1. Home
  2. Truyện Kiếm Hiệp
  3. [Audio] Thạch Kiếm
  4. Tập 6: Thác phu phụ – Hiệp sĩ đất Kiso (c51-c60)

[Audio] Thạch Kiếm

Tập 6: Thác phu phụ – Hiệp sĩ đất Kiso (c51-c60)

❮ sau
tiếp ❯

Chương 51: Thác phu phụ

Hôm sau, cả ba người, Oa Tử, Thạch Đạt Lang và đồ đệ rời quán trà Liễu Kiều lên đường đi Edo. Trời quang đãng, ánh nắng đầu mùa chan hòa, vạn vật dường tươi đẹp hẳn lên. Màu lá cây xanh non, không khí trong vắt. Ven suối, những cánh hoa rừng rụng sau trận mưa vừa rồi còn rải rác trên nền cỏ ướt.

Oa Tử cưỡi bò, Thạch Đạt Lang thong dong đi cạnh. Cả hai nét mặt hớn hở. Bao nhiêu sầu muộn trước đây hình như họ đều để lại đằng sau cả. Giang chạy nhảy như con sóc. Nó lấy lá cuộn thành kèn thổi te te và đuổi bắt những con sáo sậu đậu ở vệ cỏ.

Mặt trời mỗi lúc một cao, Giang đã thấy mồ hôi vã lấm tấm. Nó lấy tay quệt:

– Nóng quá ! Mới sáng mà đã nóng. Đây là đâu thế thầy.

– Đèo Mã Yên Sơn. Nghe nói khúc này khó đi lắm, sang bên kia, đường mới khá hơn.

– Thảo nào con thấy mệt !

Thạch Đạt Lang phì cười:

– Tại con chạy nhảy nhiều. Đường còn dài, muốn đi lâu phải giữ sức chứ !

Oa Tử xen vào:

– Mình chả có gì vội. Đường vắng, cứ thong thả, đến Edo lúc nào thì đến.

Giang phản đối:

– Tại cô cưỡi bò. Thử đi bộ như em xem !

Nhưng vừa than mệt xong, Giang đã quên ngay. Thấy đằng xa có thác nước, Giang vội reo lên:

– Ồ ! Đằng kia có cái thác. Ta lại xem đi thầy !

Thạch Đạt Lang cũng phụ họa:

– Ờ phải đấy, ta lại đó nghỉ chân.

Cả ba rẽ vào đường mòn. Càng vào sâu, cảnh càng hoang dã. Cỏ cao ngang đầu gối, hoa dại rụng đầy, sau trận mưa, nước suối dâng cao kéo theo những cành khô gẫy dạt vào bờ từng đám.

Tiếng nước đổ ầm ầm nghe mỗi lúc một rõ, muốn nói chuyện với nhau phải cao giọng hơn bình thường.

Đến gần thác, thấy có gian lều gỗ chẳng biết ai đã dựng lên, dùng làm chỗ trú chân thật hợp ý.

Giang đỡ Oa Tử trên lưng bò xuống, rồi dẫn con vật buộc vào gốc cây hòe gần một thảm cỏ mướt. Oa Tử chỉ tấm biển gỗ dựng bên thác:

– Kìa ! Tấm biển đề tên thác nước:

Meoto no taki – thác Phu Phụ – tên nghe lạ quá!

Chàng biết tại sao có tên ấy không ?

Thạch Đạt Lang lắc đầu. Cả hai lẳng lặng đứng nhìn nước từ trên núi ầm ầm đổ xuống, tung bọt trắng phau. Họ đoán có lẽ dòng nước, khi đến chỗ dốc trước khi đổ xuống vực sâu đã bị chia hai, một bên chảy hùng tráng mạnh mẽ, một bên thong thả êm đềm, nên mang tên thế chăng.

Dù thế nào đi nữa, thác nước thật đẹp. Hai dòng song song bổ túc cho nhau trước khi nhập chung làm một, đổ từ trên cao hàng chục trượng xuống một cái hồ lớn rồi chia thành nhiều nhánh len lỏi giữa những ghềnh đá xanh rêu như những con rắn bạc mất hút trong đám cỏ lau và cây rừng rậm rạp dưới chân núi.

Nước chảy liên miên, tiếng thác nước ầm ầm đổ khiến phong cảnh sống động và như tiếp cho Giang một nguồn sinh lực mới. Thằng bé nhảy trên những hòn đá ngổn ngang, la hét vang trời, thỉnh thoảng ngưng lại để nghe giọng mình dội vào vách đá vang vang, lấy làm thích thú.

– A ! Có cá ! Có cá !

Giang nhặt đá ném. Hết con này đến con khác, cứ thế mê mãi đuổi cá theo dòng suối xuống vùng hạ lưu. Chẳng bao lâu tiếng la hét của nó loãng đi và bị tiếng thác nước khỏa lấp, không còn nghe thấy gì nữa.

Trong bóng mát của gian lều, Thạch Đạt Lang và Oa Tử ngồi cạnh nhau, giữa hằng hà sa số những vòng hào quang sặc sỡ như những chiếc cầu vồng nhỏ do ánh mặt trời chiếu lên trên nền cỏ ướt. Oa Tử nói:

– Không biết thằng bé chạy đâu ? Mười bốn mười lăm rồi mà còn nghịch ngợm quá!

– Nó còn trẻ con. Ở tuổi ấy, ta nghịch hơn thế nữa. Trái lại, Mãn Hà Chí lại khác ta. Hắn hiền như bụt. Chẳng biết bây giờ hắn đâu. Hắn đáng phải để ý hơn là thằng bé.

– Nói đến Mãn Hà Chí, thiếp mới sực nhớ, mong hắn đừng có mặt.

– Sao vậy ? Có mặt Mãn Hà Chí mình sẽ giải thích để hắn khỏi hiểu lầm. Tốt chứ.

Oa Tử bứt cỏ:

– Chẳng biết hắn có hiểu không ? Mẹ con bà Hồ Điểu nhiều thành kiến và bướng lắm, không như mọi người đâu.

– Oa Tử ! Có chắc nàng không đổi ý không ?

Oa Tử ngạc nhiên, hỏi lại:

– Đổi ý về việc gì ?

– Về lòng mình. Ta muốn nói nàng có hối hận đã từ hôn Mãn Hà Chí chăng ?

Oa Tử cau mày như vừa nghe một điều trái ý.

– Không ! Thiếp không bao giờ hối hận !

Thiếu nữ mặt ửng đỏ, gục đầu, lấy tay bưng mặt. Cử chỉ ấy cùng những rung động nhẹ của đôi vai nàng, tất cả đều như gào lên một sự thật:

“Lòng thiếp thuộc về chàng, chàng không biết ư ? Thiếp là của chàng chứ chẳng phải của ai hết”.

Tiếc đã lỡ lời, Thạch Đạt Lang quàng vai Oa Tử tha thiết. Mấy ngày nay, nhìn ánh sáng đùa giỡn trên thân hình người thiếu nữ, ban đêm dưới ngọn đèn mờ lay động, ban ngày dưới ánh dương quang lộng lẫy, nhìn làn lông tơ lấm tấm mồ hôi, hắn nghĩ đến một bông sen mới nở còn ướt sương mai.

Trong quán trà, chỉ nằm cách nhau một tấm bình phong mỏng, hắn đã ngửi mùi hương từ mái tóc người thiếu nữ bay ra phảng phất lẫn với mùi da thịt nồng ấm. Giờ đây, tiếng thác đổ ngoài kia khích động hắn vô cùng. Mạch máu hắn chảy mạnh. Thạch Đạt Lang cảm thấy nhộn nhạo khác thường, bèn bỏ ra xa, đến gần chỗ nước chảy, ngồi khuất trong đám cỏ cao.

Được một lúc, Oa Tử cũng tới bên, ôm gối hắn và ngước mắt nhìn bộ mặt đăm chiêu thoáng chút hốt hoảng của người yêu.

– Giận thiếp đấy ư ? Nếu có điều gì không phải, cho thiếp xin lỗi.

Thạch Đạt Lang không đáp. Mặt hắn đanh lại, cố làm ra vẻ nghiêm trang. Oa Tử bỗng ôm lấy cổ hắn ghì chặt. Mùi hương của thiếu nữ và cử chỉ nồng nàn ấy khiến Thạch Đạt Lang ngây ngất. Hắn không còn tự chủ nổi, ôm chặt lấy Oa Tử và đè nàng xuống cỏ.

– Oa Tử ! Oa Tử !

Nhưng Oa Tử vùng vẫy, cố thoát khỏi vòng tay lực lưỡng của hắn.

– Đừng ! Đừng ! Thạch Lang, chàng mà cũng thế ư ?

Lệ ứa ra hai bên khóe mắt, tiếng nức nở và nét mặt van lơn của người thiếu nữ làm Thạch Đạt Lang sửng sốt. Hắn bỏ Oa Tử ra. Nàng kinh hãi chạy về lều.

Một chiếc túi nhỏ đựng đồ trang sức từ tay áo Oa Tử rớt xuống đất nằm trên cỏ, bên một cánh hoa nhàu nát. Thạch Đạt Lang đăm đăm nhìn cái túi, thảng thốt:

– Ta đã làm gì ? Ta đã làm gì Oa Tử ?

Xấu hổ và hối hận tràn ngập lòng người trẻ tuổi. Hắn bị lạc hướng và có cảm tưởng như vừa bị xúc phạm. Oa Tử lừa dối hắn sao ? Nhưng lời nói của nàng, mắt nàng, môi nàng, tóc nàng, cả thân thể và dáng điệu của nàng nữa, đều mời mọc hắn, thổi bùng ngọn lửa đam mê trong lòng hắn, rồi khi ngọn lửa ấy đã phừng cháy, cũng lại chính nàng dập cho nó tắt.

Sao vậy ? Thạch Đạt Lang không ý thức được trinh tiết đối với Oa Tử quý trọng đến mức nào và sự cố gắng của nàng để người yêu không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm khác ngoài kiếm đạo. Hắn chỉ nhìn thấy sự thất bại chua cay của mình trong sự không kềm chế nổi lòng ham muốn. Hình như bao nhiêu cố gắng để trở thành người phi thường của hắn đều hư ảo, hão huyền cả.

Thạch Đạt Lang phục xuống cỏ. Hắn tự nhủ chưa làm điều gì xâm phạm nhưng sao lương tâm hắn vẫn không an ổn. Mùi đất ẩm xông lên, Thạch Đạt Lang dần dần lấy lại được bình tĩnh. Khi đứng dậy, mắt hắn không còn ngọn lửa đam mê nữa mà nguội lạnh như tiền. Dường như hắn vừa nghe tiếng gọi, tiếng gọi của sông rộng núi cao, của lý tưởng hắn đã nguyện phục vụ. Lông mày hắn cau lại như trước kia hắn đã cau lại lúc phải đơn phương lâm trận với hàng trăm đệ tử Hoa Sơn dưới gốc cổ tùng. Một đám mây che khuất vầng thái dương. Con chim rừng bay qua, buông tiếng kêu lanh lảnh. Cơn gió đổi chiều làm tiếng thác nghe khác lạ. Thạch Đạt Lang phanh ngực áo, thong thả đến gần chân thác nước.

Như con chim sẻ nhỏ sợ hãi, Oa Tử đứng sau gốc sồi lớn chứng kiến tất cả những băn khoăn lo lắng của người tình. Nàng không biết Thạch Đạt Lang có hiểu cho nàng không. Thấy Thạch Đạt Lang đau đớn, đã mấy lần Oa Tử muốn chạy ra giải thích cho chàng rõ, nhưng hình như có cái gì cầm chân nàng lại. Lần đầu tiên, nàng thấy thần tượng của nàng, người mà nàng đã dâng hiến cả linh hồn, không phải là hiện thân của đạo đức như nàng tưởng. Sự phát hiện ra trong con người Thạch Đạt Lang một con thú trần trụi với dục tính mãnh liệt khiến mắt Oa Tử mờ đi vì buồn rầu và kinh hãi.

Oa Tử muốn chạy, tìm một chỗ nào thật vắng vẻ ẩn tránh. Nàng muốn bình tĩnh hơn để suy nghĩ, nhưng đi một quãng lại lo sợ và bất định.

“Có lẽ Thạch Đạt Lang khác mọi người. Lòng ham muốn và sự tỏ tình của chàng cũng khác. Ta đã làm khổ chàng”.

Bèn quay trở lại chỗ Thạch Đạt Lang đứng, nhưng chẳng thấy ai, chỉ thấy hơn nước như sương bao phủ và tiếng thác đổ ầm ầm rung chuyển cả căn lều gỗ.

– Cô Oa Tử ! Cô Oa Tử đâu ?

Tiếng Giang gọi thất thanh.

– Cô đây.

– Sư phụ ngã xuống thác rồi ! Cô đứng đây, em xuống xem sao.

Giang nắm dây leo, chuyền xuống giữa những phiến đá trơn trượt. Nhưng Oa Tử làm sao mà có thể cứ đứng ở đây được. Nàng cũng tìm cách theo chân thằng bé.

Đến lưng chừng ghềnh, Oa Tử thấy một vật gì như phiến đá trắng ở giữa thác.

Chính là Thạch Đạt Lang, tựa một sinh vật tí hon giữa cảnh hùng vĩ của thác nước cao hàng chục trượng trên đầu !

Hai tay chắp trước ngực, trần truồng, hắn cầu nguyện.

– Sư phụ !

– Thạch Đạt Lang !

Nhưng những tiếng hét ấy chẳng bao giờ hắn nghe được. Như nghìn nghìn vạn vạn con rồng bạc điên cuồng gầm thét xung quanh, đưa móng vuốt ra quấn lấy vai lấy tay hắn, sẵn sàng lôi hắn đi, những dòng nước nghìn cân nặng của thác Phu Phụ có thể đưa hắn tới cái chết tăm tối. Một chút sơ hở, mất thăng bằng, một hơi thở sai lại khiến công lực suy giảm, Thạch Đạt Lang sẽ bị cuốn vào vực sâu, không cách gì trở lại.

Hắn có cảm tưởng như tim phổi và cơ thể hắn bị sức nặng của cả dãy Mã Yên Sơn đè lên. Hắn không thể khinh xuất.

Ngọn lửa dục vọng trong lòng hắn lụi dần …lụi dần …Ngọn lửa ấy giống như lòng tham vọng trước đây đã đẩy hắn ra trận Sekigahara, đã là động lực thôi thúc hắn thực hiện những võ công phi thường. Nhưng nếu hắn không hướng dẫn, chế ngự được tham vọng, nó sẽ biến hắn thành giống thú hung bạo. Mà với một kẻ thù vô hình, nguy hiểm như thể ẩn tàng trong xương thịt, đau đớn thay cho Thạch Đạt Lang, lưỡi gươm của hắn lại vô dụng !

Ý thức sự thất bại hiển nhiên của mình, Thạch Đạt Lang hoang mang bối rối.

Đứng dưới thác nước điên cuồng, hắn cầu nguyện, mong tìm sự quân bình của thể xác và tâm hồn trong khi tranh thắng với cơn thịnh nộ của trời đất, cũng như trước kia hắn đã tranh thắng ngọn Đại Bàng Sơn.

– Sư phụ ! Sư phụ đừng bỏ con !

Tiếng thét của Giang giờ đây là một lời van xin nức nở. Nó cũng chắp tay trước ngực, mặt nhăn lại, cùng chia xẻ với thầy sức nặng ghê gớm của khối nước, niềm đau và sự buốt lạnh thầy nó đang gánh chịu.

Giang không hiểu sao sư phụ mình lại làm thế. Đứng dưới thác nước cho đến chết chăng ?

Bỗng nó giật mình:

cô Oa Tử cũng không còn trên bờ bên kia nữa. Hay lại ngã xuống suối rồi ?

Đột nhiên, giữa những tiếng gió hú và thác đổ ầm ầm, Giang nghe tiếng thầy.

Tiếng được, tiếng mất, không rõ ràng, chẳng biết là lời niệm kinh hay là những lời tự trách, nhưng tiếng thầy nó mạnh lắm, đôi lúc át cả tiếng gió gào và tiếng thác đổ.

Rồi thầy nó thận trọng bước ra khỏi thác. Vẻ trẻ trung và mãnh liệt giờ đây lồ lộ trên tấm thân cùng tráng của Thạch Đạt Lang. Tâm, thân hắn đã được thanh lọc để sẵn sàng bắt đầu một đời sống mới.

Hiểm họa đã qua. Giang thở phào. Nếu cô Oa Tử không còn ở trên bờ nữa thì chắc cô cũng đã về lều, vì cô tin rằng sư phụ nó không sao cả.

– Cô Oa Tử chắc hiểu thầy mình hơn mình.

Nó nghĩ thế rồi nhảy từng bước nhẹ nhàng trên những hòn đá, tìm quãng suối hẹp lội sang bờ bên kia.

Khi đến gần lều, Giang rón rén nhìn vào trong thấy Oa Tử ôm áo và kiếm của sư phụ, mặt đầm đìa nước mắt, nhưng môi lại như mỉm cười.

Oa Tử không giấu mình khóc. Giang thấy lần này những giọt nước mắt của cô Oa Tử khác những giọt nước mắt những lần trước. Nó không hiểu tại sao, chỉ linh cảm một chuyện gì quan trọng lắm đã xảy ra giữa hai người.

Giang bỏ đi, ra chỗ gốc hòe, nằm xuống thảm cỏ cạnh con bò và nói:

– Cứ thế này thì bao giờ mới đến Edo ?

Chương 52: 1 vụ cưỡng bức

Trên đỉnh núi bên kia đèo, tuyết chưa tan, trắng lóa mắt nhưng ở chân đồi, hai bên bờ sơn đạo, nơi Oa Tử và Giang thong dong bước, cây cỏ xanh mát.

Gió thổi nhẹ hiu hiu, đồng cỏ lau gợn sóng.

Giang dong bò cho Oa Tử cưỡi. Nó đang tuổi lớn, tuy dáng người mảnh khảnh nhưng màu da bánh mật và ánh mắt tinh anh tiềm ẩn một sức sống dồi dào. Nhìn Giang, Oa Tử đã thấy trước một thanh niên dũng cảm và quả quyết, nhưng lằn ranh giữa lòng quả cảm và bướng bỉnh mảnh như tơ, khó mà phân định.

Càng lớn, Giang càng bướng bỉnh và đòi hỏi, nhất là nó lại quen sống nếp sống phóng túng không gì câu thúc.

Tính bướng bỉnh ấy khiến Oa Tử nhiều khi bực mình, nhất là sự háu ăn của nó, thật không giới hạn. Khi đi ngang qua một quán ăn hay một cửa hàng thực phẩm, thế nào Giang cũng đòi mua một thứ gì. Nếu không thì ì ra, không chịu dẫn bò đi nữa.

Qua xóm Suhara, đã ăn bánh bỏng ở một quán ven đường rồi, mới được vài dặm, Giang đã kêu đói. Cả hai phải tạt vào dùng bữa sáng tại một hàng cơm cuối xóm. Ăn xong, Giang lại nói với Oa Tử:

– Vùng này hồng khô ngon có tiếng. Cô mua một ít mang theo để ăn đường chứ !

Nhưng Oa Tử lờ đi như không nghe thấy.

Đến Fukushima, một thị trấn khá quen thuộc có nhiều món ăn đặc biệt, ngửi mùi thơm từ trong bếp bay ra, Giang không nhịn được, nài nỉ:

– Cô Oa Tử, hay ta nghỉ chân ở đấy một lát.

Oa Tử lặng thinh. Thằng bé hểnh mũi hít hà:

– Thơm quá ! Cô không ngửi thấy gì à ?

– Mình mới ăn xong mà, cứ dừng lại luôn như thế, bao giờ mới đến nơi !

– Nhưng em đói …

Vừa nói, Giang vừa giữ chặt dây thừng. Con bò, dường như đồng tình với nó, cũng dừng lại gặm cỏ.

– Giang hư lắm. Nếu em cứ thế, cô sẽ xuống đi bộ và mách thầy em …

Giang phụng phịu. Nó không sợ vì dư biết Oa Tử chỉ dọa chứ không dám làm.

Trong thâm tâm, Oa Tử rất chiều nó.

Quả nhiên, thấy nét mặt Giang không vui, nàng trên lưng bò tuột xuống rồi cùng vào quán. Thằng bé ngồi ngay vào bàn, gọi luôn hai đĩa bánh dày đậu.

– Hành phi trộn với đậu ngọt rắc lên bánh dầy. Ngon tuyệt ! Em thèm rỏ dãi ra đây này.

– Giang ! Em phải giữ ý tứ ! Gọi cho cô ấm trà.

– Cô không ăn bánh ư ?

– Không, cô không đói. Ăn nhiều thành con lợn, xấu lắm.

Giang không để ý đến lời nhắc khéo. Nó vơ vào:

– Nhưng em đã gọi hai đĩa. Vậy để em ăn luôn phần của cô vậy.

Nói đoạn nó gọi thêm trà, buộc lại cây kiếm gỗ ra phía sau lưng cho khỏi vướng, rồi ngồi ngay ngắn chờ bánh mang ra.

Nhìn dáng điệu trịnh trọng của Giang, Oa Tử không khỏi mỉm cười.

Ăn một loáng hết hai đĩa bánh, Giang mới quay nhìn xung quanh. Bỗng nó há hốc mồm, chạy bổ ra cửa.

Tuy ngạc nhiên nhưng Oa Tử cũng uống hết chén trà. Tra tiền chủ quán xong và sắp sửa đứng dậy thì Giang trở về. Thằng bé thở hổn hển, đến bên thiếu nữ, ghé tai thì thầm:

– Mãn Hà Chí ! Em vừa thấy Mãn Hà Chí !

Oa Tử tái mặt:

– Hắn đến đây làm gì ?

– Không biết. Nhưng ông ấy nhìn vào quán. Thấy em, ông ấy bỏ đi, em đuổi theo để coi cho chắc. Đúng là Mãn Hà Chí !

Nhìn vẻ mặt nghi ngờ của Oa Tử, Giang nói:

– Cô không tin à ? Hay để em gọi ông ấy lại.

– Đừng ! Đừng làm thế !

Đoạn, ghé tai Giang, Oa Tử hỏi khẽ:

– Thầy em có cách xa đây không ?

Giang lắc đầu:

– Em không biết. Chắc xa. Tại con bò này đi chậm quá !

Oa Tử hồi hộp. Tim nàng đập dồn dập. Sợ càng chùng chình, Thạch Đạt Lang đi càng xa, nàng vịn vai Giang trèo lên lưng bò, bảo nó dẫn lên đường ngay tức khắc.

Trên lộ, Oa Tử và Giang không nói lời nào, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.

Oa Tử thì lo lắng, nàng không biết xử trí ra sao nếu gặp lại Mãn Hà Chí. Còn Giang thì lấy làm lạ không hiểu tại sao thầy nó lại bỏ đi trước, chỉ dặn nó ở lại cùng đi với Oa Tử và giúp đỡ nàng.

Tuổi trẻ tò mò, không nhịn được, Giang bèn hỏi:

– Cô và sư phụ giận nhau đấy à ?

Thấy Oa Tử không đáp, nó hỏi lại:

– Sao từ khi ở thác, sư phụ không nói gì với cô nữa, lại bỏ đi trước, bảo đợi cô ở Edo là sao ?

Oa Tử quay đi, kín đáo chùi giọt lệ trên khóe mắt. Nàng chẳng biết trả lời thế nào cho phải vì chính nàng cũng chưa tìm được lời giải đáp thích đáng về hành động của Thạch Đạt Lang.

Hồi tưởng lại sáu bảy năm trước khi còn ở chùa Tiểu Sơn, Oa Tử cũng đã bị một viên đội trưởng làm hỗn. Bây giờ thấy hành động ấy ở Thạch Đạt Lang, nàng bối rối.

Mặc dầu hai trường hợp hoàn toàn khác nhau, nàng vẫn không hiểu rõ thái độ dùng sức mạnh để chiếm đoạt như vậy có phải là thường tình của đàn ông hay không và thái độ cự tuyệt của nàng có hợp với hoàn cảnh ấy không ? Mớ ý tưởng hỗn độn và nỗi băn khoăn khiến Oa Tử phiền muộn. Mối u tình nàng mang trong lòng bấy lâu nay như dòng suối êm đềm, bỗng trở thành thác lũ.

Oa Tử liên tưởng đến tiếng thác đổ ầm ầm, tiếng kêu thét ngỡ ngàng của lòng nàng trước hành động của người yêu và vẻ ngạc nhiên trên nét mặt Thạch Đạt Lang. Nàng lại càng hoang mang hơn nữa vì nếu cứ như thế này mãi, cả hai không hiểu nhau thì sự theo chàng như một cái bóng thật là phi lý.

Thấy Oa Tử mắt đỏ hoe, sự bối rối hiện rõ trên gương mặt, Giang thôi không hỏi nữa. Và nó cũng quên ngay những điều vừa hỏi.

Đến Kozengi, Giang dẫn bò, rẽ sang một đường lớn nhiều người qua lại hơn. Ngay chỗ rẽ là một căn lều gỗ dùng làm trụ sở cho lính tuần tra xét những khách bộ hành để tìm bắt kẻ gian phi và đôi khi cả những kiếm sĩ đối nghịch với chính quyền.

Oa Tử và Giang cũng bị lính tuần chặn giữ, nhưng nhờ có chứng thư của Lưu Cát tướng công nên không bị làm khó dễ gì. Tiếp tục cuộc hành trình, qua nhiều quán xá ven đường, lần này Giang ngoan ngoãn dắt bò đi, không đòi ăn như những lần trước.

Hết quãng đường phố tương đối đông dân cư, lại đến quãng đường vắng vẻ, cây cao và bụi gai mọc chi chít. Giang bỗng hỏi Oa Tử:

– Cô Oa Tử ! Huyền Trang là ai ?

– Huyền Trang ?

– Vâng. Khi qua quán đằng kia, có người chỉ cô và nói “Huyền Trang cưỡi bò” !

Vậy Huyền Trang là ai vậy ?

Oa Tử cười:

– Không rõ có đúng không, cô chỉ biết Huyền Trang là một vị sư nhà Đường bên Tàu, sang nước Thiên Trúc thỉnh kinh và mang về Trung Hoa nhiều bộ kinh quý giá lắm.

– À, cháu biết rồi ! Đấy là ông sư Tam Tạng. Vậy nếu cô là Huyền Trang thì cháu là Tôn Ngộ Không rồi !

Oa Tử cười như nắc nẻ. Nhìn thằng bé đen đủi, chân tay dài múa may như con vượn, nàng trêu nó:

– Ừ, vừa là Tôn Ngộ Không lại vừa là Trư Bát Giới nữa. Vì em háu ăn lắm.

Không vừa, Giang đáp lại:

– Như vậy mới xứng với sư Tam Tạng hay khóc !

Cả hai cùng cười vang, không nhớ gì đến những chuyện buồn phiền trước đấy nữa.

– Tại sao Huyền Trang lại cùng đi với Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới hả cô ?

Oa Tử biết chuyện Tam Tạng thỉnh kinh từ khi còn ở chùa Tiểu Sơn, nhưng nghe thằng bé hỏi thì hơi lúng túng. Nàng chỉ đáp đại khái:

– Ngộ Không tượng trưng cho sự khôn ngoan tháo vát, Bát Giới là lòng dục của con người, còn Huyền Trang, lòng sùng đạo.

Sự giải thích ấy chẳng biết có thỏa mãn được tính tò mò của Giang không, nhưng không thấy nó hỏi thêm gì nữa.

– Đứng lại !

Tiếng quát kèm theo bóng người trong bụi nhảy xổ ra chặn đường khiến Oa Tử và Giang giật mình thất sắc. Định thần nhìn kỹ, thì ra là Mãn Hà Chí; một Mãn Hà Chí gầy đen, quần áo xốc xếch. Gã trợn mắt, chỉ tay vào mặt Oa Tử, giọng hằn học:

– Con tiện tỳ kia ! Xuống ngay !

Cơn ghen tức lộ trên nét mặt, gã hùng hổ sấn đến đầu con bò Oa Tử đang cưỡi.

Từ khi giã biệt Thạch Đạt Lang trên sơn đạo ở sườn đồi Sinh Minh, Mãn Hà Chí nghe theo lời khuyên của bạn, đến Edo lập nghiệp. Gã có ý đợi Thạch Đạt Lang tại Liễu kiều để cùng đi. Nhưng số phận run rủi, gã vừa tới Liễu kiều đúng lúc thấy Thạch Đạt Lang sánh vai Oa Tử vào quán trọ. Sự hân hoan trên nét mặt hai người khi tương hội khiến Mãn Hà Chí nổi cơn ghen, quên luôn những lời khuyên chí tình của bạn, cho đó chỉ là những lời dối trá. Gã theo dõi Thạch Đạt Lang và Oa Tử suốt dọc hành trình, đôi lúc lạc dấu vết, mãi đến bây giờ mới được dịp ra tay.

Ngạc nhiên cực độ, Oa Tử không thốt nên lời, trừng trừng nhìn gã.

– Xuống ngay ! Mày theo thằng Thạch Kinh Tử, thất thân với nó rồi phải không ?

Phẫn nộ và khinh bỉ thay cho ngạc nhiên, Oa Tử xám mặt.

– Ta không xuống ! Ta không liên quan gì đến ngươi cả !

– A ! Mãn Hà Chí giận dữ thét. Nhưng ta có liên quan ! Ngươi xuống không ?

Thét đoạn, hắn sấn đến nắm áo Oa Tử. Giang gạt gã ra:

– Ông làm gì thế ? Cô ấy không muốn xuống thì không xuống. Ông có quyền gì …

Mãn Hà Chí nhảy lui:

– Thằng oắt này là ai ?

– Là ai không cần biết, nhưng ông không được động đến cô Oa Tử.

– A ! Láo ! Ta nhớ ra rồi ! Mày là thằng oắt con bưng rượu ở quán Kitano !

– Mà ông là gã say rượu ở quán ấy ! Phải rồi, ông sống bám vào mụ điếm già, bây giờ bị mụ bỏ chứ gì !

Câu nói của thằng bé khiến Mãn Hà Chí nhảy lên như có ai cầm nắm muối xát vào vết thương đang rướm máu của gã.

– Đúng không ?

Mắt Mãn Hà Chí trợn ngược:

– Nhãi con khốn nạn ! Ai dạy mày thế ?

Gã nhoài tay ra định túm cổ Giang. Nhưng nhanh như cắt, Giang đã luồn qua bụng bò, chuồn sang bên kia, ngoái cổ lại hét:

– Đồ tồi ! Hèn nhát ! Bắt nạt trẻ con !

Con bò vùng lên chạy, mang theo Oa Tử trên lưng. Nàng kinh hãi kêu cứu. Giang chạy theo, định đỡ Oa Tử xuống thì bị Mãn Hà Chí túm được.

– Oắt con ! Tao bắt được mày rồi ! Nói lại những điều vừa rồi tao nghe thử !

Giang vung tay đấm vào mặt gã:

– Đồ tồi ! Đồ hèn nhát ! Ăn bám vào gái điếm !

Mãn Hà Chí túm ngực áo nó nhấc bổng lên. Thằng bé vừa định rút kiếm gỗ ra liền bị Mãn Hà Chí tức giận ném ngay vào bụi rậm. Đầu va vào gốc cây, Giang nằm sóng soài bất tỉnh.

Mở mắt ra, con đường mòn vắng hoe, Giang không nhớ chuyện gì đã xảy ra. Một tiếng chim lảnh lót từ trên ngọn cây cao vọng xuống, nó nghe như tiếng sáo ai thổi đột nhiên bị cắt đứt.

Chương 53: Hiệp sĩ đất Kiso

Thạch Đạt Lang ngồi nghỉ chân trên lưng chừng đồi chờ Oa Tử và Giang đi tới. Đợi lâu không thấy bóng hai người, hắn có vẻ đã hơi sốt ruột. Nhìn những đám mây trắng trên nền trời xanh, Thạch Đạt Lang vẩn vơ dõi xem những đám mây ấy bay về hướng nào hay cứ nằm yên như thế mãi, lơ lửng treo trên ngọn đồi giữa hắn và khu rừng thưa dưới chân núi.

Bỗng mí mắt hắn giật lia lịa. Linh cảm một chuyện gì không hay xảy ra cho Oa Tử, Thạch Đạt Lang đứng dậy, đi đi lại lại.

Thạch Đạt Lang vẫn thường nghĩ đến Oa Tử và càng nghĩ đến nàng bao nhiêu, hắn càng tự giận mình. Tiếng kêu lo sợ, trách móc của Oa Tử còn như đồng vọng bên tai cùng với tiếng thác đổ. “Thạch Đạt Lang ! Chàng mà cũng thế ư ?”. Hắn đã biểu lộ hành động xấu xa gì để Oa Tử phải trách móc như thế ? Oa Tử yêu hắn hay không ? Yêu hắn vì hắn là Thạch Đạt Lang hay chỉ yêu cái phần phi thường của một kiếm sĩ trong hắn ?

Thạch Đạt Lang định gạt đi, không muốn bận tâm đến nữa. Đã hứa đi cùng Oa Tử đến Edo, để nàng ở đó theo học môn gì nàng thích, bề nào hắn cũng có trách nhiệm.

Nhưng còn thanh kiếm đeo bên sườn đây mà hắn coi như người tình không rời nửa bước, hắn phải đối xử ra sao ? Đã nhiều ngày nay, thì giờ tập luyện và tu dưỡng của Thạch Đạt Lang không được điều hòa. Nhìn dãy núi xanh biếc phía xa cùng cảnh trí bao la trước mặt. Thạch Đạt Lang tự thẹn thấy mình nhỏ mọn.

Trời đã ngả bóng. Mãi không thấy Oa Tử và Giang đến, Thạch Đạt Lang bồn chồn tự hỏi:

“Hay là họ bị giữ lại ở ngã ba Kozengi rồi !”. Linh tính báo cho hắn biết thực sự đã có chuyện chẳng lành. Quàng túi hành trang lên vai, sửa lại quai nón và bao kiếm, hắn vội vàng đổ dốc.

Đi chừng một quãng, bỗng gặp một khách bộ hành nhìn hắn hỏi:

– Phải chăng đại hán là người vừa ở ranh tỉnh tới, cùng đi với một thiếu nữ và một tiểu đồng ?

Lo lắng, Thạch Đạt Lang đáp:

– Phải ! Có chuyện gì thế ?

– Thiếu nữ bị bắt cóc rồi. Người ta thấy nàng bị dẫn vào rừng.

– Mô Phật ! Thế còn thằng bé ?

– Không biết. Chẳng ai rõ nó đi đâu !

Lòng nóng như lửa đốt, Thạch Đạt Lang không kịp cảm ơn người cho tin, hớt hải chạy xuống đồi trở lại phía ngã ba ranh tỉnh chỗ có đồn canh. Đến nơi, trời vừa chạng vạng. Cửa đồn đóng và hàng rào cản tre cũng đã được buông xuống. Trong các quán xá, người ta đang lục đục dọn đồ.

Thạch Đạt Lang tiến đến gần một ông già hỏi tin tức. Ông già nghễnh ngãng, hắn phải hỏi đi hỏi lại hai ba lần, ông lão mới nghe ra:

– À, tráng sĩ muốn hỏi thăm nữ lang ngồi trên lưng bò trông như nhà sư Tam Tạng ấy chăng ?

– Phải, cùng với một tiểu đồng đeo kiếm gỗ dài trên lưng. Lão trượng biết họ đâu không ?

– Ờ ờ, có thấy cả hai qua đây.

– Bây giờ họ đâu ?

– Lão không rõ.

Nghe trả lời, Thạch Đạt Lang toan bỏ đi nhưng cũng thêm:

– Có người nói họ bị bắt dẫn đi về phía này.

Ông lão gật gù:

– Có thể lắm. Vùng ranh tỉnh này nhiều dư đảng vô lại. Nếu quả họ bị bắt cóc thì không bị dẫn trở lại ngã ba này đâu. Chúng theo đường lên mả ngụy rồi ra hồ Nobu rồi.

Cảm ơn ông lão, Thạch Đạt Lang vội vàng quay gót, dạ bồi hồi lo sợ. Oa Tử yếu đuối, vạn sự trông vào hắn lúc đi đường, nếu xẩy chuyện gì e rằng …e rằng …nàng khó sống.

Đêm xuống dần, tuy chưa tối hẳn nhưng trên trời đã lốm đốm sao thưa. Thạch Đạt Lang cắm cúi đi, không một ý niệm gì về kẻ đã bắt cóc Oa Tử là Mãn Hà Chí. Hắn đồng ý với ông già, đồ chừng kẻ đó là một trong những tên vô lại hay thảo khấu thường ẩn nấp ở nơi hoang dã vùng biên giới để dụ dỗ và bắt cóc những thiếu nữ khờ dại đem bán.

Càng đi, trời càng tối. Dưới tàng cây rừng, Thạch Đạt Lang nhìn phía trước không xa được quá vài thước. Hắn có cảm tưởng dường như đang lên dốc chứ không có dấu hiệu gì thoai thoải xuống bờ hồ. Nghi đi lạc, hắn trèo lên ngọn cây khoáng đãng nhìn sao và quan sát tứ phía để định hướng.

Trong bóng đêm, lờ mờ ẩn hiện một mái nhà với rặng cây. Ánh đèn đỏ quạch hắt ra như một đốm nhang ai thắp trên mộ.

Không còn cách nào khác, Thạch Đạt Lang quyết định tiến tới, hy vọng gặp người để hỏi thăm đường và nếu biết được tin tức gì thêm thì càng tốt. Đi mãi, đi mãi. Ánh đèn lúc ẩn lúc hiện. Thạch Đạt Lang lấy làm kỳ, đôi lúc nghĩ đó là ma trơi, nhân trời lặng gió hiện lên lơ lửng như thế, đến gần gặp hơi người thì tắt chứ chẳng phải đèn đóm gì hết.

Đột nhiên vừa từ trong rừng ra, rẽ khỏi một lùm cây lớn, hắn trông ngay thấy đốm lửa đó. Và một căn trại.

Căn trại không to nhưng vững chắc, mặc dầu mái ra. dày đã lõm nhiều chỗ. Ánh đèn thực ra là lửa đốt trong lò. Và bên cạnh lò, một bóng người đang hoạt động.

Thạch Đạt Lang cúi mình, nhẹ nhàng men đến bên vách. Phía tay mặt có một gian bếp. Bên bếp buộc một con bò lang. Thạch Đạt Lang tin chắc đấy là con bò mà hắn đã thuê cho Oa Tử cưỡi.

Nấp trong bóng tối bên vách, nín thở, hắn nghe có tiếng lọc cọc đều đều như tiếng guồng tơ quay.

Bỗng giọng đàn ông từ sau bếp vọng ra, mạnh và hơi khàn:

– Khuya rồi, mẹ đi nghỉ thôi. Mẹ cứ than mỏi mắt mà vẫn làm trong tối, rồi thành lòa đấy.

Bóng đen đáp gì hắn không nghe rõ, nhưng lát sau không thấy tiếng guồng tơ quay nữa. Có bóng đàn bà đi đi lại lại trước ánh lửa, cúi xuống đứng lên như đang mải dọn dẹp.

Giọng đàn ông lại tiếp:

– Con rửa tay chân xong là vào ngay đấy ! Mẹ hâm canh lên là vừa.

Một lúc, nghe tiếng người đến bên con bò vỗ đầu nó mà nói lớn:

– Mẹ đã coi con bò con mang về chưa ? Bò cái, dáng nhiều sữa, tốt lắm.

Con vật rùng mình, dậm chân. Người kia vỗ nhè nhẹ lên vai nó. Tiếng bà mẹ trong nhà vọng ra:

– Để đấy mai hãy hay, trời tối thế này coi gì được.

Lợi dụng cơ hội tốt, Thạch Đạt Lang đổi chỗ nấp. Hắn lẳng lặng trườn đến dưới cửa sổ, nép mình bên tảng đá, hé mắt nhìn vào gian phòng chính trong nhà. Ngoài ánh sáng từ lò lửa phát ra còn ánh sáng một cây đèn nhỏ để ở góc phòng, nên tương đối trông khá rõ mọi thứ. Vật đầu tiên khiến hắn chú ý là một cây thương dài treo trên vách, gác vào một cái giá mồ hóng đã đóng đen. Mũi thương bóng loáng. Những vòng vàng hoặc đồng cẩn trên cán thương đỏ rực, chứng tỏ vũ khí ấy đã được sử dụng thường xuyên và vẫn được lau chùi một cách trìu mến.

Thạch Đạt Lang lấy làm lạ. Theo luật hiện hành, nhà nông không được dùng vũ khí dù họ có đủ tiền mua. Đó là những vật dụng không được tàng trữ trong nông trại, đừng nói gì đến dùng nó.

Gã đàn ông bước vào phòng. Gã còn trẻ, trạc ngoài hai mươi nhưng thoạt trông đã biết không phải là một nông dân thường.

Mắt gã tinh nhanh và sắc sảo. Gã mặc áo màu chàm theo kiểu nông dân, ngắn tới gối nhưng chân quấn xà cạp và đi dép cỏ. Mặt tròn, tóc rậm buộc túm về phía sau bằng sợi dây thừng ngắn. Trông gã nặng nề, bước đi chậm chạp nhưng vững vàng như bước đi của một con gấu. Từ trong bếp mùi khói tỏa ra, cay và khét. Khói sộc vào mũi khiến Thạch Đạt Lang khó chịu, muốn hắt hơi. Hắn cố giữ, đưa tay che mũi song quá trễ.

Tiếng hắt hơi bị ngắt quãng làm bà mẹ từ trong bếp nói vọng ra:

– Ai đó ?

Không nghe đáp, bà tiếp:

– Lâm Bằng ! Cổng ngoài đóng kỹ chưa ? Ta nghe tiếng ho, hình như có người lạ trong vườn !

Thạch Đạt Lang rón rén bước khỏi chỗ nấp dưới cửa sổ, đến ẩn sau một gốc cây.

– Phải tiếng ho không hay mẹ nghe lầm tiếng chuột rúc đấy ?

– Ta đâu điếc. Chắc khói bếp làm nó ho. Ngươi ra coi xem.

Im lặng một lúc, rồi tiếng chân bước. Những bước vững vàng, chắc chắn.

Người có tên Lâm Bằng nhẹ nhàng kéo cánh cửa chính. Thong thả, từ tốn, gã phóng tia mắt ngờ vực nhìn bốn phía, đầu hơi đưa về phía trước. Dáng điệu gã có một vẻ gì thận trọng khiến Thạch Đạt Lang phải e dè. Hắn không biết Lâm Bằng có mang võ khí gì không nhưng khi thấy gã bước ra hiên và ánh sáng trong nhà hắt lên lưng, Thạch Đạt Lang thấy rõ một cây gậy gã giấu đằng sau. Cây gậy khá dài, bằng tre lên nước bóng loáng. Nhìn cách cầm cây gậy sát vào người, Thạch Đạt Lang tin rằng gã đã sử dụng cây gậy này nhiều lần và thành thuộc lắm.

Từ chỗ nấp sau gốc cây, hắn nhảy ra:

– Yên tâm ! Ta không phải kẻ đạo chích. Ta đến tìm một người.

Lâm Bằng khựng lại, phóng tia mắt sắc như dao yên lặng nhìn Thạch Đạt Lang, đánh giá địch thủ.

– Ngươi hãy đem trả thiếu nữ và đứa nhỏ bị bắt lúc nãy. Nếu họ không sao thì ta bỏ qua, coi như không có chuyện gì. Nhưng nếu họ bị thương, ta sẽ không tha thứ …

Yên lặng. Tuyết tan trên đỉnh núi khiến dòng suối sau trại dềnh lên, nước chảy róc rách càng làm tăng sự yên lặng nặng nề.

– Mang họ ra đây ! Lập tức !

Giọng Thạch Đạt Lang cất cao, quyền uy và cấp bách. Nhưng Lâm Bằng đâu phải là người dễ bị áp đảo. Tay phải giữ đầu gậy tre áp sát vào mình, gã sẵn sàng tung đòn chí tử.

– Đồ dòi bọ ! Ngươi là ai, tên gì ? Sao dám đến đây bảo ta bắt cóc con nít ?

– Ngươi thừa biết người thiếu nữ cưỡi con bò kia và đứa trẻ yếu đuối không thể tự vệ nên đã hèn hạ cưỡng bách bắt đi, còn chối nỗi gì !

Một tiếng rít. Cây gậy tung ra nhanh như chớp. Thạch Đạt Lang chưa kịp nhận ra đâu là đầu gậy, đâu là cánh tay người cầm thì gậy đã tới sát bên sườn. Hắn nhảy chéo, tránh miếng đòn sát thủ.

– Khoan ! Đừng manh động, ngươi sẽ hối không kịp !

Nhưng Lâm Bằng dường như không để lời cảnh cáo ấy vào tai. Thạch Đạt Lang lùi ba bước thì gã cũng tiến ba bước, liên tiếp phóng chiêu bổ trên, phát ngang và quạt là là mặt đất.

Thạch Đạt Lang tiếp tục tránh né. Hai lần, hắn định rút kiếm nhưng lần nào cũng không được. Vì đưa tay rút kiếm, khuỷu tay phải của hắn sẽ bị hở. Đòn gậy tre của địch thủ vù vù trước mặt, nhanh và mạnh như vũ bão, tất nhiên không để hắn làm việc ấy.

Thạch Đạt Lang thấy địch thủ không phải kẻ tầm thường. Chỉ một chút khinh xuất cũng có thể mất mạng. Hắn giữ thế thủ, chú tâm quan sát đối phương, thấy gã rất bình tĩnh, tấn vững vàng, thủ kín đáo mà công mau lẹ. Thạch Đạt Lang nghĩ thầm:

Gã nông dân này học lối đánh côn ở đâu thật xuất sắc. Gã đã làm chủ được cây gậy của mình, kỹ thuật còn cao hơn nhiều người sử dụng gươm bén. Nhưng Thạch Đạt Lang không có thì giờ lượng định lâu. Đòn này tiếp đòn khác, lúc tay trái, lúc tay phải, lúc cả hai tay, Lâm Bằng sử dụng cây gậy tre cực kỳ xảo diệu đôi lúc làm Thạch Đạt Lang tránh đòn xong mà kinh hãi toát mồ hôi. Gươm còn có cán, có mũi, nhưng cây gậy của gã nông dân này có hai đầu, đầu nào cũng chí tử. Gã tung lên, bổ xuống, phạt ngang, đâm trước, thúc sau, quay tít cây gậy như tay thợ rất mực lành nghề bắt bột làm kẹo:

lúc dài, lúc ngắn, lúc cao, lúc thấp, lúc kéo bột nhỏ như tơ, lúc cô đặc thành cục, chỗ nào cũng thấy đầu gậy, lúc nào cũng thấy đầu gậy cả.

Tiếng bà mẹ từ trong nhà vọng ra:

– Lâm Bằng ! Thằng này chẳng phải đồ thảo khấu tầm thường.

Thanh âm bà có vẻ quan ngại như chính bà đang giao đấu.

– Không hề gì.

Giọng Lâm Bằng bình tĩnh. Những chiêu thức kỳ quái lại tiếp tục được phóng ra, mạnh và nhanh hơn trước. Dường như thấy có mẹ đứng quan sát, gã lên tinh thần và càng thêm phấn khởi.

Mẹ Lâm Bằng hô lớn:

– Cẩn thận ! Nó ở bên trái. Sử đòn Liên Hoa Lạc.

Nhưng bộ vị của Thạch Đạt Lang chỉ là hư bộ. Lợi dụng lúc Lâm Bằng bị phân tâm, Thạch Đạt Lang tiến sát đến bên gã, chộp cổ tay Lâm Bằng nắm cứng rồi dùng một thế nhu quyền vật ngã quay lơ ra đất. Cây gậy văng ra xa. Mặt Lâm Bằng nhăn lại vì đau đớn. Bà mẹ kêu thét nhảy vào nhà trong rồi tung cửa ra ngoài.

Trên mặt cỏ, Lâm Bằng nằm ngửa. Gã nghiến răng, cong người, hai chân đạp xuống đất bành bạch, cố hết sức hất Thạch Đạt Lang đang quỳ đầu gối trên ngực. Hai địch thủ công lực có phần tương đương nhưng Thạch Đạt Lang nhờ nhanh nhẹn đã chiếm được thượng phong. Những ngón tay cứng như sắt của hắn đã ghì Lâm Bằng xuống mạnh và chắc như những sợi dây lòi tói. Thế mà hắn cũng phải vất vả lắm mới giữ được địch thủ khỏi vùng dậy. Cả hai không nói một lời, không phát ra một tiếng kêu.

Chỉ nghe phì phì như hơi thở của loài mãng xà trong bóng tối.

– Lâm Bằng ! Đừng sợ !

Nghe tiếng mẹ Lâm Bằng, Thạch Đạt Lang tưởng trong tình thế này, thế nào bà cũng xin tha cho con trai. Và hắn cũng chẳng hẹp hòi gì mà không thuận.

Nhưng hắn lầm. Bà mẹ Lâm Bằng chạy ra, trong tay đã lăm lăm cây thương từ bao giờ. Dưới ánh đèn hắt qua khung cửa vừa mở, mũi thương và những vòng đồng trên cán thương lóe sáng. Và lưng hắn sẽ là cái đích dễ dàng cho mũi thương ấy.

Thạch Đạt Lang cảm thấy nhột nhạt, dường như tia mắt của bà cũ đã xoáy vào gáy hắn trước khi ngọn thương đâm tới.

Hắn tiếc đã phản ứng chậm, không giải quyết cuộc đấu sớm hơn để bây giờ đứng trước một tình thế khó xử. Lối thoát độc nhất của Thạch Đạt Lang là phải bỏ ngay gã nông phu. Như mũi tên bật khỏi dây cung, Thạch Đạt Lang tức khắc tung mình đánh vút, chớp mắt đã nhảy ra khỏi sân, xa hơn một trượng. Hắn lăn mình đến gần gốc cây, thanh mộc kiếm sẵn sàng cầm trong tay lăm lẳm.

Mũi thương cũng vừa phóng tới, cắm ngập xuống đất chỉ cách chỗ Lâm Bằng nằm chừng hơn gang, cán thương còn rung rung dưới sức ném của bà lão.

– Ái chà ! Thằng này giỏi ! Ngươi tưởng chúng ta là những nông dân quê mùa nên đến đây tác quái chăng ?

Lâm Bằng vùng đứng dậy. Gã xốc lại áo và khoát tay:

– Khoan ! Con nghĩ đây là một chuyện hiểu lầm. Ta chẳng nên vì chuyện hiểu lầm mà giết hại nhau vô ích !

Đoạn quay sang phía Thạch Đạt Lang:

– Túc hạ là ai không rõ, nhưng bất luận là ai cũng xin thu kiếm về. Đây là một sự hiểu lầm đáng tiếc.

Thấy thái độ khoan hòa của địch thủ, Thạch Đạt Lang gật đầu tra kiếm vào vỏ:

– Tại hạ cũng có điều không phải, xin thứ lỗi.

Bèn tự xưng danh tính, rồi cả ba bước vào nhà.

Phân ngôi chủ khách xong, Thạch Đạt Lang trình bày lý do tại sao đến đây và hỏi về lai lịch con bò cái.

– À ra thế ! Lâm Bằng vỗ đùi đáp. Vì con bò mà ngờ vực. Cũng chẳng có gì đâu, do ngẫu nhiên thôi. Số là kẻ thô lậu này lúc chiều đi câu cá, thấy con bò vị sa lầy gần đầm cỏ lác. Nó không lên được, cứ đứng đấy mà kêu rống. Chỗ hoang dã chẳng có ai, nghĩ âu là của trời cho nên cố gắng buộc dây kéo lên. Ở chốn thôn ổ, có con bò như có thêm người giúp việc. Huống chi đây lại là con bò cái, sữa tốt lắm. Không ngờ lại là bò của tráng sĩ …

Nghe những lời chất phác, Thạch Đạt Lang mỉm cười:

– Cũng chẳng phải của tại hạ. Đấy là bò thuê để người bạn đồng hành cưỡi. Thật đáng tiếc đã không trình bày rõ ràng để đến nỗi suýt nữa thì xẩy ra thù oán !

Mẹ Lâm Bằng xen vào:

– Tráng sĩ nói phải. Nhiều khi có những chuyện không đâu mà làm lụy đến nhiều người. Đây là bài học quý giá. Ta sống đã quá nửa đời rồi nhưng hành động quả còn hấp tấp. Lâm Bằng, ngươi dẫn tráng sĩ đi xét khắp các nơi đi, để tráng sĩ yên lòng chúng ta không giấu những người bạn của tráng sĩ ở trong nhà.

Đoạn quay sang Thạch Đạt Lang, bà nói:

– Xin tráng sĩ cứ tự tiện lục soát.

Lâm Bằng cũng phụ họa:

– Để các hạ nghi ngờ, tại hạ thật vẫn còn áy náy. Nào xin mời các hạ.

Nhưng Thạch Đạt Lang gạt đi:

– Thôi, bất tất ! Lời lão bá và Lâm bằng hữu cũng đủ cho tại hạ tin rồi. Tại hạ làm phiền lão bá và bằng hữu đã nhiều. Xin cho cáo biệt.

– Không được. Mẹ Lâm Bằng lại nói. Lâm Bằng, ngươi ăn cơm đi rồi dẫn tráng sĩ đến khu rừng ven hồ. Ta chắc nếu chúng bắt cóc cô nương thì cũng đem đến quanh đó thôi. Chỗ ấy là nơi tụ tập của nhiều du đãng bất lương lắm.

Lúc đầu gió còn thổi nhẹ, sau mạnh dần, ào ào qua những tàn cây lớn và kéo rạp đầu các bụi lau sậy. Bó đuốc trong tay Lâm Bằng đã phải mồi lại mấy lần mà xem chừng gió chưa đứng.

Số nông dân trong vùng này đếm được khoảng mười nhà. Lâm Bằng dẫn Thạch Đạt Lang đi hỏi tin tức đã đến chín. Vẫn không kết quả. Đến đâu cũng chỉ gặp những bộ mặt e dè hoặc ngái ngủ. Không ai trông thấy bất kỳ một thiếu nữ hoặc thiếu niên nào có hình dạng như Thạch Đạt Lang mô tả.

Lâm Bằng bảo bạn đồng hành:

– Còn một căn nữa ở cuối xóm. Gia đình này vừa làm nghề trồng rẫy vừa săn thú.

Nếu không có tin gì khác thì đêm nay ta đến phải ngưng. Quanh đây không còn ai để hỏi thăm nữa.

– Đa tạ bằng hữu đã nhọc công. Nếu không ai biết hay nghe nói gì thì chắc chúng không dẫn qua đây rồi.

– Có gì mà nhọc công. Đi bộ tại hạ không ngại, đi cả đêm cũng chẳng sao. Có điều không biết đường hướng gì mà cứ đi thì thật vô ích.

– Đúng thế.

– Hai người đó với các hạ liên hệ ra sao ? Thân thuộc, bạn bè hay nô bộc ?

– Họ là những người thân nhất của tại hạ.

Thấy Thạch Đạt Lang đáp lửng lơ, Lâm Bằng cũng không hỏi thêm. Cả hai yên lặng đi dưới ánh đuốc. Mặc dầu gió đã dịu hơn trước nhiều nhưng ngọn lửa vẫn chiếu ánh sáng bập bùng đỏ quạch lên những cành cây khiến chúng trông như những cánh tay của những hình thù quái dị đang múa may trong đêm tối.

Thạch Đạt Lang muốn biết thêm về kỹ thuật sử côn của người nông phu nhưng không tiện hỏi. Buổi sơ kiến hắn không muốn tỏ ra tò mò quá. Hắn tự nhủ “Thôi để chờ dịp khác. Thế nào ta cũng phải tìm hiểu mới được. Một kỹ thuật trác tuyệt như vậy mà mình không học hỏi thì thật đáng tiếc !”.

Đã đến cuối xóm. Lâm Bằng chỉ căn trại nằm khuất sau một bụi tre cao, những gốc tre lớn bằng bắp chân lá rậm xào xạc và thân tre cọ vào nhau kẽo kẹt.

– Đến nơi rồi. Các hạ đứng đây để tại hạ vào hỏi thì hơn. Họ biết tại hạ nên không nghi ngờ gì, có thể cho mình tin tức tốt.

Lâm Bằng đi vào con đường đất nhỏ. Lát sau nghe tiếng gã đập cửa. Khi cầm đuốc đi ra, trông gã có vẻ vội vàng hơn trước. Gã nói:

– Người chồng không biết gì, nhưng vợ hắn cho một tin chắc các hạ phải hài lòng.

Dáng điệu và lời nói của Lâm Bằng khiến Thạch Đạt Lang bồn chồn. Hắn nhướng lông mày ra dáng hỏi.

– Mụ vợ nói lúc chiều có gặp một thằng bé chừng mười bốn mười lăm tuổi, quần áo lem luốc, lưng đeo thanh gươm gỗ dài, nét mặt hớt hải. Nó hỏi thăm mụ đường đến văn phòng quận lỵ. Mụ hỏi nó đến để làm gì thì nó nói để thưa việc cô nó bị một tên du đãng bắt đi nên nhờ văn phòng và lính tuần tìm giúp.

Mụ khuyên thằng bé không nên đến, vô ích. Lính tuần không bao giờ tìm giúp những người dân thường bị bắt. Nếu kẻ đó là hàng quý tộc thì lính tuần mới làm, còn không thì mặc kệ. Những chuyện bắt người dẫn đi như thế này xảy ra hằng bữa, sáng, trưa, chiều, tối, ai hơi đâu !

Theo ý tại hạ, thằng bé ấy có thể là người các hạ muốn tìm. Các hạ nghĩ sao ?

Thạch Đạt Lang gật đầu:

– Đúng rồi. Thế bây giờ nó đâu, đi về hướng nào ? Người đàn bà có cho biết thêm tin tức gì không ?

– Co. Mụ bảo mụ khuyên thằng bé đến Narai, quá ngã ba Yabuhara. Ở đấy có một lão hiệp tên Đại Cổ, chuyên buôn bán dược thảo lại hay cứu giúp người khốn khó. Đến đấy mà tìm.

Thạch Đạt Lang mừng lắm, cảm ơn Lâm Bằng:

– Đa tạ bằng hữu. Nhờ quý bằng hữu, tại hạ mới biết phải làm gì. Tại hạ xin đi ngay gặp vị lão hiệp ấy, may ra …

– Bây giờ thì trễ rồi, mà đi đêm xuyên rừng cũng khó. Chi bằng xin mời về nghỉ tạm ở tệ xá, để sáng mãi cũng không muộn.

– Được không ? Sợ phiền lão bá …

– Có gì mà phiền. Ta băng qua hồ này, đỡ được nửa đường. Tại hạ đã hỏi mượn thuyền của chủ nhân căn trại vừa rồi. Xin cứ theo tại hạ.

Cả hai men theo đường xuống hồ, tới một bực đá quả nhiên có chiếc thuyền con buộc đó.

Gió đã yên từ bao giờ. Mặt hồ, phẳng như mặt trống, phản chiếu bóng núi Koma đen sẫm cắt trên nền trời đầy sao lấp lánh.

Thạch Đạt Lang giơ cao đuốc, Lâm Bằng chống sào đẩy chiếc thuyền con lướt nhẹ trên mặt hồ phẳng lặng. Ánh đuốc phản chiếu mặt hồ đỏ rực, hồng hơn cả ngọn lửa bó đuốc hắn cầm trên tay.

Chương 54: Vết răng rắn độc

Ánh đuốc trông xa tựa đôi chim lửa đang vờn nhau trên mặt hồ, trong một chuyện thần thoại.

Bên bờ hồ, Mãn Hà Chí nhìn sững, khẽ thốt:

– Có người ! Có người đấy !

Gã kéo dây thừng buộc chéo tay Oa Tử lại với nhau, lôi nàng đứng dậy. Nhưng Oa Tử ghì xuống, nhất định không đứng.

– Đứng dậy !

– Không !

Mãn Hà Chí nắm đầu dây quất vào vai Oa Tử. Nàng vẫn ngồi lì.

– À bướng ! Này, bướng ! Này, bướng !

Sau mỗi tiếng, gã lại quất đầu dây thừng vào vai, vào lưng thiếu nữ. Oa Tử đau, nhăn mặt, nước mắt chảy ràn rụa nhưng tuyệt nhiên không thốt một lời van xin hay mắng nhiếc. Thái độ ấy như khiêu khích và càng làm cho Mãn Hà Chí giận dữ hơn, gã nắm cổ áo kéo nàng đứng dậy.

– Đứng lên ! Muốn hay không cũng phải đi theo ta !

Rồi đẩy Oa Tử một cái. Thiếu nữ ngã sấp. Tay bị trói, nàng đang cựa quậy uốn mình định ngồi dậy thì bị Mãn Hà Chí nắm tóc giật mạnh khiến nàng bật ngửa. Đau và tức giận, Oa Tử dùng chân đạp gã rồi kêu cứu ầm lên. Mãn Hà Chí giơ tay bịt vội miệng nàng, tay kia xé vạt áo nhét vào miệng Oa Tử. Oa Tử chỉ còn ú ớ. Một vệt máu đen rỉ ra bên khoé mép. Mặc kệ ! Mãn Hà Chí cúi xuống nắm cổ áo Oa Tử lôi đi như lôi một con vật.

Đến một ngôi miếu nhỏ bỏ hoang bên rặng liễu, Mãn Hà Chí đẩy cửa, kéo Oa Tử vào. Miếu hôi hám, mùi ẩm mốc xông lên nồng nặc nhưng trên bệ gạch thờ đã đổ nát còn lưu lại một bát hương bằng sành và hai cái chén gỗ.

Mái miếu thủng một lỗ lớn, ánh sao đêm chiếu lờ mờ hình vẽ một con rắn quấn chung quanh cái cột, đầu ngóc lên như đe dọa. Bất giác Oa Tử ước trở thành con rắn để có thể chui qua khe miếu mà trốn thoát.

Đưa mắt nhìn quanh, thấy không có gì khả nghi, Mãn Hà Chí đẩy Oa Tử vào sát bệ thờ rồi ra khỏi miếu, khép cửa. Ngồi chặn bên ngoài, gã nhìn ánh lửa đuốc trên mặt hồ xa dần và suy nghĩ miên man. Bữa nay thật là một ngày khó nhọc. Lúc bắt Oa Tử dẫn vào rừng, gã có ngờ đâu nàng bướng đến thế. Có lúc Oa Tử đòi cắn lưỡi tự tử. Mãn Hà Chí biết tính nàng, những lời đe doa. ấy chẳng phải là những lời dọa suông. Bị khinh miệt quá sức, Mãn Hà Chí đã có ý tưởng sát nhân nhưng không dám thực hiện. Âu cũng là điều may, vì ngồi đây bây giờ, nếu làm việc ấy gã sẽ hối hận biết chừng nào.

Mãn Hà Chí không hiểu tại sao đàn bà lại ưa Thạch Đạt Lang hơn gã trong khi lúc đầu thì khác hẳn. Oa Tử đấy, trước đây đã chẳng là vị hôn thê của gã là gì ? Ôkô nữa, lúc đầu chọn đi theo gã, sau lại coi gã như một miếng giẻ thừa, muốn vất đi cho rảnh nợ. Lại cả A Kế Mỹ ! Người đàn bà nào khi gặp Thạch Đạt Lang cũng so sánh nó với gã. Chỉ có một lý do để cắt nghĩa:

Thạch Đạt Lang đã nói xấu gã sau lưng, thế thôi ! Cho nên nó đã chiếm được lòng Oa Tử. Nghĩ đến đấy, Mãn Hà Chí tức giận vô kể, tự trách mình ngu hết sức. “Mình đã tin vào những lời giả nhân giả nghĩa của nó”. Mãn Hà Chí tự nhủ.

“Nào suốt đời làm bạn, nào giúp đỡ lẫn nhau, nào tìm thầy dậy nghề cho mình để làm lại cuộc đời ! Láo ! Láo hết ! Trong khi ấy nó đi với vợ mình”. Cơn ghen khiến Mãn Hà Chí mờ mắt.

– Thằng đểu !

Gã thốt ra lời chửi tục tằn và rủa thầm Thạch Đạt Lang đã lừa dối:

“Bây giờ ta mới biết. Thì ra trên đời này có những thằng bên ngoài được mọi người kính nể mà bên trong toàn dòi bọ. Đọc thiên kinh vạn quyển ? Trau dồi kiếm đạo ? Để làm gì ? Hừ ! Để trở nên thằng phản bạn, lừa lọc, đạo đức giả à ?”.

Mãn Hà Chí nắm chặt hai tay đạp vào đùi:

“Nhất định ! Phen này ta nhất định phải làm cho nó biết tay. Ta còn thở ngày nào là còn phải nghĩ đến trả thù ngày đó !”.

Gã đạp tung cửa, nhảy vào trong miếu. Nhìn Oa Tử nằm co quắp bên bệ gạch, gã hét:

– Con kia ! Trả lời tức khắc câu ta hỏi lúc nãy !

Im lặng.

– À ra nó khinh mình ! Nó ra gan ! Nó …

Sực nhớ ra nùi giẻ vẫn còn trong miệng Oa Tử, Mãn Hà Chí cúi xuống giật mạnh.

– Oa Tử ! Hãy trả lời câu ta hỏi !

Tiếng Oa Tử yếu ớt:

– Ta không có gì phải trả lời. Nếu ngươi muốn giết ta thì cứ giết, nhưng nên xử sự đĩnh đạt, xứng đáng là kẻ nam nhi …

Mãn Hà Chí cười khẩy:

– Đừng nói bậy. Ta giết ngươi làm gì. Ý ta đã quyết phải cho ngươi và thằng Kinh Tử đau khổ suốt đời vì chúng bay làm hại đời ta.

– Mãn Hà Chí ! Ngươi lầm rồi. Chính ngươi đã quyết định đời ngươi. Ngươi đi theo Ôkô mới ra nông nỗi …

– Nói láo !

Lời nói của Oa Tử đã khơi dậy nỗi đau và sự bất lực trong lòng gã. Gã lớn tiếng:

– Câm mồm ! Ta cấm nói đến chuyện ấy.

Oa Tử thở dài thất vọng:

– Mẹ con ngươi là những kẻ lạ đời. Sao cứ ngoan cố đổ tội cho kẻ khác và nuôi lòng oán hận phi lý …

– Không nói lôi thôi ! Ta chỉ muốn hỏi ngươi có bằng lòng lấy ta không ? Nghĩ đi rồi trả lời cho ta biết.

Giọng Oa Tử yếu ớt nhưng cương quyết:

– Việc gì phải nghĩ nữa. Trong đời này và tất cả những đời sau, ta chỉ yêu có Thạch Đạt Lang. Lòng ta là của chàng rồi ! Sẽ không bao giờ thuộc về một tên hèn hạ như ngươi cả !

– A !

Toàn thân Mãn Hà Chí run lẩy bẩy. Gã nhếch mép cười độc ác.

– Dù muốn hay không, đêm nay mày cũng ở trong tay ta …

Oa Tử rùng mình:

– Ta không cha không mẹ. Không một ai thân thích khác. Ta không sợ chết.

– Hừ ! Ai nói đến cái chết ! Giết ngươi để làm gì ? Ta sẽ làm thế này …

Mãn Hà Chí vồ lấy Oa Tử, một tay bịt chặt miệng nàng, một tay nắm lấy tay Oa Tử. Mãn Hà Chí cắn lên vai thiếu nữ. Oa Tử thét lên đau đớn nhưng tiếng thét bị chặn ngay trong cổ họng như tiếng con vật bị chọc tiết. Máu loang ra thấm cả áo ngoài, chảy theo cánh tay trần của Oa Tử xuống đến tận lòng bàn tay Mãn Hà Chí. Oa Tử dãy dụa, mặt tái dần rồi ngã lăn ra bất tỉnh. Mãn Hà Chí bỏ nàng xuống. Trên trán Oa Tử, mồ hôi vã ra lạnh ngắt. Mãn Hà Chí lo sợ, cúi xuống cạy miệng thiếu nữ xem nàng có cắn đứt lưỡi không. Thấy không có máu, gã yên tâm, giật tóc mai và gọi cho nàng tỉnh.

Lúc sau, Oa Tử mở mắt. Trong cơn hôn mê, nàng lắp bắp gọi tên Giang cầu cứu.

Đến khi định thần lại và biết mình đang ở đâu, Oa Tử mới thôi. Cơn đau kéo đến khiến vai tê dại, nàng cố giữ cho khỏi bật ra tiếng khóc to nhưng nước mắt vẫn ràn rụa hai bên má.

Trong bóng tối của gian miếu hoang, sự yên lặng chỉ bị cắt đứt bởi những tiếng thút thít và tiếng rên nho nhỏ.

– Đau hả ? Đó là bài học để ngươi ghi nhớ suốt đời. Dù vết cắn trên vai ngươi có lành nhưng vẫn còn vết sẹo. Để ngươi biết ngươi là của ta, đã thuộc về ta. Để thằng Kinh Tử cũng phải biết thế. Bây giờ thì trốn đi. Muốn trốn ta cho trốn nhưng không thể quên ta được !

Oa Tử muốn đứng dậy nhổ vào mặt tên vô sỉ hèn hạ, nhưng không đủ sức. Mệt quá rồi, nàng chẳng còn nghe thấy gì nữa, chẳng còn làm gì được nữa dù biết rằng gã hèn hạ ấy đang quỳ bên cạnh tháo dây trói cho nàng.

Mãn Hà Chí với tay lên bệ thờ, cầm chiếc chén gỗ ra hồ múc nước. Vừa bước khỏi cửa, thấy ngay một bóng đen ù té chạy. Gã đuổi theo bén gót, ôm được, vật ngay xuống.

Thì ra là một lão nông.

– Xin đại nhân tha mạng. Già này chẳng làm gì nên tội. Nhân dẫn lừa mang thóc ra chợ bán, thấy có tiếng khóc trong miếu thì tò mò dòm xem mà thôi …

– Thật không ? Hay định dò xét cái gì ?

– Bẩm thật, lão đã già không dám nói dối …

– Vậy lừa đâu ?

– Dạ Ở đằng kia.

– Dẫn ta lại coi, nếu không thì coi chừng cái đầu lão !

Vừa dọa, Mãn Hà Chí vừa mân mê chuôi kiếm đeo bên sườn.

– Dạ dạ …

Đi khỏi ba gốc liễu, quả nhiên thấy con lừa trên lưng tải hai bịch thóc. Mãn Hà Chí bảo ông già:

– Bỏ thóc đi, dẫn lừa theo ta trở lại miếu.

Tội nghiệp ông già chất phác, gặp người đeo gươm thì sợ hãi, chẳng quan quân cũng phường thảo khấu, đều có quyền sinh sát cả. Lão líu ríu vâng lời.

– Chúng ta muốn đi Edo, cần con lừa của ngươi để cô nương cưỡi.

– Dạ dạ …

– Mà chúng ta không muốn đi đường đông đúc. Ngươi hãy dẫn lừa theo đường mòn trong rừng, càng vắng càng tốt.

– Dạ, xin đại nhân lấy con lừa, còn tha cho già này về cày cấy. Vợ già đau ốm, chỉ trông cậy vào có mình già.

– Không được ! Đừng có lôi thôi. Muốn ta thử gươm trên cái đầu hói của lão hả ?

– Dạ dạ …Nhưng đi đường rừng phải trèo cao, mệt nhọc lắm, chẳng biết già này có kham nổi không ?

– Mặc kệ !

Mãn Hà Chí túm cổ ông lão, bắt cột hành trang rồi vực Oa Tử lên lưng lừa. Cả ba người cùng với con vật qua khỏi rặng liễu thì trực chỉ khu rừng chân núi.

Đường mòn càng lúc càng dôc thêm, ông già dẫn lừa thở phì phò mà con vật xem chừng bước chân cũng không được vững nữa. Sỏi đá đổ rào rào. Dưới chân họ, mây mù tụ từng đám nhưng ở xa xa, về phương đông, trời đã hửng sáng.

Oa Tử nằm phục trên lưng lừa từ khi còn tối, chẳng nói một lời. Khi nhìn ánh dương quang vừa hé, nàng bảo Mãn Hà Chí:

– Mãn Hà Chí ! Tha ông già về và trả con lừa lại cho người ta. Ta thấy đã có thể đi bộ được.

– Ngươi có trốn không ?

– Không. Ta cam đoan không trốn.

Rồi với nụ cười héo hắt, nàng tiếp:

– Trốn làm gì khi ta còn phải mang trên vai vết răng của loài rắn độc.

Chương 55: Lời cảnh giác của 1 người mẹ

– Con đã dùng những đòn đặc biệt, nhưng nó khoẻ và nhanh vô cùng. Sợ không làm gì được …

Mẹ Lâm Bằng cắt ngang:

– Nói nhỏ chứ ! Khua nó dậy đấy hả ? Mày thua nó chỉ vì sơ xuất. Từ trước mày chưa gặp đối thủ nào xứng đáng nên thiếu kinh nghiệm, bây giờ là lúc có cơ hội tốt để học hỏi …

Bà nói dịu dàng nhưng cương quyết và khích lệ, nghe như lời răn bảo một đứa trẻ lên năm.

– Phải có ý chí và quyết tâm mới nên người được chứ ! Đừng để uổng công ta nuôi dạy.

Thạch Đạt Lang tỉnh đã lâu. Những lời đối thoại của mẹ con gã nông phu ở phòng kế tuy nhỏ nhưng nghe khá rõ, làm hắn ngạc nhiên. Cuộc đụng độ tối qua tưởng như kết thúc, Thạch Đạt Lang coi đó chỉ là một sự hiểu lầm giữa đôi bên, không ngờ có hậu quả nghiêm trọng trong gia đình này đến thế.

Một tiếng nấc nhỏ, cơ hồ gã nông phu không giữ được xúc động bật lên khóc. Rồi tiếng bà mẹ nghiêm nghị:

– Vô ích ! Khóc không giải quyết được gì cả. Hãy thách nó giao đấu lần nữa để giữ vững lòng tự tin. Ta xem đường côn của mày đâu đến nỗi …

– Nhưng con không đủ sức. Xin mẹ tha thứ cho con, mẹ cho con bỏ võ công để làm một nông dân thường. Con cầm cuốc có lẽ còn có ích hơn cầm côn.

Thạch Đạt Lang nhẹ nhàng tung chăn ngồi dậy, đến bên vách ghé mắt dòm qua khe cửa. Trời mới rạng đông, phòng còn tối nhưng hắn cũng thấy mẹ Lâm Bằng ngồi trên chiếu đối diện với người con trai trước bàn thờ gia tiên. Tuy đã có tuổi, vậy mà lưng bà chưa còng và phong cách chững chạc trong thế ngồi rất nghiêm túc của bà chứng tỏ bà đã thừa hưởng một quá khứ vinh hiển từ một dòng họ hào hùng. Bất giác Thạch Đạt Lang đem lòng kính nể và có hảo cảm với người đàn bà cương nghị ấy.

Lâm Bằng vẫn mặc bộ y phục ngày hôm trước, vóc dáng to lớn thô kệch trái hẳn với thái độ khiêm cung của gã lúc bấy giờ.

Bà cụ sẵng giọng:

– Mày nói cái gì ? Muốn làm nghề nông cả đời hay sao ?

Lâm Bằng lặng thinh, đầu cúi gục. Bà bèn nhích lại gần, kéo đầu con trai đặt vào lòng mình rồi nói bằng một giọng ôn tồn và âu yếm:

– Lâm Bằng ! Ta cố gắng đến ngày nay là để mong con trở thành hào kiệt, khôi phục lại danh dự của cha ông. Con biết đấy, ta không nề khổ cực, sinh nhai đạm bạc cũng chỉ vì mục đích ấy. Bây giờ bỏ cả, như thế là thế nào ? Con không nghĩ gì đến công phu tập luyện hàng chục năm nay, không thương ta, không quan tâm đến dòng máu hiệp sĩ đất Kiso nữa hay sao ?

Nói xong, dường như không cầm được xúc cảm, bà khóc. Xúc cảm hay lây. Lâm Bằng cũng chan chứa nước mắt.

– Sao bây giờ con khác trước ? Can đảm để đâu ?

Bà lau nước mắt:

– Nó còn ở phòng bên. Chừng nào nó tỉnh dậy, con hãy tìm cách khiêu khích nó để giao tranh lần nữa. Nếu con để mất lòng tự tin thì họ nhà ta coi như đến đây là tuyệt diệt.

Lâm Bằng lắc đầu:

– Nó khôn ngoan lắm. Đêm qua đi thuyền trên mặt hồ, con đã rình cơ hội thuận tiện để tấn công nó nhưng không lúc nào nó lộ chút sơ hở. Nhiều lần con đã tự nhủ tên đó chỉ là một võ sĩ giang hồ tầm thường, nhưng không hiểu sao con không dám …

– Bởi ngươi hèn nhát, khiếp nhược. Bà gắt lên. Phải ngươi đã thề với ta sẽ lập một môn phái riêng để rạng danh tổ phụ không ? Ngươi quên rồi chăng ?

– Con không quên, nhưng sợ lúc đó con quá chủ quan, tin tưởng vào sức mình.

Chưa đủ chính chắn, làm sao dám lập môn phái ? Con trộm nghĩ thà bẻ côn đi cày con hơn để mẹ chịu cảnh cơ hàn trong lúc tuổi mẹ thì cao và sức khoẻ kém dần.

Bà cụ trừng mắt:

– Nói bậy ! Mày từ bỏ võ công để săn sóc ta không làm ta sung sướng gì hơn. Trước nay, mày chưa được dự trận nào quan trọng, mới thua một lần đã tỏ ra khiếp nhược. Ta không nói nữa. Lâm Bằng ! Khi nó dậy, mày phải khiêu khích nó. Nếu lần này thua, bấy giờ gác côn cũng chưa muộn.

Thạch Đạt Lang thong thả quay về chỗ nằm. Nếu gã nông phu khiêu khích, nhất định hắn không thể từ chối được, mà nếu hắn xuất thủ dù chỉ để tự vệ, hắn cũng sẽ thắng dễ dàng. Trận đánh này quyết định tương lai của Lâm Bằng và tuổi thọ của bà lão, vì bất luận thế nào, cục diện cũng sẽ làm tinh thần bà chấn động, không chắc sống được.

Bình tĩnh thu nhặt hành trang, hắn yên lặng mở cửa lẻn ra ngoài.

Mặt trời mới rạng. Những ngọn bạch dương trồng trước trại ửng hồng như vừa được rắc phấn. Men theo vách nhà bếp, Thạch Đạt Lang thấy con bò hắn thuê nằm thản nhiên, mắt lơ đãng nhìn ra xa, miệng nhóp nhép. Hắn đưa tay chào từ giã con vật, xuyên qua rặng bạch dương rồi rảo bước lẩn vào những bụi cây thấp ở ven rừng. Hôm ấy, núi Koma trông rõ mồn một từ chân cho đến đỉnh. Thỉnh thoảng mới có vài cụm mây hồng nhẹ nhàng trôi theo gió sáng.

“Giang còn nhỏ, Oa Tử thì yếu đuối. Không biết cả hai có gặp nguy hiểm gì không.

Nếu phen này không tìm ra tung tích thì âu cũng là Trời Phật đã an bài !”. Thạch Đạt Lang tự nhủ thầm để tìm sự yên tĩnh. Sau biến cố ở thác Phu Phụ, mặc dầu đã giữ vững ý chí quyết tâm theo con đường kiếm thuật, tâm hồn hắn đôi khi vẫn bị xao động vì tình yêu và bổn phận. Trước gió sớm bay vừa, lòng hắn cũng xôn xao như những lá bạch dương, không kềm giữ nổi.

Đến Narai, trời đã quá trưa. Trấn Narai đương hồi thịnh. Có tiệm bán đồ da, trưng ra đủ thứ loại da thuộc và lông thú. Tiệm khác trang hoàng mỹ lệ chuyên về nghề làm lược, một đặc sản đất Kiso.

Thấy một cửa hàng treo bảng hiệu vẽ con gấu lớn với chữ đề to tướng “Đại Hùng Dược Phòng” và ngay cạnh cửa có cái cũi nhốt con gấu đen, Thạch Đạt Lang bước vào.

Trong hiệu la liệt bảng gỗ nêu tên các vị thuốc đã được bào chế sẵn bằng mật gấu.

Mãi pha trà, chủ nhân không để ý, chỉ hỏi:

– Khách quan cần gì ?

– Xin lỗi, tại hạ muốn hỏi thăm một người tên Đại Cổ, nghe nói chuyên buôn bán dược thảo ở trấn Narai này.

Chủ nhân quay ra, nhướng mày, cặp kính trễ xuống mũi:

– Đại Cổ ư ? Ông ấy ở đằng kia, gần ngã ba, cách đây một quãng.

Vừa lúc ấy, một thằng bé ăn mặc ra dáng tiểu đồng bước vào. Chủ nhân vội nói:

– Này Isu, tráng sĩ muốn tìm Đại Cổ tiên sinh, mày dẫn ông ấy đi chỉ nhà cho tường tận rồi về đây ta bảo.

Tiểu đồng đầu cạo trọc chỉ để lại túm tóc phía sau gáy, ra hiệu cho Thạch Đạt Lang đi theo. Nghe chủ tiệm bào chế gọi Đại Cổ bằng tiên sinh thì chắc lão hiệp này rất được dân địa phương kính nể, Thạch Đạt Lang mừng thầm thấy công của mình không đến nỗi là công cốc. Đến ngã ba Yabuhara, thằng bé chỉ căn nhà phía trái bên kia đường và nói:

– Đấy, chỗ ấy.

Rồi tong tả quay gót.

Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Ngôi nhà không có vẻ gì là một cửa hiệu có bán dược thảo. Mặt tiền, dài đến hai trượng, bốn dãy liếp gỗ mắt cáo che gần hết. Tường cao bao bọc hai gian nhà kho lớn, cổng ra vào bằng đá khá kiên cố, cửa lúc bấy giờ đang đóng kín. Hắn đến trước cổng, ngần ngừ một lát rồi vừa đằng hắng, vừa đẩy cửa vào, thấy mình đứng ngay trong một căn phòng rộng.

– Có ai trong nhà không ?

Phòng rộng nhưng vắng, sáng mờ mờ làm hắn liên tưởng đến một tiệm nấu rượu Sakê. Nền đất nện khiến không khí mát mẻ, dễ chịu khác thường.

Thạch Đạt Lang đằng hắng nhắc lại câu hỏi. Đợi khá lâu mới thấy một người từ phòng trong bước ra. Phòng này trải chiếu, có lẽ là văn phòng. Người vừa bước ra hất hàm có ý hỏi. Thạch Đạt Lang trình bày mục đích xong, ông ta chậc lưỡi, nói:

– Thì ra tráng sĩ đến vì thằng bé đấy !

Bèn mời vào, lấy thêm gối đặt lên chiếu để khách ngồi rồi tiếp:

– Tiếc quá, tráng sĩ đến hơi trễ. Thằng bé tới đây hồi nửa đêm, bấy giờ chúng tôi đang chuẩn bị hành trang để chủ nhân đi du ngoạn. Theo lời kể hình như nó đi cùng với một nữ lang, nửa đường bị cưỡng bức bắt đi. Nếu tên vô lại đó là thảo khấu hay cường đồ thì truy ra cũng dễ, nhưng đằng này không phải. Dường như cũng lại là một kẻ lữ hành khác không phải ở địa phương này.

Thấy thằng bé tứ cố vô thân lại tỏ ý sợ hãi, Đại Cổ tiên sinh dẫn nó theo, may ra trên đường đi, tìm gặp được người mà nó gọi bằng cô, tên là …tên là …

– Oa Tử.

– Phải rồi ! Oa Tử ! Thằng bé ấy đối với tráng sĩ là thế nào ?

– Nó là học trò tại hạ.

– Thật tiếc ! Nếu tráng sĩ đến sớm chút nữa thì gặp. Đại Cổ tiên sinh mới đi khoảng đầu giờ dần.

– Các hạ biết tiên sinh đi đâu không ?

– Khó mà biết được. Vì cửa hiệu chúng tôi không giống các hiệu khác nên chủ nhân ít khi ở nhà. Mỗi năm hai lần, vào mùa xuân hay mùa thu, những kẻ hái thuốc trên núi mới mang thuốc xuống giao để chúng tôi bào chế. Lúc ấy mới bận. Còn những tháng khác, Đại Cổ tiên sinh thường đi du ngoạn các nơi, khi thì suối nước nóng, khi thì chùa miếu, chỗ nào cảnh đẹp lại dừng chân nghỉ vài ngày, có khi hàng tuần khó mà lường trước.

Lần này chắc tiên sinh đi thăm thiền viện Zenkoji rồi tiện đường đến Edo, nhưng đấy chỉ là dự đoán, chủ nhân chúng tôi không nói rõ đi đâu bao giờ. Tráng sĩ dùng trà ?

Thạch Đạt Lang gật đầu cảm ơn. Người đàn ông mang trà ra, Thạch Đạt Lang lại hỏi thêm về niên kỷ cùng vóc dáng Đại Cổ.

– Ồ ! Tráng sĩ gặp chủ nhân tôi thì nhận ra ngay. Ông đã quã ngũ tuần nhưng còn khoẻ, dáng đẫy đà, da đỏ hồng và mặt có vài vết rỗ, thái dương bên phải tóc hoa râm hơi thưa …

– Thế y phục ra sao ?

Người kia gật gù:

– Ờ …ờ …Tráng sĩ có hỏi mới nhớ. Lần này ông vận y phục đặc biệt:

kimono bằng vải sọc Trung quốc đặt mua ở Sakai riêng cho cuộc hành trình này. Mới nhập cảng, ít người biết, có khi chưa ai mặc cũng nên. Tráng sĩ thấy là nhận ra tức khắc.

Nghe mô tả, Thạch Đạt Lang cũng mường tượng được phong cách của Đại Cổ và có đôi chút khái niệm về nếp sống của ông. Hắn uống cạn chén trà, cảm ơn người làm công rồi ra khỏi hiệu.

Nắng chiều chênh chếch. Thạch Đạt Lang tự nhủ cứ đà này thì không thể nào đuổi kịp Đại Cổ trước khi trời tối nữa rồi, nhưng nếu đi tới khuya để sáng sớm hôm sau trèo lên đèo Shiojiri thì có thể đợi Đại Cổ ở đó được.

Gần đến chân đèo, ánh tà dương đã tắt hẳn. Màn sương mỏng xanh phơn phớt đã bắt đầu phủ lên mặt lộ. Trong bóng núi đổi màu đen sẫm, đây đó vài đốm lửa tiều mới nhóm càng làm tăng vẻ cô tịch đìu hiu của vùng sơn dã.

Còn đến năm chục dặm đường nữa mới đến đèo, Thạch Đạt Lang cứ lầm lũi đi, mặc cho bóng tối bao vây tứ phía. Đi đã lâu, xem chừng thấm mệt, gặp một tảng đá nhẵn, hắn ngồi xuống giở lương khô ra ăn rồi nằm nghỉ ngay trên tảng đá.

Gió mát hiu hiu, Thạch Đạt Lang lâng lâng dõi theo những vì sao nhấp nhánh và ngủ quên lúc nào không biết.

Giấc ngủ của người kiếm khách giang hồ say và lâu, mãi đến khi nghe những tiếng nói lào xào, hắn mới tỉnh.

Trời đã sáng rõ. Thạch Đạt Lang nhỏm dậy nhìn quanh không thấy ai. Ngôi miếu nhỏ chênh vênh trên mỏm đá ở đỉnh đèo trông càng nhỏ giữa cảnh bao la của trời đất.

– Lên đây ! Lối này ! Tiếng đàn ông vọng lại. Ở đây trông thấy núi Phú Sĩ !

Thạch Đạt Lang quay nhìn tứ phía. Quả nhiên, sau lưng hắn, lềnh bềnh trên một biển mây, ngọn Phú Sĩ uy nghi hồng rực phản chiếu ánh thái dương vừa hé. Núi cao và hùng vĩ, trên ngọn tuyết phủ trắng xóa, có giải mây năm sắc vắt ngang mang một vẻ đẹp huyền bí hắn chưa bao giờ thấy. Thạch Đạt Lang kêu lên khoái trá. Từ nhỏ, được xem nhiều tranh vẽ cảnh Phú Sĩ sơn, hắn cũng có đôi chút ý niệm, nhưng đây là lần đầu tiên được thấy tận mắt ngọn danh sơn này. Và cảnh thật gợi trong lòng hắn nhiều hoài cảm bao la khiến hắn xúc động vô tả.

Từ sau trận chiến dưới gốc cổ tùng, đôi khi Thạch Đạt Lang đã dám có ý tưởng cao ngạo trên đời này mấy ai đủ khả năng là đối thủ của hắn. Nhưng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, trước vẻ sáng lạn huy hoàng và bền vững của ngọn Phú Sĩ sơn, niềm ý thức sự nhỏ bé của mình và sự phù du của kiếp sống khiến hắn tự thẹn đã đặt quá nhiều quan trọng vào những võ công đạt được.

Thiên nhiên là cái thước để con người tự lượng. Hạt cát trên sông Hằng, thân phận con người là thế trong cái trình tự tạo hóa đã an bài, không cách gì thoát khỏi. Mặc cảm tự ti xâm chiếm lòng hắn, Thạch Đạt Lang quỳ xuống chắp tay cúi đầu lâm râm khấn nguyện xin được tha thứ về những ý tưởng ngạo mạn của mình, đồng thời cầu cho vong hồn mẹ hắn an nghỉ đời đời, chị hắn, Oa Tử và Giang được an lành trong cuộc sống. Sau hết, lại xin tiền nhân phù hộ cho hắn đủ nghị lực làm rạng danh tổ quốc và dân tộc, dù công nghiệp ấy hắn không dám sánh cùng núi non hùng vĩ trước mặt.

Nhưng cầu nguyện xong, nhìn lưỡi gươm bên sườn, hắn lại có ý tưởng khác. Ừ, con người nhỏ bé thật, nhưng cái gì đã khiến cho con người ý thức được mình nhỏ bé ? Thiên nhiên chỉ cao cả qua nhãn tuyến của con người. Thần linh chỉ hiện hữu khi cảm thông được với người. Chính con người, sinh vật có tâm linh và ý thức chứ không phải gỗ đá vô tri, đã phát hiện ra sự cảm thông ấy. Cho nên con người nếu hợp nhất với thiên nhiên, không phân chia nhĩ, ngã, không phân biệt với ngoại cảnh, biết lấy cái tâm bình đẳng với vũ trụ, cái tâm chân như của nhà Phật để làm căn bản hành động, thì khó gì không thực hiện được những công nghiệp vĩ đại ? Và với thanh kiếm ba thước này, hắn đâu còn nhỏ bé so với ngọn Phú Sĩ sơn kia …

Nghĩ đến đấy, Thạch Đạt Lang khoan khoái lạ thường. Tuy cách xa trăm dặm, ngọn núi dường như gần gũi hơn, trên cùng một bình diện với hắn.

Tiếng chân người rộn rịp cùng với tiếng gọi nhau í ới càng lúc càng gần. Dưới chân đèo, khách hành hương, tay nải, vai gánh đã thấy đông.

Thạch Đạt Lang nghĩ thầm “Sớm muộn gì Đại Cổ cùng với Giang cũng qua đây, nếu lời dự đoán của người làm công là đúng. Có lẽ nên thảo vài chữ để lại chỗ này, may ra thằng bé để ý. Mình lên mỏm đá cao trên kia nhìn xuống bao quát được khoảng núi rộng hơn và thấy họ dễ hơn”. Bèn lấy miếng vải và bút mực trong bọc ra viết vội:

“Đại Cổ tiên sinh nhã giám, vãn bối là sư phụ tiểu đồng cùng đi với tiên sinh. Rất mong gặp tiên sinh ở miếu trên đỉnh đèo, xin tiên sinh lưu ý”. Rồi buộc vào cành cây và rời khỏi tảng đá.

Đi được một quãng bỗng nghe phía dưới có người nói:

– Ở trên kia ! Hắn đấy !

Âm thanh quen thuộc lắm, gợi cho Thạch Đạt Lang nhớ đến tiếng rít của cây gậy tre. Quả nhiên, giọng Lâm Bằng tiếp ngay:

– Thạch Đạt Lang ! Ngươi bỏ chạy không dám giao đấu với ta ! Hèn nhát !

Thạch Đạt Lang quay lại. Đứng giữa hai tảng đá trên cao, hắn yên lặng nhìn xuống. Mẹ Lâm Bằng cưỡi bò phía sau, cách xa con trai chừng hai trượng.

Thấy Thạch Đạt Lang lặng thinh và không tỏ vẻ gì muốn giao đấu, Lâm Bằng nói:

– Mẹ đợi đây ! Con lên bắt nó !

– Không được ! Tiếng bà cắt ngang. Lúc nào mày cũng hấp tấp, nóng nảy. Trước khi giao tranh phải dự đoán ý nghĩ của địch đã. Nó đứng trên cao lăn đá xuống trong khi mày trèo thì mày nghĩ sao ?

Hai mẹ con nói nhỏ với nhau, gió thổi tạt, Thạch Đạt Lang nghe không rõ, nhưng về mặt chiến thuật, rõ ràng hắn đã chiếm thượng phong. Thạch Đạt Lang không ngại giao đấu nhưng điều làm hắn khó xử là sự tháo gỡ mối oán giận của nhà này. Nếu Lâm Bằng lại thua nữa, mối hiềm khích gia tăng và sẽ không bao giờ chấm dứt. Từ sau cuộc đụng độ với phái Hoa Sơn, Thạch Đạt Lang đã ý thức sự điên rồ của những cuộc tranh chấp chỉ nhằm mục đích thù hận. Nhìn bà mẹ Lâm Bằng, hắn liên tưởng tới bà Hồ Điểu, một người đàn bà bướng bỉnh, yêu con và yêu đảng tộc đến thành mù quáng. Khẽ lắc đầu, hắn trở góc, tiếp tục trèo lên.

– Thạch đại hiệp !

Giọng bà mẹ Lâm Bằng rõ ràng như có ý cầu khẩn. Thạch Đạt Lang dừng bước, quay lại. Bà đã từ lưng bò tuột xuống, và trước sự kinh ngạc của hắn, bà quỳ xuống sụp lạy.

Bối rối, Thạch Đạt Lang không biết xử sự ra sao. Trên cao, bên những hòn loạn thạch ngổn ngang, hắn cố gắng đáp lễ, giơ tay như mời bà đứng dậy.

– Đại hiệp ! Già này thật lấy làm thẹn đã đuổi theo đại hiệp, xin đại hiệp thứ lỗi và đừng lầm là già ngoan cố. Hành động của già chẳng phải vì ác cảm hay oán thù, chỉ xin thương đứa con già, mười năm tự học không thầy, không bạn, không kinh nghiệm.

Xin đại hiệp dạy cho nó một bài học để soi sang đường nó đi …

Thạch Đạt Lang nghe, không thốt một lời. Giọng bà cụ trở nên xúc động:

– Đại hiệp bỏ đi, già ngạc nhiên quá. Kỹ thuật thằng Lâm Bằng còn kém nhưng nó đã dày công khổ luyện. Nếu vì lý do gì nó chán nản không tập luyện thì già này phải chết không dám nhìn mặt tổ tiên nữa. Xin đại hiệp rủ lòng thương giáo huấn cho nó.

Nói đoạn, bà lại khấu đầu làm lễ.

Thạch Đạt Lang vội vàng bước xuống cầm tay bà đỡ lên lưng bò rồi bảo Lâm Bằng:

– Túc hạ dẫn bò cho lão bá. Tại hạ cần suy nghĩ. Nhận hay không sẽ trả lời túc hạ sau.

Hắn đi trước vài bước, và mặc dầu đã hứa trả lời, lúc lâu sau cũng chẳng thấy nói gì. Lâm Bằng nhìn lưng Thạch Đạt Lang, tay gã ngứa ngáy khó chịu, thỉnh thoảng lại cầm đầu dây thừng quất nhẹ vào chân bò một cái, ra vẻ bồn chồn lắm. Mẹ Lâm Bằng có dáng tư lự.

Bỗng Thạch Đạt Lang quay lại:

– Được rồi ! Tại hạ nhận.

Lâm Bằng đứng khựng, tay nắm chặt côn tre hơn:

– Vậy ngươi đã sẵn sàng ?

Không để ý đến câu hỏi, Thạch Đạt Lang nhìn bà mẹ:

– Trận đấu này quyết định sự sống chết của đôi bên, mặc dầu võ khí có khác. Xin lão bá chuẩn bị …

Lần đầu tiên Thạch Đạt Lang thấy bà lão mỉm cười:

– Già biết điều đó. Nếu con già thua trong tay đại hiệp, một người còn trẻ tuổi hơn hắn, thì hắn cũng nên bẻ côn mà quy ẩn. Vậy sống chết có gì khác đâu ? Và nếu chuyện đó xảy ra, già cũng không oán hận !

– Vậy được !

Thạch Đạt Lang cúi nhặt đầu dây thừng, bảo với Lâm Bằng:

– Ta chẳng nên tỷ thí ở đây, phiền người qua lại. Để buộc bò vào gốc cây rồi ra khu khoảng khoát đằng kia, túc hạ muốn giao đấu bao lâu tại hạ cũng bồi tiếp.

Khu khoảng khoát ở lưng chừng đồi, rải rác vài hòn đá tảng mặt đã nhẵn vì sương tuyết. Cả ba yên lặng đến đó. Tới nơi, Thạch Đạt Lang là người đầu tiên lên tiếng:

– Chuẩn bị !

Không đợi nhắc lần thứ hai, Lâm Bằng đã nhảy ra giữa bãi, côn tre cầm tay khoảng một phần chiều dài, đầu côn chỉ xuống đất. Thạch Đạt Lang tay buông thõng, dáng tự nhiên, nhưng mắt long lanh như mắt vọ nhìn địch thủ.

– Sao ngươi không chuẩn bị ?

– Tại hạ đã sẵn sàng !

– Ngươi đấu tay không chăng ?

Thạch Đạt Lang nhếch mép, tay trái đặt lên bao kiếm. Đã đến lúc hắn không muốn phí công lực vào lời nói.

Trong góc, mẹ Lâm Bằng ngồi như tượng đá.

Hai địch thủ gờm nhau. Lâm Bằng hơi gù, tấn đứng vững chãi, hít một hơi dài như gom khí lực của khắp cả miền đồi núi vào trong lồng ngực để cây gậy tre trong tay gã bung ra với tất cả sức mạnh mong muốn.

Thạch Đạt Lang, tia mắt sắc như dao chuyển dần sang màu hổ phách, nhìn Lâm Bằng tưởng xuyên thấu tim gan gã. Tia mắt ấy có ma lực ghê gớm. Phóng ra đúng lúc, nó có thể lũng đoạn tâm ý khiến địch thủ tổn thương còn hơn là đao kiếm. Trúng nhược điểm, nó là mũi dùi mở đường để lưỡi kiếm theo sau tàn phá. Chưa ai xuất thủ, nhưng trận chiến đã bắt đầu.

Bỗng mẹ Lâm Bằng kêu lớn:

– Khoan !

Thạch Đạt Lang tung mình nhảy về phía sau chừng một trượng.

– Đại hiệp sử võ khí gì ? Thiết kiếm hay mộc kiếm ?

– Thiết kiếm hay mộc kiếm không quan hệ, kiếm nào cũng vậy ?

– … ?

– Kiếm, dù gỗ hay thép, là một tuyệt đối. Trong trận thư hùng như trận này, không có nửa chừng. Kẻ nào sợ thì chạy.

Bà lão im lặng rồi gật đầu:

– Phải lắm. Vậy hai bên hãy khai rõ danh tính và môn sư theo đúng nghi thức để khỏi phải hối tiếc về sau. Sợ khi giao đấu xong thì đã muộn ! Lâm Bằng ! Ngươi hay khai trước.

Lâm Bằng thu côn về, trịnh trọng cúi đầu trước địch thủ:

– Tiện danh là Lâm Bằng, tổ phụ phụng thị dưới trướng tướng quân Yoshimida đất Kiso. Đời tiên phụ chẳng may bị vết nhơ, xin miễn khai rõ, gia đình phải bỏ đi lang bạt.

Tại hạ nguyện khôi phục lại danh dự cho tiền nhân nên đã khổ công tập luyện và khai triển một kỹ thuật về trúc côn, lại có ý định lập riêng môn phái.

Tại hạ đã sẵn sàng, xin lãnh giáo !

Thạch Đạt Lang cúi đầu đáp lễ rồi cũng khai danh tính:

– Tiện danh là Thạch Điền Đạt Lang, sinh quán ở Miyamoto đất Harima. Tại hạ thụ huấn võ công đầu tiên của tiên phụ, sau tự học để lập chí theo kiếm đạo. Hiện không còn ai thân thích, nếu bị bại, xin đừng quan tâm đến di hài tại hạ.

Đoạn rút kiếm giơ ngang mày, lưỡi kiếm lóe sáng tựa hào quang. Mẹ Lâm Bằng nín thở. Không như những bà mẹ khác, bà đã đi tìm và buộc đứa con còn lại độc nhất của mình, đối đầu với một mối nguy hiểm gã chưa bao giờ gặp. Để lấy kinh nghiệm. Để duy trì lòng tự tin. Và để khôi phục lại danh dự. Bà cho rằng đó là con đường phải đi và đó là cách duy nhất. Tất cả hoài vọng của bà đặt lên cánh tay đứa con ấy.

Ngồi trên góc đồi quạnh vắng, bà cầu nguyện không bằng lời mà bằng tất cả lòng tin tưởng vào thần Phật, thỉnh cầu các vị xuống hỗ trợ cho con bà chiến đấu.

Nhìn mũi kiếm của Thạch Đạt Lang, Lâm Bằng lạnh người. Thạch Đạt Lang hôm nay không giống như Thạch Đạt Lang gã thấy hai hôm trước.

Hai hôm trước, hắn lưu hoạt, uyển chuyển hơn nhiều trong dáng đi cũng như cách đứng. Tuy là đối thủ, hắn vẫn có vẻ cởi mở, thân thiết, ví như những nét chữ thảo với vẻ bay bướm, phóng dật. Bây giờ, Thạch Đạt Lang nghiêm nghị đến khô khan. Mũi kiếm hắn chỉ về đằng trước như một nét chữ chân phương không mang cả đến sơ bút, tuồng như những thế kiếm sắp tung ra đã được chuẩn bị, cân nhắc kỹ càng, bất di bất dịch:

những nét chữ khắc vào đá.

Thái độ của Thạch Đạt Lang khiến Lâm Bằng phân vân. Gã chưa dám tấn công, cây côn tre vẫn ở thế chờ đợi.

Vạt sương cuối cùng buổi sáng vừa tan hết. Thình lình một tiếng “chát” ghê rợn xé bầu không khí tĩnh mịch. Bộ vị hai địch thủ đã thay đổi. Không ai biết rõ là tiếng gậy hay tiếng gươm vừa được phóng ra. Hư ảo như là tiếng vỗ của một bàn tay.

Lâm Bằng vừa trượt đòn phạt ngang vai địch thủ mà chiêu kiếm của Thạch Đạt Lang hớt xéo lên cũng hụt, cách thái dương gã đến non nửa tấc.

Thạch Đạt Lang biến chiêu lập tức, lợi dụng uy lực của đường kiếm hụt, bổ xuống.

Chiêu này hắn đã ứng dụng trong trận đánh Hoa Sơn dưới gốc cổ tùng ngày nào, giết hại có đến chục đồ chúng. Nhưng Lâm Bằng, bề ngoài thô kệch mà thật ra nhanh nhẹn dị thường. Gã tránh chiêu kiếm sát thủ ấy, hai tay đưa ngược cây côn tre lên đỡ, khuỷu tay phải cao hơn vai trái để cây côn tiếp xúc với lưỡi kiếm phần gần lá chắn cho giảm bớt sức mạnh của lưỡi kiếm chém xuống.

Kiếm và côn giao nhau trên đầu gã. Tình trạng không khác gì tình trạng hai bên khóa kiếm, một chút sai lầm có thể mất mạng trong nháy mắt. Nhưng côn khác kiếm.

Côn không lưỡi, không sống, không mũi, không chuôi, nhưng trong tay một hảo thủ như Lâm Bằng, nó có đủ cả mọi đặc điểm ấy. Lại dài hơn kiếm, nó có thể dùng như một cây thương ngắn.

Thạch Đạt Lang không dám thu kiếm về. Hắn chưa đoán được đòn kế tiếp của Lâm Bằng nên phải vận toàn công lực đè lên võ khí của gã.

Phần Lâm Bằng, gã ở trong tình trạng nguy khốn hơn. Đang giữ thế thủ, mọi sơ hở để cây gậy lệch đi, tất lưỡi kiếm chém xuống, chẻ đôi đầu. Mặt gã tái ngắt, hai hàm răng cắn chặt vào nhau làm cổ bạnh ra. Mồ hôi rỏ giọt lên những vết nhăn ở khóe mắt. Cây côn trên đầu đã hơi run và tiếng thở của gã đã nặng hơn trước.

Mẹ Lâm Bằng hoảng sợ, sắc diện tái hơn sắc diện người con trai trong cuộc. Bà vươn cổ, mắt lồi khỏi tròng:

– Lâm Bằng, hông mày cao quá !

Vừa kêu vừa vỗ vào hông trái, rồi như không chịu nổi sự căng thẳng tinh thần, bà ngã sấp.

Sau lời cảnh giác của bà mẹ, côn và kiếm rời nhau tức khắc, mạnh và nhanh không ai nhìn kịp. Chỉ thấy Thạch Đạt Lang hơi lạng đi và tiếng Lâm Bằng rống lên như bò bị chọc tiết. Rồi một thân người đổ xuống bất tỉnh.

Thạch Đạt Lang giơ tay áo quệt mồ hôi. Hắn tra kiếm vào vỏ, đến bên mẹ Lâm Bằng đỡ bà ngồi dậy. Mắt bà lão như lạc thần.

– Tại hạ chém đằng sống.

Thạch Đạt Lang ôn tồn nói. Bà lão dường như không hiểu, ngước nét mặt đần độn lên nhìn hắn.

– Lâm Bằng chắc chỉ bị thương xoàng, không can gì. Lão bá đến gọi cho tỉnh để tại hạ đi lấy nước.

Nghe Lâm Bằng bị thương xoàng, bà ngạc nhiên. Lết đến gần, sờ tay con, mạch vẫn còn đập, áo không dính máu, bà mừng rỡ cuống quít vừa lay vừa gọi. Lát sau, Lâm Bằng tỉnh dậy. Mắt lờ đờ, gã nhìn Thạch Đạt Lang, lẩm bẩm:

– Tại hạ không phải đối thủ của đại hiệp. Đa tạ đã lưu tình …[Audio] Thanh Liên Chi Đỉnh (dịch) Full

Thạch Đạt Lang nắm tay Lâm Bằng không đáp. Lát sau mới vạch áo ngoài, chỉ một vết đỏ bầm trên ngực mà nói:

– Nếu không nhanh mắt, tại hạ cũng ra người thiên cổ rồi.

Đoạn nhìn bà mẹ, hỏi:

– Sao lão bá biết mà cảnh giác Lâm Bằng hắn đã để hông cao quá.

– Già không hiểu võ công, nhưng thấy nó dồn hết tâm lực vào việc giữ cho kiếm khỏi bổ xuống đầu thành ra không tiến thoái được. Nếu biết hạ thấp hông trái xuống một chút, lưỡi kiếm sẽ tuột đi theo chiều cây côn và đầu côn tự nhiên bung ra đập vào ngực đối thủ, già bèn bảo nó …

Thạch Đạt Lang gật đầu. Hắn đã học được một kinh nghiệm bổ ích. Trong cuộc viễn du vào biên giới của sự sống và chết vừa qua, lời cảnh giác của bà mẹ Lâm Bằng hiển nhiên chẳng phải là một lời phù phiếm.

Chương 56: Cuộc gặp gỡ tình cờ

Vết thương ở ngực Thạch Đạt Lang bây giờ tím bầm, tay hắn cử động hơi khó.

Vận khí thấy huyết mạch vẫn điều hoà, hắn không quan tâm lắm, nhưng không muốn la cà ở dọc đường hỏi tin tức về Giang và Oa Tử nữa mà đổi ý theo hướng đông rẽ sang quan lộ đi Shimosawa. Ở đấy, nếu vết thương có biến chứng gì cũng dễ trị.

Shimosawa là một trấn lớn bên bờ hồ Suwa, dân cư khá đông, nổi tiếng về suối nước nóng và những nhà tắm hơi công cộng. Các gia đình quyền quý và thương gia giàu có dựng nhà nghỉ mát kể có hàng ngàn. Tại các lữ điếm dành cho phái quý tộc, phòng tắm hơi đều có mái che, còn ở những nhà tắm công cộng để giới bình dân dùng thì chỉ là vài cái bồn gỗ quây sơ sài trong một khu lộ thiên gần suối.

Thạch Đạt Lang dừng chân trước một trong những nhà tắm công cộng ấy, cởi trang phục máng lên cành cây rồi bước vào bồn nước. Gối đầu lên phiến đá, ngâm mình trong bồn nước ấm hơi nóng bốc mù mịt, hắn thấy sảng khoái vô cùng. Bao nhiêu mệt mỏi dường như theo hơi nước tiêu tan đi mất cả. Hắn đưa tay xoa nhẹ vết thương, cảm thấy dễ chịu, lim dim mắt nhìn ra bên ngoài rào gỗ.

Trời đã xế chiều. Mặt hồ Suwa phẳng lặng phản chiếu ánh hoàng hôn hồng nhạt qua những căn lều thưa thớt của xóm dân chài. Trong thửa vườn nhỏ, rộng mỗi bề chừng chục thước, một người đàn bà lúi húi tưới rau. Gần đấy là ngôi hàng xén bán dầu đèn cùng vài thứ cần dùng khác cho khách. Trước hiên, một người đàn ông trung niên vận trang phục lữ hành ngồi trên ghế đẩu đang thử đôi dép cỏ. Khách vừa thử vừa hỏi chủ quán:

– Ông chủ thấy có ai tên Thạch Đạt Lang đi qua đây không ?

Chủ quán lắc đầu. Khách lại tiếp:

– Hắn có bản lĩnh ghê hồn, dám một mình một kiếm giao chiến với cả trăm người phái Hoa Sơn mà không ai làm gì được. Đảm lược ấy ngày nay không mấy ai có.

– Lão không nghe nói. Thế hắn chừng bao nhiêu tuổi, ăn mặc ra sao ?

Khách không đáp, xem ra cũng chẳng rõ gì hơn ngoài cái tên Thạch Đạt Lang vừa thốt, chỉ yên lặng lúi húi buộc quai dép, trả tiền rồi đứng dậy lẩm bẩm:

– Thế nào cũng phải tìm hắn cho bằng được.

Thạch Đạt Lang nheo mắt nhìn. Khách lạ vào trạc tứ tuần, da nâu vì sương nắng, tóc hai bên thái dương lốm đốm bạc, nét mặt phong sương và cương nghị. Y phục bằng vải tốt và thanh kiếm đeo bên hông chuôi nhẵn bóng. Hắn đoán người đó phải là một kiếm sĩ có địa vị và từng trải, đã xông pha nhiều trận.

“Không lẽ lại là đệ tử Hoa Sơn ?”. Thạch Đạt Lang nghĩ thầm nhưng vội gạt ngay ý nghĩ ấy, vì nếu là đệ tử Hoa Sơn thì tất biết rõ tầm vóc, tuổi tác hắn. Vả nghe giọng nói, không thấy vó vẻ gì hằn học hay thù hận. “Nhưng là ai, không hiểu tại sao lại tìm mình ?

Lạ quá !”.

Chờ cho khách đi khỏi, Thạch Đạt Lang mới bước ra ngoài bồn tắm. Với quần áo mặc vào, trả tiền xong, hắn ung dung đi ra đường lớn, trong lòng vẫn không khỏi thắc mắc về danh tính và mục đích của kẻ đó. Như một khách thừa lương, hắn bước thong thả, cẩn trọng trông chừng từng bụi cây và các chỗ khuất.

Được quãng xa, đến một khúc quanh, bất ngờ lại gặp chính ngay người khách lạ mặt ấy. Dưới chiếc nón nan, đôi mắt khách sắc như dao liếc nhanh về phía hắn.

Thạch Đạt Lang tảng lờ như không biết, cứ tiếp tục đi. Người kia đến gần, hỏi:

– Tráng sĩ phải chăng là Thạch Điền Đạt Lang ?

Thạch Đạt Lang khẽ gật và kín đáo đề phòng.

Người kia tỏ vẻ mừng rỡ:

– Quả không lầm ! Thật là hạnh ngộ !

– Tôn ông là ai ? Theo tại hạ có việc gì ?

Thạch Đạt Lang hỏi.

– Xin tráng sĩ tha lỗi đường đột. Tiện danh là Mạc Khải Kỳ, thủ túc thân tín của tướng công Liêu Chính Mộ Đức đất Mitsu. Tại hạ có ý tìm tráng sĩ từ lâu …

– Rất hân hạnh. Nhưng tìm tiểu nhân có việc gì ?

– Đứng đây nói chuyện không tiện, xin mời tráng sĩ tới lữ quán dùng cơm chiều, tại hạ sẽ trình rõ.

Thạch Đạt Lang do dự, ý muốn từ chối. Mạc Khải Kỳ lại tiếp:

– Buổi sơ kiến mà xử sự như thế này thật vô phép, xin tráng sĩ đừng nghi kỵ. Tại hạ chính là người có vị thế lớn dưới trướng Liêu tướng công, bổng lộc trên vạn gia. lúa, giannhân hàng chục người, ngựa tốt trăm con. Vì ngưỡng mộ tài năng của tráng sĩ mà đi tìm chứ không có ý gì khác. Xin chớ phụ lòng.

Trước thái độ vồn vã ân cần của khách lại, Thạch Đạt Lang không tiện thoái thác, Khải Kỳ bèn níu áo lôi đi.

Đến chỗ trọ, không ngờ là một lữ điếm sang trọng vào bậc nhất trấn Shimosawa, tì nữ ra đón vào, cầm đèn lồng hướng dẫn qua một lối đi riêng giữa hai hàng tùng xanh trúc biếc. Thạch Đạt Lang lại càng không đoán được lý do nào mà một kiếm sĩ có địa vị như thế lại cất công đặc biệt tìm mình.

Thị tỳ mang áo mới đến, thứ áo mềm lót bông để khách dùng trong nhà, đặt trên hai cái khay sơn then khảm xà cừ và nạm bạc. Mạc Khải Kỳ cầm áo nói:

– Đường xa bụi bặm, tại hạ mạn phép vào phòng tắm một lát. Mời tráng sĩ cùng vào một thể.

– Xin cứ tự nhiên, tiểu nhân vừa tắm rồi.

Khải Kỳ không ép, đi vào nhà trong, đồng thời sai nữ tỳ mang rượu tới. Thạch Đạt Lang bước ra hiên. Thị trấn đã lên đèn, tiếng ồn ào cũng giảm bớt. Xa xa, nước hồ đổi từ màu chàm sang màu đen sẫm khiến hắn liên tưởng tới màu mắt đen của Oa Tử lo lắng nhìn hắn đêm nào dưới ánh trăng trên triền núi. Áy náy và hối hận tràn ngập trong lòng, Thạch Đạt Lang tự hỏi không biết giờ này Oa Tử ở đâu, an nguy ra sao và tự trách mình đã bỏ phí thì giờ đến một chỗ không cần thiết. “Kẻ nào bắt cóc Oa Tử tất không đời nào dẫn qua một nơi đông đúc như thế này !”. Tưởng tượng nghe tiếng Oa Tử kêu cầu cứu đâu đây, lòng hắn bồn chồn như lửa đốt.

Khải Kỳ tắm xong đã trở lại phòng khách. Thấy bộ áo của lữ quán vẫn còn nguyên để trên khay, Khải Kỳ ngạc nhiên hỏi:

– Tráng sĩ không thay áo ?

– Tiểu nhân mặc thế này cũng đủ. Trong nhà, ngoài đường hay bất kỳ lúc nào, tiểu nhân cũng mặc thế này. Âu là thói quen, vả mặt thế này thoải mái hơn, xin miễn thứ.

Đoạn mỉm cười ra chiều xin lỗi. Mạc Khải Kỳ gật gù:

– Chắc tráng sĩ muốn luôn luôn sẵn sàng. Liêu tướng công thấy thế hẳn phải vừa lòng lắm !

Thạch Đạt Lang nhướng mày ra ý hỏi, nhưng Khải Kỳ chỉ cười, cầm chén tráng vào bát nước nóng để bên rồi thân hành rót rượu mời.

Thạch Đạt Lang từ tạ mà nói:

– Buổi đầu gặp gỡ, tiểu nhân được tôn ông quá biệt đãi, dành cho nhiều cảm tình như thế này, không hiểu vì lý do gì, nên thắc mắc mà không dám nhận.

Khải Kỳ cười ha hả, cầm chén rượu uống cạn:

– Tráng sĩ ngạc nhiên là phải. Nhưng có gì đâu ! Lý do cũng dễ hiểu. Tại hạ bị ma lực của tráng sĩ quyến rũ đấy !

Nói xong lại cười khiến Thạch Đạt Lang cũng cười theo, nhưng sau những tiếng cười ấy, mỗi người có một ý tưởng khác.

Khải Kỳ chưa biết rõ Thạch Đạt Lang, chưa dám bộc lộ tâm tình nên nghĩ rằng giải thích như vậy cũng đủ. Trái lại, lời giải thích của Khải Kỳ càng làm Thạch Đạt Lang hoang mang hơn. Hắn còn trẻ, bản tính chân thật, chưa từng trải bao nhiêu trong sự giao tiếp với xã hội, nên không bao giờ tưởng rằng một người đàn ông lại có thể bị quyến rũ bởi một người đàn ông khác. Riêng hắn, không bao giờ hắn cảm thấy như thế cả. Đại Quán nhiều lúc đùa cợt nhưng những lời ông nói hàm ý tứ sâu xa, hắn coi như bậc thày.

Cổ Huy Đạo sống ở một thế giới khác. Trúc Mộ lão nhân thì đã rút khỏi vòng hệ lụy của nhân sinh, ngưỡng mộ hay không ngưỡng mộ Ông nào có khác gì ? Có lẽ Khải Kỳ nói như thế chỉ có mục đích tâng bốc. Nhưng Thạch Đạt Lang nhìn mắt người đối thoại, thấy không phải là một kẻ xiểm nịnh tầm thường, bèn hỏi thẳng:

– Tôn ông nói bị ma lực của tiểu nhân quyến rũ là thế nào ?

Khải Kỳ thôi không cười nữa, nghiêm trang đáp:

– Có lẽ vì diễn không hết ý hoặc dùng chữ sai nên tráng sĩ không hiểu rõ. Tại hạ chỉ muốn nói từ khi được nghe đại danh sau trận hỗn đấu trên đồi Sinh Minh, và được diện kiến, tại hạ hết sức cảm phục và đem lòng yêu mến chẳng khác nào bị mê hoặc.

Thạch Đạt Lang đỏ mặt gạt đi:

– Tôn ông quá khen, tiểu nhân quả không xứng đáng. Nhưng sao tôn ông biết tiểu nhân đi đường này ?

– Tại hạ có xem mảnh vải yết thị treo trên cây của tráng sĩ.

– À ra thế !

Thật trớ trêu ! Mảnh vải viết để tìm một người thì một người khác lại tìm đến.

Chẳng hiểu rồi ra có liên quan gì đến những việc sau này không. Con tạo có những xếp đặt bất ngờ thật !

Khải Kỳ lại tự tay rót rượu mời Thạch Đạt Lang.

– Anh em bốn bể một nhà, huống chi chúng ta đều trong võ lâm cả. Xin tráng sĩ chớ làm khách, hãy nhận chén rượu này, tại hạ thành thật mong được tráng sĩ coi là bạn.

Thạch Đạt Lang cầm chén rượu nâng ngang mày rồi vui vẻ uống cạn.

– Lúc nãy tại hạ đã tự giới thiệu là thủ túc của Liêu Chính Mộ Đức tướng quân, chắc tráng sĩ chỉ mới nghe danh chứ chưa rõ nhiều về ngài, vậy xin nói rõ.

Liêu tướng công là vị sứ quân đứng đầu một lãnh địa đang hồi phong thịnh lại rất hào phóng. Vùng đất Mitsu phương bắc rộng tới vạn mẫu, bổng lộc hàng năm kể mấy triệu gia. lúa, dưới trướng không biết bao nhiêu là kiếm sĩ nhưng xét cho kỹ, chẳng mấy ai được như tráng sĩ. Tráng sĩ còn trẻ, nếu nghĩ đến tương lai, xin đừng bỏ qua cơ hội.

Thạch Đạt Lang đăm đăm nhìn khay rượu, không đáp. Tiếng đàn từ phòng bên vọng tới cùng với bóng tỳ nữ qua lại ngoài hiên in lên nền giấy dán trên song cửa. Bỗng nhiên, Khải Kỳ đột ngột hỏi:

– Thạch tráng sĩ ! Tráng sĩ luyện kiếm cho ai ?

Bị hỏi bất ngờ, Thạch Đạt Lang không biết trả lời sao, vì hắn chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện ấy. Hắn ngay thật đáp:

– Thì cho tiểu nhân !

Khải Kỳ mỉm cười:

– Tráng sĩ nói đùa rồi ! Mưu cầu danh lợi cá nhân chẳng phải là mục đích tối hậu của người cầm kiếm, nhất là người cầm kiếm ấy là tráng sĩ. Xin đừng giấu nhau nữa !

Vô tình hay hữu ý, Khải Kỳ đã đưa dần Thạch Đạt Lang đến mục đích chính của cuộc gặp gỡ. Lặng yên một lúc, Khải Kỳ tiếp:

– Toàn thể nước Nhật ngày nay đều đặt dưới quyền thống trị của Tôn Điền Tùng Cương. Hòa bình và thịnh vượng này, như tráng sĩ biết, chỉ là giả tạo. Dân chúng có được gì không ? Qua bao nhiêu thế kỷ nối tiếp nhau, phái quân phiệt luôn luôn nắm chính quyền, áp bức không những dân chúng àm còn cả hoàng gia nữa. Lợi lộc đều về tay đảng tộc của họ, còn dân chúng vẫn chịu cảnh cơ cực. Dưới thời Tôn Điền Tùng Cương xem ra dân còn lầm than hơn nữa, và thời đại này chẳng qua cũng chỉ là kéo dài sự chuyên chế tàn bạo của những thời đại trước mà thôi.

Liêu tướng công và một số bạn hữu ngài ý thức điều đó rõ hơn ai hết nên có ý định hành động …

Mạc Khải Kỳ nói một hơi dài rồi dừng lại, liếc nhìn Thạch Đạt Lang, thấy hắn vẫn im lặng lễ phép ngồi nghe và không phản ứng gì thì chẳng biết ý tứ hắn ra sao.

Nhìn xuống khay rượu, Khải Kỳ mượn cớ:

– Rượu nguội cả rồi ! Nào xin cạn chén đi chứ ! Tử lượng tráng sĩ chắc phải hơn tại hạ.

– Không, tiểu nhân uống ít lắm.

– Người phương bắc vùng tại hạ uống rượu không biết say, một phần vì thói quen, một phần để chống lại hàn khí. Liêu tướng công là một trong những người uống rượu rất hào, uống cả đêm được mà sắc mặt vẫn không đổi.

Chén thù chén tạc, câu chuyện đổi sang nếp sống thường nhật của dân chúng phương bắc và lòng trung thành của Liêu tướng công đối với hoàng gia.

Trong khi Khải Kỳ thao thao bất tuyệt ca tụng chủ soái với hậu ý kết nạp Thạch Đạt Lang thì hắn chỉ tỏ thái độ dè dặt. Tuy nhiên, nghe lời nói và xét ý tứ của Khải Kỳ, hắn cũng rõ khá nhiều về đường hướng và lý tưởng chính trị của Liêu Chính Mộ Đức, coi kiếm đạo như con đường độc nhất để khắc kỷ và giải quyết mọi vấn đề xã hội.

Kiếm đạo có từ thời cổ, từ lúc có giai cấp võ sĩ, nhưng ngày nay nghĩa vụ và giá trị tinh thần của nó không còn nữa. Thảng hoặc có người nhớ đến thì chỉ là những khái niệm mơ hồ. Trong cuộc nội chiến giữa các sứ quân vào thế kỷ mười lăm và mười sáu, tinh thần võ sĩ đạo đã bị bóp méo và phần lớn bị thu hẹp trong nghĩa vụ của người võ sĩ đối với chủ soái mà thôi. Bây giờ thì bất cứ người cầm kiếm nào cũng có thể tự phong cho mình là kiếm sĩ, không quan tâm gì đến ý nghĩa của con đường họ theo đuổi nữa.

Những kẻ đó đa số tâm địa còn thấp kém hơn cả tâm địa những người dân quê ngu dốt.

Hồi tưởng lại những năm trong thạch thất ở lâu đài Himeiji, Thạch Đạt Lang nhớ đã xem qua một cuốn sách viết về cốt tủy của kiếm đạo, mục tiêu và kỹ thuật của nó do Phú Sĩ Khang viết. Phý Sĩ Khang chính là bút hiệu của viên võ tướng nổi danh Quang Nguyên Phổ. Lý tưởng cùng phép ứng dụng kiếm đạo vào xã hội của ông đã khiến lãnh địa do ông cai quản trở thành một trong những lãnh địa giàu mạnh nhất thời ấy. Những lời Mạc Khải Kỳ vừa nói xem ra phản ánh phần nào quan niệm cai trị của Quang Nguyên Phổ.

– Tráng sĩ tha lỗi cho tại hạ đã dài dòng. Tai nghe không bằng mắt thấy. Nếu tráng sĩ không nề, ngay ngày mai, tại hạ xin dẫn đường đến Mitsu để tráng sĩ đích thân mục kích sự sinh hoạt trong lãnh địa. Chắc chắn Liêu tướng công sẽ rất hân hạnh được đón tiếp tráng sĩ.

Đêm đã khuya. Khay rượu được dọn đi và thay vào bằng những món ăn nóng.

Thạch Đạt Lang rất lưu ý đến những lời mời mọc của Mạc Khải Kỳ nhưng vẫn chưa tỏ thái độ rõ rệt.

– Đa tạ tôn ông đã có hảo ý, nhưng tiểu nhân cần suy nghĩ trước khi trả lời dứt khoát …

Bữa cơm tiếp diễn trong bầu không khí tương đắc giữa hai người bạn mới gặp cho đến cuối canh hai mới dứt.

Về phòng riêng, Thạch Đạt Lang không thể không nghĩ đến những lời chí tình của Mạc Khải Kỳ. Hắn cũng đồng ý mục đích tối hậu của người cầm kiếm không phải chỉ là trau dồi kỹ thuật cho cao để trấn áp kẻ khác mà kiếm đạo phải là con đường giải thoát; giải thoát con người khỏi những ẩn ức; giải thoát xã hội khỏi sự đè nén. Mục tiêu tối hậu của người cầm kiếm là không dùng kiếm. Ý tưởng ấy hắn học được ở đâu, bây giờ hiện ra sáng chói. Để có dịp, Thạch Đạt Lang sẽ đến thăm Liêu tướng công và nếu con đường ông theo quả có mục đích ấy thì hắn sẽ hợp tác. Lần đầu tiên Thạch Đạt Lang nhận thấy có cơ hội mang đến cho kiếm đạo một tinh thần nhân bản, dọn đường cho con người hợp nhất với thiên nhiên như lòng hắn mong ước.

Chương 57: Món quà tặng

Tỉnh dậy, Thạch Đạt Lang nghĩ ngay đến Oa Tử và Giang. Hắn biết trong lúc này không thể nào đi cùng với Mạc Khải Kỳ đến Mitsu được.

Lúc cáo biệt, Khải Kỳ tỏ vẻ buồn và thất vọng:

– Thật tiếc không được làm bạn đồng hành với tráng sĩ. Hy vọng những lời nói hôm qua trong bữa rượu không bị tráng sĩ bỏ ngoài tai. Nếu đến nơi, tráng sĩ không vừa ý thì cũng xin coi đó như một cuộc du ngoạn. Phong cảnh bắc phương đẹp có tiếng, tráng sĩ chắc biết.

Thạch Đạt Lang cảm động vì những lời thành thật ấy. Hắn ấp úng nói:

– Tiểu nhân cũng rất tiếc nhưng có việc riêng phải làm ngay. Có dịp sẽ cùng tôn ông tái ngộ.

Khải Kỳ chia tay đi về phía đèo Hòa Đa còn Thạch Đạt Lang thì rẽ sang hướng Nakasendo. Đến ngã ba Koshu, đang phân vân không biết theo đường nào và đặt kế hoạch ra sao để tìm tung tích Oa Tử thì có một bọn người rảo bước đi tới. Bọn này ăn mặc ra dáng phu khuân vác hoặc người giữ ngựa, quấn khăn đầu rìu, áo ngắn, chân mang xà cạp. Chúng bâu đến Thạch Đạt Lang. Một tên khoanh tay trước ngực nhìn hắn, lỗ mãng nói:

– Khách quan có vẻ lo lắng. Muốn tìm ai chăng, người đẹp hay con hầu ?

Thạch Đạt Lang lắc đầu, quay đi chỗ khác. Không biết rõ nên làm thế nào, hắn định rảo quanh khu đó hỏi thăm. Nếu không được tin tức gì, có lẽ đến phải lên phương bắc đi Mitsu vậy. Âu cũng là định mệnh đã an bài, biết làm sao được !

Đang suy nghĩ thì một tên khác lại mò tới:

– Nếu khách quan thực tâm muốn tìm người quen thì bọn nô tài có thể giúp được, còn hơn là đứng nắng hay đi hỏi cầu âu. Người quen của khách quan ra sao ? Bọn tiểu nhân không dám đặt tiền công đâu, tùy hảo tâm của khách quan cho bao nhiêu cũng được !

Nghĩ rằng như vậy lại hơn, Thạch Đạt Lang bèn tả hình dáng Oa Tử và Giang cho bọn kia biết. Chúng quay ra hỏi nhau một lúc rồi một đứa nói:

– Bọn này không ai trông thấy người mà khách quan tả cả, nhưng có thể chia nhau đi tìm, thế nào cũng gặp. Kẻ bắt cóc chỉ theo một trong ba đường núi giữa hai trấn Suwa và Shiojira mà thôi. Khách quan không biết đường nhưng tụi này biết.

Thạch Đạt Lang nghe, không lấy gì làm tin tưởng lắm, nhưng cũng bảo:

– Vậy tốt, các chú đi tìm ngay đi !

– Rồi ! Làm ngay !

Một tên dáng chừng đầu nậu, họp cả bọn dưới gốc cây, chỉ trỏ người này kẻ kia có vẻ phân công cho từng đứa một. Chúng gật gù cười nói, đoạn tên đầu nậu đên bên Thạch Đạt Lang, xoa hai tay vào nhau, lễ phép nói:

– Nô tài đã cắt đặt xong cả rồi, chỉ còn chuyện này hơi khó xử. Ờ … à … khó nói quá! À … à … chắc khách quan cũng biết, bọn này là thợ thất nghiệp, tiền bạc không có, từ sáng chưa được hột cơm nào. Nhịn đói mà chạy việc cho khách quan thì sợ không được việc, khách quan lại quở trách. Vậy xin ứng trước cho nửa ngày công, nếu hơn chút đỉnh thì càng tốt để bọn nô tài ăn chút gì dằn bụng trước khi đi. Xin bảo đảm với khách quan thế nào cũng tìm thấy.

Thạch Đạt Lang tính nhẩm rồi gật đầu:

– Thế cũng được. Ta cũng có ý định đưa trước cho các chú một số tiền nhỏ. Bao nhiêu ?

Tên kia đưa ra một con số. Thạch Đạt Lang thấy cao hơn số tiền hắn có thì khựng lại. Hắn cũng biết giá trị của đồng tiền nhưng sống một mình, không thân thích phải giúp đỡ, nhiều khi hắn chẳng để ý đến tiền bạc. Trên bước đường giang hồ, gặp người ái mộ ủng hộ chút ít để chi phí thì tốt, bằng không, vào ở đậu trong chùa hoặc ngủ qua đêm trong rừng hay bờ suối, có khi quên cả ăn, hắn cũng không quản ngại.

Những ngày gần đây, Oa Tử nhờ được sự giúp đỡ của Lưu Cát, đã xuất tiền ra lo hết mọi việc chi tiêu, hắn chẳng phải để tâm gì đến. Như một người vợ hiền, thỉnh thoảng nàng lại còn bỏ vào bọc hắn ít bạc vụn để làm tiền túi.

Thạch Đạt Lang khều số bạc ấy ra, chỉ giữ lại chút đỉnh, còn bao nhiêu đưa cả cho tên phu đầu nậu. Mặc dầu hy vọng được nhiều tiền ứng trước hơn, gã phu cũng không từ chối và bằng lòng đi tìm, vì “cảm tình đặc biệt” với khách.

– Khách quan tới đợi ở tam quan chùa Thạch Phật, tụi này sẽ tới đó trước khi mặt trời lặn.

Nói đoạn, cả bọn chia nhau số bạc, rồi giải tán đi các ngả.

Một mình chẳng biết làm gì, Thạch Đạt Lang thả bộ quanh vùng, thăm trấn Shimosuwa và lâu đài Takashima, dừng chân quan sát địa hình cùng cách dẫn thủy vào lâu đài để rộng kiên văn, phòng sau này cần đến. Hắn cũng không quên hỏi thăm Oa Tử và danh tính những kiếm sĩ trong vùng, nhưng chẳng biết thêm được điều gì hữu ích.

Mặt trời xế bóng, Thạch Đạt Lang đến chùa Thạch Phật ngồi đợi trên bậc thềm đá dưới tam quan. Khá lâu chẳng thấy ai đến, hắn đảo quanh chùa ngoạn cảnh vườn cho khỏi cuồng cẳng, nhưng lòng bồn chồn, mới được vài bước đã quay lại chỗ cũ dưới tam quan ngồi đợi.

Trời bắt đầu chạng vạng. Nghe tiếng ngựa hí đâu đây, Thạch Đạt Lang hơi ngạc nhiên. Đợi lúc nữa cũng không thấy ai đến, hắn theo tiếng ngựa hí đi tới thì thấy ở cái chuồng nhỏ sau chùa có người mã phu già đang dội nước tắm cho hai con ngựa bùn đất còn bám đầy móng.

Thấy Thạch Đạt Lang, người mã phu dừng tay nhìn, tỏ vẻ ngờ vực:

– Tối rồi, thí chủ đến đây làm gì thế ? Cần gì chăng ?

Thạch Đạt Lang nói rõ lý do. Người mã phu bèn cười hô hố mãi không dứt khiến Thạch Đạt Lang cau mày khó chịu. Đợi tin tức thì có gì đáng cười ? Hắn toan phản đối nhưng chưa kịp mở miệng, người mã phu đã nói:

– Thí chủ từ đâu đến ? Ngây thơ thế đáng lẽ chẳng nên đi một mình mới phải. Thí chủ tưởng rằng tụi đó đi tìm người cho thí chủ đấy hẳn ? Nếu trả tiền trước rồi thì ôi thôi… coi như nước lã ra sông, đừng hòng nhìn lại nữa !

– Vậy ra lão cho rằng chúng đóng trò để lừa tiền mỗ chăng ?

Người mã phu tỏ vẻ thương hại:

– Đúng thế ! Chúng bày kế cướp tiền của thí chủ rồi ! Lão mới về nhưng nghe nói trên đường đi, có chục tên du đáng họp nhau ở bên kia đồi đánh bạc, uống rượu. Hẳn chúng nó chứ không ai. Những vụ lừa đảo như thế bây giờ xẩy ra như cơm bữa. Tệ thật !

Rồi lão thuận miệng kể vài vụ cũng khách thương bị côn đồ gạt vào bẫy, lấy nhẵn cả tiền và hàng hóa, rồi kết luận:

– Ối dào ! Đời bấy giờ ấy mà …Từ nay thí chủ nên cẩn thận !

Nói xong, gánh đôi thùng không xuống đồi múc nước, để Thạch Đạt Lang đứng một mình, sượng sùng với lời khuyên, trong bóng chiều bắt đầu buông dày đặc.

Thạch Đạt Lang vừa tức vừa buồn cười, tự trách mình quá khờ khạo. “Ta tự hào không sơ hở để địch thủ đâm hông được mà lại bị một bọn dốt nát lừa gạt. Thật không khác gì bị cái tát. Vậy mà mơ những chuyện cao xa, chỉ huy binh đội, lãnh đạo chiến tranh thì làm thế nào được !”.

Trèo những bậc đá lên chùa, hắn tự nhủ thầm sẽ thận trọng hơn trong sự tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Đến tam quan, bỗng thấy một trong những người thợ ban sáng đang đứng đợi.

– À ! Khách quan đây rồi ! Làm nô tài chờ mãi !

Thạch Đạt Lang cau mặt, nhưng cũng hỏi:

– Có tin gì không ?

– Có ! Có tin một trong hai người !

– Ai ! Thiếu nữ hay tiểu đồng ?

– Tiểu đồng ! Nhỏ đó với một người đứng tuổi tên Đại Cổ ở Narai đi về phía đèo Hòa Đa. Không thấy tận mắt nhưng nô tài đã cất công đến tận Seba mới được tin đấy !

Bọn kia đã ai về báo tin cho khách quan biết chưa ?

– Chưa. Nhưng ta chắc chúng lừa ta, lấy tiền đi đánh bạc chứ tìm cái gì !

Người thợ gật gù:

– Thường thì như vậy, nhưng nô tài thì không. Thấy khách quan đứng đắn, nô tài cố giúp.

Hơi ngượng vì đã có ý vơ đũa cả nắm, Thạch Đạt Lang nói chữa:

– Cám ơn chú đã cho tin.

Rồi móc số bạc vụn ra. Hắn ước tính số bạc chỉ đủ để trả tiền bữa cơm tối nên ngần ngừ một lát. Nhưng lại nghĩ lòng thành thật không thể không được tưởng thưởng, bèn dốc cả số bạc vụn vào tay người thợ. Biết đâu chẳng vì thế mà những ngày sắp tới gã chẳng giúp thêm được vài người nữa, tin rằng người thật thà sẽ được đền đáp xứng đáng ?

Người thợ được tiền, mừng rỡ nâng ngang mày tỏ ý cảm ơn rồi tất tả quay gót.

Trời tối hẳn. Bóng đêm lẫn với bóng núi mờ mờ, vài đốm sao mới xuất hiện nhấp nháy. Tiết trời mát mẻ và trong người dễ chịu, Thạch Đạt Lang quyết định đi đêm đến đèo Hòa Đa, hy vọng sẽ gặp Đại Cổ và Giang ở đó vào buổi sớm. Hắn dời chùa Thạch Phật, và một lần nữa lại được hưởng cái thú đi đêm một mình trên con đường vắng. Hắn cảm thấy khoan khoái vô cùng, được nghe chính bước chân mình rào rạo trên sỏi đá, lắng nghe cái yên lặng của đất trời rất sinh động chung quanh, quên hết cả để tận hưởng sự hiện hữu của chính mình. Giữa đám đông ồn ào và vội vã trong các thị trấn, Thạch Đạt Lang đôi khi cảm thấy buồn và cô độc, nhưng trong cảnh tịch mịch của đêm khuya, không bao giờ hắn thấy đơn côi hay bị ruồng bỏ. Trái lại, tâm hồn hắn dễ rung động, tinh thần linh mẫn và ý tưởng cũng khoáng đạt hơn. Óc và tâm hắn có lúc như rời hẳn nhau, giúp hắn có cái nhìn rất lạnh lùng và khách quan để tự xét.

Qúa nửa đêm, Thạch Đạt Lang trông thấy ánh lửa đằng xa. Từ khi qua khỏi cầu Ochi, đường dốc dần. Thạch Đạt Lang đoán có lẽ sắp tới chân đèo. Ánh lửa có thể do tiều phu trong rừng đốt sưởi ấm hoặc của một quán ven đường nào còn mở cửa.

Nghĩ đến quán, Thạch Đạt Lang sực nhớ chưa ăn cơm chiều và tự nhiên bụng hắn cồn cào sôi sục. Từ khi dời trấn Shimosuwa, lần đầu tiên hắn thấy đói.

Đến nơi, quả nhiên là một cái quán ven đường. Bên ngoài trống bốn cây cột để buộc ngựa nhưng không có ngựa. Tuy nhiên có tiếng lè nhè từ trong quán vọng ra lẫn với tiếng củi cháy nổ lách tách. Thạch Đạt Lang đứng trước hiên, do dự. Nếu là một căn lều của nông dân hay tiều phu, hắn không ngại gì mà không xin ngủ đậu nhưng đây lại là một quán hàng. Mà trong bọc hắn không còn đồng tiền nào cả. Mùi cơm và thịt nấu bay ra xộc vào mũi, Thạch Đạt Lang nuốt nước bọt. Sực nhớ đến pho tượng mang theo, một pho tượng Quan Âm nhỏ, gọt bằng gỗ mận trong những lúc nhàn rỗi, hắn định đem ra đổi lấy bữa cơm. “Mình sẽ giải thích cho chủ quán rõ, chắc họ chẳng nỡ từ chối”.

Bèn đẩy cửa bước vào. Ba người khách ngồi cạnh lò quay ra nhìn. Râu ria lởm chởm, quần áo xốc xếch, trong cảnh tranh tối tranh sáng bên ngọn lửa bập bùng, không ai đoán được họ bao nhiêu tuổi. Quán nghèo nàn. Hai cái bàn thấp đóng bằng ván cũ với ghế đẩu kê trong góc. Trên bếp, cũng dùng làm lò sưởi, treo cái nồi nấu thịt, mùi thơm tỏa ngào ngạt. Bên cạnh, một hũ sành chắc đựng rượu hâm nóng.

Thạch Đạt Lang ngồi vào bàn. Một người khách hỏi:

– Muốn gì ?

– Ai là chủ quán ? Cho cái gì ăn chứ ?

Tức thì cả ba cùng nói:

– Quán ! Có khách !

Một người từ nhà sau bước ra, hất hàm hỏi:

– Dùng gì ?

– Cơm, canh, gì cũng được, mà nhanh lên !

Lát sau, thấy chủ quan bưng ra một liễn cơm nguôi và một bát canh rau cùng đũa bát:

– Khách quan ăn tạm. Nhà hết cơm nóng mà thịt lợn rừng thì chưa chín.

Thạch Đạt Lang gật đầu:

– Cũng được !

Rồi bắt đầu ăn ngấu nghiến. Những người kia cũng không nhìn Thạch Đạt Lang nữa, tiếp tục quay vào cạnh lò nói chuyện, thỉnh thoảng lại nhổ nước miếng đánh bẹt một cái vào lửa.

Nhân thấy chủ quán đứng gần, Thạch Đạt Lang bèn hỏi:

– Ông quán có thấy ai tên Đại Cổ qua đây không ?

Chủ quán không đáp. Thạch Đạt Lang nói thêm:

– Đại Cổ trạc năm mươi, tóc hoa râm, đi cùng với một thằng bé khoảng mười lăm tuổi.

Chủ quán bèn quay hỏi những người khách kia:

– Hồ Định ! Lão có thấy ai tên Đại Cổ chừng tuổi dẫn thằng bé qua đường này không ?

Ba người kia đưa mắt nhìn nhau như hỏi ý rồi cùng lắc đầu. Chủ quán nói:

– Chắc không có, hay chưa tới cũng không biết chừng.

Thạch Đạt Lang lại tiếp tục dùng bữa. Khi đã lửng dạ, hắn mới nghĩ đến việc trả tiền. Sở dĩ hắn không nói ngay lúc đầu vì không muốn có vẻ như một tên khất thực trước mặt những người khách lạ. Hắn định nếu chủ quán không nhận bức tượng Quan Âm, hắn sẽ thế con dao chuôi bằng sừng hươu vẫn để trong bọc.

Cơm nước xong, Thạch Đạt Lang gọi chủ quán:

– Ông quán này ! Ta có chuyện muốn yêu cầu !

Chủ quán hất hàm ra ý hỏi:

– Ta không có tiền, nhưng cũng không muốn chịu tiền cơm của ông quán. Ông có ưng nhận đồ vật thay cho tiền cơm không ?

– Đồ vật gì ?

– Một bức tượng.

– Tượng thật hay giả ?

– Tượng Quan Âm, chẳng phải do điêu khắc gia danh tiếng nào tạo ra, nhưng do tay ta làm. Chẳng biết có đáng giá bữa cơm hay không nhưng ông cứ xem trước. Nếu được …

Vừa nói, Thạch Đạt Lang vừa lấy ra một cái túi vải và bắt đầu cởi dây buộc. Ba người khách kia cũng ngưng nói chuyện, quay ra chăm chú nhìn tay Thạch Đạt Lang cởi dây túi.

Cởi xong, Thạch Đạt Lang đổ tất cả lên bàn. Một quyển sổ con, một cái bút với nghiên mực nhỏ, một pho tượng gỗ cùng với một cái túi nhỏ nữa nặng hơn rơi ra lộn xộn.

Mấy đồng tiền vàng từ miệng cái túi nhỏ cũng lăn ra theo, một đồng rơi xuống đất va vào bệ đá kêu đánh keng một tiếng.

Mọi người trố mắt nhìn, kể cả Thạch Đạt Lang. Hắn không hiểu sao, nắn nắn cái túi vải, rồi thò tay vào rút ra một mảnh giấy. Mảnh giấy ký tên Mạc Khải Kỳ, trên có ghi vài hàng chữ:

“Chút quà mọn, kính ái tặng tráng sĩ làm tiền lộ phí”.

Thạch Đạt Lang bấy giờ mới vỡ lẽ:

đấy là cách mua chuộc của Liêu Chính Mộ Đức.

Chẳng ai lạ gì sự bất mãn của một số sứ quân thời bấy giờ, bên ngoài tuy ra vẻ thần phục lãnh chúa Tôn Điền, nhưng bên trong ngấm ngầm chiêu binh nuôi ngựa làm phản. Liêu Chính Mộ Đức, một trong số những sứ quân ấy, tất nhiên không qua khỏi thói thường. Ông đã sai thủ túc Mạc Khải Kỳ đi khắp nước Nhật tìm tài năng lạ, nhất là thuộc giới võ lâm giang hồ, lôi kéo về phe mình.

Nhận tiền của Liêu Chính Mộ Đức thật không ổn. Hắn không muốn chịu ơn người mà hắn chưa biết rõ đức hạnh cùng chí hướng ra sao. Vả khi nhận tiền rồi, tất bị ràng buộc, mà trong thâm tâm, Thạch Đạt Lang chẳng muốn bất cứ sự ràng buộc nào, cho nên, tốt hơn hết, cứ coi số tiền kia như không có. Bèn nhặt hết những đồng vàng vung vãi trên bàn bỏ lại vào túi, rồi chìa bức tượng gỗ cho chủ quán:

– Đây, tượng đây ! Nếu được, ông quán cứ giữ thay cho tiền cơm.

Nhưng chủ quán khoát tay, lắc đầu:

– Không được !

– Sao, không ưng hả ? Tượng không đáng giá chăng ?

– Không phải vậy ! Khách quan không có tiền thì mới nhận. Khách quan có tiền, phải trả tiền chứ !

Thấy chuyện lạ, những người ngồi bên bếp cũng dường như tỉnh hẳn rượu, dời chỗ ngồi đến gần bàn Thạch Đạt Lang nhìn hau háu.

Nhận ra sự phi lý của mình, nhưng nghĩ cho cùng chẳng muốn giải thích lôi thôi làm gì, Thạch Đạt Lang mở túi lấy một đồng vàng đưa chủ quán.

– Nhiều quá ! Không có tiền thối.

– Không sao. Cứ giữ chỗ lẻ, ta không đòi lại đâu !

– Vậy ở lại chút nữa ăn thịt lợn rừng.

Nhưng Thạch Đạt Lang lắc đầu cảm ơn, đeo hành trang, cầm nón ra cửa. Hắn hy vọng nêu không gặp chuyện gì trắc trở sẽ lên tới đỉnh đèo vào đầu giờ mão.

Vùng này nổi tiếng nhiều giống hoa mua rừng rất đẹp, đủ màu sắc, nhỏ bằng cái cúc cũng có và to bằng cái chén cũng có, mọc thành chùm đỏ tươi, vàng óng, tím nhạt hay trắng muốt, mỗi thứ một vẻ không ai là không thích. Rất tiếc, Thạch Đạt Lang lại qua đây vào ban đêm nên chỉ trông thấy những lùm bụi đen ngòm, không thưởng thức được gì cả.

Khỏi quán chừng một dặm, bỗng thấy một bóng đen vội vã chạy theo rồi có tiếng gọi giật:

– Khách quan ! Khách quan !

Thạch Đạt Lang dừng chân ngoái cổ lại. Bóng đen rảo bước đi tới:

– Khách quan quên cái này !

Nói đoạn lấy trong bọc ra một đồng tiền vàng đưa Thạch Đạt Lang.

– Đồng này lăn dưới gậm bàn, khách quan quên chưa nhặt.

Thì ra là một trong số ba người ngồi ở quán hồi nãy. Thạch Đạt Lang cầm tiền, cảm ơn rồi tiếp tục cất bước. Không hiểu sao, hắn chẳng thưởng cho người kia chút gì.

Đi được một lúc, người kia bắt chuyện:

– Khách quan cũng trong võ lâm hả ?

– Phải.

– Qúy danh tính là gì ?

– Tại hạ họ Thạch.

– Môn phái nào ?

– Không có môn phái.

Nghe những lời đáp nhát gừng như vậy, người khác tất chán nản bỏ đi, nhưng gã này xem ra càng bám riết.

– Vậy đồng đạo rồi. Tiểu đệ cũng là kiếm sĩ, trước có đôi chút danh vọng. Nhưng vì tình thế, bây giờ phải tạm lánh trong rừng.

– Thế à !

– Tiểu đệ săn thú, kiếm củi lấy tiền độ nhật, chờ gặp minh chủ. Thật chẳng khác gì rồng nằm trong ao hẹp !

Thạch Đạt Lang mỉm cười:

– Tiếc quá nhỉ ! Thế bằng hữu đứng về phía Osaka hay Edo ?

– Chẳng về phía nào. Nhưng cần gì, phía nào cũng được, miễn có người dùng.

Thạch Đạt Lang quay nhìn kẻ đồng hành, cố nhớ xem gã là ai trong ba kẻ ngồi bên lò sưởi ở quán, nhưng trời tối quá trông không rõ.

Thạch Đạt Lang rảo bước nhanh hơn, cố ý bỏ rơi gã đồng hành. Chẳng phải tay vừa, gã theo sát nút phía sau về bên trái, một hành động chuẩn bị chiếm ưu thế khi sắp tấn công mà không một kiếm sĩ nào không biết.

Nhưng Thạch Đạt Lang không tỏ vẻ bận tâm. Hắn thản nhiên bước những bước dài và nhanh, đều đều trên đường núi dốc.

Gã kia lại tiếp:

– Từ đây đến Edo cũng còn xa. Qua đèo Hòa Đa lại phải trèo đèo Đại Môn, cao và dốc lắm. Nếu không quen đường thì khá mệt.

– Bằng hữu thông thạo vùng này lắm nhỉ ?

– Đương nhiên. Tiểu đệ Ở vùng này đã mấy năm, chung với hai gã kia, ngay sau ngọn đồi trước mặt. Ờ, mà tại sao huynh không đến nghỉ chân ở nhà tiểu đệ ! Nhà đệ tuy nhỏ nhưng cũng đủ chỗ cho khách trú qua đêm. Như thế chẳng tiện lắm ư ?

Một lần nữa, Thạch Đạt Lang lại liếc nhìn phía sau. Có một cái gì khác thường khiến hắn nghi ngờ nhưng không nói. Bản tính ưa mạo hiểm lại tò mò muốn biết gã kia định giở trò gì, hắn coi lời mời như một sự thách đố. Bèn gật đầu nhận:

– Qúy xá có xa đây không ?

– Không xa mấy, qua con suối sau đồi này là tới.

– Thế hai ông bạn kia, họ đồng ý chăng ?

– À, hai thằng đó đêm nào chả say như chết ! Chắc bây giờ còn ngồi uống rượu ở quán. Mọi lần đệ phải dìu về nhưng hôm nay thì mặc kệ.

Đi một quãng nữa, bỗng gã nói to như báo hiệu:

– Gần đến rồi ! Cẩn thận, ở đây có cái lạch !

– Phải qua lạch không ?

– Qua chứ ! Huynh trèo lên cây cầu này sang bên kia rồi cứ theo bờ mà đi.

Đoạn lùi lại, nhường Thạch Đạt Lang lên trước. Cầu là một thân cây nhỏ không tay vịn, bắc qua chỗ trũng, trông xuống dưới tối om om, lờ mờ dòng nước chảy.

Thạch Đạt Lang mới bước được vài bước, thình lình gã đi sau chồm ngay tới, nhấc đầu cầu lên hất hắn xuống rạch.

Đã đề phòng trước, Thạch Đạt Lang mượn đà cây gỗ bị nhấc lên, nhảy ngay về phía hòn đá nhô ra cạnh bờ, nhẹ nhàng như én đậu.

– Này, rồi đời tên cường đạo !

Gió kiếm nghe “vù”. Một tiếng thét trong đêm khuya rồi âm thanh của thân cây va vào đá trước khi rơi xuống nước vang theo dòng lạch sâu, kéo dài tưởng như bất tận.

Vài con chim rừng xào xạc bay lên, cánh vỗ phành phạch.

Xác gã thảo khấu vô danh nằm co quắp trên bờ. Có lẽ gã đã tắt thở ngay sau đó, không biết và không ngờ Thạch Đạt Lang rút kiếm ra chiêu nhanh đến thế.

Khi đồi Hòa Đa trở lại yên tĩnh, trên cao, một ngôi sao lạc kéo vệt sáng dài từ Đông tây rồi tắt như một linh hồn vừa lìa cõi thế.

Thạch Đạt Lang đọc lời cầu nguyện ngắn, thu nhặt hành trang, vừa định bước đi thì một tiếng nổ chát chúa vang động cả thung lũng. Ánh lửa nhoáng lên từ phía bên kia bờ. Tiếp theo là một tiếng nổ nữa. Thạch Đạt Lang nằm sấp, nghe rõ ràng tiếng đạn bay rít trong không khí. Hắn chú mục nhìn sang bên kia. Giữa những lùm bụi và thân cây rừng thưa thớt, lờ mờ hai bóng đen đang thận trọng bò tới.

Chương 58: Ngọn lửa siêu độ

Hắn nằm im nín thở. Hai gã kia đều mang súng hỏa mai. Sau hai phát vừa rồi, tất chúng còn chờ động tĩnh.

Đến bờ lạch, một đứa nói:

– Ngươi chắc sang bên kia không việc gì chứ ?

– Chắc ! Bắn trúng nó mà, rõ ràng nó ngã ! Từ bấy đến giờ không động đậy gì, chắc chưa chết thì cũng bị thương.

– Vậy sang !

Hai bóng đen theo nhau lần xuống dòng lạch. Tiếng cành cây gãy cùng với tiếng chim nháo nhác bay giúp Thạch Đạt Lang định ngay được vị trí của chúng.

Như con thú rình mồi trong đêm tối, mắt hắn dán vào bờ lạch. Vừa thấy một cái đầu nhô lên, hắn lập tức tung mình vọt tới,thét một tiếng kinh hồn, đồng thời lia ngang ngọn kiếm.

Tiếng thét khiến cả hai giật mình. Hai tiếng nổ chát chúa cùng phát ra một lượt, nhưng đạn bay lên trời cả.

Chiêu kiếm Thạch Đạt Lang cũng không trúng, lưỡi kiếm tiện đứt ngang ngọn cây trên bờ lạch. Mùi thuốc súng tỏa khét lẹt.

Có tiếng chửi thề và tiếng chân chạy rào rạo.

– Vậy mà bảo nó chết ! Nạp đạn đi, ta chặn hậu !

Hiển nhiên tụi này chẳng phải là thảo khấu tầm thường mà có tổ chức hẳn hoi.

Thạch Đạt Lang nghĩ thầm. Cho đến nay chỉ mới thấy xuất hiện ba đứa, nhưng không rõ còn bao nhiêu nữa. Cứ để chúng hoành hành thì nhiều người còn phải vong mạng với chúng. Bèn đuổi theo. Thấy tên mang hỏa mai đang lúng túng với ngòi nổ, nhanh như cắt, hắn sà tới. Một thế kiếm dũng mãnh và chính xác chẻ đôi tên đó từ vai đến hông khiến cả thân hình gã đổ xuống như khúc củi mục, không kịp kêu lên một tiếng. Thạch Đạt Lang vừa tránh những tia máu phọt ra, vừa đỡ chiêu kiếm của tên cướp còn lại đang xông đến cứu đồng bọn.

Võ nghệ tên này cũng vào hạng cao cường. Gã liên tiếp phóng ra ba chiêu, chiêu nào cũng mạnh mẽ và cực kỳ nguy hiểm, nhưng xét ra thiếu nhanh nhẹn. Có lẽ gã ít luyện tập hoặc không còn trẻ nữa nên tai mắt kém tinh thục.

Biết nhược điểm ấy, Thạch Đạt Lang múa kiếm vù vù, giương đông kích tây, kiếm quang loang loáng lúc bên phải lúc bên trái, lúc đằng trước lúc đằng sau khiến gã hoa mắt. Mới vài đường mà bộ vị và chiêu thức đã bắt đầu rối loạn.

Bỗng “keng” một tiếng, cườm tay gã bị lưỡi kiếm của Thạch Đạt Lang sướt qua, kiếm tung ra xa, máu tuôn xối xả. Hết sức kinh hãi, gã đá bậy một cước, co cẳng chạy, thoắt cái đã biệt dạng trong đêm tối.

Thạch Đạt Lang đuổi theo, quyết tâm bắt cho được tên cường đạo để trừ hậu họa.

Nhưng không rõ địa hình, hắn phải men dọc theo bờ lạch, vì chỉ có đường ấy tương đối dễ đi hơn cả so với cảnh rừng già rậm rạp xung quanh. Hắn tin chín phần mười gã đó chính là một trong ba tên ngồi uống rượu ở quán và theo lời đứa dẫn đường lúc nãy thì cùng ở với nhau trong một căn nhà sau đồi này.

Những dự đoán của Thạch Đạt Lang quả nhiên đúng. Con lạch hắn đang men theo mang tên là lạch Giẻ Gai vì ven bờ có vô số những cây giẻ gai mọc rậm rạp. Đầu lạch, một căn nhà gỗ đã được cất lên mấy năm nay, theo kiểu nhà sàn, toàn bằng thân cây giẻ gai để nguyên vỏ ghép lại, phía sau trông xuống một cái vực sâu có đến năm sáu trượng.

Từ thành vực, nước trong núi đá rỉ ra suốt đêm ngày, chảy vào trong một cái hồ nhỏ nên không khí xung quanh lúc nào cũng ẩm ướt.

Tên cường đạo chạy đến trước nhà, đập cửa rầm rầm. Một thiếu phụ bước ra, giơ cao đèn soi rồi sợ hãi kêu lớn:

– Ủa, sao thế này ? Sao máu đầy người thế này ?

– Câm mồm ! Tắt đèn đi !

Gã gạt thiếu phụ sang bên, ngoái cổ nhìn lại:

– Tắt cả đèn trong nhà nữa ! Tắt hết ! Nguy đến nơi rồi !

Đoạn hốt hoảng chui tọt vào trong nhà. Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, thiếu phụ tắt vội đèn chạy theo, đóng sập cửa.

Khi Thạch Đạt Lang tới, căn nhà tối om, bốn bề côn trùng kêu ri rỉ. Nấp sau gốc cây lớn, hắn đảo mắt quan sát. Một con mèo đen chạy tới cọ mình vào chân hắn kêu meo meo. Gần chỗ hắn nấp, có cái sào phơi, trên sào sót lại một chiếc áo chưa cất, gió đánh lật phật.

– Nhà này có chủ. Thạch Đạt Lang nghĩ.

Hắn dùng mũi kiếm khều chiếc áo rồi lặng lẽ bò đến bên thềm. Hắn đã có chủ đích. Nằm phục dưới bậc cửa, chiếc áo bọc lưỡi kiếm giơ cao, Thạch Đạt Lang quát như sấm động:

– Mở cửa !

Tiếng quát dội vào vách đá vọng lại ầm ì, mở cửa …mở cửa …mở cử …a …rồi chết dần trong sự yên lặng rợn người. Không ai trả lời. Thình lình, một mũi kiếm từ trong khe gỗ vọt ra, đâm thẳng vào chiếc áo. Nhanh như cắt, hắn bật dậy xoay ngang thanh kiếm đè chặt lưỡi kiếm kia giữa hai khe gỗ, đồng thời co cẳng đạp một cái thật mạnh vào cửa.

Cánh cửa bật tung. Có tiếng kêu “ối”, tiếng người ngã cùng với những tiếng răng rắc của thân cây và ván gãy. Thạch Đạt Lang xông vào như vũ bão. Một bóng đen nằm ngửa dưới đất đang dùng khuỷu tay lết về phía chân tường. Hắn vung kiếm. Bóng đen la hoảng lăn một vòng. Lưỡi kiếm bổ xuống, tiện đứt góc bàn và mắc ở một vật gì không rõ, khiến bóng đen có cơ hội vùng dậy. Lăm lăm cây trủy thủ trong tay, bóng đen nắm vạt áo Thạch Đạt Lang nhằm lưng hắn đâm tới. Gian nhà chật hẹp mà đồ đạc ngổn ngang, hắn bỏ kiếm, chỉ vừa kịp tránh mũi dao sát thủ.

Thanh trường kiếm của Thạch Đạt Lang bỗng trở thành vô dụng. Dưới ánh sáng lờ mờ của lò than mới dập, hai bóng đen vờn nhau như hai con thú vờn mồi. Tiếng thét vang, một mũi dao lóe sáng vung lên, cả hai cùng ngã lăn ra đất. Nhưng Thạch Đạt Lang đã chiếm thượng phong. Hắn dùng một thế võ khóa tay địch thủ khiến lưỡi dao trủy thủ văng tuốt luốt, chỉ còn tiếng ằng ặc rồi khò khè của kẻ bị chẹt cổ.

Đột nhiên không rõ từ đâu tới, bát đĩa bay đến tứ tung, đập vào thành bàn, vào cột, vào tường rồi vỡ loảng xoảng.

Thạch Đạt Lang nhấc bổng gã kia lên, dùng làm mộc đỡ, rồi thuận tay ném một phát tựa trời giáng gã vào bếp lò. Than tro tung bụi mù. Gã nẩy lên một cái rồi rơi xuống, nằm ngay đơ bên chiếc tủ thấp.

Bát đĩa, rồi ấm trà, hũ sành tiếp tục được ném ra như mưa bấc về phía Thạch Đạt Lang. Gạt không xuể, hắn phải dùng một cái ghế đẩu che mặt. Lẫn với tiếng loảng xoảng, một giọng đàn bà the thé giận dữ:

– Đồ ăn hại ! Cứ khoe tài giỏi ! Để nó theo về nhà làm loạn thế hả ?

Thanh âm quen thuộc khiến Thạch Đạt Lang sững người. Hắn hét lớn:

– Khoan !

Nhưng mụ đàn bà không ngừng, lần này phóng ra cả vung, nồi, chai, lọ …Thạch Đạt Lang nhảy ba bước vào bếp, chỉ một cái khoát tay nhẹ đã đẩy người đàn bà ngã lăn chiêng ra đất, lấy chân đè lên hai cánh tay mụ:

– Mụ là ai ? Không nói ta giết !

Lần này thì chính người đàn bà kia ngạc nhiên. Mụ lắp bắp:

– Phải …phải Thạch Kinh Tử đó chăng ?

Quả nhiên hắn đoán không lầm. Ngoài bà Hồ Điểu ra, chỉ còn một người nữa biết tên tục và thường gọi hắn như thế. Ấy là Ôkô. Hắn bỏ chân ra:

– Bà làm gì ở đây ?

Ôkô lồm cồm bò dậy, vén lại tóc và phủi quần áo.

– Thạch Kinh Tử ! Chà, bây giờ chú khá trước nhiều quá !

– Ôkô ! Bà làm gì ở đây ?

Thạch Kinh Tử hỏi lại, nhưng Ôkô chỉ lắc đầu không đáp, lặng lẽ châm đèn, bao nhiêu giận dữ lúc trước dường như nguội hết. Thạch Đạt Lang trừng trừng nhìn theo.

Lát sau mụ mới ngượng ngùng nói:

– Kể ra thì xấu hổ …

– Người nằm kia phải chăng là chồng bà ?

– Phải. Chắc chú biết hắn. Hồ Định đấy !

Thạch Đạt Lang không hỏi thêm. Một nỗi buồn man mác bỗng nhiên đến xâm chiếm tâm hồn hắn. Khi còn ở Kyoto, có lần hắn nghe Hồ Định, một trong những nhân vật cột trụ của Hoa Sơn phái đã cuỗm tất cả số tiền quyền được dành phục hưng môn phái, trốn đi cùng với ả giang hồ chủ nhân quán Vân Nghê. Không ngờ bây giờ gã sa đọa đến thế, trở thành quân cường đạo mai phục chỗ vắng vẻ để bóc lột người lương thiện.

Sự trụy lạc của con người bất giác khiến Thạch Đạt Lang bi thương vô hạn. Hắn lắc đầu:

– Tệ quá ! Thôi bà ra săn sóc hắn đi. Nếu biết là chồng bà, ta đã chẳng nặng tay.

Ôkô vực Hồ Định vào phòng múc nước lau mặt và buộc những vết thương. Gã lờ đờ mở mắt, môi mấp máy như muốn nói điều gì. Ôkô ghé tai gã thì thầm:

– Đấy là Thạch Kinh Tử. Bây giờ hắn đã đổi tên là Thạch Đạt Lang …

Mắt Hồ Định bỗng trợn ngược, hai bàn tay nắm lại. Máu ở vết thương ứa ra thấm ướt cả lần vải buộc.

Ôkô bước ra khỏi phòng, khép cửa. Thạch Đạt Lang ngồi ở một góc nhà ngoài, nét mặt đăm chiêu tư lự.

Mụ thu vội những mảnh chén bát vỡ, kê bàn ghế cho ngay ngắn chút đỉnh, gây lại bếp lửa, đặt bình rượu lên hâm rồi mời Thạch Đạt Lang:

– Tình cờ gặp cố nhân, chú ở lại uống chút rượu.

Thạch Đạt Lang thoái thác, nói đã uống ở ngoài quán rồi nhưng Ôkô khẩn khoản:

– Lâu lắm, có lẽ đã bảy tám năm nay rồi đấy nhỉ ! Từ khi rời khỏi đồi Ibuki đến nay không gặp, ta vẫn thường hỏi thăm. Bây giờ chú đổi tên và thành danh rồi, còn nhớ gì đến người cũ !

Câu nói ngụ ý trách móc khiến Thạch Đạt Lang hối hận. Hắn cầm bát rượu uống, lòng như lắng xuống và tha thứ hết.

– Không ! Tại hạ vẫn không quên những kỷ niệm cũ.

Cơn gió mạnh nổi lên. Căn nhà tuy đã đóng kín cửa mà gió vẫn luồn vào theo khe vách hở làm lung lay ngọn đèn, kéo theo mùi rêu ẩm ướt.

– Tiện nữ A Kế Mỹ, chú có gặp nó đâu không ? Đã lâu lắm ta chẳng được tin gì của nó.

– Tại hạ không gặp, nhưng theo lời Mãn Hà Chí thì dường như cả hai người cùng có ý định đi Edo lập nghiệp, sau đó không biết vì chuyện gì, A Kế Mỹ mang hết tiền bỏ trốn …

Ôkô đăm đăm nhìn ngọn lửa:

– A Kế Mỹ ? Nó cũng thế ư ?

Rồi thở dài, bất giác so sánh đời mình và đời con gái.

Có tiếng động ở phòng trong. Hồ Định khập khiễng bước ra. Ngửi mùi rượu thơm, gã cũng muốn nhập cuộc.

– Thạch Đạt Lang ! Tráng sĩ tha tội cho kẻ lão nhược này đã vô tình xúc phạm.

Thạch Đạt Lang không đáp, nhích sang bên nhường chỗ cho Hồ Định. Ôkô rót một bát rượu đưa gã và giúp gã bưng uống, xong kể lại những ngày lưu lạc của hai người.

Sau khi dời khỏi Kyoto, cả hai cùng định đi Edo, chẳng may đến Suwa, Hồ Định đánh bạc thua nhẵn tiền phải lang bạt nay đây mai đó. Đến vùng này, quẫn quá đành giở nghề cũ hái thuốc độ nhật, tuy thỉnh thoảng cũng kiếm được món bổng của khách qua đường, nhưng từ nay sẽ thôi không làm ăn như thế nữa.

– Tại hạ sẽ về Kyoto và cố gắng lấy lại danh tiếng cũ.

Thạch Đạt Lang ngồi nghe, thầm nghĩ Hồ Định cường đạo và Hồ Định kiếm sĩ cũng chẳng khác nhau là mấy, nhưng nếu hắn quả có ý ấy thì đường sá cũng đỡ nguy hiểm hơn nhiều.

Bèn gật gù nói:

– Tại hạ nghĩ đã đến lúc các vị nên bỏ nghề này thôi ! Gian lao quá !

Vài bát rượu khiến Ôkô trở nên đỏm dáng, mắt long lanh đưa đẩy và bắt đầu làm duyên. Mụ thuộc loại phụ nữ không có tuổi nhất định và đến lúc này vẫn còn nguy hiểm.

Con mèo nuôi trong nhà bên gối chủ thì dễ thương, nhưng thả đi hoang thì chỉ thời gian ngắn sau nó sẽ lần mò rình rập khắp nơi, mắt sáng rực, sẵn sàng rúc đầu vào moi ruột xác chết hay xé thịt khách bộ hành chẳng may ngã bệnh bên đường. Ôkô cũng thế.

– Này Hồ Định ! Mụ nói. Nghe Thạch Đạt Lang kể lại thì con A Kế Mỹ đã đi Edo.

Hay chúng ta cũng đến đó hưởng cuộc sống văn minh một chút chứ cứ chui rúc mãi ở xó rừng này thì còn gì là đời nữa ! Nếu may mà tìm thấy nó thì lo gì chẳng hái ra bạc !

Hồ Định lơ lửng:

– Cũng được …Để xem …

Nhìn Hồ Định co ro bên bếp lửa, đầu gối quá tai, dáng thiểu não, Thạch Đạt Lang có cảm tưởng Hồ Định cũng như Mãn Hà Chí, đã thấm thía nỗi ê chề và bắt đầu cảm thấy hối tiếc. Nghĩ rằng chính hắn cũng từng bị Ôkô dụ hoặc, hắn rùng mình ghê sợ.

Đêm khuya, rượu gần cạn. Hồ Định dựa lưng vào tường bảo vợ:

– Thạch tráng sĩ chắc đã mệt. Nàng vào dọn cái phòng trong cho tráng sĩ nghỉ qua đêm. Đừng để tráng sĩ tưởng mình không hiếu khách.

Ôkô cười bả lả:

– Dĩ nhiên rồi !

Và đưa mắt liếc Thạch Đạt Lang, nửa nạc nửa mỡ, mụ nhắc lại chuyện cũ:

– Trong phòng tối lắm đấy ! Chú không thích ngủ phòng tối phải không ?

Nhưng Thạch Đạt Lang mỉm cười, thẳng thắn đáp:

– Không sao, tại hạ không ngại.

Rồi theo chân Ôkô qua dãy hành lang lờ mờ đến căn phòng cuối nhà.

Phòng có vẻ như một cái chái cất thêm sau này với mấy cột gỗ chống vào vách đá.

Ở trên trông xuống là vực sâu, không khí ẩm thấp, mỗi khi có cơn gió mạnh, cả căn phòng đu đưa như đánh võng.

Ôkô đặt đèn xuống bàn:

– Chú ngủ tạm. Chỗ này vẫn để trữ lá thuốc.

Đoạn mang chăn gối đến và lui ra ngoài.

Thạch Đạt Lang nhìn quanh. Sát vách kê hàng kệ gỗ trên có xếp vài bó dược thảo khô cùng ít đồ dùng để bào chế. Hắn hơi ngạc nhiên vì không khi nơi đây ẩm thấp, những người buôn dược thảo không bao giờ trữ thuốc ở những nơi như thế này. Tuy nhiên mùi hương nhu thoang thoảng làm Thạch Đạt Lang dễ chịu. Hắn tung chăn đắp, rồi trong những tiếng kẽo kẹt nhẹ nhàng như ru của căn phòng, hắn ngủ quên lúc nào không biết.

Bỗng cửa lùa xịch mở. Một bóng người bước vào:

– Thạch Kinh Tử, ta mang nước cho chú đây !

Thạch Đạt Lang tỉnh giấc nhưng hắn làm như không nghe tiếng. Sự nghi ngờ thoáng hiện.

Ôkô lại gọi:

– Thạch Kinh Tử ! Thạch Kinh Tử ! Chú thức hay ngủ ?

Thạch Đạt Lang không đáp, vờ nhép miệng cựa mình. Lúc lâu không động tĩnh, Ôkô nhẹ nhàng đi ra với tay khép cửa.

Thạch Đạt Lang trở dậy cuốn chăn như hình người nằm rồi yên lặng đến xem xét các chân cột. Dưới ánh đèn vàng vọt, những điều hắn tìm thấy quả nhiên xác nhận sự nghi ngờ của hắn:

hàng cột vách ngoài nối với nhau bằng những xà gỗ mang chi chít lỗ đinh. Có cột còn lưu lại vết tích những móc sắt gẫy. Các tấm ván sàn cũng thế, vô số lỗ đinh lỗ chỗ, màu sắc lại không hợp với nhau, cái cũ cái mới, chứng tỏ phòng này đã được cất lại nhiều lần và không phải có mục đích chứa dược thảo.

Thạch Đạt Lang nhếch mép:

– Ta đoán quả không sai !

Bèn tắt đèn mở cửa bước ra ngoài.

Xung quanh yên lặng như tờ. Hồ Định hỏi Ôkô:

– Nó ngủ chưa ?

– Rồi !

– Ra xem anh em thế nào !

– Đến đủ cả. Họ xuống cả dưới vực, chắc đã buộc xong dây vào chân cột, chỉ còn chờ trên này ra hiệu đuốc là giật.

Hồ Định không giấu nụ cười thoa? mãn.

– Cứ làm như những lần trước chứ ?

– Còn phải hỏi gì nữa ! Tiền nó giắt trong thắt lưng, thấy xác nó là phải lục soát ngay.

Đoạn lẩm bẩm nói một mình:

“Phen này trả được mối thù môn phái nữa”. Nụ cười trên môi gã dường như không muốn tắt.

Gió thổi lớn. Phải một lúc sau Hồ Định mới đánh được lửa châm đuốc. Ngọn đuốc vừa giơ cao thì “rầm” một tiếng, cả căn phòng Thạch Đạt Lang nằm, sụp xuống như động đất. Mái, cột, kèo gãy răng rắc rơi lả tả xuống vực. Thân gỗ va vào thành đá kêu lịch kịch, kéo theo sỏi cát rào rào và bụi bay mù mịt.

Tiếng cây đổ lẫn với những tiếng hò reo vang động cả vùng thung lũng yên tĩnh.

Trong đêm tối, nhiều bó đuốc bỗng nhiên được bật sáng sói hàng chục bóng đen từ những chỗ nấp trong khe đá ào ra tìm bới đống mảnh vụn của căn phòng chứa thuốc trước đây Thạch Đạt Lang nằm.

– Ngươi thấy gì không ?

– Không. Chỗ này không có !

– Không chừng xác nó còn vắt trên cây hay mắc đâu đó !

Thình lình cả khu đồi bỗng rực lên một màu hồng tựa ánh bình minh vừa rạng.

Mặt hồ cũng đỏ tươi như máu. Tiếng củi nổ lép bép, khói bốc khét lẹt.

Mọi người đứng sững trông lên. Một quả cầu lửa đang bao quanh căn nhà Hồ Định, những con lửa lem lém liếm hàng vách ván đằng trước, sắp chồm lên mái gỗ và đã có những lưỡi lửa thò ra khỏi cửa sổ rầm thượng, phun phì phì như những lưỡi của một giống quái vật khủng khiếp nào. Khói đen cuồn cuộn ngút trời che lấp cả những tàn lá xung quanh.

– Hồ Định ! Vợ chồng Hồ Định !

Một kẻ hô to, cả bọn hè nhau trèo lên dốc.

Tới hông nhà, thấy Ôkô và Hồ Định đã bị trói giật cánh khuỷu vào một gốc cây giẻ gai từ bao giờ, ngất xỉu trong làn khói đen mù mịt.

– Nó đâu ? Nó đâu ? Anh em đuổi theo bắt nó !

Nhưng Thạch Đạt Lang đã đi xa rồi. Ngọn lửa hắn nhóm lên chưa siêu độ kịp hai tâm hồn tội lỗi.

Chương 59: Chơi với lửa

Không giống như những quan lộ khác, đường từ Koshu đến Edo trơ trọi, vắng bóng cổ thụ. Thua nữa, nó lại hiếm cả quán trọ. Lữ khách vì thế khó tìm được nơi ăn uống vừa ý. Ở một vài quán nghèo nàn dựng bên lề đường, chỉ thấy có bánh nếp gói lá tre hoặc cơm nắm bọc lá sồi khô, vậy mà cũng gạt ra không hết khách. Con đường Koshu tuy mới đắp nhưng là đường thuận tiện nhất trong vùng. Gần như suốt cả miền đông này, ai muốn đến Edo đều phải đi qua một vài đoạn trên con đường ấy.

– Này ! Lại toán nữa mới đến kìa !

Gã tiều phu cười trỏ đoàn phụ nữ phục sức diêm dúa dắt nhau nối gót lên đồi.

Quần áo và khăn choàng đầu của họ bám đầy bụi cát. Đoàn phụ nữ đi có lẽ đã từ sớm lắm, bây giờ sắp trưa rồi mới đến lưng chừng đồi. Họ vào khoảng đôi ba chục kỹ nữ, già có trẻ có, di chuyển từ Kyoto đến Edo như đoàn hát dạo. Theo sau là một số gia nhân gồng gánh vật dụng linh tinh và mấy con ngựa thồ những sọt tre nặng trĩu. Một lão tráng tuổi chừng năm mươi đi tới đi lui đốc thúc. Nhìn cách ăn mặc và dáng điệu rõ ra phong cách chủ nhân có tiền bạc và quyền thế. Mặt trời lên cao, không khí oi ả, lão tráng ra lệnh mọi người dừng lại nghỉ.

– Nàng nào đau chân thì thay tất dày và buộc quai dép cho chặt vào. Đừng than.

Trông người ta đi chân đất kia kìa, ai kêu la gì đâu !

Có tiếng phản đối:

– Nhưng chúng em chưa quen !

– Chưa quen rồi sẽ quen !

Nghe giọng bẳn gắt, hiển nhiên lão đương gặp khó khăn trong việc đốc thúc toán kỹ nữ đàn em. Lão tên Thôi Nãi Phu, trước là kiếm khách, sau không biết vì lý do gì lại bỏ nghề kiếm, quay sang mở kỹ viện. Khôn ngoan và thủ đoạn, Thôi Nãi Phu được lòng các nhà quyền quý. Đánh hơi thấy Edo là đất có tương lai, lão chạy chọt xin mở một kỹ viện và quyết định di chuyển tất cả số đàn em đến đấy.

Quay sang Ô Kiều, một mụ tào kê sống lâu trong nghề, lão bảo:

– Mụ đem cơm ra chia thôi. Đến giờ ăn rồi.

K Cơm mang đến, được chia thành từng nắm, gói lá sồi cùng với đậu ngọt phân phát cho mọi người. Không có nước trà, các nàng vươn cổ ra nuốt, mắt trợn trừng, mồm đánh chem chép.

– Chà ! Bữa cơm này sao mà ngon thế !

Giọng chế giễu đượm chút hờn tủi của một nàng khiến bữa cơm đột nhiên trở nên buồn tẻ, nhưng cũng không lâu. Lát sau tiếng đùa giỡn lại đã nổi lên ở một vài chỗ.

– Khách đa tình nào đến viếng ta tối nay ?

Lời nói cửa miệng thường nghe thấy trong viện, lúc này lạc lõng như một cung đàn sai điệu. Bọn kỹ nữ cười ồ. Một nàng chỉ đám thanh niên đi qua, lơi lả đáp:

– Chàng ấy đấy, tối nay sẽ đến thăm em !

– Á à ! Ai vậy ? Những ba người, sao bạn ta tham thế ?

– Ta nói chàng kia, canh chàng cao lớn, lưng đeo kiếm dài đó !

Không nghe những lời đùa cợt mà cũng không ngờ mình là cái mốc cho những lời đùa cợt ấy, anh chàng cao lớn nghênh ngang cứ phăng phăng đi, chẳng để ý đến ai. Một kỹ nữ ghé tai bạn nói nhỏ:

– Ai như Cát Xuyên Mộc ấy nhỉ ?

– Ờ phải. Cát Xuyên Mộc đấy ! Đúng rồi. Anh chàng này cùng với bọn Hoa Sơn đến viện mấy lần, lầm sao được !

Bèn cất cao tiếng gọi:

– Cát Xuyên ! Cát Xuyên !

Nhưng họ Cát Xuyên là một họ phổ thông, nhiều người có. Anh chàng cao lớn không quay lại. Hắn không rõ có phải ả gọi mình không, vả ở chỗ này chẳng muốn tỏ ra quen biết với những ả kỹ nữ.

– Ê, chàng đeo kiếm tóc rủ trước trán kia, phải Cát Xuyên Mộc không ?

Cát Xuyên Mộc cau mày, quay xem ả nào vừa gọi. Thôi Nãi Phu mắng át:

– Nàng nào vô lễ thế ?

Vừa toan xin lỗi thì nhận ngay ra Cát Xuyên Mộc:

– Kìa, đại hiệp ! Đi du ngoạn đâu mà qua đây thế này ?

Cát Xuyên Mộc cũng nhận ra Thôi Nãi Phu, chủ nhân Phong Nguyệt Lâu tại cổ thành Kyoto. Bèn đáp lễ:

– Tại hạ đi Edo. Còn lão huynh ? Định dẫn các người đẹp làm một chuyến thiên đô tập thể chắc ?

Thôi Nãi Phu cười ha hả:

– Đúng thế ! Đại hiệp đoán không sai !

Rồi ghé tai chàng thanh niên, lão nói khẽ:

– Đi đất mới lập nghiệp. Chỗ nước tù hãm, cây cỏ khó mọc !

Cát Xuyên Mộc gật đầu đồng ý:

– Edo bây giờ chắc không thiếu gì thợ giỏi và lao công tốt, nhưng khách làng chơi sang trọng biết cách thưởng thức như vẫn thường thấy lui tới lầu Phong Nguyệt thì e rằng… e rằng …

Thôi Nãi Phu khoát tay:

– Đại hiệp lầm rồi ! Bến Hoành Tân là hải cảng do bọn kỹ nữ lập nên đấy chứ. Lão phu phải đến trước, đặt nền móng cái đã. Thương gia và các nhà chính trị sẽ tới sau.

Cát Xuyên Mộc mỉm cười:

– Có thể, có thể lắm ! Nhưng Edo mới đang xây cất, làm sao tìm được chỗ thuận tiện ?

– Đại hiệp đừng lo. Lão phu đã tính cả rồi và đã cho dựng tạm một căn nhà gỗ trên thửa đất mới được cấp gần lộ.

– Chà ! Được cấp đất mở kỹ viện cơ đấy ! Ai mà hào phóng thế ?

– À, bí mật ! Nếu lão phu không quen với các vị có quyền hành thì làm sao được đặc ân ấy ?

– Quả nhiên lão huynh khôn ngoan, trông rộng.

– Thế còn đại hiệp ? Đã tìm được nơi nào phục thị chưa ?

– Chưa. Tại hạ chưa có chủ ý. Tuy nhiên nếu được mời giữ chức chưởng doanh hay thống binh thì tại hạ cũng sẽ xét.

Thôi Nãi Phu không biết sở học và tài năng của Cát Xuyên Mộc đến mức nào, nhưng nghe cái giọng hợm hĩnh ấy thì cười hề hề, đưa đẩy vài câu rồi làm bộ quát bảo mã phu sửa soạn thắng ngựa.

Cát Xuyên Mộc cũng cáo từ để tiếp tục cuộc hành trình. Hắn không muốn liên quan mật thiết đến giới ca kỹ, một giới mà hắn cho là không xứng đáng giao thiệp ngoài những lúc mua vui.

– Nào, nghỉ ngơi rồi, bây giờ ta lên đường. Nhớ buộc lại quai dép cho chặt.

Thôi Nãi Phu nhắc bọn phụ nữ.

Mụ Ô Kiều đếm đầu người rồi lẩm bẩm:

– Quái ! Thiếu một ả.

Mụ thầm nghĩ hai nàng ưa trốn đi chơi nhất là Mỹ Dung và Liên Hà thì có mặt ở đây cả rồi. Mà sao đếm đi đếm lại vẫn thiếu. Lạ thật ! Bèn đem chuyện ấy trình với Thôi Nãi Phu. Thôi Nãi Phu nhớ ra:

– Chắc là A Kế Mỹ rồi !

– À à, phải rồi, A Kế Mỹ ! Nàng mới nhập đoàn ở Kiso !

Bèn sai mấy ả đi tìm quanh các quán xá nhưng không thấy. Đồ chừng A Kế Mỹ đã trốn khỏi đoàn, Thôi Nãi Phu nói:

– Thấy nó tứ cố vô thân, ta vì lòng trắc ẩn mà thu nạp, sao nó không biết ơn lại bỏ trốn. May chưa kịp đưa đồng nào, chỉ tốn mấy bữa cơm, không đáng kể. Thôi kệ nó ! Đi!

Đoạn hô cả đoàn lên đường.

– Cứ thế này thì tối mới đến Hà Châu. Đêm nay chắc phải nghỉ ở đó mất, mai mới tiếp tục được.

Đi một quãng, bỗng gặp A Kế Mỹ ngồi chờ bên lộ. Mụ tào kê ngạc nhiên nhưng sa sầm ngay nét mặt:

– Đi đâu vậy ? Tưởng bỏ trốn rồi. Ngươi làm cả đoàn vất vả.

A Kế Mỹ lúng túng giải thích:

– Tiểu nữ thấy người quen, không tiện gặp nên tránh mặt. Không ngờ ở lùm cây có chỗ dốc trượt chân ngã xuống khu dưới kia. Quanh quẩn mãi không tìm được lối lên, rách cả quần áo.

Nói đoạn vạch những chỗ áo rách và cánh tay xây xát cho mụ coi. Thôi Nãi Phu bước tới trừng mắt:

– A Kế Mỹ ! Ngươi định trốn phải không ?

– Không.

– Nếu ngươi thực tâm muốn làm nghề này thì phải vâng lời, theo kỷ luật của đoàn như các nàng kia. Rồi đổi tên đi, tên A Kế Mỹ không hay mà khó nhớ. Ngươi có quyết tâm làm nghề này hay không ?

A Kế Mỹ cay đắng:

– Quyết tâm làm gái giang hồ ư ?

– Ừ ! Nếu muốn khá thì phải biết vâng lời, biết chiều khách. Đấy là ta bảo trước.

Tùy ngươi.

A Kế Mỹ bậm môi giữ cho khỏi khóc. Rồi lẩm bẩm:

– Thì cũng liều. Cuộc đời tiểu nữ đã bị đàn ông làm cho hỏng rồi, còn gì đâu mà chọn lựa !

Thôi Nãi Phu nhìn cô bé. Lão cũng bùi ngùi thương xót, nhưng óc thực tế của lão mạnh hơn:

– Thái độ ấy không phải là một thái độ đứng đắn. Nghĩ kỹ đi. Nếu ngươi đổi ý trước khi đoàn đến Edo thì cũng chẳng can gì, ta không đòi tiền cơm của ngươi đâu.

Ở Tako, cũng ngày hôm ấy, một lão ông quắc thước và một thiếu niên tuổi chừng mười lăm lững thững đi về phía Hà Châu. Theo sau là một gia nhân quẩy cái rương lớn đựng đồ nhật dụng.

Qua một ngôi chùa, cả ba rẽ vào nghỉ chân. Lão ông ngoạn cảnh vườn, tò mò đọc từng tấm bia, ngắm từng gốc cổ thụ và chiêm ngưỡng lối kiến trúc vững vàng cũng như những đường cong cân đối của mái chùa đã phủ rêu lốm đốm.

Đoạn vào tiền đình dùng trà, ông xin cúng một số tiền. Vị tăng già mang sổ đến.

Thấy dưới số tiền khá lớn, có ghi tên họ và địa chỉ thí chủ:

“Đại Cổ, nhà bào chế dược thảo, Narai”, vị tăng kinh ngạc gọi chú tiểu mời trụ trì ra nghênh tiếp. Suốt trong vùng, không ai lạ gì danh tình Đại Cổ, một thương gia giàu có, rất sùng đạo và hào phóng.

Trong những dịp hành hương, không đền chùa nào ông đến viếng mà không được ông cúng hiến tiền bạc, thường là vàng, có khi hàng chục lạng. Chỉ có Trời Phật và chính ông mới biết ông cúng như vậy là vì lòng kính ngưỡng thật sự hay chỉ vì háo danh và húng của.

Thấy chẳng mấy khi may mắn được tiếp đãi một ân nhân như thế, vị sư trụ trì lưu ông lại, định đích thân mở cửa kho bảo vật để ông xem những cổ khí và Phật tích hiếm có, nhưng Đại Cổ một mực từ chối, xin cáo biệt chờ dịp khác thuận tiện hơn.

Đến Hà Châu, trời còn sáng. Đường chính trong trấn thưa người đi lại, nhưng nhiều quán xá đã lục tục lên đèn. Ở Hà Châu, đường này có lẽ có nhiều lữ điếm và buôn bán sầm uất nhất.

Đại Cổ quay sang hỏi thiếu niên đi cạnh:

– Giang ! Ngươi muốn đến lữ điếm nào ?

– Lữ điếm nào cũng được, miễn đừng ở chùa thôi !

Đại Cổ cười ngất:

– Thằng này thế mà thật thà !

Bèn tìm đến một quán lớn, sang trọng bước vào.

Nhìn dáng dấp bệ vệ và nhất là cái rương lớn sơn then của khách do gia nhân gánh tới, viên thủ hạ cúi rạp đầu nghênh tiếp:

– Qúy khách muốn phòng trông ra phố hay ra vườn ?

– Phòng nào cũng được, cốt yên tĩnh.

Người chiêu đãi dẫn Đại Cổ lên một phòng lớn trần thiết lịch sự trên lầu rồi đưa Giang và tên gia nhân sang phòng xép cạnh cầu thang.

Thông thường quán xá ven lộ hay phải đón tiếp một số thực khách bất ngờ, nhất là vào những giờ trước bữa ăn tối. Nhưng chưa khi nào lữ điếm này lại gặp một số khách đông đảo và hỗn tạp như bữa nay.

Có đến ba chục nữ lang, không kể gia nhân khác, phần lớn còn trẻ, mặt thoa phấn trắng, môi son đỏ chót chạy rậm rịch khắp nơi, gọi nhau í ới.

Chủ lữ điếm phải đích thân cáo lỗi cùng quan khách. Ông ta nói với Đại Cổ:

– Có một số thực khách mới đến bất ngờ gây huyên náo, xin lượng thứ. Nếu ngài không được vừa ý, xin mời lên lầu hai, cũng có phòng tốt mà lại yên tĩnh.

– Không sao ! Chủ nhân đông khách lão cũng mừng cho. Để gọi gia nhân dọn đồ lên.

Hành trang vừa dọn ra, Đại Cổ đã bị một toán bốn năm nữ lang chen lấn. Mùi phấn son nức mũi, tay áo như bướm bay, tiếng chuyện trò cười nói ríu ra ríu rít. Không còn là cảnh hoạt động nữa mà là hỗn loạn. Con hầu, đầy tớ, nhà bếp đều bỏ việc ra ngóng xem các nữ lưu thanh lịch ở Kyoto ra thế nào.

Khi được biết đấy toàn là kỹ nữ đất kinh đô thì ôi thôi, lời bàn ra tán vào không sao kể xiết. Nhà bếp nấu ăn thì trễ, tuần rượu xong, thiếu người dọn dẹp. Khách tò mò đứng đầy cửa ngó nghiêng xem các nàng mặt ngang mũi dọc ra sao mà nổi tiếng mỹ miều, xử sự khéo léo khiến đàn ông phải mê mệt.

Nằm nghỉ không yên, Đại Cổ bỗng nảy ra một ý. Ông gọi gia nhân. Chẳng thấy trả lời, bèn xuống lầu mở cửa phòng xép tìm. Phòng trống không. Cả Giang cũng không có đấy.

Ông xuống nhà dưới. Lẫn trong đám đông há hốc mồm ngắm các nàng kỹ nữ, Giang đang đứng xớ rớ. Ông lôi nó lên phòng, nghiêm nghị hỏi:

– Ngươi nhìn cái gì thế ?

Giang lúng túng gãi đầu. Thanh kiếm gỗ dài đeo sau lưng làm nó vướng víu càng như tăng sự lúng túng của nó hơn.

– Dạ, thì tiểu điệt cũng nhìn như người ta.

– Nhưng nhìn cái gì mới được chứ ?

– Dạ, nhìn các nàng ấy.

– Có thế thôi à ?

– Dạ, chỉ có thế.

Sự có mặt của các kỹ nữ trong lữ điếm không làm phiền Đại Cổ, nhưng chẳng biết vì lý do gì, lão rất ghét những kẻ hay dòm ngó công việc của người khác. Lão gay gắt:

– Các nàng ấy có gì lạ ?

– Tiểu điệt cũng không biết. Giang ngây thơ đáp.

– Ta có việc phải ra phố bây giờ. Trong lúc ta đi vắng, ngươi ở nhà không được đi đâu, nghe không ?

– Lão bá không cho tiểu điệt theo à ?

– Không !

– Tại sao thế ?

– Tại vì không phải ta đi chơi mà đi có việc !

– Việc gì ?

– Việc tôn nghiêm. Thằng này hay hỏi lôi thôi quá !

– Lão bá ở đền chùa cả ngày chưa đủ hay sao. Tối rồi. Đến sư cũng phải có lúc nghỉ ngơi chứ !

– Việc tôn nghiêm không phải chỉ làm ở chùa, đền mà đủ. Xuống gọi Bảo Đồng, tên bộc của ta, mang chìa khóa rương lên đây !

Giang xuống lầu tìm gia nhân của Đại Cổ. Nó biết phải tìm gã ở đâu. Chen lấn một lúc, quả nhiên thấy Bảo Đồng đang đứng dưới hành lanh trố mắt nhìn lên dã y phòng các kỹ nữ ở trọ, đợi các nàng bước ra. Giang đến nắm áo gã:

– Bảo Đồng ! Lão nhân gia gọi ngươi kìa !

– Thật không ?

– Lại chả thật ! Lão nhân gia bảo mang chìa khóa rương lên để lão nhân gia lấy quần áo đi phố. Sao ông ấy hay đi thế, tối rồi mà còn đi !

Bảo Đồng tiếc rẻ, bước đi mà còn ngoái cổ lại một lần nữa. Giang thong thả bước theo.

Bỗng có tiếng gọi khẽ:

– Giang ! Phải Giang đấy không ?

Giang dè dặt không dám đến gần, chỉ cất tiếng hỏi:

– Ai đấy ?

Thiếu nữ bước ra chỗ ánh đèn. Nhìn rõ mặt, Giang mừng rỡ reo:

– A Kế Mỹ cô nương !

– Ừ, ta đây ! Lâu lắm lo gặp … Quỷ, ngươi làm gì ở đây thế ?

– Thế còn cô nương, cô nương làm gì ở đây ?

– Ta … ta … Thôi, em chẳng hiểu đâu !

– Cô nương đi cùng với những người kia đấy hả ?

– Ừ, ta đi cùng với họ. Nhưng ta chưa nhất định …

– Nhất định cái gì ?

– Nhất định làm một nghề như họ.

A Kế Mỹ thở dài. Giang nhìn nàng không chớp. Nó thấy A Kế Mỹ gầy và già hơn lúc gặp nàng giặt quần áo ở ven suối ba năm trước.

– Sư phụ của em đâu ?

Giang biết đấy là câu hỏi chính và đấy mới là mục đích A Kế Mỹ muốn gặp nó.

Nó lựa lời đáp:

– Sư phụ tiểu đệ, Oa Tử cô nương và tiểu đệ lạc nhau giữa đường. Chẳng biết bây giờ đâu.

– Oa Tử ? Oa Tử là ai ?

Hỏi xong, A Kế Mỹ như sực nhớ:

– À, ta biết rồi.

Đã từ lâu, A Kế Mỹ vẫn cho rằng Thạch Đạt Lang là kẻ lang bạt, thích đi đâu thì đi, thích ở đâu thì ở, sống trong rừng, ngủ trên đá, không gì kềm giữ, chẳng bao giờ muốn đời mình bị ràng buộc nên A Kế Mỹ không hy vọng gì mối tình của mình được đáp ứng và nhẫn nhục chịu. Nhưng nếu nghe có người đàn bà nào khác chia sẻ cuộc đời của Thạch Đạt Lang thì nàng thấy nghẹn họng. Tên Oa Tử đã đánh thức mối ghen tuông trong lòng nàng và khơi đỏ những cục than tưởng như tàn lụi của một mối tình vô vọng.

– Giang ! Ở đây đông người quá, ta muốn nói chuyện với em. Mình ra chỗ khác đi.

Giang gật đầu theo A Kế Mỹ ra khỏi khuôn viên lữ quán. Phố xá lên đèn sáng rực.

Khách đi chơi tối đã bắt đầu tấp nập. Kể từ khi rời Kyoto đến nay, bây giờ Giang mới thấy một thị trấn náo nhiệt như thế này.

Về phía chân trời xa, bóng núi Chichibu đen sẫm, yên lặng, nhưng ở đây sặc mùi rượu sa-kê, tiếng rao hàng lanh lảnh, tiếng xe ngựa ồn ào vả cả những tiếng nghệ công hát dạo, giọng nghẹn ngào thổn thức kéo dài, u uất như chính cuộc đời của họ.

– Mãn Hà Chí có kể ta nghe nhiều chuyện về Oa Tử – A Kế Mỹ đưa đẩy, dù biết rằng đấy chỉ là những lời nói dối – Oa Tử là người thế nào hả em ?

– Oa Tử cô nương tốt lắm, dịu dàng và dễ thương. Lại đẹp nữa. Tiểu đệ thích cô ấy lắm.

A Kế Mỹ cảm thấy chỗ đứng của nàng trong lòng Thạch Đạt Lang mờ đi. Nàng mỉm cười cố giấu nỗi buồn tủi:

– Oa Tử tốt thế kia à ?

– Vâng, lại khéo nữa. Hát hay, viết chữ đẹp, biết thổi sáo. Thổi sáo rất giỏi.

Như con mèo xù lông trước khi giương móng, A Kế Mỹ cười gằn:

– Đàn bà biết thổi sáo thì được tích sự gì ?

Giang ngạc nhiên:

– Cô nương không thích sáo à ? Không thích thì thôi, nhưng nhiều người thích tiếng sáo của cô Oa Tử lắm, kể cả Trúc Mộ lão tiên sinh. Cô Oa Tử chỉ có mỗi một tật đệ không ưa.

– Ừ, là người ai chả có tật xấu. Như ta cũng có tật xấu chứ, nhưng nếu biết tật mình mà sửa thì thành tốt, còn nếu như đem che giấu đi dưới lớp vỏ đức hạnh thì chỉ là đạo đức giả …

– Không, cô Oa Tử không thế đâu. Cô nương chẳng che giấu cái gì cả.

– Vậy tật của Oa Tử là gì ?

– Cô Oa Tử chỉ hay khóc.

– Hay khóc ?

– Vâng. Hơi một tí là khóc, nhất là những khi nghĩ đến Thạch sư phụ. Thành ra đi với cô nương buồn chết được. Tiểu đệ không ưa.

Giang nói chuyện thành thật. Thành thật đến tàn nhẫn, bất kể hậu quả gây ra cho người nghe ra sao. Vô tình nó không biết ngọn lửa ghen đương phừng phừng trong lòng A Kế Mỹ, thiêu đốt tâm can và thể xác nàng.

Mặt A Kế Mỹ nhợt nhạt, mới có một lúc mà trông nàng già đi hẳn mấy tuổi. Nhưng cũng phải khen A Kế Mỹ can đảm. Mặc dầu tức đến nghẹn cổ, nàng vẫn còn tỉnh táo hỏi Giang:

– Oa Tử bao nhiêu tuổi ?

– Cũng bằng tuổi.

– Em muốn nói bằng tuổi ta hả ?

– Vâng, nhưng trông có vẻ trẻ hơn cô nương.

A Kế Mỹ muốn nghe một lời kể xấu Oa Tử hoặc một chuyện gì Oa Tử đã làm Thạch Đạt Lang không vừa lòng. Để nàng còn bám víu vào đấy mà hy vọng. Để nàng còn có cớ mà xua đuổi nỗi đau khổ tột cùng đương dày vò tim óc nàng. Bèn hỏi Giang mà như mớm lời cho nó:

– Sư phụ của em là người tính tình dũng mãnh, chắc phải khó chịu khi thấy Oa Tử hay khóc. Oa Tử dùng nước mắt để làm cho người khác thường chứ gì, cũng như những ả kỹ nữ ở Kyoto vậy. Thật đáng ghét !

Giang phản đối:

– Không phải. Thạch sư phụ yêu Oa Tử cô nương. Ông không bao giờ tỏ tình nhưng tiểu đệ biết ông yêu cô Oa Tử lắm.

Lời nói của Giang là giọt nước cuối cùng làm tràn bát nước đầy. Mặt A Kế Mỹ tái xanh, nàng thở hổn hển.

– Cô nương sao thế ?

– Không ! Không sao cả !

– Tiểu đệ đưa cô nương về nhé ?

A Kế Mỹ gạt tay Giang:

– Mặc ta. Ta không muốn về đấy đâu !

Giang tần ngần một lúc, định bỏ đi rồi lại không nỡ. Nó không hiểu được người lớn đã đành, nhưng A Kế Mỹ tuổi chẳng hơn nó bao nhiêu sao cũng có những hành động khó hiểu vậy !

– Giang ! Dẫn ta lại cái quán đằng kia cho ta nghỉ chút.

– Đằng ấy là quán rượu mà !

– Càng tốt. Ta muốn uống chút rượu. Còn em thích ăn gì cứ gọi.

Giang dẫn A Kế Mỹ vào quán. Nàng gọi một bình rượu lớn và vài cái bình cho Giang. Rượu mang ra, A Kế Mỹ rót uống hết chén này đến chén khác, mặt lầm lì tái ngắt.

Thấy A Kế Mỹ uống rượu không ngừng, Giang hoảng sợ:

– Cô nương uống nhiều quá !

– Kệ ta ! Không việc gì đến ngươi. Ngươi là bạn Oa Tử phải không ? Ta ghét ngươi, ta ghét con Oa Tử, ta ghét Thạch Đạt Lang.

– Cô nương say rồi, trả tiền đi rồi về.

– Chưa say. Ta muốn uống nữa. Chủ quán đâu ? Cho thêm bình rượu !

Giang đưa mắt nhìn chủ quán ra hiệu đừng mang rượu đến.

– Cô nương có tiền trả không ?

– Tiền hả ? Sao ta lại không có ! Ta đã bán thân cho Thôi Nãi Phu rồi mà ! Đến lữ điếm mà đòi, ha … ha …

Chủ quán có lẽ đã quen với những cảnh như thế này nhiều lần, lạnh lùng nhìn nàng, sau thương hại bảo Giang:

– Say quá rồi, dẫn về đi. Mai đến trả tiền cũng được !

Giang dìu A Kế Mỹ ra khỏi quán. Bóng tối ngõ hẻm đổ lên đầu hai người. Cơn gió lạnh thổi qua, Giang rùng mình, tưởng nghe tiếng than khóc của những linh hồn đau khổ nào. Nó không để ý tới một bóng đen từ trong hẻm bước ra theo chân nó và A Kế Mỹ.

– Giang ! Đừng dẫn ta về đấy làm gì. Dẫn ta đến chỗ thầy ngươi.

– Đệ biết Thạch sư phụ Ở chỗ nào đâu !

– Vậy đưa ta ra bờ sông. Gió mát làm ta đỡ bực bội.

Ra đến bờ sông, A Kế Mỹ cầm tay thằng bé:

– Thôi em về đi, để ta ngồi đây.

Một ý nghĩ thoáng hiện, Giang hoảng hốt kêu lớn:

– Đừng ! Đừng ! Cô nương đừng làm thế !

Thình lình có một vật gì đập mạnh vào đầu khiến Giang ngã lăn ra bất tỉnh.

Bóng đen theo chân nó và A Kế Mỹ nhảy tới vừa kịp đỡ thân người thiếu nữ không để nàng gieo mình xuống nước. Gã vác A Kế Mỹ lên vai, chạy mất hút vào trong đêm tối.

Giang mở mắt, nhiều người đứng lố nhố xung quanh. Kẻ cầm đèn lồng, người mang gậy gộc.

Họ vui mừng thấy nó đã tỉnh. Hỏi thăm về thiếu nữ cùng đi với nó, nó cũng chẳng biết bị ai bắt và bắt dẫn đi hướng nào. Lại thấy nó không bà con thân thích gì với nàng, mọi người đều lấy làm lạ.

Một mình lủi thủi trở về phòng trọ, Giang bỗng nhớ đến câu đồng dao bạn bè nó vẫn vỗ tay hát khi còn nhỏ:

Này ông phỗng đá Đứng giữa đồng không, Thấy cô gái nhỏ, Mái tóc rối bồng, Dòng đời lỡ bước, Lạc tới đây chăng ?

Hỏi phỗng, phỗng chẳng nói năng …

Đánh phỗng, phỗng chỉ nhăn răng phỗng cười.

Chương 60: Dế trong bụi cỏ

Len lỏi giữa những ngõ tối khu ven sông, Giang cắm cúi đi, trong lòng nơm nớp sợ bọn người kia gọi lại vặn hỏi lôi thôi và có thể bắt nó giải lên quan trấn thủ không biết chừng.

Nó không biết sẽ phải đối đáp ra sao trước những câu hỏi của bao nhiêu người lạ mà nó đoán sẽ gay gắt lắm, về A Kế Mỹ, về thầy nó, về Oa Tử. Và trần tình như thế nào trước mặt Đại Cổ khi ông hỏi nó tại sao đi cùng với một kỹ nữ vào tiệm nước.

Nó biết Đại Cổ chẳng ưa gì giới ăn chơi, nhất là giới kỹ nữ. Vả hơn nữa, ông đã dặn nó phải ở nhà trong khi ông đi vắng. Tất cả những điều ấy, khi nghĩ đến, khiến nó bồn chồn lo lắng và giục nó bước mau.

Vết thương còn hơi nhức, Giang lấy tay sờ đầu không thấy máu thì yên bụng. Cơn gió thốc vào mặt, luồn qua khe áo phong phanh khiến nó run rẩy. Nó cố giữ cho hai hàm răng khỏi đánh vào nhau lập cập.

Nhìn ra xung quanh, Giang không khỏi ngạc nhiên. Cảnh vật lạ hoắc, khác hẳn với những khu phố đã đi qua hồi nãy. Nhà cửa thưa dần, tối đen, im lìm. Quay nhìn lại chẳng thấy có quán xá hay bất cứ dấu vết gì của sự sinh hoạt náo nhiệt nữa. Tuy về phía chân trời, ngọn Chichibu vẫn yên tĩnh nhưng chỗ Giang đứng có một cái gì hoang phế làm nó rờn rợn.

Đây là cuối ngõ và xa hơn nữa là bãi hoang. Một con đường mòn chạy ngoằn ngoèo qua bãi hoang khuất sau vách đá dựng đứng của một tòa lâu đài cổ. Tòa lâu đài, dường như bị bỏ phế lâu ngày, đã điêu tàn; cây dại, bụi gai chen nhau mọc lấp cả chân tường và lối vào. Mái ngói hư nát trơ những kèo và đầu mè đen sì. Dưới ánh trăng non, trông chúng tựa những rẻ sườn của một xác chết.

Xung quanh tòa cổ lâu chẳng có vết tích gì gọi là tường hay hào bao bọc. Trước kia, đây hẳn là chỗ ở của một lãnh chúa địa phương, sau khi sa sút, con cháu bỏ đi lập nghiệp nơi khác, không đoái hoài đến nữa.

Phía bên kia đường có vài thửa ruộng cằn. Xa hơn, mấy căn lều gỗ trơ trọi, tối đen.

Trong cái đìu hiu của cảnh vật, tiếng ếch kêu gióng một càng như gợi lên trong lòng Giang một cảm giác thê lương và sợ hãi không duyên cớ.

Bỗng trên sườn vách đá có vật gì động đậy. Tưởng là chồn cáo, Giang không để ý, nhưng thấy vật ấy cử động có hơi khác lạ, nó tò mò nhìn kỹ. Vật ấy cử động đều đặn một lát, ngưng lại, rồi lại tiếp tục cử động đều đặn như thế.

Giang trố mắt nhìn đến nứt kẽ. Mãi sau mới nhận ra một người đang tuột dây từ trên bờ thành lâu đài xuống. Gã đeo trên lưng cái bọc lớn.

Tuy sợ, Giang vẫn đứng yên, chú mục nhìn như bị thôi miên. Đến chân tường, bóng đen giật cho sợi dây rớt xuống, cuộn lại, rồi bỗng mất hút, tưởng như tan biến vào trong bóng tối của những lùm cây vây bọc xung quanh.

Sự tò mò của Giang lên đến cực điểm. Nấp sau một tảng đá, nó định bụng chờ lúc nữa, nếu không động tĩnh gì, sẽ đến chân tòa lâu đài coi xem thế nào.

Nhưng chẳng phải đợi lâu. Chừng một chập, có lẽ chưa tàn nửa nén hương, Giang đã thấy cũng cái bóng đen ấy men theo bờ ruộng tiến thẳng về hướng nó nấp. Hoảng sợ, Giang định bỏ chạy nhưng bỗng thở phào:

bó củi trên lưng kẻ ấy khiến nó đoán ra ngay.

“Có gì đâu ! Chỉ là một người kiếm củi, thế mà làm mình sợ muốn chết !”. Nhưng Giang lại thầm rủa kẻ kiếm củi về trễ đã làm nó thất vọng. Cái cảm giác rờn rợn nổi da gà khi nãy không còn nữa và cả một sự bí mật ghê gớm nó mường tượng ra đột nhiên trở thành tầm thường và nhàm chán một cách khó chịu.

Nó toan dời chỗ nấp trở về đường cũ. Nhưng nhìn dáng đi của người kiếm củi, Giang kinh ngạc vội giơ tay tự bịt miệng để khỏi thốt ra tiếng kêu lớn. Vì đấy chính là dáng đi của Đại Cổ.

Bóng người kiếm củi mỗi lúc một gần. Ông ta mặc bộ áo chẽn màu chàm, loại quần áo tiều phu thường mặc, đi dép cỏ và quấn một vuông khăn đen để giấu mặt, nhưng vóc dáng ấy không thể đánh lừa được Giang. Đôi vai rộng, bước đi vừa vững vàng vừa mềm mại, khó tìm thấy ở những người trạc tuổi ngũ tuần là những đặc tính không thể lầm Đại Cổ với một người khác được. Giang tự hỏi:

“Chẳng biết ông ấy đến đây làm gì, nhưng chắc chắn không phải để kiếm củi”.

Đại Cổ men theo bờ ruộng, đến gần chỗ Giang nấp thì rẽ sang một bờ ruộng khác, trèo lên con đường mòn. Đoán chừng ông ta trở về trấn, Giang nảy ý định theo chân cho khỏi lạc, nhưng lại không muốn để ông biết. Bèn chờ Đại Cổ đi thật xa mới len lén dời chỗ nấp, nương bóng tối mà theo. Đường mòn quanh co như rắn lượn đến một cái gò.

Tới chân gò, Đại Cổ để bó củi xuống ngồi nghỉ bên một tấm bia đá chôn đã lâu ngày, đổ nghiêng. Lúc sau mới đứng dậy tiếp tục trèo lên. Giang đến chỗ bia đá cũng dừng lại nghỉ chân. Bia cũ nhưng ít rêu phủ. Giang lẩm nhẩm đọc hàng chứ hãy còn rõ nét:

“Thủ cấp lũng” (gò đầu người) và nghĩ chỗ này chắc là chỗ chôn thủ cấp những kẻ chiến bại ngày trước. Cảm giác rờn rợn lại ào đến xâm chiếm lòng nó và bỗng dưng Giang có cảm tưởng như âm khi lãng đãng theo sau cùng với nhiều tiếng kêu khóc.

Nó quay lại nhìn …Không ! Bốn bề vắng lặng như tờ, đến tiếng côn trùng cũng không có. Ngó lên cao, gốc tùng cổ thụ vươn những cành cằn cỗi đan vào nhau dưới ánh trăng suông. Bóng Đại Cổ cũng mất hút. Dưới chân gò, con đường mòn vẫn ngoằn ngoèo, từ đâu đến và dẫn đi đâu Giang cũng không biết. Phân vân một lúc, nó đánh liều cứ leo lên gò, may ra ở chỗ cao sẽ tìm được phương hướng.

Mới được mươi bước, Giang khựng lại ngay núp vào trong bụi rậm. Vì nó vừa thấy bóng Đại Cổ trên đỉnh gò. Ông ngồi lên một cái rễ nổi cao khỏi mặt đất, đang hút thuốc.

Giang nín thở. Tẩu thuốc ấy xác nhận danh tính của ông. Không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là Đại Cổ. Nông dân thời đó làm gì có thuốc lá mà hút vì thuốc lá được coi là một loại xa xỉ phẩm. Nước Nhật bấy giờ chỉ mới trồng được một ít thuốc, bán ra rất đắt.

Đến như ở Kansai là vùng giàu có mà cũng ít người dám bỏ tiền mua hút. Ngay Liêu Chính Mộ Đức, lãnh chúa vùng Mitsu thịnh vượng, mỗi khi hút thuốc, gia nhân cũng phải ghi vào sổ rành mạch để theo dõi sự tiêu thụ:

“Sáng:

ba cối; chiều:

hai cối; tối:

một cối”. Ngoài vấn đề đắt đỏ ra, thuốc lá còn không được thông dụng vì độc tính của nó.

Những người không quen, khi hút dễ bị nhức đầu, nôn mửa. Mặc dầu ngửi thơm, thuốc lá bấy giờ bị coi như ma túy và xếp vào hàng độc dược.

Giang biết Đại Cổ nghiện thuốc lá. Ông ta ưa dùng xa xỉ phẩm nhưng ông giàu, hút gì mà chả được. Có điều ông đến đây với mục đích gì giữa lúc tối tăm, lại phải trá hình là một kẻ nhà quê đi nhặt củi thì nó không thể nào đoán ra. Tuổi còn trẻ, với tính tò mò cố hữu, Giang không thể nhịn được. Nó bò đến gần, mở banh mắt ra nhìn.

Hút xong cối thuốc, Đại Cổ thong thả đứng dậy, xắn tay áo đi vòng ra phía sau cây tùng. Khi trở lại, ông cầm một cái mai. Đại Cổ lấy cái mai ở đâu không biết, nhưng Giang thấy ông tỳ tay lên cán mai đứng một hồi lâu nhìn xung quanh dường như muốn ghi nhận tất cả những chi tiết của cảnh vật trong óc. Đoạn ra vẻ vừa ý, ông đến một chỗ ở phía bắc gò, gạt hết lá khô cùng cành gãy sang một bên rồi bắt đầu đào. Hì hục một lúc, Đại Cổ đã đào được một cái hố sâu, rộng chừng vừa một người đứng. Giang thấy ông nhảy xuống hố rồi mất dạng. Nó sợ hãi muốn kêu lên, tưởng Đại Cổ tự đào huyệt chôn mình. Nhưng không. Ông nhô đầu lên ngay, đổ ít đất lên miệng hố rồi lại thụp xuống.

Thì ra ông ngồi dưới hố cốt đào cho hố sâu thêm, mỗi khi nhô đầu lên là để đổ đất ra ngoài. Giang tự cười mình ngốc.

Khi trăng xế, cái hố đã khá sâu. Đại Cổ trèo ra ngoài ngồi nghỉ, kéo khăn lau mặt rồi lấy tẩu ra nhồi thuốc. Nhưng nghĩ thế nào, lại cất vào bọc. Ông đến bên bó củi gỡ những cành khô buộc ở bên ngoài ra, để lộ một cái áo da lớn, loại áo các lãnh chúa thường mặc ngoài giáp sắt mỗi khi lâm trận. Trong nữa là một cái đẫy vải. Giang thấy Đại Cổ cởi đẫy, đánh lửa châm ngọn nến con, lúi húi đọc một tập giấy to khoảng bàn tay rồi soạn nhiều thỏi dài và nặng từ trong đẫy ra. Dưới ánh nến, Giang thấy những thỏi đó lóe sáng thì biết ngay là vàng. Vàng đã được nấu chảy đổ vào khuôn làm bằng những gióng tre bổ đôi nên có hình như nửa hình ống.

Chưa hết, Đại Cổ còn cởi thắt lưng lấy ra vô số đồng tiền vàng khác, đặt cẩn thận lên những thỏi vàng trong đẫy, gói cả lại thành một bọc lớn vất xuống hố như người ta vất xác một con chó chết. Đoạn tắt nến, gạt đất lấp hố lại, lấy chân dậm cho chặt, sau đó nhặt lá thông khô và cành gẫy trải lên trên. Lúc sau không còn thấy vết tích gì của cái hố mới đào nữa.

Công việc êm trôi, Đại Cổ xoa tay khoan khoái, cởi bỏ bộ áo nông dân bọc vào cái mai, ra phía sau cây tùng. Lúc ông trở lại, Giang thấy ông hiện nguyên hình là một thương gia giàu có như nó biết, vai đeo túi hành trang bằng vóc thêu, tay chống gậy trúc, phong thái ung dung như các thương gia giàu có đáng trọng khác.

Ngồi trong bụi, Giang tưởng mình mơ, không biết chuyện vừa xảy ra trước mắt là chuyện thật hay chỉ là một vở tuồng Kabuki diễn khéo.

Đợi cho Đại Cổ đi hẳn, nó mò đến gốc tùng cổ thụ. Mặc dầu vừa chứng kiến tận mắt việc làm của Đại Cổ, nó cũng không thể nhất quyết được chỗ nào là chỗ vàng mới chôn:

dưới ánh trăng lu, bên gốc cổ thụ, chỗ nào cũng đầy lá thông khô, cành thông gẫy.

Giang nhìn mặt đất như nhìn cái bàn tay trống không của một nhà làm ảo thuật thiện nghệ.

“Khuya rồi, chắc mình phải tìm đường về thôi, kẻo bị nghi ngờ”. Nghĩ đoạn, bèn trèo lên cành cây cao nhìn bốn phía. Xa xa, ánh đèn trấn Hà Châu hiện rõ. Giang tuột xuống, định hướng xong, cứ thế mà đi nhưng cũng cẩn thận tránh những đường lớn vì sợ gặp Đại Cổ.

Về đến lữ điếm, may sao mọi người đã yên giấc, không còn cái không khí ồn ào, rộn rịp lúc ban chiều nữa. Vào phòng thấy gia nhân của Đại Cổ đang ngáy pho pho bên chiếc rương lớn sơn then, một dòng nước rãi nhểu dài trên khóe mép.

Giang lay gọi:

– Bảo Đồng ! Bảo Đồng ! Sao không xuống dưới chiếu mà nằm. Mà ngươi không khép cửa, để gió lùa độc lắm !

Bảo Đồng giật mình sực tỉnh. Rồi như chợt nhớ điều gì, nó dụi mắt, nói:

– Giang hả ? Ngươi đi đâu suốt từ chiều mà không xin phép lão nhân gia ? Sao bây giờ mới về ?

– Đi đâu đâu ? Ra phố một chút rồi về ngay, có ngươi ngủ, không biết thì có !

– Nói láo ! Đừng hòng gạt ta. Người ta bảo ngươi đi theo ả kỹ nữ đoàn Phong Nguyệt. Mới bằng ấy tuổi đầu mà đã thế thì sau này làm được cái tích sự gì ?

Giang chưa kịp cãi, cửa đã mở toang. Đại Cổ bước vào:

– Thôi đừng to tiếng nữa. Khuya rồi, làm rộn người khác. Bảo Đồng, sửa soạn giày áo cho ta để mai lên đường sớm.

Tuy nói là lên đường sớm, nhưng thực ra cả ba thầy trò Đại Cổ còn nấn ná ăn sáng, dềnh dàng mãi đến gần trưa mới dời khỏi lữ điếm. Đoàn kỹ nữ Kyoto đã lên đường từ lâu. Giang nghe tiếng Thôi Nãi Phu quát bảo đàn em ngay từ sáng sớm.

Như thường lệ, Đại Cổ và Giang đi trước, nhưng lần này Giang không đi cùng với ông nữa mà lui về phía sau đi cạnh Bảo Đồng. Qua một bãi cỏ xanh tươi, Đại Cổ ra vẻ ngạc nhiên quay hỏi thằng bé:

– Giang ! Hôm nay ngươi sao thế ?

– Dạ ! Có sao đâu !

Nó cố làm ra vẻ tự nhiên.

– Có chuyện gì phải không ?

– Dạ không ! Sao lão bá lại hỏi thế ?

– Ngươi có vẻ nóng nảy, sợ hãi, không như mọi ngày.

– Dạ không ! Không có chuyện gì. Giang vội đáp. Có điều tiểu điệt đã nghĩ kỹ, nếu cứ theo chân lão bá mãi thì không biết đến bao giờ mới gặp lại được sư phụ. Vậy xin cho tiểu điệt được đi tìm sư phụ một mình, nếu không có điều gì bất tiện …

Đại Cổ mơ màng nhìn ra xa như suy nghĩ điều gì rồi nói:

– Ta thấy có một điều bất tiện.

– Điều gì ? Tiểu điệt biết được không ?

Mỉm cười, Đại Cổ đưa tay nắm tay nó:

– Ngồi xuống đây đã !

Nhưng Giang không nắm tay lão. Nó giả vờ không nhìn thấy cử chỉ thân thiện ấy của Đại Cổ, ngồi bệt ngay xuống cỏ theo lời bảo. Đại Cổ lặng thinh cũng ngồi xuống phiến đá bên cạnh. Ông ra hiệu cho gia nhân cứ gánh rương đi trước, rồi rút trong bọc ra cái tẩu sành vẫn quen dùng, ông lấy thuốc thong thả nhồi vào.

Sốt ruột, Giang nhắc:

– Tiểu điệt nóng lòng muốn gặp sư phụ …

Đại Cổ châm thuốc, gật gù:

– Thì ta có cấm ngươi đâu !

– Vậy lão bá để cho tiểu điệt đi tìm sư phụ một mình …

Đại Cổ hút một hơi thuốc dài, đoạn quay lại, nét mặt nghiêm nghị bảo Giang:

– Không được ! Kể từ giờ, ngươi không được đi đâu một mình vì ngươi đã là con nuôi ta !

Giang sửng sốt. Nó không hiểu gì cả. Nó nuốt nước bọt. Đại Cổ cười rung cả hai vai và cả cái tẩu thuốc cầm trên tay. Thấy thế, Giang cũng cười, tưởng lão nói đùa. Bèn đáp:

– Không được ! Tiểu điệt không muốn làm con nuôi lão bá !

– Sao ?

– Vì lão bá là thương gia mà tiểu điệt lại muốn trở thành kiếm sĩ.

Tiếng cười vừa dứt lại phá lên. Lần này lâu và dài tưởng vô tận.

– Không hề gì. Đại Cổ này chẳng phải là dân giả tầm thường không danh vọng gì hay dòng dõi thế gia. Nếu ngươi bằng lòng, ta sẽ giúp ngươi trở thành kiếm sĩ.

Giang ngạc nhiên thật sự, vì nó cảm thấy tuy bề ngoài cười cợt nhưng bên trong Đại Cổ không có ý đùa. Bèn quay sang rụt rè hỏi:

– Tại sao lão bá đột nhiên có ý ấy ?

Thình lình Đại Cổ chộp ngay lấy hai tay thằng bé, kéo nó vào lòng mình rồi ghé sát tai nó mà dằn từng tiếng:

– Nghiệt súc ! Mày nhìn thấy hết cả rồi phải không ?

Giang xanh mặt, cố trấn tĩnh:

– Lão bá bảo tiểu điệt nhìn thấy gì ?

– Hà hà ! Thằng này vờ vịt khéo thật !

– Tiểu điệt không hiểu lão bá định nói gì.

– Mày nhìn thấy việc ta làm đêm qua rồi phải không ? Tại sao mày dám chõ mũi vào công việc riêng của ta ?

Giang cựa quấy cố giằng ra nhưng Đại Cổ khỏe quá. Tay lão như hai gọng kìm sắt siết chặt cổ tay nó và đùi lão ép chặt vào hai bên hông nó. Biết không chối được mà cũng không chạy được, Giang xuống nước năn nỉ:

– Xin lão bá tha cho tiểu điệt ! Tiểu điệt chỉ tình cờ mà thấy chứ không chủ ý. Tiểu điệt sẽ không nói chuyện này cho ai biết.

– Khẽ chứ ! Ta không phạt ngươi nhưng muốn ngươi phải làm con ta. Nếu không chịu, ta không còn cách nào khác là phải giết ngươi để diệt khẩu. Đừng bắt ta làm thế.

Ngươi là đứa trẻ thông minh tất hiểu rõ.

Lần đầu tiên trong đời, Giang thấy sợ. Một nỗi sợ thật sự, không phải là ghê rợn hay kinh hãi, nhưng là một nỗi sợ tiếp nhận qua lý trí của một kẻ đứng trước cái chết mà thấy mình bất lực.

– Xin lão bá tha cho ! Tiểu điệt đã biết lỗi, xin đừng giết tội nghiệp.

Ánh mắt Đại Cổ sắc như dao nhìn nó. Gọng kềm hai bàn tay lão siết cổ tay nó mà lời của lão vẫn ngọt tựa mía lùi:

– Vậy ngươi bằng lòng làm con ta chứ ?

Qùy trong lòng Đại Cổ, Giang như con dế giữa bụi cỏ cao. Lá cỏ bao vây hay che chở nó, nó không phân biệt được. Che chở hay bao vây, nó vẫn chỉ là một thằng tù.

Giang cảm thấy yếu hẳn đi, không còn sức kháng cự nữa.

– Ta để tùy ý ngươi. Muốn làm con ta hay muốn chết, nói ngay !

Giang rên rỉ rồi òa khóc. Những giọt nước mắt chảy dài trên đôi má đen đủi đầy bụi cát làm mặt nó nhem nhuốc thêm.

– Tại sao ngươi khóc ? Trong đời ngươi, sẽ không bao giờ có được cơ hội như thế này nữa. Ta bảo đảm sẽ nuôi dậy ngươi trở nên một kiếm sĩ có danh vọng.

– Nhưng …

– Nhưng cái gì ?

– Lão bá … lão bá …[Audio] Dị Giới Dược Sư (dịch)

– Lão bá làm sao ? Nói mau ! Nam nhi phải biết nói cho gãy gọn và minh bạch.

– Lão bá … Phải nghề của lão bá là ăn cắp không ?

Đại Cổ cười hà hả, bỏ tay ra đập nhẹ lên vai thằng bé:

– Phải đấy là tất cả những điều ngươi lo nghĩ và muốn tránh xa ta, phải không ?

Giang gật đầu.

Lão lại cười nữa, mãi không dứt.

– Bé con, nghe đây ! Ta có thể là kẻ đã ăn cắp cả quốc gia, ăn cắp cả nước, ăn cắp cả một triều đại, nhưng là kẻ ăn cắp tầm thường thì không phải. Ngươi thấy Tôn Điền Tùng Cương đấy, ông ta ăn cắp cả nước chứ cứ gì ta. Ở với ta, rồi một ngày kia ngươi sẽ hiểu.

– Vậy không phải lão bá đã ăn cắp những thỏi vàng đó à ?

– Ta để tâm đến cái nghề nhỏ mọn ấy làm gì !

Bỏ Giang ra, Đại Cổ đứng lên, để tay lên vai nó, nói tiếp:

– Bây giờ biết rồi thì đừng khóc nữa. Bắt đầu từ nay, ngươi sẽ là con ta. Ta sẽ là một người cha tốt. Phần ngươi cũng thế, tuyệt đối không được tiết lộ cho ai biết việc ta làm. Nếu không, ta vặn cổ chết !

Thằng bé tin lời nói ấy của Đại Cổ, đưa tay lên chùi nước mắt.

❮ sau
tiếp ❯

Avatar

Các bạn đăng ký thành viên hội nhé…!
→Free vip→Đọc và nghe audio truyện/ 0 quảng cáo→Yêu cầu truyện / Ưu Tiên♥Ngoài ra AudioSite là Website do hội Mê Đọc Truyện thành lập – chính vì vậy Đọc Truyện trên website giảm 90% xuất hiện quảng cáo nhé !