc Đương tiếp lấy phù kiếm, qua phía trấn giữ, Thiên Dân nói với tử Lăng rằng:
“Đạo huynh hãy cầm kim chung này, treo nơi cửa trảm tiên môn, và lãnh một đạo búa, hễ Tôn Tẫn vào trận rồi thì ắt có người đến phá trận, khi ấy ngươi sẽ đốt phù, gõ luôn ba tiếng kim chung, thì những tướng vào trận đều bắt xây xẩm mày mặt, té nhào xuống đất, rồi ngươi ra phép thần thông của ngươi, dẫn nhơn mã dinh phía tây, rượt chém binh tướng Lâm Tri, chẳng được trái lệnh”. Tử Lăng lãnh kim chung cùng linh phù, qua cửa tây trấn giữ. Thiên Dân nói với Tần Mãnh rằng:
“Đạo huynh hãy đem cái ngọc khánh này, treo nơi cửa triệt liên môn, và một đạo linh phù, hễ Tôn Tẫn vào trận rồi, thì đốt bàu đánh ba tiếng khánh, chẳng luận tiên phàm, đều phải hôn mê té nhào xuống đất, rồi ngươi kéo binh dinh phía nam, rượt theo mà giết binh Lâm Tri, chẳng nên chậm trễ”. Tần Mãnh tiếp lấy khánh phù lui ra. Thiên Dân nói với Huệ Trân rằng:
“đạo lãnh đạo linh phù, hễ Tôn Tẫn vào trận, thì có người đến tiếp ứng, ngươi hãy đốt bùa phất cờ lên, chẳng luận tiên phàm, đều phải tan hồn mất phách, chừng đó ngươi sẽ dùng phép lực, dẫn binh ra phía bắc, đánh giết tướng Lâm Tri”. Châu Huệ Trân lãnh cờ bùa lui ra.
Thiên Dân lấy một đạo bùa cầm nơi tay, miệng niệm chơn ngôn, dùng lửa đốt lên, bỗng thấy một đội âm binh phi sa tẩu thạch, đầu trâu mặt ngựa, đứng phân hai hàng ở giữa một vị quỷ vương, mình cao trượng sáu, mặt như sắc đất, bốn răng đều lộ, đầu mọc hai sừng, bên tả mang cung, bên hữu mang tên, tay cầm lang nha bổng, mười phần hung ác, đến giữa pháp đài cúi mình thi lễ, hỏi rằng:
“Pháp sư có việc chi sai khiến”. Thiên Dân nói:
“Nay bốn cửa trận tru tiên đều có oan hồn, chó đen, gà đen, trâu đen, ngựa đen, và quỷ hồn đàn bà chửa, cùng con trai, con gái, xin cậy tôn thần bốn cửa tuần do, hễ Tôn Tẫn vào trận rồi, thì dẫn chúnt quỷ hồn ngăn giữ, chận chẳng cho trở lại, nếu trái lịnh cứ theo thiên thơ biếm truất”. quỷ vương vâng chỉ lui ra, Thiên Dân lấy hai cây cờ nhựt tinh, thì viết bốn chữ:
“Ngọc thố tan hình, lấy một cái hộp đựng mười tám hột kim sa, còn một thạch tám đấu chia ra mười tám chỗ, đề phòng ứng dụng, các việc bày trí xong rồi, bèn cầm cây cờ thất kinh hươi phất ba lần, tức thì trong trận tru tiên âm phong thảm thảm, oán khí đằng đằng, trời đất tối tăm, thiên hôn địa ám, Thiên Dân bước xuống pháp đài, bới đầu đội mão, vào trướng ra mắt Thủy Hoàng, sửa soạn sáng ngày cùng với Tôn Tẫn đối tài.
Nói về Tôn Tẫn đang ngồi trong dinh, vận động ngươn thần qua đếncanh ba, xảy đâu trong lòng hồi hộp, bứt rứt tâm thần ngồi đứng chẳng an, thịt nhảy tưng bừng, tóc như người giựt, bên tai nghe có tiếng kêu réo om sòm, vội vàng lần tay đoán quẻ, trước biết nguồn cơn, thở dài một tiếng mà nói rằng:
“Nạn ta đã đến rồi”. Bèn hỏi:
“Bây giờ tới phiêu trò nào chầu chực đây?”. Khoái Văn Thông thưa rằng:
“Có cháu hầu đây?”. Tôn Tẫn nói:
“Cháu hãy đi cùng ta”. Văn Thông nói:
“Đang lúc nửa đêm bác đi đâu bây giờ? . Tôn Tẫn nói:
“Cháu hãy theo ta ra ngoài trướng”. Nói rồi bước xuống thanh sạ Văn Thông theo ra sau khỏi trướng. Tôn Tẫn ngước mặt lên xem thấy thất kinh, hồn bay ngàn dặm, giây lâu tỉnh lại, than rằng:
“Tai nạn đến rồi, số trời khó trốn”. Văn Thông lấy làm lạ, hỏi rằng:
“Vì sao mà sư bá xem trời, lại có việc chi kinh sợ lắm vậy?”. Tôn Tẫn nói:
“Cháu hãy coi sao bổn mạng của ta đi đâu mất rồi”. Khoái Văn Thông nghe nói ngước mặt lên xem, tinh đâu đầy trời tư bề chói rạng, mà chẳng thấy sao bổn mạng của sư bá mình. Tôn Tẫn nói:
“Sao bổn mạng của ta bị người thâu rồi”. Văn Thôngnói:
“Sao bổn mạng của sư bá ai mà dám thâu”. Tôn Tẫn nói:
“Cháu không rõ đặng, nhơn vì Huỳnh Thúc Đương bị thua, nay nó lên núi tru tiên, tuy rằng yêu đạo rất nên độc ác, song cũng bởi đại nạn của ta tới rồi, nólàm phép cầu hồn mà thâu sao bổn mạng ta, trong bốn ngày mạng ta phải khốn chẳng còn, công ta tu luyền bấy lâu, một ngày mạng ta phải khốn chẳng còn, công ta tu luyện bấy lâu, một mảy hết rồi, tranh danh đoạt lợi có chi đâu, nếu ngày mai nạn lớn khó gìn, dẫu mà danh vào bực tiên cũng uổng, chẳng làm gì”. Văn Thông nói:
“Nếu nó vào bực tiên cũng uổng, chẳng làm gì”. Văn Thông nói:
“Nếu nó bày trận ra mà ta đừng phá, thì có sợ chi mà sư bá phải lo sợ lắm vậy”. Tôn Tẫn mỉm cười nói rằng:
“Trận tru tiên này, vì chẳng phải tầm thường như mấy trận khác đâu, đi cũng chết không đi cũng chết, ta tưởng khi có người đến cứu chẳng không, nay có một lá thiệp này, ta giao cho ngươi, nếu ta vào trận ba ngày rồi ngươi sẽ giở thiệp ấy coi đó mà làm, còn việc binh tinh ta giao cho ngươi chưởng quản, chẳng nên phát binh sai tướng ra trận, hãy ghi nhớ lời ta”. Dặn dò rất thiết, rồi vào trướng lấy một lá thiệp giao cho Văn Thông, Văn Thông lãnh thiệp xong rồi kế trời vừa sáng, Tôn Tẫn lên trướng, bỗng có quân báo rằng:
“Góc bên đông nam dinh Tần bày một trận, mười phần nghiêm chỉnh nên tôi phải vào thông báo, xin vương gia liệu định”. Giây phút quân kỳ bài vào báo nữa rằng:
“Bèn dinh Tần có vị đạo nhơn cỡi nai cầm trượng ơ?
trước cửa dinh kêu đánh, và mới vương gia ra nói chuyện!”. Tôn Tẫn nghe nói truyền đánh trống nhóm tướng, chẳng chúng tướng lớn nhỏ kéo vào ra mắt. Tôn Tẫn nói với chúng tướng rằng:
“Từ lúc ta xuống núi Thiên Thai đến nay ngỡ là trảcái thù cho cha, anh được, chẳng dè gặp lấy Huỳnh Thúc Đương, nó thinh thằng yêu đạo, ở núi vạn Huê Sơn, là Ngụy Thiên Dân xuống đây bày một trận tru tiên, nơi góc đông nam, nó đang ở dưới dinh khiêu chiến, phen này ta ra trận ắt là hung nhiều kiết ít, chúng vị tướng quân phải cho hết lòng, gìn giữ đại dinh, chúng ngươi chẳng nên trái lệnh”. Tôn Yên nói:
“Vì cớ nào tam thúc sợ nó lắm vậy, tôi tưởng một cái trận này có khó chi, tôi chẳng dám khoe khoang lỗ miệng, lúc nọ trên núi Kinh Kha ngũ hô?
quân tôi đơn thương độc mã, đạp phá trận ngũ hổ quân vương của nó, đánh giết binh Tần vỡ mật một ngày một đêm còn chẳng vây tôi được huống chi tam thúc thần thông quảng đại, chẳng những là một trận mà thôi, dẫu có trăm trận đi nữa cũng không làm gì, tam thức sợ nó làm chi”. Tôn Tẫn nói:
“Ngươi chưa rõ, trận này chẳng phải như khác đâu, kêu là Kim sa tru tiên trận, trong trận có thiên thần tướng, âm linh quỷ hồn, yêu pháp tà bửu, rất nên lợi hại”. Lý Tòng nói:
“Đệ tử theo thầy xuống núi, nguyên vì báo phò sư phụ đến đây, hôm nay thầy vào trận tôi tình nguyện theo thầy bảo hộ, có sợ gì thêm thần thiên tướng, duy có một cây đao của tôi dẫu nó có bày trận thâu ngưu (là nói trận lớn nuốt trâu được) đi nữa, thì cũng chặt nhào, máu trôi như biển, xin cho tôi đi cùng”. Tôn Yên cùng các vị học trò, đều rập đầu lên nói rằng:
“Tôi xin theo vào trận”.
Chương 16 : Bá Linh mình hãm Kim Sa trận; Ba trò bỏ mạng cửa Tru tiên
Nói về Tôn Tẫn xem thấy chúng học trò xin theo phá trận, thì nạt lớn rằng:
“Rất chướng cho bọn mi, không phải là người mời ta đi ăn tiệc, mà hòng đòi theo, ta đã dạy chúng ngươi coi dinh ngăn ngừa binh Tần đến phá là việc rất trọng”. Chúng tướng nghe nói chẳng dám xin theo, phát ba tiếng pháo, cờ dẫn tiên đi trước, chúng học trò phân ứng hai bên, Tôn Tẫn cỡi trâu xuống đến trước trận, xem thấymột người đạo nhơn, mặt như mãn nguyệt, hạc phát đồng nhan (nghĩa là tóc bạc mà sắc còn trẻ) cỡi nai cầm trượng, thì biết là Ngụy Thiên Dân bèn vòng tay nói:
“Xin chào chơn nhơn, chẳng hay chơn nhơn tu luyện núi nào? Đạo hiệu là chỉ” thiên Dân cũng vòng tay đáp lễ, hỏi rằng:
“Có phải là Nam quân vương Tôn Tẫn đó chăng? Tôi vẫn ở núi Vạn Huê, động Vạn Huê, Luyện khí tên Ngụy Thiên Dân”. Tôn Tẫn nói:
“Té ra Ngụy chơn nhơn đó, tôi có lòng ngưỡng mộ đã lâu, chẳng hay tôi có điều chi lỗi, xúc phạm chơn nhơn, đến nỗi chơn nhơn xuống núi, cùng tôi đối địch”. Thiên Dân đáp rằng:
“Nam quân vương! Vốn người không có can phạm chi đến ta, mà cũng không có lỗi chi với ngươi, nguyên vì Tần Thủy Hoàng vâng sắc Ngọc đế, cùng phật điệp, dấy binh gồm thâu sáu nước, vây thành Dịch châu, ngươi lại dám cãi trời, ỷ có thần thông phó giúp giang san nước Yên, gậy đánh Vương Tiễn, lửa đốt Tử Lăng, lại làm cho Huỳnh Thúc Đương cả thua, khi người đồng đạo thì cũng đủ rõ cái tài giỏi của ngươi rồi, nay ta xuống đây, khuyên ngươi về dinh bảo Chiêu Vương nạp biểu xưng dân đồ thán”. Tôn Tẫn cười rằng:
“Ngươi biết có một, chớ chẳng biết hai; số là cha, anh, cháu của tôi, một nhà bốn mạng, đều chết nơi tay Vương Tiễn, nay tôi xuống núi, chẳng dám nói đến việc trả thù nhà, vì mẹ già tuổi lớn, nên xuống đây mai táng cha, anh xong rồi thì trở về động, chẳng dè Vương Tiễn đem binh đến cùng tôi giao chiến, tôi há dung được sao, vốn nhân việc cha, anh nên phải xuống phàm, lại xuống chi chốn hồng trần, cũng vì một lời nói, giận àm xuống núi tranh danh đoạt lợi, há chẳng phải là dại sao, phải chi tôi thì chẳng làm như vậy”. Ngụy Thiên Dân nói:
“Mi chớ già hàm nói phách, ta chẳng thèm cùng mi đánh đập làm chi, nay ta có bày một trận nhỏ nơi góc đông nam, nếu có tài chí giỏi, dám vào trong trận ta, rồi trơ?
ra cho được, thì ta tâu cùng Thủy Hoàng, rút binh giải hòa, bằng ra không khỏi trận, chớ trách lòng ta sao độc hiểm”. Tôn Tẫn nghe nói giận lắm, nạt rằng:
“Nhà ngươi tài phép bao nhiêu, dám buông lời nói phách, hãy dẫn đường cho mau, nếu ta không phá cái trận này, thì chẳng phải động Thiên Thai Quản văn tử”. Ngụy Thiên Dân nghe nói, liền quày mai huê lộc chạy về cửa trận. Tôn Tẫn giục thanh ngưu rượt theo, bỗng nghe sau lưng lạc ngựa vang tai, quay đầu xem thấy mười hai tên học trò chạy theo. Tôn Tẫn nạt lên rằng:
“Bọn ngươi chớ theo, nếu bọn ngươi chẳng chịu giữ dinh, để ta đánh trước bọn ngươi một gậy, thà chết nơi tay ta còn hơn chết nơi tay người khác”. Chúng nhân nghe nói, dừng ngựa chẳng dám chạy theo, còn Tôn Tẫn cứ rượt theo Ngụy Thiên Dân. Lúc ấy có người báo cùng Vương Tiễn, Vương Tiễn nghe báo rất mừng nói:
“Thằng cụt hôm nay trúng kế của Chơn nhơn ta rồi”. Truyền lệnh ba quân tránh đường, Tôn Tẫn quất trâu qua khỏi vòng ngoài trận tru tiên. Lúc ấy Thiên Dân đi trước Tôn Tẫn theo sau, nhắm phía đông thẳng tới. Thiên Dân đi tuốt lên pháp đài, nắm cờ thất tinh phất luôn ba cái, tức thì trong trận trời đất tối tăm, giơ tay chẳng thấy. Tôn Tẫn vội vàng lấy cây Hạnh huỳnh kỳ, phất ra chói sáng một đường, xem thấy trận tu tiên quả nhiên lợi hại, gió lạnh lùng thâu cốt, khí thảm thiết mịt trời, bốn phương tám hướng đều có thần tướng ngăn giữ, bốn cửa treo bốn cái bửu bối. Tôn Tẫn nạt rằng:
“Yêu đạo ta cùng mi vốn chẳng cứu thù, sao mi lại lập một tòa ác trận như vầy, phải chi người khác vào trận, thì ắt khôn toàn tánh mạng”.
Nói rồi quay đầu ngó giữa trung ương, xem thấy trước pháp đài có một cái hầm rất sâu, bốn phía có bốn vị thiên vương trấn giữ, trên có ông Thác thiên vương. Tôn Tẫn giận nói:
“Cái hầm này là hầm tru tiên, tánh mạng ta phải khồn tại chỗ này”. Lại thấy dưới pháp dài bốn mươi chín tên quân, tay cầm cờ giấy, trên đài kêu Tôn Tẫn, dưới đáp tới rồi. Tôn Tẫn thấy vậy trong lòng giận lắm, nói:
“Ta không mất hồn, sao bây kêu réo tên họ ta như vậy? Đây là yêu đạo nó làm phép cho đó”. Ngó thấy Thái Bạch tinh quân, đang giữ một cái hộp nhỏ. Tôn Tẫn nghĩ thầm rằng:
“Trong cái hộp này, chắc là sao bổn mạng của ta, chi bằng ta tuốt lên, đánh Ngụy Thiên Dân, giơ?
hộp ra thả sao bổn mạng về trời, thì ta ra trận rất dễ”. Nghĩ rồi giục thanh ngưu tuốt lên pháp đài, Thiên Dân xem thấy, nói:
“Thằng Cụt, mi tưởng lên đây mà đánh được ta sao?”. Liền giở hộp lấy một hột kim sa, cầm nơi tay nạt lớn rằng:
“Tôn Tẫn chớ nên vô lễ, hãy coi kim sa của ta”. Nói rồi liệng giữa thinh không xem thấy muôn đường chói sáng, nhắm Tôn Tẫn bay lại, Tôn Tẫn xem thấy nhìn biết kim sa là vật báu, lật đật lấy hạnh huỳnh kỳ phất lên, hào quang sáng ngời, ngăn đỡ kim sa, Ngụy Thiên Dân xem thấy cả kinh, nói:
“Thằng cụt rất nên lợi hại, quả thật phép lực thần thông”. Bèn vội vàng lấy kim sa liệng nữa. Tôn Tẫn thấy hạnh huỳnh kỳ chẳng lui đặng kim sa, duy ngăn đỡ mà thôi, trong lòng hoảng kinh, lại thấy trên pháp đài, kim sa bay xuống như mưa, thì là xong, vội vàng lấy huỳnh kỳ phất luôn ba cái, nguyên cớ hạnh huỳnh lui chẳng nổi kim sa, song cũng che đỡ được, bỡi vì Tôn Tẫn có nạn ấy, vốn kim sa là đồ phật môn rất báu. Thiên Dân liệng luôn ba bột, cờ hạnh huỳnh ngăn đỡ không kịp. Xảy nghe một tiếng vang rân, Tôn Tẫn người và trâu đều rơi xuống hầm vãi xuống, giây phút thành ra một tòa núi đất, bốn phía đều có thần tướng trấn giữ.
Ngụy Thiên Dân đem bửu pháp đè lên, rồi lạy Châu, Tần Huỳnh, Kim, bốn vi.
đạo nhơn gìn giữ bốn cửa, phòng bị người tiên đến cứu, thiệt là tháp cánh khó bay khỏi đặng, Thiên Dân thót lên mai huê lộc ra khỏi trận trở về dinh Tần, ra mắt Thủy Hoàng đem việc vây cầm Tôn Tẫn, mà thuật hết một hồi. Thủy Hoàng hỏi:
“Có làm cho Tôn Tẫn chết thiệt được chăng?”. Thiên Dân nói:
“Như kế phàm nhân mà mắc kim sa trong một khắc liền tiêu ra máu mủ, còn như Tôn Tẫn là thiên hạ đại tiên, hay vận khí tàng hình, lại có cờ hạnh huỳnh hộ thân nên không làm cho nó chết gấp được, để tôi mỗi ngày vào trận đánh nó ba hột kim sa, chẳng qua sáu ngày, không còn tánh mạng”. Thủy Hoàng nghe nói rất mừng, liền truyền bày tiệc chay thết đãi.
Nói về bên dinh Yên, mười hai tên học trò cùng một phe hổ tướng, xem thấy Nam quận vương vào trận, một ngày một đêm chẳng thấy ra, người người đều sợ. Lý Tòng nói với chúng tướng rằng:
“Sư phụ vào phá trận đã một ngày một đêm, bặt âm vô tín, các anh để vậy ngồi mà ngó sao? Tôi tình nguyện đánh vào trận đặng thăm nghe tin tức sư phụ kiết hung thế nào?”. Khoái Văn Thông nói:
“Lý tướng quân không nên vội gấp, tôi tưởng có khi sư bá vào trận, chẳng có hại gì, lúc sư bá ra trận thì dặn dò đôi ba phen, bảo chúng tướng giữ gìn đại binh chẳng cho vào trận, sợ e sa cơ thất thế, tướng quân chớ đi thì hay hơn, và có một lá thiệp của sư bá để lại, qua một ngày nữa sẽ giở ra xem, chúng ta cứ theo trong thiệp mà làm thì xong”. Lý Tòng nói:
“Ngươi phân lời ấy chẳng là thong thả lắm sao? Nếu sư phụ ngươi bị người ta vây khốn thì ngươi có nóng hay là chẳng nóng? Nay thầy mắc nạn bọn ta là học trò chẳngđi cứu giúp thì dùng bọn ta làm gì?”. Chúng tướng nói:
“Lời Lý ca rất phải, thôi bọn ta phải đi hết một lượt mới xong”. Lý Tòng nói:
“Liệt vị chẳng nên đi hêt một lượt, hãy ở lại giữ gìn đại dinh, để tôi vào trước thăm nghe sư phụ Ở chỗ nào, bằng cứu ra không được, khi ấy kiệt vị sẽ đi, cũng chẳng muộn chi”. Văn Thông nói:
“Lý tướng quân chớ đi thì hay hơn, tướng quân hãy xem nơi trận đó mà coi, hào quang xông ra lên chẳng dứt, không phải là việc chơi đâu”. Lý Tòng đâu khứng nghe theo, bèn một mình nhắm trận tru tiên chạy tới miệng kêu lớn rằng:
“Hãy thả thầy ta ra, thì muôn việc đều thôi bằng để chậm trễ, ắt bọn ngươi người người đều làm quy?
không đầu”. Quân giữ dinh xin chúa tướng liệu định”. Yên Dịch nghe báo, vội vàng đề thương lên ngựa, phát pháo ra dinh, xem thấy Lý Tòng thì nạt rằng:
“Cả gan cho tướng Yên! Sao dám đến đây phá trận, hãy không tên đã”. Lý Tòng xem thấy một viên tướng Tần, thương dài ngựa đen, oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng bèn nạt rằng:
“Ta ở động Thiên Thai học trò ủa ông Liễu nhứt chơn nhơn, là hổ tướng Lý Tòng, Tần tặc, mau thả thầy ta ra thì thôi, bằng để diên trì ắt đầu ngươi phải đứt dưới cây đao này”. Yên Dịch cả giận, đáp rằng:
“Thằng thất phu! Thầy mi đã chết trong trận rồi, mi có tài chi giỏi, dám đến đây phá trận”. Nói dứt lời hươi thương đâm tới, Lý Tòng đỡ khỏi, vội vàng rước đánh, đánh được vài mươi hiệp, Yên Dịch thua chạy về dinh. Lý Tòng chẳng rượt theo, xông phá binh Tần, chạy riết vào trận, chạy tới cửa trận, xem tối tăm mù mịt chẳng biết đông, tây, bèn nghĩ thầm rằng:
“Trong này sao lại tối tắm lắm vậy, thôi chẳng kể đến việc ấy, ta hãy tuốt vào coi thử thế nào”.
Vừa muốn cất chân, bỗng nghe pháo nổ, xông ra một con mãnh hổ, ngồi trên một người đạo nhơn, tay cầm liên huê kiếm, nạt rằng:
“Thằngnào mà dám xông vào trận tả”. Lý Tòng đáp rằng:
“Ta là hổ tướng Lý Tòng đây, yêu đạo, mi bắt thầy ta đem đi chỗ nào?”. Huệ Trân nói:
“Mi hỏi thầy mi, vậy mi hãy coi nơi đó”. Lý Tòng giận lắm nạt rằng:
“Mi chớ nói bậy”. Liền xốc tới hươu đao đánh nhàu. Huệ Trân hươi kiếm rước đánh, hai người đánh chưa được và hiệp, Huệ Trân quày cọp chạy vào trận, Lý Tòng chẳng rõ lợi hại, co giò rượt theo, vừa đến cửa hãm tiên, xảy thấy âm phong thăm thẳm, sát khí đằng đằng, xem thấy một vị thần, mình cao hai trượng, cỡingựa ô chùy, mặt áo bào đen, mặt đen như sắt, xông ra đón đường, Lý Tòng xem thấy, hồn vía đều bay, quay mình bỏ chạy, , Huệ Trân xem thấy rõ ràng liền đốt linh phù, cầm cây lạc hồn phong, nhằm ngay Lý Tòng phất luôn ba cái, giây phút Lý Tòng đầu nặng chân nhẹ, hôn mê bất tỉnh, té nhào xuống đất, làm cho kinh động mấy con quỷ bị chôn khí ấy, áp ra bắt Lý Tòng, kẻ trì người kéo, Huệ Trân xông ra hươi đao nhắm thẳng ngay đầu chém xuống. Hỡi ôi! Anh hùng chưa bước lăng vân các, hồn phách sớm về hãm tiên môn. Tôn Tẫn đương ở dưới kim sa trong lòng hồi hộp lần tay đoán biết khóc rống lên rằng:
“Khá thương người cái thế anh hùng chẳng nghe lời ta dạy bảo, đến nỗi bị chết nơi cửa hãm tiên, lại hết một cánh tay ta rồi.
Nói về trong dinh Yên mười hai tên học trò, xem thấy Lý Tòng vào trận chẳng thấy trở ra, người người đều nóng nảy muốn cùng nhau áp ra phá trận, ngặt vì Văn Thông thay việc quân tình, nên chúng anh hùng chẳng dám tự chuyên, đều tới trước mặt Văn Thông, xin lịnh đồng đi phá trận, Văn Thông nói:
“Không nên, không nên, nay Lý tướng quân vào trận, ắt hung nhiều hiết ít, theo trí mọn tôi tưởng, thì chúng vi.
tướng quân không nên vào trận đâu, chi bằng nghe theo lời sư bá, chờ đến ngày mai giở thiệp ra coi, dạy bảo thế nào rồi sẽ toan liệu”. Chúng tưởng cầu xin nói rằng:
“Sư thúc bá chẳng biết nhà nghèo sanh con hiếu, nước loạn có tôi ngay, hôm nay sư phục gặp nạn, vả lại Lý sư huynh đi chẳng thấy về, mà bọn ta khoanh tay ngồi ngó, người ta há chẳng chê cười sao? Nếu chẳng cho bọn tôi đi, thì bọn tôi cũng xin chết một lượt nơi trước trướng”. Văn Thông thấy vậy trong lòng rất lấy làm khó, ngầm nghĩ rồi nói rằng:
“Chúng vị tướng quân cũng khăng khăng quyết đi phá trận thì thôi, tôi cũng chẳng dám hết lời ngăn cản, song dữ dinh là việc rất trọng, hoặc là một hai người vào trận, còn bao nhiêu ở lại giữ dinh, ấy là vạn toàn chi thế đó”. Chúng tướng nói:
“Lời sư huynh phân rất phải”. Rồi người này đòi đi, người kia đòi đi, giành nhau mà đi hết. Văn Thông nói:
“Chúng tướng chớ tranh luận làm chi, thôi để tôi viết tên các vị vào giấy, rồi cuốn lại, trộn lại mà bỏ trong bình chúc cáo trời đất, lấy đũa gắp ra nhằm tên ai thì người ấy sẽ đi”. Chúng tưởng nghe nói cả mừng, Khoái Văn Thông vội vàng cuốn giấy mà bỏ vào binh, truyền bày hương án, bổn thân khấn vái một hồi, dùng đũa gắp ra hai cái, chúng nhân đứng vây chung quanh, giở ra xem thấy tên ngô Thắng, mã Thắng (vốn hai người ấy đại số tới rồi) nên trong lòng vui mừng nói rằng:
“Chúng vị anh em, không được giành nữa”. Chúng tướng nói:
“Hai vi.
có đi phá trận, thì phải hết lòng gìn giữ, nếu nghe được tin sư phụ, cùng sư huynh ơ?
chốn nào, mau về thông báo, cho bọn tôi an lòng”. Hai người ừ chịu từ biệt ra đi.
Văn Thông lại dặn dò đôi ba phen giữ gìn cho lắm. Hai người xuống trướng nai nịt dẫn nhân mã nhắm trận xông tới (đi phen này chẳng khác ong vào lưới nhện), có quân báo cho Chương Hàng. Chương Hàng vội kéo binh ra dinh, xem thấy hai tướng xông tới như bay, bèn nạt lớn rằng:
“Tướng Yên kia, chớ tới phá dinh bổn soái”. Hai người chẳng đáp lại, cứ hươi đao chém nhầu, đánh với Chương Hàng chưa được vài hiệp. Chương Hàng gạt đao ra một cái, binh Tần tránh vẹt hai bên, hai tướng xông qua dinh Tần, chạy tới trận tru tiên, đến cửa trảm tiên môn, ngó vô trong trận, mây đen mù mịt, mặt nhựt tối tăm. Mã Thăng nói với Ngô Thắng rằng:
“Trong trận này sư huynh ở chỗ nào?”. Ngô Thắng nói:
“Ta kêu lên thì xong”. Nói rồi hai người cất tiếng cả kêu:
“Sư phụ, sư huynh tôi là Mã Thăng và Ngô Thăng đến đây, thầy cùng anh ở chỗ nào?”. Tiếng kêu inh ỏi, làm cho vang động trong trận, Tử Lăng đốt một đao linh phù, xông ra một vị quỷ vương, tóc đỏ, mặt xanh tựa chàm, tay cầm ngân nha bổng, sau lưng theo một bầy quỷ hồn, con trai, con gái, gà, chó, ngựa, trâu, bi.
giết chôn lúc nọ ngăn cản đường đi, hai tướng xem thấy thất kinh, hồn bất phụ thể, vừa muốn quay ngựa bỏ chạy, xảy nghe một tiếng chuông kêu, Kim Tử Lăng niệm chú, đánh luôn vài tiếng kim chung, hai tướng ngồi không vững té nhào xuống ngựa.
Tử Lăng xốc tới chém đầu. Hỡi ôi! Ngô Thắng, Mã Thăng ở nước Tề, lập bấy nhiêu công cán, ngày nay đều chết dưới kim chung. Kim Tử Lăng trở ra đánh giết binh Yên, bêu thủ cấp hai tướng rồi trở vào.
Lúc ấy binh Yên chạy về phi báo. Chúng tướng Toàn Sơn nghe báo cả khóc. Tôn Yêngiận lắm nói:
“Yêu trận lợi hại như vầy, ta tuốt đến coi hư thiệt, đặng cố nghe tam thúc sống thác thế nào”. Nói rồi chẳng tuân lệnh Văn Thông, trở về dinh đội mão mặc giáp, nai nịt tề chỉnh thót lên bạch long câu, một người một ngựa, xông qua trận giặc. Quân vào báo với Văn Thông, Văn Thông chẳng biết làm sao, túng phải để cho va đi, rồi dặn người thám nghe trở về phí báo.
Nói về Tôn Yên đơn thương độc mã, nhắm tru tiên trận thẳng tới, một con ngựa một cây thương, gặp binh chém binh gặp tướng chém tướng, đánh một trận phá tandinh Tần, binh Tần nhìn biết Tôn Yên, đều la:
“Không xong. Tên tiểu tướng phá dinh ta, phải mau vào báo với hầu gia mới xong”. Nói rồi quất ngựa như bay, vào báo cùng Vương Tiễn. Vương Tiễn nghe báo cả mừng nói:
“Thằng oai gia hôm nay phá trận, ấy là số nó tới rồi. Chẳng cho ba quân ngăn trở, để cho hắn vào”. Binh Tần nghe lịnh truyền ra, có ai mà dám chọc với Tôn Yên, la lên một tiếng tránh vẹt hai bên. Tôn Yên rất mừng, giục ngựa long câu qua khỏi dinh Tần nhắm trận tru tiên xông tới, chẳng biết lành dữ thể nào, đánh phá vào trong xem thấy phong âm lạnh lẽo, cả mình chơn lông đều dựng chẳng khác nửa đêm trời tối giơ tay mà chẳng thấy bàn tay, trong lòng hoảng kinh nói:
“Trong trận làm sao tối đen mù mịt như vầy, nếu có binh tướng tới đành khó bề ngăn cự”. Liền gò ngựa long câu. Tôn Yên nói:
“Trận này rất nên lợi hại, khó tìm tam thúc, chi bằng trở ra thì xong”. Liền quày ngựa chạy trở ra, bỗng nghe một tiếng chuông kêu, một tên đạo nhơn đón đường nạt lớn rằng:
“Yên tướng chạy đâu?”. Tôn Yên giả không nghe, nhắm ngoài trận bỏ chạy. Huỳnh đạo nhơn vội vàng đốt lịnh phù, tức thì cây tru tiên kiếm bay xuống, Tôn Yên xem thấy hào quanh sáng ngời, có một cây bửu kiếm nhắm ngay đầu rớt xuống thì nói:
“Mạng ta phải khốn rồi”. Tức thì trên đầu hiện ra một con rồng vàng trương nanh vut mà đỡ cây gươm. Huỳnh Thúc Đương xem thấy cây tru tiên kiếm không giết đặng Tôn Yên, trong lòng thất kinh, vội vàng giục nai tới đánh. Lúc ấy Tôn Yên chẳng thấy bửu kiếm, bèn hươi xốc tới, đánh trận, Tôn Yên muốn rượt theo, sợ lợi hại gì”.
Nghĩ rồi giục ngựa long câu, nạt rằng:
“Yêu đạo, chạy đâu”. Đang rượt, bỗng thấy lô.
ra muôn đao kim quang, một tòa pháp đài, tức thì chẳng thấy đạo nhơn, Tôn Yên dừng ngựa ngừng thương xem thấy trong chỗ sáng ấy, có một tòa núi đất nhỏ, trên để một hòn núi đất, có bốn vị thiên tướng trấn giữ, mình cao vài trượng lớn như cây đại thọ. Tôn Yên sợ lắm, giục ngựa long câu, nhắm phía nam cửa triệt tiên thẳng tới, nguyên Tần Mãnh trấn giữ cửa này, xem thấy Tôn Yên tới cửa mình muốn phá mà ra, vội vàng đốt linh phù, tức thì Tiêu diện quỷ vương, dẫn các quỷ hồn xông rađón đường, tiếng khóc than thảm thiết, ngựa long câu thất kinh, ré hí mà chẳng dám đi, lạithấy một vị thiên thần, tóc đỏ, râu hồng, bốn cái răng cửa đều lộ, tay cầm Hỗ ngươn, xông ra đón đường. Tôn Yên thất kinh đang lúc bối rối, bỗng nghe một tiếng chuông kêu, chạy tới một người đạo nhơn, đầu đội kim thiếp, mặt như trùng táo, tay cầm lang nha bổng kêu lớn rằng:
“Yên tướng chạy đâu dớn dác vậy? Có ta đến đây”.
Tôn Yên nói:
“Yêu đạo, chớ đón đường ta, hãy thông tên họ mi cho ta rõ”. Tần Mãnh nói:
“Ta ở nui Linh Cầu, động Linh Cầu, Luyện khí sĩ Tần Mãnh đây, hôm nay mi vào cửa tru tiên này, thì chẳng khác dê kia vào hang cọp, chớ trông ra đặng, ta thấy mi còn thơ ấu, khá tiếc cho tánh mạng mi, chi bằng nghe lời mỗ xuống ngựa đầu hàng đặng ta tâu cùng Thủy Hoàng thì mi cũng đặng lên chức quan nhỏ mọn, nếu còn hung hăng thì ắt mạng ngươi chết liền trước mắt”. Tôn Yên cúi đầu ngầm nghĩ một hồi, nói thầm rằng:
“Thằng yêu đạo này kiếm lời dụ đỗ cho ta về đâu, thì ta cũng tương mưu kế gạt nó đặng cố thăm nghe tam thúc ra thế nào, rồi gạt nó mà ra sẽ lo liệu mưu toan”.
Chương 17 : Xông trận dữ, Tôn Yên về dinh; Nghe tin hương, Mã Linh kiến tử.
Nói về Tôn Yên thấy Tần Mãnh khuyên dỗ về đầu, bèn đáp rằng:
“Tiên trưởng!
Tôi là Tôn Yên, cháu của Tôn Tẫn đây, nếu tiên trưởng kêu đặng chú tôi ra cho tôi thấy mặt, và người phá trận bữa trước là Lý Tòng ra đây đặng tỏ cùng tôi cho minh bạch, rồi tiên trưởng đặt tôi ra khỏi trận thì tôi về đâu”. Tần Mãnh cười rằng:
“Mi muốn thấy chú mi, thì hãy xem giữa tòa thổ sơn kia, chú mi bị chôn nơi dưới ấy”.
Tôn Yên nói:
“Chú ta tài hay dời non đổi biển, có lẽ đâu một cái tòa thổ sơn nho nho?
há đi đè nặng chú ta sao? Mi chớ gạt ta” Tần Mãnh nói:
“Mi đâu rõ vật báu của đạo tiên ta, hòn núi ấy vốn là kim sa hóa ra đó, tuy có phép ngũ độn tam sát đi nữa cũng chẳng ra khỏi đặng, còn Lý Tòng lúc đánh phá trận chẳng có đi ngang phần đất ta giữ nên ta không biết, tưởng khi nó là đứa phàm phu có đâu mà ra khỏi đặng”. Tôn Yên nói:
“Nếu vậy ngươi hãy dẫn đường cho ta ra khỏi trận”. Tân Mãnh cười rằng:
“Lời ngươi phân rất dễ, muốn cho ta dẫn ra khỏi trận, trước phải xuống ngựa chỉ trời nguyện, ta sẽ dẫn ra”. Tôn Yên nói:
“Ta cũng muốn ngựa thề đó chút, ngặt vì cái này của ta nó không chịu”. Tần Mãnh hỏi:
“Cái gì của mi không chịu”. Nói dứt lời nhắm ngay mặt Tần Mãnh đâm tới, Tần Mãnh giận lắm hươi lắm bỗng đỡ khỏi, hai người đánh vùi đến mười hiệp. Tần Mãnh cả thua bỏ chạy, Tôn Yên giục ngựa đuổi theo, Tần Mãnh vội vàng lấy đá nhủ quang liệng lên, kêu lớn rằng:
“Tôn Yên, hãy coi bửu bối của ta”. Tôn Yên xoay đầu ngó thấy năm sắc chói sáng, nhắm ngay đầu bay lại, liền la:
“Không xong”. rồi cúi đầu chịu chết, lòng đang bấn loạn, phút đâu trên thiền môn, chơn thần xuất hiện đánh thần thạch rớt xuống. Tần Mãnh xem thấy cả kinh giục thú nhắm trúng ương chạy tuốt, Tôn Yên rượt theo, nghĩ thầm rằng:
Ơ?
trước có thần tướng ngăn giữ, liệu bề khó ra khỏi đặng, chi bằng ta qua phía bắc xong hơn”. Bèn giục ngựa long câu nhắn trên núi thổ sơn chạy ngang qua phía bắc.
Đang chạy bỗng có một luồng gió, nghe có tiếng người kêu nói rằng:
“Tiểu tướng quân, có mỗ là Lý Tòng đây, bị kim sa đè, song chưa chết, nay ta hiện hồn giúp ngươi mà xua đuổi những oan hồn tan hết, thì ngươi ra trận rất dễ”. Nói rồi luồng gió bay nhập vào trên mão Tôn Yên, cái hồn Lý Tòng làm cho kinh động nơi chỗ thiên môn của Tôn Yên xẹt ra một lần bạch khí chói sáng ngời ngời. Lúc ấy Tôn Yên ngó thấy xa đặng trước ngựa có một vầng hắc khí, thì biết đó là hồn phách Lý Tòng, bèn kêu rằng:
“Lý tướng quân, lòng trung vì nước bảo hộ giúp ta, xin nhờ thần oai tướng quân đánh ra khỏi trận, về trào ta sẽ tâu cùng yên vương, lập miễn đèn công cho tướng quân”. Nói rồi giục ngựa long câu nhắm phía bắc chạy nhầu, lúc ấy Châu Huê.
Trân biết rằng:
“Tôn Yên phá tru tiên trận ra không đặng, chắc làm sao cũng phá tới cửa mình, bèn đốt linh phù cầm cờ lạc hôn nơi tay mà phất, ngó thấy Tôn Yên đến gần liền hươi cơ phất luôn ba cái, nạt rằng:
“Tôn Yên sao chẳng xuống ngựa còn đợi chừng nào?”. Xem thấy Tôn Yên ngồi tự nhiên trên ngựa, chăng đi động chút nào (vốn Tôn Yên nhờ có ngươn thần xuất hiện bảo hộ trong mình, còn ngoài thì có Lý Tòng phụ giúp nên chẳng hề chi) thì giận bỏ cờ lạc hồn quất cọp hươi gươm ra đánh Tôn Yên, hai người đánh đến vài mươi hiệp, Tôn Yên là một viên chiến tướng mạnh suốt ba quân, Huệ Trân không phải là người đối thủ, tay đỡ ngân kích của Tôn Yên trong bụng nghĩ thầm rằng:
“Thằng tiểu tử này, võ nghệ cao cường khó bề hơn đặng, chi bằng dùng pháp bửu giết nó hay hơn”. Nghĩ rồi vội vàng lấy hỏa lô miệng niệm chơn ngôn, vực lửa ra đốt Tôn Yên, Lý Tòng thấy lửa rất nên hung ác, nhắm ngoài trận quất ngựa chạy tuốt. Huệ Trân ở sau rượt tới, Lý Tòng vội vàng cản chẳng cho quỷ hồn ngăn đón.
Lúc ấy thiên binh tướng xem thấy trên đầu Tôn Yên rồng vàng xuất hiện, thì biết va ngay sau ắt có đại phước, đều tránh vẹt hai bên, Tôn Yên một người một ngựa xông ra khỏi trận, khá thương cho Tôn Yên ở giữa trận rộn ràng mồ hôi ướt giáp, Huệ Trân thấy Tôn Yên phá ra khỏi trận, thì chẳng rượt theo nữa, quày cọp trở về lờ mờ chẳng thấy, bèn nhắm mặt định thần, lúc ấy ngươn thần nhập vào mở mắt xem thấy mặt trời chói sáng, trong lòng rất mừng, tinh thần càng thêm mạnh mẽ, hét lên một tiếng, giục ngựa hươi thương chạy xông qua dinh Tần, binh vào phi báo với Yên Dịch, nói:
“Không xong, thằng Tôn Yên xông ra khỏi trận Du Tiên, bây giờ chạy đến phần đất lão gia, phải ra mau mà bắt nó”. Yên Dịch nghe nói thất kinh, sai người chạy vào báo cho ba trại hay, còn mình dẫn binh ra phủ vây Tôn Yên, đánh giết một trận rất nên dữ tợn, đang đánh bỗng nghe pháo nổ liên thinh, tiếng quân la dậy, xem thấy Vương Tiễn dẫn binh phía đông đánh tới. Chương Hàng dẫn binh phía tây đánh lại, còn phía nam Anh Bố kéo binh đánh vào, vây phủ bịt bùng. Tôn Yên một tay thì hươi thương, một tay thì cầm ngân trang giản, trên che mình, dưới che ngựa, thiệt là một đứa liều mình, muôn người khó cự. Tôn Yên ở trong dinh Tần giết một vòng, còn một vòng ngoài nữa, binh Tần chẳng chịu thối lui. Tôn Yên cả giận, nạt rằng:
“Thiệt rất chướng cho đồ thất phu, rất đỗi thiên thần thiên tướng trấn giữ bốn cửa tru tiên, phép lực dường nào ta còn phá ra được thay, huống gì bọn bây là loài chuột lũ chồn, mà dám ngăn cản ta”. Nói rồi ra sức đánh vùi.
Nói về Tần Thủy Hoàng cùng Ngụy Thiên Dân đang ở trong dinh, bàn luận việc thuật phép trường sanh, xảy thấy quân vào báo nói:
“Có Tôn Yên phá ra khỏi trận tru tiên, xin bệ hạ định liệu”. Thủy Hoàng nghe báo, thất kinh nói rằng:
“Tôn Yên chẳng qua là một tên dõng phu mà thôi, làm sao mà nó xông được trận tu tiên, trẫm tưởng lại Tôn Tẫn có ba cuốn thiên biến vạn hóa, còn phải mắc trong trận mà ra chẳng đặng thay, nay thằng tiểu tướng này, chạy ra khỏi được vây binh tướng phải đề phòng mà bắt nó mới xong”. Ngụy Thiên Dân nghe nói, lần tay đoán biết, nói rằng:
“Bên hạ chưa rõ, vốn Tôn Yên mạng phước lớn lắm, các thần chẳng dám trái lời làm quấy, xin bệ hạ kíp sai binh ra mà vây nó, nếu bắt sống được Tôn Yên, thì Chiêu Vương tự nhiên về đâu”. Thủy Hoàng liền truyền chỉ bốn mươi tên địa tướng vâng mạng để đao lên ngựa, xông ra trợ chiến.
Nói về bọn Vương Tiễn vây Tôn Yên ở giữa, bị Tôn Yên tả xông hữu đột, đánh giết rất hăng, ngựa ngã người nghiêng, miệng đà thở dốc, xảy đâu có đạo binh mới, áp vào vây đánh, làm cho Tôn Yên mũi thương lết bết, chân ngựa thối lui, trong lòng bấn loạn, tưởng rằng:
“Mạng ta phen này hết rồi”. Đang lúc nguy cấp, xảy thấy trước đầu mùi mịt, cát bay đá liệng, binh Tần vỡ chạy, bọn Chương Hàng cùng bốn mươi đại tướng, mở mắt không ra, bị đá liệng thương tích rất nhiều, la lên một tiếng rút binh lui hết, Tôn Yên rất mừng, xem thấy gió càng trong, ở trước đầu ngựa, binh Tần đứng không vững, té lăn dồn cục. Tôn Yên giục ngựa đánh nhàu mà chạy. Yên Dịch bị thua chạy trước, Tôn Yên ở sau đuổi tới, bỗng thấy luồng gió trước đầu ngựa xô sấp Yên Dịch té nhào xuống đất, Tôn Yên bước tới hươi kích nhắm ngay yết hầu, đâm vào chết tốt, tức thì luồng gió lặng trang Tôn Yên quất ngựa chạy tuốt về dinh.
Nói về chung tướng bên Tần bị thua, chạy về dinh tâu rằng:
“Tôn Yên chạy khỏi, còn Yên Dịch bị thác nơi giữa trận rồi”. Thủy Hoàng nghe tâu cả kinh, bèn dạy Lý Thiệt, ra thống lãnh binh mã nơi phía bắc, mà thế cho Yên Dịch.
Nói về Khoái Văn Thông, thấy Tôn Yên đi trọn ngày mà chẳng về dinh, trong lòng kinh sợ không xiết, giây phút quân vào báo nói:
“Tôn tướng quân phá dinh Tần đã về, còn đang xuống ngựa nơi ngoài cửa dinh”.
Van Thông bước ra nghinh tiếp, xem thấy Tôn Yên trên dưới cả mình những máu, con bạch long mã cũng hóa ra con xích quỷ mã, chúng tướng lật đật phò vào đại tướng, người người xúm lại thế cho Tôn Yên cởi chiến bào, người rót rượu, ke?
bưng trà, Tôn Yên ngồi xuống, chúng tướng đứng hai hàng lẳng lặng trông nghe, Khoái Văn Thông chờ cho Tôn Yên bớt mệt rồi hỏi rằng:
“Tiểu tướng quân vào trận, thăm nghe tam thúc thế nào, và Lý Tòng ở đâu?”. Tôn Yên nghe hỏi hai hàng nước mắt tuôn rơi, đáp rằng:
“Liệt vị tướng quân ơi! Tiểu đệ lúc vào trận, khác nào xuống miền địa phủ, trời đất tối tăm, ở giữa có một tòa thổ sơn, hào quang chói sáng, xem thấy hình thế ngăn đường, quỷ hồn đông vô số, chính giữa một tòa tháp đài, phía trên có một hòn thổ sơn, bốn phía thổ sơn có bốn vị thần tương trấn giữ, trên hòn thô?
sơn, bốn phía thổ sơn có một cái tháp nhỏ, tháp ấy hào quang chói sáng, gió lạnh thấu xương, rất nên lợi hại tôi kêu réo một hồi chẳng thấy người lên tiếng, xảy nghe tiếng chíu chít, khóc than rất thê thảm, lúc ấy lòng tôi thấy kinh sợ, tính quày ngựa chạy ra, không dè gặp thiên tướng đón đường, có quỷ vương dẫn một lũ quy?
hồn, áp lại phủ vây, con ngựa tôi đâu dám đi tới, xảy nghe một tiếng chuông kêu, xông ra một g đạo nhơn, cùng tôi giao chiến, đánh chưa được mấy hiệp, tên đạo nhơn liệng bửu bối mà hại tội, may nhờ phò hộ, nên bửu bối ấy không hề rơi xuống, rồi tôi thua chạy qua cửa thứ hai mà ra, không dè nơi ấy cũng giống như cửa trước, gặp một người đạo nhơn, khuyên dỗ tôi về đầu, khi ấy tôigạt nó hỏi thăm tin tức, mới hay tam thúc bị hãm kimsa, ở dưới hòn thổ sơn, mà không biết sống chết thế nào? Còn Lý Tòng thì bị chết trong trận đã rồi, tôi trở mặt đánh cùng nó, nó liệng bửu bối, tôi thua chạy qua cửa khác, thật cũng nên quái lạ, bỗng có một luồng gió xoay vần, nghe tiếng người nói bên tai xưng là Lý Tòng, hiện ám trợ đem tôi ra trận.
Rồi gặp Huệ Trân nó dùng bửu bối, mà chẳng thấy linh nghiệm, tôi tưởng có khi âm linh Lý Tòng trừ phá đi chăng, lại xông ra một đường sáng trước đầu ngựa, làm cho thầnthánh cùng ma quỷ đều tránh vẹt, tôi nhờ đó mới thoát ra khỏi trận, lại gặp bọn Yên Dịch vây phủ bịt bùng, đang lúc bối rối, không hề ngăn đỡ, xảy đâu trước đầu ngựa nổi lên một trận gió xoay vần, cát bay đá chạy, đánh lui binh Tần, rồi đâm chết Yên Dịch mà chạy về đây”.
Chúng tướng nghe nói, đều khen ngợi Tôn Yên thiệt là anh hùng hào kiệt, mạng trong phước lớn. Văn Thông tuyền bày tiệc cho Tôn Yên giải lao. Tôn Yên nói:
“Khoan uống rượu đã, bữa nay đủ ba ngày rồi, hãy giở thiệp ra coi, đặng toan liệu cứu tam thúc làm trọng”. Văn Thông nghe nói liền dạy quân vào bày hương án, bản thân đốt hương, dẫn chúng tướng vào lạy xong rồi, lấy thiệp để trên bàn, giở ra xem thấy trong thiệp dạy rằng:
“Thỉnh Chiêu Vương đến trướng, đốt hương vái trời cầu cứu, như trong sáu ngày có người tiên xuống thì mạng ta cứu được, nếu ngoài sáu ngày không người đến cứu, ắt là ta phải chết nơi trận tru tiên”. Văn Thông nói:
“Việc này không nên chậm trể, có vị nào khứng vào thành thỉnh giá chăng? ‘. Tôn Yên xin đi. Văn Thông nói:
“Tướng quân đánh trận nhọc nhằn, hãy ở trong dinh an nghỉ”. Tôn Yên nói:
“Vào thành thỉnh giá (là mời vua) là việc cứu tam thúc tôi, va?
lại đánh cũng không mệt mỏi gì”. Nói rồi từ biệt chúng tướng, bay ngựa vào thành, ra mắt Chiêu Vương bày tỏ các việc. Chiêu Vương nghe tâu cả kinh nói:
“Nam quận vương có nạn, sao không nói sớm cho trẫm khấn vái trời đất, xin người cứu giúp, đê?
chi diên trì đến mấy ngày”. Tôn Yên tâu rằng:
“Ấy là lời của chú tôi dặn bảo như vậy”. Chiêu Vương truyền chỉ gát xe, dẫn văn bá quan ra khỏi tây môn, nhắm dinh thẳng tới.
Tôn Yên về trước, dọn bày bông huê đèn đuốc, trong dinh rực rỡ, chúng tướng lớn nhỏ đều nai nịt đứng chờ, giây phút Chiêu Vương đến nơi. Khoái Văn Thông cùng Tôn Yên dẫn chúng tướng chầu lạy xong rồi, Chiêu Vương hỏi rằng:
“Khoái tướng quân! Vậy chớ cái thiệp của á phụ trẩm ở đâu?”. Văn Thông nghe hỏi, liền lấy thiệp hai tay dâng lên. Chiêu Vương coi rồinói:
“Á phụ vào trận đã hai ngày hai đêm, vậy không nên chậm trễ, liền dạy dọn bàn hương án cho mau”. Đồ đã sắm sẵn, tức thì khiêngvào đại trướng. Chiêu Vương đốt hương vái lạy, chúc cáo rằng:
“Tôi nối dựng giang san của tổ phụ, phận mình đức bạc, cho nên khiến ra nhà Tần dấy động đao binh, đến nỗi Tôn Tẫn bị nơi kim sa trận, xin hoàng thiên hương tưởng, như nước Yên chưa dứt, thì khiến cho Tôn Tẫn đừng chết, xin cho Chơn nhơn các nơi danh sơn động phủ, xuống cho chóng, thiệt là xã tắc nhơn dân mỏi lòng trông đợi”.
Chiêu Vương vái thầm một hồi, xem thấy khói hương vần kết bay bổng lên mây.
Chiêu Vương cùng chúng tướng vui mừng chẳng xiết.
Nói về vầng khói hương bay tuốt lên mây, xảy gặp du thần thâu tiếp đem đến khe Nhạn Sầu Giảng, vốn khe Nhạn Sầu này ở trong núi Vạn Sơn có một vòng khe thăm thẳm, sâu ước muôn trượng, trong suốt ngó thấu dưới đáy, chim nhạn thường đến nơi ấy xem coi, thấy bóng mình dưới nước, tưởng là nhạn kia ở dưới thì nhào xuống đó mà chết, cho nên đặt tên là Nhạn Sầu giảng, trong động ấy có một con vượn mẹ tên là Mã Linh, nhờ tinh khí trời đất, chói sáng mặt nhựt, mặt nguyệt, tu luyện nhiều năm, thần thông quảng đại, lại biết những việc vị bốc tiên tri, sanh đặng một con tên là Bạch Viên (uốn là lúc đời chiến quốc, người trộm tiên đào, cắp thiên thơ, tới dinh nước Ngụy, giựt hình nhơn bằng cỏ mà cứu Tôn Tẫn, đến sau về núi tu luyện thành tiên, mẹ con ở nơi Nhạn Sầu giảng mùi khói hương bay vào, hèn bắt khói hương kê nơi mũi, rồi rõ biết các việc, ngó qua nước Yên than thở rằng:
“Liễu nhứt chơn nhơn! Ngươi không ở núi Thiên Thai tu luyện, xuống chi chốn hồng trần, há chẳng biết Vương Tiễn vâng sắc chỉ xuống phàm phò tá Thủy Hoàng, gồm thâu sáu nước sao? Khổ vì trái trời mà làm như vậy, đến chịu ách kim sa, song cũng vì bởi mạng ngươi nămnạn chưa mãn, hôm nay khói hương bay tới động ta, ắt muốn cho ta xuống cứu”. Nghĩ rồi, trở vào trong động kêu rằng:
“Con ta Bạch Viên ở đâu?”. Bạch Viên nghe kêu, lật đật quỳ xuống hỏi rằng:
“Mẹ kêu con có việc chi chăng?” mã Linh nói:
“Người mà con kết nghĩa anh em đó, con có tưởng người ấy không?”. Bạch Viên nói:
“Con kết nghĩa đạo viên ấy là Tôn Tẫn tam ca đó, có lẽ nào mà con chẳng tưởng đến người nay người ở núi Thiên Thai, động Thiên Thai tu chơn dưỡng tánh, không việc gì, nên con không muốn tới, làm cho ngăn cản công người tu luyện”. Mã Linh nói:
“Vốn là con tưởng người ở núi Thiên Thai tu luyện, chớ không rõ người đã xuống núi rồi, nhân vì Vương Tiễn là học trò của ông Hải Triều thánh nhơn ở nước Ảo Ly, động Vân Quang, vâng sắc Ngọc Đế xuống phàm phò Tần gồm thâu sáu nước, binh đánh Dịch Châu giết cha, anh và cháu của tam ca con, một nhà bốn mạng, lúc ấy có cháu của người là Tôn Yên đến núi Thiên Thai cầu cứu, tam ca con nổi giận xuống núi cùng với binh Tần giao chiến, làm cho Vương Tiễn bị thua, lửa đốt Tử Lăng, sanh ra cứu oán, nên Tử Lăng thỉnh mấy vị tiên trưởng xuống phàm, lập ra cái trận, kêu là ngũ hành kim sa tru tiên trận, mà chôn tam ca con ở dưới hầm đất ấy, đến nay đã ba ngày rồi, con hãy xuống mau mà cứu người, như vậy mới trọn niềm giao kết, lời tục có nói rằng:
“Hoạn nạn tướng cứu, là bằng hữu; chết sống chẳng lìa ấy là huynh đệ, con hãy sửa soạn cho mau mà xuống núi” Bạch Viên nói:
“Trận kim sa ấy dẫu cho đại la thiên tiên cũng không vào được, con biết làm sao mà cứu người”. Mã Linh nói:
“Trận Kim sa bốn phía đều có Thiên thần pháp bửu trấn động Thanh Phong núi Vân Tịch, ông quỷ cốc, rồi qua núi Linh Lung thỉnh Phổ chơn nhơn, Nhị long sơn, thỉnh Huỳnh Thạch Công, Bạch Hạc sơn, Triều tiên động thỉnh Chưởng giáo Nam Cực, nếu có mấy vị tiên đó, thì mới phá được trận ấy, trên ấn đường con viết sáu chữ chơn ngôn của bà Vương mẫu, con từng qua núi Hương sơn đại thần chẳng dám ngăn trở mà làm hại con đâu, con hãy theo trên không bay xuống, đến trung ương mâu kỷ, có tòa pháp đài, trên đài có cái trang tiên hạp, trong hộp có hình Tôn Tẫn bằng đất, vì sao bổn mạng của tam ca con nhập vào hình đất ấy, trên hộp có đạo lonh phù, Thái Bạch kim tinh gìn giữ, con phải mượn cho được cây quạt của ông Nam Cực, rồi nhắm cái trang tiên hạp quạt luôn ba cái, làm cho Thái Bạch kim tinh thối lui, con sẽ bước tới vẽ trên lá bùa sáu chữ:
Lão quân sắc lệnh tốc khai, thì mới giở được, rồi lấy cái hình Tôn Tẫn bằng đất, ôn nơi bụng, chạy qua phía đông am chừng bảy thước thì dừng lại, hai gót chụm nhau, đọc thần chú che sao, mà trả sao bổn mạng của Tôn tam ca con về ngôi cũ, rồi con có bảy mươi hai phép biến hóa, chẳng luận biến chi, miễn là trộm được hết bửu bối cửa giao cho Nam Cực, thì mới phá trận ấy được”.
Bạch Viên nói:
“Con xin đi thỉnh các tiên”. Mã Linh nói:
“Chưa được, vì Chiêu vương có lời khẩn vái trời đất, còn ở dinh Yên trông đợi, con hãy đến đó trước an ủi lòng vua tôi nước Yên, rồi biểu Chiêu Vương viết một tờ ai biểu (lá tờ biểu năn nỉ, khẩn cầu) chừng đó con sẽ lên núi Vân Tịch cũng chẳng muộn gì”. Bạch Viên nghe nói cúi đầu từ biệt mẫu thân, bay xuống Dịch Châu, xảy gặp quân tuần dinh xem thấy nói với nhau rằng:
“Các ngươi hãy xem đó, còn chi chi vậy?”. Quân binh nghe nói đều dòm coi, nói rằng:
“Mặt miệng giống hình con vượn trắng”. Còn đang nói thì Bạch Viên đi đã tới gần, bảo quân sĩ:
“Ngươi mau vào báo, nói có Nhạn Sầu giảng Bạch Viên đến đây”. Quân sĩ nghe nói chạy vào thông báo. Chiêu Vương hỏi Văn Thông rằng:
“Chẳng hay Bạch Viên ấy là ai vậy?”. Văn Thông nói:
“Bệ hạ đánh vui mừng chẳng xiết, Bạch Viên đến đây, thì sư bá ắt cứu đặng rồi, vốn người này nguyên là con vượn tu luyện thành tiên, cùng sư bá tôi có tình bà bái chi giao, lúc trước giựt hình nhân bằng cỏ, cùng Thất Tiễn thiên thơ, mà cứu tánh mạng sư bá tôi, bệ hạ chẳng nên khi người”. Chiêu vương dẫn các tướng bước xuống nghênh tiếp, làm lễ xong rồi Chiêu vương mời Bạch Viên ngồi, truyền quân pha trà, Bạch Viên nói:
“Tôi không dùng trà”. Văn Thông biết ý Bạch Viên ưa rượu, bèn nói rằng:
“Viên Tiên chẳng muốn dùng trà, hãy đem rượu ngon vào đây”. Bạch Viên cười rằng:
“Hay lắm, chẳng cần rau cỏ làm chi, lấy ít trái cây, còn vua tôi thì uống trà mà nói chuyện. Chiêu vương hỏi rằng:
“Viên Tiên đến đây, chẳng hay có kế chi lui đặng binh Tần, mà cứu á phụ tôi chăng?”. Bạch Viên nói:
“Tôi vâng lời mẹ tôi, xuống đây đặng cứu tam ca tôi”. Chiêu vương nghe nói rất mừng liền viết tờ ai biểu, trao cho Bạch Viên coi, rồi niêm phong lại, bạch Viên tiếp lấy tờ biểu, đút trong mình, nhậu ít chung rượu, nói:
“Bệ hạ ngồi đây tôi đi một lát”. Nói dứt lời xẹt lên một đường kim quang, chẳng thấy hình dạng. Chiêu vương cùng các tướng rất mừng, khi ấy an lòng bớt lo.
Nói về Bạch Viên bay chưa đầy một khắc, đã đến núi Vân Tịch, động Thủy Liêm, xem thấy sơn mình thủy tù như xưa, thì than rằng:
“Ta vài mươi năm, chưa đến chỗ này”. Bèn bay xuống xem thấy cửa động ra một cánh, ở trong bước ra một tên đồng nhi, Bạch Viên nhìn biết Chiêu Hà, bèn vội vàng bước tới cung tay xá, nói rằng:
“Sư huynh! Tôi đến đây, muốn ra mắt Tổ sư lão gia”. Chiêu Hà quay lại, ngó thấy biết là Bạch Viên, thì nói rằng:
“Viên tiên sao không ở nơi bửu động mà tu nhân, đến chỗ này có việc chi chăng?”. Bạch Viên đáp rằng:
“Tôi vâng thiệp của tam ca tôi là Tôn Tẫn, cùng tờ ai biểu vua Chiêu vương, cầu thỉnh tổ sư xuống núi, xin phiền sư huynh thông báo giùm”.
Chiêu Hà nghe nói quày quả trở vào, giây lâu ra dẫn Bạch Viên vô động, đến nơi tam thanh đại điện, xem thấy Vương Thuyền ngồi trên bồ đoàn, Bạch Viên rút tờ ai biểu, đưa cho Chiêu Hà rồi quỳ xuống nói rằng:
“Tô sư, tôi là Bạch Viên xin ra mắt, cầu cho lão tổ thánh thọ vô cương”. Vương Thuyền biết trước, hỏi rằng:
“Bạch Viên! Sao ngươi không ở trong động phụng dưỡng mẹ già, đến động ta có việc chi chăng?”. Bạch Viên nghe hỏi nước mắt tuôn rơi, khóc lóc mà đem việc Tôn Tẫn bi.
hãm nơi trậm kim sa, và việc Chiêu Vương đốt hương chúc cáo, thuật lại một hồi, cúi xin lão tổ, xuống núi cứu giúp, Vương Thuyền nói:
“Vì sao mà thằng nghiệt chướng lại tham luyến hồng trần, tranh danh đoạt lợi, đã chẳng vâng nghe lời vàng đá, hôm nay lại sanh ra cái họa như vầy, tuy rằng số mạng nó, nạn tai chưa mãn, nếu mà an ngồi nơi chốn hồ đoàn thì cũng tự nhiên tránh khỏi, nay nó làm thì nó chịu lấy, ngươi hãy trở về, lạy tạ Chiêu Vương, nói ta có chịu lời thề khi trước, dứt không xuống núi.
Bạch Viên! Ngươi chớ trễ nải ngay giờ, hãy mau đi chỗ khác mà cầu thỉnh mấy người kia”.
Bạch Viên nghe nói, dường như trên đâu ai xối nước lạnh, thất kinh, mắt ngó trân trân, kêu rằng:
“Tổ sư xưa nay hễ là người xuất gia, thì lấy việc từ bi làm gốc, vả chăng Tôn Tẫn là học trò của Tổ sư, nếu Tổ sư không xuống, thì ai mà khứng cứu người”. Vương Thuyền nói:
“Người biết một chưa biết hai, ta vì nó mà hết lòg hết dạ, đã đôi phen ba lượt, thiếu chút nữa, bị lửa đốt mình, như là trận âm hồn, nếu Nam Cực chưởng giáo không xuống mà phá cái trận dữ ấy, đánh Huỳnh Thúc Đương thì mạng ta còn gì, há chẳng biết Vương Tiễn là học trò ông Thánh nhơn mà đi chọc nó làm chi, cãi nghịch ý trời nên phải mắc nạn, dẫu cho nó có chết trong trận kim sa đi nữa ta cũng chẳng đị”
Chương 18 : Bạch Viên giấu biểu Vương Thuyền; Thọ Tính chia hiệp mời Tiên Tử
Nói vể Vương Thuyền tổ nói Bạch Viên rằng:
“Vương Tiễn là học trò ông Hải Triều thánh nhơn, vâng chỉ ngọc đế, phò giúp Tây Tần, gồm thâu sáu nước, thằng nghiệt chướng Tôn Tẫn lẽ nào nó không biết hay sao? Cũng bởi nó vì cái cứu riêng của cha anh, nghịch trời làm quấy, hôm nay dẫu có chết trong trận kim sa đi nữa, thì bần đạo cũng vị lòng, đọc kinh siêu độ cho nó mà thôi”. Bạch Viên nghe nói, cúi đầu sa nước mắt bẩm rằng:
“Nếu lão tổ chẳng khứng xuống từ bi cứu người một phen, như còn tái phạm nữa, chừng đó sẽ bỏ va cho đành dạ”. Bạch Viên khóc lóc năn ni?
hết lời, chừng đó sẽ bỏ va cho đành dạ”. Bạch Viên khóc lóc năn nỉ hết lời Vương Thuyền nói:
“Thôi! Bạch Viên chớ bịnh rịn làm chi, cho trễ nải ngày giờ của ngươi, kịp tới các động khác mà thỉnh người tiên cứu giúp chẳng là hay hơn, ở đây năn ni?
nhiều lời vô ích”. Bạch Viên đứng dậy quày quả trở ra. Vương Thuyền dạy Chiêu Hà đưa Bạch Viên ra khỏi động, nghe vang một tiếng, cửa liền đóng chặt. Bạch Viên quay lại lấy tay xô cửa nói:
“Mi đóng cửa rồi, tưởng ta vào không đặng sao?”. Thươ?
nay ta chưa thấy bụng ai độc hiểm như thế, có lẽ nào học trò mình để vậy coi chết mà không cứu sao? . Nếu ta trở về núi chắc là mạng tam ca phải khốn”. Ngẫm nghĩ nói một mình rằng:
“Vương Thuyền, ngươi là thầy mà không chịu xuống cứu, thì ta đi cầu người khác làm sao cho đặng”. Bèn biến ra một con tiêu liêu trùng đập cánh chung ngang kẹt cửa mà vào, bay đến trước thạch sàng (gường đá).
Lúc ấy Vương Thuyền lên tam thanh điện đọc kinh, tờ biểu chương còn để nơi thạch sàng. Bạch Viên xem khắp bốn phía không người, hiện hình lấy tờ biểu chương đem ra vườn đào chỗ giấu thiên thơ khi trước, giấu giếm xong rồi, biến con tiêu liêu bay ra cửa động gõ cửa, lúc ấy Chiêu Hà, Đạp Tiết đang ở dưới điện, nghe có người kêu cửa, lóng tai nghe kỹ, biết tiếng Bạch Viên, bèn bước lên điện thưa cùng Vương Thuyền rằng:
“Có Bạch Viên trở lại cửa”. Lão tổ nghe nói. Xếp kinh mắng rằng:
“Đồ nghiệt chướng, ta đã đuổi ra rồi, sao còn trở lại làm chỉ đạp Tiết, ngươi ra mở cửa cho hắn vào, coi hắn nó chi cho biết”. Đạp Tiết bước ra mở cửa, dẫn Bạch Viên vào. Vương Thuyền hỏi:
“Bạch Viên ngươi đã đi rồi, sao còn trở lại?”.
Bạch Viên thưa rằng:
“Vì đệ tử lòng lo cứu tam ca, nên khi nãy lật đật bỏ quên tờ ai biểu nơi thạch sàng”. Vương Thuyền nghe nói, hối đồng tử vào lấy tờ biểu chương trả lại cho Bạch Viên. Đạp Tiết vào thạch sàng chẳng thấy biểu chương, kiếm tìm khắp nơi, không thấy tăm dạng, lật đật lên điện bẩm rằng:
“Chẳng biết tờ biểu chương ấy đâu mất không có”. Vương Thuyền nói:
“Mi phải kiếm lại cho kỹ lẽ nào mà không thấy”. Đạp Tiết lục kiếm một hồi nữa cũng không có, bèn trở lên điện mà hỏi Chiêu Hà. Chiêu Hà nói:
“Có khi bị trận gió hồi nãy đã bay mất rồi”. Bạch Viên nghe nói, vội vàng bước tới nắm áo Vương Thuyền hỏi rằng:
“Ông đã chẳng chịu xuống núi cứu người thì thôi, lẽ phải trả tờ biểu chương lại cho tôi, đặng tôi có đi chỗ khác mà cầu cứu, sao ông giấu mất biểu chương của tôi vậy? Thôi, ông phải đi cùng tôi xuống núi Yên nói cho minh bạch, đặng cho Chiêu Vương viết tờ khác cho tôi, nếu chẳng vậy ắt là Chiêu Vương nói tôi bỏ rớt thì làm sao tôi đi được”.
Vương Thuyền cười nói:
“Thằng nghiệt chướng, mi dám cả gan ở trong động ta mà rầy rà sao?”. Bạch Viên lại núi chặt áo Vương Thuyền nói:
“Ông không phép đánh tôi đâu. Vương Thuyền nói:
“Mi chớ già hàm, ta đánh mi không được sao? Vì tội mi giấu biểu chương trở lại vu cáo cho ta”. Còn đang cãi lẫy om sòm, làm kinh động đến Vương Ngao ở sau động bước ra hỏi:
“Việc chi mà anh cùng Bạch Viên níu kéo lăng xăng như vậy?”. Vương Thuyền nói:
“Vì Tần Thủy Hoàng gồm thâu sáu nước, vây khổn Yên châu, cha, anh, cùng cháu gái Tôn Tẫn, đều chết nơi tay Vương Tiễn, Tôn Tẫn giận xuống núi trả thù cha anh, dùng trận lửa hỏa công cả phá binh Tần, Huỳnh Thúc Đương thỉnh Ngụy Thiên Dân ở núi Vạn Huê xuống giúp, bày ra một tòa kim sa tru tiên trận, bị kim sa đè, tối sớm đây phải chết. Yên Chiêu Vương viết tờ ai biểu sai Bạch Viên đến cầu cứu cùng ta, ta e vì xuống chốn hồng trần, phạm nơi sát giới, nên chẳng khứng đi, không dè Bạch Viên lòng sanh ngụy kế, giấu tờ biểu văn, mà vu phản cho ta”. Vương Ngao nói:
“Ấy cũng số trời đã định, anh em ta trốn đâu cho khỏi sát giới, vả chăng Tôn Tẫn cùng anh em ta vốn có tình nghĩa thầy trò, nếu anh em mình không xuống, thì Bạch Viên biết đến động nào thỉnh được, dẫu cho có thỉnh người tiên khác, xuống phá trận cứu khỏi Tôn Tẫn, thì anh em ta há tay bước lại trước mặt Vương Ngao, quỳ xuống bẩm rằng:
“Lời nhị tổ sư (là thầy thứ hai) rất phải, nếu tổ sư không giải cứu, thì có ai khứng lòng giúp sức”.
Vương Thuyền nghe em nói phải, bèn thở dài một tiếng nói rằng:
“Thôi anh em mình phải đi mới được”. Nói rồi hai anh em ra cửa động, Bạch Viên theo sau, đều cưỡi mây một lượt bay xuống nước Yên, chẳng đầy nửa khắc đến nơi, Bạch Viên vào trước, báo cùng Chiêu Vương:
“Thầy của tam ca tôi đến đó”. Chiêu Vương nghe nói rất mừng, dường như trên trời xuống phước, vội vàng dẫn bá quan văn võ ra dinh nghinh tiếp, Chiêu Vương cúi mình nói:
“Phải chi tôi hay trước hai vị tổ sư đến đây, thì tiểu vương này lẽ phải ra ngoài xa mà nghinh tiếp, nay đến chậm, cầu xin miễn chấp”. Anh em Vương Thuyền lật đật đáp lễ, nói:
“Tôi đâu dám chịu điều ấy”. Rồi dắt nhau vào huỳnh la bửu trướng. Vương Thuyền nói:
“Anh em tôi là người xuất gia tu hành, lẽ thì không xuống hồng trần nữa, vì Bạch Viên lãnh biểu văn của bệ hạ, đem đến núi tôi, bị gió thổi bay mất, nên tôi phải cùng Bạch Viên đến ra mắt, xin bệ hạ trả tờ biểu khác, đặng cho Bạch Viên đến các núi, cầu thỉnh chư tiên”. Chiêu Vương nghe nói, đáp:
“Tờ biểu văn ấy là việc nhỏ, nay tôi có một lời xin bẩm cùng hai vị tổ sư, vì tôi tưởng lại á phụ tôi, vốn là học trò của hai vị tổ sư, sách có nói rằng:
Thay trò tình như cha con, nay á phụ tôi mắc nạn, bị khổn kim sa tru tiên trận, mà hai vị tổ sư khoanh tay chờ chết, rất đỗi Bạch Vân tiên trưởng, là tình giao kết, còn xuống mà cứu thay huống chi hai vị tổ sư, nỡ lòng nào ngồi xem chẳng cứu, chớ chi á phụ tôi ở trong trận, mà buông lời chi xúc phạm, nên hai vị tổ sư giận người chẳng đến thì thôi, vả nay đã đến đây rồi, coi chết mà chẳng cứu sao, như vậy có phải là để tiếng cho người chê cười chăng? Tiểu vương phân lời ấy tưởng có khi xúc phạm đến hai vị tổ sư, thì tỏ lòng soi xét, nếu hai vị khứng lòng giúp sức, thì có ba ơn rất trọng, một là cứu nước yên, bá vạn sinh linh, hai là rửa cừu oán cho họ Tôn, ba nữa trọn tình sư đệ”. Nói dứt lời, nước mắt tuôn ra ướt mặt, quỳ xuống cúi đầu; anh em Vương Thuyền vội vàng đáp lễ nói:
“Chúng tôi có tài đức gì đâu mà dám nhận trọn lễ, xin chậm rãi, cho tôi thương nghị đã”. Vương Ngao nói với Vương Thuyền rằng:
“Tôi tưởng Tôn Tẫn bị khốn trong trận, mạng tai sớm tối đây nếu có sơ sẩy điều gì, thì anh em mình ra chi, vả tại Chiêu Vương là bậc vạn thặng chí tôn (là cái thân ông vua rất trọng) nay người làm cái lễ rất trọng như vậy, mà năn nỉ khẩn cầu, vậy thì mình cũng chẳng quản chi đến bậc thần tiên, cùng với Ngụy Thiên Dân quyết định thư hùng, chẳng biết ý anh thế nào?” Vương Thuyền nói:
“Cái trận ấy, chẳng phải là tầm thường đâu, kim sa là đồ rất báu của phật, chúng ta làm sao mà phá được. Bạch Viên nói:
“Hai vị tổ sư chớ phiền trận ấy là khó, đệ tử cung rõ được một đôi điều”. Vương Ngao nói:
“Ngươi có biết trận ấy chăng? Nói hết cho ta nghe thử”. Bạch Viên nói:
“Đệ tử tuy rõ biết các việc trong trận, song không phá được, nguyên trận ấy có bốn cửa, mỗi cửa có một vật bửu bối, bây giờ khó bề giải phá, phải thỉnh cho được ông Chưởng Giáo, dùng câu tiên bài, cầu thỉnh các vị tiên trưởng ắt là phá được, duy sợ Chưởng Giáo chẳng chịu xuống mà thôi”. Vương Ngao nói:
“Muôn thỉnh Chưởng Giáo cũng chẳng khó gì, tư.
nơi hiền vương (Chiêu vương) thành tâm tả một đạo ai biểu để anh em tôi đến đó, lạy lục thỉnh người”. Chiêu Vương lật đật viết tờ biểu cho Bạch Viên giắt vào lưng, từ biệt Chiêu Vương ra khỏi trướng hỏi:
“Hiền vương hãy ngồi chờ bọn tôi đi giây phút sẽ trở về”. Nói rồi hai anh em Vương Thuyền cùng Bạch Viên cỡi mây, bay tuốt thẳng đầy nửa khắc, tới núi Bạch Hạc, xuống mây thẳng vào cửa động,xem thấy Bạch hồng đồng tử tay cầm một giỏ linh chi (cỏ chi) dắt con mai huê lộc đi ngang qua núi, Vương Ngao bước tới nói:
“Tôi chào sư đệ, chẳng hay tổ sư có ở trong động chăng?”. Bạch hạc quay đầu ngó thấy, nhìn biết anh em Vương Thuyền cùng Bạch Viên đồng tử cười ha hả nói rằng:
“Ba vị đến đây có việc chi chăng?”. Vương Thuyền nói:
“Chúng tôi đến lạy ra mắt tổ sư, xin phiền tổ sư đang sửa soạn qua núi Côn Lôn đánh cờ, cũng gần đi bây giờ đây”. Nói chưa dứt lời, xảy nghe tiếng mơ?
cửa, có hai tên đồng tử đi trước, Lão tổ tay cầm như ý theo sau, ra khỏi động, anh em Vương Thuyền bước tới quỳ xuống bẩm rằng:
“Tổ sư lão gia, đệ tử là Vương Thuyền, Vương Ngao chúc cho Lão tổ thánh thọ vô cương”. Nam Cực dừng chân ngó thấy anh em họ Vương quỳ trước, Bạch Viên quỳ sau, trên lưng giắt một tờ biểu văn, chẳng rõ ý gì, bèn hỏi:
“Chúng ngươi sao không ở động tu hành, đến đây có việc chi chăng?”. Vương Thuyền đem việc Tôn Tẫn mắc nạn, bẩm hết đầu đuôi. Nam Cực mỉm cười nói:
“Phen này không phải như Huỳnh Thúc Đương lúc trước đâu, vốn Vương Tiễn mạng trời sai khiến, gồm thâu sáu nước, giết chết họ Tôn bốn mạng, ấy là số trời đã định, mà thằng nghiệt chướng dám cả gan xuống núi, tráinghịch lòng trời, nguyên trời đã định trước rồi, bọn Ngụy Thiên Dân phải chết dưới ngũ lôi, bần đạo khỏi xuống chốn hồng trần, thôi chúng ngươi đứng dậy”. Bạch Viên lấy biểu văn trình lên. Nam cực xem rồi, dạy Bạch hạc đồng tử vào động, lấy bửu bối đem ra hai tay dâng cho Nam Cực. Nam Cực nói với đồng tử rằng:
“Ngươi hãy theo ta”. Bạch Hạc nghe nói, liền xăn tay áo, biến ra nguyên hình con hạc trắng. Nam Cực thót lên tiên hạc, dạy đồng tử gìn giữ cửa động rồi bay bổng trên mây, anh em họ Vương cùng Bạch viên cỡi kim quang bay theo, chẳng đầy một khắc đá đến Dịch Châu.
Nói về Chiêu Vương cùng Khoái Văn Thông đang ở trong dinh trông ngó, xảy nghe giữa trởi hạc kêu inh ỏi. Khoái Văn Thông biết là Chưởng giáo tổ sư đến, vội vàng tâu rằng:
“Chúa ta vui vẻ muôn ngàn, giữa thinh không tiếng hạc kêu reo, ấy là chưởng giáo tổ sư đến đó, vậy xin bệ hạ cùng bá quan mau sắm hương đăng ra dinh nghinh tiếp”. Chiêu Vương nghe nói, vui mừng chẳng xiết, truyền bày hương án, bổn thân bưng ra dinh tiếp rước, xem thấy giữa thinh không, vầng mây xao xát, sáng chói rỡ ràng. Nam Cực cỡi trên tiên hạc, bọn Vương Thuyền theo sau, đều bay xuống đất.
Chiêu Vương bước tới cúi mình, nói rằng:
“Chưởng giáo tổ sư giá lâm, tiểu vương tiếp rước”. Nam Cực vội vàng đáp lễ, Chiêu vương mời ngồi xuống kỳ dư đứng hầu hai bên. Chiêu Vương truyền bày yến điên, giây phút tiệc dọn xong rồi, tuy không có quả táo giao lê, song cũng đủ hết các vật dị phẩm trong nhân dân. Nam Cực nói:
“Bần đạo dùng lòng chứng chiếu, thì cũng đủ rồi”. Chiêu vương thấy Nam Cực chẳng hưởng đổ nhân dân thì chẳng dám ép, bèn đứng dậy nói:
“Tờ ai biểu của tôi, thỉnh Tổ sư xuống đây. Vì nhà Tần đánh thâu sáu nước. Cha con họ Tôn đều tử trận, Tôn Tẫn xuống núi, toan tả thù cha anh, không dè nhà Tần thỉnh một người đạo nhơn, tên Ngụy Thiên Dân, bày ra trận tru tiên, mà vây khổn á phụ tôi đã ba ngày, mất còn chưa biết, xin Tổ sư mở lượng từ bi, một là giải ách đảo huyền cho lê thứ, hai nữa cứu sầu cảm”. Nói rồi khoác áo cúi mình vừa lạy. Nam Cực lật đật lấy tay đỡ lấy, nói:
“Hiền vương xin ngồi, tôi là người xuất gia, chẳng xuống đây thì thôi, nay đã xuống đây rồi có lẽ nào khoanh tay ngồi ngó hay sao? Vậy phải coi xem trận thế của nó thế nào, rồi sẽ sai tiên đến phá, mà cứu Tôn Tẫn”. Chiêu Vương nghe nói, trong lòng cả đẹp. Nam Cực bèn kêu Bạch Viên rằng:
“Theo ta xem trận”. Nói rồi bước ra cửa dinh thót lên tiên hạc. Bạch Viên theo sau, bay trên mây, tuốt qua phía đông.
Lúc ấy trời đã chạng vạng, xem thấy cờ xí bốn cửa đều có treo lồng đèn, chiêng tuần vang tai, gươm giáo như rừng, ấy là vòng ngoài trận tru tiên đó. Nam Cực dùng phép kim quang che mình (nguyên bốn cửa đều có thần tướng trấn giữ, e tẩu lậu phong thanh, nên dùng phép kim quang ẩn mình, cho thần tướng chẳng thấy) rồi xem coi trong trận:
Bốn phương nghi ngút, dạng mây sầu, Bửu bối người tiên, thiệt phép màu.
Bổn mạng thâu vào trong hộp báu, Lá Linh bị hãm, dưới hầm sâu.
Lão tổ xem rồi, gật đầu than thở, nói:
“Nghiệt chướng, nay bị chôn dưới kim sa, ấy là mi lam mi chịu”. Bèn kêu Bạch Viên, mà rằng:
“Người mau vào trong trận, đến pháp đài, trộm cái hộp trang tiên cho được”. Bạch Viên vâng mạng cỡi kim quang bay vào trận, các thần xem thấy nơi ấn đường Bạch Viên, có sáu chữ chơn ngôn của bà Thánh Mẫu, thì chẳng dám ngăn trở, Bạch Viên tuốt lên pháp đài, xem thấy hộp trang tiên, trên niêm ba đạo linh phù, và có Thái Bạch tinh quân ngồi một bên gìn giữ, Bạch Viên chẳng dám lấy, quày quả bay ra, bẩm lại, Nam Cực nói:
“Thôi trở về dinh hãy toan liệu”. Rồi đó hai người bay trở về dinh, quân sĩ vội vàng vào báo.
Chiêu vương dẫn chúng tướng ra dinh nghinh tiếp vào trướng, Chiêu vương hỏi:
“Chẳng hay Chưởng giáo tổ sư xem trận thế nào?”. Nam Cực nói:
“Trận ấy thiệt rất lợi hại, nguyên khi trước Huỳnh Thúc Đương bày trận âm hồn, bị tôi đánh nó tám mươi gậy, hóa ra xác phàm, vì Tôn Tẫn có cái cứu ấy, nên nay lập vào trận này, vốn là Huỳnh Thúc Đương thỉnh Ngụy Thiên Dân, bày ra đặng cố trả thù cho anh nó, trận tru tiên tuy có phép bửu thần tướng song cũng chẳng khó gì, duy kim sa là đồ báu của Phật, thiệt rất là nên khó, nay tôi phá không đặng, vậy để thỉnh các động chơn nhơn đến, mà thương nghị, thì phá trận cũng chẳng bao lâu”. Nói rồi dạy đem văn phong tứ bửu, bổn thân viết hai phong thơ giao cho Bạch Viên, dặn rằng:
“Cái thơ này, thì đem trước qua núi Thiết Ngại sơ, động Vân Quan, Lý chơn nhơn, còn một cái thì đem cho Thổ chơn nhơn, ở núi Linh Lung, động Hượt Long”. Bạch Viên lãnh thơ ra khỏi cửa dinh, cỡi kim quang đi tuốt. Nam Cực kêu Bạch Hạc dạy rằng:
“Ngươi lãnh câu tiên bài, đế Huỳnh Thạch Công ở núi Nhị Long, ngồi động Xích Tòng biểu người phải kíp xuống Dịch Châu, mà thương nghị phá trận”. Bạch Hạc vâng mạng, lãnh tiên bài bay bổng trên không, giây phút chẳng thấy hình dạng.
Nói về Bạch Viên lãnh thơ, nhắm Thiết Ngại sơn thẳng tới, giây phút đến núi.
Nguyên phong cảnh núi Thiết Ngại này đẹp hơn các núi khác, Bạch Viên không lòng rảnh xem chơi, tuốt đến cửa động, thấy cửa đóng chặt, đứng ngoài gõ cửa, đồng tử ở trong hỏi rằng:
“Vị tiên trưởng nào đến có việc chi vậy?”. Bạch Viên nói:
“Xin tiên đồng báo giùm, nói có Bạch Viên ở Nhạn Sầu Giảng dâng thơ Chưởng giáo lão tổ đến đây”. Đồng tử nghe nói, liền mở cửa động, xem thấy Bạch Viên, thì cười nói:
“Viên tiên đến đây rất chẳng may, thầy tôi qua núi Lung Linh, cùng Thổ tô?
sư đàm đạo, nên không ở động”. Bạch Viên cả mừng nói:
“Tôi cũng qua núi Linh Lung bây giờ, đặng thỉnh Thổ tổ sư, thôi ngươi đóng cửa, ta đi”. Nói rồi bay qua núi Linh Lung, xem thấy cửa động mở hoắc, ở trong có một đồng tử, tay cầm giỏ bông, xăng xái đi ra, có tiếng kêu, quay đầu nhìn biết Bạch Viên hỏi rằng:
“Viên huynh đến có việc chỉ”. Bạch Viên hỏi:
“Tổ sư có ở trong động chăng?”. Tiên đồng nói:
“Có, đang cùng Trương Mỵ, lão tổ đàm đạo”. Bạch Viên nói:
“Xin phiền người thông báo giùm, nói ta là Bạch Viên, dâng thơ Chưởng giáo, đến đây có việc”. Tiên đồng nghe nói vội vàng vào tam thanh điện, bẩm rằng:
“Ngoài động có Bạch Viên ở Nhạn Sầu Giảng, xưng rằng:
“Dâng thơ Nam Cực, có việc xin vào ra mắt”. Thổ chơn nhơn cười nói với Trương Mỵ rằng:
“Có khi lão gia này muốn phá cái trận chi đây, nên thỉnh bọn ta”. Trương Mỵ nói:
“Hãy kêu Bạch Viên vào đậy thì rõ”. Đồng Nhi dẫn Bạch Viên vào điện,xem thấy hai vị tổ sư đang ngồi chuyện vãn, bèn lấy thơ dâng lên, hai tiên đứng dậy tiếp thơ, Bạch Viên quỳ xuống nói:
“Đệ tử xin ra mắt”. Hai vi.
tổ sư dạy Bạch Viên đứng dậy rồi giở thơ ra xem, Trương Mỵ nói:
“Chưởng giáo thật lòng thay thương xót, Tôn Tẫn chẳng chịu dẹp lui lòng phàm, nay có nạn, thì vachịu đã đúng rồi, sao lại kêu chúng ta làm gì?”. Thổ Hành Tôn nói:
“Anh dễ chẳng biết, cái nạn tinh của Tôn Tẫn chưa mãn, kiếp sát hãy còn, va có cái cứu cha anh, lẽ nào chẳng trả, nay Thủy Hoàng dấy binh, tuy rằng lẽ chánh, song tôi tưởng lại Huỳnh Thúc Đương. Ngụy Thiên Dân, hai thằng yêu đạo ấy, bày ra ác trận vậy khổn Tôn Tẫn, chẳng qua là nhờ phước lớn Thủy Hoàng, há chẳng biết Chưởng giáo lợi hại thế nào hay sao, lấy theo lẽ mà nói:
“Nếu mình không đi, thì một là mích lòng Chưởng giáo, hai là Tôn Tẫn chịu oan cả nhà, ba nữa thằng yêu đạo ấy, nó càng hung hăng khi dễ, chi bằng chúng ta xuống núi, chẳng là hay hơn. Nói rồi, dạy đồng nhi lui vào sau động, lấy ít vật bửu bối cho tạ (Vốn người này là học trò lớn của ông Cù Lưu Tôn, ở núi Chơn Bửu, động Phi Long.
Lúc hưng Châu diệt Trụ, bị Thất sát tinh, là Trương khuê chém chết, sau phong làm Thổ phủ tinh quân, va không lãnh chức Thổ phủ, nên bỏ núi với thầy, khi ấy Cù Lưu Tôn duy có một người học trò mà thôi, nên chẳng muốn cho va lãnh chức, bèn lên trời tâu cùng ngọc đế, xin lãnh Thổ Hành Tôn về núi, vốn Cù Lao Tôn phép tắc vô cùng, nên luyện cho Thổ Hành Tôn thành đặng hình người, nay ở tại núi Linh Lung, động Hượt Long, tu luyện tám trăm năm, tài phép giỏi hơn khi trước).
Nói về đồng nhi về động, lấy bửu bối đem ra, đưa cho Thổ chơn nhơn, Trường My nói:
“Thôi, tôi chẳng cần trở về lấy bửu bối làm chi, chắc bọn Thiên Dân tài cán chẳng bao nhiêu, vậy tôi đi cùng anh luôn thể”. Rồi ba người ra khỏi cửa động, Thô?
Hành Tôn nói:
“Hai vị thì đi trên mây, còn tôi đi khác hơn mà có khi tôi lại đi mau hơn nữa”. Nói rồi, ba người xá nhau từ biệt. Thổ Hành Tôn co mình chun mất, chẳng thấy hình dạng. Còn Trường My cùng Bạch Viên vội vàng cỡi mây nhắm Yên Châu bay tới.
Chương 19 : Thổ tiên hai lượt vào kim sa; Bạch Viên ba phen trộm tiên hạp.
Nói về Bạch Hạc lãnh câu tiên bài của Chưởng giáo lên tới núi Nhị Long, động Xích Tòng, kêu lớn rằng:
“Trong động có người không?”. Đồng Nhi giữ động, nghe kêu thì hỏi:
“Tiên khách ở đâu đến, có việc chi chăng?”. Bạch Hạc nói:
“Ta vâng mạng Chưởng giáo tổ sư, có câu tiên bài đến đây, mở cửa cho mau”. Đồng tử nói:
“Xin sư huynh hãy chờ tôi vào bẩm cùng thầy tôi, sẽ ra nghinh tiếp”. Nói dứt lời tuốt vào tam thanh điện bẩm rằng:
“Nay có Bạch Hạc đồng tử ở ngoài động xưng rằng:
“Có đâu tiên bài của ông Chưởng giáo đến”. Huỳnh Thạch Công nghe nói, vội vàng bước ra nghinh tiếp, tới trước tiên bài cúi lạy, nói:
“Đệ tử chúc cho Chưởng giáo, thánh thọ vô cương”. Nói rồi hai tay tiếp lên tiên bài, giơ lên cao đem vào tam bửu điện rồi ra mắt bạch Hạc đồng tử, Huỳnh Thạch Công hỏi:
“Chẳng hay câu tiên bài của Chưởng giáo đến, có việc chi vậy?”.
Bạch Hạc bèn đem việc Nam Cực muốn cứu Tôn Tẫn, nên cầu thỉnh đạo hữu xuống núi, đồng phá trận tru tiên. Huỳnh Thạch Công nghe rồi ngầm nghĩ một hồi, lấy làm khó lắm, muốn đi e thân nhiễm hồng trần, sanh lòng phạm tục, còn không đi, thì khó lời từ chối, túng phải đem ít vật bửu bối tùy thân, cùng Bạch Hạc bước ra khỏi động. Huỳnh Thạch Công thót lên kim mao khổng, bay bồng trên không, Bạch hạc cũng cỡi kim quang nhắm Yên Sơn thẳng tới, giây phút đến dinh Yên, hai người xuống mây, quân sĩ xem thấy chạy vào thông báo, chiêu Vương hỏi Lão Tổ rằng:
“Chẳng hay người cùng Bạch Hạc đồng tử đến đó là ai?”. Nam Cực nói:
“Núi Nhi.
Long đường gần, có khi Huỳnh Thạch Công đến”. Chiêu Vương nghe nói, lật đật dẫn bá quan ra dinh tiếp, rước huỳnh Thạch Công vào trướng, ra mắt Nam Cực xong rồi, đang bàn luận việc trận tru tiên rất hung ác, xảy thấy dưới đất chun lên một người, mình mặc áo bát quái thêu bông kim tuyến, chân đi giày vô ưu, mặt như huỳnh đơn, râu ria xồm xoàm, vỗ tay cười lớn lên rằng:
“Sư thúc, ngươi là người Bát bửu kim thân hay sao, mà chẳng sợ nhiễm sát khí hồng trần”. Nam Cực coi kỹ lại là Thô?
Hành Sơn thì cười nói:
“Bần đạo chẳng khứng một mình xông nơi sát khí, nên làm cho liên lụy đến mấy vị”. Thổ Hành Tôn vội vàng bước tới, lạy ra mắt Nam Cực, cùng Vương Thuyền rồi hỏi:
“Vậy chớ Lý trường tiên chưa đến hay sao?”. Nam Cực nói:
“Chưa đến”. Vừa nói dứt lời, thì Lý Trường Mỵ cùng Bạch Viên, vừa vào tới trướng, các vị tiên gia đều đãi chúng tiên, chúng tiên chẳng qua vì lòng chứng chiếu mà thôi, giây phút tiệc tan, Nam Cực nói:
“Hôm nay hiền vương mời các vị đến đây, nhơn vì Tôn Tẫn năm nạn chưa mãn, nên mắc tai ương, nay Ngụy Thiên Dân vây tại giữa trận, và Tôn Tẫn ngày sau vào bậc thiên tiên, tôi há khoanh tay ngồi ngó hay sao? . Bời thế cho nên tôi không phải xuống đây, khi hôm qua tôi cùng Bạch Viên lén xem trận thế, thấy bọn ngụy Thiên Dân sát hại sanh linh rất nhiều, bày ra cái trận ấy chúng nó ắt phải chết dưới ngũ lôi, bốn cửa có bửu bối, song cũng chẳng khó chi, duy có kim sa là vật báu cửa Phật, phải mất công một chút, vậy có vị chơn nhơn nào chẳng nài khó nhọc, đi đến Tây phương cực lạc thế giới, đặng cầu Phật tô?
Như Lai, mượn bình bát vu, thâu hột kim sa, thì phá trận ấy dễ như trở bàn tay”.
Bạch Viên nghe nói, bước tới quỳ xuống nói với Đệ tử xin đi”. Nam Cực rất mừng, nói:
“Người khứng lòng chịu nhọc, thì xong lắm”. Bèn nói với Chiêu Vương viết một tờ biểu văn cho Bạch Viên qua phương Tây cầu Phật, Bạch Viên vội vàng tiếp biểu văn giắt vào lưng, từ biệt chúng tiên, cỡi kim quang nhắm hướng Tây phương thẳng đến, chưa đầy một khắc ra xem thấy núi Linh Sơn, xuống mây đi bộ, thấy một tòa Lôi âm, rất nên xinh tốt.
Trong đền rực rỡ chiếu hào quang, Làm những lưu ly hổ phách xoàn, Vòi vọi lâu đài cao mấy trượng, Phật môn rộng rãi biết muôn ngàn.
Bạch Viên đi tới cửa núi, xem thấy Kim Cang giữ cửa, liền bước đến cúi đầu, bày tỏ căn đọ Kim Cang bảo ở đây chờ lệnh, bèn trở vào, giây phút ra kêu rằng:
“Bạch Viên, hãy theo ta vào điện. Bạch Viên theo sau, đến Đại Hùng bửu điện, xem thấy hào quang sáng chói, rực rỡ muôn đường, vội vàng quỳ xuống, bẩm rằng:
“Đê.
tử là Bạch Viên, lạy ra mắt”. Như Lai hỏi:
“Vậy chớ Nam Cực tiên ông sai ngươi đến có việc chỉ”. Bạch Viên bày tỏ các việc sự tình, và rút tờ ai biểu, sẽ tương cội rễ”.
A Nang Tôn giả tiếp lấy biểu văn, trải trên hương án, Như Lai rọi mắt ghé xem, vỗ tay nói rằng:
“Lành vậy thay, Tần Thủy Hoàng gồm thâu sáu nước, ấy là thiên vận xoay vần, vả lại có điệp văn Tây phương của ta, và sắc chỉ Ngọc Hoàng, Tôn Tẫn lẽ nào không biết, khổ gì mà thường xuống hồng trần, tự chiêu tai họa, thôi để ta coi đại số thế nào?”. Bèn suy xét vị lai, giây phút rõ biết nói với Bạch Viên rằng:
“Ngươi hãy về nói với Nam Cực tiên ông rằng:
“Tôn Tẫn tuy mạng trung hữu cửu, song nạn người chưa mãn, khó ra khỏi trận, vả bình bát vu ấy là vật báu của Phật, có lẽ đâu khinh cho mượn, chờ đến trong năm ngày, thì có Hộ pháp già lam, qua Đông thổ thâu kim sa về”. Bạch Viên nghe nói, lạy tạ Phật tổ, ra khỏi chùa Lôi âm, cỡi kim quang bay về Dịch Châu, vào dinh ra mắt Nam Cực, đem những lời Như Lai nói, mà tỏ lại cho Nam Cực nghe, chúng tiên ghe nói cả mừng, Nam Cực nói:
“Tôn Tẫn bị khốn trong trận, nay bốn ngày tôi tưởng ở trong trận kim sa, chẳng phải tầm thường, chi bằng đem cho nó hườn linh đơn, thì bình yên vô hại”. Bèn kêu Thổ Sơn chân nhân, nói:
“Chuyện này ngươi đi chắc đặng”. Rồi lấy ra một hườn linh đơn, trao cho Thổ Hành Tôn, Hành Tôn lãnh mạng co giò chun mất, chẳng thấy hình dạng, ca?
dinh bá quan văn võ, thảy đều khen ngợi. Thổ Hành Tôn vẹt đất đi mau như tên bắn, nhắm hầm tru tiên tuốt đến, lòng trông đến đó, đặng trao thuốc linh đơn, thăm nghe hư thiệt, đang chạy thẳng chẳng đề phòng thình lình đụng đầu té ngửa, mở mắt xem coi, bốn phía cứng như vách đá, chạy vòng xung quanh, không có đường vô, trong lòng buồn bức, chẳng vui, ngầm nghĩ một hồi, nói:
“Thôi mình chớ ở đây làm chi cho mất công, sẽ trở về sinh sẽ toan liệu”. Bèn trở lại đường cũ chun ra, về đến trướng Nam Cực xem thấy hỏi:
“Kiết hung thế nào”. Thổ Hành Tôn nói:
“Không xong việc chi cả, nguyên xung quanh cái hầm ấy, đều những kim sa, cứng như vách đá, nên vào không đặng”. Thổ Hành Tôn nói:
“Sư thúc chớ lo lường, để tôi về Phi Long động, thì chắc có phép mà vào hầm ấy chớ chẳng khó chi”. Nam Cực cho chóng.
Thổ Hành Tôn nói:
“Sư thúc chớ lo lường, để tôi về Phi Long động, thì chắc có phép mà vào hầm ấy chớ chẳng khó chi”. Nam Cực nghe nói rất mừng, dặn dò hành Tôn, có đi thì đi cho mau, về cho chóng. Thổ Hành Tôn nói:
“Sư thúc chớ lo”. Bèn chun xuống đất, tuốt lên Phi Long động, giây phút đến động, chun lên gõ cửa, kêu rằng:
“Sư đệ mở cửa cho mau, có tôi đến đây”. Đồng Nhi mở cửa bước ra, xem thấy cười rằng:
“Quả thiệt sư huynh đã đến, sư phụ Ở trên điện, bảo tôi mở cửa múc nước, và nói có anh đến, quả thiệt chẳng sai”. Thổ Hành Tôn không rảnh đáp lại, tuốt vào đại điện, quỳ xuống bẩm rằng:
“Sư phụ, đệ tử lạy ra mắt”. Vốn ông Cù Lưu Tôn này, đời Tam Hoàng hắc đạo thành tiên, phép lực vô cùng, lòng động biết trước, cùng với Nam Cực là bọn học trò của ông Ngươn Thủy thiên tôn.
Lúc ấy lão tổ ngồi trên điện cười nói:
“Thổ Hành Tôn sao ngươi không ở trong động tu hành, lại xuống núi đi làm thế công chuyện cho người như vậy, ngươi tới việc gì ta đã biết hết”. Bèn dạy đồng nhi vào sau động, lấy một lá bùa, trong cái hộp đá, mà đem đây, đồng tử vâng mạng, lấy ra một đạo linh phù. Lão tổ trao cho Thô?
Hành Tôn dặn rằng:
“Ngươi lấy lá bùa này dán trên đầu, và ta dạy cho ngươi bốn chữ chơn ngôn, thì vào đặng kim sa”. Hành Tôn cúi vâng nghe mấy lời dạy bảo, rồi lạy từ sư phụ ra khỏi động, chun vào đất đi như bay, về tới dinh Yên chun lên ra mắt Nam Cực, đem việc thầy cho bùa và dạy phù chút thuật lại mộthồi. Nam Cức trao linh đơn cho Thổ Hành Tôn, hành Tôn dán bùa trên đầu, chun tuốt xuống đất, thẳng tới kim sa niệm bốn chữ chơn ngôn, chun qua dễ như rồng ràng vào động, xem thấy Tôn Tẫn ở giữa hầm, ngồi cúi đầu dưỡng khí định thần. Thổ Hành Tôn tới trước kêu rằng:
“Liểu nhứt chơn nhơn”. Tôn Tẫn nghe có người kêu, mở mắt nhìn biết Thô?
Hành Tôn, liền vội vàng đứng dậy, cúi đầu hỏi rằng:
“Lão tổ đi đâu mà đến chốn này?”. Thổ Hành Tôn cười nói:
“Ngươi chẳng biết hay sao, nay có Chưởng giáo cùng sư thúc của ngươi, và các tiên ông đều đến phụ giúp, sai ta đem linh đơn cho người bảo hộ thân, rồi cùng chúng tiên ở ngoài phá trận”. Tôn Tẫn nghe nói, cúi đầu lạy, hai hàng nước mắt nhỏ sa nói:
“Tôi là Tôn Tẫn, mỗi khi gặp nguy nan, đều mong chờ Chưởng giáo tổ sư cứu giúp, cám đội ơn sâu, xin lão tổ về dinh bẩm với Chưởng giáo rằng:
Tôi ở trong kim sa cúi lạy chúng tiên ông, cùng sư phụ, sư thúc tôi, nếu tôi ra khỏi trận rồi thì phụng linh cứu cha anh tôi lên núi cao, mai táng xong việc, tôi trơ?
về Thiên Thai, quyết chẳng xuống hồng trần nữa”. Thổ Hành Tôn nghe rồi nói:
“Tôn Bá Linh ngươi hãy chịu phiềnngồi đây, đặng tôi trở về”. Tôn Tẫn lật đật nắm lại nói:
“Xin Chưởng giáo Nam Cực rằng:
“Trên pháp đài có một cái hộp trang tiên, trong hộp ấy nhốt vì sao bổn mạng của tôi, xin Chưởng giáo trước sai Bạch Viên, trộm cái hộp ấy thả sao bổn mạng tôi trở về, dẫu phá trận có chậm trễ đi nữa, thì mạng tôi ắt chẳng hề chi”. Thổ Hành Tôn nói:
“Ngươi hãy an lòng ở lại đặng tôi trở về, tôi cùng đem hết mọi lời mà tỏ cùng Chưởng giáo”. Nói rồi chun khỏi kim sa, vẹt đất chạy về dinh Yên chun lên, Nam Cực xem thấy hỏi:
“Tôn Tẫn tánh mạng thế nào?”. Thô?
Hành Tôn nói:
“Trong hầm kim sa tuy rằng lợi hại, song tánh Tôn Tẫn cũng chẳng hề chi”. Và đem lời Tôn Tẫn dặn dò, mà tỏ hết cho Nam Cực nghe, Nam Cực kêu Bạch Viên dạy rằng:
“Ngươi phải lập tức vào trận một lần, và có Thái Bạch kim tinh gìn giữ cái hộp trang tiên, nên khó hạ thủ (lấy trộm) phen này vào trộm phải có cây quạt nga mi đặng tôi quạt lui Kim tinh, thì mới trộm cái hộp ấy đặng”. Nam Cực bèn trao cây quạt nga mi cho Bạch Viên.
Bạch Viên hai tay tiếp lấy, ra khỏi dinh, bay thẳng tới trận xuống trên pháp đài, nhắm ngay Thái Bạch quạt luôn ba cái, Kim tinh thối lui. Bạch Viên bay đáp trên hộp trang tiên viết sáu chữ Lão quân sắc lịnh tốc khai, ngỡ là giơ hộp ra đặng, nào hay cứng như mọc rễ, trong lòng bắn loạn, làm phép ẩn thân, trở xuống pháp đài, nghĩ thầm rằng:
“Cái hộp trang tiên này chắc có vật chi yểm trấn, nếu không vậy, tại làm sao viết mấy chữ bùa giở ra không đặng”. Ý muốn trở lên xem coi cho minh bạch, ngặt vì Thái Bạch Kim tinh, đã trở lại chỗcũ rồi, muốn quạt nữa, song e tiết lậu cơ mưu, nghĩ rồi bay trở về dinh, bẩm hết các việc, Nam Cực nói:
“Có lý nào mà cổ quái như thế, Vương Thuyền ngươi đoán coi, vì cớ chi vậy?”. Vương Thuyền lần tay suy tính nói:
“Trên hộp ấy có kim sa giăng dậy, nên mở ra không đặng, song hôm nay vua Tần vào trận, giở cái hộp trang tiên ra coi, thì sao bổn mạng Tôn Tẫn đặng trở về trời, ấy là cái điềm rất tốt”. Nam Cực nói:
“Hay lắm, hay lắm, phải làm như vầy”. Bèn kêu Bạch Viên lại gần kề tai nói nhỏ, Bạch Viên lãnh pháp bửu ra dinh đi tuốt, Nam Cực kêu Văn Thông dặn rằng:
“Ngươi phải làm như vầy, như vầy”. Văn Thông vâng mạng, lật đật trở về dinh mình, truyền lịnh đánh trống, chúng tưởng các dinh nai nịt vào trướng, đứng phân hai hàng, Khoái Văn Thông lên trướng, chúng tưởng vòng tay hỏi:
“Sư huynh đánh trống có việc quân tình chi chăng?”. Văn Thông vòng tay nói:
“Tôi vâng mạng Chưởng giáo, nhóm chúng tướng mà nghe lịnh”.
Khoái Văn Thông kêu lớn rằng:
“Tôn tướng quân hãy lãnh năm trăm binh ra phía đông cách dinh Vương Tiễn năm dặm, hễ thấy trong trận có kim quang bay lên, thì tức tốc kéo binh đến dinh Tần, hễ trương thanh thế, chẳng nên vào trận, hễ nghe tiếng chiêng thì rút binh trở về”. Tôn Yên lãnh mạng lui ra, bèn dạy Triển Đắc Năng dẫn năm trăm binh, ra phía nam ngoài dinh Tần dồn binh nơi ấy, hễ thấy kim quang xẹt lên trời, thì la hét đánh phía ngoài dinh, chẳng nên vào trận, hễ nghe tiếng chiêng liền thâu binh trở lại và sai Triển Đắc Thắng dẫn năm trâm binh, giả cướp dinh Tần nơi phía bắc, hễ thấy kim quang thì tới nghe tiếng chiêng lui về, chẳng được tham công đánh vào trận nó. Lại sai Giải Tính kéo năm trăm nhơn mã cướp đánh phía tây, hễ thấy kim quang thì la ó lên, nghe tiếng chiêng kịp thâu binh về, các tướng lãnh mạng, dẫn binh ra đi.
Nói về Ngụy Thiên Dân đến giờ tý ngọ, vào trận dùng kim sa liệng đánh Tôn Tẫn, còn các giờ khác, thì ở trong dinh cùng Thủy Hoàng đàm luận:
Ngày kia Thủy Hoàng hỏi Thiên Dân rằng:
“Tôn Tẫn bị nhốt trong trận đã bốn ngày rồi, chẳng biết nó đã chết hay chưa?”. Thiên Dân nói:
“Hồn Tôn Tẫn tôi thâu vào trong hộp báu, chưa qua bảy ngày bổn mạng tính phải dứt, ngày mai ắt chết trong kim sa”. Thủy Hoàng nói:
“Trẫm nghe Tôn Tẫn là người đại la thần tiên, tài phép quãng đại, nay ra không khỏi kim sa, chẳng biết kim sa hóa ra Thổ sơn thế nào? Trẫm muốn vào trận xem coi, chẳng biết nên chăng?”. Vốn Thiên Dân đã sẵn lòng, muốn Thủy Hoàng vào trận, cho rõ tài thủ đoạn của mình, Thủy Hoàng cả mừng, truyền chỉ thắng ngựa, còn Ngụy Thiên Dân cỡi mai huê lộc, hai người ra khỏi cửa dinh, nhắm phía đông trận tru tiên thẳng tới, đi đến vòng ngoài thì có Vương Tiễn nghinh tiếp, Thủy Hoàng truyền chỉ Điện tây hầu, chẳng cần phải đi bảo giá làm chi, hãy giữ phần đất là việc trọng, qua khỏi dinh bàn, vào đến cửa trụ tiên, Thủy Hoàng xem thấy bốn hướng tám phương, âm phong phảng phất, khí lạnh lạ lùng, ngó lên xảy thấy hào quanh rực rỡ, chói sáng ngời ngời, giữa trung ương có tòa pháp đài, trên đài cặm cờ giấy phất phơ, lại có vài mươi quân sĩ, kêu tên Tôn Tẫn, hai người đi đến dưới đài, Thiên Dân nhường cho Thủy Hoàng đi trước, mình xuống huê lộc theo sau, Thủy Hoàng bước lên, thấy cái hộp trang tiên, thì hỏi:
“Cái hộp này để dùng làm chỉ”. Thiên Dân nói:
“Cái đó để nhồt vì sao bổn mạng của Tôn Tẫn”. Thủy Hoàng lại gần xem kỹ, thấy trên nắp có bùa niêm phong thì hỏi:
“Trong ấy quả có vì sao chăng?”. Thiên Dân nói:
“Trong đó có hình Tôn Tẫn bằng đất, cái sao bổn mạng cũng ở trong hình đất”.
Thủy Hoàng nói:
“Trẫm muốn coi thử ra thế nào?”. Thiên Dân nghe nói, miệng niệm chơn ngôn, giở hộp kim sa, gỡ bùa thái sơn, giở nắp hộp ra, Thủy Hoàng lại gần, coi kỹ thấy một hình bình nhơn bằng đất, lớn chừng ba tấc, mặt mày giống in Tôn Tẫn chẳng sai, trên đầu có dạng sáng chói, Thiên Dân ngó thấy sáng cả kinh, tưởng thầm rằng:
“Rất lợi hại cho thằng cụt, có khi nó ở dưới hầm làm phép gì đó, nên chưa chết”.
Nói về Bạch Viên vâng lời Nam Cực đến pháp đài dùng phép ẩn thân, xem thấy rõ ràng Ngụy Thiên Dân giở hộp trang tiên vội vàng lấy thái cực đồ của ông Nam Cực giở ra, tức thì kim quang sáng ngời, đỏ như cục lửa, bay bổng trên không.
Lúc ấy bốn tướng bên Yên ở ngoài trận, xem thấy kim quang bay lên, nhắm dinh Tần xông vào, Thủy Hoàng nghe ngoài dinh pháo nổ rền trời, tiếng la chẳng dứt, thất kinh nói:
“Không xong rồi, binh Yên đến phá trận đó, phải đi cho mau”. Thiên Dân rộn ràng không tính được việc chi, lật đật lấy nắp hộp, chẳng kịp niêm phong niệm chú, phò Thủy Hoàng trở xuống pháp đài. Bạch Viên xem thấy, lòng rất vui mừng, vội vàng bước tới, quạt lui Kim tinh, viết sáu chữ lão quân sắc lệnh tốc khai, giở nắp hộp ra, nhẹ tay lấy cái hình đất, rồi nhổ một cái lông đâu, bỏ trong hộp, thổi hơi tiên khí, tức thì biến hình Tôn Tẫn bằng đất thế vào, lật đật bước xuống pháp đài, chạy qua Đông nam, được bảy bước, đứng dựng chân chữ bát đọc chú ẩn tính (che sao bổn mạng) rồi gói hình đất trong thái cực đồ, cỡi mây về dinh.
Nói về bốn tướng bên Yên, gióng trống phất cờ la hét vang rân giả tới phá dinh Tần, chúng tưởng bên Tần lật đật dẫn binh ngăn cự, binh Yên chẳng dám tới trước cứ ở xa xa đánh trống la hét, muôn tên bắn vãi, binh Tần lấy bia đỡ tên, kêu binh cung thủ ráp tên bắn vãi, binh Tần lấy bia ra đỡ tên, kêu binh cung thủ ráp tên bắn lại, còn Bạch Viên vào trướng đem cái hình đất giao cho Nam Cực, Nam Cực miệng niệm chơn ngôn, lấy tay vỗ trên đầu cái hình đất, nạt rằng:
“Tính quang cao không trở về, còn đợi chừng nào?”. Tức thì trên đầu cái hình đất, xông ra một lằn hào quang, bay tuốt lên trời, Nam Cực dạy Bạch Yên ra trận đánh chiêng thâu binh, binh tướng bên Yên nghe trong dinh mìmh đánh chiêng, đều kéo binh trở về, Chiêu Vương thấy Bạch Viên trộm được hộp trang tiên, thì nói với Nam Cực rằng:
“Hộp trang tiên đã lấy rồi, xin lão tổ toan mưu phá trận”. Nam Cực nói:
“Hãy còn kiếm bốn món trấn vật, rồi sau mới phá được trận ấy”. Vừa lúc Khoái Văn Thông dắt bốn tướng, vào tướng phục lệnh. Nam Cực nói:
“Chư vị tướng quân chớ nài khó nhọc, tôi có ba lá thiệp này, vậy ba vị tướng quân mỗi người lãnh một lá chia nhau ra đi, khỏi dinh năm dặm giở coi theo trong lá thiệp mà làm, chẳng được trái lệnh”. Ba tướng lãnh thiệp ra đi, Nam Cực lấy một lá thiệp, kêu Văn Thông dạy rằng:
“Ngươi hãy giao ấn lệnh cho thiệp, này, và ta cho ngươi một lá Tôn Yên thay thế, ngươi lãnh thiệp này, và ta cho ngươi một lá bùa thần hành dán nơi bắp vế cháy tới nơi Hàng, sẽ giở lá thiệp ra coi mà lấy vật ấy đem về cho, chẳng được chậm trễ”. Văn Thông vội vàng lãnh thần phù, ra dinh dám trên bắp vế, tức thì đi như tên bắn, nhắm nước hàng thẳng tới.
Lúc ấy Xích Mỵ nói với Nam Cực rằng:
“Tôi tưởng lại bọn Ngụy Thiên Dân, đều thuộc về hạ giáo (là học trò ở dưới tay mình) chẳng dùng câu tiên bài bắt nó tới, mà dạy nó bãi trận, thì chẳng hay hơn”. Nam Cực nói:
“Tôi há chẳng biết biết sao, nhơn đời thất quốc phá trận âm hồn, đánh Huỳnh Thúc Đương, các động ai ai cũng đều nghe tiếng, nếu nay đòi nó không tới, như vậy có phải là làm cho người chê cười mình chăng?”. Chúng tiên nghe nói lẳng lặng làm thinh.
Nói về Ngụy Thiên Dân bảo hộ Thủy Hoàng về dinh, đến nơi thì binh Yên lui hết, bèn trở vào trận, lên pháp đài, giở hộp trang tiên ra coi, thấy trên đầu cái hình đất còn chói sáng như khi trước, trong lòng rất mừng, bèn dùng phu chú niêm phong, không dè Bạch Viên hóa cái hình giả mà để đó.
Lúc ấy vừa chạng vạng, Thiên Dân lên đài, ngồi chờ qua giờ tỵ, đặng có dùng kim sa mà liệng Tôn Tẫn, bỗng quay đầu ngó thấy ngoài dinh, chiếu sáng đỏ trời trong lòng cả nghi, vội vàng xuống đài ra ngoài trận, ngước mặt lên xem, thấy bên dinh Tần năm sáu đạo hào quang xông lên sáng rỡ, bèn ngó trên trời, thấy sao bổn mạng Tôn Tẫn ở bên sông thiên hà, sáng chói rỡ ràng, trong lòng cả kinh, lật đật lần tay đoán coi nói:
“Không xong, Nam Cực xuống núi rồi”. Trong lòng vừa giận vừa sợ, vội vàng vào trận mời Tần, Châu, Kim, Huỳnh, bốn vị đạo nhơn tới nơi nói:
“Liệt vị đạo hữu ôi, không xong rồi, nay có Triều tiên động, Chưởng giáo xuống cứu Tôn Tẫn, bọn ta phải giữ gìn cho lắm”. Chúng tiên nghe nói cả kinh hỏi vì sao biết được Thiên Dân nói:
“Liệt vị hãy coi nơi dinh Yên, hào quang ánh trời, còn bên sông Thiên hà không phải là sao bổn mạng của Tôn Tẫn đó sao? Ta đoán quẻ biết là Nam Cực sai Nhạn Sầu Giảng Bạch Viên đến ăn trộm, nó tuy biết trộm, ta cũng biết câu, để ta câu một lần nữa coi nó làm sao mà trộm được cho biết”. Bốn người ngó qua dinh Yên, thấy mây tốt phủ giăng, hào quang sáng rỡ biết là Chưởng giáo ở đó, người người đều thất kinh, nói với nhau rằng:
“Chưởng giáo xuống núi ắt trận này liệu khó giữ đặng, biết làm sao bây giờ”. Ngụy Thiên Dân nói:
“Nhứt bất tố, nhị bất hữu, chưởng giáo tuy có thần thông quãng đại, cũng chẳng dám trái trời đâu”. Châu Tần, Kim, Huỳnh nói:
“Tuy sư huynh nói làm vậy chớ phép lực bọn ta không phải là tay đối thủ với người”. Ngụy Thiên Dân nói:
“Để mặc tôi toan liệu, các ngươi chớ lo, giữ gìn cho cẩn thận mà thôi”. Bốn người đều trở ra trấn giữ.
Lúc ấy Ngụy Thiên Dân miệng tuy nói vậy, trong lòng lo sợ chẳng yên, ý muốn bãi trận thả Tôn Tẫn về ngặt lòng chẳng chịu còn muốn cùng nam Cực chống trả, lại sợ mình không phải là địch thủ, nghĩ đi nghĩ lại tới lui hai lẽ khó phân, bèn thở dài một tiếng nói:
“Chẳng dè mấy trăm năm tu luyện, hôm nay đều thả dòng sông”.
Nghĩ rồi bèn nổi xung lên, đem kim sa liệng đánh Tôn Tẫn.
Chương 20 : Nam Cực cả phá trận Tru Tiên; Hải Triều giận cho Tản thiên tiễn
Nói về Ngụy Thiên Dân biết Nam Cực xuống núi ỷ có kim sa, song lòng rất kinh sợ, tưởng thầm rằng:
“Cái trận này đã vây cầm Tôn Tẫn đặng rồi, vậy thỉnh thêm thần tướng gìn giữ thì mới khỏi lo”. Bèn bỏ tóc xõa, cầm gươm, đốt bùa niệm chú tức thì bay xuống bốn vị lôi bộ, Thiên Dân phân phát bốn cửa, phụ thêm trấn giữ.
Nói về Khoái Văn Thông lãnh pháp chỉ Nam Cực, làm phép thần hành (đi mau như thần), chẳng đầy ba khắc đi đến nước Hàng, tới thành Hàng, đang giở thiệp ra xem, trong thiệp dạy tới phủ Vương Tôn mà lấy lạc sản thảo (là cỏ lót đẻ). Khoái Văn Thông coi rồi, đi dọc đường hỏi thăm chỗ phủ Vương Tôn, đến cửa tỏ hết các việc, gia tướng chạy vào thông báo. Hàng Vương Tôn nghe nói, người bên nước Yên đến, vội vàng sửa áo bước ra nghinh tiếp vào giữa đại đường. Hàng Vương Tôn hỏi:
“Chẳng hay đại phu đến đây có việc ci chăng?”. Văn Thông hỏi:
“Hiền vương mới thêm đặng một vì Vương tử nữa phải chăng?”. Vương Tôn thất kinh hỏi:
“Sao đại phu rõ biết, đêm hôm qua vợ tôi đẻ đặng một đứa con trai, nay mới vừa hai ngày”.
Văn Thông nghe nói rất mừng, nói:
“Tôi tới đây vốn là xin cỏ lạc thai đặng phá trận Kim sa”. Vương Tôn nghe nói liền kêu gia đình vào trong lấy ra, dùng vải gói lại trao cho Văn Thông, Văn Thông lấy rồi lạy từ hàng Tôn Vương ra khỏi thành, làm phép thần hành, chạy tuốt về dinh hịch lịnh.
Nói về Giải Tính một người một ngựa, đi vòng qua dinh Tần nhắm theo đường cái, đi hoài vừa đặng năm mươi dặm, dừng ngựa giở thiệp ra coi, thì thấy dạy:
“Lấy cho đặng thủ cấp Bát bại tướng quân”. Trong lòng lấy làm khó, nói:
“Ta đâu biết Bát bại tướng quân là người gì, biết đi chỗ nào mà tìm kiếm bây giờ”. Bèn gò ngựa đi chậm rãi một hồi, tới nơi làng kia, xem thấy lương dân đông vô số, đứng vây xung quanh một người cao lớn, mắng nói:
“Ta không cầu ngươi mở miệng nói xàm”. Lại có người nói:
“Nếu ngươi nói điều bất lợi, chúng ta chết chẳng dung”. Người cao lớn ấy chẳng nói đi, cũng không đáp lại, Giải tính thấy vậy, cột ngựa dưới nhành cây tòng, bước lại chen lấn vào trong, hỏi dân rằng:
“Chúng ngươi vây người đó làm gì?”. Người cao lớn ấy, thấy Giải Tính thì chạy nhào, miệng la chẳng dứt, nói:
“Không xong, đại nạn ta tới rồi”. Giải Tính chẳng rõ cớ gì, bèn hỏi mấy người dặn, trong ấy có một ông già nói:
“Tướng quân chưa rõ, va là một vị thần trong làng tôi nên rất linh hiền, hễ va nói gì thì có nấy, mỗi năm đến trong làng tôi một lần, cho nên người trong làng, chẳng dám khi dễ, lập va một cái miễu, hễ năm nào tới nói việc tốt, thì năm ấy mưa hòa gió thuận, mùa đặng lúa nhiều, nếu nói việc xấu thì thất mùa đói khát, cho nên cầu va nói tốt, mà va chẳng chịu”. Giải Tính nghe rồi, nói:
“Có việc quái lạ như vậy, thiệt cũng rất kỳ, vậy chớ miễu va ở chỗ nào, kêu tên họ gì?”. Ông già đáp rằng:
“Cái miễu ở trong cụm rừng trước kia, va kêu là Bát Bại tướng quân”. Giải Tính nghe nói, rất mừng vội vàng từ biệt chúng nhơn, tới dưới cây tòng, dắt ngựa thót lên, chạy vào rừng ngó thấy người cao lớn, khi nãy dừng trước cửa miễu, kêu lớn rằng:
“Giải Tính nước Tề, ngươi hãy vào đây mà lấy đầu ta, ngươi phải nói với Nam Cực, biểu người tụng kinh siêu độ cho ta”. Nói dứt lời, đi tuốt trong miễu. Giải Tính lật đật dắt ngựa chạy theo, đi vừa tới miễu nghe trong miễu khua một tiếng liệng ra cái đầu người, máu chảy dầm dề. Giải Tính xách lên cắt vạt áo chiến bào gói lại, rồi thót lên ngựa trở lai đường củ, đi vòng qua dinh Tần, mà về vừa tới ngã ba đường, xảy gặp Triển Đắc Năng. Đắc Năn thấy Giải Tính cỡi ngựa bên kia đilại bèn kêu lớn rằng:
“Giải Tính ơi! Việc của anh thế nào?”. Giải Tính nói:
“Kiếm đặng rồi, còn em làm sao?”. Triển Đắc Năng nói:
“Tôi cũng có rồi, trong thiệp của tôi dạy, lấy bát phụ huyết (là máu của người đàn bà dữ tợn hỗn hào), anh nghĩ mà coi, trong thiên hạ thiếu chi những người đàn bà dữ, tôi tới trong làng ấy, hỏi thăm cô bà già kia dữ tợn, hổn hào, họ dẫn đường tôi tới đó, tôi nó vâng chỉ Yên Chiêu Vương sai đến giết người đàn bà dữ ấy, mà răng chúng, chẳng đợi phân nói tiếng chi, tôi liền chém quách, lấy bình đựng huyết đem về đây, còn của anh vật chi đó vậy?”. Giải Tính nói:
“Việc tôi thiệt rất nên khó”. Bèn đem việc giết Bát Bại tướng quân, mà thuật lại một hồi. Hai người mừng rỡ, kéo nhau về dinh hịch lệnh.
Nói về Triển Đắc Thắng lãnh thiệp của ông Nam Cực, ra khỏi dinh nhắm phía tây, đi hơn năm chục dặm, giở thiệp ra coi, nguyên trong thiệp dạy kiếm độc nữ tâm, trong lòng nghĩ thầm rằng:
“Lão đạo sỉ này thiệt rất chướng, ta đâu biết độc nữ là người gì mà không chỉ rõ ở chỗ nào, ta biết đâu tìm đặng”. Vừa đi vừa nghĩ xảy thấy một cái am lớn, đang lúc khát nước, bèn gõ cửa am, trong ấy bước ra một người đạo cô (là bà vải) hỏi:
“Tướng quân đến am có việc chi chăng”. Triển Đắc Thắng nói:
“Tôi nhơn có việc quan, đi ngang qua đây, muốn xin uống thuốc cho đở khát, chẳng biết đạo cô có khứng chăng? Đạo cô nói:
“Tôi là người xuất gia, lấy việc phương tiện (hễ có việc ai muốn xin thì cũng cho) làm gốc”. Triển Đắc Thắng nghe nói bước vào cửa am, đạo cô đi trước dẫn tới khách đường ngồi xuống, thật là sạch sẽ u nhân, đạo cô quay vào trong, kêu rằng:
“Độc nữ có khách, hãy bưng trà ra cho mau”. Triển Đắc Thắng nghe nói thất kinh, nghĩ thầm rằng:
“Không dè có người tên Độc nữ, song không biết làm sao giết nó đặng”. Nghĩ rồi sanh ra một kế, xem thấy trong ấy bước ra một người già.
Óm tợ cây không, giống tạc hình.
Da nhăn mặt xấu, thấy nên kính.
Tóc bạc như tơ, ngoài sáu chục, Già tuy già vậy hãy còn nên trinh.
Người con gái già ấy, bưng trà trao cho Triển Đắc Thắng. Đắc Thắng tiếp lấy chung trà, hỏi đạo cô rằng:
“Vị linh đồ (là tiếng kỉnh học trò của đạo cô ấy) mày sao kêu độc nữ?”. Đạo cô nói:
“Tướng quân chưa rõ, nó năm nay sáu mươi tám tuổi, mà hãy còn con gái, vì đã chịu góa sáu lần, hễ người nào đi hỏi nó thì chết, cho nên không ai cười đặng, cha mẹ khuất sớm, mồ côi một mình, và nó là một người tánh tình hung dữ, mỗi việc mỗi tranh đua, nếu người ta hơn thì nó sanh lòng ghen ghét, cho nên người ta kêu là Độc nữ, nay tuổi tác đã già, tay không tiền của mới kiếm chỗ toàn thân cho khỏi người làm hại, vào đây xin làm đệ tử”. Triển Đắc Thắng nói:
“Tôi muốn mượn thùng cho ngựa uống nước, song chẳng biết am này có giết hay không?”. Đạo cô nói:
“Có giếng sau ma này”. Triển Đắc Thắng cả dạy Độc nữ dẫn tướng quân ra sau hậu viên, đi gần tới giếng, Triển Đắc Thắng rút gươm xuất kỳ bất ý chặt một gươm té nhào xuống đất, vén áo mổ hông, cắt lấy trái tim, rồi chấm máu đề nơi vách rằng:
“Tướng Tề là Triển Đắc Thắng, vâng mạng Chiêu Vương đến lấy tim nàng Độc nữ, đặng làm phép yểm trấn, như có ai sanh chuyện gì, thì chủ am kíp tới Dịch Châu khống cáo, tự nhiên vô sự”. Viết rồi cắt vạt áo chiến bào, gói trái tim, lên trở ra cửa trước, thót lên ngựa quất vài roi, chạy như bay, giây phút về đến dinh.
Lúc ấy bốn người đã về đủ hết, Nam Cực dạy về dinh tạm nghỉ, ngày mai nai nịt vào trướng nghe sai khiến đánh trận kim sa, chúng tướng nghe nói, người người vui mừng, kéo nhau ra về. Qua ngày thứ Nam Cực cùng Chiêu Vương lên trướng, chúng tướng giáp trụ tề chỉnh, đứng chầu ha bên, Nam Cực kêu rằng:
“Khoái Văn Thông, Tôn Yên, Triển Đắc Thắng, Triển Đắc Năng, Tôn Long, Ngụy Hổ, Giải Tính, ngô Quan tám người tiên phụ giúp, chúng ngươi bốn phía trận vật (là mấy vật để phá phép) tới trước cửa trận, nghe theo tiên nhơn điều khiển, chẳng đặng trái lệnh”. Tám tướng vâng mạng ra trướng, chia nhau bốn cửa, dẫn binh xông tới dinh Tần. Nam Cực bèn sai:
“Trường Mỵ, quỷ Cốc, Huỳnh Thạch Công, Vương Ngao, bốn người theo phụ tiếp cho tám tướng, như giết tan binh Tần rồi lại tới trước trận giơ những đồ trấn vật trên cao, kêu lớn rằng:
“Chư thần hãy lui về, nay ta vâng mạng Nam Cực, có đồ trấn vật đánh vào trận sợ e nhơ uế như thần. Nói rồi thì dùng đồ trấn vật đánh vào mấy cái bửu bối treo nơi bốn cửa, dùng phép bắt mấy tên đạo nhân giữ trận, tuốt vào hầm kim sa đứng vây bốn phía phòng giữ, kẻo Ngụy Thiên Dân chạy khỏi, chờ ta vào trận rồi ra sức bắt nó, còn Bạch Viên thì dùng phép phân thân (là một mình chia làm bốn cửa) đuổi những âm hồn ma quỷ ra ngoài trận, tuốt lên pháp đài, bắt Ngụy Thiên Dân, Nam Cực kêu Thổ Hành Tôn nói:
“Chơn nhơn, ngươi chịu phiền đi dưới đất, trước vào hầm kim sa, bảo hộ Tôn Tẫn, chờ Như Lai thâu kim sa rồi, thì Tôn Tẫn ra khỏi trận”. Thổ Hành Tôn lãnh việc phá trận mà thuật lại cho Tôn Tẫn nghe. Tôn Tẫn nghe nói rất mừng, rồi hai người ngồi trong hầm chờ Phật thâu kim sa, đặng ra mà hiệp sức bắt Ngụy Thiên Dân.
Nói về Khoái Văn Thông cùng tôn Yên, phá dinh Vương Tiễn, Tôn Yên đi trước, Văn Thông theo sau, la ó lên rằng:doc truyen audio
“Đạp phá dinh phiên”. Vương Tiễn lật đật dẫn binh giao chiến, binh Yên đánh giết quân Tần, kêu la chẳng dứt, bốn phía vỡ chạy, Vương Tiễn thua chạy, vừa muốn dùngbửu kiếm mà giết Tôn Yên, xảy gặp Trường Mỵ, cỡi mai huệ lộc xông ra chặn đường, thấy Vương Tiễn muốn dùng bửu kiếm bèn dựng lông mày lên, trong lông mày bay ra hai cục lửa đỏ, đánh nhằm mặt Vương Tiễn đau quá cự không nổi bỏ chạy, Trường Mỵ giục nai tới trước, Khoái Văn Thông cầm cỏ lạc thai dẫn binh tới cửa trận, Trường Mỵ kêu lớn rằng:
“Các thần hãy nghe truyền nói, nay tôi vâng phép Nam Cực lão tổ và đem đồ trấn vật đến phá, e làm nhơ uế chư thần, xin tránh trước xong hơn”.
Lúc ấy chư thần tướng nghe có trấn vật đánh vào, sợ nhiễm nhằm thân thể, lật đật tránh vẹt hai bên, Trường Mỵ xem thấy vội vàng cỡi nai chạy mất, Khoái Văn Thông lướt tới, hai tay nắm cỏ lạc thai vãi rộng vào trận, nghe nổ vang một tiếng, cây tru tiên kiếm liền rớt xuống đất. Khoái Văn Thông cùng Tôn Yên ở giữ ngoài trận, Trường Mỵ giục mai chạy tuốt vào trong.
Lúc ấy Bạch Viên dùng phép phân thân đuổi chúng quỷ hồn ra khỏi trận, bị mặt trời chiếu quỷ hồn đều tan vào đất, chẳng thấy hình dạng, Trường Mỵ vào cửa tru tiên vừa muốn đến hầm kim sa, xảy gặp Huỳnh Thúc Đương ngăn đón, nạt rằng:
“Lý Trường Mỵ không đặng ỷ tài, có ta ở đây”. Liền hươi trà điều trượng đánh tới, Trường Mỵ hươi gươm rước đánh, hai bên ở trong trận đánh đến mười hiệp, Huỳnh Thúc Đương lấy kim chuyên cầm nơi tay, liệng giữa không trung, hóa ra một vầng năm sắc chói sáng, nhắm ngay đầu Trường Mỵ đánh xuống. Trường Mỵ xem thấy cười rằng:
“Yêu đạo, mi có pháp bửu bao nhiêu, liệng ra cho hết. Nói rồi ngước mắt nhìn lên, dửng hai bộ lông mày tức thì bay ra hai cục lửa xông lên đở cái kim chuyên. Nguyên hai cục lửa ấy vốnvà tam muội chơn hỏa luyện thành. Giây phút cái kim chuyên tiêu mất, Trường Mỵ lấy gươm giơ lên, ngoắc một cái mà chỉ Huỳnh Thúc Đương, lúc ấy Huỳnh Thúc Đương thấy phép mình bị phá vừa muốn cử trượng tới đánh, bỗng thấy hai cục lửa bay tới gần, liền nghiêng mình tránh qua bị đánh nhằm vai té nhào xuống lộc, vừa muốn độn thổ chạy trốn, chẳng dè bị Trường My.
đánh một cái chưởng tâm lôi (là phép sấm sét trong bàn tay đánh ra) nhằm đầu chết tốt! Hỡi ơi! Một vị chơn tiên, chẳng khỏi chết dưới chưởng tâm lôi. Trường Mỵ thâu hỏa cầu (cục lửa) giục mai chạy đến hầm kim sa, đứng phía đông mà chờ.
Nói về Triển Đắc Nang, cùng Tống Long, xông vào dinh Lý Thiệt, nhờ phép lực ông Huỳnh Thạch Công, đánh Lý Thiệt thua chạy, rượt giết binh Tần, Huỳnh Thạch Công dạy Triển Đắc Năng đem đồ trấn vật vào trận rồi kêu lớn rằng:
“Chư thần lui về cho chóng, có trấn vật đến đây, nếu chẳng chịu lui e vấy đồ nhơ uế mà về trời không được, chớ trách tôi sao không nói trước”. Thần binh, thần tướng, ai mà chẳng sợ đồ nhơ uế, nghe nói đều bay tuốt, Triển Đắc Năng dùng máu vãi đùa vào trận, nghe vang một tiếng, cây cờ Lạc hồn rớt xuống đất. Huỳnh Thạch Công giục Kim Mao không vào cửa hãm tiên, gặp Châu Huệ Trân cỡi cọp chạy ra, kêu lớn rằng:
“Huỳnh Thạch Công sao cả gan dám vào trận ta, chớ mong chạy thoát, có ta đến đây”. Nói rồi hươi gươm chém nhàu, Huỳnh Thạch Công cử gươm lên đỡ, hai người đánh hơn mười hiệp, Huỳnh Thạch Công lén lấy Như ý đánh tới, Huệ Trân tránh không kịp, trúng nhằm mang tang té nhào xuống cọp, Huỳnh Thạch Công lướt tới đâm một gươm chết tốt. Khá thương:
Trăm năm tu luyện bay đâu mất, Cửa quỷ một mình lạnh lẽo thay.
Huỳnh Thạch Công đâm chêt Huệ Trân, rồi giục Kim Mao khổng vào phía bắc hầm km sa đứng chờ.
Nói về Vương Ngao cỡi hắc hổ, dẫn Ngô Quang, Giải Tính phá dinh Chương Hàng. Chương Hàng lãnh binh đối địch chưa mấy hiệp bị Vương Ngao liệng cái tu.
tiên bài, đánh trúng Chương Hàng gần nhào xuống ngựa, thổ huyết nằm trên yên chạy dài. Vương Ngao chẳng rượt hteo; dạy Giải Tính đem đồ uế vật tới trước, kêu lớn rằng:
“Chư thần mau mau lui về, nay có đồ ô uế đánh vào trận, hãy tránh cho mau”. Chúng thần nghe nói lật đật bay tuốt, Giải Tính hai tay đưa cái đầu người lên cao, liệng nhầu vào trận tức thì kim chung bị đồ dơ liền rớt xuống đất. Vương Ngao xông vào cửa trảm tiên môn, xảy gặp Kim Tử Lăng đón đường, nạt lớn rằng:
“Vương Ngao chớ chạy, có ta đây”. Vương Ngao cười nói:
“Mi có phép lực bao nhiêu dám ngăn đón đường ta”. Nói rồi hươi búa tới chém Tử Lăng, hai người đánh vùi đến ba mươi hiệp, chẳng phân hơi thuạ Vương Ngao cả giận nạt rằng:
“Đồ yêu đạo, sao dám ra sức chết mà đánh với ta”. Bèn lấy tụ tiên bài, vừa muốn liệng lên, bên kia Tử Lăng biết cái tên bài rất lợi hại liền nhảy xuống lộc, độn thổ chạy mất. Vương Ngao quất cọp vào phía tây hầm kim sa đứng đợi.
Nói về Triển Đắc Thắng cùng Ngụy Hổ hai tướng đánh Anh Bố thua chạy, rượt tàn binh tần, phá lớp vây ngoài, Vương Thuyền dạy Triển Đắc Thắng, theo đếncửa trận, kêu lớn rằng:
“Chư thần tránh đường, có đồ trấnvật đến phá trận”. Chúng thần lật đật tránh hết, Triển Đắc Thắng la lên một tiếng, liệng trái tim Độc nữ vào trận, tức thì ngọc khánh liền rớt xuống đất, Vương Thuyền tuốt vào cửa triệt tiênmôn, thấy Tần Mãnh hươi lăng nha bổng đón đường, hai người đón đánh chưa mấy hiệp.
Vương Thuyền liệng chưởng tâm lôi đánh Tần Mãnh. Tần Mãnh biết lợi hại, bèn cỡi kim quang bay bổng lên không, bị Bạch Hạc đồng tử, đánh một cái kim như ý, té nhào xuống đất. Vương Thuyền liệng chưởng tâm lôi đánh tiếp, khá thương Tần Mảnh bị chưởng tâm lôi đánh bể óc, hồn theo Châu, Huỳnh đạo nhơn đi tuốt, Vương Thuyền giục mai vào phía nam hầm kim sa.
Lúc ấy bốn vị tiên trưởng đều tới đủ còn chờ Chưởng Giáo đến phá trận mà thôi.
Nói về Ngụy Thiên Dân ở trên pháp đài, ngó thấy bốn vị tiên trưởng tới đứng vây bốn phía, hoảng kinh than dài một tiếng, nói:
“Không xong, mạng ta phen này hết rồi”. Vội vàng lấy hột kim sa vừa muốn liệng bốn tiên cho nhào xuống hầm, bỗng đâu Nam Cực cùng Bạch Hạc ở trên không bay xuống. Ngụy Thiên Dân nói:
“Không xong”. Vội vàng lấy kim sa liệng lên. Nam Cực thấy kim sa tới rất dữ tợn, lật đật lấy quạt ga mi, quạt ra hai cái bay tuốt lên không.
Lúc ấy Hộ pháp già lam cầm chén kim bát úp xuống, rút kim sa vào binh. Thiên Dân kim sa bay lên đi mất, chẳng thấy hình dạng, trong lòng hoảng kinh, liệng luôn mười măm hột kim sa một lượt, Nam Cực thấy kim sa bay tới, rất nên lợi hại, lật đật quạt luôn ít quạt, bay tuốt lêntrên, lớn như cây lọngvàng, ở trên đánh xuống. Nam Cực vừa muốn quạt nữa, xảy thấy Họ pháp già lam ở trong vầng mây, kêu nói:
“Nam Cực tiên ông, nay tôi vâng mạng Phật tổ, đến thâu kim sa”. Nói rồi liệng bình bát vu, kim sa đều thâu vào hết, Hộ pháp cỡi mây bay về Tây phương, Nam Cực thấy già lam thâu hết kim sa, vội vàng lấy quạt nga mi, nhắm ngay Ngụy Thiên Dân quạt ra ra một cái, Thiên Dân làm sao mà cự cho nổi, túng phải hóa kim quang, bay bổng trên không, Nam Cực ngó thấy liền liệng chưởng tâm lôi, đánh Ngụy Thiên Dân rớt xuống đất, Bạch Viên xông tới đâm một gươm chết tốt, Nam Cực liệng luông ít cái chưởng tâm lôi lên vang trời.
Lúc ấy Thổ Hành Tôn cùng Tôn Tẫn, đang ở dưới hầm, nghe sấm nổ liên thinh, thì biết là Chưởng giáo đã phá trận rồi, lúc ấy Nam Cực ở trên pháp đài, dùng nga mi phiến quạt bay núi Thổ sơn. Tôn Tẫn ngó thấy mặt trời lật đật thót lên thanh ngưu cùng Thổ Hành Tôn nhảy ra khỏi hầm, Nam Cực cùng chúng tiên niệm chú lui thần, đưa thiên binh tướng về trời, rồi truyền quân dùng lửa đốt tòa tru tiên này, giây phút cháy tiêu, các tiên kéo về dinh Yên. Tôn Tẫn tới trước lạy Nam Cực, nhờ ơn cứu sống. Nam Cực nói:
“Ngươi lòng phàm chưa hết dứt, thường lưu luyến hồng trần, ta đã hai phen xuống núi, cứu tánh mạng ngươi khỏi chết, từ rày về sau, nếu còn mắc nạn, ta chẳng cứu đâu”. Nói rồi từ biệt Chiêu Vương ra khỏi dinh, cùng Bạch Hạc cỡi mây đi tuốt, Tôn Tẫn lạy tạ sư phụ, sư thúc, cùng các tiên ông. Trường Mỵ nói:
“Tôn Tẫn, ngươi lo cho xong việc lớn của ngươi, rồi mau trở về núi, chớ làm mất cái công phu ngươi tu luyện”. Tôn Tẫn dạ dạ xin vâng, Vương Thuyền nắm tay Tôn Tẫn nói rằng:
“Quản Văn Tử có nghe lời ông Chưởng giáo nói khi nãy đó chăng, nếu ngươi còn lưu luyến hồng trần, mà mắc tai nạn nữa, thì chớ trách ta sao chẳng cứu, rất đỗi phép lực như ta, còn chẳng trái trời được thay huống gì là ngươi”. Tôn Tẫn quỳ xuống bẩm rằng:
“Vì đệ tử làm cho liên lụy đến tổ sư xuống núi đã đôi phen, ba lượt, tôi há chẳng biết sao, nếu tôi mai táng cha anh xong rồi, không dám tái phạm phép trời, mình nhiễm hồng trần nữa”. Các tiên nói:
“Như vậy mới là phải cho”. Các tiên từ biệt Chiêu Vương, đều bay về núi, Bạch Viên vừa muốn cáo từ, Tôn Tẫn rơi lụy nói:
“Mang ơn hiền đệ xuống núi, thỉnh tiên giải cứu, thì cái ơn đức ấy biết chừng nào anh trả đặng”. Bạch Viên nói:
“Tam ca chớ phân lời ấy, nay em về núi chẳng biết ngày nào tụ hội nhau được nữa, song cầu ước cho anh các việc chớ nên ỷ tài, mà mắc tai họa”. Tôn Tẫn đáp:
“Lời của em như vàng đá, anh xin ghi nhớ, chừng em về tới Nhạn Sầu Giang xin thế cho anh gởi lời thămbác bình an”. Bạch Viên gật đầu, sa nước mắt bước tới từ biệt Chiêu Vương rồi báo từ Tôn Tẫn mà dặn rằng:
“Anh hãy giữ mnh làm trọng”. Tôn Tẫn nói:
“Hiền đệ chớ lo, chừng anh mai táng phụ huynh anh xong liền trở về Thiên Thai”. Hai người dắt tay ra khỏi cửa dinh, rơi lụy phân nhau. Tôn Tẫn thấy Bạch Viên đi xa bèn trở vào trướng. Chiêu Vương truyền chi?
bày yến cùng á phụ ăn mừng.
Nói về Vương Tiễn thua chạy về dinh, đem việc bị phá trận mà bẩm hết cho Thủy Hoàng nghe, Thủy Hoàng cả kinh thất sắc, truyền lệnh ba quân nhổ trại lui binh cho chóng. Lệnh truyền rồi, Vương Tiễn chẳng dám ngăn trở, phải lui ra truyền cho quân binh nổ ra ba tiếng pháo, đâu đó có đều nhổ trại một lượt, suốt đêm kéo về, đi riết hơn vài trăm dặm, bèn đóng dinh hạ trại; quân vào báo nói:
“Có quân sư ơ?
ngoài cửa dinh hầu chỉ”. Thủy Hoàng bảo mời vào cho mau, giây phút Tử Lăng vào đến đại trướng, quỳ xuống tâu rằng:
“Tội đáng muôn thác, bại binh phục quốc, cầu xin chúa thượng nhiêu dung”. Thủy Hoàng khiến đứng hỏi rằng:
“Ngụy Thiên Dân va nói cái trận kim sa lợi hại như vậy, mà sao còn bị người phá được, bây giờ va đi đâu rồi?”. Tử Lăng tâu rằng:
“Vì Yên Chiêu Vương đốt hương cầu khẩn, thỉnh Chưởng giáo Nam Cực xuống núi, va phép lực vô cùng, Ngụy Thiên Dân, cùng bọn tôi đâu phải là đối thủ với va, rất thương cho Châu, Huỳnh, Tần, Ngụy bốn vị đạo nhân đều tử vu phi mạng, may tôi thoát khỏi độn thổ trốn về đây”. Thủy Hoàng nói:
“Vậy thì khí số nước Yên binh về nước, chờ thời dấy động thì hay hơn”. Tử Lăng quỳ xuống tâu rằng:
“Xin bệ hạ cho tôi đêm nay đảo cáo trời đất, nếu ngày mai không có người tiên đến giúp, chừng đó sẽ lui binh chẳng muộn”. Thủy Hoàng túng phải nghe theo, truyền cho ba quân tạm nghỉ, sáng ngày sẽ đi.
Nói về Kim Tử Lăng qua đến canh ba đốt nhang quay qua phía nước Ảo Ly, vái lay một hồi rồi vào dinh an nghỉ.
Nói về Hải Triều thánh nhơn đang ngồi ở Vân Quan động xảy đâu trong lòng hồi hộp co tay suy tính rõ hết các việc, giận lắm, nói:
“Nam Cực rất nên vô lễ. Tôn Tẫn trái lời làm bậy, sao còn cứu nó, ngươi phụ giúp đạo ngươi, ta lại chẳng biết bênh vực học trò ta sao, nay ta cho Vương Tiễn một cái bửu bối, thử coi thằng cụt làm sao phá được”. Bèn kêu Ngân Liên Tử nói rằng:
“Sư đệ của mi là Vương Tiễn ở nước Tần bị thua Tôn Tẫn ở núi kim sa tru tiên, vậy Tôn Tẫn trong trận vừa được sáu ngày, bị Nam Cực xuống phá trận ấy, cứu đem Tôn Tẫn ra khỏi, Ngụy Thiên Dân, Châu, Tần, Huỳnh bốn người đều chết dưới chưởng tâm lôi, sư đệ của mi là Kim Tư?
Lăng ở trong dinh Tần, đốt hương cầu cứu, ta tưởng lại Nam Cực xuống cứu Tôn Tẫn ấy là trái nghịch ý trời, vả lại va cũng biết Kim Tử Lăng, Vương Tiễn là học trò của ta, mà còn mốn làm hại nó, như vậy chẳng là khi dễ ta lắm. Nay muốn sai mi xuống núi, đem cái bửu bối này cho sư đệ mi là Vương Tiễn, dạy nó cứ theo phép mà làm, coi thằng cụt còn chi chống cự ngươi hãy theo ta”. Nói dứt lời bước xuống pháp tòa dắt vào phía sau, Hải Triều lấy cái hộp bằng vàng, giở ra, trong hộp có một cái như cây đàng hương mà nhọn, dài chừng bảy tấc, đưa cho Ngân Liên Tử hỏi rằng:
“Hiền đồ, ngươi có biết tên cái bửu bối này chăng? . Nguyên bửu bối này tên là tản thiên tiễn (là cái tên bay trên trời, đi kiếm người mà đâm). Ấy là vật tiên thiên rất báu, hễ đến giờ tý, ngọ liệng giữa không trung, tuy xa ngàn dặm, cũng hay đâm đặng đầu người. Đại la thiên tiên, ngươi đem đến dinh Tần mà giao cho Vương Tiễn bảo nó cách dinh liệng lên, tự nhiên giết đặng Tôn Tẫn, và đem mấy câu phù chú truyền dạy rõ ràng, ngươi đến nơi đó trao cho nó rồi, thì trở về núi cho mau, đặn chẳng chậm trễ”. ngân Liên Tử lạy từ thánh nhơn, ra khỏi động cỡi mây nhắm Dịch Châu bay tới. Dưới thế gian nhân dân đi hơn vài năm, còn Thần tiên không đầy một khắc.
Tới nơi, bay xuống dinh Tần, bảo quân vào báo cùng quân sư và Điện tây hầu hay rằng:
“Có nước Ảo Ly động Vận Quan, học trò ông Hải Triều thánh nhơn là Ngân Liên Tử, muốn vào ra mắt”. Quân sĩ nghe nói, chạy vào phi báo.