- Home
- Truyện Kiếm Hiệp
- Phong Kiếm Xuân Thu dịch
- Tập 1: Tần Thủy Hoàng ngự giá thân chinh -Phá Giới Bài Liêm Kiệt bỏ mạng (c1-c10)
Phong Kiếm Xuân Thu dịch
Tập 1: Tần Thủy Hoàng ngự giá thân chinh -Phá Giới Bài Liêm Kiệt bỏ mạng (c1-c10)
❮tiếp ❯Chương 1 : Tần Thủy Hoàng ngự giá thân chinh
Nói về nhà Tần từ lúc Thương Ưởng dự việc triều chánh, thì nước giàu binh mạnh, đã có ý muốn dẹp an sáu nước, song chưa gặp thời thế, nên chẳng thâu đặng, đến sau Tần Thủy Hoàng lên ngôi (tên tộc là Chính). Sanh ra có tướng lạ khác thường, thông minh mẫn đạt, các nước chư hầu không ai sánh kịp, vả lại quan văn có Cam La, quan võ thì bọn Chương Hàng có đại chí, vậy nên thế nước càng ngày càng mạnh.
Ngày kia vua Thủy Hoàng lâm triều, các quan văn võ tung hô rồi, Thủy Hoàng nói với chúng tướng rằng:
“Từ lúc trẫm lên ngôi đến nay nước giàu binh mạnh, thì có ý muốn gồm thâu sáu nước, vậy chư khanh có mưu kế chi chăng?” Nói vừa dứt lời, bỗng thấy trong võ ban xông ra một viên đại tướng, đầu đội mão trâm anh, mình mặc áo la bào, lưng mang bích ngọc đái, chân đi giày thêu, mặt đen, chân mày sắc tựa gương, dưới hàm râu lốm đốm, tay cầm triều hốt, bước ra trước mặt vua Thủy Hoàng mà quỳ xuống.
Nguyên người này họ Vương tên Tiễn ở đất Hà Nam huyện Than Dương, vốn là Phổ Hóa thiên tôn trên thượng giới, vâng chỉ Ngọc Hoàng đại đế xuống phàm, vì đời chiến quốc dân tình làm nhiều điều ác nghịch dữ tợn, và khí số sáu nước chư hầu cũng gần hết, còn đất Hàm Dương, Tần Thủy Hoàng chân mạng đế vương, úng vâng nghiệp cả (làm vua trong thiên hạ), cho nên trời sai vị tôn thần ấy đầu thai làm con Vương Thiện Nhơn, đến lúc lớn khôn tìm ông Liêm Pha làm thầy, học tập thương mã đến sau đi tới nước Ảo Ly quốc động vân quan, ông Hải Triều thánh nhân mà học tập ba năm, phép thuật tinh thông. Hải Triều thánh nhân biết rằng:
“Lục quốc khí số hết rồi, ứng cho Tần Thủy Hoàng tóm thâu thiên hạ gồm về một mối, bèn sai học trò lớn là Kim Từ Lăng và Vương Tiễn xuống mà phò tá Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng bèn phong cho Vương Tiễn làm Điện tay hầu, nay nghe Thủy Hoàng phán hỏi việc gồm thâu thiên hạ bèn vội vàng bước ra quỳ xuống.
Lúc ấy Thủy Hoàng ngồi trên bửu điện xem thấy Vương Tiễn thì hỏi rằng:
“Chẳng hay Vương huynh có diệu kế chi chăng? Vương Tiễn tâu rằng:
“Lúc tôi chưa gặp bệ hạ, thì thường hay dạo chơi các nước, cho nên thông thuộc phong thổ nhân tình, cũng là các chổ núi sông quan ải, xem thấy vua tôi chúng nó đều không phải tài hữu dụng, vả chăng nước Tề từ khi bị Nhạc Nghị đánh phá đến nay, khôi phục lại cũng chưa đặng mấy lâu, ắt chẳng khỏi trong nước hư hao thì cũng là suy vì hèn yếu; còn nước Sở tuy có chí anh hùng, tranh đoạt bá vương, song kẻ già cả thông thuộc đều chết hết, vả vua nó hoang dâm vô đạo, quân dân hờn oán, còn nước khác thì chẳng lo gì, duy có nước Triệu là chỗ yết hầu của nhà Tần ta, vả lại ải Giới Bài là nơi ngăn trở đường binh ta ra vào, Tiên đế thường muốn tranh đoạt mà chẳng đặng, cho nên không gồm thâu thiên hạ đặng. Nay nước Triệu tướng già binh yếu, thủa trước thường hiệp binh năm nước mà ngăn giữ chỗ yết hầu, song cũng không cư.
nổi binh ta, nay nó lo giữ nước nó không xong, có đâu lại đem binh mã phụ giúp.Nay bệ hạ đem binh đến đánh phá ải Giới Bài, thì dễ như trở bàn tay, hễ là Giới Bài phá đặng rồi thì nơi yết hầu yếu lộ đã thông, không ai ngăn trở chi nửa, xin bệ hạ nhân lúc dễ mà đánh thì trong một hồi trống ắt lấy đặng, như vậy thì oai danh lừng lẫy, các nước nghe đều vỡ mật, đến chừng đó thì có lo chi các nước chẳng chắp tay mà quy hàng.” Tần Vương nghe tâu cả mừng mà rằng:
“Trẫm có lòng ấy đã lâu. Song lo vì sáu nước, nếu nó hiệp sức với nhau ngăn trở ải Giới Bài, thì e đánh không đặng, mà trơ?
lại làm mất nhuệ khí của ta”. Nói vừa dứt lời, có quân sư là Kim Tử Lăng tâu rằng:
“Thầy tôi là Hải Triều thánh nhân có tài phép hay, di sơn đảo hải, trên thì rõ việc thiên văn, và biết trước những việc vị lai quá khứ thường có nói, nước ta đang hưng, còn sáu nước phải mất, cho nên sai tôi cùng Vương Tiễn xuống mà phò tá bệ hạ, gồm thâu sáu nước tóm về một mối, xin bệ hạ chuẩn theo lời tấu của Điện tây hầu, chẳng nên bỏ qua”. Thủy Vương nghe hai người tâu, thì mừng lắm bèn nói:
“Hai khanh đều là học trò người tiên, ắt rõ ý trời, thì trẫm y lời tấu, song chưa biết ngày nào khởi binh”.
Kim Tử Lăng tâu rằng:
“Đến ngày mười ba tháng tám thì là ngày thiên địa nhựt nguyệt song huỳnh, trong sách có nói, ngày thiên huỳnh đạo là rồng làm mưa, còn ngày địa huỳnh đạo, tướng dấy binh, như bệ hạ muốn ngự giá thân chinh, thì đúng ngày ấy tốt hơn”. Thủy Hoàng nói:
“Trẫm y theo ngày ấy hưng binh, song trong quân sùng ai làm soái đặng?” Xảy có quan thừa tướng Cam La tâu rằng:
“Chương Hàng là người tuổi tác, túc trí đa mưu và lại dõng quán tam quân người ấy khá dùng làm chức nguyên soái đặng”.
Thủy Hoàng liền phong cho Chương Hàng làm chức Đại nguyên soái, lãnh ấn Đô chiêu thảo, điều khiển Đông Tây Nam Bắc các đạo văn võ quan binh, và cho một cây gươm Long Phụng kiếm tiền trảm hậu tấu, lại phong Vương Tiễn làm chức kiếm tiền hộ chánh ấn tiên phuông, Triệu Cao làm tả giám quân, Tôn Ninh làm hữu giám quân, Nhân Chơn làm tả quân thống lãnh, Võ an quân là Bạch Viên làm hậu đội giải lương, còn Kim Tử Lăng làm tham toán. Chương Hàng cùng Vương Tiễn tới giáo trường điểm chọn binh hùng tướng mạnh cho sẵn, đặng chờ đến ngày mười ba khởi binh, lệnh truyền rồi, Thủy Hoàng ngự giá về cung. Quáng âm thấm thoát ngày tháng như thoi, xảy đến ngày mười hai tháng tám, Thủy Hoàng truyền chỉ cho bọn Chương Hàng đều tựu đến giáo trường hầu trực, lệnh truyền rồi các nơi xe ngựa nhộn nhịp rần rộ vang rân. Qua ngày thứ, Thủy Hoàng từ biệt tam cung lục viện, mà phó thác việc triều chánh, dặn dò xong rồi, truyền chỉ đẩy xe đến giáo trường tế cờ khởi binh.
Lúc ấy các quan văn võ bày yến nơi cửa Ngọ môn, đưa Thiên tử lên đường, Thủy Hoàng uống ba chung rượu rồi nhắm giáo trường thẳng tới, Đến nơi vào nhà diễn võ, thì đã có bọn Chương Hàng lạy ra mắt, Thủy Hoàng xem khắp bốn phía, quả nhiên quân binh tề chỉnh, lòng vua cả mừng, liền hạ chỉ tế cờ kéo binh. Tế cờ rồi, nổ chín tiếng pháo lớn, ba quân rần rộ ra khỏi giáo trường, nhắm Giới Bài quan thẳng tới, đi ngang mấy ải trong nước đều có quan binh ra thành nghinh tiếp. Ngày ấy Thủy Hoàng đang đi hậu đội, bỗng thấy Vương Tiễn chạy ngựa đến dưới cờ, xuống ngựa tới trước Long Phụng tán quỳ tâu rằng:
“Đại binh đi đã tới ải Giới Bài còn cách chừng năm dặm, xin bệ hạ liệu định. Thủy Hoàng bèn hạ chỉ an dinh, phát ba tiếng pháo đại binh dừng lại, đội ngũ xây lập trường phòng, và dựng Kim Đính huỳnh la trướng. Thủy Hoàng vào trướng, truyền chỉ rằng:
“Ngày nay hành quân cực nhọc,cho các quan văn võ miễn triều”. Chúng tướng vâng chỉ, ai về trướng nấy nghỉ ngơi.
Nói về ải Giới Bài ấy thuộc về đất biên cương nước Triệu, là nơi yết hầu của nước Tần ra vào, song nhà Tần mạnh bạo, nhiều khi muốn làm hại các nước mà không đặng vì ải ấy ngăn trở, vẫn là một ải rất trọng yếu, cho nên nước Triệu sai binh rồng tướng mạnh ở nhà gìn giữ, trong ải có một viên tổng binh, họ Liêm tên Kiệt, vốn là con của Liêm Pha, tinh thông thao lược, võ nghệ siêu quần, và có vài mươi viên phó tướng giữ gìn ải ấy, cách vài ngày trước thì có quân phi báo rằng:
“Vua Tần chọn ngày mười ba tháng tám thì dấy binh thâu gồm sáu nước, phong Chương Hàng làm nguyên soái, Vương Tiễn làm tiên phong, ngự giá thân chinh, chẳng bao lâu thì đến ải mình”. Liêm Kiệt nghe báo, truyền lệnh, những dân ở ngoài thành đều dời vào trong thành, còn nhà cửa nhân dân ở ngoài, thì đỡ phá hết, và dư.
bị cung tên, gỗ đá và gìn giữ bốn phía đóng chặt cửa thành, ngày ấy lối giờ Ngọ, bỗng nghe ngoài thành pháo nổ vang trời, quân reo dậy đất, thì biết là quân Tần đến, bèn vội vàng dẫn chúng tướng lên thành xem, quả thấy xa xa bụi bay mù mịt, sát khí tối tăm.
Thật là:
Cờ phất lao xao sông núi động, Khí lên nghi ngút cỏ cây kinh.
Liêm Kiệt coi rồi truyền lệnh quân binh giữ thành, phải cho hết lòng cẩn thận, rồi quày ngựa xuống thành an nghỉ, qua ngày thứ lên trướng, quân kỳ bài giữ thành vào báo nói:
“Có tướng Tần đến khiêu chiến, xin nguyên soái liệu toan”. Liêm Kiệt bèn ngó chúng tướng mà hỏi rằng:
“Có vị tướng quân nào dám ra thành mà đánh cùng tướng Tần chăng?s” Nói vừa dứt lời bỗng nghe đại tướng là Hạ Khai Cơ, ứng tiếng lên nói rằng:
“Tôi xin lãnh mệnh”. Liêm Kiệt mừng, nói:
“Tướng quân hãy dẫn năm trăm binh mã, ra thành giao chiến, phải rất cẩn thận”. Hạ Khai Cơ vừa mới lãnh chiến lệnh, xảy đâu trong đội xông ra một người nói với nguyên soái rằng:
“Tiểu tướng xin đi cùng Hạ tướng quân”. Liêm Kiệt coi lại người ấy, vẫn là chánh ấn tiên phuông tên Vương Bôn. (Nguyên người này có sức mạnh bằng cả ba quân, cũng là tay hảo hán số một bên nước Triệu, tuổi chừng hai mươi mốt, mình cao một trượng, lưng lớn mười vây).
Liêm Kiệt cả mừng nói rằng:
“Nếu được tướng quân cùng Hạ tướng quân ra trận, thì ắt chém tướng không kịp trở cờ”. Hai tướng lãnh lệnh, từ biệt nguyên soái, nai nịt, tay cầm binh khí, thót lên ngựa ra đến dưới thành, phát ba tiếng pháo mơ?
rộng cửa thành, Hạ Khai Cơ giục ngựa qua khỏi điếu kiều, ngó thấy trước mặt có năm trăm binh Tần, dàn ra một hàng, ở trước một viên đại tướng, đầu đội thiết khôi, mình mặc tạo la bào, cởi con ô dải báo tay cầm trượng bát xà mâu oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, thì có ý khen thầm, bèn giục ngựa lướt tới hỏi:’Tần tặc, sao vô cớ mà xâm lấn bờ cõi ta vậy, hãy thông báo tên họ, chớ cái đao ta chẳng chém đứa vô danh”.
Vương Tiễn nghe hỏi thì nạt lớn lên rằng:[Audio] Tiên Ma Đồng Tu – Lưu Lãng
“Ta là Tần Vương giá hạ, làm chức Điện Tây hầu, gia phong tiền bộ chánh ấn tiên phong, ta đây họ Vương tên Tiễn, như biết ta lợi hại thì mau mau xuống ngựa quy hàng, ta sẽ tha cho, còn nếu trì hoãn thì ắt làm con quỷ không đầu”. Hạ Khai Cơ không phải là tay đối thủ với Vương Tiễn, cho nên đánh chưa đặng vài hiệp bị một mâu té nhào xuống ngựa, Vương Tiễn lướt tới vừa muốn cắt lấy thủ cấp, bỗng nghe tiếng kêu vang như sấm, mà nói rằng:
“Tần tướng không đặng làm dữ, có ta đây”. Vương Tiễn quay đầu lại thấy một viên tiểu tướng, môi son răng trắng, đầu đội mão tứ phụng mình mặc kim giáp, tay cầm kim bôi đao, cỡi ngựa báo huê, hầm hầm giục ngựa hươi đao chạy lại, Vương Tiễn nạt rằng:
“Bớ tiểu tướng, mi có biết oai danh ta là Vương Tiễn đây không? Sao chẳng quày ngựa chạy trốn cho rồi mà còn dám ra trận, vậy mi chẳng sợ chết hay sao? Hãy xưng tên họ cho ta rõ”.
Vương Bôn nghe nói, cười lớn rằng:
“Ta là dưới cờ Liêm nguyên soái tiền bô.
tiên phong, tên là Vương Bôn, cuồng đồ chớ chạy đề ta bắt mi đặng trả thù cho Hạtướng quân”. Nói dứt lời hươi đao chém tới Vươnh Tiễn đón đánh, đánh được năm mươi hiệp, Vương Tiễn thấy Vương Bôn đao pháp tinh nhuần lại thêm tướng mạo siêu quần, thì trong lòng rất mừng, bèn nghĩ thầm rằng:
“Tên tiểu tướng này qua?
nhiên mạnh bạo, làm sao mà dụ cho nó về đầu, thì nhà Tần ta cũng thêm được một cánh ray nữa”. Rồi đánh luôn đến một trăm hiệp, ngó thấy Vương Bôn đánh chừng nào càng mạnh thêm chừng nấy, còn Vương Tiễn thì cả mình mồ hôi như xối, hai tay bủn rủn, bèn nghĩ rằng:
“Thằng tiểu tướng này quả nhiên khí huyết rất mạnh mẽ, mình không phải là tay đối thủ của nó, chi bằng ta giả thua mà chạy đặng dùng bửu kiếm giết nó mới xong”.
Nghĩ rồi bèn đâm bậy một mâu quay ngựa nhắm phương Nam chạy dài, Vương Bôn ngó thấy nạt lớn rằng:
“Mi là thằng tướng dở, sao lại ra chỗ sa trường làm chi, mi chạy đi đâu cho thoát, ta quyết theo mà bắt cho đặng”. Nói rồiVương Bôn rượt tới gần thì trong lòng nghĩ thầm:
“Nếu ta liệng bửu kiếm lên thì thằng tiều tướng này chắc phải chết, không sống đặng, như vậy thì há chẳng uổng lắm sao, vậy ta khuyên dỗ cho nó về đầu, coi nó có chịu cùng chăng”. Lúc ấy Vương Bôn đã rượt tới, hươi đao nhắm sau lưng Vương Tiễn chém nhầu, Vương Tiễn liền quày ô dãi báo, cử mâu lên đỡ và nói rằng:
“Tiểu tướng quân hãy dừng lại, ta chẳng phải là đánh không lại ngươi đâu, nguyên vì ta thấy nhà ngươi võ nghệ siêu quần, ý ta muốn khuyên người về đầu. Vốn ta vâng mệnh thầy ở nước Bảo Ly động vân quan, là Hải Triều thánh nhân, sai xuống núi bảo hộ vua Tần, gồm thâu thiên hạ, tướng quân nếu biết thời, sao chẳng về đầu nước ta, ngày sau sẽ đặng lưng mang ngọc đái, há chẳng tốt hơn sao?” Vương Bôn nghe nói đáp rằng:
“Vương Tiễn người chớ nói xàm, tiểu tướng nay quyết lấy cho được cái đầu ngươi”.
Nói rồi hươi đao lên chém, Vương Tiễn cũng cử mâu rướt đánh, giận nói rằng:
“Thằng con nít không thông thời vụ, mi nói ta sợ mi sao?” Rồi đánh tới mười hiệp, Vương Tiễn quả thiệt đánh không lại Vương Bôn rồi phải thua chạy. Vương Bôn đuổi theo. Vương Tiễn đang chạy xảy nghe sau lưng có tiếng lạc ngựa reo rân, thì biết là Vương Bôn rượt tới, bèn dắt cây xà mau dừng con ô dải báo, lấy ra một cây tru tiên kiếm, vừa muốn liệng lên, bỗng nghe một tiếng vang rân, bèn ngoái lại, nguyên vì Vương Bôn tham công nóng nảy, giục ngựa gấp quá, nên con báo huê đã bị vấp chân trước làm Vương Bôn té nhào xuống ngựa. Vương Tiễn ngó thấy rất mừng liền quày báo, hươi mâu nhắm ngay bụng Vương Bôn đâm tới.
Chương 2 : Phá Giới Bài Liêm Kiệt bỏ mạng
Nói về Vương Bôn té nhào xuống ngựa, Vương Tiễn hươi mâu tới đâm, vùng nhớ trực lại Vương Bôn là người trẻ tuổi anh hùng bèn dừng mâu nói rằng:
“Ta tha ngươi về thay ngựa khác, rồi sẽ ra mà đánh cùng ta”. Làm cho Vương Bôn hổ thẹn, mặt mũi sượng trân lồm cồm đứng dậy quỳ xuống đất nói rằng:
“Tôi là Vương Bôn bị té vấp ngựa, chắc phải chết rồi, mang ơn tướng quân dưới thương rộng tình, dung tha tánh mạng, song tiểu tướng này không phải là đứa vong ân, nay tình nguyện về đầu đặng giúp sức tướng quân”. Vương Tiễn rất mừng, nói:
“Tiểu tướng quân võ nghệ cao cường, nay chịu quy hàng thiệt rất may cho nước Tần lắm, vậy xin tiểu tướng theo ta trở về ra mắt chúa thượng”. Nói rồi đều lên ngựa chạy tuốt về dinh Tần, lúc ấy binh tướng bên Triệu ngó thấy Vương Bôn rượt theo tướng giặc, giây lâu không thấy trở về, kế thấy binh Tần áp lại cắt lấy thủ cấp Hạ tướng quân, thì không dám ra giành giựt, đến chừng thấy Vương Bôn cùng Vương Tiễn, hai người cỡi ngựa nhắm dinh Tần đi tuốt, biết là Vương Bôn đầu giặc rồi, bèn rủ nhau chạy trốn, Vương Tiễn cũng chẳng rượt theo, bèn dẫn Vương Bôn vào dinh ra mắt Chương Hàng, tỏ hết các việc rồi dẫn vào huỳnh la bửu trướng ra mắt Thủy Hoàng mà tâu hết nguồn cơn.
Thủy Hoàng xem thấy Vương Bôn rõ ràng một đấng nhân tài, oai phong lẫm lẫm, vả lại tuổi trẻ anh hùng, thì trong lòng cả đẹp, nói rằng:
“Tướng quân không hiềm tị, đến đây đầu hàng, thệt rất may cho trẫm lắm. Vậy khanh hãy cùng với Vương Tiễn hiệp sức, ngày sau có công trẫm sẽ gia thưởng”. Nói rồi liền phong cho Vương Bôn làm chức phó tiên phong. Vương Bôn lạy tạ Ơn rồi lui ra, bèn đến ra mắt quân sư Kim Tử lăng và Nguyên soái Chương Hàng, lúc ấy Vương Tiễn đã bày tiệc sẵn nơi dinh mình, rồi thỉnh Vương Bôn về dinh uống rượu, hai người ăn uống bàn luận việc võ nghệ, Vương Tiễn xưng rằng:
“Mình có phép thuật cao cường, và có cây tru tiên bửu kiếm, muôn người không dám cự địch, ấy là phép của ông Hải Triều thánh nhân cho, hay chém đặng thiên la đại tiên”.
Lúc ấy Vương Bôn đứng dậy nói rằng:
“Tiểu tướng có một lời bày tỏ, xin tướng quân đoái tưởng, tôi thưở nhỏ mồ côi cha mẹ, nay mang ơn tướng quân nơi trận chẳng giết, lại có lòng thương tưởng, nay ý tôi muốn lạy tướng quân mà kiến làm cha, chưa biết tướng quân khứng nạp cùng chăng?” Vương Tiễn vẫn có lòng, nay nghe Vương Bôn nói thì trong lòng mừng lắm, mà rằng:
“Tôi có tài cán chi đâu mà khuất tướng như vậy”. Vương Bôn không nghe, bèn phò Vương Tiễn bằng cha, càng thêm thân ái hơn nữa, rồi uống rượu đến canh ba mới tan, Vương Bôn cũng theo Vương Tiễn vào dinh mà an nghỉ. Qua ngày thứ, Vương Tiễn bèn đem việc ấy tâu cho Thủy Hoàng cùng Chương Hàng hay, Thủy Hoàng rất mừng truyền chỉ bày yến chúc mừng cho Điện Tây hầu.
Nói về binh Triệu thua chạy về ải, báo cùng Nguyên soái rằng:
“Hạ tướng quân tử trận, còn Vương tiên phong đã đầu Tần rồi”. Liêm nguyên soái nghe báo nổi giận, nhảy nhót nạt lên như sấm mắng rằng:
“Vương Bôn, mi là thằng phản chúa, tham sanh quý tử, bổn soái đãi mai không bạc, sao chẳng lo trả ơn, mà trở lại đầu hàng nước giặc, nếu bổn soái không bắt đặng thằng phản chúa này, mà phân thây muôn đoạn, thề chẳng làm người”. Nói rồi hối quân thắng ngựa vừa muốn ra thành, các quan can gián nói rằng:
“Ngày nay trời đã tối rồi, đánh chẳng đặng đâu, xin Nguyên soái hãy bớt cơn lôi đình, chờ sang ngày sẽ ra binh, cũng chẳng muộn gì”. Liêm Kiệt thấy chúng tướng khuyên dứt, túng phải nghe theo, qua ngày thứ, bèn dẫn chúng tướng cùng một ngàn binh phát pháo ra thành, xông đến dinh Tần, kêu chỉ quyết Nguyên soái nhà Tần ra mà đối địch, binh Tần vào báo. Ngyên soái bèn tâu với Thủy Hoàng, Thủy Hoàng nói:
“Trẫm đang cùng Vương huynh chúc mừng, vậy Nguyên soái dẫn binh ra thành hội chiến, thì ắt cả đặng trọn tháng, để trẫm bày một tiệc dự thưởng công cho Nguyên soái”. Chương Hàng vâng chỉ ra khỏi bửu trướng, bèn dẫn Yên Dịch Tôn Năng ra cùng Liêm Kiệt giao chiến.
Lúc ấy Thủy Hoàng bày tiệc cùng Vương Tiễn, Vương Bôn chúc mừng, đang ăn uống, Thủy Hoàng hỏi Liêm Kiệt là người thế nào, Vương Bôn tâu rằng:
“Liêm Kiệt là con Triệu Liêm Pha, tánh tình trung trực, sức mạnh muôn người, không ai dám địch”. Thủy Hoàng nói:
“Liêm Kiệt có tài anh hùng như vậy, thì trẫm cùng hai vi.
vương huynh ra dinh lược trận”. Hai người liền đứng dậy tâu rằng:
“Chúng tôi xin bảo giá”.
Thủy Hoàng cả mừng, truyền chỉ đem ngựa, rồi hai người bảo giá ra khỏi dinh, lúc chưa đi thì nghe chiêng trống vang tai, ra đến ngoài dinh ngước mặt xem coi, thấy sáu vương đại tướng đánh vùi với nhau.
Ấy là:
Thương đỡ đao rồi đao đỡ thương, Thương qua đao lại chẳng ai nhường, Tuy hay chỗ ấy là nơi chết, Song phải liều mình với quốc vương.
Xem thấy Chương Hàng thì đánh với Liêm Kiệt, còn Yên Dịch thì đánh với Tất Vinh Phu, Tôn Năng binh khí đỡ nghe rang rảng. Thủy Hoàng truyền chỉ đánh trống dường như sấm dậy. Chương Hàng nghe đánh trống thì biết có Thủy Hoàng lược trận, người người đều nổ lực giương oai. Tất Vinh Phu bị Yên Dịch chém một đao té nhào xuống ngựa, rồi áp lại tiếp cùng Tôn Năng và đánh Lang Vân, lúc ấy Lang Vân đang ra sức đánh Tôn Năng, ngó thấy Yên Dịch xốc tới tiếp đánh, thì ráng hết sức mà đánh với hai người, đánh đặng hai mươi hiệp, cả mình mồ hôi ướt đầm, trong lòng hoảng kinh, bị Tôn Năng đâm một thương nơi sườn tả, Lang Vân la lên một tướng tránh qua bên hữu, ô hô ai tai. Lúc ấy Yên, Tôn hai tướng áp lại vây đánh Liêm Kiệt, dẫu Liêm Kiệt có tài bay lên trời đi nữa, song hai tay khó nổi địch với ba người, rồi phải quày ngựa chạy về bổn trận, binh Triệu thấy Nguyên soái bị thua, thì nhượng cho Nguyên soái chạy qua khỏi, liền trương cung lắp tên bắn vãi binh Tần, bên kia Chương Hàng xem thấy binh Triệu rất đông, khó xông pha đặng, bèn ngay ngựa thâu binh trở về, phò Thủy Hoàng vào trướng.
Nói về Liêm Kiệt bị thua chạy về bổn trận, ngó thấy binh Tần chẳng rượt theo nữa, thì kéo binh vào thành, truyền lịnh quân?” h gìn giữ thành trì cho chắc chắn, rồi vào soái phủ viết tờ biểu chương sai người suốt đêm chạy về trào tâu. Triệu Vương tiếp đặng bổn chương thất kinh, cùng chúng tướng thương nghị, liền viết tờ cáo cấp sai quan đi các nước viện binh.
Nói về năm nước xem thấy văn thơ của Triệu Vương, thì biết vua Tần dấy binh gồm thâu sáu nước, thì ai nấy cũng không kế chi tính đặng, vì luôn mấy năm thất mùa đói khát, lo nước mình không xong có đâu đem binh mà cứu giúp nước ngoài cho đặng, đều gởi lại văn thơ nói dối rằng:
“Chẳng bao lâu thì đem binh đến tiếp”.
Nói về ải Giới Bài quan, Liêm Kiệt từ lúc sai người về cùng triều dâng tờ cáo cấp, đến nay đã hơn năm ngày, cớ sao chẳng thấy phát binh đến cứu, thì lòng lo sơ.
lắm, phần thì luôn mấy ngày bị binh Tần đánh phá rất gấp. Liêm Kiệt ngày đêm phải bổn thân dẫn binh lên thành ngăn giữ, đêm ấy vừa đến canh tư, góc thành bên Tây, xảy bị binh Tần bắc thang trèo lên hãm thành, binh Triệu cự không lại, rã nhau chạy trốn, có người phi tính việc chi, lật đật dẫn chúng tướng chạy qua cửa thành bên Đông, ý muốn mở cửa mà chạy trốn về triều. Không dè gặp đạo binh Vương Tiễn đón đường, hai người đánh nhau.
Lúc ấy hậu đội binh Tần kéo vào thành pháo nổ vang trời, Chương Hàng liền dẫn chúng tướng áp lại vây đánh Liêm Kiệt, Liêm Kiệt liệu kế ra cửa Đông không đặng, bèn nhắm phía Tây mà chạy, lại gặp Vương Tiễn đánh một hồi nữa, lúc ấy binh Tần áp lại phủ vây, Liêm Kiệt chẳng sợ, một đao mà cự với trăm ngàn binh khí, đánh giết tưng bừng, dừng như mãnh hổ tuôn vào bầy dệ Kim Tử Lăng ngó thấy Liêm Kiệt quả nhiên anh hùng, chúng tướng đánh không hơn đặng, bèn giục mai huê lộc xông vào, chúng tướng ngó thấy quân sư vào trận, đều tránh vẹt hai bên, lúc ấy Liêm Kiệt ngó thấy một người đạo nhân cỡi nai đến đánh, bèn giục ngựa lướt tới, song không biết Kim Tử Lăng là lợi hại, đánh chưa mấy hiệp, Kim Tử Lăng bèn lấy ra một cái kêu là định triên châu, liệng giữa trời hào quang chiếu sáng, xoay vầng trên không, nhắm ngay đầu Liêm Kiệt rớt xuống, khá thương:
Anh hùng chưa bước lăng vân các, Hồn phách trước lên uổng tử thành.
Lúc ấy Liêm Kiệt bị bảo châu đánh nhằm, té nhào xuống ngựa, binh Tần áp lại cắt lấy thủ cấp. Thủy Hoàng dẫn binh thị ngự vào thành, đến nơi soái phủ truyền lệnh chiêu hàng, cấm binh sĩ không cho chém giết. Chúng tướng đều vào soái phu?
tung hô xong rồi, Thủy Hoàng truyền chỉ cả bày diên yến thưởng công, nghỉ ngựa ba ngày rồi sẽ dấy binh đánh đánh dẹp các nước. Qua ngày thứ, Thủy Hoàng ngự ra soái trường, các quan tung hô rồi, Thủy Hoàng nói rằng:
“Nay phá đặng ải Giới Bài, vậy chư khanh thương nghị đáh nước nào trước?”.
Kim Tử Lăng tâu rằng:
“Cách ải Giới Bài hai mươi dặm có đường rẻ làm ba, một nẻo thông qua Dịch Châu Yên Sơn, còn một nẻo thông qua Đông Tề Lâm Tri, còn một nẻo qua Triệu Quốc Hàn Đang, theo trí mọn tôi tưởng, nay nước Tề vuaTương Vương mới lên làm vua, thì kho đụng không trống, còn nước Triệu thì binh hèn tướng yếu, đều chẳng đủ lo, duy nước Yên, vuaChiêu Vương tuổi tuy già cả, song thông minh tài trí, binh muôn đặng 4, 5 mươi muôn, chiếu tướng vài mươi viên, vả Nguyên soái đó là Tôn Tháo, dòng của Tôn Võ, trên hiểu thiên văn, dưới thông địa lý, từng quan chinh chiến, các nước chư hầu nghe danh tiếng, nếu giết đặng ấy mà bình đất Dịch Châu trước, thì lấy các nước kia dễ như trở bàn tay”.
Thủy Hoàng nhận theo lời tâu, rồi nghỉ ngơi ba ngày dấy binh nhắm Yên thành thẳng tới, lại để tướng giỏi ở giữ Giới Bài đặng tiếp ứng lương thảo.
Nói về vua nước Yên từ tiếp đặng văn thơ nước triệu viện binh cầu cứu, thì biết vua Tần dấy binh gồm thâu sáu nước, thì có ý muốn phát binh phụ giúp, ngặt vì binh ròng có ít, đủ giữ trong nước mà thôi, lấy binh đâu phụ giúp, bèn suy đi nghĩ lại một hồi, sai quan đô úy là Tôn Tháo lãnh năm muôm binh đến Yên Châu ngăn giữ đặng thám coi động tĩnh thế nào, nếu nước Tần phá ải Giới Bài rồi, thì giữ nơi yếu địa ấy, mà chống ngăn binh Tần, còn như chưa phá đặng ải Giới Bài thì kéo binh đến mà phụ với Lâm Kiệt ra sức giữ gìn”. (Nguyên Tôn Tháo này là cha của Tôn Tẫn ở núi Thiên Thai tuổi đã bảy mươi, sức còn, hay kéo nổi cây cung cứng hai thạch, mỗi ngày ăn hết một đấu gạo, cho nên tuổi tác tuy già song cũng là một viên dõng tướng, làu thông thơ lược, nên vua Chiêu vương sai đem binh cứu giải Giới Bài, và giữ biên cương nước mình).
Ngày ấy Tôn Tháo lãnh chỉ năm muôn binh ròng, suốt đêm ra khỏi Dịch Châu, nhắm ải Giới Bài thẳng tới, đi chưa đến thì có quân thám thính báo nói:
“Binh Tần đã đánh lấy ải Giới Bài rồi, nay kéo binh tới đánh nước mình nơi Dịch Châu trước”.
Tôn Tháo nghe báo suốt đêm kéo binh tuốt đón biên quan ngăn giữ đặng phòng giao chiến. Nguyên người giữ ải biên qua nước Yên, làm chức tổng soái, là hai người con của Tôn Tháo. Đại lão gia tên là Tôn Long, nhị lão gia tên là Tôn Hổ, đều là anh em ruột của Tôn Tẫn. Hai anh em ngày kia tiếp đặng văn thơ, thì biết cha mình đến hiệp sức giữ ải thì cả mừng, bèn ra khỏi thành năm dặm nghinh tiếp vào thành, Tôn Tháo bước vào soái phủ mà ngồi, Tôn Long, Tôn Hổ lạy ra mắt, rồi đứng hầu hai bên. Tôn Tháo nói:
“Binh Tần chẳng bao lâu thì đến, ắt có dấy động can qua, hai con cũng nên quyết tâm giữ gìn thành trì”.
Tôn Long, Tôn Hổ đều lãnh mạng, rồi đó Tôn Tháo bèn tả biểu chương về triều tâu cùng Chiêu Vương hay rằng:
“Ải Giới Bài binh Tần đã lấy rồi, nay kéo binh đến thành nước ta”. Tả rồi liền sai người về triều dâng biểu. Ngày ấy binh Tần kéo đến bên thành nước Yên, cách năm dặm an dinh. Chương Hàng lên trướng hỏi rằng:
“Có ai dám lập công đầu chăng?” Lúc ấy có quan phó tiên phong là Vương Bôn bước ra lãnh mạng xin đi. Vương Tiễn cũng xin lãnh binh ra trận, Chương Hàng cả mừng bèn dạy hai cha con Vương Tiễn đem một ngàn binh dinh khiêu chiến. Hai người lãnh mạng ra khỏi dinh, lên ngựa dẫn binh tới thành, lập nên trận thế, rồi Vương Tiễn đứng nơi trận, còn Vương Bôn xông tới khiêu chiến. Quân vào phi báo, Tôn Tháo khiến Tôn Long ra đánh, Tôn Long lãnh mạng nai nịt chỉnh tề, dẫn một ngàn binh phát pháo ra thành. Lúc ấy Vương Bôn nghe trong thành pháo nổ, xông ra hai cây cờ trắng, dẫn một đạo binh ra khỏi thành, ở trước có một viên đại tướng, đầu đội ngân khôi, mình mang ngân giáp, ngồi trên ngựa trắng, tay cầm bạch anh thương, dưới hàm râu bạc hoa râm, dài hơn sáu tấc, tuy là tuổi đã sáu mươi song oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng. Vương Bôn nạt lớn rằng:
“Lão tướng hãy dừng ngựa đi, có ta đến chờ đây đã lâu, mau thông tên họ mà chịu chết cho rồi”. Tôn Long xem thấy trước mặt là một viên tiểu tướng mạnh dạn dữ dằn.
Mình ngồi huê báo rõ oai phong Mặc giáp rồng vàng ánh đỏ hồng, Mạnh suốt ba quân còn tuổi trẻ?
Giáp phò Tần chúa rạng anh hùng.
Tôn Long coi rồi nạt rằng:
“Ta là nguyên soái trấn giữ Yên Châu, tên là Tôn Long đây, ta cùng nước mi ai giữ cõi nấy, cớ sao lại dấy binh xâm phạm đất ta, nếu biết thời, mau mau về dinh cho chóng, bằng không kéo binh về thì phải chết nơi dưới ngựa”.
Vương Bôn nghe nói cười rằng:
“Bớ Tôn Long, thưở ta ở nước Triệu từng có nghe tên anh mi là tên dõng tướng bên Yên, nay sao chẳng quy hàng nước ta cho rồi, thì chẳng mất chức phong hầu”.
Tôn Long nổi giận mắng rằng:
“Mi chớ nói phách, hãy coi ta lấy thủ cấp mi”.
Nói rồi hươi thương lướt đến mà đâm Vương Bôn, Vương Bôn lật đật cử thương rước đánh, đánh đến bảy mươi hiệp chưa đặng hơn thuạ Vương Bôn khen thầm rằng:
“Quả nhiên danh bất hư truyền, thương pháp tuyệt diệu, nếu ta lấy sức mạnh mà đánh thì ắt không hơn đó đặng, vậy ta dùng thế hồi mã thương mà giết nó mới xong”. Nghĩ rồi bèn đâm bậy một thương rồi quày ngựa bỏ chạy, song chạy đâu cho khỏi, nguyên vì Tôn Long có tài bá bộ xuyên dương (trăm bước bắn trúng lá dương) nên chẳng rượt, liền lấy cung lắp tên nhắm ngay lưng Vương Bôn bắn ra một mũi.
Lúc ấy, Vương Tiễn đứng nơi trận ngó thấy rõ ràng, bèn kêu lên rằng:
“BớÙ con, tặc tướng nó bắn tên”. Bên kia Vương Bôn quay đầu ngó thấy tên bay gần tới, thì la không xong rồi, liền trớ qua một cái chẳng kịp, bị mũi tên trúng vai bên hữu, chờn vờn gần rớt xuống ngựa, Tôn Long ngó thấy giục ngựa chạy tới như bay, bỗng nghe sau lưng có một tiếng kêu lớn rằng:
“Chớ hại con ta, có ta đến đây”. Tôn Long xem thấy người ấy cùng chúng tướng khác lạ:
La bào rực rỡ có thêu rồng, Mình cỡi Ô Chùy chạy tợ dông, Phổ hóa Thiên Tôn nay xuống thế; Giúp phò Tần quốc dựng nên công.
Tôn Yên hỏi rằng:
“Mi là tướng xứ nào phải xưng tên họ cho ta biết”. Vương Tiễn nói:
“Mi muốn hỏi tên họ ta sao? Ta là Thủy Hoàng giá tiền, làm chức Chánh ấn tiên phong. Điện tây hầu Vương Tiễn đây, sao mi dám cả gan dùng tên lén màbắn con ta, nay mi chạy đâu cho thoát”. Nói rồi hươi cây trượng bát xà mâu nhắm ngay bụng Tôn Long đâm tới. Tôn Long cử thương đỡ khỏi rồi đánh vùi đến trăm hiệp. Vương Tiễn thấy Tôn Long thương mã tinh thục, đánh chừng nào càng giỏi chừng nấy, bèn quay ngựa bỏ chạy, Tôn Long cười lớn rằng:
“Tần tặc, mi chạy đâu cho khỏi, coi Nguyên soái rượt theo mà bắt mi đây này”. Nói rồi giục ngựa đổi theo, Vương Tiễn thấy Tôn Long rượt tới bèn lấy cây tru tiên kiếm, miệng niệm chơn ngôn liệng giữa thinh không, rồi kêu lớn rằng:
“Bớ Tôn Long, mi chớ rượt theo, hãy coi bửu kiếm của ta kia kìa”.
Tôn Long nghe nói liền ngước mặt lên xem, thấy một ngọn gươm ở trên vầng mây ngũ sắc bay xuống, liền la:
“Không xong”. Rồi lật đật lấy cung lắp tên muốn bắn cây gươm cho rớt xuống, không dè cây bửu kiếm ấy là vật báu, chưa kịp bắn mà gươm đã bay tới, nhắm ngay đầu Tôn Long chém xuống, Tôn Long né đầu qua bi.
cây gươm chém xả từ vai tới lưng, té nhào xuống ngựa.
Hỡi ôi!
Lão tướng nước Yên tài vô địch, Thác vì gươm báu của họ Vương.
Vương Tiễn bèn niệm chú thâu bửu kiếm lại, còn bên kia binh nước Yên áp ra giật lấy thây Tôn Long mà đem về thành, Vương Tiễn giục ngựa đến thành khiêu chiến nữa.
Nói về binh Yên khiên thây Tôn Long đem về soái phủ, Tôn Tháo xem thấy rụng rời dường như muôn tên xoi ruột, liền té xỉu chết giấc, tả hữu vội phò cứu, giây lâu tỉnh lại bèn khóc rống lên. Tôn Hổ sa nước mắt nói rằng:
“Gia gia xin chớ bi thương, để cho con ra trận quyết bắt sống thằng giặc này mà trả thù cho đại ca” Tôn Tháo gật đầu nói:
“Con có ra trận thì phải giữ gìn cho lắm”. Tôn Hổ vâng mạng, vội vàng mặc giáp đội mão, dẫn binh ra thành, phát ba tiếng pháo, xông tới trước trận, ngó thấy Vương Tiễn thì giận lắm, máng rằng:
“Đồ thất phu, mi dùng tà thuật mà hại anh ta, vậy mi chớ chạy, hãy coi đao này”. Nói rồi hai tay cử đao,?” ?” acute;m ngay đầu Vương Tiễn chém nhầu, Vương Tiễn lật đật rước đánh, song võ nghệ Tôn Hô?
không sánh kịp Tôn Long lại thêm lòng sẵn gấp báo cừu, cho nên đánh mới vài hiệp đầu thì đã dùng hết sức lực bình sanh. Vương Tiễn thấy va hung dữ mạnhbạo như vậy, thì dùng chước nhu đánh pháp (nghĩa là khi đầu không dùng sức cho lắm, cứ đỡ gạt mà thôi, đến sau sẽ dùng sức mạnh ra đánh) cứ ngăn đỡ hoài mà không đánh lại, chờ đánh hơn bốn mươi hiệp cho Tôn Hổ có mòi yếu rồi, khi ấy ra sức mạnh hươi xà mâu đánh vùi, làm cho Tôn Hổ miệng đà thở dốc, đao pháp rối loạn, bị Vương Tiễn đánh hất đao ra, rồi thuận tay nhắm ngay bụng Tôn Hổ đâm tới, Tôn Hổ ngăn đỡ chẳng kịp bị xà mâu vào bụng hét lên một tiếng té nhào xuống ngựa, Vương Tiễn xốc lại thgủ cấp, binh Yên xem thấy Tôn Hổ chết rồi liền chạy trốn về thành, Vương Tiễn chẳng rượt theo bèn đánh trống thắng trận kéo binh về dinh, lấy thuốc kim thương cho Vương Bôn thoa nơi dấu tên đâm, và cho vào hậu dinh an dưỡng.
Nói về binh Yên thua chạy vào thành, bèn đem việc Tôn Hổ bị Vương Tiễn nhào xuống ngựa mà bẩm lại Tôn Tháo haỵ Tôn Tháo càng thêm sầu thảm, các tướng khuyên giải hết lời rồi mới về phủ. Đêm ấy thương con nhớ trẻ không hề nhắm mắt, đến canh năm thức dậy nai nịt lên trướng nói với chúng tướng rằng:
“Tần tặc hôm qua giết luôn hai đức con ta, vậy ta cùng với Tần tặc thề chẳng chung đứng trong đời”. Truyền đem thương mã dẫn một ngàn binh cùng chúng tướng ra thành, giục ngựa chạy đến dinh Tần, kêu tên Vương Tiễn ra đánh.
Vương Tiễn nghe báo bẩm cùng Nguyên soái lãnh ba quân ra dinh sắp bày đội ngũ, một người một ngựa xông ra trước trận, xem thấy một viên tướng già tuổi ngoài bảy mươi, năm chòm râu bạc, ngồi bạch long câu, tay cầm ngân thương oai phong lẫm lẫm, thì biết là Thoại lang quân tên Tôn Tháo. Vương Tiễn ngồi trên ngựa xá nói rằng:
“Lão tướng quân xin miễn chấp, vì tiểu tướng không xuống ngựa, tiểu tướng có một lời xin tỏ cho lão tướng quân nghe, tôi nghe vì lão tướng quân là người anh hùng cái thế, rạng danh bốn bể vậy tuổi hơn bảy mươi mà còn ra trận giao phong, nếu có sơ suất thì há chẳng mất oai danh hồi trước đi chăng? Chi bằng y theo lời tôi mà trở ngựa về thành, hãy sai tướng giỏi khác ra mà đối địch”.
Tôn Tháo nghe nói, nạt lớn lên rằng:
“Cả gan cho cuồng tặc, hôm qua giết luôn hai đức con ta, nay lại khi ta già ca:
Mi há chẳng biết cọp già mà còn mạnh sao?” Vừa muốn giục ngựa đến đánh, bỗng nghe sau lưng có tiếng kêu nói rằng:
“Cắt kê yên dung ngưu đao (cắt cổ gà đâu dùng dao mổ trâu) để tôi đánh nó cho”. Tôn Tháo ngó lại thì thấy đại tướng Hàng Vinh lướt tới hươi đao mà đánh Vương Tiễn. Vương Tiễn cử mâu lên đỡ, đánh đặng mười hiệp.
Chương 3 : Lão Đô uý chết trung vì nước, Tiểu anh hùng thí võ trước sân
Lúc ấy có đại tướng bên Yên là Tô Ngươn, thấy Hàng Vinh đánh không hơn Vương Tiễn, liền giục ngựa chạy ra tiếp đánh. Một mình Vương Tiễn đánh với hai người, chưa đặng vài hiệp, Vương Tiễn đâm Tô Ngươn một mâu té nhào xuống ngựa, Hàng Vinh vừa muốn bỏ chạy, rồi cũng bị Vương Tiễn đâm một mâu sau lưng thấu tới trước bụng mà chết tươi. Tôn Tháo cả giận vỗ ngựa múa thương lướt tới.
Lúc ấy Vương Tiễn đánh luôn ba tướng, mà chẳng có lòng sợ chút nào, đánh vùi một trận đến một trăm hiệp chưa định hơn thua.
Nói về Tôn Tháo hơn bảy mươi tuổi vì hôm qua khóc con quá độ tổn thương ngươn khí, cho nên đánh hơn một trăm hiệp sức đà yếu chậm. Vương Tiễn thấy Tôn Tháo chẳng đặng mạnh mẽ như ban đầu, thì có ý muốn đâm Tôn Tháo một mâu, không ngờ Tôn Tháo hươi thương nhắm ngay mặt Vương Tiễn đâm tới, Vương Tiễn dùng mâu hất mạnh quá làm cây thương ngả vẹt hai bên, Tôn Tháo trở thương không kịp thì thấy mâu Vương Tiễn đã tới trước bụng, bèn la:
“Không xong rồi”. Thì cây mâu xuyên từ bụng trước thấu sau lưng. Vương Tiễn hai tay vít Tôn Tháo nhào xuống đất văng ra khỏi ngựa cách mười bước, gia tướng thấy chủ nhân chết thì xông ra giật thây khiêng chạy về ải, dùng quan quách tẩm liệm cốt hài cha con Tôn Tháo rồi bỏ thành, suốt đêm chạy về Dịch Châu.
Lúc Vương Tiễn đánh trống đắc thắng về dinh lãnh công. Nguyên soái biên vào bộ công lao, qua ngày thứ, Chương Hàng truyền lệnh chúng tướng hãm thành, đến nơi thì thấy cửa thành mở thành mở hoác, quân dân bá tánh người người đầu đội hương đăng ra thành nghinh tiếp, đến trước ngựa Nguyên soái quỳ mọp xuống bẩm rằng:
“Chúng tôi là dân nước yên tình nguyện đầu hàng xin Nguyên soái mở ơn rộng rãi như trời đất mà thứ dung tánh mạng”. Nguyên soái nói:
“Bọn ngươi có lòng mà đầu ta, ấy cũng mạng trời xui khiến, bổn soái đâu nỡ tàn hại, chúng ngươi hãy đứng dậy”. Rồi sai Vương Tiễn dẫn năm trăm binh vào thành tra xét thì không có binh phục chi cả, truyền lệnh đại binh kéo rốc vào thành, sai Yên Dịch đi rước Thủy Hoàng rồi Nguyên soái dẫn chúng tướng ra thành nghinh tiếp, Thủy Hoàng vào thành Yên Châu, lòng vui ý đẹp khao thưởng ba quân rồi để một vị phó tướng ở giữ thành trì, qua ngày thứ khởi binh nhằm Bảo Dịch thành thẳng tới.
Nói về cách thành Yên Châu vài trăm dặm có một tòa quan ải là Bảo Dịch quan, tướng giữ ải ấy là em thừa tướng nước Yên tên là Khuất Hưng, người ấy túc trí đa mưu, ngày nọ thấy gia tướng Tôn Tháo chạy tới phi báo thì mới hay rằng cha con Tôn Tháo đều tử trận hết và Yên Châu thành đã mất rồi, bèn nghĩ rằng, thành Yên Châu chắc chắn như vậy, lại thêm cha con Tôn Tháo dõng quán ba quân còn không giữ đặng thay, huống chi thành mồ côi nhỏ này tưởng khó mà giữ đặng, mới sanh một kế, bèn truyền lệnh cho bá tánh nhân dân trong thành chẳng luận giàu nghèo kíp tóm thâu vàng bạc của cải vận đem ra thành, dời qua Dịch Châu mà ở rồi truyền cho quân sĩ sắm đồ đăng hỏa để bốn phía thành chờ sẵn, lại sai vài mươi quân núp trong thành chờ chừng nào lửa ngoài thành cháy thì bốn phía đều đốt lên la hét trơ.
oai, rồi Khuất Hưng dẫn binh ra thành mai phục còn trên thành thì cắm cờ giáo cho nhiều đặng làm kế nghi binh.
Nói về binh Tần ngày ấy kéo tới thành cách mười dặm hạ trại an dinh, cha con Vương Tiễn lãnh chỉ tới thành khiêu chiến đến nửa ngày cũng không thấy một người trên thành đáp ứng phải trở về dinh bẩm lại Chương Hàng. Chương Hàng cùng quân sư KimTử Lăng ra dinh mà coi một hồi rồi trèo lên gò cao dòm ngó trong thành. Kim tử Lăng nói với Chương Hàng rằng:
“Ấy là không thành kế vậy, Điện tây hầu, người hãy bắc thang vào thành thám coi thê nào”.
Vương Tiễn bèn lãnh năm trăm binh qua khỏi Điếu kiều tới bên thành bắc thang rồi mỗi người cầm lấy một tấm bia che tên trèo tuốt lên thành thì thấy trên thành cờ xí rất nhiều mà không có người ngựa chi cả, bèn xuống trong thành tìm kiếm bốn phía khắp nơi cũng chẳng thấy ai rồi mở hoác cửa thành trở ra nghinh tiếp. Kim Tư?
Lăng truyền lệnh chẳng cho quân vào thành bèn cùng Chương Hàng, Vương Tiễn dẫn ít viên chiếu tướng đi tuốt vào thành coi khắp nơi. Kim Tử Lăng nói:
“Yên Tướng ắt là có mưu chi đây. Điện tây hầu phải đem một ngàn binh đóng tại thành như có binh Yên đến thì không nên ra đánh, cứ ngăn giữ đường đi mà thôi, rồi sai Triệu Cao lãnh năm trăm binh mai phục trên thành, dưới mỗi cây cờ thì đốt một lồng đèn của tần coi chừng có binh Yên đến gần mà đốt lửa xô cây gỗ xuống chẳng nên rượt theo”. Rồi nói với Nguyên soái rằng:
“Tôi tưởng có khi binh tướng của Yên đều mai phục hai bên thành, ý muốn sai tướng tầm kiếm lại e rừng bụi khó kiếm, chi bằng nhân kế nó mà mình ra kế, bức ngặt nó thì ắt lấy thủ cấp nó đặng”. Nói rồi bèn sai Võ an quân lãnh một ngàn binh mã qua Yên Châu nơi đường nhỏ mà mai phục chờ cho binh mã của Yên đến bắt hết chẳng cho chạy thoát một người, bằng trái lệnh cứ theo quân pháp trị tội, lại sai vài mươi đại tướng tuần do bốn phía thành mà ngăn ngừa việc xảy đến. Truyền lệnh xong rồi quân sư cùng Nguyên soái vào dinh chong đèn mà ngồi.
Nói rồi Khuất Hưng chờ đến canh ba dẫn binh lén về ải thám coi, xa xa ngó thấy binh Tần đóng dinh trại bao vây chung quanh thành, rồi trèo lên gò cao mà coi thì thấy trên thành đèn lồng treo vô số thì biết binh Tần đều có phòng bị, khó bề hạ thu?
bèn tính rằng:
“Chỉ bằng ta đem binh đánh lấy Yên Châu lại mà ngăn cản đường đi làm cho nó vận đem lương thảo không đặng, Yên binh thì giữ phía trước còn ta thì ngăn phía sau, trong không lương thảo, ngoài không binh cứu chẳng lẽ nó chạy lên trời mà đi cho được”. Tính rồi chẳng đốt lửa phía dinh bèn im lìm kéo quân đi theo đường nhỏ nhắm Yên Châu thẳng tới, đi chưa đặng vài dặm đường bỗng nghe pháo nổ vang trời xông ra một đạo binh Tần kêu lớn rằng:
“Yên tặc đi đâu đó vậy, có ta Võ an quân chờ đây đã lâu”. Khuất Hưng nghe liền quay ngựa chạy dài, Bạch Viên giục ngựa kéo binh rượt theo. Khuất Hưng túng thế phải quày ngựa lại đánh, đánh chưa mấy hiệp bị Bạch Viên đâm một thương té nhào xuống ngựa.
Ba tấc hơi còn mưu kế lạ, Một mai thác xuống việc đều xong.
Bạch Viên giết đặng Khuất Hưng rồi bao nhiêu binh Yên đều cởi giáp đầu hàng.
Bạch Viên bêu thủ cấp Khuất Hưng rồi trở về dinh lãnh công.
Nói về binh Yên mai phục dưới hầm chờ không thấy ngoài thành động tịnh chi ca?
bèn trèo thành chạy ra bị Triệu Cao bắt hết. Qua ngày thứ, Tử Lăng cho người tiếp rước Thủy Hoàng vào thành.
Nói về vua Chiêu Vương nước Yên ngày ấy lâm triều, xảy ra binh ải Yên Châu chạy về tâu rằng:
“Ba cha con Thoại Lăng Quân đều tử trận, thành Yên Châu mất rồi, nay quan quách đem về còn để ngoài thành, xin bệ hạ liệu định”. Chiêu Vương nghe tâu hãi kinh cứ như trên lầu té xuống, chẳng khác giữa biển chìm thuyền, khóc rống lên một tiếng té xỉu trên ghế, hai bên tả hữu vội vàng phò cứu, giây lâu tỉnh lại khóc mà nói rằng:
“Thoại Lăng Quân hết lòng trung vì nước, ngày nay phải thác nơi tay Tần tặc, như vậy thì giang san của trẫm không bảo toàn đặng”. Nói rồi sa nước mắt khóc ròng, chúng tướng ai ai cũng đều rơi lụy. Chiêu Vương truyền chỉ đem quan tài cha con Đô úy vào thành, rồi sai người đến Tôn phủ thông báo, Chiêu Vương buồn bực lui trào.
Nói về Yên Đơn công chúa ngày nọ đang ngồi vô sự thình lình giật chuyển tâm kinh đứng ngồi không an, bèn nghĩ rằng:
“Ngày nay có việc chi lạ như vầy kìa, hay là có hung sự chỉ đây chăng?” Còn đang ngẫm nghĩ suy tính, bỗng thấy gia tướng ngoài cửa hơ hải chạy vào quỳ xuống bẩm rằng:
“Lão quý nhân ơi, không xong rồi.
đô úy thái lão gia cùng đại lão gia, nhị lão gia ở Yên Châu thành đều bị chết nơi tay Tần là Vương Tiễn, nay quan quách đem về thành, lão quý nhân hãy ra cho mau mà tiếp tang”. Yên Đơn công chúa nghe nói thất kinh, hét lân một tiếng té xỉu xuống đất.
Ấy là:
Kêu luôn ba tiếng khổ, Ấm ức ngẹt ngang cổ.
Một mạng xuống suối vàng, Thăm thẳm về địa phủ.
Thị nữ lật đật chạy tới đỡ dậy kêu réo om sòm.
Lúc ấy Cao phu nhân cùng Lý phu nhân đang ở trong phòng xảy nghe tin tức như vậy thì khóc oà, vội vàng chạy ra đại đường, xem thấy Yên Đơn công chúa hôn mê bất tỉnh, lật đật kêu người đem thuốc thang cấp cứu, giây lâu tỉnh lại khóc lóc nói rằng:
“Không nghe lời thiếp, người đã già cả tuổi tác rồi mà còn ỷ oai phong mạnh mẽ gì, đến ngày nay bảo thiếp đừng buồn rầu sao cho đặng”. Rồi day lại ngó Cao, Lý, hai vị phu nhân nước mắt tuôn rơi cuồn cuộn thì càng thêm thảm thiết, nói rằng:
“Không dè nhà ta mắc lấy họa lớn như vầy, nay tuổi gần tám mươi như đèn ra giữa gió mà không có chút con đặng nuôi dưỡng thân già ngày sau mai táng, nay mạng già này ở lại làm chi”.
Nói dứt lời đứng dậy vừa muốn đập đầu vào thềm mà tự vận. Cao, Lý hai vị phu nhân lật đật ôm lại khóc, nói rằng:
“Nếu lão quý phu nhân liều mình thì khiến cho bọn tôi biết làm sao đặng, vả lại việc lớntrước mắt, quan cửu cũng chưa đem vào, xin lão quý nhân tạm nguôi lòng sầu, đặng có lo toan việc lớn. Nói rồi đều khóc mùi mà quỳ xuống đất. Lão phu nhân nghe mấy lời khuyên giải, thì đỡ hai vị phu nhân đứng dậy, rồi dạy chúng gia nhân mặc đồ cư tang thọ chế, bèn cùng hai nàng dâu ra nghênh tiếp quan cữu vào thành, đến phủ đô úy nơi giữa trung đường, để ba cái quan cữu hình như chữ phẩm, dầu cho lòng dạ người có sắt đá đi chăng nữa, thì cũng phải động lòng rơi lệ, rồi lão công chúa cùng hai nàng dâu và cả nhà đều cử ai. Trong phủ đô úy náo nức chào rào dường như phiên giang đảo hải.
Nói về Yên Chiêu vương thảm sầu sanh bệnh về dinh an dưỡng bỗng thấy cung quan chạy vào tâu rằng:
“Chẳng biết việc chi, cả triều văn võ nổi chuông trống thỉnh bệ hạ lâm triều”. Chiêu Vương nghe nói vội vàng ôm bệnh ra triều, ngó thấy hai bên văn võ thần sắc đều biến, không rõ cớ chi, bèn vội vàng hỏi rằng:
“Chẳng hay chư khanh có chuyện chi, gấp lắm mà đánh chuông thôi thúc trẫm ra triều?”. Huỳnh môn quan quỳ xuống tâu rằng:
“Nay có ngũ thành binh sai người đến báo rằng:
Binh Tần đã qua sông Dịch Thủy rồi, vậy nên phải kinh động đến bệ hạ, xin bệ hạ liệu định”.
Yên vương nghe tấu cả kinh, nói rằng:
“Binh Tần làm sao mà nó đến mau lắm quá vậy? Chưa đặng ba ngày đã thâu hết ba ải rồi, nay qua sông Dịch Thủy vậy có ai dám đem binh ra đó mà ngăn cự chăng?” Nói ra một tiếng thì chúng tướng chẳng khác nào như cá mắc câu, như chim bị bắn, đều lẳng lặng làm thinh. Yên vương giận lắm nói rằng:
“Triều đình đặt quan tướng ra để phòng khi ấy ứng dụng, nay thấy binh Tần đến thành thì co đầu rút cổ chẳng có một người dám đem binh ra ngăn cự, nếu vậy thì dùng bọn ngươi mà làm chỉ”.
Lúc ấy có quan thừa tướng tên là Khuất Sảng bước ra tâu rằng:
“Xin bệ hạ bớt cơn lôi đình chi nộ, các quan nội triều có ai mà chẳng muốn hết lòng trung với nước, ngặt vì không phải tay đối thủ với tướng Tần, song chết không tiếc gì, sợ e binh thua nhục nước, tội ấy rất lớn”. Chiêu vương nói:
“Theo như lời thừa tướng phân thì nội trào ta không có người đối thủ với tướng Tần, vậy thì khí số nước trãm hết rồi, thôi thì ngự quan hãy đem văn phòng tứ bửu cho mau (là giấy viết mực, đồ của vua dùng viết thư) đặng trẫm viết tờ biểu đem đến dinh Tần đầu hàng phứt đi cho rồi, thì bọn ngươi khỏi chết, nhân dân không đồ thán”. Khuất Sảng nghe nói cúi đầu tâu rằng:
“Xin bệ hạ chớ vội gấp, khi hôm tôi xem thiên văn, tuy nhà Tần đương hưng, song nước ta cũng chẳng hề chi đâu, ngoài mộtt thắng ắt có cao nhân đến cứu”. Chiêu Vương nói:
“Quả thiệt như lời thừa tướng thì may cho xã tắclắm; nay thừa tướng bảo cử người nào ra thành nghinh địch”. Khuất Sảng tâu rằng:
“Như muốn ra thành cùng Tần tướng đối địch thì tôi sợ e thua nhiều thắng ít, theo trí mọn tôi tưởng, nay tôi xin tình nguyện lên thành mà phòng giữ binh Tần, bằng có điều chi sơ suất thì cả nhà tôi nguyện cam chịu tội”. Chiêu Vương y theo phong cho Khuất Sảng làm Ngũ thành binh mã đại nguyên soái sớm đem binh ra thành ngăn giữ.
Nói về phó đô úy có vị tiểu anh hùng vốn là cháu bốn đời của Tôn võ, con Tôn Long tên là Tôn Yên, tuổi vừa mười tám, mặt như dồi phấn, môi đỏ tựa son, mày rồng mắt phụng, hai tay dài tới đầu gối, khi đứng ngồi mang khí tượng quân vương, tuổi tuy còn trẻ sức mạnh ngàn cân vốn là sao Kim tinh trên thượng giới chuyểân theo đầu thai, ngày sau đặng ngôi cữu ngũ (làm vua), ngày nọ đang lo rầu, ông cha mình đều chết nơi tay Tần tặc không biết kế chi mà trả thù cho đặng, bỗng nghe gia tướng báo rằng:
“Binh Tần đã qua sông Dịch Thủy rồi”. Thì lật đật bước lên nhà khách, vừa muốn vào triều ra mắt thánh thượng đặng xin binh ra đánh. Yên Đơn công chúa ngó thấy Tôn Yên thì sa nước mắt mà nói rằng:
“Sao cháu không ở hậu đường ra đây có sự chỉ”. Tôn Yên nói, cháu đang lo vì không kế trả thù cho tổ phụ, nay nghe gia tướng báo rằng:
“Binh Tần qua sông Dịch Thủy cho nên cháu đến đây cầu xin Tô?
mẫu (bà nội) đem cháu vào triều ra mắt chúa thượng, xin lãnh binh đánh giặc mà tra?
cái thù chẳng đội trời chung”.
Yên Đơn công chúa nghe nói nạt lớn rằng :
“Thằng con nít chưa biết gì, ngũ còn lăn lộn không hay mày dễ chẳng biết ông cha và chú mày, anh hùng mạnh mẽ là dường nào, mà còn phải thác nơi tay Vương Tiễn thay, huống chi mày là đứa con nít bé thơ muốn đòi ra trận mà chịu chết hay sao? . Còn chẳng đi vô cho rồi đi”.
Tôn Yên nghe tổ mẫu nói lật đật quỳ xuống thưa rằng:
“Cháu tuy còn nhỏ nhưng mà còn võ nghệ tinh thông, nay cháu không ra mà báo cừu thì lấy ai thay thế cho cháu”. Công chúa nói:
“Cháu tuy học tập võ nghệ tinh nhuần, song cũng chưa từng ra chốn chiến trường”. Tôn Yên nói:
“Tổ mẫu không tin, vậy thì để cháu ra thí võ cho tổ mẫu coi”. Nói rồi xách thương ra trước thềm hươi múa, lúc đầu còn thấy mình đến sau nghe thương bay vùn vụt chẳng thấy hìnhngười. Có thơ khen rằng:
Nhấp nhoáng hoa bay múa rất màu, Sáng ngời chói mặt chạnh lòng sầu.
Nghề văn nghiệp võ gồm no đủ, Sức đáng ngàn thoi vạn hộ hầu.
Tôn Yên múa một đường thương pháp ấy thiệt là cả nhà đều chóa mắt. Yên Đơn công chúa cùng Cao, Lý phu nhân xem thấy trong lòng rất mừng thầm, đều khen rằng:
“Rõ ràng thiệt con nhà dòng tướng”. Tôn Yên dừng thương lại rồi chạy vào nhà, mặt không đổi sắùc, hơi thở chẳng mệt, bèn hỏi tổ mẫu rằng:
“Đường thương ấy có cự đặng Vương Tiễn chăng?” Công chúa nạt rằng:
“Mày há chẳng biết dòng họ Tôn duy còn có một mình mày đó mà thôi sao? Vả lại bên ngoại mày là Chiêu Vương chẳng có con, hai bên cùng đều nương cậy một mình mày đó mà thôi, nếu mày có sơ suất đến chi thì biết làm sao đặng.’ Bỗng thấy sau hậu đường chạy ra một đứa con gái mình mặc đồ tang kêu nói rằng:
“Lời nói của ca ca rất phải lắm, tôi cũng muốn ra mà trả cái thù ấy cho đặng.” Công chúa coi lại thì là tiểu thơ (nguyên tiểu thơ này là con của Tôn Hổ, vốn là sao nguyệt bột tinh trên trời xuống phàm,học trò của bà Lê sơn lão mẫu, mỗi đêm ngủ chiêm bao thấy truyền dạy võ nghệ, tuổi lên mười bốn học đặng đao mã tinh nhuần thông thuộc binh thư) nhân thấy Yên Đơn công chúa chẳng cho Tôn Yên xuất trận, thì bước ra nói rằng:
“Phụ cừu bất cộng đái thiên (cừu cha chẳng đội trời chung) nếu ca ca nay chẳng ra trận thì tổ mẫu cùng mẫu thân Lý ưng phải kiếm chước đặng trả thù cho tổ phụ cùng phụ thân mới phải, huống chi ca ca võ nghệ cao cường, thì có lẽ đâu chẳng chịu đi”. Yên Đơn công chúa nói:
“Mi là một đứa con gái bé thơ trong buồng the có biết chi mà nói, thằng Vương Tiễn là học trò nước Ảo Ly quốc Vân quan, động ông Hải triều thánh nhân, pháp thuật tinh thông và có bửu kiếm nên rất lợi hại, lại thêm thương thác nơi tay nó, nay ta đâu khứng cho anh mày ra trận”. Tôn Yên nghe nói liền đứng dậy mà rằng:
“Tướng Tần là Vương Tiễn nó đã giết ông tôi và cha tôi, thìcừu ấy sâu như biển, nay không ra mà đánh với nó thì cũng chẳng làm con người mà làm chi”.
Tiểu thơ nói:
“Ca ca nói rất phải, nếu ca ca chẳng ra mà trả thù, thì em cũng nguyện ra mà đánh với nó”. Yên Đơn công chúa giận nạt rằng:
“Một đứa con nít yếu đuối ma đòi ra trận làm chi”. Tiểu thơ nói:
“Tổ mẫu phân lời ấy sai rồi, xưa nay đàn bà con gái lập công nên nghiệp cũng chẳng thiếu chi, như là Chung Thái Chơn bên nước tề há không phải là đàn bà sao, mở mang nghiệp bá nhà Tề, các nước nghe danh đều vỡ mật, tôi tuy bất tài nhưng cũng là học trò của bà Lê Sơn thánh mẫu, đao pháp tinh thông, há đi sợ tướng của Tần sao?” Công chúa nói:
“Mi chớ nói phách, mi là một đứa con gái ở trong thâm khuê, thì có đâu lên núi Lê Sơn cho đặng mà học tập võ nghệ”. Thoại Hoa tiểu thơ bèn đem việc chiêm bao thấy bà Lê Sơn Thánh Mẫu truyền dạy binh thư võ nghệ đã hai năm nay mà thuật lạimột hồi.
Công chúa cùng Cao, Lý phu nhân nghe nói thì có chí mừng, song chưa tin. Tiểu thơ bèn dạy Liễu Hoàn vào hương phòng lấy một cặp bửu đao đem ra. Tiểu thơ tiếp lấy rồi bước ra trước thềm hươi múa đao pháp rất tuyệt diệu. Tiểu thơ múa một đường huê đao, rồi trở lại vào nhà khách hỏi tổ mẫu cùng bác và mẹ rằng:
“Chẳng biết đao pháp như vậy có dùng đặng chăng?” Chúng nhân đều ngó sững sờ. Công chúa thấy hỏi thì nói rằng:
“Thoại Hoa cùng Tôn Yên thương đao thảy đều tinh thông song tuổi hai cháu còn thơ ấu lắm nên bà chẳng an lòng cho ra trận”. Tiểu thơ nói:
‘Tổ mãu hễ nói đến người này cho là dở, người kia cũng cho rằng tệ, Nhưng mà tôi có nghe cha tôi lúc sanh tiền có nói rằng:Tổ mẫu thủa nhỏ tuổi lên mười chín thì đã ra trận giao phong, tưởng lại tuổi tôi cùng với tuổi bà lúc nọ cũng chẳng nhỏ hơn bao nhiêu”.
Tôn Yên nghe nói kêu lớn rằng:
“Tổ mẫu lúc còn con gái thì cũng xuất binh, va?
lại tôi là dòng tướng môn chi tử, năm nay mười tám tuổi, há đi sợ người sao? Nếu tô?
mẫu mà chẳng cho tôi ra trận, thì không còn mặt mũi nào đứng trên dương thế, chi bằng chết phứt cho rồi”. Nói dứt lời bước tới vừa muốn đập đầu vào đá, Cao phu nhân vùng nạt lớn lên. Tôn Yên nghe mẹ nạt thì chẳng dám liều mình. Cao phu nhân bèn nói rằng:
“Tức phụ (là dâu) nghĩ vì họ Tôn thường mang ơn nước, vả lại tôi nhắm võ nghệ Tôn Yên thì cũng đủ tài sức mà ra trận đặng, chi bằng để cho nó đi đặng làm cho rạng danh, các nước biết rằng họ Tôn ta cho đến con nít, bé thơ cũng đều hết lòng trung với triều đình”. Công chúa nghe nói không biết làm sao đặng, túng phải nghe theo, bèn dạy đánh trống nhóm hết gia tướng lại rồi tuyển lựa người đặng theo Tôn Yên ra trận.
Lúc ấy có tên tiểu gia tướng theo hầu Tôn Yên, tên là Ban Báo bước ra quỳ xuống thưa rằng:
“Ngày nay tiểu chủ ra binh, tiểu nhơn xin làm tiên hành đặng tiểu chủ dẹp giặc”. . Công chúa nạt rằng:
“Thằng chết bầm, mi đòi ra trận mà làm chi, nói cho rầy tai, mi thấy đi đây là trẻ nhỏ, ấu thơ nên bắt chườc ra mà làm rộn cho ta, sao không đi xuống cho rồi”. Ban Báo nghe quở thì le lưỡi, lắc đầu, lật đật đứng dậy núp sau lưng Tôn Yên mà nhắc nhỏ, Tôn Yên ngó lại gật đầu. Ban Báo mừng rỡ rồi đi tuốt.
Lúc ấy gia tướng trong phủ nghe trống đánh vang rần đều nai nịt vào nơi đại thính hầu lịnh Yên Đơn công chúa ngó hết bốn phía thì thấy người người đều hùng phong củ củ, khí võ ngan ngan, trong lòng cả mừng bèn nói rằng:
“Ngày nay đô úy gia cùng đại lão gia, nhị lão gia, đều thác nơi Yên châu hết, ta muốn vào điện tâu cùng thánh thượng xin cho tiểu chủ chúng ngươi là Tôn Yên lãnh binh ra thành giáp chiến cùng binh Tần, bọn ngươi đời đời đều nhờ ơn của họ Tôn ta rất nhiều, nên phải hết lòng tận trung tận lực ngày sau ắt có trọng thưởng”. Chúng gia tướng đều rập lên một tiếng mà nói rằng:
“Bọn tôi mang ơn nuôi dưỡng bấy lâu nay, xin tình nguyện hết lòng bảo hộ tiểu chủ ra thành đánh giặc”.
Chương 4 : Vương Tiễn ỷ tài gặp giặc dữ, Tôn Yên phá kiếm giải trùng vây
Nói về Yên Đơn công chúa dặn dò gia tướng xong rồi, bèn tuyển lựa người mạnh mẽ, lẹ làng đi theo Tôn Yên vào triều, còn người già cả yếu đuối thì ở lại phủ, để dùng sai khiến, lúc ấy Tôn Yên xin cho Ban Báo đi theo mình. Công chúa ừ chịu, rồi đó công chúa lên xe cùng Tô Yên đến thẳng ngọ môn, vừa lúc ấy Chiêu Vương chưa lui triều, có huỳnh môn quan vào tâu rằng:
“Nay có Yên Đơn công chúa ngoài ngọ môn hầu chỉ”. Chiêu Vương nghe tâu, trong lòng chẳng nỡ cho vào, vì thương công chúa chồng con đều thác hết, nếu không cho vào lại e công chúa phiền lòng.
Túng phải truyền cho vào.
Công chúa vào đến ba từng đại điện, lạy ra mắt xong rồi, hai anh em sa nước mắt khóc oà, Chiêu Vương nói:
“Không dè lão đô úy cùng hai vị ngự sanh (là cháu bên ngoại) đều bất hạnh thác hết nơi tay Tần tặc, thiệt rất thảm thương, nay binh Tần kéo đến dưới thành, nội triều ta chúng tướng không ai dám lãnh binh ra đối địch, thì trẫm muốn viết tờ biểu đầu hàng đem đến dinh Tần nạp cống xưng thần, cho bá tánh khỏi đau binh khổ sở, song nghĩ lại trẫm không hậu tự nối dòng, còn ngự muội thì cũng không con, ngày sau trẫm băng hà rồi, thì giang san nước Yên biết giao lại cho ai giữ”. Nói đến đó thì lại càng khóc rống lên, công chúa cũng sa nước mắt như mưa.
Chiêu Vương khóc lóc một hồi, rồi quay lại ngó thấy một người mặc đồ trắng đang quỳ dưới thềm, bèn vội vàng hỏi công chúa rằng:
“Người nào quỳ đó vậy”.
Công chúa tâu rằng:
“Ấy là cháu của tôi, con Tôn Long, tên Tôn Yên đó”. Chiêu Vương hỏi rằng:
“Nay cháu nó đến ra mắt trẫm có việc chi chăng?”. Công chúa khóc lóc tâu rằng:
“Tôi cả đời mang ơn bệ hạ, tuy nát mình cũng không trả được, nay binh Tần vây khổn hoàng thành (là thành vua ở) không người chống cự, thằng này tuổi tuy còn nhỏ, nhưng mà võ nghệ tinhthông, khá ra dẹp giặc, nay tôi tuyển chọn năm trăm gia tướng, ý muốn xin bệ hạ cho nó ra trận cùng với binh Tần định quyết hơn thua, dầu có bề nào đi nữa, thì cũng đủ rõ con trẻ họ Tôn hết lòng trung với nước”.
Chiêu Vương nghe nói hãi kinh mà rằng:
“Ngự muội (em vua) nói sao vậy, việc ra trận chinh chiến chẳng phải chơi đâu, và lại tướng Tần Vương Tiễn sức mạnh hơn ca?
ba quân, lão đô úy cùng hai vị ngự sanh, còn không phải là tay đối thủ với nó thay, huống chi Tôn Yên là một thằng con nít nhỏ mọn, mà muốn ra trận để nạp mình sao?”.
Công chúa nói:
“Tôi đã hết lời khuyên dứt mà nó không nghe quyết ra trả cái thù cha ông nó mà thôi. Nếu không cho đi thì nó cũng liều mình mà thác. Song tôi đã thấy thương pháp của nó rồi. Thiệt là tuyệt diệu vô song, vậy xin bệ hạ cấp binh cho nó ra thành cự giặc coi thử thế nào”. Còn đang chuyện vãn, xảy có Điện tiền quan lật đật chạy vào quỳ xuống tâu rằng:
“Tướng Tần là Vương Tiễn đang ở ngoài thành khiêu chiến. Khuất thừa tướng treo luôn mấy cho cái miễn chiến bài đều bị nó đập bể tan hết”.
Lúc ấy Tôn Yên nghe nói vội vàng cúi đầu tâu rằng:
“Xin cho tôi ra ngựa, như bắt sống không đặng Vương Tiễn dẫu có muôn thác cũng chẳng chối từ”. Chiêu Vương sa nước mắt nói rằng:
“Hoàng Tôn hãy dậy, thôi cháu hãy mau sắm sửa nai nịt để trẫm điểm chọn năm trăm binh ròng cho hoàng tôn xuất trận, rồi trẫm cùng ngự muội lên thành mà xem. Song nước nhà còn mất đều nhờ một trận này thôi”.
Tôn Yên vâng lệnh xuống điện nai nịt, gia tướng có sẵn rồi, giây phút nai nịt tề chỉnh lên điện lạy từ. Chiêu Vương ngó thấy Tôn Yên oai phong lẫm lẫm, tướng mạo đằng đằng, khác hơn chúng tướng, thì quay lại nói với công chúa rằng:
“Hoàng Tôn quả thiệt thiên thần, rất may cho tắc xã”. Rồi nói với Tôn Yên rằng:
“Cháu nay có tang trọng nơi mình, trẫm không đãi rượu, vái làm sao cho cờ ra thắng trận, ngựa đến nên công, trẫm sẽ phong quan tấn tước”. Tôn Yên lạy tạ ra khỏi ngọ môn, lúc đó nơi ngự dinh, năm trăm binh mã cùng năm trăm gia tướng chực sẵn, Ban Báo thấy Tôn Yên bước ra lật đật tới trước bẩm rằng:
“Binh mã có sẵn rồi, còn chờ tiểu chu?
phân phán”. Tôn Yên bảo mau mau truyền lệnh khởi binh, quân lýnh vâng lệnh phất cờ gióng trống nhằm Dịch Châu thành kéo tới. Khuất Sảng rước vào địch lầu (lầu xem giặc). Tôn Yên hỏi thừa tướng rằng:
“Binh Tần nó đã về dinh rồi hay sao?” Khuất Sảng nói:
“Tướng Tần Vương Tiễn ở ngoài thành khiêu chiến, từ sớm mai đến bây giờ, nó đập bể luôn năm cái miễn chiến bài, bây giờ còn đang kêu mắng om sòm”. Tôn Yên nghe nói giận lắm, truyền lệnh phát pháo ra thành giao chiến. Khuất Sảng vội vàng cản lại nói rằng:
“Tướng quân xin chớ gấp, bây giờ đã đến giờ Ngo.
rồi, xin tạm nghỉ nửa ngày, mai sẽ ra binh.” Tôn Yên nói:
“Thằng giặc ấy nó giết ông cha ta, giận không bắt nó được bây giờ mà phân thây muôn khúc,có đâu dung được”. Nói rồi liền thúc quân phát pháo ra thành.
Lúc ấy Vương Tiễn ở ngoài nghe trong thành có tiếng pháo nổ, thì biết có tướng ra thành, liền phân binh dàn hàng bỗng thấy cửa thành mở hoác, xông ra một đạo binh với hai cây cờ trắng, đi đầu là mỗt viên tướng nhỏ, mặt mày xinh tốt, ấy là:
Tai tới hai vai đáng bực cao, Mày tầm mắt phụng chói như sao.
Ngày kia gặp đặng rồng mây hội, Thâu tóm giang san hưởng Triệu trào.
Bên kia Vương Tiễn xem thấy Tôn Yên tuổi trẻ anh hùng, có ý thương tiếc, khen thầm rằng:”Tên tướng nhỏ diện mạo tươi tốt như vậy, song chưa rõ tài nó thế nào”. Bèn nạt rằng:
“Bớ Yên tướng có ông mi đây, hãy thông tên họ cho ông rõ”.
Tôn Yên nạt rằng:
“Mi có phải là Vương Tiễn chăng? Ta nay giận không bắt sống đặng mi mà ăn thịt, ta và mi vẫn có cừu chẳng đội trời chung, ta đây cháu của Thoại Lăng Quân, con trai nguyên soái Tôn Long, tên là Tôn Yên, mi ở nơi Yên Châu thành giết luôn cha, ông và chú của ta, nay gặp đặng cừu nhân, nếu ta không bắt được mi mà đem về thành, thề chẳng làm người”. Vương Tiễn nghe nói nổi giận nạt lớn lên rằng:
“Thằng con nít nói phách”. Liền hươi trượng bát mâu nhắm ngay bụng Tôn Yên đâm tới. Tôn Yên hươi kích rước đánh.
Lúc ấy Chiêu Vương cùng công chúa đã đến Dịch Châu thành, nghe nói Tôn Yên cùng Vương Tiễn giáp chiến, liền lên thành xem trận, ngó thấy Tôn Yên với Vương Tiễn như hai con cọp giành ăn, đánh bảy chục hiệp, Chiêu Vương nói với công chúa rằng:
“Tôn Yên quả thiệt con dòng nhà tướng, ngự muội hãy coi đó mà còn không làm chi cho nó được, trẫm coi hai người là kỳ phùng địch thủ, trướng ngộ lưỡng tài”.
Công chúa nói:
“Ấy là phước lớn của chúa thượng chớ tôi coi đó thì là Vương Tiễn thương lẹ ngựa mau, còn Tôn Yên duy có đỡ gạt mà thôi, tay coi cũng đã có hơi chậm lụt”. Chiêu Vương nói:
“Trẫm coi hoàng tôn hươi múa cây kích, hai cánh tay chẳng hề rúng động chút nào, hình như không dùng sức cho mấy, hay là nó dùng kế nhu đấu chăng? Vậy để trẫm đánh cho nó ba hồi trống trợ Oai coi thử thế nào”. Nói rồi truyền chỉ đánh trống, tức thì trong thành trống vang như núi lở.
Lúc ấy Tôn Yên, ngồi trên ngựa xem thấy trên thành có cây lọng vàng, biết là Chiêu Vương lược trận, thì trong lòng nghĩ thầm rằng:
“Vương Tiễn quả nhiên anh hùng, có sức mạnh đến ngàn cân, thôi ta nhẹ tay cho nó vài chục hiệp nữa, rồi sau se?
dùng sức cũng chẳng muộn gì”.
Nói về trong dinh Tần, Chương Hàng thấy Vương Tiễn ra đánh từ giờ Thìn cho đến giờ Mùi, mà không thấy về, vả lại ngoài dinh có tiếng chiêng trống vang rền, bèn hỏi quân rằng:
“Điện Tây Hầu cùng Yên tướng đánh thế nào?” Có kỳ bài quan quỳ xuồng bẩm rằng:
“Điện Tây Hầu ra dinh khiêu chiến qua đến giờ Ngọ trong thành mới phát binh ra, có một viên tướng nhỏ đang đánh với Điện tây hầu đến bây giờ cũng chưa ai hơn thua”. Chương Hàng nghe nói, liền lên ngựa đẫn chúng tướng ra dinh mà xem, ngó thấy Vương Tiễn cùng với một tên tướng nhỏ đánh qua đỡ lại rất dữ tợn, bèn truyền lệnh đánh trống trợ Oai.
Lúc ấy Vương Tiễn nghe nơi dinh mình đánh trống, thì biết có nguyên soái ra coi trận, càng thêm ráng sức tinh thần hét la như sấm, tỷ như lúc nọ càng thêmmạnh dữ hơn nữa. Yên Chiêu Vương cùng công chúa ngó thấy Vương Tiễn càng mạnh mẽ hơn trước, lại thấy bên dinh Tần kéo ra binh mã đông đầy mà đánh trống trợ Oai, thì trong lòng thất kinh nói rằng:
“Nội trào ta không có một tên tướng nào dám ra mà phụ tiếp, thì biết làn sao được, ắt là Hoàng tôn không thắng nổi”.
Lúc ấy Tôn Yên thấy Vương Tiễn ráng sức mạnh ra đánh thì nói rằng:
“Bớ Vương Tiễn, mi có bao nhiêu tài nghệ, hãy đem ra cho hết, ta có thua mi một mảy thì chẳng xứng là một hào kiệt”. Bèn ra sức đánh vùi vài mươi hiệp nữa, làm Vương Tiễn mệt đã thở dốc, nghĩ thầm rằng:
“Không xong rồi, thằng tiểu tướng này qua?
nhiên thương pháp lợi hại, nếu lấy sức mạnh mà đánh với nó thì ắt không hơn được, chi bằng ta dùng bửu kiếm giết nó cho rồi”. Bèn đâm bậy một mâu giả thua bỏ chạy.
Tôn Yên nạt rằng:
“Mi chạy đâu cho thoát”. Liền giục con Bạch Long đuổi mà theo.
Lúc ấy Ban Báo đứng nơi trận ngó thấy tiểu chủ đắc thắng rược theo Tần tướng, thì nạt lên một tiếng vang như sấm dậy, rồi cũng giục ngựa chạy theo.
Nói về Yên Chiêu vương ở trên địch lầu thấy Tôn Yên đánh Vương Tiễn thua chạy, thì vỗ tay reo cười. Công chúa trong lòng mừng, bỗng nhớ trực lại lật đật nói với Chiêu Vương xin gióng chiêng thâu binh lại. Yên Chiêu Vương hỏi rằng:
“Ngư.
muội nói sao vậy, để cho hoàng tôn theo chút nữa thì bắt được Vương Tiễn, đem về chẳng hay hơn”. Công chúa nói:
“Vậy chớ chúa thượng chẳng biết Vương Tiễn là học trò của ông Hải Triều thánh mẫu ở động Vân Quang, học được pháp thuật tinh thông, nếu mà rượt theo nó, có điều chi sơ thất thì biết làm sao cho được”. Chiêu Vương nói:
“Lời ngự muội phán rất phải, vậy hãy gióng chiêng thâu binh cho mau”.
Lúc ấy Tôn Yên đang rượt theo Vương Tiễn, thì có đâu mà nghe cho được tiếng chiêng. Vương Tiễn thấy Tôn Yên rượt theo gần thì lật đật lấybửu kiếm niệm chú liệng giữa thinh không. Công chúa nhìn thấy rõ ràng hồn bất thủ xác, hét lên một tiếng, nói:
“Cháu ta chết rồi”. Liền té xỉu xuống. Chiêu Vương xem thấy thất kinh, lật đật hối người cứu dậy, song kêu réo cho mấy cũng không tỉnh được, làm cho Chiêu Vương trong lòng rối loạn, tay chân run rẩy không tưởng đến Tôn Yên ngoài thành sống thác thế nào, liền truyền chỉ để Công chúa trên giường mà khiêng xuống thành để nơi cửa tứ mã nhà đại đường, rồi Chiêu Vương cũng theo sau mà vào.
Nói về Tôn Yên nghe Vương Tiễn nạt rằng:
“Hãy coi bửu kiếm của ta giết ngươi”. Liền ngước mặt xem thấy một vầng mây có ngọn bửu kiếm bay lại. Ban Báo ngó thấy cây gươm mười phần lợi hại, liền kêu tiểu chủ hãy chạy cho mau, kêu rồi quày ngựa bỏ chạ, Tôn Yên thất kinh cũng quày ngựa chạy theo. Vương Tiễn cười nói rằng:
“Tôn Yên mi muốn cho sống thì có kiếp khác đầu thai mới đặng?” Bèn niệm chú nạt rượt theo. Lúc ấy bửu kiếm ở giữa trời rượt theo như baỵ Tôn Yên quay đầu ngó thấy cây gươm cách đầu chẳng xa, trong lòng kinh hãi, hét lớn một tiếng, trên nê hoàn cung xông ra một đạo hào quang thì có rồng vàng trương nanh vuốt mà đỡ cây gươm ấy không rớt xuống đặng?” (vốn Tôn Yên có mạng làm hoàng đế mấy năm, ngày nay há đi chịu chết nơi cây bửu kiếm sao? Xưa nay chết sống đều do nơi mạng một mảy chẳng tại người). Lúc ấy Vương Tiễn thấy bửu kiếm, không chém đặng, thì ngỡ là Tôn Yên có phép thuật chi mà chú thâu cây bửu kiếm lại, còn bên kia Tôn Yên tỉnh lại, thì không thấy bửu kiếm, quay đầu lại thấy Vương Tiễn đứng ngó trân trân, liền quày ngựa nạt lên rằng:
“Mi chạy đâu cho thoát”. Nói rồi hươi kích đâm nhầu, Vương Tiễn trở tay không kịp, la:
“Không xong rồi”. Liền xoay mình mà tránh, bị cây kích đâm nhằm đứt nửa manh giáp, Vương Tiễn mặt mày tái xanh, giục ngựa lýnh quýnh chạy xớt ngang Tôn Yên.
Tôn Yên với tay chụp được sợi giây tư điều của Vương Tiễn ráng sức kéo qua, ý muốn bắt sống Vương Tiễn. Vương Tiễn hoảng kinh, hai tay níu chặt trên yên còn hai chân thúc con ÔÂdải báo chạy tới, hai bên ra sức trì kéo làm cho sợi dây tư điều đứt lìa hai đoạn. Vương Tiễn chạy thoát khỏi đặng, Tôn Yên rượt theo, Vương Tiễn lấy ra một cái báu liên chùy. Tôn Yên không đề phòng. Vương Tiễn thấy tới gần bèn liệng chùy ra đánh, nhằm cái hộ tâm kiếng (là tấm kiếng che trước bụng) của Tôn Yên bể nát. Tôn Yên ngã ngửa trên ngựa, đến chừng tỉnh lại thì thấy Vương Tiễn chạy xa rồi, bèn mắng rằng:
“Thằng thất phu mi có tài chi lên trời thì ta cũng theo lên trời mà bắt cho được mi”. Nói rồi quất ngựa rượt theo.
Nói về núi Thiên Thai động, Tôn Tẫn lão tổ đang ngồi trên bồ đoàn luyện dưỡng tâm thần, xảy giật mình lần tay coi biết, bèn hét lớn một tiếng té ngửa trên bồ đoàn, làm cho Thanh Phong, Minh Nguyệt hai tên đồng tử thất kinh hồn vía, lật đật chạy lại phò cứu, Tôn Tẫn tỉnh lại ngồi dậy mà khóc rống lên. Thanh Phong, Minh Nguyệt chẳng rõ cớ chị Lúc ấy có tên học trò là Lý Tòng (vốn người này lúc Tôn Tẫn về núi Thiên thai thâu dụng làm đệ tử, có sức mạnh ngàn cân) ngó thấy thầy khóc lóc như vậy, thì vội vàng tới trước hỏi rằng:
“Chẳng hay sư phụ cớ chi mà bi lụy vậy?” Tôn Tẫn nói:
“Lý Tòng con chưa rõ, nguyên vì cha của thầy và hai anh của thầy ở Dịch châu thành đều bị chết nơi tay Vương Tiễn, tuy mạng trời đến chừng đó mà thôi, song lòng thầy thương xót lắm”. Lý Tòng nghe nói thì trợn mắt dựng mày mà rằng:
“Nếu có việc như vậy xin thầy cho tôi xuống núi đặng bắt sống thằng Vương Tiễn mà trả thù cho sư tổ”. Tôn Tẫn lau nước mắt mà nói rằng:
“Mi chớ nói bậy, hãy phò ta ra động”. Lý Tòng lật đật phò thầy ra khỏi động Thiên Thai, vận con mắt của thần tiên hay coi xa tới bốn muôn tám ngàn dặm. Lúc ấy Tôn Tẫn ngó thấy Tôn Yên rượt theo Vương Tiễn, còn Vương Tiền thì giáp rách xơ xải chạy riết về dinh Tần, lại ngó thấy trong dinh Tần xông ra một viên đại tướng ngựa đỏ giáp đỏ, tay cầm đại đao lướt ra ngăn đánh làm cho Vương Tiễn chạy thoát khỏi, rồi tướng ấy đánh với Tôn Yên chua được vài hiệp bị Tôn Yên đâm, tên tướng ấy té nhào xuống ngựa, rồi giục ngựa đến phá dinh Tần, lại thấy nơi trận xông ra một viên tướng nho?
tay cầm ngân trang giản tiếp đánh binh Tần (nguyên tướng cầm giản là Ban Báo).
Bỗng thấy trong dinh Tần nổ lên một tiếng pháo, xông ra tám viên đại tướng áp lại phủ vây Tôn Yên, rồi thấy tên tướng nhỏ cầm giảng khi nãy xông vào trong vây mà ban trợ Tôn Yên. Còn bên dinh Tần kéo ra một đạo binh nữa, rất đông, đánh giết binh Yên, binh Yên vỡ tan chạy hết, rồi thấy binh tướng của Tần đông như kiến áp lại, phủ vây Tôn Yên nên rất nguy cấp, ngó thấy Tôn Yên hươi kích đánh đỡ tưng bừng, nhấp nhánh như núi dao chơm chởm, trên thì đỡ lấy mình, dưới thì che cho ngựa, còn người cầm giảng thì rất lợi hại, hai bên đều có hao binh tổn tướng rất nhiều, kế một lát thì binh Yên còn có ít, binh Tần thế mạnh mẽ lắm, song chẳng dám lại gần đứng ngoài xa mà vây chặt, rồi thấyTôn Yên cùng vị tướng nhỏ coi có hơi mệt lắm. Tôn Yên bị thương té xuống ngựa rất nhiều, rồi có một viên tướng Tần giục ngựa hươi thương ngăn đánh, binh Tần áp lại vây nữa, đánh chưa đặng mười hiệp, tên tướng ấy bị một kích té sấp trên ngựa mà chạy, binh Tần đều trương cung lắp tên mà bắn. Tôn Tẫn ở trên mây nói:
“Không xong rồi, bây giờ ta không cứu nó còn đợi chừng nào”. Bèn lật đật lấy cây cờ hạnh huỳnh kỳ niệm thần chú nhắm ngay trận mà chỉ, thình lình giông gió nổi lên, muôn ngựa reo hí, hai đạo quân đều không thấy nhau, rồi Tôn Tẫn cùng Lý Tòng trở vào động. Lúc ấy Tôn Yên nơi trận đánh riết, hai tay bủn rủn, mồ hôi dầm dề, bỗng thấy nổi trận cuồng phong, cát bay đá chạy làm cho binh Tần rối loạn, lật đật chiêu thâu binh tàn, nhân lúc ấy phá vây mà chạy miết về.
Nói về Kim Tử Lăng ra dinh xem trận, xảy thấy một trận gió lạ lùng làm cho cát bay đá chạy, đánh vãi quân binh. Thì trong lòng cả kinh, lật đật niệm chú chỉ phong, tức thì giông gió lặng trang, binh tướng Tần bị đá cát đánh thương tích rất nhiều, Tôn Yên chạy thoát khỏi vây thì có thừa tướng Khuất Sảng dẫn binh ra thành tiếp ứng, thâu binh về dinh. Đánh trận ấy binh Tần bị Tôn Yên giết chết hai tên đại tướng là Lý Kiệt, Triệu Cao, còn binh chết hơn năm trăm người, bị thương tích không kể xiết, binh Yên một ngàn mà chết hết tám trăm.
Nói về Yên Chiêu Vương cùng công chúa về dinh mã tư nha giây lâu mới cứu tỉnh được, công chúa kêu nói rằng:
“Cháu ôi! Vong hồn cháu hãy chờ bà đi với”.
Chiêu Vương thấy công chúa tỉnh lại thì trong lòng bớt lo sợ, kêu nói rằng:
“Ngư.
muội hãy định tĩnh tâm thần lại”. Công chúa quay đầu ngó thấy Chiêu Vương đứng bên giường còn chúng văn võ thì chầu chực hai bên, thì khóc rống lên rằng:
“Họ Tôn thật bất hạnh lắm, nên có đại họa luôn như vậy, nay Tôn Yên cũmg chết nơi tay Vương Tiễn nữa, thì biết làm sao?”. Chiêu Vương sa nước mắt nói rằng:
“Ngự muội hãy bớt cơn sầu thảm, hễ là người lành thì có cao xanh phụ giúp, ngự muội hãy nghe đó mà coi, ngoài thành cũng còn tiếng chiêng trống om sòm”. Công chúa bèn lắng tai nghe, quả nhiên ngoài thành chiêng trống vang trời, tiếng quân réo dậy, thì nói:
“Có khi Tôn Yên đã chết rồi nên binh Tần đánh phá thành chăng?”. Chiêu Vương truyền chỉ quân lýnh lên thành thám coi, trong giây phút vào tâu rằng:
“Tiểu tướng quân không thác nơi gươm Vương Tiễn đâu, bây giờ còn đang ở trong trận, bi.
binh Tần vây phủ bịt bùng, Khuất tướng quân thân lãnh binh ra thành tiếp ứng”.
Chiêu Vương cùng công chúa cả mừng lạy tạ trời đất, kế thấy Tôn Yên vào thành ra mắt, xem thấy máu ướt chiến bào, công chúa lật đật hỏi rằng:
“Làm sao mà cháu tránh khỏi cây gươm Vương Tiễn đặng?” Tôn Yên nói:
“Cháu cũng không rõ vì cớ chi, có khi cháu mặc tang khó nơi mình cho nên bửu kiếm sợ nhơ uế mà không dám xuống cũng chưa rõ được”. Chiêu Vương nói:
“Hoàng tôn ngày nay ra trận nhọc nhằn, hãy về dinh an nghỉ”. Tôn Yên quỳ tâu rằng:
“Tôi thấy binh Tần coi thế mạnh mẽ khó trở đương, vậy xin bệ hạ kịp tả văn thư cầu cứu đặng tôi phá vây đến nước Tề mà viện binh và tôi đến núi Thiên Thai thỉnh chú tôi xuống thì mới trừ đặng pháp thuật của Vương Tiễn”.
Chiêu Vương nói:
“Hoàng tôn phân rất phải, song hoàng tôn đánh dẹp cả ngày sức đà mỏi mệt, chi bằng an nghỉ vài ngày rồi hãy đi”. Tôn Yên tâu rằng:
“Cứu binh như cứu lửa, xin bệ hạ hãy tả văn thư cho kịp đặng tôi đi mới xong”. Công chúa nói:
“Lời tâu của Tôn Yên có lý, vậy xin thánh thượng mau tả văn thư, còn cháu hãy trở ra mà an nghỉ, để bà viết một phong thư gởi cho chú mày”. Tôn Yên lạy tạ lui ra cởi giáp ăn cơm và cho ngựa ăn uống rồi cùng với Ban Báo nai nịt vào điện, ngó thấy bà viết thư rồi niêm phong lại nước mắt tuôn rơi, nói rằng:
“Cháu có đi hãy nghe bà dặn đôi lời”.
Chương 5 : Đến Lâm Tri, Tôn Yên cầu binh cứu, Nơi điện tiền, Trầm Tưởng cử tướng tàị
“Cháu nay đi qua Đông Tề mượn binh cầu cứu rồi phải lên núi Thiên Thai ra mắt chú mày mà thỉnh nó xuống cho mau, thì mới báo cừu đặng nước nhà, mà dẹp lui binh Tần, song từ cháu lớn khôn chưa từng biết mặt chú mày, vẫn tướng mạo có năm chòm râu xanh, mặt mày đẹp đẽ, mình cao một trượng, lưng lớn tám vây, ấy là chú của mày đó, thì mày nói với nó rằng:
“Bà bảo nó kíp xuống mà trả thù cho cha, anh nó, vả lại binh Tần nay đã vây thành Dịch Châu rất nên nguy khốn, cha anh nó đều bị tướng Tần là Vương Tiễn giết hết, mà nó không lo trả thù, lại muốn ngồi xem cho tao chết nữa sao? Nhưng lỡ quả có lòng nỡ làm vậy, thì nó là đồ bất hiếu, chắc không thành thần tiên đặng đâu, giấy ngắn chuyện dài không viết đủ đặng”. Vừa nói vừa khóc, vua tôi nước Yên ai ai cũng đều động lòng. Công chúa nói :
“Bà thương vì cháu từ nhỏ đến lớn là con cưng, cháu quý, chưa từng ra khỏi cửa, ngày nay trước trận giao phong một mình ra chốn hiểm nghèo, đêm nay cháu lại phá vây qua Lâm Trì cầu cứu, không phải là việc dễ đâu, nay xã tắc nhân dân đều trông cậy cháu mà thôi, có đi hãy về cho chóng, như ra khỏi vây thì bắn một mũi tên lửa làm hiệu thì bà mới an lòng”. Lại dặn dò Ban Báo phải hết lòng bảo hộ tiểu chủ ra khỏi trùng vây, chừng về ta sẽ trọng thưởng. Ban Báo vâng lời, Chiêu Vương bổn thân dắt thơ vào lưng Tôn Yên, kính ba chung rượu, quay lại nói với Ban Báo rằng:
“Nay tiểu tướng qua Tề cầu cứu thì nhờ cậy ngươi phò hộ cháu ta, chừng về thì trẫm phong cho ngươi làm chức chỉ huy”. Tôn Yên, Ban Báo đến lạy tạ ra đi. Chiêu Vương và Công chúa đưa Tôn Yên ra thành. Lúc ấy trời vừa đầu hôm, bóng trăng rỏ rạng, Chiêu Vương đứng nơi thành coi cho hai thầy trò ra khỏi thành rồicùngCông chúa lên thành lầu mà xem.
Nói về chúng tướng bên Tần kéo về dinh bày tiệc thưởng lao còn đang ăn uống, bàn nói về sức mạnh của Tôn Yên phá đặng tru tiên kiếm.
Lúc Kim Tử Lăng ngó thấy cây cờ lớn không gió mà tự nhiên lay động, trong lòng phát nghi bèn lần tay rồi nói với chúng tướng rằng:
“Đêm nay có Tôn Yên đến phá dinh ta đặng qua Đông Tề cầu cứu, thì chắc làm sao nó cũng đi ngang qua dinh phía Đông. Ta nghĩ lại rằng:
“Tôn Yên nó mà phá đặng cây bửu kiếm thì ắt có phép thuật, vậy không nên dùng phép mà bắt nó, ta tưởng một mình nó phá không đặng dinh đâu, song cũng phải phòng bị mới đặng, đây cách phía Đông hai mươi dặm có một hòn núi kêu là núi Kinh Kha rất hiểm trở, qua Đông Tề thì phải đi qua đường đó, ý ta muốn sai tướng mạnh binh ròng tới đó mai phục bốn phía, để cho Tôn Yên lên núi rồi bốn phía áp lại phủ vây, dẫu nó có cánh cũng không bay ra khỏi đặng”.
Chương Hàng nói:
“Lời quân sư phân rất phải”. Rồi truyền lệnh chúng tướng vào trướng hầu lệnh. Chúng tướng nghe truyền bèn trở về dinh sắm sửa nai nịt xong rồi, tựu vào trướng hầu lệnh.
Kim Tử Lăng lên trướng nói với chúng tướng rằng:
“Ta đoán quẻ đêm nay canh ba thì có tên Tôn Yên đến núi Kinh Kha vậy chúng vị tướng quân chớ cho nó đi thoát, nếu trái lệnh cứ theo quân pháp trị tội”. Nói rồi rút một cây lệnh tiễn dạy rằng:
“Phó tiên phong, ngươi hãy đem năm trăm binh thì giả đánh phía Đông, nếu Tôn Yên đến phá dinh thì giả đánh vài hiệp rồi nhượng cho nó ra khỏi, cứ ở sau rượt theo tới núi Kinh Kha thì chận nơi cửa núi coi chừng ngọn đèn cao trên núi chỉ về phía nào thì dẫn binh đánh tới phía ấy, bằng trái lệnh chém quách chẳng dung”.
Vương Bôn lãnh lệnh lui ra, quân sư bèn rút một cây lệnh tiễn nữa nói rằng:
“Điện Tây hầu phải đem năm trăm binh mã ra phía tả núi mai phục, ngó theo ngọn đèn làm hiệu lệnh, hễ ngọn đèn đến đâu thì Tôn Yên đến đó, phải ráng sức mà bắt nó”. Quân sư lại rút một cây lệnh tiễn nữa, cười nói với Nguyên soái rằng:
“Xin phiền Nguyên soái đem theo năm trăm binh ra bên hữu cúi mai phục, coi ngọn đèn mà đi theo bắt cho đặng Tôn Yên”.
Chương Hàng, Vương Tiễn lãnh lệnh kéo binh ra đi, rồi quân sư rút một cây lệnh tiễn đứng dậy hai tay đưa mà nói rằng:
“Xin phiền Võ An Quân đem năm trăm binh ra cửa sau núi mai phục nơi ấy là chỗ trọng yếu, Tôn Yên ắt theo đường đó mà ra, phải hết lòng cẩn thận, nếu có sơ thất thì vài mươi năm nữa anh hùng đều chết hết”.
Bạch Viên vội vàng vâng lệnh ra đi, rồi Kim Tử Lăng tâu cùng Thủy Hoàng hay, lại khiến đại tướng ở nơi huỳnh la đại điện, rồi từ biệt Thủy Hoàng ra dinh cỡi con Mai huê lộc lãnh hai trăm binh tuốt lên núi Kinh Kha nơi chỗ rất cao mà mai phục, và bài trí những đá gỗ phòng Tôn Yên đánh lên.
Ấy là:
Dùng chước hang sâu vây mãnh hổ, Sẵn bày dây sắt cột giao long.
Nói về hai thầy trò Tôn Yên lén qua sông Dịch Thủy, rồi Tôn Yên nói với Ban Báo rằng:
“Ta chưa từng đi đến Lâm Tri vậy phải theo đường nào đánh rả” Ban Báo nói:
“Tôi cũng chưa từng đi đến, duy có nghe người ta nói đi phía Đông, qua núi Kinh Kha là đường qua Lâm Tri đó, song tôi từng đi săn bắn trên núi Kinh Kha nên thông thuộc đường sá, tiểu chủ hãy theo tôi mà đi”. Ban Báo đi trước, Tôn Yên theo sau, hai ngựa chạy tới phía Đông dinh Tần, xem thấy trong dinh Tần chẳng có đèn đuốc chi hết.Ban Báo nói:
“Bây giờ mới đến canh hai có lẽ nào mà trong dinh Tần đi ngủ hết vậy, ắt có mưu kế chi đó, bọn ta phải giữ gìn cho lắm”. Tôn Yên cười rằng:
“Nếu binh Tần ngủ thì ta cũng phá mà đi, nó thức ta cũng phá mà đi, dẫu có binh phục ta há sợ sao?”. Nói rồi bèn quất ngựa chạy vọt tới trước Ban Báo, bỗng nghe trong dinh có một tiếng pháo nổ, đèn đuốc sáng rỡ, có một viên tướng xông rakêu lớn rằng:
“Tôn Yên, mi chạy đâu cho thoát, có ông chờ đây đã lâu”. Tôn Yên nghe nói giận lắm hươi kích đâm tới, Vương Bôn rước đánh một hồi, Ban Báo cũng hươi cặp giản tiếp đánh, chưa đặng vài hiệp Vương Bôn đâm bậy một thương nhắm phía Bắc bỏ chạy. Tôn Yên chẳng rược theo, nhắm dinh Tần đánh vào, binh Tần hét lên một tiếng tránh vẹt hai bên ngó thấy có đường cái thấu ra khỏi dinh chẳng ai ngăn trở. Tôn Yên, Ban Báo giục ngựa chạy ra khỏi dinh, bên kia binh Tần hiệp nhau mà rượt theo. Tôn Yên bèn lấy tên lửa bắn lên làm hiệu lệnh.
Lúc ấy Yên Vươnh cùng công chúa ở trên thành ngó thấy tên lửa xẹt lên thì cả mừng bèn truyền lệnh quân binh tiểu tâm gìn giữ thành trì rồi lên ngựa về cung.
Nói về Tôn Yên, hai thầy trò giục ngựa như bay nhắm núi Kinh Kha riết tới.Đến núi, Ban Báo nói với Tôn Yên rằng:
“Bọn ta hãy đứng đây chờ cho binh Tần đến mà giết nó một trận rồi sẽ đi cũng chẳng muộn gì, vả đường núi này tôi từng quen thuộc”. Tôn Yên nghe nói cả mừng, rồi hai người dừng ngựa đứng chờ giây lâu không thấy binh Tần rượt đến, bỗng nghe ngoài núi nổ lên một tiếng pháo, tức thì trong núi pháo nổ la hét dường như núi lở, Tôn Yên thất kinh nói với Ban Báo rằng:
“Trong núi này chắc có binh phục rồi”.
Ban Báo nói:
“Không hề chi, tiểu chủ hãy theo tôi, chỗ này cách cửa núi rất gần, bọn ta hãy trở ra, bất quá đi vòng xa hơn ít chục dặm thì đi ra tới cửa phía sau”. Tôn Yên nghe nói, quất ngựa chạy theo, hai người đang chạy bỗng nghe bên tả một tiếng pháo nổ vang, đèn đuốc sáng rỡ xông ra một đạo binh, một viên đại tướng rất dữ tợn.
Chương Hàng lướt tới chận đường nạt rằng:
“Tiểu tướng chớ chạy, có Nguyên soái ở đây, mau mau xuống ngựa đầu hàng thì khỏi chết, giục ngựa tới cử kích đâm nhầu, Chương Hàng rước đánh, đánh đặng vài mươi hiệp chưa phân hơn thua, Ban Báo thấy Tôn Yên không hơn đặng thì chẳng dám tiếp đánh bèn kêu Tôn Yên bỏ Chương Hàng giành đường mà chạy.
Binh Tần thấy Tôn Yên đánh vào đại đội, thì lắp tên bắn vãi. Tôn Yên, Ban Báo không dám tới trước, còn sau lưng, Chương Hàng rượt theo, túng phải quày ngựa lại đánh. Đánh vài hiệp, Tôn Yên, Ban Báo quày ngựa bỏ chạy Chương Hàng không rượt theo, rồi phân binh ở giữa nơi cửa núi bên hữu. Lúc ấy hai thầy trò Tôn Yên chạy ra cửa bên tả, Ban Báo nói với Tôn Yên rằng:
“Cửa bên tả đường sá chập chùng, nếu có binh Tần ngăn giữ ắt mình phá ra không đặng, chi bằng đi ra cửa sau thì xong”. Tôn Yên hỏi:
“Cửa sau cùng cửa bên tả nếu cửa nào gần hơn thì ta ra cửa ấy”. Ban Báo nói:
“Cửa bên tả gần hơn”. Tôn Yên nói:
“Vậy thì ta phá cửa bên ta?
mà ra”. Ban Báo nghe nói quất ngựa chạy trước dẫn đường. Tôn Yên theo sau, chạy một đỗi bỗng thấy trên núi đèn đuốc vô số, Ban Báo gò ngựa nói với Tôn Yên rằng:
“Chỗ này ra không đặng, đâu đâu đều có binh chận đường hết”. Tôn Yên giục ngựa như bay, Ban Báo nói với Tôn Yên rằng:
“Chớ chi bọn ta ở chỗ đất bằng này mà nghỉ một chút đặng cho ngựa khỏe rồi sẽ đi”.
Tôn Yên cười rằng:
“Ngày thường mi ở nhà hay khua môi múa miệng nói có sức mạnh đánh nổi ngàn hiệp, đêm nay đánh mới vài canh mà đòi nghỉ thì không phải là hảo hán”. Ban Báo cười rằng:
“Chẳng phải tôi nhát giặc đâu, nguyên vì cửa phía sau không đánh phá thì ra không đặng, nên tôi muốn nghỉ một chút khỏe rồi cố gắng sức đánh mà ra”. Tôn Yên nghe nói thì xuống ngựa, đứng ngước lên ngó thấy trên chót núi có một ngọn đèn sáng rỡ thì chỉ cho Ban Báo coi.
Ban Báo nói:
“Ấy là con mắt của binh Tần đó, sách có nói rằng:
Bắn người trước phải bắn ngựa, bắt tướng trước phải bắt vua, vậy bọn ta hãy đánh chỗ ngọn đèn trước thì ra mới đặng”. Tôn Yên nghe nói đáp rằng:
“Sợ e nó thấy bọn ta lên thì ở trên lăn cây liệng đá xuống khó bề ngăn đỡ, chi bằng mình ráng sức mạnh phá ra cửa sau thì hay hơn”. Rồi hai thầy trò lật đật lên ngựa chạy ra cửa sau, chạy một đỗi bỗng nghe pháo nổ vang núi, xông ra một đạo binh Tần rất đông, đi đầu là một viên lão tướng đón đường nạt lớn rằng:
“Oan gia, mi chạy đâu cho thoát, ta với mi vốn có cái thù một trời hai đất, cái oán bốn biển ba sông, đêm nay ta bắt không được mi thì chẳng làm người”.
Nói rồi hươi kích đâm tới, Tôn Yên biết lão tướng ấy là Bạch Viên (nhân đời chiến quốc đem binh cứu Ngụy, bị Tôn Tẫn làm y ba phen xuống ngựa nên mất oai phong anh hùng, cho đến nổi phải quỳ trước trâu Tôn Tẫn mà lạy xin làm môn hạ, vì vậy nên mới được thả về nước, tức giận trong lòng, nay thấy Tôn Yên thì đâu chịu bỏ qua, song Tôn Yên không rõ tiền tích) thấy y hươi kích lướt tới đâm nhàu, thì lật đật cử kích đỡ khỏi, rồi đánh đến hai mươi hiệp. Tôn Yên nghỉ thầm rằng:
“Thằng tướng già này quả nhiên thương pháp tinh thông, sức lực mạnh mẽ khó bề hơn được, vậy ta hãy dụng kế mà đưa y xuống ngựa cho rồi”. Bèn đâm tới một kích. Bạch Viên dùng kích gạt ra xốc ngựa tới, vói tay chụp dây nịt Tôn Yên mà kéo.
Tôn Yên dùng thế trở kích, liền lấy kích gạt hất ra, thuận tay hươi cán đánh ngay mặt Bạch Viên, nguyên Bạch Viên tuổi tuy già sức rất mạnh bạo, song không được lẹ làng cho lắm, nên bị một kích trúng vai nằm trên ngựa chạy dài. Ban Báo chạy tới hươi giản đánh xuống vì con ngựa chạy mau quá, cây giản trúng nhầm bàn tọa ngựa làm cho ngựa ấy phải sụm hai chân sau, Ban Báo vừa đánh một giản nữa thì Bạch Viên đà giục ngựa chạy thoát, binh Tần thấy chúa soái bị thương thì áp lại vây thầy trò Tôn Yên, Tôn Yên hươi cây ngân kích, Ban Báo hươi múa cặp giản ra thì kích đâm, gần thì giản đánh, cả đánh một trận binh Tần té chết từng đống.
Nói về Vương Bôn, tưởng chắc hai thầy trò Tôn Yên không dám trở ra cửa núi, bèn để hai trăm binh ở giữ nơi cửa còn mình thì lãnh ba trăm quân ngó theo ngọn đèn chỉ phía sau núi thì kéo binh vùi một trận, Tôn Yên, Ban Báo tả xông hữu đột đánh không ra khỏi vây, thì trời đã sáng. Kim Tử Lăng kéo binh xuống núi áp lại vây hai thầy trò Tôn Yên nên rất nguy khốn, và kêu nói với nhau rằng:
“Đừng cho nó chạy thoát”. Hai thầy trò Tôn Yên từ canh ba đánh tới giờ Thìn mà không ra khỏi núi, Tôn Yên thất kinh, giây phút mây đen mù mịt trời mưa như xối, hai thầy trò Tôn Yên dầm mưa phá vây mà chạy, ngặt vì binh Tần liều thác ngăn trở, Tôn Yên không biết làm sao đặng, ngước mặt lên ngó thấy binh Tần phò một tên đạo nhơn đứng trên núi, đầu đội mão ngư vĩ, cỡi con mai huê lộc đang chỉ trỏ đốc binh. Tôn Yên bèn sanh một kế bảo. Ban Báo biểu phá phía này mà ra, Ban Báo chạy trước Tôn Yên chạy sau, Kim Tử Lăng ở trên núi thấy hai người phá vây mà chạy, bèn giục mai huê lộc lướt xuống, binh Tần xem thấy quân sư vào trận thì tránh vẹt hai bên, Kim Tử Lăng xông vào trận, lúc đang chạy vừa nghe đặng tiếng cung, xảy bị Tôn Yên bắn một mũi tên trúng nhằm trước vai, Kim Tử Lăng té ngửa gần rớt xuống mai huê lộc, chúng tướng ngó thấy lật đật phò cứu, lúc ấy hai thầy trò Tôn Yên dầm mưa đánh phá vây chạy ra khỏi.
Bên kia chúng tướng cứu Kim Tử Lăng rồi truyền lệnh chẳng cho rượt theo, nói rằng:
“Nay Tôn Yên đã đi rồi thì không ai ngăn trở nữa, kịp kéo binh về đánh phá Dịch Châu dẫu Tôn Yên có viện binh về đây thì cũng vô dụng”. Chúng tướng nghe nói bèn phò quân sư về dinh. Kim Tử Lăng dùng thuốc kim đơn thoa nơi dấu tên, rồi về dinh an dưỡng.
Nói về hai thầy trò Tôn Yên phá vây rồi chạy ra khỏi núi trời đã hết mưa, bèn gò ngựa đi chậm chậm nói với Ban Báo rằng:
“Nước Yên thiệt là có phước lắm cho nên bọn ta mới thoát khỏi trùng vây, vậy hãy tìm nhà đặng hơ quần áo nghỉ ngơi một chút rồi sẽ đi”. Ban Báo nói phải, rồi đó hai người đi một đổi nữa vào nơi nhà kia đốt lửa hơ áo quần, ăn lương khô rồi suốt đêm thẳng qua nước Tề.
Nói về Yên Chiêu Vương cùng công chúa ngó thấy tên lửa bay lên thì biết Tôn Yên ra khỏi dinh Tần, vua tôi mừng rỡ, lúc ấy đến canh ba, công chúa từ biệt Chiêu Vương về phủ, vào đến hậu đường bèn đem việc Tôn Yên ra trận mạnh mẽ như vậy mà thuật lại cho Cao phu nhân và Lý phu nhân haỵ Bỗng thấy Liễu hoàn vào bẩm rằng:
“Lão qúy nhân ôi, không xong rồi, khi nãy gia tướng giữ cửa có bẩm rằng:xa xa ngoài thành nghe tiếng quân reo dậy trời không rõ cớ chi, bèn lên chỗ cao mà coi thì thấy cách ngoài dinh Tần vài dặm đèn đuốc sáng rơ, õ pháo nổ vang rền, lối chỗ núi Kinh Kha, nơi ấy là đường qua Đông Tề, có khi nhà Tần đem binh giữ hòn núi ấy mà vây tiểu chủ rồi”.
Công chúa nghe báo thất kinh nói:
“Không xong rồi, kíp mau gát xe đặng ta vào triều xin sai tướng ra thành cứu ứng”. Bèn lên xe chạy tuốt đến triều ra mắt Chiêu Vương, Chiêu Vương nghe báo cớ sự như vậy thì tứctốc nhóm hết chúng văn võ, kế công chúa vào điện. Chiêu Vương truyền chỉ miễn lễ cho ngồi rồi nói rằng:
“Ngự muội ôi! Biềt liệu làm sao bây giờ, nay có thừa tướng sai người vào báo nói cách thành mười dặm có tiếng pháo nổ liên thinh chẳng dứt, đèn đuốt sáng lòa trời, thì chắc là hoàng tôn bị khốn rồi, huống chi hoàng tôn đánh trọn một đêm dẫu có sức mạnh mẽ cho mấy đi nữa, song tuổi còn nhỏ lắm, làm sao mà đánh luôn cả đêm cho được, ngự muội có mưu kế chi giải cứu hoàng tôn chăng?” Công chúa sa nước mắt nói:
“Tôi thường khuyên dứt nó đã đôi ba lần mà nó cũng không nghe, dốc lòng trả ơn nước, đêm nay bị vây như vậy xin chúa thượng sai tướng phát binh ra thành tiếp cứu”.
Chiêu Vương nghe nói liền hỏi chúng tướng rằng:
“Có ai dám lãnh binh ra thành tiếp ứng cho Tôn Yên qua Lâm Tri cầu cứu, trở về đây ta sẽ trọng thưởng”.
Hỏi luôn đôi ba tiếng chẳng có một người đáp lại. Chiêu Vương nổi giận mắng rằng:
“Triều đình lập quan ra hưởng lộc ngân chung, làm cho bọn ngươi đặng thân vinh tổ quý, hưởng những đồ trân châu mỹ vị, là để phòng khi chung lo việc nước, giải ách cho vua, ngày nay ai ai cũng đều tham sống sợ chết chẳng nói tiếng gì, nếu vậy thì nước nhà mấy mươi năm nuôi dưỡng bọn ngươi thiệt là vô ích lắm, đứng chần ngần đó mà làm chỉ” Công chúa thấy chúng tướng như vậy thì ngước mặt lên trời mà than dài. Lúc ấy trong ban bộ bước ra một vị đại phu tên là Trầm Tưởng tâu rằng:
“Nay thánh thượng quở trách bọn tôi dầu thác chẳng dám chối từ, song tướng võ của nước ta không phải là tay đối thủ với tướng Tần, không phải là chúng tôi tham sanh húy tử, song e sợ binh thua nhục nước, xin bệ hạ ra ơn trời đất dung tha tội chết chúng tôi”. Lúc ấy chúng tướng cũng đều quỳ mọp mà tâu rằng:
“Xin thánh chúa dung thứ tội chết cho chúng tôi tội đáng muôn thác”. Chiêu Vương đến lúc như vậy thì cũng chẳng biết làm sao, bèn nói rằng:
“Thôi bọn ngươi hãy đứng dậy”. Trầm Tưởng lại tâu rằng:
“Bệ hạ chớ lo, để tôi bảo cử một người phá lui binh Tần được”.
Chiêu Vương hỏi rằng:
“Vậy chớ khanh bảo cử ai hãy nói cho mau!” Trầm Tưởng nói:
“Kim thai nguyên soái, con Nhạc Nghị tên là Nhạc Cường, bây giờ đang từ chức về nhà dưỡng nuôi mẹ, người ấy đao mã thuần thục thao lược tinh thông, vậy xin bệ hạ truyền chỉ cho tôi đến soái phủ vời va vào triều đem binh giải vây lui giặc, như được người ấy thì chúa thượng có lo gì”. Chiêu Vương nghe tâu rất mừng, bèn tả chiếu thư sai Trầm Tưởng đi. Lúc ấy trời đã sáng, Trầm Tưởng lãnh chỉ ra khỏi triều môn, riết tới Kim thai soái phủ.
Nguyên Nhạc Cường là con Nhạc Nghị nối chức cha làm quan nước Yên, vì mẹ tuổi tác già yếu nên xin về, ấy cũng là một viên chiến tướng. Ngày nọ dậy sớm có gia tướng báo nói triều đình sai Thượng đại phu là Trầm Tưởng đem chỉ đến còn ở ngoài cửa xin ra tiếp chỉ. Nhạc Cường nghe nói lật đật đội mão bước ra cửa tiếp rước Trầm Tưởng vào trung đường.
Chương 6 : Đánh Vương Tiễn, Nhạc Cường bỏ mạng
Đánh Vương Tiễn, Nhạc Cường bỏ mạng
Cự Viên Đạt, Mông Đằng thác oan.
Nói về Nhạc Cường đang ngồi nơi soái phủ, bỗng nghe gia tướng báo nói:
“Có thánh chỉ đến”. Liền hối dọn bày hương án, vội vàng mặc áo, đội mão, bước ra rước vào trung đường. Trầm Tưởng đọc thánh chỉ rồi. Nhạc Cường tạ Ơn tiếp lấy thánh chỉ, bèn cùng Trầm Tưởng ra mắt, phân chủ khách mà ngồi, trà nước xong xuôi, Nhạc Cường nói:
“Tôi hằng mang ơn nhà nước, dẫu nát mình cũng không trả đặng, song tôi còn có chút mẹ già, khó vâng theo lời chỉ dạy”.
Trầm Tưởng nói:
“Nguyên soái phân như vậy, chẳng là sai rồi, sách có nói rằng:
Vua lo thì tôi nhục, vua nhục thì tôi thác; hễ làm đấng nhơn thần, mà chẳng khứng cùng nước nhà chia lo, ấy là người bất trung”. Hai người đang nghị luận, gia đinh bẩm rằng:
“Có Thái phu nhân ra”. Trầm Tưởng day lại, thấy sau bình phong, bước ra một người, đầu bạc như sương, có vài đứa tỳ nữ theo phò, ra đến trung đường, liền vội vàng đứng dậy làm lễ.Thái phu nhân mời Trầm Tưởng ngồi, còn Nhạc Cường thì đứng hầu một bên, Thái phu nhân hỏi:
“Chẳng hay thánh thượng có việc chi, đòi con tôi vào triều?” Trầm Tưởng nghe hỏi, bèn đem việc binh Tần đánh phá ải Giới Bài cha con Tôn Tháo bị từ trận, nay binh Tần phủ vây thành Dịch Châu, nội triều không ai dám cự, thuật hết cho Thái phu nhân nghe. Thái phu nhân nói với Nhạc Cường rằng:
“Con chớ tưởng việc mẹ già mà lo lắng, vốn họ Nhạc ta cả đời mang ơn nước há để vậy ngồi mà ngó sao? Xưa nay hễ tận trung, thì không tận hiếu, thà làm tôi trung thần, ấy cũng là tận hiếu đó, con phải mau theo đại phu vào triều, ra mắt thánh thượng, lãnh binh lui giặc, ấy là cái may của xã tắc nhân dân, thì mẹ cũng đặng vinh hoa, con hãy sắm sửa đi cho mau”.
Nhạc Cường bẩm rằng:
“Không phải con chẳng muốn hết lòng trung, đền ơn nước nhà, song mẹ tuổi cao tác lớn, vả chăng việc binh đao là nơi hiểmđịa, vì vậy nên con không muốn ra trận”. Thái phu nhân nạt rằng:
“Mi chớ nói bậy, hãy theo Trầm đại phu vào triều cho chóng, nếu mi còn lưu luyến thân già, thì ta quyết chết trước mắt mi, cho khỏi lòng bịn rịn”.
Nói rồi đứng dậy, vừa bước xuống thềm, đập đầu tự vận. Nhạc cường thất kinh quỳ xuống đất, bẩm rằng:
“Mẫu thân xin bớt cơn giận dỗi, để cho con ra dẹp giặc”.
Thái phu nhân nghe nói rất mừng mà rằng:
“Nếu đặng vậy thì mới phải là con nhà họ Nhạc ta”. Rồi bà kiếu Trầm Tường trở vào hậu dinh, Trầm Tường cũng từ giã về trào phụng mạng. Nhạc Cường đưa Trầm Tường ra phủ, liền dạy gia tướng thắng ngựa tuốt xuống hậu đường, lạy từ mẫu thân và từ biệt vợ con, dẫn ít tên gia tướng thẳng tới Ngọ môn. Lúc ấy Chiêu Vương lâm triều. Huỳnh môn quan tâu rằng:
“Có Nhạc Cường đến, còn ở ngoài ngọ môn hầu chỉ”. Chiêu Vương truyền lệnh mời vào.
Chiêu Vương truyền cho ngồi, mà nói rằng:
“Trẫm chẳng may bị binh Tần vây khốn, cha con Tôn đô úy đều thác hết, khi hôm Tôn Yên lại qua Lâm Tri cầu cứu, tuy có bắn tên lửa làm hiệu lịnh, song cả đêm đèn đuốc sáng trời, tiếng quân la dậy, bây giờ không biết chiết sống thế nào, nên mời khanh vào triều lãnh mạng soái ấn, dẹp lui binh Tần, ấy là cái may của nước nhà đó”. Nhạc Cường vội vàng đứng dậy, tâu rằng:
“Xin bệ hạ cho tôi bói một quẻ, thì rõ việc Tôn tướng quân thế nào?” Chiêu Vương cả mừng khấn vái. Nhạc Cường bói một quẻ, coi rồi tâu rằng:
“Tôn tướng quân đã ra khỏi trùng vây, qua Đông Tề cầu cứu rồi. Nghe xong vương ca?
mừng, liền sai người đến phủ Đô úy báo tin, đặng cho an lòng Yên Đơn công chúa, rồi nói với Nhạc Cường rằng:
“Nếu quẻ bói của khanh quả có ứng nghiệm, thiệt cũng rất may cho trẫm”. Bèn truyền chỉ về bày yến cùng Nhạc Cường ăn mừng.
Nói về Kim Tử Lăng, ngày thứ lên trướng, chúng tướng ra mắt, Tử Lăng nói:
“Khi hôm Tôn Yên tuy thoát khỏi lưới rập, song bây giờ trong thành nó không người ngăn cự, vậy có vị tướng quân nào dám ra đánh chăng?” Nói chưa dứt lời, bỗng thấy Vương Tiễn bước ra xin đi. Tử Lăng rất mừng dạy Vương Tiễn dẫn năm trăm binh ra dinh khiêu chiến. Vương Tiễn lãnh lệnh, kéo binh tới Dịch châu thành kêu đánh, Khuất Sảng liền sai quân vào triều tâu cùng Thánh thượng. Lúc ấy đang tiệc rượu chưa tan. Nhạc Cường nghe báo, liền đứng dậy tâu rằng:
“Tôi tuy bất tài, xin lãnh binh ra thành đối địch”. Chiêu Vương cả mừng, bản thân kính ba chung ngự tửu.
Nhạc Cường uống rồi, tạ Ơn, ra đến thành Dịch Châu, phát pháo mở cửa thành, giục ngưa. xông qua điếu kiều, xem thấy một tướng dừng ngựa, cầm mâu, mặt mày đen hắc, Vương Tiễn nhắm Nhạc Cường một hồi, thấy va anh hùng xuất chúng, tướng mạo kinh nhơn,mình cỡi ngựa hồng, tay cầm Xáng kim đao, coi rất oai nghiêm, bèn nạt rằng:
“Tướng kia, ngươi có biết sức mạnh Điện Tây hầu là Vương Tiễn chăng?
Hãy thông tên cho ta rồi chịu chết”.
Nhạc Cường nói rằng:
“Vậy mi là Vương Tiễn đó sao? Mi chẳng biết ta là con Kim Thai đại nguyên soái, nay ta nối chức cha làm Nguyên soái, tên Nhạc Cường, mi có tài sức bao nhiêu, hòng dám lãnh binh mà giao chiến”. Vương Tiễn nói:
“Té ra mi là con của Nhạc Nghị, tên Nhạc Cường, ta cũng từng nghe danh, song mi mạnh là mạnh với nước Yên mà thôi, nếu dám đánh cùng ta bốn mươi hiệp thì ta cho mi là hảo hán”.
Nhạc Cường nổi giận, hươi đao nhắm ngay đầu chém xuống. Vương Tiễn vội vàng rước đánh, đánh đến năm mươi hiệp, Nhạc Cường nghĩ thầm rằng:
“Thằng Vương Tiễn này thương mã thuần thục, quả là một tên dõng tướng, vả lại thường nghe người nói, học với tiên nhân, có bửu kiếm giết người, nếu ta lấy sức mạnh mà đánh, thì ắt không hơn nó được, chi bằng ta xuống tay trước thì xong”. Nghĩ rồi chém bậy một đao, quay ngựa bỏ chạy. Vương Tiễn giục ngựa rượt theo, Nhạc Cường quay đầu ngó lại thấy rất mừng, liền giắt Kim đao, thò tay trong cẩm nang, lấy thần sa (thần sa là cát thần), miệng niệm lâm râm, nhắm ngay mặt Vương Tiễn vãi ra.
Vương Tiễn thấy một vầng mây đỏ bay đến rất mau, tránh không kịp, bị thần sa đánh nhằm mặt, choáng váng gần té, liền quay ngựa bỏ chạy. Nhạc Cường thấy thần Sa đánh Vương Tiễn không rớt xuống ngựa, thì giận lắm, nạt rằng:
“Vương Tiễn mi chạy đâu”. Liền giục ngựa đuổi nà theo. Lúc ấy Vương Tiễn tuy bị Thần sa đánh choáng váng, song trong lòng còn tỉnh, nghe sau lưng có tiếng lạc ngựa reo vang, thì biết là Nhạc Cường rượt theo, bèn lén lấy ra một ngọn bửu kiếm, liệng giữa thinh không, bay theo Nhạc Cường, nhắm ngay đầu rớt xuống, bên kia Nhạc Cường đang rượt theo Vương Tiễn đâu có mà rõ được, liền bị bửu kiếm chém nhào xuống ngựa.
Thương thay:
Những tưởng trong nhà xưng con hiếu.
Nào hay ngoài ải đấng trung thần.
Khi ấy gia tướng Nhạc Cường, thấy chủ mình rớt xuống ngựa, thì hồn vía mất hết, áp ra một lượt giựt lấy thây, chạy về Dịch Châu. Vương Tiễn bị Thần sa, rồi cũng thâu binh về dinh. Quân vào báo cho Khuất Sảng hay rằng:
“Nhạc Cường tư?
trận”. Khuất Sảng cả kinh, lật đật sai binh tiếp ứng, đem thây vào thành liền tả bốn chương, sai người dâng cho Triệu Vương, Triệu Vương xem xong rụng rời, thở dài nói rằng:
“Trời dứt nước Yên ta rồi”. Bèn truyền chỉ đem thi hài Nhạc Cường về soái phủ, dùng theo lễ hầu mai táng.
Nói về Tôn Yên, Ban Báo, hai người từ lúc ra khỏi núi Kinh Kha, đi luôn cả đêm ngày, đến Đông Tề Lâm Tri, tỏ bày các việc, có quan giữ thành, dẫn hai người vào đến Ngọ môn hầu chỉ. Ngày ấy Tề Tương Vương lâm triều (Vua này nguyên là con vua Mẫn Vương, hàm ân là Pháp Chương, bị An Phi làm hại, bỏ nước chạy trốn mấy năm, may nhờ có Tôn Tẫn phụ giúp, khôi phục giang sơn, mà giết Nhạc Nghị, đến sau cùng với nước Yên hòa hảo, nay làm vua đã hai mươi năm, trong nước tuy không được mạnh giàu cho lắm, song lê thứ cũng an cư lạc nghiệp), đang buổi chầu sớm mai, quan Huỳnh môn vào tâu rằng:
“Nước Yên có sai cháu của Nam Quận Vương, tên là Tôn Yên, đem văn thư đến cầu cứu, còn đứng ngoài Ngọ môn hầu chỉ”.
Tương Vương nghe tâu, truyền chỉ cho vào. Tôn Yên vào đến thượng điện, lạy ra mắt xong rồi bèn rút thư nơi lưng, hai tay dâng lên, nói rằng:
“Tôi là Tôn Yên vâng mệnh chúa tôi, đem thư đến cầu cứu”. Tương Vương truyền chỉ cho ngồi, tả hữu quan tiếp lấy văn thư dâng lên, Tương Vương xem thư, liền biến sắc nói rằng:
“Binh Tần như lang tợ hổ, nay muốn thâu gồm sáu nước, trước phá Dịch Châu, sách có chư?
rằng:
“Thần vong xỉ hàn (môi mất thì răng phải lạnh) có lẽ nào không phát binh cứu sao? Song nước Tề ta bị giặc giã mới yên, bây giờ tướng hèn binh yếu, biết làm sao mà giúp đặng”.
Tôn Yên nghe nói, cúi đầu tâu rằng:
“Thánh thượng cùng chúa tôi, đồng thề giao hảo, cơn tai nạn cứu nhau, lúc binh đao hùa giúp, vả chăng chú tôi là Tôn Tẫn, có công với thánh thượng rất nhiều, nay mẹ Tôn Tẫn đang ở nước Yên, sợ e binh Tần đánh phá Dịch Châu, thì ắt tánh mạng chẳng toàn, xin thánh thượng rộng lòng đoái tưởng”. Tương Vương nói:
“Ngự đệ, trẫm há chẳng biết, mẹ của Á phụ (cũng như cha đẻ vậy) ở nước Yên sao? Nhưng vì binh hèn tướng yếu gìn giữ trong không xong rồi, có đâu mà giúp được”. Tôn Yên nghe nói, cuối đầu khóc lóc cầu xin.
Tương Vương ngồi trên bửu điện, đang lúc khó nỗi định phân, bỗng thấy trong ban bước ra một viên đại thần, tâu rằng:
“Tôi tuy bất tài, xin lãnh binh đến Dịch Châu giải vây”. Tương Vương xem lại người ấy:
Gót trắng giày thêu tốt lạ lùng, Lưng mang đai báu ngọc lung linh.
Đầu beo mắt lớn như hung ác, Râu đỏ mặt chàm rất oai phong.
Tiếng hét nghe vang dường sấm dậy, Bộ đi mạnh dạn thiệt anh hùng.
Muốn nghe người ấy tên chi đó, Viên Đạt Toàn Sơn gọi Giả Long.
Biết là Viên Đạt, thì trong lòng chẳng đẹp, nghỉ thầm rằng:
“Nay va đòi đi thì mình làm sao ngăn cản được, vả chăng tánh va như lửa đốt, ưa khen chẳng ưa chê, nếu ta nói binh Tần mạnh mẽ, Vương Tiễn tài năng, thì chắc là va quyết đi, chớ chẳng chịu thôi”. Ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói rằng:
“Bảo Quốc Công, nay khanh lãnh binh đến giải vây nước Yên, thì ắt là mã đáo thành công rồi, vả chăng trong nước được thái bình, cũng nhờ có hoàng huynh oai trấn đất Lâm Tri này, nếu nay hoàng huynh đem binh đến giải cứu Yên Châu, thoảng như nước Tần hay được, phát binh tới đánh nước ta, chừng đó trẫm biết dùng ai ra mà đối địch, hoàng huynh hãy tạm lui, để cho trẫm sai người khác thì xong”.
Viên Đạt vội vàng tâu rằng:
“Tề với Yên, hai nước vốn kết hòa hảo cùng nhau, nay nước Yên bị khốn, lý đến cứu cho mau mới phải, vả lại tướng Tần anh hùng mạnh mẽ, như Chương Hàng, Vương Tiễn, là tướng có danh trên đời, nếu tôi không đề binh đến đó, để sai người khác, e khi đánh không lại mà phải thua”, Tương Vương nói:
“Trẫm dễ chẳng biết sao? Song hoàng huynh tuổi tác già yếu, thoảng có sơ thất tỷ như cái bình phong trong nước, đã mất rồi thì trẫm biết làm sao? Vậy hoàng huynh chớ đi thì hay hơn”. Viên Đạt nghe mấy lời nói ấy thì râu đỏ, tóc đỏ dựng lên, tâu rằng:
“Tướng Tần tài sức bao nhiêu, tôi há đi sợ nó sao? Nếu bệ hạ chẳng cho đi, thì tôi nguyện chết nơi dưới thềm”.
Bỗng thấy trong ban, bước ra một viên đại thần, tâu rằng:
“Bệ hạ sợ Bảo Quốc Công, tánh tình nóng nảy mà có sa cơ thất thế đi chăng? Vậy tôi là Lý Mục đây, xin cùng Quốc Công đồng tới Dịch châu giải cứu”. Tương Vương thấy Lý Mục thì lòng thêm bất bình, bèn nghỉ thầm rằng:
“Nước Tề ta duy có hai người đó mà thôi, nay lại xin đi hết song trước mặt Tôn Yên khó bề ngăn trở”. Rồi đáp rằng:
“Nếu có Hô.
Quốc Công đi cùng Bảo Quốc Công, thì trẫm mới an lòng. Song các việc chi, phải tiểu tâm cẩn thận, không nên khinh giặc”.
Hai người đều tâu rằng:
“Chúng tôi xin vâng lời dạy”. Tề Vương truyền chi?
bày yến nơi đại điện, đặng đưa hai vị Quốc Công lên đường, giây phút yến diên donï ra xong rồi, Viên Đạt cùng Lý Mục, Tôn Yên tạ Ơn vào tiệc, đang ăn uống, Tương Vương xem thấy Tôn Yên dung nghi tuấn nhã, nơi thiên đường (chỗ giữa khoảng chơn mày) no đủ, địa đốc (dưới cằm) vuông bằng, môi son, răng trắng, tai xuống tới vai, tay dài khỏi đầu gối, có tướng mạo đế vương, thì hỏi các việc Tôn Yên tuy tuổi nhỏ, song tánh rất thông minh, hỏi đâu đáp đó, xuôi như nước chảy. Tương Vươnglòng rất thương mến, tiệc xong rồi, ba người tạ Ơn ra khỏi triều. Tương Vương truyền chỉ cho Binh mã ty, tuyển chọn ba ngàn người ngựa sẵn sàng, rồi lui triều về cung, lúc ấy mặt trời gần lặn.
Viên Đạt về phủ, bày tiệc. Tôn Yên bèn đem việc xông vây bị khốn, mà thuật lại một hồi, anh em Viên Đạt rất khen ngợi, đêm ấy Tôn Yên ở trong phủ Bảo Quốc Công, mà an nghỉ. Qua ngày thứ, vào triều lạy tạ Tương Vương. Tôn Yên nói với Viên Đạt, Lý Mục rằng:
“Hai vị Quốc Công xin đi trước, hãy còn mắc việc khác, chưa về đặng”. Viên Đạt, Lý Mục vào điện từ giã, Tương Vương bổn thân kính mỗi người ba chung ngự tửu, hai người uống rồi, tạ Ơn lui ra Ngọ môn, kéo binh thẳng qua Dịch Thủy. Tương Vương ngó thấy Tôn Yên còn đứng nơi điện, thì hỏi rằng:
“Trẫm đã phát binh đến cứu nước Yên rồi, sao ngự đệ hãy còn ở lại đây mà làm chỉ” Tôn Yên qùy tâu rằng:
“Tôi vâng mạng chúa tôi, cùngtổ mẫu tôi, một là đến cầu cứu, hai là thỉnh chú tôi là Tôn Tẫn trở về nước Yên”.
Tương Vương cười rằng:
“Chú của ngự đệ, từ lúc giúp trẫm lên ngồi, thì trở về núi chớ chẳng có ở đây”. Tôn Yên hỏi rằng:
“Chẳng hay núi tiên của chú tôi ở chỗ nào? Xin thánh thượng chỉ giùm”. Tương Vương nói:
“Lúc nọ á phụ ra đi, chưa rõ núi Thiên Thai ở chổ nào”. Tôn Yên nói:
“Núi Thiên Thai thì có lẻ đâu Thánh thượng không biết xin Thánh thượng sai người dẫn chỉ giùm đường cho tôi”. Tương Vương nói:
“Nếu trẫm biết phương hướng, thì đã sai người tới rước về đây, có đâu chờ đến ngự đệ hỏi cho nhiều lời”. Vua tôi còn đang chuyện vãn, bỗng có quan Thượng Quốc Khanh tên Bốc Thương, bước ra qùy tâu rằng:
“Lúc nọ á phụ cùng tôi chia biệt, thì người có cho tôi một phong thơ, dặn rằng:
“Mười năm nữa, có người muốn đến núi Thiên Thai mà thỉnh ta, chừng đó ngươi sẽ giở thơ ấy ra, thì biếtđường đi, nay Tôn tướng quân đến đây vừa nhằm kỳ mười năm, vậy tôi đi với Tôn tướng quân, tìm núi Thiên Thai mà rước á phụ”.
Tương Vương nghe tâu rất mừng, nói:
“Vậy để trẫm tả phong thơ đặng Quốc Khanh đi cùng ngự đệ”. Nói rồi truyền đem văn phòng tứ bửu, viết một phong thơ, giao cho Bốc Thương mời Tôn Yên về phủ mình, sắm sửa đồ hành lý, và lấy phong thơ để vào túi, nói với Tôn Yên rằng:
“Á phụ có dặn tôi chừng ra khỏi hoàng thành năm mươi dặm sẽ giở thơ ra coi, vậy ta phải y theo lời dặn”. Hai người dùng bữa cơm sớm mai xong rồi, dẫn vài mươi gia tướng, cùng Ban Báo lên ngựa ra khỏi Lâm Tri nhắm cửa Đông môn đi tuốt.
Nói về Viên Đạt, Lý Mục, hai người dẫn ba ngàn binh Tề, suốt đêm nhắm Dịch Châu thẳng tới, đi ít ngày đến sông Dịch thủy, cách dinh Tần chẳng xa, xảy có quân thám thính đến báo. Viên Đạt truyền lịnh an dinh lập trướng. Lý Mục hỏi Viên Đạt rằng:
“Chúng ta đóng binh đây, mà giao chiến, hay là vào thành thông tin”. Viên Đạt nói:
“Chẳng cần vào thành thông báo làm chi, để mai chúng ta dẹp lui binh Tần, rồi sẽ vào thành cũng chẳng muộn gì”. Lúc ấy quân thám bên Tần, phi báo với Chương Hàng. Chương Hàng vội vàng vào Huỳnh la bửu trướng, tâu cùng Thủy Hoàng rằng:
“Nay có nước Tề, sai Viên Đạt, Lý Mục đem binh đến giải vây cho nước Yên, xin Bệ hạ liệu định”. Thủy Hoàng nghe nói, thất kinh mà rằng:
“Toàn sơn Viên Đạt, sức mạnh vô cùng, các nước đều nghe danh, nay dẫn binh đến đây mà giải vây, e tướng Tần ta không phải tay đối thủ với nó, vả lại ta đánh thành Dịch Châu, luôn mười mây ngày mà phá không đặng, nay nó có cứu binh, thì làm sao mà lấy cho đặng?” Lúc ấy có viên đại tướng, nói lớn tiếng rằng:
“Bệ hạ cớ sao lại giương chi khí của người, mà dẹp cái oai phong mình đi vậy, tiểu thần tuy bất tài, ngày mai xin ra ngựa đặng chém đầu Viên Đạt dâng lên”.
Thủy Hoàng coi lại người ấy, mà Mông Đằng, thì nói rằng:
“Tướng quân tuy võ nghệ cao cường, song Viên Đạt có sức mạnh muôn người, vậy phải dùng trí mà đánh, chớ không nên dùng sức, tướng quân hãy lui ra, để trẫm cùng quân sư toan mưu bắt nó mới xong”. Mông Đằng nói:
“Để mai tôi ra trận, sẽ dùng kế mà bắt thằng thất phu ấy, chẳng cần gì nhọc sức quân sư”. Thủy Hoàng túng phải ừ theo, rồi truyền chỉ ba quân, đêm ấy phải canh tuần nghiêm nhặt, người không lìa giáp, ngựa chẳng xa yên và dự phòng binh Tề đến cướp trại.
Chương Hàng lãnh lệnh ra đi, truyền rao khắp hết quân binh, giữ gìn nghiêm nhặt. Qua ngày thứ Mông Đằng nai nịt vào soái tướng, xin binh ra đánh. Chương Hàng phát cho năm trăm binh mã. Mông Đằng ra trận, xông tới dinh Tề khiêu chiến, binh Tề vào báo. Viên Đạt lật đật nai nịt lên ngựa phát pháo ra dinh, xông tới trận. Lúc ấy Mông Đằng ngồi trên ngựa ngó thấy binh Tề xông ra một viên đại tướng giống như một vị thần thầu, tay cầm búa, mặt xanh, râu đỏ, hình dung hung ác, tướng mạo dữ dằn, giống như Hỗn thế ma vương lâm phàm, chẳng khác linh thần xuống thế, bèn nạt lớn rằng:
“Bớ Viên giả long, có ta là Mông tướng quân chờ đây đã lâu”. Viên Đạt nghe nói ngước mặt xem thấy một viên tướng Tần, đội mão hô?
đầu, mặc giáp kim tiêu, ngồi ngựa hồng sa, tay cầm đại đao, ở trước trận diễu võ giương oai, thì cười mà nói rằng:
“Tần cẩu, mi có oai danh gì? Sao không xuống ngựa đầu phứt cho rồi, còn đợi chừng nào nữa?” Mông Đằng nổi giận nạt rằng:
“Thất phu, mù chạy đâu”. Nói rồi nhắm ngay đầu Viên Đạt chém xuống. Viên Đạt dùng búa đỡ hất cây đao, làm cho hổ khẩu tay xé tét. Mông Đằng nghỉ thầm rằng:
“Thằng thất phu này, rất mạnh bạo, quả danh bất hư truyền”. Viên Đạt cho luôn một búa nữa, Mông Đằng thấy búa xuống rất nặng nề, thì ráng hết sức bình sanh, hai tay hươi đao lên đỡ, Viên Đạt chặt bồi một búa nữa, đỡ không nổi, té nhào xuống ngựa.
Chương 7 : Trúng bửu kiếm, Viên Đạt thác oan
Trúng bửu kiếm, Viên Đạt thác oan
Bị loạn tiễn, Lý Mục tự vận
Nói về Viên Đạt chặt Mông Đằng luôn ba búa, té nhào xuống ngựa, binh Tần không dám ra giựt lấy thây, ùn ùn nhắm bổn dinh chạy tuốt. Viên Đạt chẳng rượt theo, dừng ngựa lại kêu lớn rằng:
“Tần binh chớ sợ, ông chẳng rượt đâu, bây hãy về báo với Nguyên soái bây, phải sai tướng giỏi ra trận, chớ sai đồ vô dụng ra làm cho nhọc công ông chém”. Lúc ấy binh Tần không kể đến rượt cũng chẳng rượt, cứ cong lưng chạy dài như gió thổi mây tan, về đến bổn dinh bẩm cùng Nguyên soái. Chương Hàng nghe báo giận lắm, hỏi chúng tướng rằng:
“Có ai dám ra trận mà bắt Viên Đạt, trả thù cho Mông tướng quân chăng?” Nói dứt lời, thấy Vương Tiễn, Vương Bôn bước ra, ứng tiếng rằng:
“Cha con tôi xin lãnh mạng”. Chương Hàng cả mừng, liền dạy hai cha con Vương Tiễn dẫn năm trăm binh, ra dinh đối địch.
Cha con Vương Tiễn lãnh lệnh, đội mão, mặc giáp, kéo binh ra dinh. Vương Bôn nói với Vương Tiễn rằng:
“Đại nhân hãy dừng ngựa, ở đây lược trận, để cho con ra mà đánh nó”. Nói rồi giục ngựa xông tới trước trận, xem thấy Viên Đạt quả nhiên hung ác, thì nạt lớn rằng:
“Ngươi có phải là Toàn sơn Viên Đạt đó chăng?” Viên Đạt nghe hỏi, ngước mặt xem thấy một tướng thiếu niên anh hùng, bèn nạt lại rằng:
“Mi đã biết tên ông, ngày nay khai sát giới, chẳng luận già trẻ, cũng chẳng siêu sanh, hãy thông tên cho rồi mà chịu chết”. Vương Bôn nổi giận, nạt rằng:
“Viên Đạt, ngươi chớ nói phách, ta là tướng của Chương Nguyên soái, chức Tiêu hành quan tên Vương Bôn đây, hôm nay nếu không bắt sống được ngươi, mà trả thù cho Mông tướng quân, thề chẳng làm người”.
Nói dứt lời hươi đao chém tới. Viên Đạt hươi búa đỡ ra rồi đánh đến mười hiệp, Vương Bôn khen thầm rằng:
“Viên Đạt quả nhiên anh hùng xuất chúng, mạnh mẽ vô song”. Viên Đạt cũng khen Vương Bôn tuổi trẻ tài cao, hai người đánhđến sáu chục hiệp, đánh chừng nào, Viên Đạt búa càng lẹ, ngựa càng mau. Vương Bôn thấy Viên Đạt đánh chừng nào mạnh chừng nấy, thì nghĩ thầm rằng:
“Thằng thất phu này qua?
nhiên võ nghệ cao cường, chi bằng ta dùng thế Huê đao đưa nó xuống ngựa rồi”.
Bèn ráng sức tinh thần đổi đao pháp, nạt rằng:
“Viên đạt, hôm nay ta chẳng chém đầu người, thề chẳng về dinh”. Viên Đạt thấy Vương Bôn ráng sức tinh thần đổi đao pháp thì cười lớn rằng:
“Vô danh tiểu tướng, mi có tài nghệ chi thì đem ra cho hết, nếu ta dung cho mi đánh vài hiệp nữa, thì chẳng xưng là Toàn sơn hảo hán”. Hai người đánh luôn đến mười hiệp nữa.
Viên Đạt vốn là tướng từng quen đánh giặc, tuy đã năm mươi, nhưng mà khí lực chưa suy, đánh với Vương Bôn hơn trăm hiệp, cũng không thấy Vương Bôn ra tài chi lạ hết. Viên Đạt hai tay hươi búa, dùng thế nhắm ngay đầu Vương Bôn đánh xuống, và nạt lớn rằng:
“Vương Bôn coi búa”. Vương Bôn thấy búa xuống rất nên mạnh bạo, liền ráng sức bình sanh mà chạy xớt ngang, đở ra, hổ khẩu tay rúng động, Viên Đạt quày ngựa dùng cán búa nhắm ngay vế bên hữu của Vương Bôn mà vít hất lên, làm cho Vương Bôn té nhào xuống ngựa. Vương Tiễn xem thấy nói:
“Không xong rồi”. Bèn lật đật lắp tên bắn vãi, khi ấy Viên Đạt thấy Vương Bôn rớt xuống ngựa thì cả mừng giục ngựa hươi đao búa tới chém, xảy nghe tiếng cung bắn liền ngước mặt xem, thấy tên bay tới rất gần, giơ tay bắt lấy mũi tên, không dè Vương Tiễn có tài bắn liên châu tiễn, mũi thứ nhứt bắn rồi, mũi thứ nhì vừa đến, Viên Đạt bắt không kịp bị trúng nhằm kiếng hộ tâm, mặt mày thất sắc, chẳng dám xông tới, liền quày ngựa chạy trở về dinh.
Vương Tiễn chẳng rượt theo, cứu Vương Bôn đem về, bên kia Viên Đạt kéo binh về dinh, Lý Mục ra dinh nghinh tiếp, hỏi rằng:
“Chẳng hay nhơn huynh ngày nay ra trận thắng bại thế nào?” Viên Đạt bèn đem việc chém Mông Đằng vít Vương Bôn, rồi bị tên mà thuật lại một hồi. Lý Mục nói:
“Như vậy thì oai phong của anh đã làm cho người Tần vỡ mật rồi, để mai chúng ta ra một lượt, cả phá binh Tần mới xong”.
Viên Đạt rất mừng, Lý Mục dạy bày tiệc cùng huynh trưởng khánh công. Đang ăn uống, Lý Mục hỏi:
“Hôm nay tuy chém đặng tướng Tần song còn thua nó một mũi tên, đêm nay chỉ cho khỏi nó đến mà cướp dinh ta, vậy ta phải phòng bị trước thì mới xong.
Viên Đạt nói:
“Hiền đệ phân rất phải, vậy đêm nay, hai ta mai phục ngoài dinh, chờ nó đến mà đánh một trận, cho rõ tài ta lợi hại.” Tiệc rồi, hai người chia nhau dẫn binh mai phục hai bên dinh, chờ đến canh ba, quả thấy một đạo binh Tần, kéo đến cướp dinh, Viên Đạt, Lý Mục rất mừng, phát pháo đánh ra, phủ vây binh Tần, lúc đang đánh, thình lình sau dinh lửa dậy sáng trời, binh Tần vô số, ở sau dinh đánh tới, lại nghe pháo nổ vang rân, quân la hét dậy, binh Tần áp lại phủ vây bịt bùng. Viên Đạt giận lắm, hươi búa qua lại đánh giết tưng bừng, ngặt vì binh Tần đông lắm, Viên Đạt, Lý Mục tuy có sức mạnh, song quả bất địch chúng, binh mã lần lần chết hết. Lý Mục nói với Viên Đạt rằng:
“Vậy ta bảo hộ quân binh, bỏ dinh đánh ra mới xong”.
Viên Đạt nói:
“Phải. Vậy em đi trước, để anh ở sau ngăn cự binh nó”.
Rồi hai người phá vây đánh ra, binh Tần ở sau rượt theo, Viên Đạt xem thấy nổi giận, hét lên một tiếng, quày ngựa đánh thẳng vào đội binh Tần, hươi búa tới đâu, đầu rơi tới đó. Vương Tiễn thấy vậy giận lắm, áp lại phủ vây, thương đâm đao chém, đánh đỡ nhộn nhàng. Viên Đạt chẳng sợ, đánh một hồi lâu, rồi giụcngựa xông vây mà ra, chẳng ai dám cự, như vào chỗ không người, bọn Vương Tiễn càng thêm giận rồi giục ngựa xông tới. Viên Đạt nổi giận, quày ngựa đánh vào, rồi đánh ra, làm như vậy luôn đến ba lần. Vương Tiễn muốn dùng bửu kiếm, sợ e đêm hôm chẳng tiện, trở lại chém nhằm binh mình, còn đang suy tính, thì Viên Đạt đã đi xa rồi, phải thâu binh trở về, đánh một trận ấy, binh Tần tuy cướp đặng dinh Tề, song bị chết rất nhiều.
Nói về Viên Đạt, Lý Mục bảo hộ binh Tề, chạy khỏi bảy dặm, rồi thâu nhóm binh tàn lại, lúc ấy trời đã sáng. Viên Đạt giận hét lên như sấm, mà rằng:
“Nếu ta chẳng đạp phá binh Tần cho tan nát, thề chẳng làm người”. Bèn truyền lệnh ba quân trở lại chỗ cũ đóng dinh. Viên Đạt lên ngựa xông tới dinh Tần khiêu chiến, binh Tần vào báo. Chương Hàng nghe báo nói rằng:
“Viên Đạt thiệt mưu kế rất nhiều, vậy bổn soái phải ra mà đánh với nó mới xong”. Bỗng thấy Vương Tiễn bước ra bẩm rằng:
“Khi hôm tiểu tướng muốn dùng bửu kiếm mà giết nó, ngặt vì đêm hôm tăm tối chẳng tiện, bữa nay Viên Đạt lại đến khiêu chiến nữa, ấy là nó muốn đến mà nạp mình đó, xin cho tiểu tướng ra ngựa, đặng chém đầu thằng thất phu ấy cho rồi”.
Chương Hàng rất mừng bèn cho đi.
Vương Tiễn từ biệt Nguyên soái, dẫn binh ra trận, Viên Đạt nhìn biết là người bắn mình hôm qua, bèn nạt lớn rằng:
“Mạt tướng kia, hãy xông lên đặng có lãnh một búa cho rồi”. Vương Tiễn nói:
“Ta là Thủy Hoàng giá hạ làm quan Điện tây hầu, gia phong Chánh ấn tiên phong, ông đây họ Vương tên Tiễn, mi biết ông lợi hại mau xuống ngựa chịu trói cho rồi”. Viên Đạt cười lớn rằng:
“Té ra mi là Vương Tiễn đó sao? Nếu như mi xưng là hảo hán, thì hôm qua chớ dùng tên bắn lén ta, ông đây muốn kiếm cho đặng mi, một là trả thù tên bắn lén hôm qua, hai nữa vì cha con ho.
Tôn rửa oán”. Nói dứt lời hươi búa chém nhầu, Vương Tiễn thấy búa xuống rất mạnh, hai tay cử bát xà mâu lên đỡ, hổ khẩu tay rúng động, trong lòng nghĩ thầm rằng:
“Thằng này thiệt là mạnh dữ”. Rồi đánh với Viên Đạt hơn mười hiệp, Vương Tiễn muốn dùng bửu kiếm, nên gượng đánh vài hiệp nữa, quày ngựa bỏ chạy. Viên Đạt kêu nói rằng:
“Khi mới ra, coi bộ anh hùng như vậy, té ra ngựa chưa đổ mồ hôi đã chạy dài”. Nói rồi giục ngựa đuổi nà theo. Vương Tiễn rất mừng, miệng niệm thần chú, lấy bửu kiếm liệng lên, giây phút thấy vầng mây đỏ chỗ cây gươm, nhắm ngay đầu Viên Đạt bay lại, rồi Vương Tiễn kêu lớn rằng:
“Viên Đạt, hãy coi gươm ta chém đầu mi”.
Viên Đạt ngước mặt lên, ngó thấy một ngọn gươm, trên vầng mây bay xuống ngay đầu, thì kêu rằng:
“Bớ thằng đạo nhỏ, mi nói là ta không biết chạy sao?” Nói dứt lời quày ngựa bỏ chạy, Vương Tiễn cười ha hả rằng:
“Viên Đạt, mi muốn chạy cho thoát khỏi, phải kiếm mẹ khác đầu thai mới đặng”. Liền niệm chú tức thì bửu kiếm rượt theo. Viên Đạt ngó lại thấy bửu kiếm cách đầu chẳng xa, lật đật hươi búa lên đỡ, song đỡ sao cho lại nghe chặt một tiếng đầu rơi xuống ngựa. Viên Đạt sống đặng năm mươi bốn tuổi, người sau có làm thơ than rằng:
Chiếm núi Toàn sơn đã rạng danh Oai phong lẫm liệt quỷ thần kinh.
Cám thương hào khí nay đâu mất, Ngọn cỏ dàu dàu khuất mộ linh.
Lúc ấy binh Tề thấy Viên Đạt nhào xuống ngựa, thì la lên, áp ra một lượt giựt thây, khiêng chạy về dinh, khi ấy có quân lược trận vào phi báo. Lý Mục than dài một tiếng té xỉu xuống đài, tả hữu áp lại phò cứu, giây lâu định tỉnh, khóc nói rằng:
“Sóng lớn muôn ngàn anh qua khỏi được, không dè bị chìm nơi rạch nhỏ này, như vậy thì chẳng khiến em thương mà chết sao?”.
Kế binh Tề đem thây Viên Đạt vào dinh. Lý Mục tay ôm thây khóc ròng, mà kêu lớn rằng:
“Huynh trưởng ôi! Anh hết lòng trung vì nước, mà muốn báo cừu cho tổ sư (là cha của thầy), ngày nay bị thác chốn này, thì em biết làm sao mà trả cái thù cho được”. Nói dứt lời khóc rống lên, bèn dậy quân sắm quan quách Tẫn liệm, lại khiến tám viên phó tướng, đưa quan cửu về nước Tề, rồi ngồi một mình nơi trướng nghĩ rằng:
“Nay binh Tần đông thập bội binh ta, thiệt khó nỗi trở đường, muốn rút binh trở về, lại e các nước chê cười, muốn cùng binh Tần, định quyết hơn thua, thì sơ.
bửu kiếm của Vương Tiễn rất lợi hại, muốn cự thì cự không lại, muốn lui thì khó nỗi lui, trong lòng bối rối khó phân, mới sanh ra một kế:
“Chi bằng đêm nay ta phá dinh Tần, đặng vào thành, cùng vua nước Yên cố thủ Dịch châu, chờ cứu binh đến thì hay hơn”. Bàn tính xong rồi, truyền lệnh ba quân cơm nước no nê, sửa soạn cướp dinh.
Nói về Vương Tiễn chém được Viên Đạt, đánh trống thắng trận kéo binh về dinh, quân vào phi báo. Chương Hàng dẫn chúng tướng ra dinh nghinh tiếp. Vương Tiễn xuống ngựa, hai người dắt tay vào trướng, Chương Hàng nói:
“Chúc mừng cho Điện tây hầu, giết được Toàn Sơn Viên Đạt, tiếng vang thiên hạ, lập được công lao rất lớn”. Vương Tiễn kính nhường, đáp rằng:
“Ấy cũng nhờ phước lớn của chúa ta, oai phong Nguyên soái”.
Rồi Chương Hàng bày tiệc ăn mừng, và sai người đến báo cho Thủy Hoàng hay.
Thủy Hoàng truyền với Nguyên soái, cùng Tiên Phong vào trướng. Hai người lãnh chỉ cho ngồi, nói rằng:
“Vương huynh ngày nay chém được Viên Đạt, mà lập cái công lớn trót đời, quả nhân chẳng biết lấy chi kính tặng, nên cùng quân sư bày yến thưởng công”. Vương Tiễn tạ Ơn. Vua tôi vào tiệc ăn uống. Thủy Hoàng truyền chi?
rằng:
“Ngày nay ăn mừng công lớn, chúng tướng chớ câu nệ, hãy uống vùi chovui”.
Còn đang ăn uống, Kim Tử Lăng thấy cây cờ nhỏ nơi trướng phía Tây, bị gió gãy lìa, bèn vội vàng lần tay đoán quẻ, đứng dậy tâu rằng:
“Tôi mới đoán quẻ, đêm nay ắt có binh Tề đến cướp dinh ta”.
Thủy Hoàng nói:
“Phép Bát quái của tiên sinh rất đúng, ắt chẳng sai đâu, vậy Nguyên soái kíp ra dinh, bài trí cho sẵn”. Chúng tướng nghe nói, đều tạ Ơn lui ra, mà đến trướng Nguyên soái chờ lệnh. Chương Hàng lên trướng, nói với chúng tướng rằng:
“Nước Tề, Lý Mục dõng quân ba quân cũng như Viên Đạt, chẳng phải tầm thường, đêm nay đến cướp dinh ta, ắt có một trận đại chiến, chúng tướng phải ráng sức mới thành công được”. Liền rút một cây lệnh tiễn, sai Mông Điềm, Triệu Cao mai phục trong dinh và đào một cái hầm, dự bị câu móc cho sẵn, lại sai Yên Dịch, Vương Bôn, dẫn một ngàn quân cung tên, mai phục hai bên dinh, chờ cho Lý Mục phá dinh trở ra, sẽ dùng tên bắn nó, chớ cho chạy thoát, bằng trái lệnh thì cứ theo quân pháp trị tội, lại sai Bạch Viên, Hồ Hoán, đem ba ngàn lýnh mai phục trong dinh, đặng vây binh Tề, và sai Vương Tiễn đem một ngàn binh đóng trước dinh, phòng giữ binh Yên tiếp ứng, và bốn mươi đại tướng ở nơi ngự dinh cùng với Quân sư bảo giá, sắp đặt xong xuôi, bổn thân dẫn binh mai phục.
Ấy là:
Dưới đất đào hầm chờ hổ báo, Trên trời bủa lưới bắt giao long.
Bên kia Lý Mục rõ cơ mưu, chờ đến canh ba, lén dẫn binh Tề đến cách dinh Tần chẳng xa, xem thấy trong dinh, đèn đuốc không có, chiêng trống chẳng canh, lòng rất mừng thầm, truyền lệnh chúng binh phát pháo đánh vào, bỗng nghe một tiếng vang rân, dường như trời tan đất lở, những binh Tề ở trước đều sa xuống hầm, lại nghe trong dinh Tần, nổ lên một tiếng pháo, bốn phương đèn đuốc sáng tợ ban ngày. Triệu Cao, Mông Điền kéo binh bọc ngoài đánh vô, Chương Hàng ở trong đánh ra, Bạch Viên, Hồ Hoán hai bên đánh giáp lại, đao thương nhộn nhàng, chiêng trống vang rân, đánh nhau một trận rất hung, song binh Tần nhiều hơn binh Tề gấp mười.
Lúc ấy binh Tề lòng đã rối loạn, ai lo mạng nấy, kiếm đường thoát thân, lòng đã loạn càng thêm bối rối, bị binh Tần giết như cắt dưa, chặt chuối, nghe tiếng than khóc rền trời. Còn Lý Mục thì dẫn vài mươi gia tướng, tả xung hữu đột, đánh ra không khỏi, xem thấy bốn phía đều là tướng giặc, tay cầm binh khí, người nào cũng đều hăm hở hung hăng, vây như tang môn, dữ tợ bạch hổ, không đường ra được, trong lòng hoảng kinh nói:
“Không xong, phen này mạng ta hết rồi”. Bèn ngước mặt ngó qua Lâm Tri kêu lớn rằng:
“Bệ hạ Ơi! Đêm nay tôi quyết liều chết, mà đền ơn cho nước!” Lại kêu chúng tướng nói rằng:
“Chúng ngươi hãy theo ta đánh giải vây mà ra”. Nói rồi hươi cặp roi đánh nhàu, xem thấy bốn phía khí lên nghi ngút, tám hướng khói lửa mịt mù, chân ngựa nhộn nhàng, đao kiếm xăng văng, lớp thì roi đánh, lớp thì thương đâm, đao chém, búa chặt chết thôi dồn cục.
Ấy là:
Đánh Bắc dẹp Nam vì nhà nước, Chúng quân lo sợ mãi can qua.
Dẫu như lấy được nhiều thành quách, Nỡ khiến ngựa người máu chảy sa.
Nguyên tài Lý Mục chẳng phải tầm thường, mười phần mạnh mẽ, roi đánh Hồ Hoán, ngựa rượt Vương Bôn, thương đâm Bạch Viên, tên bắn Triệu Cao, một mình đánh đỡ bốn phía tưng bừng, gần thoát khỏi trùng vây, xảy đâu âm vân mù mịt, hiện ra một viên đại tướng, mặt xanh râu đỏ, kim giáp kim khôi, tay cầm búa gia cang, kêu lớn rằng:
“Hiền đệ, có nhìn được anh chăng? Anh ở đây chờ em đã lâu, ngày nay đến ngày em phải quy thiên? Hãy theo anh mà về trời cho chóng”. Lý Mục nghe nói, ngước mặt xem thấy, nhìn biết là Toàn Sơn Viên Đại, bèn kêu lớn rằng:
“Nhân huynh hãy chờ em một chút”. Lúc ấy nơi mình Lý Mục đã bị vài vết thương, liệu bề ra khỏi vòng vây được, thì tánh mạng cũng không còn, nếu để người Tần bắt được, thì há chẳng mất oai danh ngày trước đi sao? Ngẫm nghĩ rồi, rút gươm cắt cổ mà thác, vốn Lý Mục đến chổ này mạng phải về trời, cắt một cái đầu rơi xuống đất, thây chết còn ngồi trên ngựa, rồi con ngựa ấy chở thây chủ nhân chạy tuốt ra ngoài vòng vây, binh Tần lắp tên áp bắn vãi ra, giây phút người và ngựa cả mình đầy những tên, Vương Tiễn đốc binh rượt theo, đặng lấy thủ cấp, đến lúc rượt tới gần, thì thấy trên cổ không có đầu, Vương Tiễn lấy làm hồ nghi, sai người đi bốn phía kiếm tìm, khắp nơi chẳng thấy, bèn báo cùng Chương Hàng, Chương Hàng cũng không biết làm sao, rồi thu binh, đốt những thây chết trong dinh. (Nguyên vì Lý Mục thấy Viên Đạt đến kêu mình, liền tự vẫn mà thác, thây ngồi trên ngựa, đầu rơi xuống đất.
Lúc ấy có tên gia tướng trung nghĩa, lấy áo chiến bào, gói thủ cấp Lý Mục, mà đem về, vì hồn Lý Mục anh linh chẳng chịu đem đầu treo nơi dinh Tần, cho nên ám trơ.
gia tướng, trốn ra khỏi trùng vây, chạy về Lâm Tri báo tin).
Nói về quân thám thính bên Yên Châu, thám nghe rõ ràng, về báo cùng Khuất Sảng hay, làm cho Khuất Sảng chân run lập cập, cả mình phát lạnh, nói:
“Ta tưởng lại Viên Đạt, Lý Mục, là tướng lão thành, dõng quán tam quân nay đều thác nơi tay người Tần, rất nên thương tiếc”. Liền tả bổn chương, sai người vào triều dâng lên.
Chiêu Vương xem thấy bổn chương hãi kinh té ngửa trên ghế, tả hữu lật đật cứu tỉnh, khóc rống lên nói rằng:
“Hai vị Hộ quốc công, thủa nay không người địch thủ oai rúng các nước, nay đều thác nơi tay Tần, thì ắt giang sơn trẫm chẳng còn”. Nói rồi khóc oà như mưa.
Lúc ấy có quan thượng đại phu tên Trầm Tưởng, vội vàng tâu rằng:
“Người đã thác thì không sống được, xin chúa công hãy bớt lòng thương xót, đặng lo toan việc nước. Nay binh Tề đã thua rồi, thì nước ta không có cứu binh, lòng quân kinh sợ, e binh Tần ra sức đánh phá thành trì, ắt là phải khốn, xin bệ hạmau mau lên thành, một là binh tướng bớt lòng lo sợ, hai nữa làm cho dấy nức lòng dân, hãy chờ Tôn tướng quân, cùng Nam quận vương đến đây thì lui được binh Tần”. Chiêu Vương nghe Trầm Tưởng tâu có lý, thì lật đật truyền lệnh gát xe, bổn thân lên thành ngăn giữ, Khuất Sảng tiếp rước lên thành qua ngày thứ, quả nhiên binh Tần áp ra bốn phía hãm thành, Chiêu Vương cùng Khuất Sảng hết sức giữ gìn, binh Tần bắt thang trèo lên, trên thành tên bắn đá lăn, binh Tần lên không được, đánh luôn hai ngày hai đêm, mà phá thành không nổi. (Nguyên Dịch Châu này, là chỗ đế đô nước Yên cho nên thành hào bền chắc, vả lại trên thành đánh xuống rất tiện cho nên binh Tần trơ?
lại bị thương tích rất nhiều). Chương Hàng không biết làm sao, bèn vây chặt bốn phía thành, nước chảy đặng thông. Còn Chiêu Vương luôn cả đêm ngày đều ở trên thành, tuần do gìn giữ chẳng dám nghỉ ngơi, mỗi đêm mỗi đốt nhan cầu khẩn vái trời đất xin cho Tôn Tẫn xuống núi giải vây.
Nói về núi Thiên Thai, Tôn Tẫn lão tổ đang ngồi trên bồ đoàn, trong lòng hồi hộp xót xa, bèn lần tay đoán quẻ, biết rõ nguồn cơn, hai hàng nước mắt nhỏ sa, kêu lớn rằng:
“Môn đồ ơi! Khá thương người anh hùng cái thế, hôm nay phải chết nơi bửu kiếm, ta lấy mắt ngó mà không cứu ngươi đặng, khá thương ngươi theo ta uống thuốc tiên, ngỡ là bỏ chốn hồng trần, kiếm nơi danh sơn thắng địa (núi lớn đất tốt), tu luyện tâm tánh, thì cũng thành bậc địa tiên, không dè ngươi tham luyến ngôi cao mà chẳng bỏ được hai chữ danh lợi, đến phải thác nơi sa trường, tuy là mạng trời đã định, song cũng có sức người trở lòng trời được, có lẽ nào mà chẳng khỏi đại nạn”.
Lúc ấy Lý Tòng cùng với Thanh Phong, Minh Nguyệt, đứng hầu một bên, thấy lão tổ không cớ chi mà khóc và nói một mình thì lấy làm hồ nghi, nghĩ thầm rằng:
“Có khi lão đạo sĩ này mắc bệnh điên chăng?”. Lý Tòng vội vàng bước tới thưa rằng:
“Chẳng hay lão sư cớ chi bi lụy như thế?”. Tôn Tẫn nói:
“Sư huynh của mi chết rồi, bảo ta đừng khóc sao được”. Lý Tòng nghe nói trong lòng mờ mịt không rõ, bèn hỏi rằng:
“Chẳng hay sư huynh của tôi là ai, vì làm sao mà chết?”. Tôn Tẫn nói:
“Đại sư huynh của mi, là Viên Đạt đó”. Lý Tòng nói:
“Tôi có nghe người thuật chuyện, Viên Đạt sức mạnh muôn người, chẳng ai dám cự, hễ làm tướng dấy binh đánh nước lớn, thì nước lớn phải đầu hàng, có đánh nước nhỏ, thì nước nhỏ phải nhường ngôi, có ai dám cự chống, bây giờ đang làm quan nước Tề, phong đến tước công, vì làm sao mà chết, nơi tay người nào?”.
Tôn Tẫn nói:
“Chết nơi tay tướng Tần là Vương Tiễn, nguyên vì Yên Chiêu vương sai cháu là Tôn Yên, phá vây qua Lâm Tri cầu cứu, Lý Mục cùng sư huynh mi, đồng lãnh binh Tề đến Yên Châu giải vây, bởi vậy nên mới chết nơi tay người Tần, bây giờ binh Tần lại phá thành Dịch Châu rất gấp, vậy để ta ra núi, đặng phù giúp cho nước Yên một chút”. Nói rồi chống gậy ra cửa Thiên Thai ngó xuống Dịch Châu, miệng niệm thần chú, lấy cây hạnh huỳnh kỳ chỉ luôn ba cái, tức thì nơi thành Dịch Châu tuyết xuống mù mịt, ba ngày mới có mặt trời. Lúc ấy tuyết tan, thành trơn như mỡ. Tôn Tẫn làm phép xong rồi, bèn trở vào động, xảy đâu một luồng gió thổi quạ Tôn Tẫn nhượng cho đầu gió qua khỏi, tiếp đuôi gió mà nghe, thì nói:
“Không xong, mau mau vào động, đại họa tới rồi”. Lý Tòng nghe nói chẳng rõ cơ chi, lật đật phò Tôn Tẫn vào động.
Chương 8 : Chỉ đường mê, Mao Toại phá mây
Nói về Tôn Tẫn làm một trận tuyết lớn vừa xong, xảy thấy luồng gió thổi qua, thì nói đại họa đến rồi, mau mau trở vào động, liền dạy tiểu đồng khóa cửa động lại, rồi hóa phép niêm phong cửa động. Lý Tòng thấy thầy lật đật trở vào, mặt mày thất sắc, bèn nói rằng:
“Chẳng hay có việc chi mà thầy kinh sợ, phải đóng cửa động như vậy?”.
Tôn Tẫn nghe hỏi, than dài một tiếng nói rằng:
“Đệ tử không rõ:
Vì nước Tần đang đánh phá Dịch Châu, Tôn Yên đến nước Tề cầu cứu, thì nó biết Viên Đạt, Lý Mục không phải là người đối thủ của Vương Tiễn, nên trước mặt vua Tương Vương năn nỉ muốn đến ra mắt thầy, nhân vì lúc thầy từ biệt về núi, thì có để lại một phong thơ cho quốc sư là Bốc Thương, vả chăng va là người hiền lương, ai ai cũng đều cung kính, lúc nọ thầy có ý muốn độ cho va về cõi tiên, nên để phong thơ lại, ngày sau va tỉnh ngộ, tới đây mà tìm ta, không dè tình cờ gặp việc như vậy, mà trở lại mắc lấy họa căn, nay Bốc Thương cùng Tôn Yên đến núi Thiên Thai, đốc thỉnh thầy xuống núi, song thầy tưởng đến cái cừu cha anh, và thù của thầy trò, thì lẽ đâu không tra?
đặng, nguyên Vương Tiễn vốn là cửu thiên ứng ngươn lôi thanh phổ hóa thiên tôn giáng thế, học trò của Hải Triều thánh nhơn ở nước Ảo Ly, động Vân Quang, vả lại nó vâng chỉ Ngọc đế, và phật điệp, phò tá Thủy Hoàng gồm thâu sáu nước, mà nay nước Yên khí số hết rồi, dẫu có tài phép hơn trời đi nữa, cũng không cứu đặng. Nếu cho Tôn Yên vào thì ắt bị nó khóc lóc năn nỉ, làm cho ta phải quyến luyến xiêu lòng, bỏ núi xuống chốn hồng trần, mà khai sát giới, ắt là tai họa chẳng nhỏ, nên phải niêm phong cửa động, lánh cơn tai nạn”.
Lý Tòng nói:
“Nếu mà bọn nó tới đây thì có lẽ nào kiếm không đặng cửa động, như kiếm đặng ở ngoài gõ cửa om sòm, thì mình làm sao mà không mở”. Tôn Tẫn nói:
“Thầy đã ra phép dùng mây trắng che bít cửa động bọn nó biết đâu mà tìm đặng”. Lý Tòng nghe rồi, miệng tuy chẳng nói, trong lòng nghĩ thầm rằng:
“Rất chướng cho lão đạo sĩ này, cái cừu của cha anh, cùng học trò, mà chẳng trả, trở lại khoe khoang lỗ miệng doa. người, ngày thường làm việc chi thì không làm cứ khoe rằng:
“Có tài hay lên trời đổi mặt nhựt, hôm nay sánh với một tên tướng Tần là Vương Tiễn mà khiếp sợ, chẳng dám xuống đánh, thôi ta chẳng nghe theo lão, hễ có người đến gõ cửa thì mở ra cho hắn vào, coi thử lão làm sao cho biết”. Nghĩ rồi bèn bước xuống Tam Thanh điện đi tuốt.
Nói về núi Thanh Bạch, động Nhàn Am, có vị chơn nhơn, họ Mao tên Toại, sanh ra hình dung ngũ đoản (là tay ngắn, chân lùn, mình cụt, cổ thấp, đầu nhỏ) tướng đi như ngỗng, chân bước như vịt, mắt vàng, mày đỏ, tánh tình khôn khéo, tay chân nhanh lẹ, nguyên đời xuân thu đắc đạo thành tiên, thường chơi bời kết thân với Mạnh thường quân là Điền Văn, bảo hộ Mạnh thường quân ba phen qua nước Sở, trộm áo hồ cừu, cứu Mạnh thường quân, và lại nơi ải Kê Minh, giả tiếng gà, gạt mơ?
cửa ải làm cho Mạnh thường quân ra khỏi cửa ải rồi, bỏ hồng trần, lên núi tu tiên, đến sau tới núi Thiên Thai kết làm anh em với Tôn Tẫn, lúc nọ Bàng Quyên dùng đinh đầu đầu thất tiễn thơ làm hại Tôn Tẫn, cũng nhờ va cướp lấy hình nhân bằng cỏ, cứu khỏi Tôn Bá Linh (là tên chữ Tôn Tẫn), đến sau Nhạc Nghị đầu Yên, đem binh đánh Tề, Huỳnh Bá Dương xuống núi, lập ra cái trận kêu làÂm Hồn trận, cũng nhờ có va cứu Tôn Tẫn. Ngày kia ở trong động Nhàn Âm, đọc sách xong rồi, chẳng có việc chi, xảy nhở đến núi Thiên Thai, bèn dạy tiểu đồng mở cửa động, mình cỡi trên mây nhắm núi Thiên Thai thẳng tới, đến trước núi, bay xuống, xem thấy cửa động mây trắng phủ che, thì nghĩ thầm rằng:
“Tam ca ngày nay không có ở trong động chẳng biết đi đến động nào, vậy ta tới động khác rồi sẽ trở lại”. Bèn cỡi mây đi tuốt.
Nói về Bốc Thương của Tôn Yên, dẫn vài mươi gia tướng, ra khỏi Đông môn, nhắm phía sau thẳng tới, đi luôn bảy ngày vào quán nghỉ ngơi. Bốc Thương bèn lấy thơ Tôn Tẫn để lại, giở ra xem thấy có đề ít hàng chữ nhỏ như vầy:
Muốn tới núi Thiên Thai, Phía Động năm trăm dặm, Giai cảnh thiệt tên làng, Qua Tây Bắc thăm thẳm, Đi luôn đôi ba ngày, Thấy rừng tòng như cặm, Khỏi rừng có cái cầu, Qua cầu tua vịn nắm, Gặp cội phải trở quanh, Đường Thiên Thai xa lắm.
Bốc Thương cùng Tôn Yên xem thấy rất mừng, bèn kêu tên quân đến hỏi rằng:
“Chẳng hay gần đây chỗ nào, kêu là làng Giai cảnh chăng?”. Tên quân bẩm rằng:
“Cách đây sáu chục dặm kêu là Giai cảnh thôn, thuộc về Đông Tề ta cai trị, nơi ấy sơn minh thủy tú, xem chơi vui lắm, tướng gia cùng tướng quân tới đó dạo chơi, phong cảnh rất đẹp, hôm nay trời đã tối rồi, không đi được, để mai tôi sẽ dẫn đường cho tướng gia đi”. Bốc Thương nói:
“Thôi ta chẳng cần mi dẫn đường làm chi, bọn ta đến đó, không phải du ngoạn đâu, tới nơi đó, rồi lên núi Thiên Thai”. Tên quân nghe nói thì không biết núi Thiên Thai ở chỗ nào, cũng chẳng dám chỉ bày, bèn trở xuống dọn bàn rượu cơm khoản đãi, hai người ăn uống xong rồi, ngủ nơi quán một đêm qua ngày thứ ra đi, cứ theo đường tên quân chỉ, đi nửa ngày, vừa đến Giai cảnh thôn, qua?
nhiên phong cảnh đẹp đẽ, hai người không lòng xem chơi, tìm nhà vàonghỉ, cho ngựa ăn uống, rồi coi theo trong thơ mà đi, ngày đêm dong ruỗi bỗng thấy hòn núi tòng rậm sum suê, hai người dẫn gia tướng đi ngang qua núi ấy, quả nhiên u nhãn, thiệt khiến cho người vui vẻ tấm lòng, dường như đi sông biển, tiếng sóng vang tai, đi hơm nửa ngày, qua vừa khỏi núi, xem thấy núi cao vòi vọi, đứng sững giữa trời, khắp núi cỏ cây chẳng có lá úa nhành khô, gió thổi phất qua, tiếng suối cùng tiếng cây reo như giọng đèn cầm ăn nhịp.
Bốc Thương xuống ngựa ngồi trên hòn đá. Tôn Yên cũng bước xuống ngựa.
Bốc Thương nói:
“Từ xưa kẻ ở ẩn, thì nương mình nơi chốn núi non, tuy quý đến bực Vương hầu, giàu có bốn biển, cũng không dời chí, ta thấy chỗ này rất nên vui vẻ, khiến cho lòng ta ái mộ, nghĩ lại trong cuộc công danh, thiệt chẳng xiết nỗi nhọc nhằn”. Tôn Yên hỏi rằng:
“Chẳng hay chỗ nào cách núi Thiên Thai, còn xa hay gần”. Bốc Thương cười rằng:
“Tướng quân, ta đâu biết được, ta cũng chưa từng đi đến”. Tôn Yên nói:
“Nếu vậy thì ta chẳng nên ở đây, mà cho trễ nãi ngày giờ, hãy lên núi Thiên Thai là việc cần kíp”.
Bốc Thương bèn lên ngựa ra đi, chưa đặng vài dặm, xem thấy một cây cầu đá lớn, qua khỏi cầu thì thấy một khoảng đất trống cây tùng vô số, chim kêu thảnh thót, chẳng thấy dạng người, qua vừa khỏi rừng, có một cái khe nhỏ, trước mặt núi non chất ngất, chẳng thấy tiều phu, rồi coi trong thư mà đi, giây lâu gặp cây cối, đi quanh theo đường tắt, lần lần mặt trời đà chen lặng, non núi chập chùng, gió thổi tiếng nghe như rồng ngâm cọp rống, may vì dưới cây, bóng trăng rọi sáng, xem thấy đường đi chúng nhân chẳng dám nghỉ ngơi, cứ việc đi hoài. Lúc ấy trời vừa hừng sáng, ngước mặt xem thấy một tòa núi cao lớn, bốn mùa bông hoa chẳng rụng, hạc kêu, vượn hú, rông ngâm cọp ré. Thật là:
Tùng xanh liễu tía che trời nắng, Cây gấm hoa thơm ửng dạng mây.
Chúng nhân lên núi dạo xem phong cảnh, xảy thấy một tấm bia đá, đứng sựng như vách, có khắc ba chữ Thiên Thai sơn, ai ai cũng đều vui mừng, la:
“Tới rồi, tới rồi”. Tôn Yên nói với Bốc Thương rằng:
“Chúng ta hãy xuống ngựa, kiếm tìm cửa động”. Rồi chúng nhân phò Bốc Thương đi bộ lên núi, kiếm một hồi lâu, xem thấy khí mù nghi ngút, chẳng có động phủ, Tôn Yên nói với Bốc Thương rằng:
“Ông có thấy động Thiên Thai chăng?” Bốc Thương nói:
“Tôi không thấy, song tưởng lại chỗ này đã kêu là Thiên Thai sơn, thì ắt có Thiên Thai động tướng quân chớ nên nóng nảy, vậy bọn ta ra sức tìm kiếm”. Nói rồi bèn dẫn chúng nhân đi khắp một vòng nữa, cũng không thấy cửa động. Bốc Thương vốn là người tuổi lớn, tuy co gia đình vịn đỡ, song đi giáp một vòng, mệt thở hào hển, cứ nói:
“Lạ kỳ, lạ kỳ núi đã tới rồi, làm sao không thấy cửa động”.
Tôn Yên thấy Bốc Thương mệt, đã thở dốc, thìnói rằng:
“Lão quốc khanh, hãy tạm ngồi đây mà nghỉ, để tôi chia nhau tìm kiếm, có khi đi chung một tốp không đọc kỹ lưỡng chăng?”. Bốc Thương nói:
“Tướng quân phân rất phải”. Rồi Tôn Yên cùng chúng nhân, chia nhau bốn phía kiếm tìm, giây phút chúng nhân đều tựu về chỗ cũ, nói rằng:
“Nguyên núi này bốn phía, đều là đường xuống dưới chân núi, chớ không thấy chỗ nào có hang hố chi cả, tuy rằng cao lớn mặc dầu, song núi đứng sững, chúng tôi bắt từ trên chót mà kiếm tới dưới chân, rồi bắt từ dưới chân mà kiếm lên chót, cũng chẳng thấy cửa động, đến nỗi một cái hang lớn cũng không có”. Lúc ấy Tôn Yên lòng như dao cắt, chẳng xiết lo phiền, bỗng nghe Ban Báo nói:
“Phải rồi a, có khi núi Thiên Thai khác, còn động Thiên Thai khác nữa chăng, chớ không phải ơ?
chung một chổ”.
Bốc Thương nghe nói cười rằng:
“Có lẽ đâu vậy, trong thư nói rõ ràng, hễ đến núi Thiên Thai thì là động Thiên thai đó, đâu có ở riêng một chỗ khác”. Tôn Yên nạt Ban Báo rằng:
“Mi chớ nói xàm, tam thúc ta để thư lại cho Lão quốc khanh, có lẽ nào đi nói dối sao”. Còn đang chuyện vãn, cãi lẫy om sòm, bỗng nghe tiếng trâu rống, chúng nhân đều sửng sốt. Bốc Thương nói:
“Vậy chớ không phải tiếng trâu rống đó sao? Chắc là trâu của tam thúc ngươi đó, vậy chúng bây hãy đi kiếm một vòng nữa”.
Chúng nhân vâng lệnh ra đi, giây lâu trở lại nói:
“Trâu ở đâu không thấy hình dạng chi hết”. Nói dứt lời thì nghe trâu kêu luôn hai tiếng nữa, Bốc Thương nói:
“Quả thiệt là tiếng trâu Bàn đốc Thanh ngưu chẳng sai”. Tôn Yên nói:
“Đã có tiếng Thanh ngưu kêu, thì có khi cửa động ở gần đây, làm sao mà tìm kiếm không được”.
Bốc Thương ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói rằng:
“Hể là tiếng kêu trong núi nghe lớn mà lại xa, chúng ta chẳng cần đi bậy làm chi cho mệt, các người cứ pháp hiệu của tamthúc, mà kêu lớn thì trong ấy người nghe tiếng, ắt sai ra dắt chúng ta vào, cũng chưa biết chừng”. Tôn Yên nói:
“Phải”. rồi dạy chúng nhân kêu réo om sòm, tiếng vang dậy núi.
Nói về Mao Toại, lúc nọ đi tới núi khác chơi rồi, trở lại núi Thiên Thai, đang bay trên mây, xảy nghe tiếng người réo gọi đạo hiệu Tôn Tẫn liền ngó xuống xem thấy dưới núi, có một tốp người đi đường và vài mươi con ngựa, trên hòn đá ngồi một ông già, một người trẻ, ăn mặc đồ quan, trong lòng không rõ cớ chi, mới tính rằng:
“Để ta xuống hỏi thử coí. Bèn bay xuống đất, nhắm trong nhóm đông người mà đi vào. Lúc ấy có tên gia nhân, mắt lẹ, ngó thì nói rằng:
“Chúng ngươi, hãy coi đó mà coi, trong núi chạy ra một vật chi chi, rất lạ kỳ, có khi yêu tinh hay là ma quỷ gì đó chăng?”.
Có người nói lại:
“Vốn là người lùn, chớ không phải yêu quỷ đâu”. Tôn Yên nghe nói quay đầu, quả thấy một người lùn, chạy lăng xăng mà đi lại, trong lòng rất mừng nói:
“Có người đến đây, mình hỏi thăm đường đặng, chúng bây chớ làm cho người kinh sợ”. Còn đang nói thì người ấy đã tớitrước mặt, coi kỹ lại, té ra là một người ăn mặc đạo phục.
Cặp mắt lộ ra sáng tựa sao, Mình hơn ba thước kể bề cao.
Áo xanh dày dạn dường mây chói, Râu tóc còn xanh mặt trắng phau.
Lúc ấy Bốc Thương cùng Tôn Yên bước tới, xá nói rằng:
“Chào đạo trưởng tới đây”. Mao Toại cũng xá đáp lễ lại. Bốc Thương hỏi rằng:
“Chẳng hay đạo trưởng ơ?
đâu mà đến đây vậy?” Mao Toại nói:
“Vốn tôi trước ở núi này, đi ngang qua đây, vì muốn kiếm một người anh em bạn, đặng nói chuyện chơi, chẳng hay liệt vị Ở đâu đến đây, có việc chi chăng? Vì làm sao mà kêu réo Tôn Bá Linh như vậy? Có khi ơ?
trong núi, mất người ấy chăng?” Bốc Thương nói:
“Không phải, tôi là người nước Tề, làm quan Quốc Khanh, tên Bốc Thương, còn vị này là Hoàng thân nước Yên, cháu Thoại lăng quân, con của Chánh tổng nhung Tôn Long, vốn là cháu của Quản văn tiên tử ở núi Thiên Thai, động Thiên Thai, vả chăng ông cha người, cùng với nước Tần giao binh, bị chết nơi tay Vương Tiễn, nay binh Tần đang vây thành Dịch Châu, cho nên người lãnh thơ vua nước Yên, qua Lâm Tri cầu cứu, và vâng mạng Yên Đơn côngchúa, đến núi Thiên Thai, thỉnh Quản văn tiên tử, nguyên vì mười năm trước, Quản văn tiên tử có để lại cho tôi một phong thơ, dặn rằng:
“Ngày sau muốn lên núi Thiên Thai, thì giơ?
cái thơ ấy ra, sẽ rõ đường đi, nay chúa tôi gởi cho một phong thơ, sai tôi cùng Tôn tướng quân ra đi, cứ theo phong thơ, đi liền chỗ này, thấy dưới núi có một tấm bia đá, khắc ba chữ Thiên Thai sơn, tìm kiếm hơn nửa ngày, chẳng thấy cửa động, nếu đạo trưởng biết xin ra ơn chỉ giùm, tôi sẽ trọng đáp”.
Mao Toại nghe nói, trong lòng nghĩ thầm rằng:
“Nguyên lại có cớ sự như vậy, lão cụt chân này, sợ cháu đến mà làm cho mất công, nên dùng mây trắng, phong niêm cửa động, làm cho nó kiếm tìm không được, song hễ là đúng con người, thì coi cha mẹ anh em là trọng, nếu người không chịu xuống núi báo thù, thì há chẳng đê?
tiếng nhơ muôn thưở”. Nghĩ rồi bèn đáp rằng:
“Té ra liệt vị quý nhân muốn tới núi Thiên Thai, đặng cố thỉnh Tôn quản văn, vì tôi biết chỗ động Thiên Thai ấy, thôi đê?
tôi chỉ giùm cho, song không nên nói với ai rằng tôi chỉ đường”. Chúng nhân ca?
mừng, nói:
“Xin vâng theo lời đạo trưởng, song chẳng rõ đi theo đường nào tới được”.
Mao Toại lấy tay chỉ nói:
“Đi vòng theo đường bên tả thì ngó thấy”. Tôn Yên cười:
“Chúng tôi đã qua lại nơi ấy năm sáu lần, mà không thấy động chi hết”. Mao Toại cười nói:
“Tôn tướng quân hãy y theo lời nói của tôi, tự nhiên kiếm được”. Tôn Yên chẳng biết làm sao, rồi dẫn kẻ tùng nhân, cứ theo đường Mao Toại chỉ, đi vừa ít bước, quay đầu lại không thấy Mao Toại, ai nấy thất kinh, nói với nhau rằng:
“Người đạo nhân khi nãy, đi đâu mất rồi, không thấy nữa, có khi thần tiên đến chỉ đường cho ta chăng?” (Nguyên Mao Toại dùng phép ẩn thân theo sau lưng mấy người đó vừa đi vừa niệm chú cho tan mây, cho trống cửa động). Lúc bọn Tôn Yên đi đặng vài trăm bước, xảy thấy bên núi ló ra một cái cửa động, trên cửa có treo một tấm biển, đề ba chữ Thiên Thai động, chúng nhơn xem thấy rất mừng. Thiệt là:
Đi mòn giày sắt không tìm đặng, Xảy gặp thình lình chẳng tốn công.
Tôn Yên liền bước tới mà kêu cửa.
Nói về trong động, Lý Tòng nghe có tiếng người kêu đạo hiệu thầy mình, thì rất mừng nói:
“Quả nhiên người đã đến rồi, để ta coi lão đạo sĩ này chốn đâu cho khỏi”.
Chờ một hồi lâu, cũng nghe tiếng kêu réo om sòm, mà chẳng thấy gõ cửa, trong lòng nóng nảy nói rằng:
“Có khi mấy người này đui hết chăng, cái cửa động lớn như vậy, mà không gõ, cứ ở ngoài kêu réo làm chi”. Ý muốn mở cửa đi ra, lại e thầy quơ?
trách, xảy nghe có tiếng gõ cửa, thì chẳng xiết nổi mừng, bèn tuốt ra mở hoác cửa động. Tôn Yên xem thấy một người:
Mình cao trượng sáu rất oai phong, Mắt lớn đầu beo khí khái hùng.
Tướng mạnh thêm râu coi quá mạnh, Tiếng vang như tiếng đánh chuông đồng.
Tôn Yên xem rồi, có ý khen thầm. Lý Tòng hỏi rằng:
“Chúng ngươi ở đâu mà đến đây, có việc chi chăng?” Tôn Yên bèn tỏ hết nguồn cơn. Lý Tòng nói:
“Người là thế đệ đó sao? Vậy hãy ở đây chờ một chút, đặng tôi vào thông báo”. Nói rồi tuốt vào trong Tam thanh điện, bẩm rằng:
“Ngoài cửa có Tôn Yên ở nước Yên, Bốc Thương ở nước Tề, xin vào ra mắt sư phụ”. Tôn Tẫn nổi giận quở rằng:
“Ai bảo mi làm khôn ra mà mở cửa”. Lý Tòng nói:
“Người đến kêu cửa, mà làm sao không mơ?
cho đặng”. Tôn Tẫn nói:
“Thằng chết bầm, sao không đi xuống cho rồi”. Bèn đứng dậy chống gậy trầm hương, bước xuống điện, và dạy đồng nhi dọn bày hương án.
Lúc ấy Tôn Yên cùng Bốc Thương vào động, còn Mao Toại cũng vào động, rồi tuốt lên Tam Thanh điện, Tôn Yên cùng Bốc Thương vào đến Thiên đài, xem thấy một người đạo nhân, trên điện bước xuống, mặt như trăng tròn, mắt sáng tợ sao, đội mão tam sa, đi giày da cá, mặc áo bào xanh, cột dây đai vàng, thắt lưng cây Hạnh huỳnh kỳ, tay cầm gậy trầm hương.
Bốc Thương nhìn biết Tôn Tẫn, trong lòng rất mừng, ngó thấy Tôn Tẫn bước tới vài bước cúi đầu lạy rằng:
“Chớ chi hay thánh chỉ Chúa thượng, cùng là thơ mẫu thân đến đây, thì phải ra nghinh tiếp, nay đến đây chậm xin cam tử tội”. Nói rồi cúi đầu lạy bốn lạy, đứng dậy,tiếp lấy thánh chỉ, trở lên Tam thanh điện, để trên ghế giữa, rồi Bốc Thương cùng Tôn Yên, ra mắt Tôn Tẫn. Tôn Tẫn một tay thì nắm Bốc Thương, một tay thì đỡ Tôn Yên đứng dậy, mời cả hai người ngồi, rồi xem kỹ Tôn Yên, ngó thấy mắt lộ sáng ngời, long cốt rất cao, biết là có phận mấy năm hoàng đế, vùng đến nhớ cha anh, bèn sa nước mắt dầm dề. Tôn Yên quỳ xuống đất, khóc ròng Tôn Tẫn nói:
“Cháu ôi, hãy bớt bi thương, đặng cố đem việc nước Yên thế nào, mà thuật lại cho chú rõ”.
Tôn Yên đem việc nước Yên thế nào, mà thuật lại cho chú rõ”. Tôn Yên đem việc binh Tần phạm cõi, thuật lại một hồi, Tôn Tẫn bèn quay lại Bốc Thương bái nói rằng:
“Cũng vì tôi mà làm cho Lão quốc khanh tuổi ngoài chín chục phải trèo non vượt suối đến chỗ núi hoang”. Bốc Thương nói:
“Vâng mạng vua, lẽ phải như vậy, chớ không phải là nhân việc riêng mà đến đây, nay hoàng thượng sớm trông tối nhớ, dạy tôi đến cầu thỉnh Nam quận vương xuống núi, cho vua tôi gặp mặt”. Tôn Tẫn nói:
“Cũng chẳng khó gì”. Bèn bước lại ghế giở thơ ra xem, thấy ngoài bao để rằng:
“Thơ của Yên Đơn gởi cho Tôn Tẫn xem tường”. Tôn Tẫn ngó thấy thì rơi lụy nói rằng:
“Mẫu thân, xin thứ tội con trẻ bất hiếu”. Bèn xé thơ ra coi, lúc chưa xem thì hãy còn khá, đến khi xem thấy thơ rồi, chẳng những sa nước mắt mà thôi, đến nỗi phải chết giấc, Tôn Yên xem thấy tình hình như vậy, lòng rất vui mừng, vì làm cho Tôn Tẫn động lòng, chắc làm sao cũng phải xuống núi, bèn lật đật bước lại đỡ, Tôn Tẫn nước mắt như mưa. Tôn Yên hỏi rằng:
“Chẳng hay chú chịu đi hay không”. Tôn Tẫn nói:
“Đi đâu bây giờ?”. Tôn Yên nói:
“Mời chú tới Dịch Châu, đặng giúp sức, bắt thằng Vương Tiễn trả thù cho cha, ông”.
Tôn Tẫn nói:
“Ta đi không được, phải chi ta đi được, thì có đâu mà chờ cháu đến đây, cái cừu giết cha anh, lẽ phải xuống núi mà trả thù, song nay ta vâng ngọc chỉ, sắc phong chức Tuần thiên đô úy sứ, vả lại Vương Tiễn chẳng phải là việc tư ky?
của nó, vốn nó vâng Điệp phật cùng sắc ngọc đế gồm thâu sáu nước, ông cha và chú mày số trời đã định, người phải thác nơi tay Vương Tiễn, thì làm sao mà trái trời, đi trả thù cái thù riêng cho được”. Tôn Yên cùng Bốc Thương nghe nói thất kinh, vội vã nói rằng:
“Xin Nam quận vương mở lòng từ bi, xuống núi cứu mạng nhân dân, và cứu vua tôi hai nước”.
Tôn Tẫn nói:
“Nếu tôi xuống núi cũng phải chết, thì làm sao mà cứu được”. Tôn Yên nói:
“Nay chú không đi mà tôi trở về Dịch Châu ví chẳng khác lên trời rất khó, mặt mũi nào trở lại, chi bằng chết phức chốn này cho rồi”. Nói dứt lời, xăn quần vén áo, vừa bước xuống thềm mà đập đầu, bỗng thấy sau lưng Tôn Tẫn, có người lên tiếng kêu rằng:
“Không nên liều mình”.
Coi lại người ấy là Mao Toại. (Nguyên va đứng sau lưng Tôn Tẫn, xem thấy thơ của Yên Đơn rõ ràng, mà Tôn Tẫn không chịu đi, thì trong lòng cả giận, lại thấy Tôn Yên khóc lóc, khẩn cầu hết sức, và muốn dập đầu mà chết, thì nín không được, nên phải hiện ra). Tôn Tẫn thấy Mao Toại, liền xoay mình ra mắt, hỏi rằng:
“Hiền đê.
đến bao giờ vậy?”. Mao Toại nói:
“Tôi vừa mới đến đây, chẳng hay vị lão quan này là ai đó?”. Tôn Tẫn nói:
“Người nước Tề, làm chức Quân khanh tên Bốc Thương”.
Mao Toại nói:
“Tôi biết mặt, song từ ngày cách biệt đến nay, hơn hai mươi năm cũng đã quên đi rồi”. Bốc Thương biết là Mao Toại, bèn tới làm lễ, đều tỏ lòng thương mến. Mao Toại lại hỏi rằng:
“Chẳng hay vị nhỏ này là ai?”. Tôn Tẫn nói:
“Cháu của tôi, tên Tôn Yên”. Bèn kêu Tôn Yên lạy ra mắt Mao Toại. Mao Toại hỏi:
“Vậy chớ hai người này đến có việc chi cùng chăng?”. Tôn Tẫn bèn tỏ hết sự tình.
Mao Toại hỏi rằng:
“Vậy chớ tam ca đi hay là không đỉ”. Tôn Tẫn nói:
“Em lại dễ chẳng biết, Vương Tiễn là học trò của Hải Triều thánh nhơn sao? Ta không phải là người đối thủ của nó đâu”. Mao Toại cười rằng:
“Tam ca, thôi chớ khiêm nhường, hễ con người mà không có cha mẹ anh em, thì có khác chi loài cầm thú, nay anh không xuống núi trả cái thù ấy, thì há chẳng để tiếng xấu cho muôn đời sao?”.
Tôn Tẫn nói:
“Anh cũng đã biết rồi, song chẳng hay trí nghịch lòng trời được”.
Đang lúc chuyện văn, xảy nghe tiếng dưới thềm có tiếng nói:
“Có lý nào đâu vậy!”.
Tôn Tẫn vội hỏi rằng:
“Người ấy là ai?”. Tôn Yên nói:
“Tên gia tướng là Ban Báo đó?” Tôn Tẫn nói:
“Dám cả gan cho thằng đầy tớ, mi nói giống chi vậy?” Ban Báo nói:
“Chẳng phải là tôi dám cả gan, vì ông không chịu xuống trả thù cho thái thái lão gia, cùng đại lão gia, nhị lão gia, làm con người nỡ lòng như vậy, mà xưngrằng:
Thần tiên gì?”. Tôn Tẫn nạt rằng:
“Thằng cẩu nô, sao mi dám trước mặt ta khi dễ ta lắm vậy?”. Liền hối đuổi nó ra cho rồi. Ban Báo giận hầm hầm, quày quả trở ra, vừa đi vừa nói:
“Để ta ra đem lửa đốt động này, đặng coi người có ra cùng không ra cho biết”. Bèn bẻ cành khô, chất lên cửa động, vừa muốn dùng kửa đốt lên, Lý Tòng xem thấy rất mừng, lật đật chạy vào đại điện, nói:
“Không xong rồi, thằng Ban Báo đi ra khi nãy, bây giờ ở ngoài cửa, đem lửa đốt động”.
Tôn Tẫn nghe nói cười rằng:
“Cả gan cho thằng thất phu, dám tới động ta mà làm điều vô lễ như vậy? Tôn Yên, hãy kêu nó vào đây”. Tôn Yên bèn kêu Ban Báo trở vào, xem thấy Ban Báo hùng khí ngang ngang, đứng thẳng chẳng chịu quỳ. Tôn Tẫn nạt rằng:
“Ban Báo, mi đốt động ta, sao dám khi chủ vậy?” Ban Báo nói lớn rằng:
“Như ông xuống mà trả thù thì tự nhiên có phận chủ tớ, nếu không xuống là người bất nghĩa, ai nhìn đến ông mà làm chỉ” Mao Toại nói:
“Người này nói tuy lỗ mãng song có nghĩa khí khá dùng, vậy anh xuống núi mới phải cho”.
Tôn Tẫn nói:
“Anh cũng muốn đi, duy sợ Hải Triều thánh nhơn, nếu có sai lầm, thì biết lấy ai mà cứu giúp”. Mao Toại nói:
“Anh chớ lo chi điều đó, nếu anh mà xuống, có khi khốn khó, tôi là Mao Toại đây, không cứu anh, thì ngày sau phải chết dưới mũi gươm đao”. Tôn Tẫn nói:
“Mấy thưở được em có lòng tốt như vậy, thì ta lo gì”. (Nguyên vì Tôn Tẫn muốn cho Mao Toại giúp mình, nên cố ý không chịu đi, đê?
cho Mao Toại ép đi, đặng ngày sau Mao Toại phải giúp). Bèn dặn Lý Tòng thắng con thanh ngưu cho thầy xuống núi. Mao Toại nói:
“Như vậy thì phải rồi”. Bèn từ biệt về động.
Nói về Lý Tòng thắng thanh ngưu, và sắm đồ hành lý của mình rồi trở vào điện nói với thầy rằng:
“Tôi xin đi theo cùng thầy, mà giúp đỡ tay chân”. Tôn Tẫn gật đầu cho đi, rồi dặn dò đồng nhi gìn giữ động môn, bèn dắt chúng môn ra cửa động, làm phép chẳng đầy một khắc, đưa chúng nhơn đến cửa bên Đông thành Lâm Tri, quân binh vào phi báo. Tương Vương hối gát xe đặng ra nghinh tiếp. Tôn Tẫn thấy dạng xa xa, liền lật đật bước xuống thanh ngưu. Tôn Yên phò Tôn Tẫn đi bộ, bên kia Tương Vương thấy Tôn Tẫn, liền cũng xuống xe cúi mình nói rằng:
“Á phụ cách biệt đã lâu, làm cho trẫm thương nhớ khôn cùng”. Tôn Tẫn vội vàng cúi lạy, Tương Vương đỡ dậy, rồi dắt tay vào cửa ngọ môn, thẳng tới đại điện. Tôn Tẫn lại muốn làm lễ vua tôi, Tương Vương từ chối chẳng chịu bèn mời ngồi, nói rằng:
“Ngày trước ngự đệ đến đây cầu cứu, trẫm đã sai Viên Đạt, Lý Mục, qua Dịch Châu giải vây, đến nay chưa thấy tấu chương về, chẳng biết sự thể thế nào”.
Tôn Tẫn sa nước mắt tâu rằng:
“Hai người đều tử trận hết, mà báo ơn tri ngô.
cho bệ hạ”. Tương Vương nghe nói nửa tin nửa nghi, bỗng có quan Huỳnh môn vào tâu rằng:
“Bảo quốc công thác nơi trận, Hộ quốc công cướp dinh bỏ mình, nay quan quách đem về còn để ngoài thành”. Tương Vương nghe tấu khóc rống lên, Tôn Tẫn khuyên giải mới thôi, liền hạ chỉ đòi con Viên Đạt là Viên Cang, con Lý Mục là Lý Huân, đều vào điện, mà nối chức chạ Hai người tạ Ơn lui ra. Tôn Yên quỳ xuống trước mặt Tương Vương tâu rằng:
“Dịch Châu trông chờ cứu binh như cứu lửa, xin chúa thượng ra ơn, kíp phát cho một đạo binh mã đến cửa Dịch Châu”. Tương Vương nghe tâu, bèn hỏi Tôn Tẫn rằng:
“Chẳng hay Á phụ đi đây, muốn dùng bao nhiêu người ngựa?” Tôn Tẫn nói:
“Ba ngàn nhơn mã đủ dùng, mà tôi xin chúa thượng cấp sai chúng tướng núi Toàn sơn, đặng đivới tôi”. Tương Vương từ chịu, liền đòi chúng tướng vào điện. Chúng tướng vào lạy xưng hô xong rồi, ra mắt Tôn Tẫn. Tương Vương truyền chỉ cho binh mã ty, tức tốc điểm chọn ba ngàn quân binh ròng, tới ngọ môn hầu chỉ.
Rồi dạy bá quan tiệc cùng Á phụ tiễn hành. Tôn Tẫn uống ba chung ngự tửu, cúi đầu tạ Ơn, rồi dắt Tôn Yên cùng chúng tướng Toàn sơn, lạy từ Tương Vương ra đi. Tương Vương dẫn văn võ quan viên, đưa ra khỏi cửa triều môn.
Chương 9 : Nam quận vương dấy binh đánh giặc; Tôn Thoại Ba bị kiếm bỏ mình
Nói về Tề Tương Vương dẫn bá quan đưa ra triều môn, Tôn Tẫn tâu rằng:
“Xin bệ hạ trở lại, sách có chữ rằng:Tống quán thiên lý chúng tu nhứt biệt”. (Nghĩa là đưa người ngàn dặm, thì phải biệt nhau). Tương vương nói:
“Á phụ có đi hãy về cho chóng, kẻo trẫm đợi trông”. Nói rồi dạy quân quày xe trở lại. Tôn Tẫn thót lên thanh ngưu, dẫn mười hai tên học trò, kéo ba ngàn binh ròng, ra khỏi Lâm Tri, nhắm Dịch Châu thẳng tới.
Nói về Tần Thủy Hoàng ngày kia lên trướng, chúng tướng liền bái xong rồi, Thủy Hoàng hỏi rằng:
“Quốc sư có kế chi phá được thành Yên Châu chăng?” Kim Tử Lăng tâu rằng:
“Nước Yên không tướng, nên chẳng dám ra đánh, duy chỉ chờ binh của Tôn Yên cầu cứu, bây giờ Viên Đạt, Lý Mục chết rồi, thì vua tôi chúng nó thảy đều vỡ mật, nay ta chẳng đánh thì thôi, nết đánh ắt lấy thành dễ lắm”. Thủy Hoàng nghe tâu rất mừng, bèn truyền lệnh cho Vương Tiễn kéo binh đến thành giao chiến, phải lấy cho được tờ hàng biểu (lá cờ nước Yên xin hàng) nước Yên, mà đem về đây. Vương Tiễn lãnh mạng đề mâu lên ngựa kéo binh đến thành kêu lớn rằng:
“Bớ quân tuần thành hãy vào báo cùng Chiêu vương, mở cửa thành, dâng biểu quy hàng cho sớm, thì muôn việc đều xong, nếu mà chậm trễ đến lúc ta đánh phá thành, ăn năng sao kịp”. Quân giữ thành chạy vào địch lầu phi báo. Chiêu Vương nghe báo thất kinh, nói:
“Nay ta binh hèn tướng yếu, còn Tôn Yên cầu cứu cũng chưa về, bặt không tin tức, bây giờ đánh hay là giữ, hai lẽ khó phân, chi bằng nạp biểu xưng thần, thì quân dân khỏi đồ thán”.
Khuất Sảng tâu rằng:
“Nước ta mới thua một trận, há chịu khuất người sao?” Tuy binh Tần oai thế mạnh mẽ, song lương thảo còn được vài năm binh mã mười muôn, cũng đủ giữ thành, tôi liệu Tôn Yên cầu cứu, tối sớm đây ắt về, như có Tôn Tẫn đến, thì phá Vương Tiễn chẳng khó chi, dẫu binh Tần bá vạn đi nữa, cũng chẳng lo gì, nếu chịu quy hàng, chẳng những thiên hạ chê cười mà thôi, tôi tiếc vì cơ nghiệp tô?
tông sáng tạo nhọc nhằn, nay phải về tay người khác, như vậy thì há chẳng đau đớn lắm sao?” Chiêu Vương nói:
“Lời Thừa tướng nói nghe rất phải, song bây giờ Vương Tiễn đang khiêu chiến, làm sao lui nó được?” Khuất Sảng nói:
“Vậy phải treo tạm miễn chiếu bài, , còn trên thành gìn giữnghiêm ngặt, đặng chờ cứu binh, kế ấy rất hay”.
Chiêu Vương y theo lời tấu, truyền lệnh treo miễn chiếu bài, chẳng bao lâu quân vào báo nói:
“Vương Tiễn đập bể miễn chiếu bài, còn đang ở ngoài kêu đánh”. Chiêu Vương lật đật truyền lệnh bốn phía cửa thành, thêm binh gìn giữ, và để cây, gỗ, đá, gạch cho nhiều, phòng giữ binh Tần hãm thành.
Nói về Yên Đơn công chúa đang ngồi trên Ngân an điện, nhớ đến cha con Đô úy, ba người liều mình vì nước, mà chết nơi sa trường thì lụy nhỏ tuôn rơi, đang lúc buồn rầu, bỗng thấy gia tướng hơ hãi chạy vào, quỳ xuống bẩm rằng:
“Ngày trước tiểu chủ qua Đông Tề, xin binh cứu viện, Tề Tương Vương sai bảo Quốc công, Hô.
quốc công, hai vị lãnh binh đến phụ giúp, chẳng dè binh Tần đón đánh, hai quốc đều tử vong phi mạng, nay Vương Tiễn kéo binh đến đánh, đập bể miễn chiến bài, mười phần nguy cấp, nên tôi phải vào thông báo”. Công chúa nghe báo thất kinh, ngẫm nghĩ rằng:
“Viên Đạt, Lý Mục xưng bá núi Toàn Sơn, anh hùng vô địch, vì làm sao mà chết nơi tay Tần tặc, nay Vương Tiễn lại đánh thành, không người cự địch, nếu có sơ thất, ắt là vua tôi phải mang lấy hại”. Còn đang ngồi than thở một mình, không kế chi tính được, bỗng thấy Tôn Thoại Hoa quỳ xuống bẩm rằng:
“Hôm nay Vương Tiễn đánh thành rất gấp, ca ca cầu cứu chưa về, nếu binh Tần phá được thành trì, thì chẳng những cái cừu tổ phụ, không trả được mà thôi, lại làm cho trăm họ cả thành, phải mang tai họa, cháu tuy bất tài, xin ra ngựa bắt Vương Tiễn mà trả thù cho tô?
phụ, cầu xin tổ mẫu nhận lời”.
Công chúa nghe nói nạt lớn rằng:
“Mi là con nít tuổi chẳng bao nhiêu, ăn chưa biết no đói, ngủ còn lăn lộn không hay, vả lại mi là con gái, có tài cán chi bông nói phách”. Tiểu thơ cúi đầu bẩm rằng:
“Xin tổ mẫu bớt lòng giận dữ, cháu ngày trước nhờ bà Thánh mẫu ở núi Lê Sơn dạy truyền võ nghệ, chẳng phải cháu dám khoe khoang, như luận theo việc đao mã, thì có sợ chi thằng thất phu Vương Tiễn, nay thành trì bị khốn, nước nhà nghiêng ngửa, cũng như lửa cháy lông mày, thì nóng tới mắt, cháu quyết ý ra thành lui giặc, nếu tổ mẫu chẳng cho, đến lúc thành trì bị phá rồi ngọc đá cháy tan, cũng không khỏichết, thì mạng này dẫu sống cũng không ít gì”.
Nói rồi rút gươm đâm họng. Công chúa lật đật cản lại nói rằng:
“Cháu không nên lỗ mãng, để bà cho cháu đi”. Thoại Hoa bỏ gươm quỳ xuống, cúi đầu tạ Ơn.
Công chúa nói:
“Cháu muốn ra trận, vậy hãy theo bà vào triều, tâu cùng thánh thượng, tuyển chọn một đạo binh ròng, rồi sẽ ra trận”. Thoại Hoa nói:
“Cháu chẳng dùng binh mã cho nhiều làm chi, có năm trăm gia tướng đủ rồi”. Công chúa dạy đánh trống nhóm tướng, tức thì nơi Ngân an điện, trống vang như sấm, giây phút chúng tướng mang giáp đội mão, vào điện đứng phân hai hàng chầu chực. Công chúa nói:
“Sách có chữ rằng:
“Dưỡng quân thiên nhật, dụng tại nhất triêu (nghĩa là nuôi quân ngàn ngày, dùng quân một thưở.), ta nghĩ lại Thái lão gia, cùng nhị vị lão gia của chúng ngươi, đều chết ơi tay Tần tặc, thì họ Tôn ta hết trung đền nợ nước, thiệt rất thảm thương, hôm nay cô chúng ngươi là Thoại Hoa, muốn cùng tổ phụ tra?
thù, vậy ta khuyên các ngươi, khi ra trận nhớ ơn lão gia ngày thường nuôi dưỡng, mà hết lòng bảo hộ cô bây, chớ nên sơ thất, nếu đắc thắng về đây, ta sẽ trọng thưởng”.
Chúng tướng đều rập lên rằng:
“Chúng tôi nguyện ra sức chết, bắt cho được Vương Tiễn, mà trả cái thù Thái lão gia”. Lúc ấy tiểu thơ trở vào Hường phòng nai nịt tề chỉnh lên điện lạy từ Tổ mẫu, cùng Mẫu thân đề đao lên ngựa, dẫn năm trăm gia tướng, ra khỏi phủ môn. Công chúa xem thấy tiểu thơ oai dõng phi phàm, trong lòng có ý mừng thầm, liền vội vã gát xe vào triều, tâu cùng Chiêu Vương. Chiêu Vương nói:
“Chẳng dè tôn sanh nữ (là cháu gái kêu bằng cậu.) lại có tài năng như vậy. Vậy hãy dạy gát xe để trẫm cùng ngự muội lên địch lầu xem coi”.
Nói về Vương Tiễn nghe tiếng pháo nổ, cửa thành mở hoác thì biết là tướng Yên ra trận, bèn lui ngựa vài bước, ngước mặt lên xem thấy hai cây cờ trắng, một đội binh phò một viên nữ tướng, mặt mày xinh tốt, lịch sự vô song, oai phong lẫm liệt, dường như một vầng tuyết trắng sa xuống đất. Vương Tiễn xem rồi, nạt rằng:
“Nữ tướng kia, hãy thông tên họ đã”. Bên kia tiểu thơ nghe tiếng nạt hỏi, thì dừng ngựa lại xem, thấy trước mặt một viên đại tướng, ngựa đen, mâu đen, mặt như lọ chảo, thì biết là cừu nhơn Vương Tiễn, bèn đáp rằng:
“Ta là cháu Yên Sơn Đông phủ phò mã công, con gái Phó tổng binh, họ Tôn tên Thoại Hoa, thằng đen, mi có phải là Vương Tiễn chăng? Mi giết tổ phụ ta ba mạng, cái cừu ấy chẳng đội chung trời”.
Nói dứt lời, hai tay hươi đao chém sả, Vương Tiễn cử mâu lên đỡ; cười lớn tiếng rằng:
“Cô nương hãy dừng tay lại, ta xem cô nương tuổi còn thơ ấu, diện mạo nhưthế, lẽ thì ở sâu màn thêu, tém mày cài tóc, sao đi lộ mặt chán chường, đem thân vàng ra mà chịu chết, há chẳng uổng lắm sao?” Tiểu thơ nghe nói mặt mày hổ thẹn, nạt rằng:
“Tần tặc, chớ nói bậy”. Liền giục ngựa lướt tới, nhắm ngay đầu Vương Tiễn chém xuống. Vương Tiễn hươi mâu đỡ khỏi, rồi đánh vùi đến tám mươi hiệp, Thoại Hoa liệu bề dùng sức khó hơn, bèn chém bậy một đao, quày ngựa bỏ chạy, Vương Tiễn rượt nà theo, tiểu thơ quay đầu ngó thấy Vương Tiễn ở sau rượt tới, trong lòng rất mừng bèn dừng đao, vói trên tóc rút một cây trâm kêu là Tú Huê trâm, để trên bàn tay, niệm thần chú, tức thì bửu bối bay bổng trên không, lớn như miệng chén, nhắm ngay đầu Vương Tiễn bay xuống, tiểu thơ nạt rằng:
“Thằng đen, chớ ỷ tài mạnh, hãy coi bửu bối của ta”.
Lúc ấy Vương Tiễn đang rượt theo, nghe tiếng kêu nói, thì thất kinh, ngước mắt ngó thấy bửu bối, hào quang chói sáng, nhắm ngay đầu chém xuống, trở không kịp, bị bửu bối đánh nhằm vai, té nhào xuống ngựa, hôn mê bất tỉnh. Tiểu thơ thấy Vương Tiễn rớt xuống rất mừng, liền quày ngựa hươi đao tới chém. Lúc ấy Vương Bôn lược trận, xem thấy nghĩa phụ mình bị té, lật đật dẫn tám tên phó tường xông ra giựt thây Vương Tiễn, mà đem về. Tiểu thơ giận lắm, hươi Tú lang đao giục ngựa đào huê, dẹp đông, đánh tây, phá nam, giết bắc, binh Tần bốn phía vỡ tan, rồi rượt đến dinh Tần. Chiêu Vương cùng Yên Đơn công chúa ở trên địch lầu, xem thấy rất mừng nói:
“Ngự sanh nữ quả nhiên mạnh mẽ, thiệt là một đấng trượng phu con gái”.
Yên Đơn nói:
“Nhờ phước chúa thượng, chớ chi nó đánh chết được Vương Tiễn, mới trả cái thù cha con Đô uý”.
Nói về Thủy Hoàng đang cùng Kim Tử Lăng thương nghị phá thành, bỗng nghe quân báo nói:
“Tiên hành quan ra trận, bị viên nữ tướng dùng bửu bối đánh nhào xuống ngựa, đã khiêng về dinh, mà tên nữ tướng ấy, rất nên lợi hại, đánh luôn tám viên phó tướng, đều thua, và phó tiên hành quan cự không nổi, bị một roi chạy dài, bây giờ đánh đến cửa dinh không ai dám cự, xin bệ hạ định”. Thủy Hoàng nghe báo mặt mày thất sắc ngơ ngẩn hồi lâu, Kim Tử Lăng hỏi rằng:
“Có ai dám ra giặc chăng?” Lúc ấy có một tướng, ứng tiếng xin đi, Kim Tử Lăng coi người ấy là phó tướng Lý Thuận thì nói:
“Tướng quân có ra trận phải giữ gìn cẩn thận”. Lý Thuận vâng lệnh, đề đao lên ngựa phát pháo ra dinh. Thoại Hoa xem thấy một đội quân mã xông ra nạt lớn rằng:
“Tướng kia hãy thông tên họ”. Lý Thuận nói rằng:
“Ta là phó tướng Lý Thuận, mi tài cán bao nhiêu mà dám ở trước dinh hung hăng như thế?” Tiểu thơ nghe nói giận lắm, nạt rằng:
“Tặc tướng, sức mi chẳng mấy lăm hơi, sao dám khi dễ cô nương lắm vậy?” Nói rồi hươi đao chém tới, Lý Thuận vội vàng rước đánh, đánh chưa mấy chập, thương đà lết bết, cẳng ngựa thối lui, rồi bị Thoại Hoa cho một đao té nhào xuống ngựa, tiểu thơ bèn dừng ngựa, dạy gia tướng kêu đánh. Thủy Hoàng nghe báo nộ khí xung thiên, nói rằng:
“Đứa con gái nhỏ, mà đánh không lại, vậy chớ nói bình phục sáu nước gì?” Tử Lăng tâu rằng:
“Xin bệ hạ giảm cơn thịnh nộ, va?
chăng nữ tướng này, có tà thuật hại người, không ai đánh lại xin tạm treo miễn chiến bài chờ cho Tiên hành quan dấu thương lành mạnh, rồi sẽ toan mưu bắt nó, cũng chẳng muộn chi”. Thủy Hoàng túng phải nghe theo, đem miễn chiến bài treo lên cửa dinh. Tiểu thơ xem thấy thâu binh về thành. Chiêu Vương cùng công chúa rất mừng, bày yến thưởng công, rồi tiểu thơ cùng tổ mẫu về phủ.
Nói về Vương Tiễn bị cái Tú huê trâm của Thoại Hoa đánh nhằm vai nhào xuống ngựa, chúng tướng khiên về dinh, mê sảng chẳng biết chi hết, Thủy Hoàng lật đật hối cởi giáp, coi nơi dấu thương lớn như miệng chén, sưng cao ba tấc, dấu thương rất nặng, Tử Lăng tâu rằng:
“Chúa thượng chớ lo, lúc tôi xuống núi có đem theo một hườn linh đơn, có thể cứu đặng”. Thủy Hoàng rất mừng nói:
“Nếu có linh đơn, thì hãy điều trị cho mau”. Kim Tử Lăng dạy đem nước, hòa thuốc linh đơn, đặt nơi dấu thương, còn nửa hườn, thì cạy răng cho uống, giây phút tâm thần chuyển động, dấu thương lành như cũ, ngồi dậy ngó thấy Thủy Hoàng, cùng quân sư, nguyên soái, thì lật đật quỳ lạy tạ Ơn, Thủy Hoàng hỏi rằng:
“Vì sao mà Tiên hành quan bị nữ tướng làm hại như vậy”.
Vương Tiễn nói:
“Con liễu đầu Thoại Hoa tuổi tuy còn nhỏ, mà đao mã tinh nhuần, lại có bửu bối rất nên lợi hại, lúc nọ tôi ơ hờ, cũng chẳng đề phòng, nên lầm tay địch thủ”. Nguyên soái nói:
“Lúc Tiên hành quan bị thương, còn Vương Bôn bi.
roi thua chạy, con liễu đầu rất nên dữ tợn, đao chém Lý Thuận, đánh giết ba quân vỡ mật, nên phải treo miễn chiến bài, nó mới chịu kéo binh trở về”. Vương Tiễn nghe nói, giận lắm hét lên như sấm mà rằng:
“Xin thánh thượng hãy mau truyền dẹp cái miễn chiến bài, để cho tôi ra bắt con tiện tỳ liễu đầu, chặt làm muôn khúc, mới hết nư giận”. Thủy Hoàng nói:
“Tướng quân trong mình mới mạnh, hãy an dưỡng tinh thần làm trọng”. Rồi truyền bày tiệc, ăn mừng Tiên hành quan đạng sống lại, vua tôi ăn uống đến khuya mới tan. Qua ngày thứ, Vương Tiễn từ biệt Thủy Hoàng, nai nịt hẳn hòi, đề mâu lên ngựa, ra dinh kêu quân tuần thành nói rằng:
“Chúng bây mau vào báo với Chiêu Vương, hãy sai liễu đầu Thoại Hoa ra mà chịu chết”. Quân nhân vào báo, Chiêu Vương nghe báo thất kinh, truyền đến phủYên Sơn Thỉnh Yên Đơn công chúa cùng Thoại Hoa đến đây, giây phút công chúa và tiểu thư đều đến Địch lầu lạy ra mắt.
Lạy ra mắt xong rồi, Chiêu Vương nói:
“Hôm qua trẫm cùng ngự muội lược trận, ngó thấy Vương Tiễn trúng bửu bối té nhào xuống ngựa, trẫm kể chắc thằng giặc ấy mười phần đã chết hết chín, không dè nó chẳng hề chi, nay lại đến kêu thành, chỉ quyết Tôn sanh nữ ra trận, nên mời ngự muội đến mà thương nghị”. Thoại Hoa tâu rằng:
“Xin chúa thượng chớ lo, chẳng phải tôi dám khoe khoang lỗ miệng, nếu phen này tôi ra trận, thì ắt bắt sống Vương Tiễn mà đem về đây”. Công chúa nói:
“Cháu có đi, phải giữ gìn cho cẩn thận”. Chiêu Vương truyền đem rượu, bổn thân kỉnh ba chung ngự tửu, tiểu thơ cúi đầu tạ Ơn, uống rồi từ giã dẫn gia tướng phát pháo ra thành.
Vương Tiễn xem thấy xông ra một đạo quân mã, bèn nạt lớn rằng:
“Bớ tiện tỳ có ta chờ đây đã lâu, sao mi không xuống ngựa chịu trói cho rồi, khỏi nhọc công ta ra sức”. Tiểu thơ giận lắm, mắng rằng:
“Thằng giặc thua, mi không biết cô đây lợi hại thế nào hay sao? Còn dám đến diệu võ giương oai, hãy coi ta lấy đầu mi”. Nói dứt lời, giục ngựa xông tới, múa Tú loan đao mau như chớp, nhắm ngay mặt Vương Tiễn đâm tới. Vương Tiễn hươi mâu hất ra, cả hai đánh nhau một trận, thiệt là kỳ phùng địch thủ, tướng ngộ lưỡng tài, đánh đến sáu mươi hiệp chưa định hơn thuạ Thoại Hoa lòng khôn trí xảo, liệu dùng sức khó hơn, liền quày ngựa thối lui vài bước, dùng thế diệp lý tàng huê, Vương Tiễn xốc tới nhắm ngay bụng đâm qua, tiểu thơ dùng đao gạt khỏi, ngựa mau người lẹ, đánh Vương Tiễn một roi rất mạnh, nhằm vai đứt giáp.
Vương Tiễn hoảng kinh, quày ngựa bỏ chạy, Thoại Hoa đuổi theo, Vương Tiễn quay lại ngó thấy Thoại Hoa rượt tới, bèn lấy bửu kiếm, kêu lớn rằng:
“Tiện tỳ, mi chớ hung hăng, hãy coibửu kiếm của ta chém đầu”. Tiểu thơ đang giục ngựa rượt theo, nghe nói, ngước mặt lên, thấy một vầng mây có cây bửu kiếm sáng ngời, nhằm ngay đầu bay lại, vừa muốn tránh, mà tránh không kịp, bị chém đầu rơi xuống ngựa, năm trăm gia tướng ngó thấy, đều la lớn lên áp giựt thây, khiêng chạy về thành, còn Vương Tiễn bị một roi, chẳng dám đánh nữa, kéo binh về dinh.
Nói về Chiêu Vương cùng Yên Đơn công chúa, ở trên Địch lầu đang nghị luận việc binh tình, bỗng nghe Huỳnh môn quan vào tâu rằng:
“Thoại Hoa bị chết nơi bửu kiếm của Vương Tiễn rồi”. Vương Tôn nghe nói khóc ngất, Chiêu Vương cũng sa nước mắt, khuyên giải nói rằng:
“Chết rồi đâu có sống lại, thôi chớ ưu bi”. Công chúa dạy đem thây tiểu thơ về phủ, sắm quan quách Tẫn liệm, để nơi chái điện chánh. Cao, Ly hai vị phu nhân hay đặng khóc ròng. Chiêu Vương sai quan đến tế.
Nói về Nam Quận vương Tôn á phụ, đái lãnh ba ngàn người ngựa, cùng Tôn Yên và các tướng núi Toàn Sơn, nhắm Dịch Châu tuốt đến, đi vài ngày, tới cửa Tây môn nước Yên, cách thành mười dặm, an dinh hạ trại xong rồi, Tôn Tẫn lên trướng, các tướng ra mắt, đứng hầu hai bên. Tôn Tẫn nói:
“Chúng ta vì cứu viện, nên mới đến đây, trong thành chưa hay tin tức, có ai dám vào thành thông báo chăng?” Tôn Yên nói:
“Tiểu điệt xin đi”. Bỗng thấy sau lưng một người ứng tiếng lên nói:
“Tôi xin đi cùng tiểu chủ tôi”.
Tôn Tẫn ngó lại nói rằng:
“Mi đi làm chỉ” Ban Báo bước tới, quỳ xuống bẩm rằng:
“Tôi là gia tướng của họ Tôn, tên Ban Báo, xin bảo hộ tiểu chủ vào thành thông tin”. Tôn Tẫn nói:
“Mi đi không được đâu, vì nơi ấn đường của mi có dạng hắc khí, nếu đi thì ắt hung nhiều kiết ít”. Ban Báo nói:
“Tam lão gia ôi! Tôi sanh có giờ, chết có ngày, chớ nói hắc khí bạch khí gì, dẫu đao kề trên cổ, tôi chẳng rùng mình, lúc nọ tôi bảo hộ tiểu chủ, đánh ra trùng vây mà đi cầu cứu, nay cũng nguyện theo tiểu chủ xông qua dinh Tần, vào thành báo tin, cho trọn thủy trọn chung, kiết hung hai chữ, tôi chẳng lo gì”. Nói rồi lui ra nai nịt, theo Tôn Yên vào trướng bái từ, lên ngựa mà đi, ra vài dặm. Tôn Yên quay lại hỏi Ban Báo rằng:
“Bây giờ đi đường quanh, hay là đường thẳng?” Ban Báo nói:
“Đi đường quanh vào cửa Nam môn xa hơn, còn đi đường thẳng vào cửa Tây môn rất gần”.
Tôn Yên nói:
“Đường xông qua dinh Tần, ắt chẳng khỏi một trận đại chiến”.
Ban Báo nói:
“Lúc trước lãnh thơ ra đi còn đạp phá dinh nó đặng, huống chi nay cầu cứu về đây, lại sợ gì, thôi hãy đi đường thẳng cho gần”. Tôn Yên nói:
“Phải, vậy ta đi trước dẹp đường ngươi theo sau nối gót”. Nói rồi quất ngựa chạy tới dinh Tần, kêu lớn rằng:
“Các người tránh ta đi thì sống, cự ta thì chết”. Hai người vào nơi ngàn quân muôn ngựa, như cọp tuôn vào bầy dê, đến đâu tan đó, xa thì thương đâm, gần thì giàn đánh, đánh nhầu một trận, binh Tần ngã lăn, than khóc vang trời, vỡ tan chạy ráo, quân vào phi báo.
Vương Tiễn hét lên rằng:
“Cả gan cho thằng Tôn Yên, dám phá dinh ta, không biết nó đi thỉnh ai về đó, vậy ta ra coi thử thế nào”. Nói rồi nai nịt đề mâu lên ngựa, dẫn chúng tướng xông ra đại binh, vừa gặp Tôn Yên đang đánh tưng bừng. Vương Tiễn ngó thấy giận lắm quất ngựa lướt tới, hươi mâu chỉ mà hỏi rằng:
“Tướng kia có phải là Tôn Yên không? Mi khí lực bao nhiêu mà dám phá binh tả” Lúc ấy Tôn Yên đang đánh cướp đường mà đi, nghe có tiếng người kêu hỏi, xem thấy một tướng mão đen, giáp đen, mâu đen, thì biết là Vương Tiễn đón ngăn đường đi, cừu nhơn lại gặp cừu nhơn, bèn nạt lớn rằng:
“Thằng đen, có phải là Vương Tiễn chăng? Ta quyết kiếm cho đặng mi, chém làm muôn khúc, màrửa lòng hờn, mi lại muốn đến ngăn đường ta sao?” Nói rồi hươi thương đâm tới, Vương Tiễn lật đật rước đánh, đánh đến hai chục hiệp chẳng phân hơn thua, Ban Báo kêu lớn rằng:
“Vương Tiễn chớ chạy có ông mi tới đây”. Nói rồi giục ngựa hươi giản đánh nhầu, Vương Bôn thấy Ban Báo rất nên hung dữ, bèn dẫn chúng tướng ra một lượt, áp lại phủ vây. Ban Báo mạnh bạo vô cùng, cặp giản đánh Vương Bôn cùng tám viên phó tướng, cả thua chạy dài, dinh trại tan hoang.
Ban Báo quày ngựa bắt sau lưng đánh tới, Vương Tiễn cự không nổi, đâm bậy một mâu quày ngựa bỏ chạy. Tôn Yên, ở sau rượt tới, Vương Tiễn quay đầu ngó thấy nói rằng:
“Tiểu oan gia không biết sống chết thế nào, cứ rượt theo ta hoài vậy, thôi để ta lấy bửu kiếm giết nó cho rồi, song nó hai đứa rượt theo mà cây gươm này giết đặng một chớ không giết đặng hai, nếu chém Tôn Yên rồi, thì Ban Báo dữ tợn, đâu khứng bỏ qua”. Còn đang suy nghĩ, bỗng thấy Tôn Yên rượt đến rất gấp, bèn liệng bửu kiếm lên, nạt rằng:
“Tôn Yên hãy coi bửu kiếm ta giết mi”.
Chương 10 : Ý gươm linh giết tan Yên tướng – Dùng phép ma đá liệng binh Tần.
Nói về Tôn Yên nghe nói bửu kiếm, thì biết là lợi hại, bèn dừng ngựa ngước mặt lên xem, ngó thấy bửu kiếm nhắm ngay đầu bay lại, hồn phi phách tán, Ban Báo chạy sau kêu lớn rằng:
“Tiểu chủ sao không quất ngựa vọt tới, mà bắt sống thằng Tần tặc, đặng có trả thù cho thái lão gia, vì sao mà dừng ngựa đứng ngó trân trân đó vậy”. Tôn Yên nói:
“Bửu kiếm tới kìa, mạng ta phải chết trước rồi”. Ban Báo nói:
“Sợ gì, bửu kiếm ở đâu bây giờ?”. Tôn Yên lấy tay chỉ nói:
“Kia kìa, không phải bửu kiếm hay sao?” Ban Báo ngước mặt lên, thấy trong vầng mây, có ngọn bửu kiếm sáng ngời, cách đầu chẳng xa, liền nói không xong rồi thôi phải chạy cho mau. Tôn Yên nói:
“Phải, hễ là phép thuật tà ma, chạy khỏi trăm bước thì không hề chi”. Bèn quày ngựa nhắm cửa thành Dịch Châu chạy tuốt. Ban Báo quất ngựa chạy theo. Lúc ấy bửu kiếm ở giữa thinh không xoay vần nhắm ngay Tôn Yên rout xuống. (Vốn Tôn Yên là sao kim tinh trên thượng giới đầu thai có mạng làm vua ba năm sáu tháng, nơi nước Triệu đất Hàng Đang, thì làm sao hại va cho đặng) Lúc ấy bửu kiếm bay xuống tới đầu Tôn Yên, tức thì nơi nê hườn hiện ra một con rồng vàng năm móng, mà đỡ cây gươm, vẫn gươm ấy là như ý bửu bối, bị rồng vàng ngăn đỡ, liền bay vẹt ra, xảy đâu Ban Báo chạy tới, vừa gặp ngọn gươm chặt một cái đứt làm hai đoạn.
Tôn Yên nghe sau lưng có tiếng vang rân, xoay đầu ngó thấy Ban Báo bị bửu kiếm té nhào xuống đất, lòng rất thương xót, nước mắt như mưa, khá tiếc thay một viên hảo hán, chết nơi tay Tần tặc, Tôn Yên chẳng dám diên trì, giục ngựa chạy qua điếu kiều, kêu quân giữ thành mở cửa, quân tuần thành nhìn biết Tôn Yên, liền chạy vào báo cùng Chiêu Vương, nhứt điện cho vào.
Nói về Chiêu Vương cùng Khuất Sảng ở nơi Địch lầu, đang lo kế giữ thành, bỗng nghe nói Tôn Yên về đến, Khuất Sảng đến thành tiếp rước. Tôn Yên ngó thấy Chiêu Vương, bèn quỳ lạy ra mắt. Chiêu Vương rất mừng nói:
“Ngự sanh hãy đứng dậy, chẳng hay việc cầu cứu ra thế nào?” Tôn Yên tâu rằng:
“Nhờ hồng phước chúa thượng, tiểu thần lên núi Thiên Thai, thỉnh đặng chú tôi là Tôn Tẫn xuống núi, dẫn binh đến giúp, bây giờ còn đóng đinh ngoài thành, nơi phía Tây, nên tôi vào thông báo”. Chiêu Vương nghe nói mừng lắm, liền dạy gát xe về trào, các quan theo vào kim loan điện; Chiêu Vương lên điện, Khuất Sảng viết chỉ mời Tôn Tẫn, và sai tám viên đại thần cùng năm trăm ngự lâm quân, theo Tôn Yên ra cửa phía Nam, đi vòng qua dinh, thỉnh Tôn Tẫn vào thành.
Nói về Vương Tiễn đắc thắng về dinh, ra mắt Nguyên soái nói rằng:
“Nay Tôn Yên qua Lâm Tri cầu cứu, và lên núi Thiên Thai thỉnh Tôn Tẫn. Tôn Tẫn dẫn binh đến giúp, còn đóng binh ngoài cửa Tây mô thành Dịch Châu, khi nãy Tôn Yên phá dinh mà đi, bị tôi dùng bửu kiếm giết tên gia tướng đó, còn Tôn Yên thua chạy vào thành, nên phải đến bẩm cùng Nguyên soái”. Chương Hàng nghe nói thất kinh, mồ hôi ra ướt áo, ngơ ngẩn hồi lâu. Vương Tiễn hỏi rằng:
“Vì làm sao Nguyên soái nghe Tôn Tẫn đến, mà thất sắc như vậy?” Chương Hàng nói:
“Tướng quân chưa rõ, nguyên Tôn Tẫn lên núi Vân Tịch, học đặng ba cuốn thiên thơ, hay biết việc vị lai quá khứ, thần thông quảng đại, đao pháp vô cùng, các nước nghe danh đều vỡ mật, ta với ngươi không bằng cái móng tay người, chi bằng tâu cùng Thánh Thượng, thâu binh trở về cho khỏi ba quân bị khốn”. Vương Tiễn cười rằng:
“Nước Tần ta ứng vận đương hưng, dẹp an sáu nước, hễ chánh thiên tử thì có bá linh phò giúp, Tôn Tẫn há làm hại đặng sao? Xin Nguyên soái chớ lo, để cho tôi đánh nó một trận, định quyết hơn thua”. Nói rồi từ biệt về dinh.
Nói rồi Tôn Yên lãnh chỉ dẫn tám viên đại thần, năm trăm ngự lâm quân, đi đến trước dinh, xuống ngựa vào dinh, ra mắt Tôn Tẫn, mà thưa rằng:
“Có chiếu chỉ của vua đến, xin chú hãy kíp ra cho mau, đặng tiếp chỉ”. Tôn Tẫn nghe nói lật đật truyền bày hương án, mở hoác cửa dinh, bước ra nghinh tiếp để chiếu lên bàn hương án, cúi đầu quỳ lạy, rồi cùng chúng vị đại thần ra mắt, truyền lệnh nhổ dinh, đi theo đường quanh vào thành, giây phút đến cửa Nam môn, quan quân mở cửa tiếp rước. Tôn Tẫn dẫn chúng tướng vào thành đến cửa Ngọ môn, bước xuống thanh ngưu, chúng tướng cũng đều xuống ngựa, theo Nam quân vương vào đến Kim loan điện. Chiêu Vương xem thấy, vội vàng dẫn bá quan bước xuốn đơn trì. Tôn Tẫn quỳ lạy. Chiêu Vương lấy tay đỡ dậy, dắt lên đại điện mời ngồi. Tôn Tẫn tạ Ơn. Tôn Yên, Lý Tòng cùng chúng tướng tung hô dưới thềm. Chiều Vương ngó xuống, thấy chúng tướng ngườigiáp đỏ, kẻ giáp xanh, mạnh tợ thiên thần dữ như lang hổ, bèn hỏi:
“Mấy người này ở đâu mà đến đây?” Tôn Tẫn nói:
“Chúng tướng ở bên Lâm Tri”. Chiêu Vương truyền chỉ cho dạy, rồi dạy bày yến chay nơi chùa Quan Lộc, đặng tiếp đãi Tôn Tẫn, còn chúng tướng thì đãi riêng nơi thiền điện, giây phút vua tôi vào tiệc, rượu đến ba tầng.
Chiêu Vương nói:
“Nước trẫm binh hèn tướng ít, nay bị vua Tần khi nhục, dấy binh xâm phạm, xin nhờ Ngự sanh (Tôn Tẫn) phụ giúp, nếu bắt được Vương Tiễn mà lui binh Tần, thì trẫm hậu báo”. Tôn Tẫn nói:
“Các nước hưng suy đều do mạng trời, một là nhờ chúa thượng hồng phước, hay nữa tôi ra tài phép, làm cho lê thứ thành Dịch Châu khỏi cơn đồ thán, như muốn bắt Vương Tiễn thì chẳng khó chi”. Nói rồi vua tôi uống vùi một tiệc, Tôn Tẫn cáo từ, ra cửa Triều môn, cầm gậy thót lên lưng trâu, chúng tướng theo sau, đi đến Yên Đơn phủ. Thừa phụng quan vàothông báo.
Yên Đơn công chúa cùng hai vị phu nhân, đang lúc thương nhớ buồn rầu, bỗng nghe Thừa phụng quan bẩm rằng:
“Nay thiếu chủ qua Lâm Tri cầu cứu, và lên núi Thiên Thai thỉnh tam lão gia xuống giúp, còn ở ngoài cửa, nên tôi phải vào thông báo”.
Yên Đơn nghe nói, đổi rầu làm vui.
Cao, Lý hai vị phu nhân, vội vàng phò công chúa bước xuống Ngân an điện, ngó thấy Tôn Tẫn chống gậy đi vào, đội mão tam sa, mặc áo bào sanh, lưng giắt cờ vàng, tay chống gậy trầm hương. Công chúa xem thấy hình dung như vậy, nước mắt chảy tuôn. Tôn Tẫn thấy mẹ tóc bạc như sương, lòng rất thương cảm, quỳ xuống nói rằng:
“Con bất hiếu là Tôn Tẫn về đây lạy ra mắt mẹ”. Công chúa hai tay ôm lấy Tôn Tẫn khóc rống lên, kêu:
“Con ôi! Mẹ không có tội chi với con, tình nuôi dưỡng con không tưởng đến, vì sao con bỏ mẹ mà đi tu hành”. Cao, Lý hai vị phu nhân thấy Tôn Tẫn thì khóc oà, nơi Ngân an điện,tiếng khóc nghe thảm thiết, cả phủ không ai mà chẳng rơi lụy.
Hai vị phu nhân khuyên giải hồi lâu, Tôn Tẫn lau nước mắt, bước tới linh cữu, nghiêng mình cúi lạy, ngó thấy ba cái linh cữu một hàng, lòng như dao cắt, dưỡng tánh cao sơn, đâu rõ cha, anh thác trốn sa trường, nhờ có Tôn Yên lên núi cầu cứu, nay con đem binh về đây, quyết bắt Vương Tiễn chém làm muôn khúc, mà trả cái cừu sâu, xin hồn linh cha, anh, thứ tội bất hiếu cho con. Tôn Tẫn khóc ròng một hồi, cúi đầu xuống đất, bất tỉnh như say ngất, Tôn Yên bước tới đỡ dậy, khuyên giải rằng:
“Chú không nên qúa bi thương, e động lòng tổ mẫu”.
Tôn Tẫn nghe nói, bèn lau nước mắt, Tôn Yên quay đầu ngó thấy nơi chái phía Đông, để một cái quan tài, lòng rất hồ nghi, hỏi tồ mẫu rằng:
“Cái quan cữu ấy của ai vậy?” Công chúa nghe hỏi rơi lụy nói:
“Từ lúc cháu đi cầu cứu rồi, Tần tặc Vương Tiễn thường đến phá thành, em cháu lòng cưu trung hiếu, muốn trả thù cho tô?
phụ, không dè ra đánh bị chết nơi gươm Vương Tiễn”. Nói rồi khóc oà, Tôn Yên nghe nói, nước mắt chảy tuôn:
“Hiền muội ôi! Lúc anh đi thì em trước điện đưa anh, nay anh về lại xa cách”. Bèn hét lên một tiếng rằng:
“Rất giận thay Vương Tiễn giết cả nhà ta bốn mạng, thiệt cừu sâu như biển, oán lớn tợ non, đâu giết nó đặng, cũng chưa phỉ lòng”. Khóc vùi và đấm bụng dậm chân.
Yên Đơn công chúa nói:
“Cháu hãy bớt lòng thương xót, mạng số em cháu đến đó mà thôi, dẫu khóc cũng không sống lại”. Kế thấy chúng tướng núi Toàn Sơn kéo vào ra mắt. Công chúa xem khắp hai bên, chẳng thấy Ban Báo, bèn hỏi Tôn Yên rằng:
“Ban Báo ở đâu không thấy?” Tôn Yên nói:
“Ban Báo quả thiệt anh hùng, theo cháu vào xông pha dinh Tần, nơi núi Kinh Kha giải khỏi trùng vây, lên núi Thiên Thai, thỉnh chú tôi, về đến Dịch Châu, rồi theo cháu vào thành báo tin,xảy gặp Vương Tiễn, đánh một trận bị nó dùng bửu kiếm, cháu may thoát khỏi, còn lúc ấy Ban Báo ở sau, chết nơi bửu kiếm, khá tiếc thay người chung dũng như vậy, mà tư?
vu phi mạng”.
Công chúa lấy làm thương tiếc, rồi dạy bày tiệc khoản đãi Tôn Tẫn. Tôn Tẫn nói:
“Khi nãy con đã có dùng yến nơi triều rồi”. Công chúa nói:
“Như vậy thì đem trà đây, đặng ta cùng con ta uống, mà chuyện vãn”. Khi ấy mẹ con bày tỏ chuyện nhà.
Qua ngày thứ, Tôn Tẫn thức dậy vào cung thăm mẹ, nói rằng:
“Con xin vào triều lo toan việc nước”. Công chúa nói:
“Tốt lắm song mỗi việc con phải tiểu tâm cẩn thận”.
Tôn Tẫn vâng lời, lạy từ mẫu thân cùng hai chị dâu, dẫn mười hai tên học trò, vào triều ra mắt Chiêu Vương, xin ra hội chiến, Chiêu Vương an ủi một phen. Tôn Tẫn dẫn chúng tướng và một muôn binh ròng, ra cửa phía Tây thành Dịch Châu, phát ba tiếng pháo, an dinh hạ trại, xây dựng thành sa đạitrướng. Tôn Tẫn ngồi giữa, chúng tướng đứng hầu hai bên. Tôn Tẫn truyền các tướng canh giữ nghiêm trang, kẽo Tần binh ám toán, rồi các tướng ai về dinh nấy.
Nói về Nguyên soái nước Tần là Chương Hàng, vì nghe Tôn Tẫn đóng dinh cửa Tây, trong lòng buồn bực chẳng vui, Vương Tiễn bẩm rằng:
“Nguyên soái mặc chớ lo lường, tôi tuy bất tài, xin ra trận đầu thám coi binh nó hư thiệt thế nào?” Chương Hàng nói:
“Tôn Tẫn đao pháp cao cường, lại hay sai thần khiến quỷ, sai đậu thành binh, thưở trước Bàng Quyên nơi đường mã lục, bị loạn tên của va mà chết, bảy nước phân thây, còn Nhạc Nghị là người anh hùng bực nào, mà chẳng khỏi làm con quỷ bi.
tên. Tiên hành quan có sức mạnh, song không phải là tay đối thủ với va”. Vương Tiễn nghe nói giận lắm đáp rằng:
“Mai tướng bất tài, xin ra cùng Tôn Tẫn giao chiến, như Nguyên soái muốn bắt sống thì tôi dẫn nó về dinh, còn muốn cho nó chết, thì tôi cắt thủ cấp dâng lên”.
Nói rồi quày trở xuống, dẫn bộ hạ, đề mau lên ngựa, xông tới dinh Yên, xem thấy trong dinh gươm đao chơm chởm, sâu hào cao lũy, binh tuy chẳng có bao nhiêu, song rất tề chỉnh nghiêm trang, coi rồi có ý khen thầm, bèn dạy quân đến dinh khiêu chiến, quân binh vâng lệnh, xông tới cửa dinh kêu lớn rằng:
“Bớ quân tuần thành, hãy báo cho Nam quận vương biết, biểu nói mau mau ra dinh đưa cổ chịu chém cho rồi”.
Quân vào phi báo, Tôn Tẫn nghe báo nổi giận nói rằng:
“Cả gan cho Vương Tiễn khi người thái quá, ta mới đến hôm qua, nay nó lại khiêu chiến”. Ý muốn sai tướng ra đánh, sợ bửu kiếm rất nên lợi hại, bèn cúi đầu suy tính, Tôn Yên xem thấy Tôn Tẫn làm thinh, không sai tướng cũng chẳng phát binh, thì nín không đặng, vỗ tay dậm cẳng, đứng ngồi chẳng yên, kế thấy quân vào báo nữa, nói Vương Tiễn ở ngoài dinh chửi mắng om sòm, Tôn Tẫn truyền lệnh Tôn Yên, Lý Tòng cùng Toàn Sơn chúng tướng, đến nghe lệnh dạy, chúng tướng rất mừng, ngỡ là sai mình ra trận, người người hăm hở bước ra, bẩm rằng:
“Chẳng hay sư phụ đòi chúng tôi, sai khiến việc chỉ” Tôn Tẫn nói chúng ngươi hãy về dinh an nghỉ, không hiệu lệnh ta đòi, thì chẳng đặng vào trướng, bằng trái lệnh cứ theo quân pháp trị tội”. Chúng tướng nghe nói trong lòng rất đỗi buồn bực, kéo nhau trở về dinh. Tôn Tẫn thấy chúng tướng về hết, thì đứng dậy vào hậu dinh, chân đạp la hẩu, lấy cây Hạnh Huỳnh kỳ chỉ qua phía Nam miệng niệm thần chú, xảy thấy quan Trĩ nhật công tao đến cúi mình hỏi rằng:
“Tôn sư đòi tiểu thần đến có việc chi sai khiến chăng?” Tôn Tẫn nói:
“Nếu không có việc, thì đâu dám nhọc đến tôn thần”. Rồi kề tai nói:
“Xin phiền tôn thần làm như vầy…. như vầy…. có đi hãy về cho chóng”. Công tào lãnh mạng, chẳng dám chậm trễ tuốt vào trong núi, nơi mã người xưa, lấy một cái hình người bằng đá, giây phút đem đến. Tôn Tẫn dùng phép mà bắt tay ấn, chỉ nơi cái hình nhân, mà nạt lên một tiếng, vùng biến ra một viên đại tướng, thót lên ngựa, xông ra trước dinh.
Lúc ấy Vương Tiễn đang đứng trước dinh, chửi mắng om sòm, bỗng thấy cửa dinh mở hoác, xông ra một viên thiếu niên đại tướng, ngựa trắng, kích trắng, lướt tới coi kỹ lại thì là Tôn Yên, Vương Tiễn nghĩ thầm rằng:
“Thằng tiểu tặc này, tuổi tuy còn nhỏ, nhưng mà mạnh mẽ vô song, lúc nơi núi Kinh Kha cả đánh một đêm, giết binh Tần vô số, đại tướng rúng sợ, nay nó lại ra đánh nữa, như thắng đặng nó thì thôi, đánh bằng không lại, sẽ dùng bửu kiếm mà giết nó cho rồi, làm như vậy mới tuyệt dòng họ Tôn”. Nghĩ rồi giục ngựa lướt tới hươi mâu chỉ Tôn Yên, nạt rằng:
“Có ta ở đây đã lâu”. Tôn Yên ngước mặt lên mà chẳng đáp lại, hươi kích đâm nhầu, Vương Tiễn cử mâu đỡ khỏi, rồi đánh đến sau chục hiệp. Vương Tiễn nghĩ thầm rằng:
“Tài Tôn Yên nay khác rất xa, không phải mạnh mẽ như lúc nọ chi bằng ta bắt sống nó thì hay hơn”.
Đang lúc suy tính, bỗng thấy kích Tôn Yên đâm tới ngay bụng. Vương Tiễn lại lật đật tránh khỏi, lại đảo ngựa qua, với tay xớt nắm chặt dây nịt Tôn Yên, bắt sống để qua lưng ngựa, trong lòng rất mừng, đánh trống thắng trận, kéo binh về dinh. Lúc ấy có Vương Bôn tiếp ứng, bắt Tôn Yên trói lại, dẫn vào đại trướng báo công.
Chương Hàng rất mừng, coi Tôn Yên môi sen răng trắng, rõ ràng một viên dõng tướng còn nhỏ, bèn nạt lớn rằng:
“Cả gan cho Tôn Yên, nay đã bị bắt rồi, sao ngươi đứng sững chẳng chịu quỳ. Nạt luôn ba phen cũng là cá mắc trong lưới, sao dám khi ta lắm vậy”.
Truyền lệnh đem Tôn Yên ra đánh, hai bên gia tướng xông ra, dẫn Tôn Yên đem ra trước thềm dè xuống đất, quân cầm hèo giơ lên vừa đánh, không ngờ Tôn Tẫn đã niệm chú thâu phép, tên quân ấy hươi hèo đánh xuống một cây, dội lại tê tay, Tôn Yên nằm dưới đất, không hề nhúc nhích, tên quân thất kinh la lên nói:
“Cha chả! Cái thằng sao đít cứng như đá gỗ, đánh xuống dội lại tê tay”. Lúc ấy có tên quân còn trẻ, đứng gần một bên, trong lòng chẳng phục, nói:
“Người già khí lực bao nhiêu, ta chẳng tin, có đít gì cứng lắm như vậy kìa!” Nói rồi giựt lấy cây hèo, đứng rùn hai chân, ra sức đánh một cây rất mạnh, tiếng nghe rang rảng, hèo gãy lìa hai đoạn, làm tên quân thất kinh lật đật chạy vào trướng, quỳ xuống bẩm rằng:
“Người bị đánh đó, không phải Tôn Yên đâu, vốn là người ta bằng đá”. Chương Hàng nghe nói lấy làm lạ, đứng dậy xem coi, quả thiệt người bằng đá, Vương Tiễn ngó thấy, phừng phừng nổi giận nạt lên như sấm, nói rằng:
“Tức chết ta chưa, khi nãy rõ ràng là Tôn Yên, sao bắt vào dinh, lại đổi hình như vậy”.
Bèn truyền lệnh cho gia tướng, chẳng luận gì Tôn Yên, người đá chi, phải đập cho nát mới hết nư giận, gia vương vâng lệnh, kẻ thì xách búa, người lại cầm chùy áp đập áp đập hình đá, bể ra tan nát. Tôn Tẫn biết rồi, liền niệm chú lấy cây Hạnh huỳnh kỳ, chỉ phía Tây Bắc, còn kêu rằng:
“Thần phong bá, lúc này chẳng làm gió, còn đợi chừng nào?”. Nói dứt lời, bỗng nghe dông gió ầm ầm, cây nhánh gãy lìa, muôn vàn đá cục, đánh động vào dinh Tần như luồng mưa ào tới. Lúc ấy những đá hình nhân đập bể, quăng ném tưng bừng, bay lên mù mịt, trong đánh ra, ngoài liệng vào, binh Tần nơi không trốn núp, chết thôi thây nằm đầy đất, giây phút mười muôn binh, bị đánh khóc kêu vang trời. Kim Tử Lăng, Chương Hàng lật đật chạy vào bửu trướng, tâu cùng Thủy Hoàng, còn Triệu Cao, Cam La thì dẫm quân Ngự lâm, cầm bia che năm dặm. Bên kia Tôn Tẫn niệm chú đưa thần phong bá trở về, tức thì gió lặng đá êm, Thủy Hoàng về trướng, sai Trương Hàm tra điểm binh mã chết hơn hai muôn, còn bị thương không xiết kể, ngựa chết vài ngàn, Thủy Hoàng cả giận,truyền chỉ:
“Bắt Tiên Hành Quan trói lại đem đây”.
Quân binh vâng lịnh bắt Vương Tiễn trói chặt, dẫn vào dưới trướng, Thủy Hoàng ngó thấy vỗ án nạt rằng:
“Cả gan cho Vương Tiễn, ngươi dám dối khoe lỗ miệng rằng:
Ngươi có tài dẹp trừ sáu nước, nay mới đến nước Yên, bị một đứa con gái nhỏ, thua luôn hai trận, lại mắc mưu Tôn Tẫn, làm hại quân binh, chết hết vài muôn, đồ bại quân nhục quốc, còn dùng làm chị Truyền quân đao phủ dẫn ra chém, mà bêu đầu răn chúng”.
Kim Tử Lăng vội vàng quỳ xuống tâu rằng:
“Xin bệ hạ bớt cơn lôi đình, nay bê.
đem Vương Tiễn ra mà chém, thì cũng đã đành, song ngàn quân dễ kiếm, chớ một tướng khó tìm, xin bệ hạ rộng dung cho Tiên Hành Quan, tha tội chết cho va, dạy va phải lập công chuộc tội, ra trận một lần nữa bắt cho đặng Tôn Tẫn mà đem về đây, thì công ấy chuộc tội kia, như va thua nữa, chừng đó sẽ làm tội va”. Thủy Hoàng nghe theo bèn tha Vương Tiễn, Vương Tiễn mặc áo, đội mão, vào trướng tạ Ơn chẳng giết. Thủy Hoàng nói:
“Trẫm vì lòng Quân sư mà nhiêu dung tội chết cho ngươi, nếu bắt đặng Tôn Tẫn thì muôn việc đều xong, như bắt không đặng chớ trông về thấy mặt trẫm”. Vương Tiễn cúi lạy lui ra, bụng giận hầm hầm, đề mâu lên ngựa, cùng Vương Bôn dẫn binh ra dinh, giục ngựa như bay, tuốt đến dinh Yên, kêu quân giữ cửa nói rằng:
“Quân bay vào báo cho Tôn Tẫn hay, biểu ra đây mà nạp mình”.
Tôn Tẫn nghe báo, truyền lịnh đánh trống, chúng tướng nghe trống vang rân, người ngươi nai nịt giáp mão rõ ràng, kẻ cầm thương, người cầm giản, đều tựu dưới trướng, ra mắt xong rồi.
Tôn Tẫn nói:
“Nay Tần tặc đến đánh, nếu ta không ra mà đánh cùng nó, té ra không tài năng”. Nói rồi thót lên thanh ngưu dẫn chúng tướng phát ba tiếng pháo, ra khỏi cửa dinh. Vương Tiễn đang đứng trước dinh khiêu chiến, xảy thấy cây cờ bên tả, đề chữ rằng:
Vân tịch thủy liêm tằng học nghệ, cây cờ bên hữu đề rằng:Liễu nhất chơn nhơn Tôn Bá Linh, sau lưng có một đội tướng quân, đao thương nhấp nháng, khôi giáp rỡ ràng, phò một người đạo nhơn, đội mão tam sa, mặc áo bào xanh, cầm gậy cỡi trâu, tiên phong đạo cốt. Vương Tiễn coi rồi cười rằng:
“Nghe danh chẳng bằng thấy mặt, lâu nay ta nghe tiếng đồn như sấm vang tai, nay thấy mặt, thì cũng bất quá như bọn ta mà thôi, có chi khác lạ hơn người”. Nói rồi giục ngựa lướt tới, hươi mâu chỉ nói rằng:
“Thằng cụt chân, có ông chờ đây”. Tôn Tẫn nghe nói dừng trâu, cung tay hỏi rằng:
“Tướng quân có phải là Vương Tiễn chăng?”. Vương Tiễn nói:
“Phải, ta nghe ngươi ở chốn cao sơn tu luyện, vốn người cao minh đạo đức, lẽ thì rõ biết mạng trời, hưng suy có định, thì phải khuyên vua nước Yên, nạp đất quy hàng, trên thuận lòng trời, dưới an lê thứ, như vậy mới gọi là người sáng khôn giữ mình, vì sao trở lại dùng việc tà ma, sát hại nhân mã của ta hơn vài muôn mạng, nay trước mặt ta còn diệu võ giương oai, lập bày trận thế, muốn làm chi đó”.
Tôn Tẫn cười rằng:
“Ta nay xuống núi, vốn là nhân việc nhà mà đến đây, lòng ngươi độc ác như lang, làm điều thái quá, há chẳng biết nhân sự thắng thiên (người hơn trời đặng), sao còn lấy mạng trời còn nói sàm, nay ngươi mau xuống ngựa chịu trói cho rồi, đặng ta đem về nước Yên mà lãnh công”. Vương Tiễn cả giận hươi mâu chém nhầu, Tôn Tẫn cử gậy lên đánh, hai người đánh đến mười hiệp chưa định hơn thuạ Vương Tiễn hươi mâu đâm tới, Tôn Tẫn tay tả hươi gậy gạt ra, tay hữu nhắm ngay đầu Vương Tiễn đánh xuống, Vương Tiễn tránh khỏi, hươi búa xà mâu, qua lại đánh vùi nhấp nháng, như chớp giăng trước mặt, trên đỡ cho người, dưới che cho ngựa, Tôn Tẫn hươi cặp gậy trầm hương, chẳng khác hai con giao long quanh lộn, gió nghe vùn vụt, hai người đánh đến tám mươi hiệp. Vương Tiễn đâm bậy một mâu, quày ngựa bỏ chạy. Tôn Tẫn cười rằng:
“Vương Tiễn, ngươi chạy đây cho thoát, ta quyết theo bắt cho được mi mà đem về”. Nói rồi quất Thanh ngưu rượt theo.