[Audio] Thạch Kiếm
Tập 5: Cây đàn vỡ – Trái tim đau (c41-c50)
❮ sautiếp ❯Chương 41: Cây đàn vỡ
Nước sôi vừa đúng độ, đồ dùng pha trà sẵn sàng để bên, Yến Nương thoăn thoắt đổ bột trà vào bát, châm nước sôi, đánh cho trà ngầu bọt. Những cử chỉ ấy nhanh nhẹn, tự nhiên và nếu chú ý hình như có một chút gì nồng ấm trong khóe mắt và nụ cười của Yến Nương mỗi khi nàng bưng trà đến cho khách. Đôi má lúm đồng tiền càng tăng vẻ quyến rũ khiến Bạch Phát thi sĩ, nhà thơ đa tình, cứ ngây người ra ngắm.
Lửa bắt đầu lụi. Yến Nương bỏ thêm củi vào lò. Tiếng than nố lách tách, khói trắng bốc cao, tỏa mùi thơm nhè nhẹ. Ngửi mùi thơm khác lạ, Lưu tướng công hỏi:
– Nàng đun củi gì thế ? Mùi này không phải mùi củi thông.
– Dạ không phải. Đấy là gỗ mẫu đơn.
Mọi người ngạc nhiên vì mẫu đơn mọc thành bụi, làm gì có gỗ mà dùng làm củi sưởi. Nhưng Yến Nương đã cầm một khúc đưa Lưu Cát xem. Khúc gỗ nhỏ, thớ vặn vẹo, khô đanh, rất nhiều mắt, cành cụt chĩa ra tua tủa.
– Những gốc này tiện nữ cho đào ở vườn ngoài, đem phơi để dành làm củi sưởi.
Tuy không nhiều nhưng cũng đủ dùng. Khu vườn quý tôn khách đi qua lúc nãy trồng toàn mẫu đơn có đến hàng trăm năm nay, nhiều cây đã cỗi nên không ra hoa to nữa. Tiện nữ lựa những cây nào tốt và thuộc giống quý mới để lại.
Thạch Đạt Lang thấy hay hay, tò mò hỏi:
– Theo ý cô nương, thế nào mới là giống mẫu đơn quý ?
– Mẫu đơn là hoa vương, hoa nào cũng đẹp. Nhưng theo thiển ý, giống hoa tốt phải to, nhiều cánh và thuần sắc, như vậy mới xứng đáng là phú quý chi hoa. Tỷ như những khóm trồng ở ngoài kia có tên Đại Hồng Phấn và Mỹ Nhân Kiểm là những thứ đặc biệt lắm. Đại Hồng Phấn hoa to, đỏ, mịn như nhung và Mỹ Nhân Kiểm trắng như tuyết không có một tạp sắc nào.
– Cô nương rành về mẫu đơn lắm nhỉ.
– Đại hiệp quá khen. Những điều nhỏ nhặt ấy, tiểu nữ đều đọc ở trong sách.
Rồi đăm đăm nhìn Thạch Đạt Lang, nàng nói:
– Mẫu đơn là hoa vương. Cho nên sau khi chết, gốc nó vẫn giữ được tính chất khác thường. Cũng như có những người giá trị của họ không thể lẫn với những người tầm thường được. – Và mơ màng như để nói với chính mình – Trên đời này, mấy ai được như hoa mẫu đơn kia, khi cánh đã héo rồi danh thơm còn lưu mãi.
Lời Yến Nương gieo mối cảm hoài sâu xa trong lòng khách. Mọi người ngồi im không nói. Lát sau Đại Quán mới lên tiếng:
– Trong cuộc nhân sinh ngắn ngủi này, con người chúng ta chỉ nở hoa vào lúc thanh xuân thật, nhưng sinh tử vốn hư không, có lìa bỏ được ý niệm phân biệt sinh tử mới gọi được là giải thoát.
Yến Nương với tư cách chủ nhân, yêu cầu quan khách lưu chút kỷ niệm. Lưu Cát tướng công bèn bảo Cổ Huy Đạo:
– Chủ nhân đã yêu cầu, xin nhường tiên sinh khai bút.
Con hầu mang giấy mực ra, trải thêm tấm thảm lên sàn. Cổ tiên sinh cầm bút, trầm ngâm giây lát rồi chấm vào nghiên mực, tay đưa thoăn thoắt trên tờ giấy lụa vân.
Nét bút tung hoành, chẳng mấy chốc đã thấy hiện ra một cành mẫu đơn trông sinh động như thật. Nhìn hoa, Đại Quán cao hứng, viết ngay một bài cảm đề theo thể thơ hài cú:
Vướng mắc gì trong vòng hệ lụy ?
Cánh hoa kia tuy đẹp Nhưng rồi cũng tàn phai.
Bạch Phát lão nhân thì chọn thể thơ tứ tuyết:
Hoa tươi không nỡ hái Hoa rụng lòng bâng khuâng Vườn khuya bông tuyết trải Hạt bụi vào hư không.
Đọc thơ, Yến Nương mắt rướm lệ. Riêng Thạch Đạt Lang mừng thầm, vì chẳng ai bảo hắn đề thơ lưu niệm.
Bức tranh được treo lên, Yến Nương cúi đầu tạ khách. Bỗng có người lên tiếng:
– Chủ nhân nổi tiếng danh cầm, sẵn có đàn tỳ, sao không dạo nghe một bản ?
Vâng lời, Yến Nương đến bên vách nâng đàn, rồi không đợi giục, kéo bồ đoàn ngồi giữa phòng, vặn giây so phím, lựa một khúc hợp với tâm sự.
Mới đầu còn gẩy vài tiếng, tuy chưa thành khúc điệu mà đã tỏ ra lão luyện.
Tiếng đàn từ dây này sang dây khác vang lên, lúc khoan lúc nhặt, bộc lộ niềm u uẩn. Tiếng nào cũng mang nặng nỗi bất đắc chí thuở bình sinh, nghe ra nghẹn ngào thương cảm.
Lửu lụi dần, gian phòng tối hơn, chẳng ai để ý. Cử tọa dường như bị thôi miên bởi sức cám dỗ của tiếng đàn bi thiết. Mãi đến khi kết thúc, năm ngón tay nàng phả cả vào bốn dây, nghe đánh “toang”, tưởng như không chịu nổi những u uất, cây đàn muốn vỡ tung, mọi người mới giật mình sực tỉnh.
Yến Nương để đàn lại chỗ cũ, khiêm nhượng:
– Tiện nữ còn phải học nhiều, xin quý tôn khách lượng thứ.
Tân khách cúi đầu không đáp. Nói gì cũng bằng thừa sau những tiếng đàn như thế.
Yến Nương gọi người nhà mang thêm củi, gây lửa lớn hơn.
Câu chuyện đổi sang nghệ thuật pha trà và uống trà của một vài sắc dân miền bắc hải đảo. Dịp này Cổ Huy Đạo và Đại Quán chứng tỏ các vị quả là những bậc hiểu biết uyên bác về nghệ thuật dùng trà.
Trời đã khuya, có lẽ cuối giờ sửu, mọi người từ tạ ra về. Yến Nương đứng bên cửa cảm ơn quan khách, cúi chào từng người trong khi khách lần lượt buộc giày cỏ bước xuống thềm.
Thạch Đạt Lang cũng ngỏ lời từ biệt, nhưng Yến Nương giữ lại. Nàng kéo áo hắn nói nhỏ:
– Hãy khoan ! Đại hiệp ở lại đây đêm nay. Bất cứ vì lý do gì thiếp cũng không để chàng về được.
Đạt Lang thẹn, mặt đỏ như gấc. Hắn vờ không nghe, cứ xăm xăm bước.
– Kim Phong tiên sinh ! Tiện nữ giữ Thạch đại hiệp ở lại tối nay, được không ?
Thạch Đạt Lang bối rối, gạt tay thiếu phụ ra:
– Cô nương tha lỗi, tại hạ phải về.
Nhưng Cổ Huy Đạo bước đến bên, đẩy nhẹ hắn vào phòng và ghé tai nói nhỏ:
– Tráng sĩ, sao lại thế ? Ở lại đi, lúc nào về cũng được.
Thạch Đạt Lang tưởng mọi người đồng lõa với nhau giữ hắn ở lại để trêu cợt vì thấy hắn quê mùa. Nhưng nhìn nét mặt nghiêm trang của Cổ Huy Đạo và Yến Nương, hắn thấy là không phải thế. Đại Quán lầm lì chẳng nói câu nào, trong khi Hải Chính Hành và Lưu Cát cười lớn:
– Đạt Lang ! Ngươi là người có diễm phúc nhất Kyoto này đấy !
Bỗng một ả thị tỳ đạp tuyết hớt hải chạy đến bên Yến Nương nói nhỏ mấy câu.
Nghe xong, nàng nghiêm sắc mặt:
– Tiện nữ đoán quả không sai. Mấy đường hẻm sau nhà bị vây kín rồi, chỉ có cổng chính là còn ra vào được, nhưng bị canh chừng. Ngoài đường nhiều kẻ đeo kiếm đứng tụm năm túm ba dòm ngó. Qúy khách phải cẩn thận, tiện nữ đã cho gọi phu cáng đến đón quý vị Ở ngoài. Riêng Thạch đại hiệp thì không thể nào dời đây được, nhất định phải ở lại.
Yến Nương phong cách đa tình rất mực, ngón đàn điêu luyện gây xúc động lòng người, thế mà khi hữu sự, nàng lại tỏ ra can đảm vô cùng, bình tĩnh cắt công việc đâu ra đấy, chẳng kém gì nam nhi. Thấy vết máu trên tay áo Thạch Đạt Lang, nàng có ý nghi, áy náy lo cho hắn nên đã phái người đi dò xét.
Yến Nương kéo Thạch Đạt Lang vào nhà trong, khép cửa lại:
– Thạch đại hiệp ? Bây giờ đã biết chuyện gì xảy ra ở ngoài rồi, chàng còn muốn đi không ?
– Tại hạ phải đi.
Yến Nương nghiêm mặt:
– Để làm gì ? Để chứng tỏ chàng không sợ họ phải không ?
Đạt Lang lặng thinh. Yến Nương tiếp:
– Nếu đại hiệp sợ bị chê là hèn nhát thì sáng mai ra gặp họ cũng chẳng muộn. Bây giờ họ đang phục kích, lại có số đông. Mãnh hổ nan địch quần hồ, nếu để chàng rơi vào bẫy của họ rồi mất mạng thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ và uổng chí bình sinh.
– Xin cảm ơn cô nương đã cho nghe những lời xác đáng. Nhưng còn danh dự … – Tiện nữ biết. Tiện nữ không khuyên đại hiệp trốn chạy, chỉ lưu tâm suy xét. Một cuộc xô xát xảy ra ở nơi này sẽ làm bao người vô tội chết oan. Lòng nhân có cho phép chàng làm như thế không ? Xin nghĩ kỹ, đừng vọng động ?
Thạch Đạt Lang cho là phải. Hắn xếp bằng trên chiếc bồ đoàn đặt ở góc phòng.
Nàng Yến ngồi bên lò sưởi, gọi:
– Thạch đại hiệp ! Đến đấy sưởi cho ấm, chỗ ấy lạnh lắm !
Nhưng hắn chối từ:
– Cô nương đi nghỉ, đừng quan tâm đến tại hạ. Khi nào trời sáng, tại hạ sẽ đi.
Mời mọc mãi, Thạch Đạt Lang vẫn chỉ cảm ơn, ngồi im như tượng. Thế nhưng sự vụng về của hắn không làm Yến Nương giận. Trái lại nàng thấy hắn có một vẻ gì khác thường, rất quyến rũ.
Yến Nương hơn Thạch Đạt Lang chừng năm tuổi. Cảm tình nàng đối với hắn như của một người chị mà cũng như của một người tình. Lẫn lộn, khiến nàng háo hức, say mê.
Có người nói nếu coi đàn ông chỉ như con bò vắt sữa lấy lợi, thì hãy làm nghề ca kỹ. Đối với Yến Nương, điều này không đúng, vì nàng, tuy đã được huấn luyện để trở thành một danh kỹ tài sắc vẹn toàn, tiểu nữ vẫn không để mất đi bản chất dễ cảm, dễ rung động của lòng mình. Nàng vẫn còn biết yêu, biết cảm.
Nhìn gã thanh niên ngồi kia, dáng cứng đơ, tuy là một kiếm sĩ đã xông pha nhiều trận, nhưng hãy còn ngây dại trong tình trường, từ chối mọi lời mời mọc, không dám đến cả nhìn mình nữa, như sợ ánh mắt mình mê hoặc, nàng cảm thấy xót thương và tự nhiên trong lòng dâng lên một niềm mến yêu dào dạt, như một trinh nữ lần đầu gặp người tình lý tưởng.
Tuyết ở mái hiên đổ xuống nghe như có ai nhảy vào vườn. Thạch Đạt Lang rướn mình, nghe ngóng. Mỗi lần có tiếng động như thế, thần kinh hắn lại căng thẳng, các chân tóc dựng đứng. Yến Nương rùng mình. Lúc gần sáng là lúc lạnh nhất trong đêm, nhưng không phải nàng rùng mình vì lạnh mà vì nhìn gã thanh niên kia tinh thần căng thẳng quá độ, nét mặt khẩn trương đến thành dữ dội.
Ấm nước sôi phì phì trên bếp. Tiếng nước reo quen thuộc khiến nàng cảm thấy bớt trống trải. Yến Nương pha trà và gọi:
– Sắp sáng rồi. Đại hiệp lại uống trà, ngồi gần lửa cho ấm.
– Cảm ơn cô nương.
Thạch Đạt Lang đáp nhưng vẫn không nhúc nhích.
Chén trà nguội dần. Yến Nương chẳng muốn khẩn khoản mời nữa làm phiền người bạn trẻ. Tuy nhiên nàng khó chịu. Đổ chén trà nguội vào bình đựng nước cặn, nàng tự nhủ:
”Thật phí ! Thừa trà cho tên thô lỗ này uống. Chẳng biết một chút lịch thiệp gì !”.
Thế nhưng nhìn hắn nàng lại thương.
– Thạch đại hiệp !
– … ?
– Sao đại hiệp có thái độ như thế ?
– Tại hạ không muốn trễ nải sự đề phòng.
– Đề phòng cái gì ?
– Kẻ thù ! Dĩ nhiên ! Cô nương đã biết rồi !
– Đại hiệp lầm ! Nếu cứ tiếp tục thế này thì khi kẻ thù đến, chàng sẽ kiệt sức, không còn đủ tỉnh táo mà đối phó. Thiếp không biết gì về kiếm đạo, nhưng nhìn đại hiệp, thấy không thắng được. Chàng sẽ chết trong đám loạn đao mà thôi. Thật đáng buồn và đáng tiếc !
Lời nói của Yến Nương có lẽ chỉ do lòng lân ái, thương xót, nhưng làm Thạch Đạt Lang bối rối. Hắn dời chỗ ngồi đến bên bếp lửa.
– Cô nương chê tại hạ còn non nớt ?
– Thiếp làm phật ý đại hiệp chăng ?
– Không. Nhưng tại hạ muốn được nghe những lời giải thích rõ hơn.
Sau trận đấu vừa rồi ở hậu viên Kim Các Tự, Thạch Đạt Lang ý thức rõ rệt mối nguy ghê gớm đương bao vây hắn. Kẻ thù bây giờ là toàn thể phái Hoa Sơn rình rập, chỉ chờ cơ hội thuận tiện là ra tay bất cần luật lệ. Thạch Đạt Lang muốn bỏ đi, mai danh ẩn tích một thời gian nhưng nghĩ thế hèn quá lại thôi. Hắn phải trở lại cáo biệt những người đã cư xử rất tốt với hắn như mẹ con Cổ lão mẫu. Ngẫu nhiên làm sao lại gặp Yến Nương.
Nàng ngụ ý chê hắn chưa đủ trưởng thành. Có lẽ đúng. Hắn muốn hỏi cho ra lẽ.
– Xin cô nương cho biết tôn ý.
Yến Nương không trả lời. Thạch Đạt Lang cau mặt tiếp:
– Hay cô nương đùa, chế giễu tại hạ ?
Nụ cười vừa nở trên môi vội tắt ngay, Yến Nương lắc đầu:
– Tiện nữ đâu dám thế. Đối với một kiếm sĩ, trước vấn đề sinh tử như vậy, tiện nữ đâu dám đùa cợt.
– Vậy ý cô nương ra sao, đừng để tại hạ nóng ruột hơn nữa.
– Đại hiệp muốn nghe đàn chăng ? Tiện nữ xin gẩy một bản tặng đại hiệp.
– … ?[Audio] Cực Phẩm Thiên Vương (dịch)
– Mà thôi ! Trong hoàn cảnh thế này, đại hiệp còn lòng dạ nào nghe đàn nữa, phải không ?
Không hiểu ý tứ Yến Nương ra sao, Thạch Đạt Lang đấu dịu:
– Sao không nghe ? Thì cô nương cứ đàn đi, ít ra tiếng đàn của cô nương cũng làm tại hạ thư thái.
Vâng lời, Yến Nương dạo một bản hành khúc.
Đàn xong, nàng nói:
– Có bao giờ đại hiệp tự hỏi một cây đàn chỉ có bốn dây như thế này mà có thể diễn tả được mọi vi tế của âm thanh không ?
– Không. Tại hạ không rõ.
– Cây đàn cũng như con người đấy, đại hiệp ! Nhưng trước khi giải thích, để tiện nữ đọc một đoạn trong bài Tỳ Bà Hành của Bach Cư Dị tả tiếng đàn, chắc đại hiệp biết:
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt Trước nghê thường sau thoắt lục yêu Dây to dường đổ mưa rào Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu Trong hoa, oanh ríu rít nhau Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao Cung đàn lựa khúc thanh tao, Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây …
Xem thế, cây đàn nhỏ bé này có thể phát ra không biết bao nhiêu là âm giai, từ những tiếng nhỏ như tơ, cao tựa hạt châu nẩy trên mâm bạc và trầm tựa như mưa rào đổ, nhất nhất đều được cả. Tại sao vậy ? Nhờ cái gì mà cây đàn có thể rung động đáp ứng mọi sự sai khiến của người gẩy ? Ngay từ nhỏ, lúc đang học, thiếp đã thắc mắc phá một cây đàn ra xem. Mãi sau mới biết được cái bí mật ấy nằm trong lòng đàn. Nó chính là cái tâm của cây đàn.
Nếu đại hiệp coi kỹ, sẽ hiểu tại sao nhờ nó mà cây đàn rung động, gây ra những âm hưởng vô cùng tinh tế, vi diệu, và cũng nhờ nó mà mỗi cây đàn có một âm sắc riêng, không cây đàn nào giống cây đàn nào.
Yến Nương đặt cây tỳ bà lên kỷ, cầm dao nhọn đâm mạnh một nhát, trước sự sững sờ của Thạch Đạt Lang. Hắn không ngờ và cũng không cản kịp. Thạch Đạt Lang cảm thấy như đau nhói ở tim và như có máu từ trong lòng đàn rỉ ra. Hắn giữ một tiếng kêu.
Bàn tay nhanh nhẹn, quyết liệt của Yến Nương giơ lên đâm xuống ba lần. Cây đàn vỡ toang.
Nàng cầm cây đàn vỡ giơ lên cho Thạch Đạt Lang xem. Hắn nhìn mặt Yến Nương, nhìn mảnh đàn vỡ và nhìn những ngón tay trắng muốt còn nắm con dao nhọn, tự hỏi người đứng trước mặt hắn là nàng danh kỹ đất thần kinh có ngón đàn tuyệt diệu hắn vừa được nghe hay chỉ là một thiếu phụ mà bản chất tàn ác đã được phô diễn trong hành động hắn vừa chứng kiến.
Yến Nương chỉ tay vào mảng gỗ trong lòng đàn và nói:
– Miếng gỗ cong này chính là cái tâm của cây đàn. Nếu nó cứng và thẳng, tiếng đàn sẽ cứng ngắc, buồn tẻ. Phải gọt nó cong, nhưng như thế cũng chưa đủ. Lúc dán vào lòng đàn, hai đầu nó phải để lơi cho tự do rung động thì mới tạo nên được sự phong phú trong âm thanh.
Tâm trí con người cũng thế, phải mềm dẻo thích nghi. Sau mỗi khi căng thẳng, hãy để cho lòng thoải mái. Cứng quá thì gãy.
Mắt Thạch Đạt Lang không rời khỏi cây đàn. Môi hắn mím chặt. Yến Nương lại tiếp:
– Điều tiện nữ vừa nói, ai chơi đàn cũng biết. Vì thế, búng tay một cái, thiếp có thể vận dụng cả bốn dây, phát ra tiếng gió rít, mưa gầm hay sét nổ, nhờ đặc tính quân bình hòa hợp của miếng gỗ trong lòng đàn. Tối nay, khi nhìn đại hiệp lần đầu tiên, tiện nữ không thấy một chút gì gọi là mềm dẻo thoải mái. Chỉ thấy sự ngay đơ, cứng ngắc làm cho tiện nữ lo sợ. Xin đại hiệp tha lỗi cho, tiện nữ không bao giờ có ý đùa cợt hay chế giễu đại hiệp, đại hiệp có hiểu cho không ?
Một tiếng gà gáy xa xa. Về phương đông, trời đã rạng hoa lê. Thạch Đạt Lang ngồi đăm chiêu nhìn cây đàn vỡ, những mảnh gỗ vụn rải rác trên mặt kỷ và sàn nhà. Hắn không nghe tiếng gà và cũng không ngờ trời đã sáng.
Chương 42: Trái tim đau
Tiết trời ấm áp đã hai ngày. Tuyết tan hết từ lâu, và ở trong vườn những lá non lại mới bắt đầu nhú.
Buổi trưa, không khí oi nồng. Hơi nước từ dưới đất bốc lên rung rung trong ánh nắng chói lòa gay gắt. Người ta đã phải mặc áo mỏng mùa hè thay cho áo kép.
Bên chiếc cổng tò vò lớn trước tư dinh Tả xuyên hầu Lưu Cát, một thiền sư trẻ tuổi đang đứng chờ, nhẫn nại. Nhà sư trang phục theo lối lữ hành:
áo xắn cao, quần bó chẽn, vai đeo tay nải, bụi đường bám lốm đốm trắng nhiều chỗ. Gọi cổng mấy lần không thấy ai ra mở nhà sư trẻ tỏ vẻ sốt ruột. Ông dùng cây vồ nhỏ gõ vào cánh cổng vài lần nữa cũng không kết quả, bèn bỏ đi, men theo chân tường đá vòng quanh mãi.
Đến một chỗ tường được thay bằng hàng giậu thấp, ông dừng lại ghé mắt nhìn vào. Bên trong, lẩn giữa những lùm cây cắt xén gọn ghẽ, là mấy gian nhà cỏ.
– Thầy chùa tìm ai ?
Nhà sư giật mình. Đang dáo dác nhìn quanh xem người vừa hỏi đứng chỗ nào, thì lại nghe tiếng nói tiếp, giọng dấm dẳn buông sõng:
– Muốn xin ăn thì lại đằng bếp. Chỗ này là nhà khách, có gì đâu !
Định thần nhìn kỹ, mới thấy một thằng bé trạc mười bốn mười lăm, đen đủi, đứng bên trong giậu. Nhà sư ngạc nhiên, kho hiểu sao trong dinh Lưu Cát tướng công lại nuôi những gia nhân nhỏ tuổi thiếu lễ độ như vậy. Tuy nhiên, vẫn ôn tồn:
– Bần tăng không phải kẻ đi khất thực. Bần tăng là Giác Nhiên ở trấn Izumi, mang thư đến cho Đại Quán, nghe nói ngụ Ở đây. Thí chủ phải chăng là tiểu bộc trong dinh ?
– Không phải. Tôi tên Giang, khách của Lưu tướng công, cũng như Đại Quán, không phải người hầu.
– Mô Phật ! Bần tăng không biết. Vậy phiền tiểu thí chủ vào báo với Đại Quán thiền sư có Giác Nhiên đợi ngoài này.
– Được ! Để tôi gọi.
Dứt lời, chạy ngay đi. Trong lúc vội vàng, thế nào vấp phải chiếc rễ cây lớn mọc chồi trên mặt đất, ngã sóng soài. Mấy quả quít giấu trong tay áo rơi ra ngoài lăn lông lốc.
Thằng bé nhặt lên gom lại rồi lật đật vào nhà. Lúc sau trở ra nói:
– Đại Quán đi khỏi rồi.
– Đi đâu ?
– Hình như lên chùa Phổ Tế.
– Bao giờ về ?
– Không rõ. Người nhà bảo “sẽ về ngay”.
Nhà sư đứng tần ngần một lát, đoạn mở tay nải đeo trên vai ra rút một phong thư định đưa cho Giang, nhưng nghĩ sao ông lại cất đi và nói:
– Bần tăng muốn ngồi chờ Đại Quán về. Tiểu thí chủ có biết chỗ nào có thể ngồi chờ được mà không làm phiền đến ai thì chỉ giùm.
Giang gật đầu, chui hàng rào ra dẫn nhà sư trẻ tuổi qua sân đến một căn nhà đã đổ nát dùng làm lẫm lúa.
– Đây, chỗ này. Thầy ngồi đợi ở đây chắc chẳng làm phiền ai đâu.
Lẫm lúa bỏ hoang đã lâu ngày. Rêu mọc từng đám trên nền đất ẩm lẫn với những đống phân bò và bánh xe gẫy, lưỡi cày han rỉ.
Nhà sư trố mắt nhìn Giang, chưa kịp nói câu gì, Giang đã bỏ chạy.
Đến trước căn nhà gỗ về phía tây hoa viên, nó gọi:
– Cô Oa Tử ! Em mang quít về cho cô đây !
Đã mấy ngày nay, Oa Tử bệnh nằm liệt giường. Thầy thuốc do Đại Quán mời đến khám nói nàng bị tâm bệnh, cắt cho mấy thang thuốc bổ. Nhưng nàng nào có uống.
Thuốc sắc rồi để nguội phải đổ đi. Oa Tử sờ tay lên má, biết mình gầy lắm. Những gân xanh nổi rõ trên mu bàn tay làm ngón tay nàng như dài và trắng hơn. Từ khi ngất đi sau miếu sơn thần đêm hôm đó, Oa Tử được đưa về tĩnh dưỡng tại tư dinh Lưu Cát. Sự sợ hãi, thất vọng và tủi cực làm tinh thần và thể chất vốn đã yếu đuối của nàng không còn được như xưa nữa. Lúc nào Oa Tử cũng hâm hấp sốt mà cũng chẳng biết đói. Sáng nay, Oa Tử thèm ăn một quả quít. Nàng ngỏ ý với Giang. Thằng bé xuống bếp nhưng chẳng may, nhà bếp không có thứ trái cây ấy. Nó chạy ra tiệm thực phẩm để mua cũng không được.
Vòng ra phố chợ, chỉ thấy rau đậu lẫn với các quầy hàng xén bán kim chỉ gương lược, chẳng chỗ nào bán quít.
Thất vọng, Giang trở về, nghĩ không còn cách gì khác ngoài cách xem vườn nhà nào trồng quít thì hái trộm vài quả. Qua một thửa vườn cây cối sum sê, thấy hai cây chĩu chịt những quả còn xanh, Giang mừng hết sức, mon men đến gần. Ngờ đâu, chẳng phải quít mà chỉ là mận. Nó không biết mùa này đâu phải là mùa quít !
Thất thểu đi một lúc, bỗng mắt Giang sáng lên vì nó vừa trông thấy trên bệ thờ lộ thiên ở góc vườn nhà kia một đĩa trái cây trong đó để lẫn lộn những quả táo xanh và mấy quả quít đỏ.
Giang nhổ nước bọt vào lòng bàn tay và xoa hai bàn tay với nhau. Một cử chỉ quen thuộc nó thường làm mỗi khi gặp công việc khó khăn cần phải dùng nhiều sức hay cần phải tập trung ý chí. Đoạn nhìn trước nhìn sau không thấy ai, nó chui tọt qua hàng rào, nhanh như con sóc.
Lấy ba quả quít bỏ vào tay áo chui ra, đối với Giang không có gì khó khăn. Nhưng ra khỏi vường, nó sợ, khấn thầm trong bụng:
“Lạy các ngài, xin đừng phạt con. Con không ăn quít này, con chỉ mượn tạm, sau sẽ xin hoàn lại đầy đủ”. Nó không biết bàn thờ thờ ai nên khấn bừa là các ngài, và cũng không dám nói là lấy cho cô Oa Tử ăn, sợ thần linh phạt cô nó.
Giang bày ba quả quít lên bàn, bóc một quả đưa cho Oa Tử. Nhưng Oa Tử không động đến.
– Sao cô không ăn ?
Oa Tử vùi mặt xuống gối, nước mắt chan hòa. Giang tặc lưỡi:
– Cô lại khóc rồi ! Sao cô khóc hoài vậy ?
– Cô xin lỗi em.
– Cô đừng xin lỗi nữa. Cô ăn đi cho em vui lòng.
– Cám ơn Giang, em cứ để đấy, cô ăn sau.
– Quả này em bóc rồi, cô ăn đi.
– Em đối với cô tốt quá, nhưng quả thật bây giờ cô chưa muốn ăn.
– Tại cô khóc nhiều quá đấy mà ! Cô nương, có chuyện gì làm cô nương buồn thế ?
– Cô khóc vì sung sướng đấy em ạ. Em tốt quá !
– Em không muốn cô khóc và gầy yếu như thế này đâu. Cô làm em cũng muốn khóc.
Oa Tử chùi nước mắt:
– Thôi cô không khóc nữa. Cô hứa với em cô không khóc nữa, em bằng lòng chưa ?
– Cô phải ăn quả quít này em mới bằng lòng. Cô muốn ăn quít, em đi lấy về cho cô, bây giờ cô lại không ăn. Nếu không ăn uống gì thì làm sao mà sống được ?
– Ừ, thì cô ăn đây !
Oa Tử cầm quả quít đã bóc. Những ngón tay trắng xanh run run nhặt những sợi xơ trắng trên múi quít, nàng tách quả quít ra làm hai, đưa cho Giang một nửa.
– Em ăn với cô.
Giang nuốt nước bọt. Nó thèm lắm, nhưng nghĩ đến lời đã khấn, nó không dám.
– Không, em không ăn đâu, cô ăn đi.
– Sao không thấy thầy Đại Quán ở nhà. Em biết thầy đâu không ?
– Hình như lên chùa Phổ Tế rồi. Giang đáp.
– Hôm qua thầy Đại Quán có gặp sư phụ của em phải không ?
– Vâng, sao cô biết ?
– Thầy Đại Quán nói. Không rõ thầy ấy có cho Thạch Đạt Lang biết chúng mình ở đây không ?
– Em cũng không rõ.
– Thầy Đại Quán bảo với cô sẽ dẫn Đạt Lang về đây. Thầy ấy có nói cho em biết thế không ?
– Không.
– Vậy chắc thầy quên rồi.
– Cô có muốn em nhắc không ?
– Ừ, em nhắc thầy thì tốt.
Nàng mỉm cười. Lần đầu tiên từ khi nằm bệnh, Giang thấy Oa Tử mỉm cười, vẻ sung sướng lộ trên nét mặt.
– Nhưng đừng nhắc thầy chuyện ấy trước mặt cô.
– Sao vậy ?
– Thầy ấy gớm lắm, cứ cho là cô mắc bệnh tương tư, rồi chế giễu cô.
– Thế nếu sư phụ em đến gặp cô thật, cô có hết bệnh không ?
– Đấy ! Đến em mà cũng nghĩ cô như thế !
Tuy nói vậy, nhưng Oa Tử vui sướng hẳn ra. Niềm hân hoan và hy vọng lóe sáng trên khuôn mặt xanh xao như tia nắng hửng lên trong một buổi chiều thu ảm đạm.
Có tiếng hắng giọng bên ngoài và tiếng gọi của một gia nhân:
– Cô nương ! Giang có trong ấy không ?
– Có. Chuyện gì thế ?
– Đại Quán muốn gặp Giang. Thầy có việc muốn dặn.
Giang chạy vội ra, Oa Tử gọi với:
– Đừng quên nhắc thầy Đại Quán việc ấy, nghe em !
Rồi nằm xuống quay mặt vào vách, kéo chăn che kín đôi má gầy ửng đỏ.
Tả xuyên hầu Lưu Cát ngồi đàm đạo với Đại Quán trong thư phòng phía sau đại sảnh. Giang theo người hầu vào, cúi đầu chào Lưu Cát lấy lệ rồi chạy ngay đến bên Đại Quán ghé tai nói nhỏ:
– Lúc nãy có một ông sư đến tìm thầy. Ông ấy ở trấn Izumi tới và cũng ăn mặc giống như thầy. Cháu đi gọi lại nhé !
– Thôi không cần. Ta gặp ông ấy rồi. Ông ấy than phiền mày đối với ông ấy tệ quá.
– Cháu đối tệ với ông ấy bao giờ ?
– Để khách ngồi đợi ở nhà kho, cạnh đống phân bò là không tệ à ?
– Thì tại ông ấy bảo tìm hộ cho một chỗ ngồi chờ không muốn ai làm phiền, cháu mới dẫn đến đó chứ.
Lưu tướng công nghe chuyện, cười bò ra, rung cả hai vai, rút khăn thấm nước mắt mấy lần. Mãi sau mới lấy lại được vẻ trang nghiêm. Đại Quán cũng lắc đầu, mỉm cười:
– Cái thằng này, thật bất trị !
Lưu Cát lại hỏi:
– Vậy ra đại sư tính đi thẳng về Tajima, chứ không qua trấn Izumi nữa đấy ?
– Dạ chính thế. Bần tăng sợ về không kịp.
Giang ngạc nhiên, giương mắt tròn xoe nhìn Đại Quán:
– Thầy định đi đâu ?
– Ta phải về nhà thăm lão mẫu. Bà bệnh nặng.
– Thầy cũng có mẹ à ?
Đại Quán cười:
– Dĩ nhiên là có.
– Bao giờ thì thầy trở lại ?
– Cái đó còn tùy tình trạng sức khỏe của bà.
– Vậy cô Oa Tử với cháu phải ở đây, không gặp lại thầy nữa ư ?
– Sao lại không ? Ta đã xin với tướng công cho Oa Tử lưu lại đây ít bữa đến khi bình phục. Cháu phải săn sóc và khuyên Oa Tử chịu khó ăn uống. Đối với nàng, dưỡng sinh đúng phép tốt hơn là uống thuốc.
Giang thừ người ra suy nghĩ:
– Khó lắm ! Cháu đã khuyên nhiều lần mà cô Oa Tử chẳng nghe. Cháu sợ không đủ sức.
– Ta biết. Đấy là tâm bệnh, phải kiên nhẫn mới được.
– Nếu sư phụ cháu đến thăm, chắc cô Oa Tử khỏi. Thầy gặp sư phụ cháu rồi phải không ?
– Ừ, ta đã gặp Thạch Đạt Lang.
– Ở đâu ?
Đại Quán nhìn Lưu Cát, phân vân không muốn đáp. Giang tiếp luôn:
– Bao giờ sư phụ cháu đến ? Thầy có hứa dẫn sư phụ cháu đến thăm cô Oa Tử phải không ?
– Ờ …ờ …
Lưu tướng công xen vào nói:
– Thạch Đạt Lang ! Có phải anh chàng thanh niên kiếm sĩ ta gặp tại quán Lạc Thiên đó không ?
– Thưa phải. Đại Quán đáp.
Đoạn quay về phía Giang, ông ôn tồn giải thích:
– Ta không quên lời hứa ấy đâu. Vừa rồi ở chùa Phổ Tế về, ta có tạt qua ngõ Kim Phong tìm Thạch Đạt Lang nhưng không thấy. Chắc hắn vẫn còn ở nhà Yến Nương.
Lưu tướng công nhướng lông mày:
– Thật ư ?
Rồi lẩm bẩm:
– Tên quê mùa ấy có gì đặc biệt mà Yến Nương phải quan tâm đến thế ?
Đại Quán nghe, không khỏi cười thầm, nhưng cũng phụ họa:
– Lòng đàn bà khó dò. Hình như chẳng nhiều thì ít, Yến Nương cũng như Oa Tử, đều bị bệnh cả. Mà anh chàng Đạt Lang này xem ra rồi cũng như các thanh niên khác thôi, khó tránh khỏi bị quyến rũ.
Trời đã về chiều. Đại Quán đứng dậy cáo từ. Lúc chia tay mỗi người một tâm trạng, không buồn cũng chẳng bịn rịn. Nhà sư chợt đến, chợt đi là sự thường, không ai lấy làm ngạc nhiên hoặc tỏ ý lưu lại.
Đại Quán ra khỏi thư phòng, Giang chạy theo nắm áo:
– Thầy đến an ủi cô Oa Tử cháu một chút. Cô ấy cứ khóc hoài, cháu không sao dỗ được.
– Oa Tử có nhắc đến Thạch Đạt Lang không ?
– Có. Cô Oa Tử hỏi thầy bao giờ dẫn Thạch Đạt Lang về ? Nếu ông không về, chắc cô Oa Tử chết mất.
– Không sao đâu, rồi sẽ khỏi.
– Thầy Đại Quán ! Yến Nương là ai vậy ?
– Sao cháu hỏi ta câu đó ?
– Thì lúc nãy thầy nói sư phụ cháu ở nhà Yến Nương mà !
– Ờ …ờ …Bây giờ ta không đến thăm Oa Tử được, nhưng ta muốn nhắn một lời khuyên.
– … ?
– Cháu bảo Oa Tử hãy cố gắng ăn uống, giữ gìn sức khỏe. Đó là phương cách thiết thực nhất trong lúc này.
– Thì cháu cũng đã nói nhiều lần như vậy. Cô Oa Tử không nghe. Cháu biết làm sao được ?
– Nếu Oa Tử không nghe, cháu cứ nói thật …
– Nói thật cái gì ?
– Nói thật là Thạch Đạt Lang đang say mê một kỹ nữ tên Yến Nương ở xóm Rokyjo và hiện ở nhà nàng mấy đêm nay. Oa Tử có ngu mới đi yêu một người như vậy !
Giang trợn mắt nhìn Đại Quán. Nó sững sờ không nói nên lời. Lát sau mới hét lớn:
– Nói láo ! Ông sư này nói láo ! Ông ấy là thầy tôi ! Ông ấy là kiếm sĩ, chưa bao giờ làm điều gì bậy ! Ông xui tôi nói thế để cô Oa Tử tự tử chết hay sao ? Ông mới là thằng ngu, thằng khùng !
Đại Quán cười ha hả.
– Này ông đầu trọc kia, ông không được nói xấu sư phụ tôi ! Mà ông quyền gì bảo cô Oa Tử là ngu !
Đại Quán gật gù:
– Khá ! Cháu thật là đứa trẻ tốt, có lòng trung hậu.
Rồi đưa tay xoa đầu Giang. Nhưng Giang cúi tránh, không để tay ông chạm vào đầu nó.
– Từ nay, không nhờ ông giúp việc gì nữa. Tôi sẽ tự đi tìm thầy tôi dẫn về cho cô Oa Tử.
– Cháu biết chỗ nào không ?
– Không. Nhưng tôi sẽ tìm được !
– Tùy. Nhưng ta bảo trước, tìm chỗ ở của Yến Nương không phải dễ. Cháu muốn biết, ta chỉ cho.
– Không cần ! Tôi không cần ông chỉ.
Đại Quán nhìn thằng bé rồi mỉm cười nói:
– Giang ! Ta không thù gì Oa Tử mà cũng chẳng ghét Thạch Đạt Lang. Trái lại, trong thâm tâm, ta vẫn mong ước cả hai sum họp với nhau, sống một cuộc đời bình thường …
– Vậy tại sao ông lại nói những chuyện độc ác như thế ?
Đại Quán thở dài, ngồi xuống gốc cây bên vệ đường:
– Ta lầm ! Ta không ngờ những điều ta dự đoán làm cháu hiểu lầm ta ! Cháu nói có lý, nhưng cháu phải biết cả hai đều là những người bệnh. Thạch Đạt Lang, sư phụ cháu, hắn đang ở cái lúc phải tự xét mình, khắc kỷ để tự tu dưỡng. Hy vọng hắn ý thức được đàn bà còn nguy hiểm hơn là đao kiếm gấp bội lần. Nhưng ngoài Thạch Đạt Lang ra, ai có thể giải quyết được những việc riêng tư ấy của hắn. Nên ta nghĩ tốt hơn hết cứ để cho hắn tự giác ngộ. Còn Oa Tử, nàng rất cần giúp đỡ. Ta là thiền sư đã nhập thế, có bổn phận giúp đỡ nàng, chữa những người mắc tâm bệnh cũng như thầy lang chữa những người mắc bệnh thể chất. Nhưng hỡi ơi ! Ta chẳng làm gì được ! Nếu Oa Tử không ý thức nổi được rằng mối tình của nàng vô vọng thì ta chỉ còn cách khuyên nàng giữ lấy sức khỏe mà thôi. Và nếu không được nữa thì nói thật cho nàng biết.
Đại Quán nói thao thao, chẳng biết Giang có hiểu gì hay không hay chỉ là để tự thuyết phục. Thằng bé vẫn còn giận:
– Ông không cần giúp cô Oa Tử. Tôi sẽ giúp cô ấy.
– Vậy tốt. Đại Quán gật đầu. Cháu đến xóm Liễu xem Thạch Đạt Lang làm gì rồi về nói cho Oa Tử biết. Oa Tử sẽ đau lòng lắm nhưng cũng giúp cho nàng sáng mắt.
Ông nói đoạn, đứng dậy sửa lại tay nải, chống gậy bỏ đi.
Giang nhìn theo, lẩm bẩm:
– Sư khùng, láo khoét !
Rồi nghĩ thế nào, nó đưa tay ra banh mồm lè lưỡi, vẫy vẫy ngón tay sau lưng Đại Quán, bắt chước cử chỉ của những trẻ đầu đường xó chợ chế giễu những nhà sư khất thực.
Bóng Đại Quán khuất dần sau hàng cây, Giang một mình đứng lặng. Nó thấy cay cay ở mắt và tự nhiên nước mắt trào ra. Nó gục đầu vào thân cây nức nở.
Khi lòng đã nguôi nguôi, Giang chùi nước mắt. Như con chó con mất mẹ, nó thất thểu đi tìm người hỏi thăm đường đến xóm Liễu.
Chương 43: Hương trầm
Trong xóm Liễu, lác đác đã có vài quán rượu và tiệm ăn lên đèn. Khách làng chơi thưa thớt. Giờ này, các ả giang hồ còn bận trang điểm, không mấy ả đứng phất phơ đón khách trước cửa.
Trời chưa tối, nhưng hai chiếc đèn lồng lớn treo trước quán Lạc Thiên đã được thắp sáng. Giang đến xóm yên hoa, nhận ra ngay nơi mình muốn tìm, nên dừng chân trước cổng chính Lạc Thiên Quán nghe ngóng. Nó không rõ xóm Liễu ở đâu, cứ tưởng phải đi xa nên đã chuẩn bị kỹ cho cuộc hành trình. Nói là chuẩn bị nhưng thực ra có gì đâu, đeo thêm cái túi vải gai trong bỏ vài thứ lặt vặt, kể cả cái mặt nạ nó ưa thích, thường lúc nào nhàn rỗi lại đem ra ngắm và đeo vào mặt, và thanh gươm gỗ dài. Đôi dép vẫn là đôi dép cỏ cũ, xơ xác, mòn vẹt gót.
Qua cánh cửa khép hờ, đang ngó nghiêng nhìn vào trong sân, bỗng thấy một người dáng dấp và y phục có vẻ như gia nhân trong quán đi ra. Thấy Giang, gã ngạc nhiên hỏi giọng hách dịch.
– Mày là ai ? Trẻ con đến đây làm gì ?
– Tôi tìm sư phụ. Thạch Đạt Lang ở đây phải không ? Bác làm ơn báo cho ông ấy biết có học trò ông đợi ngoài này.
Sự ngạc nhiên trên mặt gã gia nhân bỗng biến mất, nhường chỗ cho sự khó chịu và tức giận. Cũng vì Thạch Đạt Lang mà hai ngày nay, phái Hoa Sơn cho người đi lục soát khắp xóm, công việc làm ăn của gã bị đình trệ, tiền trà nước thu vào sút kém hẳn đi.
Nhớ đến lời dặn của viên quản lý, gã cau mặt:
– Ở đây không có ai tên đó cả. Nhãi con, mới mở cửa chưa có khách đã đến quấy rầy ! Đi ra !
Đoạn xô Giang ra khỏi cổng. Giang vung tay gạt mạnh:
– Ơ hay ! Bác này làm gì thế ? Tôi hỏi tin, không cho biết thì thôi, can gì đẩy tôi !
– Á à …thằng này bướng ! Mày đến đây do thám hả ?
– Và không đợi trả lời, gã nắm ngay lấy cổ áo Giang nhấc bổng lên, ném bịch ra ngoài cửa.
Giang ngã ngồi xuống vệ đường, đau điếng. Cơn giận nổi dậy, phừng phừng, mắt hoa lên, nhớ đến lúc đánh nhau với con chó đen trong trang trại nhà Trúc Mộ, Giang rút phắt thanh kiếm gỗ cầm tay xông vào chém bừa vào mặt kẻ thù. Gã gia nhân tránh kịp nhưng cũng bị lưỡi kiếm sướt qua má, máu chảy ròng ròng. Tay ôm má, miệng la, tay kia túm áo Giang, gã quật thằng bé xuống đất. Song Giang lấy chân đạp lên đùi địch thủ, tung mình đứng ngay dậy được, rồi sẵn gươm và nhân lúc kẻ thù hãy còn ở thế nửa quỳ nửa đứng chưa vững, nó giơ kiếm chém một nhát lên đầu gã. Nhát chém khá mạnh vì Giang dùng cả hai tay nắm chuôi kiếm bổ xuống. Nhưng may cho gã, thanh kiếm gỗ không sắc, tóc gã lại rậm buộc lên thành búi lớn trên đỉnh đầu nên chỉ nghe tiếng bịch, gã gia nhân thở phì một cái, quay lơ ra đất, như một khúc gỗ bị vất lên cỏ.
Trời chạng vạng. Lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng, Giang lẩn vào bụi rậm bên cổng và thoắt cái đã biệt dạng.
Sự việc xảy ra mau chóng, song không qua được mắt một ả kỹ nữ đứng trên lầu tiệm ăn nhỏ gần đấy. Ả hô hoán:
– Giết người ! Có kẻ giết người ! Thằng bé mặc áo đen mang gươm giết gia nhân quán Lạc Thiên rồi !
Người ta đổ xô ra gọi nhau í ới, mang đèn bu xung quanh xác gã gia nhân Lạc Thiên quán. Nhưng gã không chết, chỉ ngất đi. Xoa rượu và giật tóc mai một hồi thì tỉnh, gã được dìu vào nhà. Hú vía ! Ở cái xóm yên hoa này, ẩu đả xảy ra hàng đêm. Nếu không đổ máu chết người thì chẳng ai để ý và chủ quán cũng giấu nhẹm nội vụ đi hay tìm cách giảm bớt sự trầm trọng để khỏi bị điều tra phiền phức và tránh tai tiếng.
Phố chính đã lên đèn rực rỡ. Rặng liễu trồng hai bên vệ đường tỏa ánh sáng xanh mát huyền ảo. Khách chơi bắt đầu đổ đến tấp nập. Nhưng không phải con lộ nào trong xóm cũng đông đúc và sáng sủa như thế. Quanh co giữa những căn nhà gỗ nhỏ của những người buôn bán lặt vặt hoặc những kẻ sống bám vào các tiệm nước, các nhà hành lạc, là những bãi hoang tối tăm, những đoạn đường sình lầy ít người qua lại. Khu Rokyjo này đang được mở rộng nhưng sự phát triển quá nhanh, các tiện nghi về giao thông không theo kịp.
Giang trốn trong bãi hoang một lúc lâu, hay ít ra nó tưởng thế. Tiếng mõ cầm canh từ xa vẳng lại rời rạc. Sao khuya cũng đã lác đác trên bầu trời vẩn đục và mờ mờ do ánh sáng trong xóm hắt lên. Thấy không ai đuổi theo tìm mình, Giang vững dạ, nhưng lại áy náy lo cho Oa Tử và buồn phiền chẳng biết bây giờ sư phụ nó ở đâu. Nó đánh liều tìm đường ra khỏi bãi hoang, theo lối mòn để ra đường chính. Nhưng đi được một quãng chạm ngay phải hàng rào, Giang phải quay lại tìm lối khác. Không hiểu sao, lối này cũng lại dẫn đến chân hàng rào như lúc nãy. Rào thì cao, làm toàn bằng cây gỗ to bằng bắp đùi đẽo nhọn, dựng khít bên nhau, những khe hở nhỏ đến nỗi thò bàn tay qua không lọt. Giang phân vân lo sợ. Nó không biết xóm này chỉ có một cổng chính, xung quanh là hàng rào cao một trượng bao bọc để giữ an ninh cho xóm.
Giang quay trở lại, cứ nhắm nơi nào có ánh đèn mà tới. Nhưng nó cũng cẩn thận, tránh những chỗ sáng quá. Nó lùi lũi đi, hy vọng thoát khỏi khu này, một nơi mà nó cho là toàn những người không tốt, mặc dầu họ ăn mặc đẹp đẽ.
Qua một ngã tư, bỗng có tiếng gọi phía sau. Lúc đầu không để ý, Giang cứ đi, nhưng tiếng chân dường như đuổi theo nó. Giang quay lại không thấy ai, chỉ có một cô bé ăn mặc ra dáng nữ tỳ, tuổi cũng khoảng cùng trang lứa với nó, đang cố gắng chạy theo.
Giang dừng lại. Cô bé tiến đến hỏi:
– Anh có phải là người đến tìm Thạch Đạt Lang ở quán Lạc Thiên không ?
Giang định chối, song nhìn dáng điệu cô bé hiền lành, thở hổn hển, có vẻ không làm hại mình được, nên gật đầu:
– Phải – Tên anh là Giang hả ?
– Phải.
– Vậy anh theo tôi, tôi đưa anh đến gặp Thạch Đạt Lang.
Nghe nói gặp sư phụ, Giang mừng hết sức. Nhưng e ngại, nó hỏi:
– Cô là ai, sao biết Thạch Đạt Lang ?
Cô bé cắt nghĩa nàng là tỳ nữ của Yến Nương. Nghe tên Yến Nương, Giang không còn nghi ngờ gì nữa. Nó cũng tâm sự:
– Thạch tiên sinh là sư phụ tôi, tôi phải đến gặp ông tức khắc. Nhưng sư phụ tôi có chắc ở đó không ?
– Nếu không ở đó, cô tôi sai đi tìm anh làm gì ?
Cô bé đi bên cạnh Giang không ưa bắt chuyện. Hỏi câu gì nó cũng chỉ trả lời gióng một.
– Yến Nương là ai vậy ?
– Chủ tôi.
– Bà đã già chưa ?
– Chưa.
– Bà làm gì ?
– Làm ở Lạc Thiên quán.
– Sư phụ tôi ở nhà bà hả ?
– Phải.
– Ông ở đó làm gì ?
Cô bé quay nhìn Giang, lát sau mới đáp nhưng không đúng câu hỏi:
– Sắp đến rồi đấy. Tới cái cổng treo chiếc đèn lồng kia, anh cứ đẩy mà vào. Tôi phải đi làm việc khác.
Dứt lời, rẽ vào một đường hẻm lát đá, hai bên trồng toàn mẫu đơn đã bắt đầu trổ nụ.
Theo lời chỉ, Giang đến trước cổng. Cổng gỗ, thấp và hẹp, chắc là cửa sau của một trại nhỏ. Cánh cổng khép hờ, Giang đẩy nhẹ vào không một tiếng động. Qua khu vườn trồng nhiều cây không rõ loại gì, được cắt xén gọn ghẽ hiện lên trong bóng tối lờ mờ như những hình kỷ hà đủ cỡ, Giang thấy một căn nhà gỗ.
Trong nhà vắng lặng, có vẻ bỏ hoang. Giang hơi ngạc nhiên, chẳng lẽ cô bé đó đánh lừa mình, nhưng đã vào đây cũng cứ thử xem. Nếu không thấy sư phụ thì đi ra, có gì mà ngại.
Bèn gõ cửa. Đến năm sáu tiếng chẳng ai trả lời. Đợi khá lâu lại gõ nữa. Cũng không động tĩnh. Sốt ruột, Giang đi vòng quanh. Bếp, chỗ ở gia nhân, vựa củi, kho chứa đồ, nơi nào cũng vắng lặng tối om. Cửa sổ độc nhất trông ra vườn lại quá cao, Giang cố kiễng chân, đầu mới chạm tới khung gỗ.
Tìm quanh mãi, thấy một khúc cây, Giang hì hục vần sát vào chân tường dưới cửa sổ rồi trèo lên, dí mũi qua hàng song tre. Nó bỗng suýt kêu lớn.
Trong phòng, Thạch Đạt Lang, thầy nó, nằm trước lò sưởi, tay co lại gối đầu, trên mình đắp chiếc chăn thêu. Lửa lò đã lụi nhưng ánh than còn hồng chiếu lên những đường thêu vàng óng ánh. Giang chưa bao giờ thấy thầy nó đắp tấm chăn đẹp đến thế !
Quanh chỗ Thạch Đạt Lang nằm, rải rác một nghiên mực, mấy ngọn bút và ba bốn tấm giấy đã vẽ xong, tấm thì bông hoa, tấm thì bụi trúc. Một tấm vẽ con gà còn bỏ dở.
Trông thấy sư phụ, Giang muốn đưa tay ra ôm ngay lấy người nó quý mến và cảm phục xa vắng bấy lâu nay, nhưng nhìn cách ăn mặc và công việc thầy nó đang làm, nó giận.
– Sao sư phụ ta lại có thể yên tâm ngồi vẽ những bức tranh nhưng thế kia được ?
Ông không biết cô Oa Tử đang ốm hay sao ?
Tấm chăn Thạch Đạt Lang đắp, nó cho là biểu hiện của nếp sống khoái lạc, sa đọa sư phụ nó đang bị chìm đắm vào. Lại nhớ đến lúc Thạch Đạt Lang ôm một thiếu nữ không quen biết dưới chân cầu ngày đầu năm, nó tự nhủ:
– Thầy ta bây giờ khác rồi, không còn như trước.
Sự bực tức tràn đến kèm theo niềm cay đắng. Giang hờn dỗi không muốn gặp thầy nữa. Nó thong thả tuột xuống.
– Giang ! Thạch Đạt Lang gọi. Ai dẫn con đến đây ?
Giang lại ngẩng đầu lên nhìn vào. Thạch Đạt Lang vẫn nằm bên lò sưởi, nhưng mắt hé mở và nụ cười thật tươi. Nó nhảy bổ xuống khỏi khúc gỗ, chạy vội về phía trước, đẩy mạnh cửa, xông vào phòng như vũ bão, ôm lấy cổ sư phụ:
– Thầy ! Thầy !
Thạch Đạt Lang cũng ôm lấy đầu đầy bụi đất của Giang, ghì vào ngực mình:
– Lâu lắm ta không gặp con. Sao con biết ta ở đây ? Thầy Đại Quán chỉ cho phải không ?
Rồi ngồi dậy, để đầu Giang vào lòng mình. Hơi ấm của sư phụ truyền sang, Giang thấy dễ chịu vô cùng, bao nhiêu hờn giận quên đi hết cả. Nước mắt chạy quanh, nó như con chó con nằm bên mẹ, sung sướng nhận những cái vuốt ve âu yếm. Lát sau mới sực nhớ:
– Thầy ! Oa Tử ốm nặng. Cô ấy muốn gặp thầy lắm. Cô ấy mong thầy hết sức. Thầy đến thăm cô ấy đi. Chỉ một lần thôi, con chắc cô ấy sẽ chóng khỏi.
– Tội nghiệp !
– Tết vừa rồi, cô Oa Tử có đến chân đại kiều đường Gojo đợi thầy, thấy thầy ôm một cô gái nào đấy, cô Oa Tử giận và từ bấy giờ không vui, ít nói, ít cười, ăn ngủ cũng thất thường, cô gầy lắm !
– Thế ư ? Ngày hôm đó ta cũng xúc động quá. A Kế Mỹ đột nhiên hiện ra làm ta lúng túng.
– A Kế Mỹ là bà con gì với thầy ?
– Người quen cũ, đã lâu. Nhưng thôi đừng nói chuyện ấy nữa. Bây giờ Oa Tử ra sao?
– Cô Oa Tử đang ở trong dinh tướng công Lưu Cát. Thầy đến thăm đi. Gặp thầy, thế nào cô ấy cũng khỏi bệnh.
Giang còn nói rất nhiều, câu nào cũng không ngoài mục đích thuyết phục sư phụ đến thăm cô nó. Nhưng Thạch Đạt Lang như ở tận đâu đâu, mặt đăm chiêu suy nghĩ.
Những lời cầu khẩn của thằng bé chẳng khác gì nước vỗ vào thành đá, vẫn trơ trơ không suy suyển. Thạch Đạt Lang chỉ trả lời ậm ừ.
Giang khó chịu, giật tay áo sư phụ, định bắt ông phải tỏ thái độ dứt khoát, bỗng nghe tiếng chân người. Nữ tỳ của Yến Nương bước vào, mang bộ áo của Thạch Đạt Lang đặt lên kỷ:
– Tiểu tỳ đã giặt xong áo và gột sạch vết máu. Xin đại hiệp kiểm lại.
– Cám ơn cô. Thế còn Yến Nương đâu ?
– Chủ nhân tiểu tỳ bận tiếp khách, sai tiểu tỳ về vấn an và hỏi xem đại hiệp có cần gì nữa không ?
– Ta ở đây rất vừa ý, nhưng nếu ở lại lâu hơn nữa sợ làm phiền chủ nhân. Cho nên xin cáo biệt. Phiền cô chuyển lời cảm ơn chân thành của ta đến chủ nhân.
Nghe sư phụ nói, Giang sung sướng quá, nhảy cẫng. Ờ ! Có thế chứ. Chắc ông đã quyết định đi thăm Oa Tử. Ông đúng là một mẫu người tốt và ngay thẳng, xứng đáng làm sư phụ nó.
– Ngoài ra, ta muốn nhờ cô chỉ đường cho chú em đây ra khỏi xóm, mang áo này đến ngõ Kim Phong hoàn lại cho Cổ Huy Đạo tiên sinh. Giang ! Con làm việc ấy giúp ta được không ?
– Thưa không được !
Ả nữ tỳ xen vào làm cả hai thầy trò cùng ngạc nhiên.
– Anh này đã đả thương một gia nhân ở quán Lạc Thiên. Chuyện đó được bỏ qua vì chủ nhân tiểu tỳ đích thân can thiệp và bảo lãnh. Nhưng để anh ấy ra ngoài tất sẽ bị theo dõi. Mấy hôm nay, đồ chúng Hoa Sơn canh gác ngặt lắm, xin đại hiệp cẩn trọng !
– Cảm ơn cô, nhưng ta cũng có kế hoạch riêng.
Tuy nhiên, sợ nguy hiểm đến tính mạng Giang, Thạch Đạt Lang đồng ý giao cho một người khác mang áo đến ngõ Kim Phong trả Cổ lão bà.
Ả nữ tỳ đi rồi, Thạch Đạt Lang mặc lại bộ áo bằng vải thô của hắn. Bộ áo bạc màu vì sương nắng, mồ hôi loang lổ, nhưng sao hắn thấy đẹp và trân quý vô cùng, mặc vào thoải mái hơn lụa là nhiều.
Khi thắt đến thắt lưng và đeo kiếm, cảm giác cô đơn của Thạch Đạt Lang biến mất. Hắn thấy tự tin và an toàn hơn. Thanh kiếm đối với Thạch Đạt Lang thân thiết như ruột thịt, như bố mẹ anh em và có lẽ thay cho vợ con hắn suốt đời. Mà đúng vậy:
từ trước đến nay Thạch Đạt Lang vẫn tâm nguyện như thế.
Giang ra vườn, ngẩng mặt nhìn trời. Sao đêm lấp lánh. Mảnh trăng hạ huyền lấp ló sau ngọn cây.
– Khuya rồi, nhưng không sao, mình đánh thức cô Oa Tử dậy. Chắc sự bất ngờ này sẽ làm cho cô sung sướng lắm.
Thạch Đạt Lang đến bên, vỗ vai Giang:
– Con ra cửa sau đợi ta.
– Thế thầy không đi cùng với con à ?
– Đi chứ. Nhưng ta muốn đích thân từ biệt Yến Nương. Cũng không lâu đâu !
– Vâng. Vậy con đợi thầy ngoài cửa.
Con đường kiếm đạo còn dài và gian khổ. Lạc Thiên quán, đối với Thạch Đạt Lang là nơi nghỉ chân nhiều hứng thú nhưng tạm thời. Mấy ngày nhàn rỗi ở đây đã giúp hắn lấy lại được quân bình về tâm hồn cũng như thể chất, giúp hắn cảm thông được với cái đẹp, hòa đồng với thiên nhiên. Hắn không mảy may nghi ngờ sự chính trực của đời sống khổ hạnh hắn đang sống, nhưng sự chối bỏ tất cả mọi lạc thú đôi khi khiến hắn tự cảm thấy nhỏ mọn hẹp hòi.
Giây đàn căng quá sẽ đứt, tinh thần căng quá sẽ khủng hoảng. Sau trận giao chiến với Điền Chính, tinh thần và thể chất Thạch Đạt Lang đã gắng sức tột độ, cần được nghỉ ngơi. Hắn cũng đã uống chút rượu, muốn ngủ thì ngủ, muốn đọc sách vẽ tranh thì đọc sách vẽ tranh. Cứ để tâm hồn đôi khi tự do như thế, quả nhiên hắn thấy thư thái hơn trước.
Mở cửa sau, Thạch Đạt Lang định vào cảm ơn Yến Nương. Nhưng nghe tiếng đàn phách vọng ra, tự nhiên hắn đổi ý. “Vô ích mà cũng chẳng hợp thời. Cái thường của họ là cái vô thường của ta. Mình không thuộc về xã hội ấy”. Hắn lặng lẽ cúi đầu, tạ Ơn người tri kỷ trong lòng, rồi lui bước.
Nữ tỳ của Yến Nương chạy theo, trao cho Thạch Đạt Lang phong thư nhỏ. Hắn mở ra, mùi hương trầm thoang thoảng phả trên giấy hoa tiên:
“Mỗi đêm hoa mỗi tàn, chỉ ánh nguyệt lung linh vĩnh cửu. Bên chén rượu nồng thiếp ngồi nhỏ lệ. Trân trọng gửi chàng những hàng chữ này làm duyên hội ngộ”.
– Thư ai đấy thầy ?
– Hỏi làm gì, con không biết đâu !
Giang hểnh mũi:
– Chà ! Mùi hương trầm ! Thơm quá !
Chương 44: Khung cửa
Giang đi theo sư phụ. Nó thầm nghĩ không biết làm cách nào ra khỏi chỗ này.
Xóm Liễu tường cao vây bốn mặt, đêm khuya, chỉ cổng chính là còn mở, lại nghe nói kẻ thù rình khắp nơi, chắc ở cổng đó phải đông lắm. Giang lo sợ hỏi sư phụ:
– Đi đường nào, thầy ?
– Các cửa đều đóng cả rồi phải không Giang ?
– Dạ phải, chỉ còn cửa chính mở. Mà đường ấy không đi được đâu, ta nên tìm chỗ nào tường thấp trèo ra thì hơn.
Thạch Đạt Lang nhìn đồ đệ, mỉm cười, rồi nghiêm nghị bảo:
– Mạng sống quý thật, nhưng làm như vậy là hèn nhát. Ta không thể có thái độ trốn tránh mà phải đường hoàng đi ra bằng cổng chính.
Giang ngước nhìn sư phụ. Nó suy nghĩ về lời nói. Trên bước đường giang hồ, Giang nhiều lần nghe nói đến sự hèn nhát. Kiếm sĩ mà bị coi là hèn nhát thì không còn đáng gọi là kiếm sĩ, cho nên nó tự thẹn đã có những ý nghĩ như vừa rồi.
– Vậy con cũng ra bằng cổng chính !
Giang chữa lại.
Thạch Đạt Lang vỗ vai nó:
– Giỏi lắm ! Nhưng con phải biết dũng cảm và liều lĩnh khác nhau. Con còn nhỏ, chưa biết võ nghệ, mà cứ nhắm mắt xông vào chốn đao kiếm, khác nào kẻ không biết bơi đòi nhảy bừa xuống nước để qua sông. Cái chết cầm chắc trong tay, một cái chết vô ích. Như vậy ta gọi là xuẩn động !
– Nhưng con không muốn là một tên hèn nhát.
– Ai bảo con hèn nhát đâu ! Vả chúng theo ta chứ đâu phải con !
Giang cúi đầu ngẫm nghĩ.
– Vậy con phải làm thế nào bây giờ ?
– Yên tâm ! Ta sẽ giúp con trèo tường ra ngoài !
Hai thầy trò vừa đi vừa trò chuyện, bỏ đường lớn rẽ vào những đường mòn cỏ lau rậm rạp, lúc lâu thì đến chân rào gỗ. Hàng cột đen trùi trũi, to lớn ken sát nhau lừng lững trước mặt, Giang nghểnh cổ trông lên chỉ thấy trời sâu thẳm, mấy ngôi sao thưa lúc ẩn lúc hiện không rõ.
Thạch Đạt Lang dừng lại:
– Con ra ngoài đó trước, đợi ta.
– Đợi thầy ở đâu ?
– Trường đua ngựa.
– Thế nào thầy cũng đến chứ ?
– Giang ! Ta không nói dối. Một trong những điều ta muốn dạy con là sự thành thật, sao lại cứ nghi ngờ ta. Con đi nhặt cho ta hòn đá.
Giang nhặt một hòn đá đưa cho thầy. Thạch Đạt Lang ném viên đá qua bên kia rào, lắng nghe động tĩnh, không thấy gì khả nghi, mới cúi xuống khẽ bảo đồ đệ:
– Leo lên vai ta rồi bám vào đầu cột mà trèo ra ngoài.
– Dép con bẩn.
– Không sao, cứ leo lên.
Nhưng rào cao quá. Ở trên vai Thạch Đạt Lang mà Giang với tay mãi cũng không tìm được chỗ nào để bấu cho chắc vào hàng rào được. Thạch Đạt Lang phải bảo Giang đứng trên hai bàn tay mình, giơ cao lên, thằng bé mới bám được vào đầu cột.
– Nhìn kỹ xem bên ngoài có ai không !
Giang đưa mắt quan sát:
– Không. Bãi hoang, chỉ toàn cỏ lác.
– Có thể chỗ này trũng nước. Vậy đừng nhảy, hãy bám vào cột leo xuống từ từ. Chớ gây tiếng động vô ích.
– Dạ.
Một lúcs au, nghe tiếng chân đạp lên bùn, rồi tiếng Giang kêu khẽ:
– Tới rồi thầy !
– Vậy tốt. Đi mau đi, đợi ta ở chỗ trường đua.
Bên kia tường rào, trước khi đi, Giang còn ghé sát miệng vào khe cột hở, nhắc Thạch Đạt Lang như để lưu ý sư phụ nỗi quan tâm lớn lao của nó:
– Con đợi thầy đến gặp cô Oa Tử đấy !
Thạch Đạt Lang không đáp, lắng tai nghe cho đến khi thấy bước chân đứa học trò nhỏ xa dần mới bỏ đi trở lại, tìm lối ra đường lớn.
Thạch Đạt Lang bước nhanh ra khỏi cổng chính. Số đệ tử Hoa Sơn ngồi sưởi bên vệ đường, không để ý đến sự xuất hiện thình lình của hắn, mà cả hai tên có phận sự lảng vảng gần cổng cũng không ngờ.
Mấy đêm nay, đồ chúng Hoa Sơn chia nhau canh gác cẩn mật tất cả những điểm quan trọng quanh xóm Liễu, đề phòng Thạch Đạt Lang bỏ trốn. Sau khi dò xét và phong văn kẻ thù còn ở quán Lạc Thiên, chúng mấy lần định xông vào quán lục soát nhưng không được. Cũng như mọi lần, khi bàn việc gì quan trọng, đồ chúng Hoa Sơn thường chia thành hai phái. Một phái, muốn trả thù ngay cho chủ, đưa ý kiến phải xông vào quán lập tức, tốc chiến tốc thắng, bắt cho bằng được Thạch Đạt Lang đem về trị tội.
Phái kia, cẩn trọng hơn, bày mưa theo dõi, muốn lừa kẻ thù vào bẫy để giết, một phần vì e ngại sức khoẻ và đường gươm dũng mãnh của Thạch Đạt Lang, một phần vì không muốn làm kinh động đến nơi ăn chơi nổi tiếng nhất kinh đô, thường được các bậc vương tôn và những tay quyền thế trong phủ lui tới giả trí. Hơn nữa, thế lực của Hoa Sơn ngày nay đã giảm đi nhiều, nhất là sau khi Sĩ Khánh bị tàn phế và Điền Chính bị giết thê thảm, họ càng dè dặt không dám vọng động.
Hai phái giằng co mãi, sau đi đến quyết định chỉ bao vây bên ngoài, cắt đệ tử thay phiên nhau mai phục tại các nơi hiểm yếu. Cho nên đã mấy đêm liền, người của Hoa Sơn không ngừng dòm ngó kẻ ra vào quán Lạc Thiên, nhất là những thanh niên vóc dáng cao lớn. Đôi khi chúng không từ cả việc bắt phu cáng phải dừng lại vạch màn cho chúng coi rõ mặt khách ngồi trong. Chúng sợ Thạch Đạt Lang trá hình trốn mất.
Có điều không ai ngờ kẻ thù chẳng đội trời chung ấy của chúng lại hiên ngang ra đi bằng cổng chính.
Đệ tử Hoa Sơn kinh ngạc há hốc mồm. Định thần một chốc, gã mới kêu lên được thì Thạch Đạt Lang đã rởi khỏi cổng xa đến mấy chục bước.
– Anh em ! Nó đấy ! Đuổi theo mau !
Mọi người bỏ đống lửa quay ra. Quả nhiên phía trước chúng là vóc dáng lợi hại của kẻ thù; ánh đèn chiếu vào, bóng hắn đổ dài di động trên mặt đường lát đá !
– Đạt Lang ! Quân súc sinh ! Muốn sống đứng lại !
Một đệ tử Hoa Sơn hét lớn.
Thạch Đạt Lang rút phắt kiếm, hắn quay lại không đáp. Sự im lặng của hắn làm đồ chúng Hoa Sơn nổi gai ốc. Vài tên tay đã để vào đốc kiếm, vội khựng lại không dám rút gươm ra, dường như sợ nếu làm cử chỉ gì khiêu khích, có thể sẽ bị hắn giết ngay tức khắc. Có tên thụt lùi về phía sau. Đạt Lang tiến tới, lưỡi kiếm đưa thẳng trước mặt, vững vàng, không mảy may rung động. Đồ chúng Hoa Sơn lui mấy bước.
Đột nhiên một tiếng thét thật lớn rung động cả khu phố, Thạch Đạt Lang tung mình như chớp xẹt nhảy đến dựa lưng vào bức tường của một căn nhà gần đó.
Đệ tử Hoa Sơn bao vây xung quanh thành hình vòng cung, lúc đầu còn ít, sau càng lúc càng nhiều, có đến chừng ba chục. Số đông làm chúng tăng thêm nhuệ khí. Tiếng la hét cùng những lời chửi rủa tục tằn vang rân cả khu xóm. Hàng quán đóng cửa rầm rầm.
Đạt Lang vẫn yên lặng dựa lưng vào vách, gươm tuốt sẵn cầm tay. Dưới mái hiên, trong bóng tối, hắn đảo mắt vọ nhìn khắp vòng vây trước mặt, lượng chỗ cường, chỗ nhược để tùy cơ ứng biến. Tiếng chửi rủa, hắn bỏ ngoài tai, coi như những tiếng sủa của bầy sơn cẩu. Chúng càng ồn ào, Thạch Đạt Lang càng vững dạ vì rõ ràng chúng chẳng có kế hoạch gì, ô hợp như một lũ thảo khấu.
– Ngươi có phải là Thạch Đạt Lang ở Miyamoto không ?
– Chính thị. Bọn ngươi muốn gì ?
– Chúng ta là đệ tử Hoa Sơn. Muốn gì ngươi tất biết ! Sẵn sàng chưa ?
Tiếng cười gằn của Thạch Đạt Lang làm cả bọn ớn lạnh:
– Sẵn sàng ? Ta sẵn sàng ngay cả trong giấc ngủ. Đứa nào muốn chết thì cứ lại đây.
Nhưng ta cần biết một điều trước khi giao đấu:
các ngươi là kiếm sĩ tôn trọng luật giang hồ hay muốn ỷ vào số đông để thủ thắng ?
Không kẻ nào đáp lại. Tiếng ồn ảo giảm bớt nhưng cũng chẳng ai dám tiến tới.
Không khí có vẻ căng thẳng hơn trước.
Bỗng từ đám đông, một lão tráng bước ra. Thạch Đạt Lang chú ý thủ thế. Trước một đám đông giận dữ, đầy thù hận, chỉ sơ hở hay nhầm lẫn một chút có thể mất mạng như chơi, hắn cũng đề phòng, sợ có kẻ dùng ám khí, nên đã chọn chỗ đứng gần một cột gỗ.
Lão tráng không cầm gươm nhưng đeo song kiếm. Chính là Ưng Đằng. Có lẽ ông mới tới. Điềm tĩnh và đĩnh đạt, Ưng Đằng chậm chạp tiến lên mấy bước. Tiếng ồn ào im hẳn. Phong cách ấy chứng tỏ ông là một trong những người có uy tín của phái Hoa Sơn.
– Thạch Đạt Lang ! Chúng ta đến đây làm gì, ngươi thừa biết. Ngươi đã làm nhục bản phái, dùng thủ thuật đê hèn khiến chưởng môn chúng ta thành tàn phế, giết Điền Chính, người thừa kế của bản phái. Những tội ác tày trời ấy không thể tha thứ được !
Nếu chúng ta để ngươi sống, chúng ta không còn mặt mũi nào đứng trên đời này nữa !
Những lời cáo buộc nghiêm nghị, vững vàng ấy làm xúc động đồ chúng Hoa Sơn.
Tiếng la phẫn nộ vang trời dậy đất.
– Giết ! Giết nó để trả thù cho Sĩ Khánh và Điền Chính !
– Còn đợi gì nữa ? Anh em hãy xông vào lấy đầu thằng súc sinh lập tức !
Nhưng Ưng Đằng giơ tay ra hiệu cho đồ chúng Hoa Sơn yên lặng, rồi tiếp:
– Ta là Ưng Đằng, chỉ muốn trả thù cho chưởng môn nhân và khôi phục danh dự cho bản phái. Đó là lề luật võ lâm, tuyệt không có ý gì ỷ chúng hiếp cô. Ngươi là kiếm sĩ tất hiểu rõ. Bây giờ hãy trông đây !
Dứt lời, Ưng Đằng rút kiếm đánh soạt, ánh hàn quang thành hình vòng cung lấp lánh.
– Được lắm ! Ưng Đằng ! Ngươi xứng đáng là một kiếm sĩ. Nhưng nếu muốn trả thù, sao không đường đường chính chính tuyên chiến theo đúng đường lối võ lâm, như Sĩ Khánh và Điền Chính đã làm ? Tại sao lại để đồ đệ ngươi mai phục đánh lén.
– Chính ngươi đã lẩn trốn nên chúng ta phải canh giữ, chứ không phải đánh lén.
– Vô lý ! Nếu ta muốn, ta có nghìn cách trốn, và chắc bây giờ đã không đứng trước mặt bọn ngươi !
Ưng Đằng cười gằn:
– Trốn sao được ! Hoa Sơn chúng ta tai mắt khắp nơi, sao để ngươi thoát !
– Ta cũng tin như thế. Nhưng khu này không phải là chỗ định hơn thua. Tuy nhiên nếu bọn ngươi cố tình trả hận ngay tại chỗ, ta sẵn sàng chấp nhận và ta chấp cả bọn ngươi. Chỉ tiếc rằng danh dự phái Hoa Sơn lại bị đạp xuống bùn nhơ một lần nữa !
Ưng Đằng do dự. Đệ tử Hoa Sơn đã tụ tập khá đông, nếu cùng xông vào tấn công một lượt cũng có thể thắng được, nhưng thắng chẳng vinh gì mà bại thì quá nhục nhã, không còn hy vọng gì phục hưng lại danh dự môn phái.
Dùng dằng chưa quyết, bỗng tiếng kêu báo động vang dội:
– Lính tuần tới ! Anh em giải tán ! Giải tán !
Mọi người nhốn nháo. Từ đằng xa, đã vẳng tiếng vó ngựa lộp cộp.
Ở xóm Liễu, những chuyện sinh sự xảy ra rất thường. Chẳng đêm nào không có, nhưng phần lớn là giữa các toán du đãng anh chị thanh toán lẫn nhau hoặc giữa các tên dẫn mối tranh khách. Cho nên quan lãnh binh cảnh vệ đã đặt riêng một biệt đội đặc trách khu vực này, đêm nào cũng liên tục tuần phòng khắp các ngả đường và cả bên ngoài rào, tại những bãi hoang, vì ở đó hay xẩy ra những vụ án mạng rất khó điều tra ra hung thủ. Quan lãnh binh là người rất mực liêm chính, được lòng tin cậy của hoàng gia, nên quyền hành lớn. Những tên phạm pháp làm rối loạn trật tự do thuộc hạ ngài bắt được phần lớn không oan uổng gì và thường bị dân chúng khinh ghét. Những bang phái có danh vọng tỷ như kiếm phái Hoa Sơn, vì lý do đó, hết sức tránh mọi hành động bị liệt chung với những toán du đãng thông thường.
Nghe báo động có lính tuần đến, đồ chúng Hoa Sơn rục rịch tản mát để khỏi bị bắt bớ điều tra lôi thôi. Nhưng khi ngựa tới, té ra không phải lính tuần. Một thanh niên cao lớn, áo khoác ngoài đỏ chói, lưng đeo trường kiếm nhảy vội xuống. Ưng Đằng nhận ngay ra là Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc.
Một niềm hy vọng thoáng hiện. Lão tươi cười giơ tay đón chàng kiếm sĩ trẻ tuổi:
– Cát Xuyên thiếu hiệp ! Được gặp thiếu hiệp ở đây, thật là đại hạnh !
Cát Xuyên Mộc cũng vồn vã đáp lễ, nhưng sự vồn vã ấy chỉ thoáng cái đã biến mất, nhường chỗ cho một thái độ nghiêm cẩn.
– Ưng lão huynh ! Ưng lão cùng anh em bản phái làm gì mà tụ tập ở đây đông thế này ?
Từ khi theo Sĩ Khánh về tá túc một dạo ở đường Tân Hổ, Cát Xuyên Mộc vẫn có thói quen gọi phái Hoa Sơn là bản phái, mặc trên danh nghĩa, hắn chẳng có liên hệ gì với phái này.
Ưng Đằng đưa mắt về phía bức tường có Thạch Đạt Lang đứng. Lão đáp gọn:
– Thiếu hiệp nhìn rõ ai không ?
Tuy đã dư biết, Cát Xuyên Mộc vẫn vờ hỏi:
– Thạch Đạt Lang ?
– Chính thị !
Nhìn Ưng Đằng rồi nhìn Thạch Đạt Lang, Cát Xuyên Mộc nói lớn:
– Ưng lão huynh ! Thạch đại hiệp ! Không ngờ gặp cả hai vị Ở đây, tại hạ rất ngạc nhiên. Các vị có những chuyện riêng cần giải quyết, đáng lý ra tại hạ không can thiệp, nhưng vì cùng trong giới võ lâm, nên có điều phải nói.
Giọng Cát Xuyên Mộc sang sảng. Gã còn trẻ, ăn mặc sặc sỡ như con nít, nhưng bấy giờ phong cách gã chững chạc lắm. Gã tỏ vẻ tự tin hết sức, gần như ngạo mạn.
Trong lòng tuy khó chịu nhưng Ưng Đằng vẫn bình tĩnh không lộ ra ngoài, để xem gã giở trò gì. Thấy không ai phản đối, Cát Xuyên Mộc nói tiếp:
– Các vị có bao giờ tự hỏi làm náo động phố xá như thế này nếu lính tuần bắt gặp, sẽ bị phiền nhiễu như thế nào không ? Nhưng đấy là chuyện riêng của các vị, tại hạ không biết. Tại hạ chỉ lưu ý, các vị đều là những kiếm sĩ có danh vọng, nếu để bị bắt vì tội ẩu đả tầm thường và làm mất trật tự ngoài phố như những tên vô lại khác thì xấu hổ chung cho cả võ lâm, tại hạ không chấp nhận được.
Đồ chúng Hoa Sơn cất tiếng ồ lên một lượt, phản đối những lời lẽ hàm ý hỗn xược ấy. Nhưng Ưng Đằng đã giơ tay ra hiệu im lặng.
– Thiếu hiệp nói cũng có lý.
– Đúng vậy ! Các vị đã chọn nhầm chỗ và nhầm lúc để thanh toán việc riêng. Nếu các vị muốn so kiếm với nhau, sao không theo đúng luật giang hồ, đường hoàng công bố lời thách thức, địa điểm và giờ giao đấu ?
Có tiếng xì xào bàn tán, kẻ phản đối người tán thành. Sau cùng Ưng Đằng mới cất tiếng:
– Thiếu hiệp nói phải. Nhưng nếu chúng ta định ngày giờ và địa điểm, thiếu hiệp có bảo đảm rằng Thạch Đạt Lang sẽ có mặt không ? Tại hạ sẵn sàng làm trung gian dàn xếp.
– Dĩ nhiên, nhưng ta muốn biết thiếu hiệp có bảo đảm được việc đó chăng ?
– Bảo đảm …bảo đảm …Cái đó phải hỏi hắn !
Nói đoạn, quay sang phía Thạch Đạt Lang như thầm hỏi ý.
– Hay thiếu hiệp bày ra chuyện này để cho y trốn đấy ?
Cát Xuyên Mộc có vẻ giận:
– Ưng lão huynh muốn sỉ nhục ta chăng ? Tại hạ không phải là bạn Thạch Đạt Lang, không có lý do gì để che chở cho hắn. Nếu hắn trốn, cả võ lâm đều biết hắn là thằng hèn và sẽ phỉ nhổ hắn.
Nhưng Ưng Đằng lắc đầu. Giọng lão mạnh và quyết định:
– Như vậy không đủ. Chúng ta không rời khỏi nơi đây đêm nay nếu không có gì bảo đảm hắn không trốn ! Phải thế không anh em ?
Đồ chúng Hoa Sơn cùng reo lên một lượt, vang động cả khu phố:
– Phải ! Phải ! Như vậy mới được !
Cát Xuyên Mộc quay gót. Gã tiến đến bên bức tường, đối diện Thạch Đạt Lang trong bóng tối. Bốn tia mắt nhìn nhau, dò xét, tia mắt của hai dã thú. Có cái gì ghê gớm, ác liệt trong những tia mắt ấy, đòi hỏi hai bên phải nhận thức giá trị tinh thần của nhau, thôi thúc nhưng thoáng một chút nghi kỵ … và thách thức.
– Thạch Đạt Lang ! Ngươi vừa nghe những điều ta nói chăng ? Ngươi có chấp nhận một cuộc giao tranh với kiếm phái Hoa Sơn vào ngày giờ và địa điểm sẽ được ấn định không ?
– Ta chấp nhận !
– Vậy tốt.
– Tuy nhiên, ta không muốn ngươi can thiệp.
– Như thế là thế nào ? Ngươi không muốn ta bảo lãnh sự có mặt của ngươi ?
– Đúng vậy ! Ta đã giao đấu với Sĩ Khánh và Điền Chính. Trong lúc giao đấu, ta không có một hành động nào hèn nhát. Tại sao đệ tử của họ lại không tin ta và cho rằng ta sẽ bỏ trốn ?
– Hay lắm ! Thạch Đạt Lang ! Thật là một lời nói kiêu hùng, ta sẽ không quên lời ấy của ngươi. Bây giờ, hãy định giờ và địa điểm đi !
– Ta để quyền ấy cho bên kia. Ta sẽ chấp nhận bất cứ nơi nào và giờ nào họ định.
– Chà ! Được lắm. Vậy từ này đến lúc giao đấu, tìm ngươi ở đâu ?
– Ta không có địa chỉ nhất định.
– Vậy làm sao chuyển thư cho ngươi được ?
– Bảo họ định địa điểm và ngày giờ ngay tức khắc, tại đây ! Ta sẽ đến !
Cát Xuyên Mộc gật đầu, tin tưởng và thầm phục con người mà nếu phải coi là kẻ thù, gã cũng hãnh diện. Gã trở gót, lui về phía đồ chúng Hoa Sơn, bàn luận một lúc với Ưng Đằng và một số đồ đệ Hoa Sơn khác rồi trở lại bảo Thạch Đạt Lang:
– Điểm hẹn là gốc cổ tùng ở chân đồi Sinh Minh, trên đường đi Quan Lãnh vào cuối giờ dần, ngày mốt. Truyền nhân đại diện Hoa Sơn kiếm phái là Hoa Sơn Tuệ Tâm, trưởng nam của Hoa Sơn Cảnh Môn và là biểu đệ của Sĩ Khánh và Điền Chính. Nhưng Tuệ Tâm còn nhỏ, phải có một số cao đồ trợ giúp. Ta phải nói trước như thế để khỏi có sự hiểu lầm về sau.
– Được lắm ! Ta chấp nhận !
Mọi điều đều được hai bên thỏa thuận. Đệ tử Hoa Sơn đem bút mực và bảng gỗ đến. Chính tay Cát Xuyên Mộc viết những điều ấy lên bảng gỗ và Ưng Đằng sai người mang ra dựng ở ngã tư, chỗ đông người qua lại nhất.
Thạch Đạt Lang nhìn tấm bảng gỗ, thờ ơ đọc những hàng chữ đen nét mực chưa khô viết trên đó rồi lẳng lặng bỏ đi, theo đường dẫn đến trường đua ngựa.
Một mình trong bóng tối dưới mái trường đua, Giang đi đi lại lại, lo lắng. Một cái cáng đi qua cũng khiến nó chạy vội ra, một tiếng chân người cũng làm nó bồi hồi nghe ngóng. Nhưng chỉ là những khách làng chơi về muộn dáng đi nghiêng ngả, tiếng hát đứt quãng lưu lại chút dư âm thoảng theo gió đưa đến tai nó.
Hết đi đi lại lại rồi ngồi bó gối trên nền đá lạnh ẩm ướt sương đêm, Giang nghĩ ngợi vẩn vơ. Hay thầy nó bị thương, chết rồi cũng nên, ở một chỗ nào đó. Góc tường ?
Vệ cỏ ? Trong đám lau sậy ven sông ? Giang lo sợ, kinh hãi, hoảng hốt. Nếu không, sao mãi bây giờ chưa tới. Nó không kiên nhẫn được nữa, bỏ luôn trường đua, cắm đầu chạy về hướng xóm Liễu. Mới được chừng trăm bước, tiếng Thạch Đạt Lang từ trong bóng tối đã vang lên, gọn mà mạnh:
– Giang ! Chạy đi đâu thế ?
Giang giật mình. Hoàn hồn, nó sung sướng vô tả.
– Có chuyện gì mà chạy vậy ?
Giang thở phào, nhẹ hẳn người đi như vừa trút được khối đá đè nặng trên ngực.
– Thầy ! Sao lâu thế ? Con đợi mãi sốt ruột quá định chạy về xóm tìm thầy !
Thạch Đạt Lang cười, ôm lấy nó vui vẻ bảo:
– Ngốc ơi là ngốc ! Làm vậy có khi lỡ cơ hội ta gặp lại con ! Rồi lại trách ta sai hẹn!
– Thầy có thấy đông đệ tử Hoa Sơn ở cổng không thầy ?
– Cũng khá !
– Họ không giữ thầy lại à ? Không có chuyện gì xảy ra phải không ?
– Không.
– Giờ thầy đi đâu ? Dinh tướng công Lưu Cát ở phía này. Con chắc thầy muốn gặp cô Oa Tử lắm.
– Muốn gặp lắm chứ !
Giang nhảy cẫng.
– Khuya thế này, chắc cô Oa Tử phải ngạc nhiên và phục con hết sức.
Đạt Lang nắm chặt tay Giang dẫn đi. Hơi ấm của sư phụ truyền sang, Giang cảm thấy an toàn hơn bao giờ hết.
– Giang ! Con có nhớ cái quán ăn ở đó ta gặp con lần đầu không ? Quán tên gì nhỉ?
– Nhớ, nhưng dinh tướng công này đẹp hơn quán ấy nhiều !
Thạch Đạt Lang phì cười:
– Dĩ nhiên rồi !
Đến cổng dinh, Giang dừng lại:
– Cổng đóng rồi, nhưng nếu ta đi vòng về phía sau, còn cái cửa nhỏ cho gia nhân ra vào. Để con gọi cửa báo cho họ rõ. Nếu Lưu Cát tướng công biết thầy đến, thế nào ông cũng ra đón. Cái ông sư Đại Quán ấy thật là ác. Con hỏi thầy ở đâu, ông không nói, chỉ bảo ở xóm Liễu, lại còn bảo tốt hơn hết là đừng đến tìm thầy …
Giang vừa lí láu, vừa kéo sư phụ đi. Đến trước một cửa hẹp bên hàng rào cây xanh, nó ngừng lại chỉ tay lên khuôn cửa sổ còn sáng ánh đèn, bên trong một ngôi nhà gỗ nhỏ ở cuối vườn:
– Cô Oa Tử ở chỗ ấy đấy thầy. Chắc cô còn thức đợi con về.
Và không chờ Thạch Đạt Lang đáp, nó chạy vội đến toan đập cửa.
Nhưng Thạch Đạt Lang giữ tay nó lại:
– Khoan ! Ta không vào đâu. Ta chỉ muốn nhờ con một chuyện này thôi !
– Sao ? Thầy không vào ? Đã đến đây mà thầy không vào à ? Thế thầy đi với con làm gì ?
– Ta muốn đưa con về đến nhà, an toàn.
– Không ! Không ! Thầy không đi được !
Giang hét lên và nắm chặt lấy tay áo sư phụ.
– Giang ! Nói khe khẽ chứ. Đừng làm kinh động mọi người. Con hãy nghe ta.
– Con không nghe. Thầy hứa cùng về với con mà !
– Thì ta cùng về với con rồi !
– Đâu phải về để nhìn cái cánh cổng này thôi ! Con muốn thầy về gặp cô Oa Tử kia mà !
– Giang ! Con hãy bình tĩnh, để ta nói con nghe. Trong hai ngày nữa, có thể ta không còn ở trên trần thế này nữa.
– Con biết rồi ! Thầy vẫn thường nói đời kiếm sĩ bấp bênh, sống nay chết mai, không có gì chắc chắn.
– Đúng vậy ! Con đã biết như thế là tốt. Nhưng lần này không phải nói suông. Lần này, chín phần mười ta có thể chết. Vì vậy ta nghĩ chẳng nên gặp Oa Tử.
– Vô lý. Càng nên gặp chứ !
– Con còn nhỏ dại, ta giải thích cho con cũng bằng thừa. Lớn lên con sẽ hiểu.
– Thầy ! Thầy nói thầy sắp chết. Thật không ?
– Thật. Nhưng đừng nói chuyện ấy cho Oa Tử biết nghe con, nhất là trong khi nàng đang đau nặng. Hãy khuyên Oa Tử giữ gìn sức khỏe và tìm đường đi đến hạnh phúc. Đó là điều ta muốn nhắn con nói với nàng. Chớ nói ta sắp chết.
– Không ! Con nói hết ! Con sẽ nói hết. Làm sao mà con giấu được cô Oa Tử ?
Nước mắt Giang chảy quanh. Nó giật giật tay áo sư phụ:
– Thầy ơi ! Thầy đi với con đi !
Thạch Đạt Lang đẩy Giang ra:
– Con vẫn không nghe lời ta !
– Nhưng con thương cô Oa Tử lắm. Nếu con nói thầy không muốn vào thăm, bệnh cô Oa Tử sẽ nặng thêm.
– Đó là điều ta nhờ con. Hãy khuyên giải nàng, hãy nói với Oa Tử chừng nào ta còn theo đường cung kiếm thì gặp nhau chỉ thêm khổ cả cho hai người mà thôi. Con đường ta chọn đòi hỏi một kỷ luật khắt khe, sự chế ngự những tình cảm yếu đuối, bắt ta sống một cuộc đời khắc khổ, chịu đựng thử thách. Nếu không, ta sẽ không bao giờ tìm thấy ánh chân quang.
Giang, con hãy nghĩ kỹ. Con cũng thế, nếu con muốn theo con đường ta theo, con cũng sẽ phải làm như ta, nếu không sẽ không bao giờ trở thành một kiếm sĩ xứng đáng với tên ấy.
Giang không nói gì, nhưng vẫn thút thít. Thạch Đạt Lang quàng tay qua vai nó, kéo nó ôm chặt vào lòng:
– Kiếm đạo vô cùng, mà đời người thì hữu hạn. Nếu ta không còn trên dương thế này, con hãy tìm một sư phụ khác xứng đáng mà học hỏi. Ta không thể đến gặp Oa Tử được vì ta biết không gặp ta, nàng sẽ có hạnh phúc hơn. Và khi có hạnh phúc, nàng sẽ hiểu lòng ta bây giờ. Ánh sáng trên khung cửa kia, có phải ở phòng nàng không ? Chắc nàng cô đơn lắm. Thôi con hãy vào đi, đừng khóc nữa.
Giang bắt đầu hiểu lờ mờ nỗi đau lòng của sư phụ. Nó chùi nước mắt, ngửa mặt lên hỏi thầy, mong bấu víu vào chút hy vọng cuối cùng vừa lóe trong trí:
– Thế khi học xong, thầy sẽ đến với cô Oa Tử chứ ?
– Ờ, có lẽ, ngày ấy …
– Bao giờ hả thầy ?
– Khó biết trước được con ạ.
– Hai năm nhé ?
Thạch Đạt Lang không đáp.
– Ba năm ?
– Con đường khắc kỷ không biết đến đâu là cùng.
– Thế suốt đời thầy, thầy không bao giờ gặp cô Oa Tử sao ?
– Nếu tài của ta quả có thực, có lẽ một ngày nào đó, ta sẽ đạt tới mục đích. Nếu không, suốt đời, ta cũng vẫn chỉ là kẻ ngu ngốc như bây giờ mà thôi. Nhưng cũng có thể ta sẽ chết sớm. Một người mà tương lai như thế, làm sao có thể để đời mình ràng buộc với đời sống của một thiếu nữ trẻ đẹp và đầy hứa hẹn như Oa Tử ?
Thạch Đạt Lang nói rất nhiều. Giang dường như nghe không kịp. Chẳng biết nó có hiểu hết không nhưng nó vẫn bướng bỉnh bám lấy ý nghĩ muốn dẫn sư phụ vào với Oa Tử.
– Thầy chẳng cần hứa gì cả. Chỉ vào thăm cô Oa Tử một lát thôi. Một lát thôi, cô ấy sẽ sung sướng lắm.
– Không giản dị như thế đâu con ! Oa Tử và ta đều còn trẻ. Nói ra thì thẹn, nhưng gặp nàng, ta biết không thể nào làm ngơ được trước những giọt nước mắt và những lời cầu khẩn của nàng. Ta sợ ta không giữ được lòng bình tĩnh.
Thạch Đạt Lang bây giờ đã khác. Hắn không còn là một thanh niên mới lớn, tàn nhẫn và vị kỷ như khi ở trên cầu Hamada đã cự tuyệt Oa Tử. Hắn điềm đạm, vị tha hơn, và dịu dàng hơn. Dịu dàng hơn nhiều lắm. Có lẽ vẻ duyên dáng của Yến Nương đã đánh thức ngọn lửa đam mê trong lòng hắn nên hắn phải cố tình quay đi trước những quyến rũ của nàng. Đối với Oa Tử, hắn không chắc vào lòng mình. Hắn không dám có ý tưởng gì để nàng hiểu đời nàng sẽ phải lệ thuộc vào đời hắn.
Giang nghe tiếng sư phụ nói nhỏ bên tai, trong khi nó gục mặt vào cột rào thút thít:
– Giang ! Bây giờ con đã hiểu ý ta chưa ?
Thằng bé lắc đầu không đáp. Đến khi nó chùi nước mắt quay ra thì không thấy ai nữa. Xung quanh Giang, sương đã xuống từ bao giờ, làm mờ đục cả những lùm cây lân cận.
Thất vọng, Giang sợ hãi chạy quanh, cuống quít gọi:
– Sư phụ ! Sư phụ ! …
Chương 45: Giăng bẫy
Trăng vừa ló khỏi ngọn cây, đồ chúng Hoa Sơn đã chia thành nhiều toán trèo lên đồi Sinh Minh, nhằm hướng cổ tùng tiến tới.
Họ đi yên lặng dưới trăng, chập chờn ẩn hiện. Bóng họ lúc đổ dài, lúc khuất lẩn vào những bụi cây mọc tràn ra cả sơn đạo, hình thù cổ quái.
Xa xa, cắt trên nền trời trong vắt, gốc tùng to lớn, tàng lá rậm rạp mọc chênh vênh bên bờ vực sâu. Bóng tùng che lấp ánh trăng khiến vực tối om, đã sâu lại càng thăm thẳm.
Trên tàng cây, sườn núi đá dốc gần như thẳng đứng. Chỗ đó chỉ có loài vượn ở; họa hoằn, vào những ngày hè nắng ráo mới thấy một hai gã tiều phu mạo hiểm trèo lên kiếm củi. Sơn đạo khúc khuỷu. Mưa, tuyết từ thượng nguồn đổ xuống hàng năm cày nát mặt đường, để lại nhiều vết ngoằn ngoèo sâu hoắm lẫn với những hòn quái thạch rải rác.
Đệ tử Hoa Sơn leo dốc một cách khó nhọc. Nhìn lên, về phía gốc cổ tùng đã có ánh lửa lập lòe, bóng nhiều người thu hình ngồi im lìm bên các tảng đá trông như những con cua đêm rình mồi trên bãi cát.
– Anh em đến có vậy thôi à ?
– Còn một số đi sau, cùng với Cảnh Môn lão tiền bối.
– Hơi ít. Ta dự trù khoảng trăm rưởi, nhưng đây chỉ được nửa số ấy thôi chứ mấy.
Người kia quay lại lẩm nhẩm tính:
– Quả vậy ! Không ngờ anh em đến ít thế !
– Hừ ! Kể cả số người đến trễ, có lẽ cũng chỉ được tám chục.
Một đệ tử nói:
– Người đời thường phù thịnh chứ ai phù suy ? Nhiều mà không dùng được thì thà ít mà có bản lĩnh và hết lòng với môn phái lại hơn.
– Huynh đệ nào vừa nói thật chí lý. Ta thấy anh em có mặt ở đây đều là những hảo thủ trung thành, vậy cứ chờ xem.
Tuy đã tự trấn an như vậy nhưng đa số vẫn không yên bụng. Nghĩ đến chiêu kiếm thần tốc của Thạch Đạt Lang sau sân chùa Kim Các đã đưa Điền Chính và Hạ Nguyên Cát sang bên kia thế giới chỉ trong nháy mắt, họ còn thấy rùng mình sởn gai ốc. Ngồi sát lại bên đống lửa, một số thì thào bàn bạc:
– Tền này quá lợi hại, không thể khinh suất. Phải dùng mưu …
– Dĩ nhiên rồi. Cho nên đệ nghĩ địa hình ở đây hiểm trở, ta phải đặt ổ phục kích và phải hành động ngay. Nếu không sợ trễ quá.
Người khác nói:
– Cái khó là không biết nó tới bằng đường nào mà phục kích. Chẳng rõ các vị huynh trưởng có cắt người đi do thám trước không ?
– Chờ được tin thì muộn. Lúc này ta cứ chia ba toán mà phục ở những chỗ hiểm địa ở cả ba ngả đường. Nó đến bằng ngả nào cũng chết.
– Như vậy e lực lượng mình bị phân tán, số người ở mỗi nơi không đủ sức cự lại.
– Không hề gì. Mình có ưu thế bất ngờ. Vả lại khi phát giác ra nó ở chỗ nào thì mọi người cùng đổ lại, ba mặt giáp công rồi cứ dùng cách xa luân chiến mà đánh, khoẻ mấy cũng phải nhược.
Nghe ra lời bàn hợp lý. Cả bọn im lặng không phản đối. Lại có người nói:
– Nghe đâu Ưng Đằng lão huynh cũng đã sắp đặt hai tay cung nỏ sẵn sàng và một tay dùng hỏa khí nữa.
– Vậy tốt quá. Hỏa khí ở đâu thế ?
– Hình như của một khách thương người Bồ Đào Nha tặng. Hiệu nghiệm vô cùng !
Mọi người cùng à một tiếng, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Nhưng có kẻ bất nhẫn cho rằng làm thế không quanh minh chính đại. Đã lấy số đông áp đảo và đánh lén lại còn dùng ám khí.
Tuy nhiên chẳng ai quan tâm. Họ chia thành ba toán, phân công rồi cứ tiến hành cuộc giăng bẫy.
Bỗng nghe tiếng lào xào. Một người kêu lớn:
– Anh em ! Nó tới !
Tình thế đột nhiên căng thẳng. Bóng người nháo nhác ẩn vào các bụi rậm ! Đống lửa bị đạp tắt ngúm. Chỉ một loáng, khoảng đất trống bên gốc tùng đã vắng hoe, bầu không khí yên lặng nặng trĩu đe dọa bao trùm khắp cây cỏ. Dưới ánh trăng rung rung, côn trùng cũng không lên tiếng và những cành thông ướt sương lấp lánh như những lưỡi kiếm thép.
Thời khắc trôi qua, không động tĩnh. Yên lặng nặng nề như thế chẳng biết bao lâu.
Mãi sau mới thấy hai xa phu lực lưỡng phăng phăng lên đồi, vai khiêng cái cáng lớn.
Họ đặt cáng ngay trên khoảng đất trống, vén rèm cho một ông già và một thiếu niên bước ra. Tưởng ai, hóa ra là Hoa Sơn Cảnh Môn và người trưởng nam, Hoa Sơn Tuệ Tâm, mười ba tuổi, mới nhậm chức chưởng môn của kiếm phái. Bọn đệ tử Hoa Sơn canh chừng dưới chân núi, trong lúc vội vã đã hoảng báo.
– Tình hình này mà còn khệnh khạng đi cáng !
– Tân chưởng môn còn ít tuổi, đi cáng chẳng có gì quá đáng. Huynh đệ khe khắt quá !
Bấy giờ, đồ chúng Hoa Sơn mới lục tục bước ra tham kiến. Ưng Đằng và một số anh em khác có trách nhiệm cũng vừa đến. Một ngọn đèn lồng được thắp lên nhưng ánh sáng bị che bớt, chao qua chao lại, mờ đục và yếu ớt dưới ánh trăng vằng vặc.
Vừa ra khỏi cáng, Cảnh Môn đã hỏi ngay, giọng đầy vẻ quan thiết:
– Anh em đến đủ cả rồi đấy chứ ?
Một người đáp:
– Dạ đủ cả.
– Vậy Ưng hiền điệt cho bố trí đi thì vừa.
Đoạn quay sang phía thiếu niên, ông nói:
– Tuệ Tâm ! Con ra đứng dưới gốc thông kia lược trận. Cuộc chiến này rất quan hệ cho phái Hoa Sơn ta mà con là chưởng môn. Con chưa biết võ công nên các vị đây sẽ vì con mà chiến đấu. Đừng sợ gì cả …
Ông vỗ vai con trai, khuyến khích. Tuệ Tâm bậm môi khẽ gật, bước tới bên gốc cây. Tuy còn nhỏ nhưng dường như đã ý thức được tầm quan trọng của tình thế, chàng thiếu niên đứng thẳng, yên lặng, tay nắm chặt, dáng điệu nghiêm trang và cứng nhắc như một hình nộm bằng gỗ được trưng bày trong ngày lễ của các thiếu niên kiếm sĩ.
– Chúng ta đến hơi sớm, bây giờ mới đầu giờ dần.
Cảnh Môn vừa nói vừa rút trong bọc ra một ống điếu và nhồi thuốc. Cảnh Môn đã già, không biết võ công, có tật ưa hút thuốc, bấy giờ được coi là một thứ hàng xa xỉ và hiếm vì phải mua từ các tàu buôn ngoại quốc. Nhưng vì ông đứng vào hàng thúc bá của Sĩ Khánh và Điền Chính, vả tính ông hào sảng, rất quan tâm đến sự thịnh suy của môn phái nên ai ai cũng kính mến, coi ông như trưởng lão của cả phái. Hễ có chuyện gì quan trọng, trước đây, bao giờ Sĩ Khánh cũng hỏi ý kiến ông; huống chi bây giờ, Tuệ Tâm, trưởng nam của ông lại mới được công cử làm chưởng môn, nên ý kiến ông càng được trọng nể lắm.
– Lão phu nghĩ việc này nên hết sức cẩn thận. Bản phái chẳng may bị tên đó làm nhục, chỉ còn hiền điệt – Cảnh Môn nhìn Ưng Đằng – là người cao tuổi nhất, xứng đáng làm niên trưởng để hướng dẫn công cuộc phục thù. Tuệ Tâm tuy là truyền nhân nhưng chẳng biết gì về võ công, mà lão phu thì hồ đồ, xin hãy vì bản phái mà hết lòng cho.
Ưng Đằng cảm động quỳ xuống đáp:
– Việc là việc chung, tại hạ đâu dám xao lãng. Sao lão trượng lại nói thế ?
Cảnh Môn đỡ Ưng Đằng dậy:
– Ấy cũng là vì việc chung nên lão phu mới đề nghị nên hỏi ý kiến tất cả anh em để họ cùng góp phần vào việc diệt thù. Hiền điệt nghĩ sao ?
– Lão trượng nói rất phải.
Bèn tập hợp tất cả mọi người lại, trừ những kẻ có phận sự phải canh phòng, để bàn luận. Chủ trương mai phục ở các nơi hiểm yếu trên cả ba nả đường đổ lên đồi Sinh Minh được tán thành. Mọi người nhất quyết phải giết cho được Thạch Đạt Lang bằng mọi giá và bằng mọi cách.
– Nếu tất cả anh em cùng đồng lòng như vậy thì còn gì hơn nữa. Chỉ xin thi hành cho bằng được. Lão hủ rất tiếc không trẻ lại vài chục tuổi để tiếp sức với anh em !
Ưng Đằng bèn đem trình hai cung thủ và người sử dụng hỏa khí:
– Tại hạ cũng đã có kế hoạch. Vạn bất đắc dĩ, nếu nó quá mạnh, những huynh đệ này cũng dùng được việc.
Mọi người phấn khởi, nhất nhất tuân theo sự xếp đặt của Ưng Đằng:
Một toán xuống mai phục ở ven bờ vực, một toán ẩn trong khu rừng bách gần ngã ba đường đi Quan Lĩnh và một toán bố trí ngay tại chỗ, lo bảo vệ hai cha con Tuệ Tâm. Cung thủ án chỗ cao nhất trên đồi và người anh em sử dụng hỏa khí trèo lên cành thông ngồi đợi, nạp đạn sẵn và mồi lửa để bên, nếu thấy địch chạy là bắn.
Phân công bố trí xong, mọi người tản đi không tiếng động, êm như loài thủy cầm lẩn vào đám sậy.
Đứng lâu nghe chừng khó chịu, Tuệ Tâm vặn mình, nhăn mặt. Chân nó đã hơi tê, sương thấm qua lần dép cỏ lạnh buốt.
– Ngứa quá !
– Tuệ Tâm ! Gì thế ?
Hoa Sơn Cảnh Môn hỏi con.[Audio] Vũ Vương (dịch)
– Lá thông rơi vào cổ áo khó chịu lắm. Mà con buồn ngủ quá !
– Phải ráng. Can đảm lên, chút nữa có chuyện gì xảy ra, hãy coi cho kỹ. Bây giờ là chưởng môn kiếm phái Hoa Sơn rồi, không được có những cử chỉ hèn yếu.
Tiếng cú rúc từ xa vẳng tới. Một con chim đêm bay ngang qua, cánh đập phành phạch và bóng đổi dài trên nền cỏ ướt.
– Thân phụ ! Con sợ !
– Sợ cái gì ? Không được tỏ ra khiếp nhược !
Thình lình, tiếng quát ở phía lưng chừng đồi làm Tuệ Tâm giật bắn người. Nó chạy lại ôm chầm lấy cha. Cảnh Môn gỡ tay Tuệ Tâm ra, trừng mắt nhìn. Một giọng nói nửa giận dữ nửa chế nhạo vọng lên:
– Ta là Giang Biên Liễu. Mắt ngươi mù hay sao mà không thấy ?
– Không biết ! Đứng lại ! Quân này đến do thám chăng ?
Tiếng cười ha hả:
– Nếu quả ta do thám thì lưỡi gươm này đưa ngươi về chín suối từ lâu rồi !
Thấy Cát Xuyên Mộc, Ưng Đằng vội chạy ra đón. Nhìn chàng thanh niên mặt đầy nộ khí, ông quát đồ đệ:
– Anh em ai về chỗ nấy, không được vô lễ !
Đoạn quay sang phía thanh niên:
– Thiếu hiệp đại xá cho. Vi bản phái phải bố trí tự vệ nên mới có chuyện này.
Không ngờ thiếu hiệp cũng lại có mặt, lão phu rất lấy làm cảm kích !
Thấy thái độ hòa nhã của Ưng Đằng, Cát Xuyên Mộc nguôi giận, tra kiếm vào vỏ, khiêm nhượng.
– Kính chào lão tiền bối, vãn sinh chỉ vì trách nhiệm mà đến chứ không có ý gì khác.
– Đa tạ thiếu hiệp.
– Đêm trước, vì đã đứng ra làm trung gian dàn xếp cuộc tranh chấp này nên vãn sinh phải lo tròn bổn phận. Mới đây, nhờ may mắn biết được một số chi tiết về Thạch Đạt Lang, vãn sinh muôn thông báo để quý phái rõ.
Ưng Đằng ngạc nhiên, nhưng thấy thanh niên này có ý thiên về phía mình nên hoan hỉ mời Cát Xuyên Mộc đến gần gốc tùng đàm đạo.
Xong phần giới thiệu và nghi lễ, đôi bên đề cập ngay vào việc chính. Cát Xuyên Mộc nói:
– Vãn sinh dự định sẽ thành lập một kiếm phái sau này nên phải học hỏi và theo dõi những trận thư hùng của các hảo thủ võ lâm. Thạch Đạt Lang tuy là tên quê mùa nhưng mới đây đã lập nhiều thành tích đáng kể …
Ưng Đằng không hiểu Cát Xuyên Mộc có ý gì, đang phân vân thì gã tiếp:
– Vãn sinh ngạc nhiên lắm, để tâm dò xét thì được biết một vài điều rất hữu ích.
Tên này sinh trưởng ở Miyamôt, con một kiếm sĩ quê mùa vùng Mimasaka. Lúc lớn, cùng với bạn đầu quân, tham dự trận Sekigahara. Thua trận, trở về làng, hắn làm nhiều điều phi pháp càn rỡ bị dân làng khinh ghét đuổi đi. Là một tên vô lại, nhưng Thạch Đạt Lang có sức khoẻ hơn người, có đôi chút võ nghệ và khi chiến đấu thì cực kỳ dũng mãnh liều lĩnh. Hắn không có sư phụ nên kiếm pháp chẳng ra đường lối gì. Phương pháp chính thống của quý phái không làm Thạch Đạt Lang e dè đâu, chẳng khác gì đem lời nói ra mà lý luận với kẻ điếc. Cho nên, theo thiển ý, nếu không dùng bẫy bắt hắn như bắt một con thú dữ thì quý phái nhất định thất bại. Nói thế để quý phái liệu mà hành động !
Ưng Đằng gật đầu:
– Đa tạ thiếu hiệp. Ngu lão cũng đã nghĩ đến điều đó.
Rồi đem kế hoạch dự định, chỗ mai phục cùng việc dùng cung nỏ và hỏa khí sẵn sàng truy kích Thạch Đạt Lang ra sao kể cho Cát Xuyên Mộc nghe hết.
Cát Xuyên Mộc mỉm cười, nói lửng lơ:
– Cũng được ! Xem ra tên đó rơi vào ổ phục kích của quý phái thì cũng khó lòng thoát. Nhưng vẫn còn có chỗ sơ hở.
Khó chịu vì thái độ hợm hĩnh của gã thanh niên, Ưng Đằng hỏi:
– Sơ hở chỗ nào ?
– Các vị tính kế để bắt Thạch Đạt Lang, được lắm ! Nếu hắn cứ thẳng thắn, đơn độc trèo lên núi, tất sẽ chết trong tay quý vị. Nhưng nếu hắn không đến thì sao ? Cả kế hoạch của quý vị sẽ phải vất bỏ vì vô dụng.
– Phải chăng thiếu hiệp muốn nói tên đó chạy trốn. Nếu thế chúng ta sẽ yết bảng khắp nơi nêu sự hèn nhát ấy ra để hạ nhục hắn. Giang hồ sẽ chê cười hắn.
– Có thể các vị sẽ làm thế, nhưng chẳng ai cấm Thạch Đạt Lang đi rêu rao khắp nơi là Hoa Sơn đã giăng bẫy lừa hắn nên hắn không muốn làm nạn nhân của một âm mưu bất chính. Danh dự quý phái có vãn hồi được đâu mà công của các vị là công cốc.
Hơn nữa, Thạch Đạt Lang vẫn sống, sẽ trả thù các vị, mối lo là ở đó !
Cảnh Môn nghe ra, nhìn Ưng Đằng như ngầm hỏi cách xử trí. Vị trưởng lão lặng thinh. Tuổi già làm óc ông đặc lại, không còn sáng kiến gì nữa.
Lát sau, gã thanh niên lại nói:
– Vãn sinh có một kế nhỏ.
Không ngăn nổi vui mừng, cả hai người kia cùng đồng thanh:
– Xin thiếu hiệp cho nghe.
Cát Xuyên Mộc bèn ghé miệng vào tai Ưng Đằng nói thầm mấy câu, xong quay ra cao giọng với một vẻ tự tin đặc biệt:
– Thế nào ? Tiến bối thấy làm như vậy có ổn chăng ?
Nét mặt rạng rỡ, Ưng Đằng gất đầu lia lịa, mỉm cười thỏa mãn:
– Thiếu hiệp giúp cho như thế thì còn gì bằng nữa !
Rồi xích lại gần Cảnh Môn, ghé tai nói nhỏ cho ông nghe cái mưu kế của Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc.
Hôm sau, trời gần sáng, Thạch Đạt Lang tới ngôi quán nhỏ bán rượu ở phía bắc trấn Kitano, nơi trước đây hắn gặp Giang và thu nhận Giang làm đồ đệ. Quán tiêu điều hơn và chủ quán cũng già hơn trước nhưng vẫn còn nhớ hắn, niềm nở mời vào, hàn huyên như vừa gặp một người thân lâu ngày không tin tức.
Ăn xong bữa cơm và ngủ một giấc dài, Thạch Đạt Lang ra đi đến xế trưa mới trở lại, mang về một tấm bố nhờ chủ quán thuê may cho một chiếc áo chẽn nhiều túi, một cái khố. Vải thừa thì làm một dây lưng dài thật chắc. Hắn cũng không quên mua tặng chủ quán một bịch khoai. Chủ quán đưa vải ra tiệm may, bảo may gấp, khi trở về lại mua một bình rượu sa-kê rồi vào bếp lúi húi gọt khoai nấu món canh khoai hầm thịt.
Buổi chiều vắng khách, cả hai bày món ăn ra bàn, chén chú chén anh, nói chuyện mãi đến đêm mới đi nghỉ.
Gà gáy sang canh, nghe tiếng nước dội ngoài giếng, chủ quán tỉnh giấc. Trông ra, Thạch Đạt Lang đang đứng dưới trăng tắm nước lạnh. Tắm xong, hắn mặc quần áo mới.
Chủ quán cũng ra, thắt hộ dây lưng và sửa soạn hành trang giúp.
– Hôm qua, đại hiệp nói chẳng ở đây lâu. Không ngờ đi sớm thế ?
Chủ quán tuổi đã cao, lại không có gia đình, thấy Thạch Đạt Lang sống đơn độc cũng như mình thì đem lòng lân ái. Ông săn sóc chàng thanh niên, coi như người nhà, hỏi thăm cả về Giang và đoán thằng bé chắc bây giờ lớn lắm. Đạt Lang hứa khi trở lại Kyoto sẽ tới trọ nhà ông và dẫn Giang đến.
Thạch Đạt Lang ra đi, chủ quán tiễn chân đến tận cửa ngoài, lòng bùi ngùi nhìn theo như vừa tiễn chân một người thân chẳng hy vọng gì tái ngộ.
Trăng lung linh trên nền trời trong vắt. Thạch Đạt Lang cảm thấy lòng lâng lâng, mỗi bước một nhẹ nhàng, đầy hứng khởi.
Gió đêm mơn man trên mặt. Chút rượu sa-kê uống vừa phải, giấc ngủ ngắn mà ngon, nước giếng lạnh chà xát cơ thể khiến huyết mạch chạy điều hò a, bộ quần áo mới mặc ấm áp dễ chịu, Thạch Đạt Lang không có cảm tưởng mình là người sắp chết. Hồi tưởng hôm nào trên đỉnh Đại Bàng sơn, hắn cũng có cảm giác như thế này. Co khác là bấy giờ cành cây nặng trĩu băng giá mà bây giờ thì nụ đã bắt đầu nở hoa.
Sau khi rời khỏi dinh tướng công Lưu Cát, Thạch Đạt Lang đến đền Kuruma ngồi nhập định dưới gốc thông, hy vọng tìm thấy, trong sự yên tĩnh suy tư, trạng thái chân phúc của tâm hồn. Hắn cố gắng xua đuổi những tư tưởng bi quan về cái chết, nhưng đầu óc lộn xộn không sao thoát khỏi những ý niệm hắc ám.
Bây giờ tắm nước lạnh xong, đột nhiên thấy dễ chịu hơn, hắn tiếc đã phí thì giờ vô ích.
Tiếng kèn thờ não nuột từ một nhà có đám tang ở đâu vọng đến. Trong đêm tịch mịch, điệu nhạc bi ai gợi lên trong tiềm thức Thạch Đạt Lang cái cảnh một gia đình buồn thảm ngồi canh thức xung quanh cỗ quan tài bằng gỗ mộc. Cảnh này ở đâu ? Hắn cố nhớ mà không sao nhớ được.
Thấp thoáng sau hàng cây là sông Kamo và đằng xa, nơi chân trời, giải Thiên Sơn ba mươi sáu ngọn đầy bí ẩn ngạo nghễ nhìn hắn. Nước sông trắng xoa như bạc, Thạch Đạt Lang men theo dòng sông, qua cầu gỗ. Chủ quán đã nói với hắn muốn đi Quan Lĩnh, từ phía bắc Kyoto phải qua cầu này vì đây là đường gần nhất.
Sang bên kia sông, vừa được mấy bước, nghe tiếng gọi, Thạch Đạt Lang đứng khựng, nhưng không định hướng được tiếng ấy từ đâu đến. Thêm vài bước lại nghe tiếng gọi. Thạch Đạt Lang dừng lại lần nữa, chú mục nhìn kỹ xung quanh. Từ xa, một dáng người cao lớn rảo bước đi tới, tay vẫy lia lịa. Hắn không đoán được là ai mặc dầu cái dáng cao lớn ấy rất quen thuộc, hình như hắn đã gặp vài lần.
Đến gần thì ra …Cát Xuyên Mộc. Thạch Đạt Lang đề phòng. Hắn không tin chàng thanh niên này, nhưng vì y làm trung gian giữa hắn và phái Hoa Sơn, nên không lộ ra mặt. Cát Xuyên Mộc lên tiếng:
– Nhân huynh vẫn được an khang đấy chứ ?
Vồn vã nhưng kiểu cách và thân mật quá đáng. Đáp lại, Thạch Đạt Lang chỉ giữ thái độ nghiêm cẩn, trả lời đủ lễ.
Đưa mắt về phía cầu sông Kamo và nhìn xung quanh không thấy ai, Cát Xuyên Mộc lại hỏi:
– Nhân huynh đi một mình ?
– Dĩ nhiên tại hạ đi một mình.
– Chắc huynh đài miễn chấp cho đệ việc làm đêm hôm trước. Đa tạ huynh đài đã nhận lời.
– Tại hạ phải cảm ơn các hạ mới phải chứ. Sự can thiệp của các hạ đã tránh cho đôi bên một cuộc xô xát đẫm máu xảy ra ở một nơi chẳng mang vinh dự gì cho võ lâm.
Thế là may lắm.
Thạch Đạt Lang cũng đáp lại bằng những lời lẽ khiêm tốn.
– Nhân huynh đến nơi hẹn ?
– Đúng thế !
– Đến một mình ?
– Dĩ nhiên. Đây là chuyện riêng của tại hạ.
– Hừ …Thạch huynh ! Nhân huynh tha lỗi, nhân huynh có hiểu lầm hay quên những lời giao ước đệ đã nói với nhân huynh đêm hôm ấy chăng ?
– Ờ …ờ …không ! Tại hạ không quên điều gì cả …
– Đây không phải là một cuộc tỷ kiếm tay đôi, giữa hai kiếm sĩ với nhau như trường hợp Sĩ Khánh và Điền Chính …
– Tại hạ biết.
– Hoa Sơn Tuệ Tâm tuy là chưởng môn nhưng chỉ là một thiếu niên không hiểu võ công gì. Vậy nhân huynh không phải chỉ đương đầu với y mà phải đương đầu với những đệ tử bảo vệ y, có thể là mười, hai mươi hay hàng trăm người và toàn là những hảo thủ cả. Qúy huynh biết thế không ?
– Biết chứ ! Tại sao các hạ hỏi điều đó ?
– Họ đang mai phục ở ba ngả đường đi Quan Lĩnh, gần gốc cổ tùng chờ nhân huynh …
– Sao các hạ biết ? Các hạ vừa ở đó đến chăng ?
Cát Xuyên Mộc ngượng, nói lảng:
– À …Không …Đệ đoán vậy và cũng đoán nhân huynh đi đường này nên chờ để lưu ý nhân huynh đấy thôi. Đệ thấy có bổn phận phải làm thế vì là người trung gian dàn xếp …
– Cảm ơn các hạ.
– Thật nhân huynh chỉ đi có một mình hay còn người nào nữa sẽ nhập bọn ?
– Thực ra tại hạ còn một kẻ đồng hành …
– Ồ ! Ai vậy ? Ở đâu ?
– Ở ngay đây thôi !
Trước sự ngạc nhiên của Cát Xuyên Mộc, Thạch Đạt Lang chỉ bóng mình trải dài dưới ánh trăng và cười ha hả.
Cát Xuyên Mộc có vẻ thẹn và giận:
– Có gì đáng cười ? Hình như huynh đài không coi lời cảnh cáo của đệ vào đâu cả.
Nhưng Thạch Đạt Lang nghiêm mặt:
– Các hạ cho rằng tại hạ đùa chăng ? Khi Bồ tát Mạn Đà La nói rằng kẻ nào tin có đức Toàn Năng đi bên mình thì kẻ đó có sức mạnh bằng hai người, các hạ cũng cho rằng ngài nói đùa chăng ?
Cát Xuyên Mộc không đáp. Thạch Đạt Lang lại tiếp:
– Nhìn bên ngoài, có vẻ như Hoa Sơn phái sẽ áp đảo được tại hạ. Họ đông người, tại hạ chỉ có một. Nhưng xin các hạ đừng lo lắng gì cho tại hạ. Nếu biết họ dàn ra mười người, tại hạ cũng đem theo mười bằng hữu để đối địch; họ dàn ra trăm người, tại hạ cũng mang theo trăm người, thì cuộc chiến sẽ rối loạn lắm ! Bao nhiêu người sẽ chết hoặc bị thương và vấn đề cũng chỉ giải quyết được thế thôi, nghĩa là giữa cá nhân tại hạ và Hoa Sơn phái, một còn một mất, vậy có ích gì ?
– Nhân huynh nói cũng phải, nhưng khi chiến đấu mà đã biết trước thất bại thì e rằng …e rằng …
– Không hợp với binh sách chứ gì ? Xin đa tạ ! Tại hạ đã có chủ ý.
– Nếu nhân huynh đã nhất định như thế thì thôi. Chỉ xin lưu tâm tìm cách gì ít nhất bảo toàn được sinh mang !
– Sinh mạng con người là quý, tại hạ cũng tin như vậy. Nhưng các hạ hãy nhìn kìa:
con sông Kamo này có thể là con sông đưa đến cửu tuyền, con đường tại hạ sắp đi để tới ngã ba Quan Lĩnh có thể là con đường đầy gai góc đưa tới địa ngục, nhưng đối với tại hạ, nó là con đường độc nhất dẫn đến một đời sống trọn vẹn.
Lui một bước, Cát Xuyên Mộc trừng trừng nhìn Thạch Đạt Lang:
– Nghe huynh đài nói, không biết huynh đài còn đủ lý trí không !
– Các hạ muốn nghĩ gì thì nghĩ. Có những người sống cũng như chết và có những người chết rồi mà còn sống !
Rồi không để Cát Xuyên Mộc nói thêm, Thạch Đạt Lang tiếp ngay:
– Đường trước mặt đi đến đâu thế, các hạ ?
– Qua làng Hananoki đến ngã ba Quan Lĩnh, dưới gốc cổ tùng, chỗ huynh đài sẽ trở thành người …thiên cổ.
Dường như không lý gì đến ẩn ý của người trước mặt, Thạch Đạt Lang vẫn hỏi tiếp:
– Xa không ?
– Chừng năm dặm nữa. Còn đủ thì giờ !
– Đa tạ. Bây giờ xin cáo biệt. Sẽ tái ngộ các hạ Ở một nơi khác.
Nói xong, quay ngoắt sang một đường mòn gần đấy, thấp hơn. Cát Xuyên Mộc gọi với:
– Thạch Đạt Lang ! Không phải ! Đường này mới đi Quan Lĩnh !
Nhưng Thạch Đạt Lang không đáp, Cát Xuyên Mộc chạy theo:
– Lầm đường rồi, quay lại đi !
Bỗng gã dừng lại vì thấy Thạch Đạt Lang ở xa xa, quay lưng lại mặt ngẩng nhìn trời. Cát Xuyên Mộc bật cười vì sự hiểu lầm của mình:
Thạch Đạt Lang đang đi tiểu.
Gã rảo bước trở về đường cũ, ngồi trên phiến đá đợi. Trông lên vầng nguyệt sáng, gã mỉm cười tưởng tượng đến sự thích thú sắp được chứng kiến một cuộc tranh hùng đẫm máu. Nếu gã không nhanh trí báo cho Thạch Đạt Lang biết trước ổ phục kích thì hắn chết mau quá, còn gì là thú vị ?
Chờ mãi không thấy Thạch Đạt Lang lên, Cát Xuyên Mộc đứng dậy theo đường mòn nhìn xuống. Không có Thạch Đạt Lang. Hắn đã biết đâu mất. Chỉ còn những bụi cây lá nghiêng ngả trước gió đêm và xa xa vẳng lại tiếng cút kít của một cái cối xay lúa chạy bằng guồng nước.
Chương 46: Dưới chân hội ngộ
Đợi một lúc lâu, sau khi thấy Cát Xuyên Mộc đã đi khuất, Thạch Đạt Lang mời từ trong chỗ nấp chui ra. Hắn rất vừa ý vì đã tìm cách tránh được Cát Xuyên Mộc, một người theo ý hắn vừa giảo quyệt vừa tàn bạo. Thạch Đạt Lang có cảm tưởng gã thanh niên này chỉ lợi dụng sự tranh chấp giữa hắn với phái Hoa Sơn để mưu lợi riêng, chứ không chủ ý thực tâm dàn xếp. Con người giả nhân giả nghĩa ấy không hợp với tình tình ngay thẳng của hắn.
Có lẽ Cát Xuyên Mộc tưởng hắn phải quỳ gối xin giúp đỡ khi biết tin toàn phái Hoa Sơn hợp lực đánh hắn. Hoặc hắn sẽ phải trốn chạy không dám đến. Nếu quả thế thì Cát Xuyên Mộc lầm lắm.
Mạng sống rất quý, mất đi không lấy lại được. Đại Quán đã nói với hắn nhiều lần, nhưng sống hèn nhát vô ích, thì có khác gì chết. Kiếp người hai mươi năm hay bảy mươi năm chẳng quan hệ, vì nó có nghĩa gì đâu trong cái vô tận của thời gian ? Điều quan hệ chính là lưu lại một chút gì trong lòng người và trong lịch sử dân tộc.
Thạch Đạt Lang nghĩ thế và đã chọn kiếm đạo. Hắn muốn sống như một kiếm sĩ và sẽ chết như một kiếm sĩ. Con đường tuy cam go nhưng thích thú vô cùng, cho nên không có vấn đề bỏ trốn hay cầu xin giúp đỡ. Hắn đến chỗ hạn với lòng ngay thẳng, vô úy của một kẻ cầm kiếm vững tin ở sức mình.
Điều quan tâm hiện tại của Thạch Đạt Lang là làm sao giảm bớt được nguy cơ bị tấn công ở nhiều mặt. Nhớ lại những điều đã học trong binh pháp, khi một nhóm nhỏ phải đương đầu với một lực lượng mạnh và đông gấp bội, yếu tố bất ngờ là yếu tố sinh tử.
Phải đánh nhanh và mạnh vào chỗ nhược của địch rồi rút lui tức khắc trong lúc địch hoảng hốt và hàng ngũ còn rối loạn.
Như viên đại tướng duyệt lại địch tình trước khi lâm trận, hắn dàn ra trong óc tất cả những điều đã thu thập được trong ngày hôm trước, sau khi đi thăm địa hình các nơi lân cận.
Có ba sơn lộ dẫn đến đồi Sinh Minh. Cả ba lộ dạig tương tự nhau và đều tụ lại dưới gốc cổ tùng trên đường đi Quan Lĩnh. Sơn lộ dễ đi nhất là sơn lộ Cát Xuyên Mộc vừa tới.
Nhưng ngoài những sơn lộ ấy lại còn một đường mòn nữa, hiểm trở hơn, đi vòng lên phía đỉnh núi. Đường này không dẫn tới gốc cổ tùng, theo lời chủ quán nói, mà mất hút ở sườn núi đá ngay trên ngọn cây. Đường bỏ hoang đã lâu ngày, nhiều đoạn đá lở ngổn ngang, có chỗ phải bám vào dây leo đánh đu như vượn mới qua được.
Trong cuộc tranh thắng sắp tới, nếu muốn đoạt yếu tố bất ngờ, hiển nhiên phải dùng đường ấy. Không chần chừ, Thạch Đạt Lang rẽ ngay sang hướng núi đá, nhanh như một con sóc.
Qua đồi Kagura, hắn vòng sau một ngôi cổ mộ, rồi theo hướng bắc đi thẳng mãi.
Xuyên qua khu rừng trúc xum xuê che kín cả ánh trăng, bên một làng nhỏ sơn cước, Thạch Đạt Lang đến chân núi đá. Bên kia sườn núi là hướng đi Quan Lĩnh. Theo lời chủ quán, vào những hôm trời quang, nếu đứng ở trên cao, có thể nhìn thấy cây cổ tùng cành xòe ra như cái tán.
Thạch Đạt Lang ngồi nghỉ một lúc, đưa mắt định hướng rồi bắt đầu lên núi. Qua hàng phong thưa, mặt nước một cái hồ nhỏ dưới chân phản chiếu ánh trăng lóng lánh như gương. Càng lên cao, mặt hồ càng bị che lấp rồi khuất hẳn sau những tàn cây. Dòng sông Kamo hiện ra, trắng như bạc, uốn éo tự giải lụa chạy dài đến tận chân trời và mờ dần trong làn sương trắng đục.
Thạch Đạt Lang có cảm tưởng đang nắm cả địa hình vùng phụ cận cổ thành Kyoto trong lòng bàn tay. Nếu trăng cứ sáng như thế này, khi sang bên kia sườn núi, hắn hy vọng có thể bao quát được hết địa thế và chú ý một chút, biết được những chỗ nào đối phương mai phục. Tỷ như tướng Ưng Điền trong trận đánh danh tiếng Okehazama, Thạch Đạt Lang đã chọn con đường hiểm trở đến tấn công thay vì con đường dễ đi rộng rãi.
Tiếng chân đạp lá khô và ánh lửa đuốc thấp thoáng khiến Thạch Đạt Lang đề phòng, nhảy đến thu hình sau một gốc phong. Một người đứng tuổi, ăn mặc ra lối gia nhân nhà quý tộc chậm chạp vạch cây đi tới, tay trái cầm bó đuốc đã lụi, tay kia:
một con dao phát. Mắt gã đảo nhìn tứ phía, mặt nhem nhuốc khói đuốc thông, quần áo ướt nhẹp.
– Đi đâu ?
Tiếng quát của Thạch Đạt Lang làm gã gia nhân giật nẩy mình, suýt đánh rơi cả đuốc. Thấy một thanh niên cao lớn hiện ra, lão kêu khẽ nửa vui mừng, nửa kinh ngạc:
– Thạch …Thạch Đạt Lang ? Tráng sĩ có phải là Thạch Đạt Lang ở Miyamoto không ?
Thạch Đạt Lang trừng trừng nhìn lão, nghi ngờ. Ánh đuốc rọi vào làm mắt hắn đỏ như hổ phách. Nhìn ánh mắt dữ tợn ấy, gã gia nhân kinh hãi quỳ mọp xuống.
– Ngươi là ai ?
– Dạ …dạ …tiểu …tiểu …tiểu nhân …
– Đừng lắp bắp. Ngươi là ai, nói mau !
– Tiể …tiểu nhân phục vụ trong dinh tướng công Lưu Cát.
– Vậy được ! Chớ sợ ! Ta chính là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto. Đêm khuya, ngươi lên núi làm gì ?
– Vậy …vậy tráng sĩ đúng là Thạch Điền Đạt Lang !
Nói xong, vứt cả đuốc và dao, ù té chạy ngược trở lại đường cũ xuống núi, trước sự ngạc nhiên của Thạch Đạt Lang.
Tiếng chân đạp lá khô và cành gẫy xa dần. Lát sau nghe tiếng gọi:
– Cổ Lâm ! Ngươi ở đâu đó ?
– Ở đây, dưới này ! Sao ông lại trở lại ?
Không phải tiếng Cổ Lâm, một gia nhân khác của Lưu Cát, mà là tiếng thằng Giang.
– Giang đấy hả ?
– Vâng !
– Lên ngay đây, mau lên !
– Dốc lắm ! Mà nhiều gai, không đi được !
– Nhanh lên ! Ta đã tìm được Thạch Đạt Lang. Không tới mau, hắn đi mất.
Giang dìu Oa Tử trên đường núi dốc ở phía dưới, thấp hơn đến hai ba trượng. Phải một thời gian sau, hai người mới khó nhọc leo lên được ngang tầm đứng của lão gia nhân. Nàng thở hổn hển, gương mặt trắng bệch như sáp. Giang đốt ngọn đuốc mới, sắc diện nàng hồng thêm đôi chút. Oa Tử ôm ngực nói:
– Ông có chắc đã gặp Thạch Đạt Lang không ?
– Chắc. Chính Thạch Đạt Lang xác nhận mà, lầm thế nào được ! Nếu cô nương không đi nhanh, hắn rẽ sang đường khác mất thì uổng công !
– Phía nào ? Giang hỏi.
– Trên núi, cách chỗ này không xa lắm. – Lão gia nhân vừa nói vừa cầm đuốc chỉ – Còn Cổ Lâm đâu ?
– Ông ấy đi hướng khác. Hay trở về rồi cũng nên.
Dáng điệu bị khích động rõ rệt, Oa Tử lẩy bẩy vịn vào vai Giang, giục:
– Mau lên em !
Mấy bữa nay, bệnh của nàng không thuyên giảm. Lúc nào Oa Tử cũng hâm hấp sốt và không ăn uống gì. Nhưng khi nghe tin Thạch Đạt Lang sắp giao đấu với Hoa Sơn, nàng không chịu nằm yên, nhất định đòi đi gặp người yêu. Oa Tử bắt Giang dẫn lên ngỏ lời cảm tạ và từ biệt Lưu Cát tướng công rồi lui về phòng sửa soạn hành trang. Lưu Cát ngăn thế nào cũng không được, đành phải phái gia nhân đi các ngả tìm Thạch Đạt Lang và hộ tống nàng.
Cả đêm, Oa Tử không ngủ. Mới canh ba nàng đã sẵn sàng:
tóc bới cao, áo chẽn, dép cỏ, kèm theo một chút lương khô và nước uống. Nàng đánh thức Giang dậy, rồi cả hai cùng khập khiễng dìu nhau trên sơn đạo đi Quan Lĩnh.
Đêm khuya, trời cao trong vắt và buốt lạnh làm run rẩy đôi vai gầy người thiếu nữ cô độc. Sức mạnh nào đã giúp Oa Tử qua được những khó khăn trên sơn đạo ? Trong cái cơ thể nhỏ bé, đau yếu ấy, không ngờ mối tình u uẩn nhưng mãnh liệt đã trở thành sức mạnh giúp nàng không quỵ ngã ở dọc đường.
Đầu giờ dần, Oa Tử và Giang tới được chân núi.
– Cô nhắm chừng leo được không ?
Giang lo lắng hỏi.
Oa Tử không đáp, chỉ gật. Mắt nàng sáng lên vì hy vọng, nhưng môi nàng khô và mồ hôi rỏ giọt trên da mặt tái ngắt. Người gia nhân già bảo:
– Qua khỏi chỗ này thì đường bằng phẳng dễ đi hơn. Cô nương hãy ngồi nghỉ một lát đã.
Nàng lắc đầu, chống gậy cả quyết bước tới. Giang bắc tay lên miệng làm loa, gọi lớn:
– Thạch sư phụ ! Con đây ! Thầy đợi con !
Tiếng Giang non yếu nhưng cũng vang động cả khu rừng vắng làm phấn khởi lòng người thiếu nữ. Trèo được một quãng, Giang thấy tay Oa Tử vịn trên vai nó càng lúc càng nặng. Quay lại nhìn, Oa Tử xem chừng không kham nổi nữa. Dưới ánh trăng, da mặt nàng nhợt nhạt. Nàng thở hổn hển:
– Gi …Giang …
Cây gậy rời khỏi tay, Oa Tử ngã chúi xuống vệ đường, mặt úp sấp. Đến khi Giang đỡ được Oa Tử dậy, một dòng máu từ khóe miệng nàng chảy ra, đen sẫm trên khuôn mặt trắng bệch. Thằng bé lo sợ cuống quít:
– Cô Oa Tử ! Cô làm sao thế ?
Nó lấy tay quệt máu:
– Cô thổ máu rồi đây này ! Trời ơi ! Em đã bảo cô đừng đi mà ! …
– Giang …Giang …để cô nằm …
Nói xong, mắt nhắm nghiền. Giang cuống cuồng, lấy tay đập vào lưng Oa Tử.
– Cô Oa Tử ! Tỉnh dậy đi ! Tỉnh dậy đi !
Oa Tử lờ đờ mở mắt. Trên đôi môi tái nhợt, phác một nụ cười héo hắt. Giang cúi xuống gần mặt nàng:
– Cô muốn gì không ?
Oa Tử không nói, mắt mở trừng trừng, nụ cười như đóng băng lại trên môi. Trong cơn hôn mê, nàng tưởng trông thấy một cảnh gì tươi đẹp lắm ở xa tít, bên kia một con sông sương khói phủ mờ mờ. Đột nhiên cảnh sông biến mất, Oa Tử giật mình vẳng nghe tiếng Giang hỏi:
– Cô uống nước nhé ?
Oa Tử khẽ chớp mắt. Giang gỡ ống tre đeo bên sườn ra, nhưng thật không may, trông ống không còn một giọt nước. Nó để túi hành trang trên cỏ, đặt đầu Oa Tử lên, rồi bảo:
– Cô nằm tạm đây, em đi kiếm nước.
Giang lắng tai nghe. Hình như có tiếng suối róc rách. Nó xách ông đi về phía ấy, quả nhiên chẳng bao lâu thấy một dòng suối nhỏ lẩn trong các bụi cây cành lá rậm rạp.
Dòng nước trong veo đổ lên những viên sỏi tròn, trắng phau, đến một chỗ phẳng chảy tràn ra thành vũng. Mặt nước long lanh in màu nền trời xanh bạc, trong và sáng vô cùng, đẹp hơn cả nền trời chính thức ở trên kia.
Giang để ống tre sang bên. Trước khi múc nước, nó thèm uống một vài ngụm, bèn quỳ gối trên cỏ, chống hai tay, vươn cổ dài ra.
Mặt nước xao động. Bóng những thân cây rung rinh vỡ thành những vệt ngang trên tấm gương sáng. Bên cạnh những thân cây ấy, một hình ảnh khiến Giang trông thấy, giật mình tưởng đó là ảo ảnh.
Vì bóng người đứng bên gốc cây chính là Thạch Đạt Lang, sư phụ nó. Giang dụi mắt ngẩng nhìn sang bên kia vũng nước. Quả nhiên thầy nó đứng đấy, nửa thân trên bị bóng cây che khuất, nhưng cái dáng hiên ngang cao lớn, đôi giày cỏ thầy nó đi, sợi dây da buộc bên ngoài xà cạp màu chàm, Giang không thể nào lầm được. Giang hét lên một tiếng mừng rỡ:
– Thầy !
Nước bắn tung tóe ra xung quanh. Chỉ ba bước, Giang đã nhảy sang bờ bên kia, rơi vào vòng tay mở rộng của sư phụ.
– Thầy ! Thầy đến bao giờ thế ?
Thạch Đạt Lang ghì chặt đồ đệ vào lòng:
– Khẽ chứ con ! Chỗ này nguy hiểm, chớ nên để lộ tung tích của ta.
Giang hạ thấp giọng:
– Sao thầy biết con ở đây ?
– Nghe tiếng con, ta biết. Ta đợi con mới được một lúc. Mang nước về cho Oa Tử đi.
Giang quay nhìn vũng nước:
– Nước đục mất rồi, múc sao được nữa.
Thạch Đạt Lang tháo ống tre bên hông đưa cho thằng bé:
– Con mang nước này về để nàng uống.
Giang giơ tay định cầm, nhưng vội rụt ngay lại:
– Không ! Thầy mang đến cho cô ấy !
Hai thầy trò nhìn nhau. Một lúc, Thạch Đạt Lang vỗ vai Giang, trong cái vỗ vai ấy dường như có sự thông cảm và thân mật khác thường:
– Nào thì đi ! Chắc nàng mong chúng ta lắm.
Oa Tử nằm thiêm thiếp bên đường, tay áo kimono trắng mở rộng như cánh con chim câu bị tên bất động nằm trên cỏ. Thạch Đạt Lang quỳ xuống, quàng tay nâng đầu nàng lên đặt trên đùi mình rồi dịu dàng kề ống nước đến gần đôi môi tái nhợt và mím chặt của Oa Tử. Hắn khẽ gọi, giọng run run vì xúc động:
– Oa Tử ! Hãy tỉnh dậy ! Nước đây !
Đôi mắt Oa Tử hé mở. Nàng uống thong thả từng ngụm nhỏ. Nước mát khiến nàng rùng mình nhưng cũng làm nàng dễ chịu hơn trước. Giang quỳ gối bên hai người, nói:
– Cô Oa Tử ! Thầy em đấy ! Thầy em đương cho uống nước chứ không phải em đâu! Thạch Đạt Lang đấy, cô có biết không ?
Trên đôi mắt lạc thần, giờ đây đã thấy có chút sinh khí. Hai giọt lệ long lanh trên khóe mắt chảy dài xuống đôi má gầy. Nàng khẽ gật đầu xác nhận.
Giang mừng rỡ vô cùng:
– Thầy ! Cô Oa Tử nhớ thầy hết sức. Cô bỏ cả ăn cả ngủ, nhất định đòi đi gặp thầy, con khuyên can thế nào cũng không nổi. Thầy bảo cô ấy đi chứ con không thể nào làm được nữa.
– Lỗi tại ta. Để ta khuyên nàng. Bây giờ con hãy đi chỗ khác chơi một lát để ta nói chuyện với Oa Tử, được không ?
– Sao vậy thầy ? Con ngồi đây không được à ?
Oa Tử đưa mắt nhìn Giang. Nhìn ánh mắt cầu khẩn ấy, lòng Giang mềm hẳn lại.
Đối với thầy, đôi khi Giang còn tỏ ra bướng bỉnh ; nhưng với Oa Tử, nó không bao giờ từ chối nàng điều gì, ngay cả điều nó không hiểu rõ.
Giang chống tay đứng dậy:
– Vậy con ra ngoài mỏm đá đằng kia, khi nào thầy nói chuyện xong thì gọi con.
Thằng bé đi rồi, cả hai cùng cảm thấy bẽn lẽn và bối rối. Oa Tử mệt nhọc dựa lưng vào gốc cây, mắt e thẹn nhìn xuống đất. Nàng vốn nhút nhát, cơn bệnh lại càng tăng thêm tính nhút nhát cố hữu ấy. Thấy Oa Tử không tỏ ra thân mật, Thạch Đạt Lang ngượng, quay mặt lên nhìn trời. Hắn không biết nói gì và cũng không biết bắt đầu ra sao nữa. Từ sau cái đêm mưa gió, Oa Tử một mình trèo lên cây đại bách ở sân chùa Tiểu Sơn giải thoát cho hắn, Thạch Đạt Lang đã lờ mờ hiểu nàng yêu hắn. Mối tình u uẩn đó ấp ủ trong năm năm qua ngày càng bền chặt khiến hắn không thể nào không biết và không đáp lại. Trong nhiều đêm dài trằn trọc, cô đơn ở thạch thất cũng như ở những ven đồi hoang vắng, Thạch Đạt Lang đã phải nén lòng mình, chôn vùi mối tình nồng nhiệt sau bộ mặt lạnh lùng.
Nhiều phen hắn tự dối lòng và tỏ ra lãnh đạm với Oa Tử. Con đường hắn đi còn dài và còn nhiều gian khổ phải khắc phục. Nhưng giờ đây, trăng tà, trời sắp sáng. Chẳng bao lâu nữa vầng nguyệt kia sẽ không còn trên trời cao, cũng như đời hắn chẳng biết sẽ ra sao sau khi cuộc chiến kết thúc. Trong những giờ khắc ngắn ngủi còn lại này trên dương thế, hắn thấy có bổn phận phải nói rõ điều ấy cho Oa Tử biết để đáp lại tấm lòng kiên trinh chung thủy của nàng.
Nhưng Thạch Đạt Lang nghẹn lời. Muốn nói, hắn không đủ tiếng để diễn tả và chẳng biết bắt đầu thế nào cho hợp cảnh.
Oa Tử thì chỉ biết khóc. Tình yêu đốt cháy tâm can nàng. Tất cả những gì xã hội thường gọi là nhân luân, đạo đức, tôn giáo, tự ái …đối với nàng đều vô nghĩa. Trước mãnh lực ghê gớm của mối tình nàng đối với Thạch Đạt Lang, Oa Tử tưởng có thể bỏ hết hay chết vì nó được. Thế mà bây giờ đây, trước mặt người nàng hằng mong nhớ đến thành bệnh hoạn, Oa Tử bất lực chẳng nói được lời nào. Nàng để mặc nước mắt tuôn trào. Nước mắt yêu thương, vui mừng hay phẫn hận ?
Một đàn ngỗng bay ngang, tiếng kêu từ trên tường không vọng xuống. Đêm sắp tàn, đàn chim xoải cách bay về rặng núi ở chân trời, tiếng kêu mỗi lúc một xa …Thạch Đạt Lang buột miệng:
– Đàn ngỗng ấy thiên di về phương bắc.
Nói xong, thấy lời nói của mình nhạt nhẽo, hắn cúi xuống nhìn Oa Tử. Bỗng gặp trong ánh mắt nàng một niềm thông cảm và âu yếm vô hạn. Cả hai cùng nhớ đến những kỷ niệm xưa ở quê cũ, khi Thạch Đạt Lang với Mãn Hà Chí còn là những thanh niên mới lớn và Oa Tử ở chùa Tiểu Sơn, mỗi khi xuân về, thường cùng đứng nhìn theo những đàn ngỗng trời thiên di về phương bắc.
Cả hai cùng để lòng hướng về ngôi làng cũ nghèo nàn vùng Miyamoto, có chùa Tiểu Sơn nhỏ bé, hai bên bờ sông Yoshino cúc dại nở đầy và mỗi khi sắp sang đông, gió bấc thổi làm rung động những cánh hoa cải vàng lấm tấm như những cánh bướm non.
Oa Tử nói khẽ, tựa thì thầm:
– Chúng ta đã để mất nhiều thì giờ quý báu. Thật tiếc !
– Ừ, thật tiếc. Nàng có hối đã bỏ làng đi không ?
– Không. Chẳng bao giờ thiếp hối điều ấy.
– Giang nói nàng ốm nặng lắm phải không ?
– Cũng không nặng lắm. Xin chàng đừng quan tâm đến sức khỏe thiếp.
– Bây giờ nàng đỡ chưa ?
– Khá hơn trước nhiều. Phải chăng bây giờ chàng sắp giao chiến với phái Hoa Sơn?
Có gì nguy hiểm đến tính mạng không ?
– Sợ cũng có thể nguy đến tính mạng.
– Nếu chàng có mệnh hệ nào, thiếp không thể sống được !
Ánh mắt Oa Tử long lanh, cả quyết. Lòng tự tin và quyết tâm ấy khiến Thạch Đạt Lang ngạc nhiên và thẹn với mình, vì đã lâu nay, sống chết làm hắn phân vân và hoang mang lắm. Bao nhiêu suy tư vẫn chưa mang lại cho hắn một dứt khoát. Trên đường hành đạo, trong nhiều trường hợp, hắn không phân định được lúc nào phải chết và lúc nào đáng chết. Trong khi ấy, một thiếu nữ yếu đuối như Oa Tử, không được huấn luyện và không có công phu hàm dưỡng gì đặc biệt, lại có thể sẵn sàng chấp nhận cái chết để được toại ý, bình thản và không do dự. Thạch Đạt Lang không ngờ người thiếu nữ yếu đuối kia có sức mạnh tinh thần đáng sợ đến thế !
– Đừng nói bậy ! Vì lý do gì nàng chết ? Ta vì danh dự một kiếm sĩ mà phải chiến đấu với phái Hoa Sơn. Ta đã chọn con đường ấy tất không thể lui bước. Nhưng nàng ?
Nàng chết vô ích, có lợi gì cho ai và giải quyết được gì ?
Sự bất bình của Thạch Đạt Lang nổ ra đột ngột và thành thực khiến chính hắn cũng phải kinh ngạc. Nhìn Oa Tử ôm mặt khóc, hắn hối hận đã quá lời.
– Oa Tử ! Nàng không hiểu lòng ta. Ta rất xúc động và cảm ơn nàng đã dành cho ta một mối tình đằm thắm và sâu xa như thế. Nhưng quả tình, nàng chết theo ta thật vô lý. Cho đến nay, dù ta đã lừa dối lòng mình nhiều lần nhưng chưa bao giờ lừa dối nàng, cả khi nàng dắt ta chạy trốn.
Oa Tử ! Mai đây, khi trời sáng, có thể ta chỉ còn là cái xác không hồn. Những giờ khắc này ở bên Oa Tử có thể là những giây phút cuối cùng trong đời. Ta thú thực đã yêu nàng ngay từ dạo ấy và ở trên cầu Hamada, ta bỏ đi, chẳng phải đã muốn lừa dối nàng mà vì đã tự lừa dối mình đó.
Có những đêm dài trăn trở, nghĩ đến Oa Tử, lòng đam mê và thương nhớ nổi dậy, ta đã muốn bỏ ngay tất cả, sẵn sàng đi tìm gặp nàng để cùng nhau sống một cuộc đời bình thường trong hạnh phúc như mọi người …
Oa Tử ngước nhìn Thạch Đạt Lang, nét mặt rạng rỡ, má ửng hồng và đôi môi hé mở như uống những lời ngọt ngào của người yêu.
– Nhưng …
Thạch Đạt Lang quay mặt đi, nhìn về phía khác:
– Nhưng ta không thể. Trong thanh kiếm dựng bên, lòng ta nguội lại và mối cuồng si ấy không còn nữa.
Yên lặng một lát, Thạch Đạt Lang lại tiếp:
– Thanh gươm thức tỉnh ta mỗi khi ta bị những đam mê khác cám dỗ. Oa Tử ! Định mệnh đã an bài như thế, hay phải chính ta đã tự tạo ra điều ấy ? Giữa tình yêu và kiếm đạo, ta phải chọn một. Nhưng chọn điều nào cũng làm lòng ta đau xé. Như ngọn đèn trước gió lung lay, ta đã có lúc ngả về phía này, có lúc nghiêng về phía kia. Oa Tử ! Ta chẳng phải là vĩ nhân mà cũng chẳng là anh hùng …
Thạch Đạt Lang dừng lại. Muốn nói thêm nhưng sợ lời không hết ý. Trong giờ khắc này, dưới trăng vằng vặc, hắn quyết thổ lộ hết tâm can, vạch trần những điều hắn mơ ước cho người hắn yêu mến.
– Oa Tử ! Đó, con người ta như thế. Khi ta nghĩ đến nàng, ta cũng nghĩ đến thanh kiếm ta mang bên sườn, con đường phải đi. Vỏ kiếm trơn mát, lưỡi kiếm sắc lạnh là lẽ sống của đời ta. Ta có thể chết vì danh dự của kiếm sĩ, nhưng Oa Tử ! Oa Tử ! Ta không thể chết vì một người đàn bà, dù người đó là nàng đi nữa. Ta yêu Oa Tử, nhưng sự thật là như thế, nàng hãy tha lỗi cho ta !
Thạch Đạt Lang cảm thấy bàn tay giá lạnh của Oa Tử bóp chặt tay mình. Lời Oa Tử dịu dàng nhưng cương quyết:
– Thiếp biết rõ điều ấy lắm, nhưng thiếp vẫn yêu chàng như thiếp đã yêu !
– Nhưng nàng không thấy là điên rồ khi phải chết vì ta sao ? Giây phút này, ở bên Oa Tử, ta yêu nàng thành thật; nhưng khi xa nàng, ta sẽ quên mất. Nàng đừng điên rồi mà chết theo một người như vậy. Hãy sống cuộc đời nàng đáng được hưởng, êm đềm trong một gia đình hạnh phúc. Trời sắp sáng rồi, ta phải đi. Oa Tử ! Hãy nhớ những lời ta vừa nói như những lời vĩnh biệt.
Thạch Đạt Lang nhẹ nhàng gỡ tay Oa Tử. Nàng cuống cuồng nắm áo Thạch Đạt Lang, nước mắt ràn rụa:
– Đạt Lang ! Hãy ngồi lại thêm chút nữa.
Oa Tử muốn nói nhiều với người yêu, dàn trải tất cả những nhớ nhung, hy vọng cũng như đau buồn nàng đã trải qua trong suốt mấy năm, nhưng sao nàng bối rối quá, lưỡi líu lại, cổ họng tắc nghẹn; chỉ thấy những giọt lệ theo nhau chảy dài trên má. Mắt ngước nhìn Thạch Đạt Lang, Oa Tử quên hết, lòng tự ái, quá khư cũng như tương lại, nàng chỉ biết có hiện thân của mối tình trước mặt mà nàng phải cố giữ không để cho vuột mất.
Trong đôi mắt cầu khẩn van lơn ấy, có một vẻ gì khiêm nhượng và đẹp một cách lạ kỳ khiến Thạch Đạt Lang vô cùng thương cảm. Lòng hắn mềm hẳn lại nhưng cũng làm hắn lo sợ vô cùng. Hắn có cảm tưởng lòng sùng mộ kiếm đạo của hắn bị lung lay, như một cái cây mọc cạn sắp bị trận gió phũ phàng thổi bật rễ.
Thạch Đạt Lang quay mặt đi tránh ánh mắt mê hồn ấy.
– Oa Tử ! Nàng có hiểu lòng ta không ?
– Thiếp hiểu chứ. Nhưng thiếp vẫn tin nếu chàng chết, thiếp sẽ không sống nổi.
Cái chết có ý nghĩa đối với chàng thế nào thì đối với thiếp, nó cũng có ý nghĩa như thế.
Nếu vì danh dự, chàng có thể bình tĩnh rời bỏ cuộc đời này thì thiếp cũng có thể từ bỏ cuộc sống vì không muốn kéo dài đau khổ. Chuyện ấy, thiếp phải quyết định một mình, không ai giúp được, kể cả chàng.
Giọng Oa Tử trở nên vững mạnh. Nàng thôi khóc, và với một vẻ bình tĩnh lạ lùng, nàng nói tiếp:
– Đạt Lang ! Nếu trong thâm tâm chàng đã coi thiếp là vị hôn thê thì điều đó cũng đủ làm thiếp mãn nguyện. Chàng đã nói không muốn cho thiếp đau khổ, vậy đừng khuyên thiếp ở lại một mình. Ngày nào chàng đi sang bên kia thế giới mà thiếp được theo chân thì đó là ngày thiếp sung sướng vô hạn, một ngày tưng bừng của thiếp, có chim hót, có bướm bay. Đó là ngày vu quy của thiếp vì thiếp được sum họp với chàng.
Nói một hơi, dường như mệt nhọc, Oa Tử dựa đầu lên ngực người yêu thở hổn hển, nét mặt rạng rỡ.
Trăng lụn dần. Trời chưa sáng nhưng sương đêm đã bắt đầu tan, chỉ còn quanh quất trong những bụi cây và trên mặt cỏ ẩm ướt.
Thình lình một tiếng thét kinh sợ vang lên trong sự vắng lặng của đêm tàn. Oa Tử giật mình. Thạch Đạt Lang hối hả đứng dậy cầm tay nàng:
– Oa Tử ! Ta phải đi. Đừng phí cuộc đời vào những nỗi buồn vô ích. Ta hiểu lòng nàng lắm, nhưng ta đã chọn đường đi. Ngày hôm nay hay mai sau, thân thể ta có thể thành cát bụi nhưng hồn ta còn mãi, trăm năm, ngàn năm trong lòng dân tộc.
Oa Tử run run nắm tay người yêu lần chót. Nàng muốn chạy theo nhưng không đủ sức. Gục ở bên đường, mắt hoen lệ nhìn những bước đi vội vã của Thạch Đạt Lang, Oa Tử tưởng có thể hét to đến xé lồng ngực để mong vơi bớt nỗi bi thương, nhưng sao không một tiếng nào thoát ra khỏi cổ.
Nàng cúi đầu. Bóng nàng câm lặng tựa phiến đá.
Giang từ trên đồi cao chạy xuống, tay còn cầm chiếc mặt nạ. Sỏi đá theo chân nó đổ rào rào. Nhìn bóng Oa Tử yên lặng bên đường, nó hét:
– Cô Oa Tử ! Cô có sao không ?
– Không. Cô không sao em ạ !
Nghe tiếng Oa Tử đáp, Giang yên lòng đến gần.
– Thầy em đâu ?
– Thầy em đi rồi. Tiếng ai vừa hét thế ?
– Em không biết. Em đang đeo cái mặt nạ này ngồi ngắm trăng thì có tiếng sột soạt đằng sau. Tưởng là chồn cáo gì đó em quay lại, bỗng nghe tiếng thét kinh hãi như tiếng người vừa gặp quỷ. Họ tưởng em là quỷ hay họ là ma hiện hồn hả cô ?
Chương 47: Gốc cổ tùng
Thạch Đạt Lang rảo bước trên sườn núi. Trời đã gần sáng. Vầng trăng trên đầu hắn như đuổi sau lưng, lúc ẩn lúc hiện lấp loáng sau những tàng cây ẩm ướt.
Vài con vạc đi ăn đêm về buông tiếng kêu rời rạc khô khan.
Mồ hôi trên trán vã ra. Mỗi khi có cơn gió, Thạch Đạt Lang cảm thấy mát rượi.
Hắn bước vội thêm. Từ triền núi nhìn xuống, lờ mờ hiện ra một mái đền. Thạch Đạt Lang tự nhủ:
“Có lẽ đã gần đến ngã ba. Chỗ này xưa kia là bãi chiến trường, đền này hẳn được dựng riêng thờ những linh hồn oan khuất”. Ý niệm về cái chết lại lởn vởn trong trí. Hắn ngẩng mặt nhìn trời cao. Một đám mây đen che kín mặt trăng, rìa đám mây viền ngân nhũ óng ánh. Thạch Đạt Lang thở mạnh. Không biết hắn vừa thở ra hay hít vào, nhưng tiếng thở dài như xua đi những ý tưởng hắc ám làm hắn dễ chịu hơn. Lát nữa đây, có thể linh hồn hắn sẽ theo đám mây kia bay về cõi hư vô. Trong vũ trụ, cái chết của một người cũng chỉ như cái chết của con bướm, chẳng quan trọng gì, nhưng đối với nhân thế, có khi có những cái chết ảnh hưởng sâu xa đến những người còn lại, tốt cũng như xấu. Là kiếm sĩ, hắn sẽ đem hết khả năng để bảo toàn mạng sống, nhưng nếu phải chết, hắn sẽ chết đĩnh đạt và xứng đáng.
Có tiếng ai gọi văng vẳng từ xa. Oa Tử hay Giang ? Không lẽ hai người đó lại không biết hắn đang ở trong một hoàn cảnh cần phải hết sức thận trọng và kín đáo. Hay đó chỉ là ảo giác ? Hắn hy vọng như thế nhưng không thể không quay nhìn lại phía sau sợ có người theo dõi.
Tiếng nước suối róc rách chảy trong khe đá. Thạch Đạt Lang chợt thấy khát. Hắn đến bên suối, quỳ xuống, bụm tay múc uống rồi vã nước lên mặt. Vị ngọt mát và hơi the của nước suối lạnh khiến Thạch Đạt Lang tự biết mình vẫn tỉnh táo và bình tĩnh. Thạch Đạt Lang giận đã có những ý nghĩ mềm yếu lẩn quẩn trong vòng tình cảm tầm thường.
Câu danh ngôn “thắng ngoại địch thì dễ, thắng bản thân mới khó” chẳng biết đọc được ở đâu làm hắn suy nghĩ và hổ thẹn.
Thạch Đạt Lang tháo ống tre múc đầy nước. Trời sắp sáng. Nếu cứ chần chờ mãi, e mất yếu tố thuận lợi. Trường hợp hắn bây giờ, một mình phải đương đầu hàng bao nhiêu người với đủ loại vũ khí, thời điểm lý tưởng là lúc trăng vừa lặn. Hắn sẽ lợi dụng điểm này, bất ngờ xông vào như ngọn cuồng phong, chém giết càng nhiều càng tốt rồi rút ngay trước khi trời rạng sáng.
Thạch Đạt Lang cởi áo ngoài, xếp gọn vào đẫy, siết chặt thêm bộ áo chẽn mới may cho bó sát vào người, chỉnh lại quai dép rồi đứng dậy hối hả cất bước.
Dưới ánh trăng lu, trên nền rừng đen sẫm, một vệt dài như dải lụa trắng hiện ra, ngoằn ngoèo, nhiều chỗ lờ mờ dười màn sương lãng đãng. Không thể lầm được, đó là một trong những sơn đạo đi Quan Lĩnh. Đồi Sinh Minh tất ở dưới kia, chỉ cách chỗ Thạch Đạt Lang đứng chừng vài chục trượng. Tuy chưa nhìn thấy gốc cây tùng già nhưng hắn đã mường tượng tàn lá xum xuê của nó run rẩy. Gió lạnh từ trên núi đổ xuống, kéo theo nhiều vạt sương trắng đục, quyện vào những bụi cây ven đường như khói. Tiếng tre già kẽo kẹt. Thạch Đạt Lang đi nhanh, thận trọng từng bước. Hắn đang ở trong khu vực của tử thần, gây tiếng động vô ích có thể làm hỏng kế hoạch đã toan tính.
Gặp chỗ bụi gai cản lối, Thạch Đạt Lang nằm sát xuống đất trườn mình đi như một con rắn, mười đầu ngón tay bám chắc lên những mảnh đá trơn trượt.
Thấy bức tường đất chắn ngang, Thạch Đạt Lang khựng lại, phân vân. Hắn lắng tai một chút không thấy gì khả nghi, bèn quyết định trèo qua. Êm và nhanh như sóc chuyền cành, chỉ một thoáng, Thạch Đạt Lang đã ở bên kia tường.
Thì ra đây là khuôn viên một ngôi cổ miếu hoang phế. Chỗ hắn đứng chắc trước kia là một cái sân rộng, bây giờ bụi gai và cỏ dại mọc đầy, khuất sau những bụi gai, ẩn hiện một cây đèn đá và căn miếu nhỏ, cửa gỗ im lìm.
Thạch Đạt Lang không biết miếu thờ ai nhưng bỗng cảm thông với người đã khuất.
Tiến đến gần khung cửa gỗ nhìn lên, dưới ánh sáng mờ của vầng trăng sắp lụn, ba chữ Tử Sĩ Miếu bất giác làm hắn xúc động và bi thương vô hạn. Chỉ trong thời gian ngắn nữa, biết đâu hắn chẳng thành người thiên cổ, linh hồn sẽ quanh quất nơi đây nghìn năm hiu quạnh như vong linh các tử sĩ vô danh trong miếu này. Ý nghĩ ấy làm Thạch Đạt Lang gần gũi hơn với những người đã khuất, những người tuy không biết danh tính mà hắn đã coi như bạn. Hắn nảy ý định muốn nhân cơ hội này cầu xin họ phù hộ.
Thạch Đạt Lang tiến đến bên bồn đựng nước mưa bằng đá ở cạnh cửa, bụm tay múc nước súc miệng rồi theo tục lệ, vẩy nước lên chuôi kiếm và quai dép để tẩy trần và tỏ lòng thành kính. Đoạn giơ tay toan kéo sợi dây chuông thỉnh các vong hồn về chứng giám trước khi cầu nguyện.
Nhưng hắn vội dừng ngay lại.
“Ta cầu xin điều gì đây ? Cầu xin các vong hồn tử sĩ phù hộ ?”. Thạch Đạt Lang tự hỏi và nhìn sợi dây trừng trừng. Sợi dây thừng cũ lâu ngày đã sẫm màu vì mưa nắng đong đưa trước mặt hắn như mời gọi. Hắn lắc đầu bối rối. Chỉ mới đêm qua, và cả sáng nay nữa, hắn đã tuân theo số mệnh, tự nhủ luôn luôn sẵn sàng chấp nhận cái chết trong danh dự với lòng tự tin và bình tĩnh. Thế mà lúc này hắn bắt gặp mình đang sửa soạn cầu xin một sức mạnh thiêng liêng nào đó che chở.
“Ta điên rồi ! Sao ta lại có những ý định mâu thuẫn như thế ? Chẳng hóa ra công phu luyện tập của ta mấy năm nay không mang lại kết quả gì sao ? Ta tưởng đạt được phần nào chân tướng của kiếm đạo nhưng ta vẫn còn hy vọng hão huyền. Ảo tưởng nào đã xui ta còn vương vấn với cuộc sống như kẻ sắp chết đuối bám vào một cánh bèo ? Oa Tử chăng ? Chị ta chăng ? Hay những lạc thú trên đời này ?”.
Thạch Đạt Lang cau mày phẫn nộ. Hắn không ngờ đã có thái độ chủ bại vài khắc trước cuộc chiến sinh tử và quên rằng người kiếm sĩ chỉ có cái chết là bạn đồng hành chứ không thể có thần linh nào trợ giúp được. Và cái chết phải là tuyệt đích của người cầm kiếm ! Thạch Đạt Lang vã nước lạnh vào mặt như hắn đã làm trước kia ở thạch thất mỗi khi tinh thần dao động.
Trừng trừng nhìn ba chữ Tử Sĩ Miếu, Thạch Đạt Lang đột nhiên tỉnh ngộ. Phải rồi !
Cái chết phải là tuyệt đích của người cầm kiếm. Hắn thấy sảng khoái vô cùng, tự tin vô cùng. Không ngờ khi ý thức được sự thất bại tinh thần của mình, hắn đã vượt qua, chế ngự được nó.
Cuộc chiến chưa bắt đầu. Sự thử thách còn nguyên vẹn, sao hắn đã có những tư tưởng khiếp nhược ? Thạch Đạt Lang không kéo chuông, không cầu nguyện nữa. Nghiêm trang chắp tay cúi đầu trước cửa miếu, hắn tạ Ơn vong linh các tử sĩ đã chỉ cho hắn con đường phải theo rồi lui bước.
Ra khỏi khuôn viên ngôi miếu cổ, Thạch Đạt Lang đổ dốc như chạy. Sỏi đá rào rạo dưới chân, hắn đi nhanh cho kịp lúc trăng lặn. Khi nhìn thấy tán cây tùng già bên dưới, thấp hơn chừng vài trượng, Thạch Đạt Lang bỏ đường mòn lẩn vào bụi.
Sương trên triền núi chưa tan, nhưng khu đất hoang quanh gốc cổ tùng đã quang đãng. Từ phía sau mỏm đá nhìn xuông, Thạch Đạt Lang thấy ngồi lẩn trong những cành cây thấp bóng một người mang súng. Hắn thương hại cho Hoa Sơn, một kiếm phái trước đây danh tiếng nhường ấy mà nay sa sút quá đỗi, phải dùng ám khí đối phó với một kiếm sĩ đơn độc như hắn. Trong trận sinh tử này, môn phái Hoa Sơn chắc không nề mất thanh danh, quyết tâm giết hắn. Và không phải chỉ có một kẻ dùng hỏa khí, chắc còn nhiều tay cung nỏ nữa ẩn nấp đâu đó. Hắn cần phải thận trọng đề phòng hơn nữa.
Thạch Đạt Lang thắt chặt khăn buộc tóc, cử động các ngón tay. Dưới lớp da thuộc mềm của chiếc bao tay cũ, những ngón tay hắn co duỗi dễ dàng, thoải mái. Hắn thử rút kiếm:
lưỡi kiếm nhẹ nhàng tuột khỏi bao, trơn tru không một tiếng động.
Gần sáng, sương lạnh buốt như kim châm nhưng trong lần áo chẽn, da Thạch Đạt Lang nóng bỏng. Máu hai bên thái dương rần rật, hắn vận khí cho huyết mạch điều hòa, cố kềm chế nội lực sung mãn trong mình đang tìm cách tuôn ra ào ào như thác lũ.
“Cường bất khiển tắc nhược”, lời khuyên của Ngộ Không, vị cao tăng tại chùa Quang Minh ngày nào văng vẳng bên tai. Thạch Đạt Lang hít một hơi dài, giữ cho lòng thật bình tĩnh trước khi lâm trận.
Rồi như một con mãnh thú sắp vồ mồi, hắn bò chậm chạp đến bên tảng đá lớn gần ngọn cổ tùng, thu hình trong bóng tối chờ trăng lặn.
Thạch Đạt Lang có một lợi điểm:
các địch thủ hắn đều quay lưng vào sườn núi.
Chúng chỉ nhìn ra phía ngã ba đường và mai phục ở những nơi hiểm địa dẫn đến ngã ba, tuyệt nhiên không ngờ và cũng không tin Thạch Đạt Lang có thể xuất hiện ngay trên đầu chúng.
Trời tối thình lình:
trăng vừa khuất sau triền núi. Những bụi cây rừng đen sẫm hơn.
Cả khu đồi Sinh Minh như tắm trong bầu không khí mờ ảo, tranh sáng tranh tối; nếu không dự bị trước, mắt người khó điều tiết để kịp ứng phó.
Nhanh như cắt, Thạch Đạt Lang nhảy xuống, rút kiếm. Sỏi đá đổ rào rào cùng với tiếng thét xé toang màn đêm tịch mịch.
– Nó đấy !
– Đâu ?
– Phía sau …
Đệ tử Hoa Sơn cầm hỏa khí ngồi trên cây vừa kịp quay lại thì cánh tay trái Thạch Đạt Lang đã vung lên theo hình vòng cung. Liền sau đó nghe một tiếng rú đau đớn. Lửa nháng trong đêm tối, mùi thuốc súng khét lẹt. Thân người đổ xuống kéo theo những cành thông gẫy răng rắc.
Hòn đá do Thạch Đạt Lang ném ra nhanh và chính xác đến độ không ai tưởng hắn còn cách xa gốc cây đến chục bộ mà đã giết được một người. Sự hỗn loạn sau đó thật cùng cực. Đồ chúng Hoa Sơn từ trong các chỗ nấp xông ra kêu ơi ới. Gươm, giáo, đao, côn, móc, chùy …đủ loại vũ khí tua tủa như lông nhím.
Trong màn đem đen như mực loãng, những bóng người chạy ngang dọc va chạm vào nhau, gọi tên Thạch Đạt Lang chửi bới om sòm và hô hoán chớ để hắn thoát. Nhưng không ai biết Thạch Đạt Lang đứng đâu và tại sao hắn lại có mặt ở ngay bên gốc thông mà không qua ba đường sơn đạo.
Giữa cảnh hỗn loạn, bỗng nghe tiếng sang sảng:
– Ta là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto …
Mọi người khựng lại, quay nhìn về phía tiếng nói:
– Ta đến theo lời giao ước tại xóm Liễu. Truyền nhân Hoa Sơn, hãy cẩn thận ! Ta đi một mình, các ngươi muốn giao đấu từng người hay cả phái, ta bất chấp …
Đồ chúng Hoa Sơn ngạc nhiên, không ngờ Thạch Đạt Lang liều lĩnh đến thế. Lời thách thức của hắn quả nhiên hợp cách. Nhưng sự ngạc nhiên của họ không lâu. Thạch Đạt Lang vừa dứt lời, hai mũi tên đã bay vụt về phía hắn. Kiếm vung lên. Những mũi tên bị gãy đôi, bắn tung rớt xuống đất.
Tiếng thét xung trận của môn đệ Hoa Sơn vang lên như sấm động. Tuệ Tâm run cầm cập chạy đến nép sát vào gốc thông già, vạt áo trắng lộ ra trong đêm tối.
– Thân phụ ! Thân phụ !
Tiếng kêu sợ hãi của cậu bé khiến Hoa Sơn Cảnh Môn hoảng hốt. Ông sực nghĩ ra chỗ sơ hở của mình, chạy đến bên con nhưng không kịp nữa. Bóng Thạch Đạt Lang đã sà đến trước. Ánh thép lóe lên chém vẹt lớp vỏ thông cùng với thủ cấp của tân chưởng môn Hoa Sơn lăn lông lốc trên mặt đất.
Cảnh Môn tái mặt, rống lên như chính ông vừa bị thương, tiếng kêu đau đớn xé ruột. Ông phóng kiếm vào ngực Thạch Đạt Lang:
– Súc sinh ! Mày nỡ tàn nhẫn …
Lời Cảnh Môn chưa dứt, đường kiếm Thạch Đạt Lang thuận chiều đã hớt ngược lên, tiện đứt luôn cánh tay phải và nửa mặt của ông. Cảnh Môn phục xuống, máu phun như tưới vào áo Thạch Đạt Lang. Đồ chúng Hoa Sơn la hét vang rền, vừa kinh hãi vừa phẫn nộ, nhất tề xông vào, giáo đâm, đao chém, côn phạt không còn kể gì chiêu thức và lề lối võ lâm nữa.
Nhìn cuộc giao tranh mới thấy Thạch Đạt Lang ghê gớm. Bị bao vây, hắn không tỏ vẻ gì luống cuống, trái lại như hổ dữ giữa đàn dê, một mình một kiếm tung hoành, ánh thép của hắn loang loáng vung đến đâu xác người ngã đến đó, đầu giáo, đầu côn bị tiện đứt rơi lả tả.
– Cung thủ đâu ! Bắn đi ! Bắn đi !
– Đừng bắn. Gần quá, trúng anh em mất !
Một đồ tử Hoa Sơn lẩn ra phía sau Thạch Đạt Lang, dùng trường thương đâm vào lưng hắn. Nghe tiếng vù, mũi thương chưa tới đích, Thạch Đạt Lang đã nghiêng mình tránh kịp, bắt cây thương kéo giật về phía trước. Người cầm thương ngã chúi vào một đệ tử khác. Thuận tay, Thạch Đạt Lang thét một tiếng lớn chém luôn cả hai, kẻ từ bả vai xẻ đến rốn, kẻ mất luôn cánh tay cầm thương, ngã chồng lên nhau giẫy đành đạch. Số còn lại kinh hoảng, đánh dứ vài chiêu rồi nới lỏng vòng vây, kêu gọi đồng bọn dưới chân núi lên tiếp sức.
Gốc cổ tùng ở đó đã lâu ngày, có đến vài thế kỷ. Vỏ thông xù xì, cành thông rậm rạp đã chứng kiến nhiều cuộc giao tranh ghê rợn, kể cả lần triệt thoái đẫm máu của đoàn quân tướng Đông Điền Dã Hạc từ cổ thành Kyoto lên phương bắc và những trận hạ sơn của phái tăng lữ Hồ Phong làm áp lực với hoàng gia; nhưng chưa bao giờ thấy một cuộc tranh sống quyết liệt và dã man như lần này. Không biết có phải mùi máu tanh và xương thịt của người chết đã đổ ra thấm xuống gốc tùng làm cho nó xanh tốt hay không mà nó run lên như được ngửi mùi quen thuộc. Cành cổ tùng xao động rì rào, đổ lên xác kẻ chết và vai người sống những giọt sương mai lạnh buốt.
Thạch Đạt Lang dựa lưng vào gốc tùng. Dưới chân hắn, xác người, cánh tay, mảnh sọ còn dính tóc cùng với những đoạn binh khí gãy lẫn lộn. Áo quần hắn loang lổ những máu, mồ hôi trộn với máu làm ngón tay hắn nhớp nháp.
Thân cây tùng già to đến ba bốn người ôm không xuể là một lá mộc tốt chắn cho hắn phía sau lưng nhưng không phải là chỗ thủ thế lâu dài. Địch thủ có cung tên. Một kẻ dùng hỏa khí đã bị diệt, nhưng biết đâu không còn những tên khác nữa.
Thạch Đạt Lang thấy phương cách hiệu quả hơn hết vẫn là lối đánh xáp lá cà, tìm chỗ nhược của địch tấn công vào, rồi khi vòng vây bị phá vỡ sẽ do lối ấy mà thoát. Sức người có hạn, hắn không thể cứ đơn độc cầm cự với chiến thuật xa luân cho đến khi trời sáng.
Tiếng người ồn ào càng lúc càng gần. Đồ chúng Hoa Sơn dưới chân núi leo lên mỗi lúc một đông, ánh đuốc lập lòe sau những bụi cây thưa lá.
Thạch Đạt Lang giữ vững tay kiếm, mắt như mắt vọ, bao quát khắp vùng đồi trước mặt. Không một ý đồ nào của địch thủ qua được mắt hắn, nhưng trong óc, hắn đương lượng giá sự cường nhược của các địch thủ ở gần.
– Gốc cổ tùng ! Gốc cổ tùng ! Nó đứng đó.
Một tiếng nổ chát chúa. Ánh lửa lóe ra trong đêm tối, tiếp theo là vật gì đụng mạnh vào thân cây kêu đánh “phụp”. Viên đạn hỏa mai ghim vào vỏ cây chỉ cách đầu hắn chừng hơn tấc.
Tóc dựng đứng, thét lên một tiếng ghê rợn, Thạch Đạt Lang như ngọn cuồng phong nhảy đến sát bên một đệ tử Hoa Sơn gần nhất. Gã kinh hoảng, giật lùi né tránh nhưng chậm quá. Lưỡi gươm Thạch Đạt Lang đã đâm suốt qua bụng gã. Rút gươm ra, Thạch Đạt Lang phóng chạy. Tiếng la hét đuổi theo:
– Anh em ! Chớ để nó thoát ! Nó bị thương rồi ! Nó bị thương rồi !
Thực ra Thạch Đạt Lang chưa bị vết thương nào trầm trọng, nhưng dưới ánh sáng vừng đông vừa rạng, trông hắn ghê gớm quá. Máu bê bết khắp mình. Mặt hắn chỗ đỏ chỗ đen nhem nhuốc, chiếc khăn bịt đầu không còn màu vàng nguyên thủy mà đỏ sẫm.
Hắn chạy theo hình chữ chi để tránh đạn và tên, đồ chúng Hoa Sơn tưởng hắn trúng thương, say máu không giữ nổi thăng bằng nữa. Đến ngã ba, gặp toán phục kích đổ lên, toán sau ập tới, như một con thú nguy hiểm bị dồn vào góc rừng, Thạch Đạt Lang gầm lên. Bản năng tự vệ nổi dậy, mắt rực đỏ màu hổ phách, hắn vung kiếm đâm hữu phạt tả, đem hết khả năng bảo toàn sinh mạng.
Thạch Đạt Lang sử dụng kiếm khác hẳn với các kiếm sĩ đương thời. Phần lớn trong kiếm thuật bấy giờ, nếu lưỡi kiếm chém hụt, tất cả uy lực của chiêu kiếm bị mất vào quãng không và người dùng kiếm phải rút kiếm về, bắt đầu một chiêu khác. Dù nhanh đến đâu đi nữa, sự rút kiếm về như vậy cũng mất thời gian và cả uy lực của chiêu kiếm trước coi như mất hết. Thạch Đạt Lang trái lại đã không rút kiếm về. Hắn tiếp tục sử dụng uy lực của chiêu nọ tiếp chiêu kia, liên tu bất tận dù cả khi kiếm trúng đích. Lẽ dĩ nhiên dụng kiếm như thế phải có công lực hết sức dồi dào, lưỡi kiếm sắc bén, chặt xương như gọt khoai vậy. Cho nên trong trận giao tranh hiện nay, đường kiếm của Thạch Đạt Lang như hai vệt sáng đan nhau, hay nói khác đi như hai lá thông nối đầu với nhau vậy. Cách biến chiêu của hắn cũng thần tốc và dũng mãnh lạ kỳ, hắn đã tự phát minh và khai triển khi ở trong rừng nhìn những lá thông cuồn cuộn trong một trận cuồng phong, đâm vào đầu và mặt hắn.
Lối sử kiếm này chẳng theo chiêu thức nào nhất định, không thuộc trường phái nào nên không ai biết và dĩ nhiên chẳng được coi là chính thống. Nhưng chính thống hay không, Thạch Đạt Lang không cần, miễn nó nhanh và hữu hiệu. Quả vậy, trong trường hợp một mình phải chống với số đông, lối sử kiếm của Thạch Đạt Lang thật vô địch.
Đồ chúng Hoa Sơn kể cả những cao thủ của môn phái, không rõ điều đó, cứ lăn xả vào và trở thành mồi ngon cho lưỡi gươm của Thạch Đạt Lang.
Thấy địch thủ quá dũng mãnh, Ưng Đằng, một trong bảy cột trụ còn lại của Hoa Sơn phái, thận trọng hơn, huy động đệ tử dàn thành thế trận. Ông đã có chủ ý:
vô hiệu hóa những đường gươm tàn độc của Thạch Đạt Lang bằng cách dùng trường thương giữ cho hắn ở xa. Dưới ánh sáng của vầng đông càng lúc càng rạng, hắn sẽ trở thành cái bia dễ dàng cho súng hỏa mai và cung nỏ.
Không rõ Thạch Đạt Lang có biết ý ấy không, nhưng hắn đã không rơi vào bẫy.
Đường gươm dũng mãnh của Thạch Đạt Lang rít lên vù vù, tiện đứt đầu các cây thương ở gần, gọn gàng như chém chuối.
Không đầy chớp mắt, hắn đã phạt ngang hạ bàn một đệ tử Hoa Sơn rồi hươi ngược kiếm chém vào ngực Ưng Đằng. Ưng Đằng kịp thời ngửa mình ra sau tránh khỏi, nhưng cũng bị rách áo. Ông phóng chiêu phản kích liền, nhằm vào bụng Thạch Đạt Lang hy vọng hắn sẽ phải thu kiếm về. Không ngờ Thạch Đạt Lang khi chiến đấu, cực kỳ liều lĩnh và vì hắn không học trường phái nào nên chỉ tùy cơ ứng phó. Khi mũi gươm đến gần, Thạch Đạt Lang thót bụng nghiêng mình né tránh rồi xoay người đưa ngược lưỡi kiếm của hắn vào gáy Ưng Đằng. Biến chiêu hết sức mau lẹ và chính xác:
lưỡi kiếm xuyên qua gáy lão cao thủ Hoa Sơn, lòi ra đằng trước đến một tấc. Ưng Đằng không thốt được lời nào, ngã sấp. Thạch Đạt Lang rút kiếm ra, máu tuôn có vòi.
Sự kinh hoàng gần như làm tê liệt những đệ tử còn lại. Nhân cơ hội, Thạch Đạt Lang xông vào chém giết không tiếc tay, mở đường máu nhằm thoát khỏi vòng vây. Xác đồ chúng Hoa Sơn chết nằm la liệt trên đồi cỏ, máu loang thành vũng. Bóng Thạch Đạt Lang vùn vụt chạy xuống dốc khi ẩn khi hiện, nhấp nhô sau những hòn quái thạch hai bên sơn đạo.
Đao, thương phóng theo, tiếng reo hò dậy đất lẫn với những tiếng kêu rên của kẻ sắp chết gây thành cảnh tàn bạo, hỗn độn và bi thương vô tả.
– Thạch Đạt Lang ! Đồ súc sinh hèn nhát !
– Thằng du đãng khốn kiếp kia ! Hãy quay trở lại ! Chúng ta không để mày trốn thoát.
Mặc ! Thạch Đạt Lang cứ chạy. Dường như hắn không lưu ý gì đến những lời nguyền rủa, chỉ mong ra khỏi chỗ nguy hiểm này. Cuộc chiến càng kéo dài càng bất lợi cho hắn.
Về phương đông, trời đã sáng hẳn. Tay hắn nhớp nháp những máu tanh nồng, hắn vừa chạy vừa đổi tay kiếm, lau vào vạt áo ngoài trên đó máu với óc nhuộm loang lổ từng mảng cứng như da trâu và đỏ sẫm.
Thình lình, một toán đệ tử Hoa Sơn có đến hai chục người mặt mũi nhem nhuốc dưới lớp bùn hóa trang, từ chỗ mai phục nhô lên, hò hét. Thạch Đạt Lang đã thấm mệt.
Hắn muốn tránh đám đông giận dữ ấy nhưng không lối thoát. Bên phải là vực sâu, bên trái là vách đá trơ trọi, đằng sau địch quân đuổi gần tới. Những tiếng la “Giết ! Giết !”, tiếng chân rậm rịch dội vào vách đá vang động đồi núi.
Bị dồn vào tuyệt lộ, Thạch Đạt Lang nhất quyết bán đắt sinh mạng. Thần chết là kẻ đồng hành với người kiếm sĩ. Câu ấy đối với hắn không lúc nào có nghĩa hơn lúc này.
Hắn nhảy đến ẩn vào bóng tối một tảng đá lớn.
Khi đồ chúng Hoa Sơn từ trên sườn đồi đổ xuống tiếp sức được với toán ở chân núi chạy lên thì không còn thấy Thạch Đạt Lang đâu nữa.
– Không lý gì thằng súc sinh ấy biến mất. Nó chỉ trốn đâu đây thôi ! Anh em hãy lục tìm cho kỹ.
– Bèn chia nhau thành từng bọn dùng giáo và chĩa ba đâm vào các bụi rậm.
– Thạch Đạt Lang ! Mày ở đâu ? Đồ hèn nhát ! Chuột nhắt !
Vù một cái, một bóng người từ sau tảng đá nhảy ra, như chớp xẹt, lưỡi gươm chém bay đầu một tên cầm giáo.
Cả bọn thất kinh, không thể tưởng tượng Thạch Đạt Lang lại có thể xuất thủ nhanh như thế. Nhưng độc đạo chật hẹp, vực sâu hiểm trở, Thạch Đạt Lang khó thi triển kiếm pháp mà địch thủ của hắn cũng khó lợi dụng số đông áp đảo hắn được.
Như cá lội ngược dòng nước, Thạch Đạt Lang tiến một cách khó khăn. Đường kiếm hắn bây giờ thu nhiều hơn công. Phóng xong một chiêu, trúng hay không hắn cũng lui về thế thủ. Có những đồ tử Hoa Sơn hoặc sơ hở hoặc vụng về để mất thăng bằng, có thể là mồi ngon của Thạch Đạt Lang mà hắn cũng không giết. Phần lớn địch thủ của Thạch Đạt Lang sử dụng trường thương, ước lượng tầm chính xác của mũi gươm thì dễ chứ mũi thương thì khó. Hắn không dám khinh địch.
Thạch Đạt Lang lùi dần, không biết vì chủ ý hay vì mệt mỏi. Hơi thở hắn nhanh, sắc mặt hơi tái. Những đường gươm của hắn cũng không còn uy mãnh như trước.
Đồ chúng Hoa Sơn gia tăng áp lực. Càng lúc số người bao vây Thạch Đạt Lang càng đông, nhưng không ai dám đến gần. Họ mong hắn vấp rễ cây hay tảng đá ngã ra là xông lại.
Dưới chân đồi có tiếng ngựa hí, lừa kêu he he. Dân chúng đã bắt đầu một ngày sinh hoạt mới, thồ vật dụng và nông phẩm từ các làng lân cận đến Cổ Thành đổi bán.
Họ tụ tập đằng xa, thấy đánh nhau, nghểnh mặt nhìn lên vừa kinh hãi vừa tò mò bàn tán.
Chỉ trong mấy khắc giao tranh, hình dáng bề ngoài của Thạch Đạt Lang đã biến đổi. Khăn buộc đầu và tóc hắn bê bết máu, mồ hôi. Quần áo loang lổ bùn đất, máu từng mảng khô đen đóng cứng. Lông mày dựng ngược, mắt đỏ như than hồng, trông chẳng khác gì một con quỷ dữ vừa từ địa ngục trồi lên. Hắn thở hổn hển, thân áo phía trước rách toang để lộ bộ ngực trần phập phồng như thổi bễ.
Trong cơn nguy cấp, Thạch Đạt Lang rút đoản kiếm. Đoản kiếm trong tay trái ngang tầm mắt, trường kiếm trong tay phải chênh chếch dưới bụng. Hắn dùng đoản kiếm phóng ra những hư chiêu để đối phương bối rối rồi dùng trường kiếm đâm tới hoặc phạt ngang. Kết quả không mấy khi không đạt được:
địch thủ thường bị tiện đứt đùi hay bị đâm thủng bụng. Kỹ thuật phối hợp song kiếm này Thạch Đạt Lang về sau có hoàn chỉnh và chú thích rất cặn kẽ trong cuốn Ngũ Đại Kỳ Thư, “cách dùng song kiếm chống số đông khi bị bao vây”, nhưng bây giờ hắn chỉ áp dụng nó vì bản năng tự vệ.
Theo những tiêu chuẩn về kiếm thuật, Thạch Đạt Lang không phải là tay sành kiếm học. Trường phái, truyền thống, hay lý thuyết gì gì …hắn cũng mặc kệ. Trong cuộc giao tranh mà sinh mệnh như ngàn cân treo sợi tóc này, hắn phải chiến đấu một cách thực tiễn. Thắng đã, rồi lý thuyết sau !
Từ dưới chân đồi vẳng lên nhiều tiếng la ó, những câu khích lệ và những lời giục hắn chạy trốn.
– Chạy đi ! Chạy đi ! Chạy không trễ mất ! Trễ là toi mạng.
– Tên kia ! Chiến đấu đơn độc như thế có lợi ích gì ? Chết vô ích !
Những lời ấy theo gió thoảng đưa lên, nhưng Thạch Đạt Lang dường như không nghe thấy. Núi có đổ, trời có sập cũng thế thôi, hắn chẳng quan tâm. Điều hắn quan tâm là một bãi lau hắn vừa thấy ở cách chỗ hắn đứng chừng hơn trượng.
Bãi lau cao hơn đầu người nhiều, trải dài đến tận khe núi bên một khu rừng già, có thể dùng làm đường rút an toàn được. Thạch Đạt Lang múa tít song kiếm. Đồ chúng Hoa Sơn e dè, nới giãn vòng vây. Hắn nhảy lui, tiến tới, giương đông kích tây, cốt làm cho địch nghi ngờ không rõ chủ ý của hắn. Đến gần bãi lau, đột nhiên Thạch Đạt Lang nhảy xuống triền núi nhanh như một con lợn rừng tháo chạy.
Ba bốn đệ tử Hoa Sơn đuổi theo, phóng thương vùn vụt. Thạch Đạt Lang vẫn chạy như bay, chẳng mấy chốc đã lẩn vào bãi lau mất dạng.
Đồ chúng Hoa Sơn đứng trên sơn đạo hô hoán chửi rủa rầm trời.
– Nó còn ở đó ! Anh em, bao vây nó !
– Không ! Nó chạy rồi ! Kia kìa !
Mọi người chỉ trỏ một bóng đen xa xa đang rảo bước bên hàng cây. Không ai biết chắc có phải đấy là Thạch Đạt Lang không và cũng không ai dám nhảy xuống khu rừng lau lục soát để tìm hắn cả.
Trời đã sáng rõ. Một buổi sáng đẹp trời cũng như những buổi sáng khác.
Chương 48: Món lễ vật
Từ hơn trăm năm nay, khu rừng Sinh Minh vẫn là nơi ẩn náu của giáo phái Hồ Phong. Tuy mang danh giáo phái nhưng các tăng sĩ trụ trì, ngoài Phật sự ra, còn có nhiều hoạt động thế tục. Vào hậu bán thế kỷ thứ mười sáu, phái này đã huy động một số lớn tăng sĩ và dân quê xuống núi làm áp lực với hoàng gia đòi quyền lợi về chính trị.
Trấn thủ đương nhiệm Kyoto thời bấy giờ, tướng Ô Đà Thạch Trung Giả, nhận lệnh hoàng cung, đã phản ứng mạnh mẽ và trong một đêm kinh hoàng, ba ngàn đền miếu của giáo phái Hồ Phong bị thiêu rụi gần hết.
Biến cố xảy ra đã bốn thập niên. Ngày nay những ngôi đền của phái Hồ Phong chưa hoàn toàn đổ nát đã được sửa chữa, nhưng kỷ niệm đêm ấy vẫn còn ghi một ấn tượng kinh hoàng trong trí những nhà sư sống sót. Tăng sĩ Hồ Phong bây giờ không còn hoạt động chính trị nữa, tuy nhiên họ vẫn mang nặng mặc cảm bị đàn áp và tự nhiên sinh lòng thương xót những kẻ cô thế.
Trong khu rừng Sinh Minh, trên một ngọn đồi về phía nam có căn chòi gỗ mệnh danh là Khổ Độ Am, nơi tăng nhân Hồ Phong dành cho khách lỡ độ đường tạm trú. Am nhỏ nhưng đủ tiện nghi, trông ra cảnh trí u tịch. Vào những hôm trời u ám, quanh am mây thấp phủ đầy, nhưng trong am vẫn ấm áp vì củi đốt chẳng thiếu và cửa ngõ kín đáo.
Am thường bỏ không. Sáng chiều, cảnh thanh vắng chỉ bị ngắt quãng bởi tiếng chim lảnh lót hay tiếng gió rì rào trong lá trúc.
Nhưng hôm nay sao lại có tiếng niệm Phật văng vẳng đưa ra. Tiếng niệm trầm, giọng đàn ông đọc kinh Liên Hoa, trước nhỏ sau to rồi lại nhỏ dần, dường như người niệm đang trong cơn mê giật mình sực tỉnh. Mãi đến khi một chú tiểu bước vào, tiếng niệm kinh mới dứt.
Chú tiểu bưng cái khay trên để liễn cơm, đĩa rau cùng bát đũa. Khay cơm đạm bạc thường thấy dọn ra hàng ngày vào chính ngọ. Chú để cơm trên bàn, đánh tiếng:
– A di đà Phật !
Người đàn ông dường như không để ý. Hắn ngồi trước quyển kinh trên một cái bồ đoàn trải lên sàn gỗ mộc đen bóng, quay mặt vào tường như một nhà tu đang nhập định.
Tấm áo rộng màu tro nhạt khoác trên mình, trông tưởng là tăng nhân, nhưng hắn không có cái vẻ khắc khổ của kẻ tu hành. Trái lại, với vóc dáng cao lớn, tóc buộc gọn trên đỉnh đầu, hắn có phong thái của một giang hồ kiếm sĩ. Không thấy người đàn ông trả lời, chú tiểu nói thêm:
– A di đà Phật ! Mời thí chủ dùng cơm.
Thạch Đạt Lang, người đó chính là Thạch Đạt Lang, quay ra mỉm cười, hàm răng trắng bóng dưới làn da nâu sạm nắng:
– Cám ơn chú. Đã đến giờ ngọ rồi đấy !
– Thí chủ dùng cơm ngay chứ ?
– Phải, chú để đấy cho ta.
Trong khi Thạch Đạt Lang ăn cơm, chú tiểu nhìn quanh quẩn. Thấy gần chỗ Thạch Đạt Lang ngồi có nhiều vỏ gỗ bạch đàn vương vãi, chú hỏi:
– Thí chủ tạc tượng phải không ? Tượng gì thế ?
– Tượng Phật.
– Đức Phật Di Đà ?
– Kiếm. Ta muốn tạc tượng đức Phật Bà Quan Âm nhưng không kinh nghiệm nên chẳng biết bắt đầu ra sao. Còn vụng lắm. Chưa ra hình thù gì đã đứt tay rồi.
Nói đoạn, chìa tay ra cho chú tiểu xem.
Nhưng chú tiểu không nhìn chỗ tay đứt mà lại để ý đến cánh tay buộc vải của hắn.
– Vết thương thí chủ ra sao ?
– Đã đỡ nhiều. Chắc mai tháo vải ra được. Nhân thể nhờ chú trính với các vị thủ tòa ta thành thật đa tạ lòng bao dung của các vị.
– Thí chủ cứ ở đây tĩnh dưỡng cho đến khi khỏi hẳn. Nếu thí chủ muốn tạc tượng đức Quán Thế Âm thì phải lên chính điện xem pho tượng ngài ở đó mới được. Đẹp lắm !
Hay để tiểu tăng dẫn thí chủ đi. Cũng gần đây thôi, chỉ cách chỗ này khoảng chừng vài chục trượng.
Thạch Đạt Lang rất mừng, ăn vội bữa cơm, chờ dọn dẹp xong rồi theo chân chú tiểu ra ngoài.
Đã mười ngày nay, Thạch Đạt Lang tá túc ở Khổ Độ Am không bước chân ra cửa, phần vì muốn giữ kín tung tích, phần muốn tĩnh dưỡng cho bình phụ hẳn. Vết thương ở tay không lấy gì làm nặng nhưng hắn bị một vết giáo đâm vào đùi khá sâu. Trong lúc say máu, Thạch Đạt Lang không biết, mãi khi tới chùa mới rõ.
Nhờ lòng trắc ẩn và bao dung của các tăng lữ Hồ Phong, hắn được săn sóc chu đáo và cho trú ngụ tại am này. Tuy vết thương ở tay và đùi đã lên da non, nhưng Thạch Đạt Lang đi đứng vẫn còn ngượng. Hắn phải lấy bao kiếm dùng làm gậy chống tạm.
Không khí trong lành, gió núi nhẹ mơn man. Ngoài vết thương ở chân còn hơi nhức, Thạch Đạt Lang thấy trong mình khỏe khoắn và trận chiến trên đồi Sinh Minh đối với hắn bây giờ chỉ còn là cơn ác mộng.
– Thí chủ học võ phải không ?
– Phải.
– Nếu học võ thì tạc tượng đức Quán Thế Âm làm gì ?
Thạch Đạt Lang lặng thinh.Bồ tát Quán Thế Âm theo sự hiểu biết của hắn là hiện thân của lòng từ bi, trắc ẩn. Nhân dịp được nhàn rỗi, hắn muốn tạc tượng ngài dâng lên Tam Bảo để tỏ lòng biết ơn và cầu siêu cho các vong hồn đã vì hắn mà oan khuất.
Nhưng không tiện trả lời chú tiểu, Thạch Đạt Lang chỉ giữ yên lặng.
– Sao thí chủ không để thì giờ luyện tập võ nghệ ?
Câu hỏi làm Thạch Đạt Lang đau nhói. Tuổi chú tiểu có lẽ cũng bằng tuổi Hoa Sơn Tuệ Tâm, vóc dáng cũng tương tự. Trong cái ngày hôm ấy, bao nhiêu người đã bị thương tật hoặc chết dưới đường gươm của hắn, hắn không biết. Hắn cũng chẳng nhớ đã làm cách nào thoát khỏi vòng vây và sự may mắn kỳ lạ nào đã giúp hắn tránh hết được những lằn tên, đạn. Nhưng có hai điều đã ghi sâu vào tiềm thức Thạch Đạt Lang và cứ lẵng nhẵng theo hắn ngay cả trong giấc ngủ:
ấy là tiếng thét kinh hoàng của Hoa Sơn Tuệ Tâm và cái xác không đầu của cậu bé lăn trên nền cỏ bên gốc thông già dưới chân hắn.
Đã mấy lần Thạch Đạt Lang giở sổ tay, xem lại những điều đã ghi chép từ trước.
Bắt gặp câu:
“không làm gì để rồi phải hối tiếc”, lòng Thạch Đạt Lang se lại. Trong bầu không khí thanh tịnh, an bình của căn am nhỏ, hắn quả đã hối tiếc, và cái chết đau thương của Tuệ Tâm, nếu cho đó là điều cần thiết phải làm trên con đường hắn đã chọn, thì con đường ấy sao mà man rợ và bi thảm !
Thạch Đạt Lang quay hỏi chú tiểu đi bên:
– Này chú, phải chăng chư tăng thuộc quý phái như Vô Trụ và Nhất Quán đại sư đều có vẽ tranh hoặc tạc tượng các vị bồ tát đặt ở chùa ?
– Tiểu tăng không rõ, nhưng nghe nói các vị đã góp rất nhiều vào việc tô tượng và vẽ hình bồ tát. Tiểu tăng nghĩ nếu ta vẽ tranh, đúc tượng Phật càng nhiều bao nhiêu thì càng gần niết bàn bấy nhiêu.
Thạch Đạt Lang mỉm cười:
– Nói thế cũng được. Vẽ hình Phật là cốt để noi theo hầu đạt được tâm cảnh Phật.
Niết bàn chính là tâm cảnh của Phật. Ta học võ công cũng thế, giữ tâm cho ngay đừng mê vọng. Những lời dạy trong kinh sách chỉ ta niết bàn chẳng khác nào ngón tay chỉ mặt trăng. Lời dạy thì nhiều, bảo chúng ta cùng hướng về mặt trăng, chúng ta chớ lầm mặt trăng với hướng tay chỉ.
Thạch Đạt Lang bỗng ngừng lại, thấy mình nói những câu chẳng ra đầu đuôi gì, liếc nhìn chú tiểu đánh trống lảng:
– Cái bia bên hàng cây kia là bia gì đó chú ?
– À, đấy là bia ghi lời tiên tri của một thiền sư đời trước. Thí chủ muốn coi cứ tự tiện.
Đến gần, Thạch Đạt Lang tò mò đọc:
Giới luật nhiệm mầu Như dòng nước cạn Gió hồ lạnh căm Vẫn theo pháp nạn Đọc xong, Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Lời tiên tri thật ứng nghiệm. Sau cái đêm pháp nạn ba nghìn đền miếu ra tro ấy, giáo phái Hồ Phong vẫn còn có kẻ u mê. Một số tăng lữ tiếc nhớ uy quyền cũ thoát ly ra lập chùa riêng, lợi dụng chúng sinh vào những mục đích riêng tư. Thay vì phổ độ họ, những người này đã ngụp lặn trong biển mê vọng và kéo chúng sinh cùng chìm đắm trong biển ấy. Thạch Đạt Lang định hỏi chú tiểu thêm vài câu nữa, bỗng từ xa có một tăng nhân chạy đến:
– Sĩ Niên, sao lâu thế ? Chú đi đâu, sư bác tìm mãi không thấy ?
– Tiểu đệ dẫn thí chủ này lên chính điện chiêm bái đức Quán Thế Âm.
– Lần khác không được sao ? Về ngay gặp sư bác.
Thạch Đạt Lang vội chen lời:
– Xin thứ lỗi. Tại hạ không rõ chú này bận việc. Vậy nhà chùa cứ dẫn chú ấy về, để khi khác tại hạ đi lấy cũng được.
Nhưng tăng sĩ đã quay sang Thạch Đạt Lang:
– Không ! Không phải chỉ có chuyện Sĩ Niên mà thôi. Có người muốn gặp thí chủ trên phương trượng.
– Gặp tại hạ ?
– A di đà Phật ! Bần tăng chẳng muốn làm phiền, nhưng các vị đó cố đòi cho được gặp thí chủ.
Thạch Đạt Lang vội vã theo chân vị tăng.
Bước vào phương trượng, đã thấy mười nhà sư mặc áo đen, thắt khăn nâu, mặt hầm hầm chờ sẵn. Họ cũng là tăng nhân thuộc giáo phái Hồ Phong nhưng đã thoát ly.
Nhìn Thạch Đạt Lang một cách ngạo mạn, họ tự cho mình có quyền thi hành giới pháp và không giấu vẻ mục hạ vô nhân trên nét mặt:
– Ngươi là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto ?
Giọng nói hách dịch, đầy thù nghịch.
– Chính thị. Các vị có điều gì dạy bảo ?
– Chúng ta đến cáo tri cho ngươi biết bản quyết định của Kim Cương Điện. Hãy dỏng ta ra mà nghe đây:
“Cáo tri cho Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto. Núi Hồ Phong là nơi thanh tịnh thiêng liêng, không bao giờ dung dưỡng kẻ gây thù chuốc oán. Lại càng không thể dùng làm chỗ ẩn náu cho những tên du đãng đê hèn hay sinh sự. Bản điện đã điều tra kỹ và ban lệnh này, truyền Thạch Điền Đạt Lang sinh quán làng Miyamoto phải lập tức rời khỏi vùng núi Sinh Minh. Nếu bất tuấn sẽ bị trừng phạt theo đạo pháp, bấy giờ đừng trách”.
Thạch Đạt Lang sững sờ, nhưng cũng lễ phép thưa:
– Tại hạ xin tuân lệnh thủ tòa Kim Cương Điện. Tuy nhiên bây giờ đã quá ngọ và vì chưa chuẩn bị gì, tại hạ xin phép được lưu lại đến sáng mai. Và xin cũng cho biết thêm lệnh này được phát xuất từ đâu ? Tại hạ nhớ kỹ khi đến đây đã trình lên vị thủ tòa và được ưng thuận cho tá túc. Không hiểu sao lại có sự thay đổi như vậy ?
Một nhà sư áo đen đáp:
– Nếu nhà ngươi thực muốn biết thì ta nói rõ cho nghe. Lúc đầu chúng ta cũng thương tình vì ngươi đơn độc chống lại với hàng trăm người, đã tỏ ra khá dũng cảm.
Nhưng sau lại có kẻ đến cho biết ngươi chẳng qua chỉ là một tên vô lại làm nhiều điều càn rỡ cần bị trừng trị nên chúng ta buộc lòng phải xét lại, không thể để ngươi ẩn náu ở đây được !
À ra thế. Thạch Đạt Lang nghĩ. Chắc lại phái Hoa Sơn đấy thôi. Oán cừu chồng chất, phái này hẳn đã đặt điều nói xấu hắn nhiều lắm. Nhưng không biết trong số đệ tử Hoa Sơn còn sống sót, ai đã làm việc vu cáo đê hèn ấy. Dù sao đi nữa, hắn vẫn phải phòng bị. Mối thù quá sâu đậm, không thể khinh xuất.
Thạch Đạt Lang chẳng muốn tự bào chữa, lạnh nhạt đáp:
– Té ra là vậy ! Ngày mai tại hạ sẽ đi sớm.
Rồi quay gót, theo sau là tiếng cười chế giễu và những lời khinh mạn của bọn tăng sĩ áo đen:
– Thế mới biết họ đồn hão. Thằng này tầm thường quá, ra quái gì !
– Trẻ tuổi ngông nghênh.
– Thật xấu lây cả những người cầm kiếm !
Thạch Đạt Lang quay phắt lại, cau mặt:
– Các vị nói gì ?
– Nói gì thì người đã nghe rõ đấy.
– Này, ta bảo cho mà biết, vì tôn trọng quý giáo, ta sẵn sàng tuân lệnh thủ tòa, nhưng nếu các vị buông lời hỗn xược, thanh kiếm này không để yên đâu ! Phải chăng quý vị muốn gây sự ?
Bọn tăng sĩ áo đen đấu dịu:
– Ấy là chúng ta nói thế. Đệ tử nhà Phật không sát sinh, nhưng những kẻ như ngươi cần được giác ngộ. Khi ra khỏi vùng này hãy coi chừng, tiếng đồn về ngươi chẳng có gì đáng hãnh diện.
– Ta chẳng làm điều gì quấy. Khi giao đấu với Hoa Sơn, ta không hề có hành động gì đáng phải hổ thẹn.
– Láo !
– Vậy hành động gì quấy nói ta nghe !
Tiếng cười nhạt:
– Ngươi còn dám hỏi à ?
– Này, ta cảnh cáo, nếu không nói hay nói bậy ta cắt lưỡi.
– Ha ! Được lắm ! Ta chỉ hỏi một câu, một câu thôi ! Chúng ta biết ngươi đã chống trả phái Hoa Sơn dũng mãnh. Nhưng tại sao lại giết một đứa trẻ mới mười ba, không biết võ công gì. Hành động ấy không gọi là dã man, hung tợn thì còn gọi là gì nữa ?
Mặt Thạch Đạt Lang xám lại. Đột nhiên, hắn thấy yếu hẳn trước những lời buộc tội gay gắt ấy. Tăng nhân áo đen nói thêm:
– Sĩ Khánh tàn phế, đã đi tu. Điền Chính cũng bị ngươi giết. Chỉ còn Tuệ Tâm, truyền nhân độc nhất của dòng họ Hoa Sơn, ngươi cũng giết nốt, khiến dòng Hoa Sơn tuyệt diệt. Thật quá ư bất nhân và tàn nhẫn ! Thử nghĩ hành động ấy có đáng gọi là kiếm sĩ không ? Cái dũng của người cầm kiếm không phải chỉ có biết giết người mà còn phải xét xấu tốt, nên hay không chứ ! Nếu không giúp cũng dung tha người yếu đuối. Thạch Đạt Lang ! Ngươi là kẻ tàn bạo, không có lòng trắc ẩn. Chiếu đạo pháp, phương trượng trục xuất ngươi khỏi nơi này !
Thạch Đạt Lang điếng lặng. Những lời trách cứ của bọn tăng sĩ áo đen đúng một phần, nhưng ở địa vị hắn trong trường hợp đặc biệt sáng hôm ấy, hắn đã làm điều phải làm.
Là con người trọng nguyên tắc, Thạch Đạt Lang không thể không giết Tuệ Tâm. Vì phái Hoa Sơn đặt thiếu niên này vào địa vị chưởng môn, Tuệ Tâm không còn là người thường nữa mà là chủ soái của cả môn phái. Chừng nào Tuệ Tâm còn sống, phái Hoa Sơn vẫn còn. Thạch Đạt Lang dù có giết mười, hai mươi đệ tử đi nữa, Hoa Sơn vẫn không mất. Nhưng ngay từ lúc đầu, nếu hạ thủ Tuệ Tâm, đương nhiên trên danh nghĩa, hắn đã tiêu diệt địch thủ. Sau này dù có chết trong đám loạn quân, hắn cũng vẫn là kẻ chiến thắng. Đồ chúng Hoa Sơn không thể viện cớ gì để lật đổ cái thế ấy được. Đó là luật võ lâm và đó là nguyên tắc. Thạch Đạt Lang phải bảo vệ nguyên tắc ấy.
Nhưng hình ảnh hãi hùng của một đứa trẻ cụt đầu nằm lăn trên đất, máu loang thấm ướt cả áo ngoài, cảnh tượng ấy man rợ quá, gây xúc động bi thương cùng cực và để lại trong lòng hắn một niềm ngao ngán không dứt được. Hành động tàn bạo ấy chính hắn cũng thấy ghê tởm. Cho nên Thạch Đạt Lang đứng lặng.
Bọn tăng nhân áo đen bỏ đi đã lâu, Thạch Đạt Lang trở lại Khổ Độ Am, lòng buồn vời vợi. Hắn tự hỏi:
“Chân tướng kiếm đạo ở đâu ? Có thể nào người cầm kiếm phải vứt hết những quan niệm về nhân luân, lòng trắc ẩn, tình yêu thương đi mới mong đạt được hay không ? Để trở thành một vật vô tri vô giác, một hòn đá ?”. Những ý nghĩ chán nản ấy không phải đây là lần đầu tiên hắn có. Nhiều lần trước, sự hoài nghi len lỏi vào tâm tư, Thạch Đạt Lang đã có lúc muốn tung hê tất cả, trở về làng cũ cưới Oa Tử rồi cùng sống với nàng một cuộc đời bình thường như mọi người.
Sống cuộc đời bình thường như mọi người ! Thạch Đạt Lang thở dài liên tưởng đến Hải Chính Hành, đến Mã Xuyên, đến Lạc Thiên quán. Và lắc đầu:
“Nếp sống ấy không phải của ta. Ta sẽ trở thành con cá mắc cạn chết trong vũng nước tù hãm mất !”.
Bầu trời chiều trong và dịu, báo hiệu một đêm thanh tĩnh. Vài cánh hoa anh đào rơi nhè nhẹ như bông tuyết, để lại trên cành những đài hoa trơ trụi. Thạch Đạt Lang ví những đài hoa ấy với lòng mình, không nơi ẩn náu trước những giằng co ray rứt của trách nhiệm, tình yêu và lòng trắc ẩn. Kể từ sau cuộc chiến trên đồi Sinh Minh, tâm hồn hắn đã đổi khác đi nhiều.
Thạch Đạt Lang châm đèn, mang pho tượng đang khắc dở ra làm tiếp. Mai đi rồi, tối nay hắn cố khắc cho xong. Dù xấu hay đẹp, hắn cũng phải hoàn tất pho tượng, cúng vào chùa để làm lễ vật cầu siêu cho vong linh Tuệ Tâm và các đệ tử Hoa Sơn khác.
Đèn lụi dần, hắn đổ thêm dầu và khêu bấc. Giữa đêm sâu, trong cái yên lặng gần như tuyệt đối của ngôi am nhỏ, người ta chỉ nghe tiếng mũi đoản kiếm đục vào gỗ và những miếng vỏ bào mỏng nhẹ nhàng rơi trên chiếu. Mùi gỗ bạch đàn thơm thoang thoảng.
Thạch Đạt Lang chăm chú điêu khắc, để cả tinh thần cũng như thể chất vào công việc. Tính hắn xưa nay vẫn thế. Đã không làm thì thôi, làm thì tập trung mọi năng lực cho đến khi xong, bất kể nhọc mệt hay chán nản.
Pho tượng càng lúc càng rõ nét, tuy thô kệch nhưng không đến nỗi không ra hình thù gì. Khi tương đối trông được, Thạch Đạt Lang lau sạch, quét dọn chỗ ngồi, đặt tượng lên bàn rồi cúi đầu ba lần lâm râm khấn nguyện.
Ngày mai, hắn sẽ mang pho tượng Quán Thế Âm lên chùa đặt chung với nhiều tượng khác. Tượng không đẹp nhưng hắn đã để hết tâm hồn vào đó, sáng tạo nên bằng lòng thành và niềm ân hận sâu xa, với hy vọng vong linh những người quá vãng sẽ được Phật bà cứu độ đời đời.
Đêm đã khuya, trống sang canh điểm từ lâu. Thạch Đạt Lang sắp xếp vật dụng vào đẫy rồi ra nhà sau tắm. Căn phòng vắng vẻ. Hàng cây mềm cạnh am thì thầm và ánh trăng hạ huyền tuy mờ nhạt cũng đủ in lên nền giấy mỏng trên song cửa bóng hàng cây xao động.
Bỗng nghe sột soạt rồi cửa lùa xịch mở. Gió đêm thổi ngọn đèn nhỏ lung lay. Một bóng đen chui vội vào rồi cửa lại được khép ngay tức khắc.
Thạch Đạt Lang ở nhà sau bước ra, mình còn quấn tấm khăn ẩm. Hắn trải chiếu dọn chỗ nằm và tắt đèn, túi hành trang để cạnh. Lúc sau đã nghe tiếng hắn thở đều và tiếng ngáy nho nhỏ.
Từ dưới gầm bàn thờ, bóng đen chui ra êm nhẹ như một con mèo. Tiếng ngáy dừng lại. Bóng đen vội nằm ép xuống sàn. Đến khi tiếng ngáy trở lại đều đều, bóng đen mới tiếp tục bò đến gần chiếu.
“Mày !”. Một giọng khàn khàn đồng thời ánh thép loáng lên dưới ánh trăng chênh chếch chiếu qua song. “Xem mày có thoát …”. Nhưng câu nói chưa dứt, bóng đen đã bị hất ra ngoài cửa sổ đánh rầm ! Song cửa gẫy răng rắc cùng với tiếng thân người rơi bịch trên nền đất. Tiếng kêu đau đớn, cành lá rơi lả tả, rồi cảnh vật trở về yên tĩnh như cũ.
Thạch Đạt Lang đã ngồi dậy từ bao giờ, dựa lưng vào vách, nắm chặt chuôi kiếm, lắng nghe động tĩnh. Thấy không có gì lạ, hắn vội vàng xách kiếm ra hiên. Nhìn bóng đen nằm co quắp dưới hè, Thạch Đạt Lang thận trọng đến gần. Nghe rên rỉ, hắn sực nhớ lúc nãy khi vùng dậy gạt mũi dao, hắn cảm thấy nhẹ hẫng. Như một cục bông. Không biết kẻ này là ai, định ám sát hắn sao đường dao yếu thế, như chẳng có công lực gì cả.
Thạch Đạt Lang quát:
– Ngươi là ai ? Sao vào đây hành thích ?
– Ừ …ừ …Thạch Kinh Tử ! Đã đến nước này …ối chao, đau … !
– Ủa, bà Hồ Điểu !
Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Té ra không phải là đệ tử Hoa Sơn hay tăng nhân Hồ Phong vì ghét hắn mà đâm lén khi hắn ngủ. Hắn cúi xuống, vực bà lên, nói:
– Để con dìu bà vào am. Ngoài này lạnh.
Bà Hồ Điểu không hơi sức đâu chống cự nữa, mặc hắn muốn làm gì thì làm !
Nhưng bà luôn mồm kêu đau:
– Thạch Kinh Tử, bây giờ mày bắt được ta thì hãy giết ta đi. Ối ! Đau quá ! Chắc gãy lưng mất !
Thạch Đạt Lang bế bà Hồ Điểu đặt lên chiếu, đắp chăn và gối đầu cho bà. Hắn an ủi:
– Bà nằm đây, con đi pha trà. Bà nằm nghỉ đến sáng mai hãy hay.
Nhưng bà Hồ Điểu lắc đầu đáp yếu ớt:
– Không ! Ta không uống trà của mày. Thằng súc sinh …
Thạch Đạt Lang lúng túng, không biết xử trí ra sao. Hắn xích ra xa thầm nghĩ:
“Không biết bà đã gặp Mãn Hà Chí chưa ? Chắc bà là người lên chùa kể tội, nói xấu ta với các tăng nhân phái Hồ Phong. Thảo nào họ thay đổi ý kiến !”. Nghĩ vậy nhưng hắn vẫn vào nhà trong đun nước.
Lúc mang trà ra, bà Hồ Điểu đã thiếp đi từ bao giờ. Thạch Đạt Lang để cho bà nằm nghỉ, ngồi uống trà một mình, canh chừng cho tới sáng.
Khi chú tiểu Sĩ Niên đến dọn dẹp xong, Thạch Đạt Lang theo chú lên yết kiến thủ toà. Hắn trình bày tự sự, cúng pho tượng do chính tay hắn tạc, đồng thời cũng thỉnh cầu để cho bà Hồ Điểu lưu lại chùa ít lâu đến khi bình phục.
Bấy giờ vị hoà thượng thủ toà mới vỡ lẽ. Tuy nhiên ông xét để cho bà Hồ Điểu lưu lại chùa có điều bất tiện. Nhân có sư thầy thuê bò từ trấn Ô Tu chở phẩm vật lên núi, ông đề nghị để con bò ấy cho bà Hồ Điểu cưỡi đến trấn Ô Tu rồi nhờ Thạch Đạt Lang trả bò cho chủ hộ.
Thấy cách này thuận tiện, Thạch Đạt Lang vui vẻ nhận lời.
Chương 49: Bình sữa đổ
Sơn đạo từ đỉnh đồi Sinh Minh đến trấn Ô Tu gập ghềnh vòng vèo như rắn lượn. Thạch Đạt Lang dẫn bò thong thả xuống dốc. Trên lưng bò, bà Hồ Điểu nằm sấp, hai tay ôm cổ con vật miệng rên khe khẽ.
Sợ bà lão mệt, Thạch Đạt Lang quay lại:
– Hay ta dừng chân chỉ một chút. Đường núi khó đi mà bà với con cũng chẳng có gì vội …
Bà lão lặng thinh như không nghe thấy.
Đặt được bà Hồ Điểu lên lưng bò cũng là một điều khó khăn. Bà lão nhất định không đi và cũng nhất định không cưỡi bò. Để thuyết phục, Thạch Đạt Lang phải nói khéo, nhấn mạnh rằng chùa là nơi thanh tĩnh, phụ nữ lưu lại không tiện, phiền đến sự thanh tu của các tăng sĩ. Bấy giờ bà mới nghe và vì bị cái ngã đau quá, toàn thân ê ẩm nên bà đành phải cưỡi bò vậy.
Bà Hồ Điểu tỏ vẻ khó chịu mỗi khi Thạch Đạt Lang hỏi han hay săn sóc. Sự ân cần của gã thanh niên chỉ làm tăng thêm sự nhục nhã và niềm uất hận của bà mà bà không làm gì được. Bà yên lặng biểu lộ sự khinh bỉ.
Thạch Đạt Lang không hiểu sao mẹ người bạn cũ của mình lại có thái độ ấy. Đã bao lần hắn bị phiền. Những mẹo vặt của bà khiến hắn suýt chết mấy lần. Nhiều lúc mất bình tĩnh, hắn muốn giết phứt bà đi cho rồi, nhưng nghĩ lại thì không nỡ, nhất là lúc này bà yếu trông thấy, đi không được mà cũng chẳng thốt ra tiếng.
Nhớ lại những lời nói độc địa của bà Hồ Điểu, Thạch Đạt Lang mỉm cười. Bây giờ nằm yên như thế kia, không rủa xả được, chắc bà tức lắm.
– Đường núi khấp khểnh mà con bò lại gầy. Bà chịu khó một chút, đến trấn Ô Tu, con tìm thầy và mua thuốc trị thương cho bà.
Bà Hồ Điểu vẫn im lặng.
– Hay là bà ngồi xuống vệ đường này nghỉ, cho nó giãn gân cốt …
Rồi không đợi trả lời, Thạch Đạt Lang buộc bò vào gốc cây, đỡ bà lão xuống. Bà dựa đầu vào thân cây, tóc xõa rũ rượi, gạt tay Thạch Đạt Lang ra, miệng lẩm bẩm câu gì không rõ.
Buổi sáng đầu mùa hạ đẹp vô cùng. Gió ấm mơn man và ở dưới chân đồi, mặt hồ Biwa lóng lánh như tấm gương trong.
– Chắc bà khát ? Thạch Đạt Lang vừa hỏi vừa tháo đẫy. Con có mang nước và cơm nắm. Bà ăn một chút cho đỡ đói nhé ?
Bà Hồ Điểu vẫn bướng bỉnh lắc đầu.
– Từ hôm qua bà chẳng ăn uống gì. Như thế thì càng bệnh thêm thôi. Quanh đây không có thầy thuốc, chứ nếu có, con đã mời đến chữa cho bà rồi. Hay con chia đôi phần ăn này, bà dùng với con một nửa ?
– Không đời nào !
– Bà nói gì ?
– Ta dù có chết đói, xác để cho quạ tha chứ không đời nào ăn cơm của kẻ thù !
Rồi quay đi, bà nhổ bọt.
Thạch Đạt Lang lắc đầu. Hắn không lấy thế làm giận, chỉ tội nghiệp cho bà lão.
Không ngờ sự hiểu lầm của bà sâu xa và dai dẳng đến thế. Có lẽ nếu gặp con trai, sự tức giận ấy sẽ giảm bớt và giúp bà thông cảm với hắn hơn. Thạch Đạt Lang nghĩ bà đã giã, cũng như mẹ mình nên hắn cố tìm lời an ủi:
– Bà nghĩ lại đi. Bà yếu lắm, phải ăn chút gì để sống mà gặp Mãn Hà Chí chứ. Bà có muốn gặp Mãn Hà Chí và thấy hắn thành công không ?
Bà lão trừng mắt:
– Việc gì đến mày ? Rồi mày biết, nó sẽ thành công, không cần mày nhắc.
– Con cũng nghĩ thế. Nhưng bà phải giữ gìn sức khỏe để còn nhìn thấy hắn chứ.
– Đồ giả nhân nghĩa. Đừng tưởng nói khéo thì ta quên mối thù đâu !
Thạch Đạt Lang buồn thấy bà lão cứ hiểu lầm hắn mãi. Nói với bà lão chẳng khác gì đánh bùn sang ao. Hắn bực mình bỏ đi, để mặc bà ngồi bên gốc cây với con bò cái.
Xách đẫy bước tới sau một tảng đá lớn, hắn giở cơm nắm ra ăn. Nắm cơm gói trong lá khô cùng với đậu nấu đường, hắn thấy ngon miệng, nhưng cũng chỉ ăn một nửa, còn một nửa bọc lại cất vào đẫy, phòng khi nào bà Hồ Điểu hỏi đến.
Nghe tiếng lào xào, Thạch Đạt Lang quay nhìn về phía chỗ bà Hồ Điểu. Một người đàn bà nhà quê tóc cắt ngắn, y phục tương tự như y phục các phụ nữ trong vùng nhưng gọn ghẽ hơn, đang đứng nói chuyện với bà lão:
– Trong quán cháu có người khách trọ Ốm. Cô ấy muốn uống sữa. Lão bá cho cháu vắt sữa con bò này được không ?
– Ta không biết. Vùng ta ở không nuôi bò sữa, chẳng hiểu nó có sữa không ?
– Để cháu thử.
– Ngươi biết vắt sữa bò à ?
– Dạ biết.
Nói đoạn ngồi xuống bên con vật, rút trong bọc ra một cái bình nhỏ thường dùng để đựng rượu, lúi húi vắt. Chẳng mấy chốc đã được lưng bình. Khi đầy, người đàn bà đứng dậy cười toét miệng:
– Cám ơn lão bá. May quá, không phải xuống núi.
Rồi lấy vải bọc miệng bình, tong tả quay gót.
– Này chị kia !
Tiếng bà Hồ Điểu gọi giật lại. Bà ngó trước trông sau không thấy ai, bèn ghé tai người đàn bà ấy nói nhỏ:
– Cho ta một hớp được không ? Một hớp thôi, ta khát quá !
Người đàn bà ngạc nhiên nhìn bà lão, lưỡng lự một lát rồi mở miếng vải, đưa bình sữa cho bà.
Bà Hồ Điểu vồ ngay lấy tu ừng ực, sữa tràn cả ra hai bên mép. Lát sau bà nhăn mặt, đưa trả:
– Sữa gì vừa nhạt vừa tanh, còn khó uống hơn thuốc. Nhưng cũng đỡ khát.
– Lão bá sao thế ? Ốm à ?
– Ừ, ốm, nhưng thường thôi. Ta cảm gió xoàng.
Bà đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Không thấy ai, bà có vẻ khỏe hẳn ra. Bà hỏi:
– Này chị, đường này đi đâu thế ?
– Đến trấn Ô Tu dưới núi.
– Ta muốn đi tắt, có đường nào không ?
Người đàn bà ngạc nhiên nhưng cũng đáp:
– Có, mà lão bá định đi đâu ?
– Đâu cũng được. Ta chỉ muốn tránh mặt thằng vô lại kia thôi.
Nói đoạn hất hầm về phía Thạch Đạt Lang ngồi. Người đàn bà nhìn theo chẳng thấy ai lại càng ngạc nhiên lắm.
– Đường nào ? Chỉ ngay cho ta đi !
– Lão bá đi độ một quãng nữa thì có con suối. Rẽ trái ngược lên phía bắc rồi cứ thế mà đi thẳng, chừng đến trưa là tới Ô Tu.
– Vậy được. Trời Phật phù hộ ngươi.
Rồi hạ thấp giọng:
– Nếu gặp ai hỏi, chớ nói chỉ đường cho ta nghe !
Đoạn tay giữ áo, tay cầm gậy lẩn vào đám cỏ tranh đi mất. Người đàn bà ngẩn ngơ chẳng hiểu ra sao, hết đứng nhìn con bò lại nhìn quãng đường bà Hồ Điểu vừa cất bước.
Tiếng cười của Thạch Đạt Lang ở phía sau làm người đàn bà giật mình.
– Bác ở gần đây phải không ? Chồng bác đốn củi hay làm rẫy ?
Nhìn chàng thanh niên cao lớn có vẻ giang hồ đãng tử đột nhiên xuất hiện, người đàn bà hơi sợ. Nhưng dường như quen với những mẫu người như thế qua lại vùng này nhiều lần, chị ta mạnh dạn đáp:
– Không. Chúng tôi mở quán trọ.
– Xa không ?
– Cũng gần thôi, dưới triền núi.
– Vậy hay lắm. Ta muốn nhờ một việc, đưa hộ phong thư này cho người quen, bác giúp được không ? Ta sẽ trả tiền sòng phẳng.
Người đàn bà bán quán tỏ vẻ ngần ngại.
– Ta không phải tên vô lại như bà cụ vừa rồi nói với bác đâu. Ta chỉ có ý định giúp bà cụ nhưng bây giờ bà ấy đã khỏe, đi được rồi thì càng tốt, ta khỏi phải bận tâm nữa.
– Nhưng còn người bệnh ở quán. Làm sao mang sữa về ?
– Không khó gì. Ta sẽ mang về giúp và đợi bác ở quán.
Thấy được mối hàng lại có tiền công, người đàn bà vui vẻ nhận lời.
– Vậy khách quan định đưa thư cho ai ?
– Cho một người tên Oa Tử ngụ tại dinh tướng công Lưu Cát, khu bắc ngoại thành.
Vừa đi vừa về thì khoảng nửa đêm bác đã trở lại nhà được rồi, có gì mà ngại.
Thỏa thuận xong, Thạch Đạt Lang lấy giấy bút viết mấy câu cho người thiếu nữ mà khi ở Khổ Độ Am không đêm nào hắn không nghĩ đến, rồi trao cho người đàn bà. Tần ngần trông theo đến khi người ấy khuất dạng, hắn mới cầm thừng dẫn bò đi. Lòng hắn buồn vui lẫn lộn.
“Không ngờ ta còn có cơ hội gặp lại Oa Tử. Giờ này không biết nàng đã bình phục hẳn chưa. Nhận được thư ta, chắc thế nào nàng cũng lên đường ngay. Giang cũng thế.
Trễ lắm là trưa mai ta đã gặp lại cả hai rồi”.
Thạch Đạt Lang háo hức như khi còn bé chờ mẹ đi chợ về, đợi ăn cái bánh bỏng mẹ hứa.
Rồi mặc cho bò nhẩn nha bước một, vừa đi vừa gặm cỏ, chàng thanh niên thong thả theo sau. Cốt cách ngang tàng của một kiếm sĩ nhưng dáng điệu lại thư thái nhàn du, trông hắn bây giờ không ai bảo là kẻ mười ngày trước đó đã gây chấn động võ lâm, trên đồi Sinh Minh, ngã ba Quan Ngoại.
Mấy câu Thạch Đạt Lang viết cho Oa Tử thật giản dị:
“Cầu Hanada trước đây nàng đợi ta. Bây giờ ta đợi nàng ở cầu Kara, trấn Ô Tu. Gặp nhau, nhiều chuyện muốn nói”.
Hắn muốn viết thêm vài lời âu yếm nữa để tỏ tình ý thiết tha, nhưng lại thôi. “Ồ, chắc Oa Tử sẽ hiểu”. Nghĩ đến “nhiều chuyện muốn nói” viết trong thư, hắn mỉm cười.
Đến quán, Thạch Đạt Lang buộc bò vào gốc cây rồi xách bình sữa tới trước cửa quán. Cũng như đa số các quán trọ thời đó, quán này có một mái hiên rộng, ở phía trước kê vài cái bàn gỗ tạp thô sơ để lữ khách ngồi ăn những món điểm tâm thườ ng hoặc uống trà. Nếu muốn dùng cơm thịnh soạn hơn và có người hầu thì vào phòng trong, bên lò sưởi và đồng thời cũng là chỗ nấu bếp. Thạch Đạt Lang đến gần bàn ngoài hiên hỏi vọng vào:
– Quán có ai không ? Ta mang sữa tới đây này !
Một người đàn bà trung niên chạy ra. Thạch Đạt Lang giao bình sữa cho mụ và nói:
– Sữa của khách.
Người đàn bà trố mắt nhìn, vẻ không hiểu. Thạch Đạt Lang giải thích rõ đầu đuôi, bấy giờ mụ mới vỡ lẽ, bèn gọi người đàn ông đang lúi húi bên bếp lửa ở trong nhà:
– Qúy khách ! Sữa quý khách sai đi mua đã mang về đây này !
Người đàn ông chùi tay vào vạt áo quay ra. Gã còn trẻ nhưng nét mặt gầy, buồn và có vẻ chán chường. Mí mắt hùm hụp, đỏ hoe, chẳng hiểu vì thức khuya hay vì rượu.
Đỡ bình sữa từ tay người đàn bà, gã nhìn chàng thanh niên đứng ngoài hiên. Bỗng kinh ngạc, mồm há hốc:
– Thạch Kinh Tử !
– Ủa ! Mãn Hà Chí !
Thạch Đạt Lang cũng kêu lớn, kinh ngạc không kém. Và giơ tay ra đón bạn. Mãn Hà Chí cũng giơ tay. Bình sữa rơi vỡ toang, mảnh tung tóe trên nền đất, sữa đổ lênh láng.
Hai người bạn ôm lấy nhau, cánh tay siết chặt. Thạch Đạt Lang vỗ nhẹ lên lưng Mãn Hà Chí:
– Đã bao lâu rồi không gặp mày ! Thật không ngờ …Có lẽ từ sau vụ Sekigahara đấy nhỉ …
– Ờ …sau trận Sekigahara …Đồi Ibuki …
Họ bỏ nhau ra mà vẫn còn nắm chặt tay nhau, trìu mến. Thạch Đạt Lang nhìn thẳng vào mặt bạn:
– Mày già hơn trước nhiều.
– Hơn sáu năm rồi còn gì …Bao nhiêu biến chuyển. Tao đã hăm bốn.
Mùi sữa thoảng bay ngòn ngọt, bao bọc lấy hai người như đưa họ lùi về dĩ vãng, lúc cả hai còn là những đứa trẻ ngây thơ bên gối mẹ trong một làng nhỏ vùng sơn cước.
– Thạch Kinh Tử ! Giờ mày nổi tiếng lắm rồi, đâu còn là thằng Kinh Tử ngày xưa nữa. Để tao gọi mày là Thạch Đạt Lang cũng như mọi người. Chuyện mày một mình đánh nhau với cả phải Hoa Sơn trên đồi Sinh Minh ai cũng biết. Lại còn những chuyện trước đây nữa, tao có nghe kể lại …
Thạch Đạt Lang ngượng, hơi đỏ mặt:
– Ồ, còn phải học nhiều. Tao ở vào thế bắt buộc phải tự vệ đấy thô i. Trên đời này xem ra nhiều kẻ có danh mà không có thực nên kể như tao may mắn. Thôi, nói chuyện mày đi. Mày trọ Ở đây đấy à, Mãn Hà Chí ?
– Ừ, cũng đã được mươi ngày. Tao bỏ Kyoto đi Edo nhưng được nửa đường thì có trở ngại …
– À ra vậy ! Họ bảo tao trong quán này có người ốm nhờ mua sữa. Mày ốm hả ?
– Ờ …không …không …Đấy là người đi với tao.
– Cũng phiền nhỉ …Gặp mày tao mừng quá. Lần chót nhận được tin mày đến nay đã ba năm. Mày viết bức thư đưa thằng bé làm ở quán rượu chuyển, nhớ không ? Bấy giờ tao đang trên đường đi Nara …
Mãn Hà Chí cúi đầu, hy vọng Thạch Đạt Lang quên những lời khoác lác của gã viết trong thư hồi đó. Hắn mà nhắc lại thì thật là xấu hổ. Nhưng trong cơn vui mừng, Thạch Đạt Lang kéo tay Mãn Hà Chí:
– Ra ngoài này nói chuyện cho tự nhiên. Ai cùng đi với mày thế ?
– Người quen. Mày để ý làm gì !
Cả hai dắt tay nhau ra khỏi quán.
– Bây giờ mày làm nghề gì sống ?
– Tao không có tài, nên kiếm chỗ quyền quý dựa dẫm cũng khó …
– Vậy có nghĩa là mày thất nghiệp ? Trước đây cũng thế, không làm gì hết à ?
– Cũng có chút đỉnh vài nghề cực nhọc. Nhưng thôi, đừng nhắc đến những chuyện ấy nữa. Tao buồn lắm.
Mắt Mãn Hà Chí mờ đi. Những hình ảnh của quá khứ tủi cực bên cạnh Ôkô trong một căn phòng nhỏ hẹp, hôi hám, sặc mùi ẩm mốc và mùi rượu sa-kê rẻ tiền hiện về, làm gã nghẹn họng. Tâm trạng ấy không qua được mắt Thạch Đạt Lang. Hắn kéo Mãn Hà Chí ngồi xuống cỏ:
– Ngồi xuống đây. Kể hết chuyện mày cho tao nghe đi. Sự thể ra sao mà khốn khổ thế ?
– Cũng tại Ôkô hết. Mụ ấy mê hoặc tao …
Rồi Mãn Hà Chí kể cho Thạch Đạt Lang nghe quãng đời gã sống bên người đàn bà sa đọa ấy. Thạch Đạt Lang ngao ngán, vừa thương hại vừa phẫn nộ cho bạn. Tại sao Mãn Hà Chí lúc nào cũng tự coi mình kém cỏi như vậy ? Tại sao hắn lại đổ lỗi cho người khác, dường như muốn quy hết trách nhiệm cho họ về những ngu xuẩn, hèn yếu của mình ?
– Mãn Hà Chí ! Mày cứ nói tại Ôkô thế này, tại Ôkô thế nọ, nhưng mày có bao giờ nghĩ rằng mày đã thiếu tự chủ và dại dột không ?
Giọng hắn trở nên nghiêm khắc:
– Chỉ có mình mới có thể tạo cho mình một cuộc đời đáng sống. Ngoài mày ra, không ai làm gì cho mày được !
Mãn Hà Chí thở dài, giọng thiểu não:
– Ta cũng nhận phần nào có lỗi, nhưng định mệnh cả. Nếu không gặp Ôkô …
– Lại thế rồi ! Thời đại này mà mày còn nói thế thì đời mày vất đi, không bao giờ thành đạt. Mày muốn đi Edo lập nghiệp thì cứ đi, nhưng đó là chỗ bon chen danh lợi, rập khuôn theo kẻ tầm thường tất không khá. Phải có những hành động hơn người.
– Thì lúc trước ở làng tao cũng muốn theo nghề cung kiếm …
– Ừ, đời còn dài, sự cố gắng là cần thiết. Có người nói tài năng chỉ do tập luyện.
Tao nghĩ đúng. Ngoại trừ những kẻ tài năng xuất chúng không kể, còn nếu muốn đạt được một trình độ tài năng bình thường nào đó thì phải bền chí tập luyện. Ở Edo, mày nên kiếm một nghề độ nhật đã và đừng quên lập chí.
Mãn Hà Chí bứt một cọng cỏ đưa lên miệng cắn. Lòng gã nặng trĩu hổ thẹn. Gã hối hận đã để trôi qua sáu năm thanh xuân quý báu.
Những chuyện Mãn Hà Chí nghe kể lại về Thạch Đạt Lang đúng hay không, không biết nhưng trước mặt gã bây giờ là Thạch Đạt Lang bằng xương bằng thịt, khuyên gã những lời chân thành, đôi khi nghiêm khắc, với phong thái chững chạc, tự tin, thật khác xa với gã. Nhưng dù Thạch Đạt Lang vẫn mày tao với gã, coi gã như bạn thân, Mãn Hà Chí thấy thái độ nghiêm nghị ấy gần như cao ngạo. Gã đau đớn ý thức sự hèn kém của mình.
– Mãn Hà Chí ! Mày phải cố gắng !
Thạch Đạt Lang vỗ vai bạn, khuyến khích, nhưng đồng thời cũng linh cảm qua cái vỗ ấy, một tâm hồn bạc nhược, nếu không được nâng đỡ, dìu dắt hàng ngày thì khó mà thoát khỏi những cám dỗ bên ngoài.
– Thôi, việc đã qua thì cho qua, đừng nghĩ đến nữa. Mày đã để mất sáu năm thì coi như mày bắt đầu trễ sáu năm. Những năm ấy là một bài học quý giá. Nhưng phải bắt đầu lại …
Mãn Hà Chí cúi mặt lặng thinh. Thạch Đạt Lang đổi sang chuyện khác.
– À, tao mới gặp bà cụ.
– Mẹ tao hả. Bà đi đâu vậy ?
– Lên chùa lễ Phật.
– Ờ. Bà cụ thì không chùa nào không đến. Chẳng biết bây giờ bà có khỏe không ?
– Tao lấy làm lạ sao mày không thừa hưởng được sức mạnh và đức kiên trì của bà cụ. Thật khó có người đàn bà nào ở tuổi bà mà được thế.
Nhìn Mãn Hà Chí, Thạch Đạt Lang không hiểu sao gã lại là con bà Hồ Điểu được.
Bỗng nảy ra ý nghĩ:
nếu Mãn Hà Chí nên người khá, có lẽ bà bớt hiểu lầm hắn.
– Này Mãn Hà Chí ! Sao mày có người mẹ như thế mà mày không làm điều gì cho bà cụ được vui lòng. Tao không còn cha mẹ, không làm gì được, chứ mày …Tao có cảm tưởng mày chẳng phải là đứa con hiếu thảo. Tao nghĩ không gì sung sướng cho bằng có người để chia sẻ nỗi vui buồn. Tao chẳng phải là nhà đạo đức đi thuyết giảng những giá trị luân lý gì đâu, tao chỉ là một lãng tử. mày không biết nỗi cô đơn đứt ruột của tao khi đứng trước một cảnh đẹp mà không có người thân để cùng chia sẻ niềm vui thích.
Ngừng một lát, Thạch Đạt Lang cầm tay Mãn Hà Chí:
– Mày biết những lời tao nói là thành thực, giữa một người bạn và một người bạn.
Hơn nữa lại là người cùng xóm, thân nhau từ hồi còn uống chung một bình sữa. Mãn Hà Chí ! Chúng ta hãy lấy lại cái tinh thần của chúng ta hồi trước khi dự trận Sekigahara.
Bây giờ chiến tranh hết rồi, nhưng sự chiến đấu để sống còn trong một thế giới hòa bình không phải là dễ. Phải có kế hoạch, phải có tinh thần tranh đấu. Nếu mày quyết tâm làm lại cuộc đời, tao sẽ cố hết sức giúp …
Tay cầm cọng cỏ mà nước mắt chảy tràn trề, Mãn Hà Chí nghe những lời bạn nói thật chí tình, không như những lời mắng nhiếc của mẹ gã. Gã xúc động, quệt nước mắt:
– Mày nói đúng. Cảm ơn mày đã chỉ cho tao đường ngay. Tao sẽ làm theo lời mày bảo, trở nên người khác ngay từ bây giờ. Nếu không thành được kiếm sĩ danh vọng thì cũng lập thân được. Đến Edo, tao sẽ tìm thầy để học.
– Vậy tốt. Tao sẽ tìm cho mày một thầy giỏi để chỉ bảo cho mày. Có chí thì vừa làm vừa học cũng thành công.
– Nhưng Thạch Đạt Lang …
– Gì ?
– Còn một chuyện nếu không cho mày biết thì áy náy quá …
– Có gì mà áy náy. Tao hứa giúp thì giúp tận tình, đừng lo lắng về tiền bạc …
– Không ! Không phải chuyện ấy. Chuyện người đồng hành với tao kia …Người đó là một thiếu nữ.
Thạch Đạt Lang cười:
– Thì có sao !
– Nhưng người thiếu nữ này mày cũng biết.
– Ai ?
– A Kế Mỹ !
Thạch Đạt Lang bất giác “ồ” lên một tiếng. Hắn định nói:
“Thế thì tệ quá !” nhưng ngừng ngay được.
A Kế Mỹ không sa đọa như mẹ, nhưng ngụp lặn trong nếp sống phóng đãng từ nhỏ, nàng rồi cũng sẽ như mẹ nàng mà thôi. Huống chi sau khi bị thất thân với Sĩ Khánh, nàng còn cặp kè với Cát Xuyên Mộc, giờ lại ở với Mãn Hà Chí. Không biết sợi dây oan nghiệt nào đã buộc Mãn Hà Chí với mẹ con Ôkô như vậy !
Thấy Thạch Đạt Lang không nói, Mãn Hà Chí tưởng hắn ghen.
– Mày giận tao đấy hả ? Tao nói thực vì chẳng muốn giấu mày điều gì.
– Đồ ngốc ! Điều tao quan tâm là mày chứ không phải A Kế Mỹ. Không biết mày tự chuốc lấy khó khăn hay tại định mệnh khắc nghiệt. Tao tưởng sống với Ôkô, mày đã học được bài học đắt giá rồi !
Như đứa trẻ phạm lỗi bị mắng, Mãn Hà Chí lặng thinh.
– Qúy khách ! Thị nữ tìm các vị mãi không thấy.
Người hầu trong quán chạy ra, hớt hải:
– Cô nương có ở đó không ?
– Cô nương nào ? A Kế Mỹ hả ?
– Cô nương ốm nằm trong phòng. Thị nữ mang thức ăn vào không thấy ai hết.
Dường như có linh tính báo trước. Thạch Đạt Lang đoán được tự sự, nhưng hắn vẫn nói:
– Ta trở lại quán coi !
Trong phòng, chiếc chiếu vẫn còn trải ở góc. Gối xô lệch, chăn chưa gấp. Mãn Hà Chí mở ngăn kéo và cửa phòng xếp hành trang:
– Quần áo đem đi hết ! Cả tiền bạc ! Không còn đến cái lược hay cái khăn nữa !
Trời ơi !
Mãn Hà Chí mắt lạc thần, sắc mặt trắng bệch. Gã tất tả chạy ra hiên rồi lại trở vào, mở tủ tìm kiếm, bối rối:
– Nàng bỏ ta ! Sao lại bỏ ta ? Đem cả tiền bạc đi ! Làm sao bây giờ ?
Mụ người làm và chủ quán đứng trước cửa quán ngơ ngạc nhìn nhau rồi nói:
– Chắc chưa xa đâu. Khách quan đi tìm ngay còn kịp. Biết ngay mà, khi mới đến, ta đã đoán nàng giả ốm.
Mãn Hà Chí chạy ra hiên, đứng nhìn con đường ngoằn ngoèo thoai thoải dốc ở chân núi ẩn hiện giữ những bụi lau cao. Gã chẳng rõ và cũng không đoán được A Kế Mỹ đã cao chạy xa bay rồi hay còn lẩn quất đâu đây.
Bên gốc cây, con bò nghểnh cổ kêu một tiếng “bò … O …” dài. Lá reo xào xạc.
Nắng hè bắt đầu gay gắt.
– Mãn Hà Chí ! Âu đó cũng là điều may. Hãy để nàng tìm nơi hợp ý, sống cuộc đời nàng ưa thích.
Một con bướm vàng cánh mong manh dưới nắng, theo gió thổi, chao đi chao lại rồi mất hút dưới vực sâu.
Thạch Đạt Lang nhìn bạn nói tiếp:
– Mày vừa hứa với tao làm lại cuộc đời thì đây là lúc thuận tiện nhất, còn chờ gì nữa ?
Mãn Hà Chí cắn môi để khỏi bật khóc. Gã ừ một tiếng khẽ. Tiếng ừ dường như không thoát ra khỏi miệng và cũng dường như chẳng có một chút nhiệt thành nào, trong khi mắt gã vẫn đăm đăm nhìn con đường trước mặt.
Thạch Đạt Lang lay vai gã:
– Nghe tao, A Kế Mỹ đi đâu cũng chẳng nên theo, vì không phải đấy là chỗ của mày. Hãy tìm gặp bà cụ thân sinh ra mày ngay. Đi bây giờ còn kịp, đến suối rẽ lên phía bắc về trấn Ô Tu.
Rồi không đợi Mãn Hà Chí phản ứng, Thạch Đạt Lang vào phòng mang dép và hành trang ra cho bạn. Hắn rút ở bọc ra túi bạc vụn:
– Tao không có nhiều nhưng có thể chia cho mày một nửa. Nếu mày đi Edo, tao sẽ đi với mày. Ngày mai, đến cầu Kara, tao sẽ đợi mày ở quán gần đó.
Mãn Hà Chí đi rồi, Thạch Đạt Lang lui vào trong nhà nằm nghỉ trên ghế dài kê gần hiên. Hắn muốn đợi thư phúc đáp của Oa Tử.
Khí hậu dễ chịu và ánh nắng đang thịnh của một ngày hè ấm áp làm Thạch Đạt Lang lim dim mắt, thả hồn theo giấc mộng. Nhìn hai cánh bướm chập chờn trên những cụm hoa dại ven đồi, hắn tưởng một trong hai cánh bướm ấy là … Oa Tử.
Bỗng những tiếng cười nói xôn xao phía ngoài vọng vào làm Thạch Đạt Lang chú ý:
– Bọn ấy hữu danh vô thực.
– Ừ. Hồ Điểu trước tiếng nổi như cồn, bây giờ tệ quá. Đời nào cũng thế, xem ra hậu duệ không bằng tổ phụ. Hoa Sơn ở đời thứ ba này không còn được ai kính trọng nữa.
– Đúng vậy. Con cháu không đáng an táng cạnh tiền nhân.
– Sao không ? Khi chết tớ sẽ được táng gần mộ cụ tổ nội tớ ở đồi này.
Tiếng cười ha hả:
– Chúng mình là những thằng thợ đá thì kể làm gì ! Ấy là nói chuyện các nhà quyền thế, có danh vọng kia. Như Hoa Sơn … như Bạch Hạc.
Bọn công nhân chất phác này, ngày nào cũng vào khoảng cuối giờ mùi, thường kéo nhau lên quán nhấm nháp vài ly rượu trước khi tản mát về các ngả trong xóm. Họ cười nói oang oang, bàn đủ mọi thứ chuyện. Những ngày gần đây, chiến tích của Thạch Đạt Lang, một mình chống cự với cả phái Hoa Sơn, là đầu đề cho bọn họ bàn tán không dứt.
Một anh thợ đá còn trẻ hoa chân múa tay, thuật lại những chiêu kiếm của Thạch Đạt Lang cứ như thật. Y kể vanh vách danh tính các cao thủ Hoa Sơn bị người “anh hùng dân gian” (danh từ của y) giết ra sao, sự tấn công vũ bão của người anh hùng ấy vào đám đồ chúng Hoa Sơn như vào chỗ không người như thế nào khiến cả bọn gật gù tán thưởng. Chuyện này chắc y kể đã nhiều lần và mỗi lần kể lại thêu dệt thêm vài chi tiết mới nên cử tọa khoái lắm, nhất là kèm theo lời tường thuật, y còn lấy cái chổi ở góc phòng, bắt chước biểu diễn những chiêu kiếm ấy một cách sống động nữa.
Bọn thợ đá chăm chú ngồi nghe không để ý tới bốn người đàn ông vừa bước vào quán. Họ ăn mặc ra dáng kiếm sĩ nhưng ba người khoác tăng bào đen phái Hồ Phong, còn một người trẻ tuổi cao lớn lại trang phục diêm dúa và sặc sỡ như con nít, lưng đeo kiếm dài. Người trẻ tuổi ấy chính là Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc.
Cả bốn hách dịch ngồi vào bàn ngay ngoài hiên, khinh mạn nhìn bọn thợ đá khiến bọn này nhột nhạt không dám bàn cãi gì nữa. Cát Xuyên Mộc gọi trà bánh rồi cùng các tăng sĩ châu đầu vào nhau nói nhỏ những gì không ai nghe rõ.
Bọn thợ im lặng một lúc, sau đó lại ồn ào hơn trước. Câu chuyện vẫn không ngoài sự tán tụng võ nghệ của Thạch Đạt Lang, người mà đối với họ là hiện thân của lòng dũng cảm tuyệt đối.
Nhưng lời tán tụng ấy có lẽ làm rát tai các tăng sĩ Hồ Phong và Cát Xuyên Mộc, vì thấy cả bốn ngưng nói chuyện. Cát Xuyên Mộc cau mày quay ra lớn tiếng, gọi:
– Này chú kia !
Bọn thợ giật mình. Một người đáp:
– Đại hiệp gọi chúng tôi ?
– Ừ, cái chú trẻ tuổi ngồi ngoài đó. Có vẻ chú đã chứng kiến trận đánh ngay từ đầu.
Phải chăng chú phục Thạch Đạt Lang lắm ?
Người thợ tre gãi tai ậm ừ rồi gật:
– Giỏi chứ !
– Chú nói bậy bạ. Ta là Cát Xuyên Mộc, ngoại hiệu Giang Biên Liễu, đứng lược trận ấy từ lúc khởi thủy không thể nhầm lẫn được. Thường thì đối với những kẻ không hiểu võ nghệ, ta chẳng lý đến, nhưng các chú huênh hoang tài năng tên đó quá độ, có thể làm cho những ai không được thấy tận mắt như các vị đây, đánh giá nó sai lầm nên ta phải chỉnh.
Có tiếng lẩm bẩm. Một số lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng không ai phản đối gì. Được đà, Cát Xuyên Mộc lại tiếp:
– Phải biết rằng tên Thạch Đạt Lang đó rất xảo quyệt. Hắn gây hấn với Hoa Sơn, một kiếm phái nổi danh, chỉ cốt để lấy tiếng trong võ lâm. Phái Hoa Sơn ai còn lạ gì, bây giờ đang suy yếu. Phái ấy như cái cây mục, đẩy một cái là gãy, ai cũng có thể làm được chứ Thạch Đạt Lang tài cán gì ? Sở dĩ không ai làm vì không ai nỡ và vì lòng kính trọng Hoa Sơn Khổ Bích là người sáng lập ra môn phái ấy mà thôi.
Thạch Đạt Lang đã hèn hạ làm chuyện không đáng làm, lại còn đánh lén. Trong những trận giao tranh với Hoa Sơn Sĩ Khánh, Hoa Sơn Điền Chính, và ngay cả vừa rồi trên đồi Sinh Minh nữa, hắn đều đánh bất ngờ. Đấy không phải là hành động đường hoàng mà là một thủ đoạn đáng khinh bỉ.
Có tiếng người cắt ngang:
– Nhưng Thạch Đạt Lang đã đơn độc giao chiến với hàng trăm kẻ địch …
– Đúng. Mới xem thì tưởng hắn anh dũng. Nhưng không phải ! Đó chỉ là mành lới bày ra để khoa trương thanh thế và lấy tình cảm của võ lâm. Ta chứng kiến vụ này từ đầu. Những chiêu kiếm của hắn toàn là tránh né hoặc dùng mẹo vặt, không phải là những chiêu chính thống. Nếu nói hắn có tài thì cái tài độc nhất nằm ở đôi chân hắn.
Khi gặp dịp, hắn chạy trốn nhanh không ai bì kịp.
Nói đoạn Cát Xuyên Mộc cười ha hả, rót mọt chén trà tự thưởng câu nói vừa rồi mà hắn cho là ý nhị. Các tăng sĩ áo đen cũng cười phụ họa, duy bọn thợ ngồi trên ghế loay hoay tỏ vẻ khó chịu.
– Lại còn chuyện này nữa:
hắn giết Hoa Sơn Tuệ Tâm, một đứa bé mới mười ba tuổi không biết võ công. Thật dã man, hành động tàn nhẫn ấy không xứng đáng với tư cách người cầm kiếm, đó là hành động đáng phỉ nhổ chỉ thấy ở những tên vô lại …
Rồi lan man, Cát Xuyên Mộc kể lại những chuyện xấu xa trong thời niên thiếu của Thạch Đạt Lang ở làng Miyamoto, những hành vi mà gã nghe thuật lại qua miệng các nhà sư áo đen phái Hồ Phong.
– Thế mà các chú phục hắn, tâng bốc hắn, coi hắn như bậc anh hùng. Ta không có liên hệ gì với kiếm phái Hoa Sơn mà cũng không thù hằn gì Thạch Đạt Lang. Ta chỉ đứng giữa, lấy điều công bằng mà nói. Một người theo kiếm đạo như ta chỉ biết phục vụ sự thật và lẽ phải.
Cát Xuyên Mộc ngưng lại, uống một ngụm trà rồi quay qua các tăng sĩ Hồ Phong:
– Trời đã ngả bóng. Bây giờ chúng ta chia tay ở đây để quý vị lên đường kẻo trễ.
Ba tăng sĩ áo đen đứng dậy cùng thi lễ rồi bước ra ngoài. Bọn thợ ngơ ngác một lúc rồi như tù được thả, ùa nhau ra khỏi quán, theo sơn đạo tản mát vào các đường mòn khắp chỗ. Bóng núi ngả dần trùm lên khu rừng và những bụi lau thưa rải rác. Một tiếng chim họa mi vang trong buổi chiều tà, như giục kẻ tha hương mau tìm về tổ ấm.
Cát Xuyên Mộc trả tiền xong, bước ra cửa. Bỗng như sực nhớ điều gì, hắn lại quay vào hỏi chủ quán:
– À ông quán, có bấc đèn không ?
– Dạ có, treo trên vách, sát cột. Khách quan cứ tự tiện lấy.
Trong quán chưa lên đèn. Cát Xuyên Mộc quờ quạng đến gần cây cột, rứt vài sợi.
Túm bấc đèn rớt xuống đất. Gã cúi nhặt, bỗng thấy có hai bàn chân đi dép cỏ duỗi song song trên chiếc ghế dài cạnh đấy. Theo bàn chân, gã nhìn ngược lên. Một người nằm tên ghế. Nhìn mặt người nằm, gã giật mình đánh thót, tưởng như vừa bị gáo nước lạnh hắt vào mặt. Gã nhảy lui thủ thế.
– Kìa, bằng hữu !
Thạch Đạt Lang nhỏm ngay dậy. Đoạn cười, hàm răng trắng bóng trong cảnh tranh tối tranh sáng của gian quán. Mắt hắn chòng chọc nhìn Cát Xuyên Mộc.
Cát Xuyên Mộc ngượng. Gã có cảm tưởng như Thạch Đạt Lang đã nghe hết những lời gã nói và trong cái cười ấy hàm ý chế giễu. Gã lấy lại được bình tĩnh ngay, nhưng trong một thoáng, quả đã biểu lộ sự bẽn lẽn.
– Kìa Thạch huynh ! Nằm trong này hồi nào mà kín tiếng thế ? Gặp lại Thạch huynh, đệ rất mừng.
Nhưng vừa nói xong, gã hối ngay:
câu nói vừa sáo vừa giả dối. Gã chữa:
– Lần trước thật tiếc không được cùng đi với nhân huynh. Võ công của huynh quả là tuyệt thế. Không ai tưởng tượng được một người chiến đấu đơn độc mà lại có thể làm cho toàn phái Hoa Sơn phải xính vính như vậy.
Thạch Đạt Lang mỉm cười đáp lễ:
– Đa tạ quý bằng hữu đã đứng làm trọng tài phân xử. Và cũng đa tạ quý bằng hữu về những lời phê bình võ công của tại hạ. Không mấy khi được nghe người khác phê bình mình, nay được cái hân hạnh ấy, tại hạ thêm sáng mắt. Tại hạ không bao giờ quên.
Lời nói rất ư lễ độ, không mang một chút thù hận, nhưng khiến Cát Xuyên Mộc rùng mình. Gã cười gượng:
– Tại hạ cũng vậy, không quên cuộc gặp gỡ hôm nay !
Nói đoạn cúi chào, bước ra cửa đi thẳng.
Chương 50: Cây liền cành
Giang hớn hở bước qua cổng. Chỗ Oa Tử và Giang ở bây giờ là một căn nhà gỗ nhỏ, khuất sau khu vườn trúc cạnh một con suối hẹp. Căn nhà ra. đơn sơ do một cư sĩ bạn Lưu tướng công cho mượn. Trước cổng treo tấm bảng “Sơn Nguyệt Trang”, chữ đã mờ và nền gỗ nứt nẻ. Tuy đơn sơ, nhưng bầu không khí thanh tịnh của cảnh vật thật hợp với tâm hồn Oa Tử, người thiếu nữ đa cảm và đau yếu đang cần tĩnh dưỡng này.
Bệnh Oa Tử thuyên giảm nhiều. Mấy hôm nay nàng đã ăn được chút ít và sắc diện hồng hào hơn. Nhưng mối u tình của nàng vẫn như một màng lưới vô hình ngăn cách nàng với thế giới xung quanh.
Ngồi dưới hàng hiên, Oa Tử lơ đãng nhìn những đám mây trôi. Nắng chiều đã nhạt. Vài con chim én chao đi chao lại bắt mồi nhắc nàng liên tưởng đến quãng đời thơ ấu xưa kia trên chùa Tiểu Sơn. Lúc ấy nàng cũng ngồi như thế này mơ mộng vẩn vơ. Bấy giờ nàng còn là một cô bé thơ ngây, chưa biết buồn phiền, lo nghĩa; nhưng bây giờ, hình bóng và tâm trạng ấy chỉ còn trong dĩ vãng. Và Oa Tử khẽ thở dài.
– Cô Oa Tử ! Em đã về !
Tiếng Giang vui vẻ gọi đột nhiên kéo nàng khỏi giấc mộng. Giang chùi chân trên bãi cỏ trước nhà rồi bước lên hiên đến gần Oa Tử.
– Cô nghĩ gì mà thừ người ra thế ?
– Không ! Nghĩ gì đâu ! Có tin gì lạ không em ?
– Có. Tin này chắc làm cô vui lòng.
– Tin gì ? Oa Tử náo nức hỏi.
– Tin sư phụ. Nghe nói ông ẩn trên núi.
– Ồ !
Oa Tử vui mừng kêu. Nàng lấy tay ôm ngực. Sự xúc động khiến mặt nàng hơi tái.
– Có người bảo hình như ông ở chùa Hồ Phong trong rừng Sinh Minh.
– Vậy cũng đỡ lo. Chắc không xảy chuyện gì nguy đến tính mệnh.
– Cô đi thăm không ? Em kiếm cái gì ăn rồi chúng ta cùng đi, kẻo ông bỏ chỗ ấy thì chẳng biết đường nào mà tìm.
– Ừ, em vào lấy cơm ăn đi, cô để phần trong hộp ấy. Cô ăn rồi.
– Vâng, cô sửa soạn là vừa, em xong ngay bây giờ.
Giang nhảy chân sáo xuống bếp. Nó ăn vội vàng rồi lên nhà, nhưng ngạc nhiên thấy Oa Tử vẫn còn ngồi bên cạnh bàn ngoài hiên, bất động.
– Kìa ! Sao cô không sửa soạn đi ?
– Có lẽ cô không đi đâu, em ạ !
Giang sửng sốt:
– Sao vậy ? Lúc cô muốn gặp thầy em, lúc lại không, thế là thế nào ?
Oa Tử cầm tay Giang kéo xuống ghế.
– Cô nghĩ kỹ rồi. Cái đêm gặp thầy em trên núi, cô đã nói hết những điều u uẩn trong lòng. Thầy em có lý tưởng riêng và không muốn sự gì ràng buộc. Trên đời này, có lẽ thầy em và cô chẳng bao giờ còn cơ hội gặp nhau nữa. Cô không rõ có phải thầy em muốn ẩn giấu tung tích hay không nhưng được biết ông đã thoát hiểm là cô yên tâm rồi.
Nếu thầy em không cho người đến tìm cô thì cô gặp ông bây giờ chỉ làm phiền ông mà thôi …
– Vậy nếu không ai đến tìm cô, cô sẽ sống thế này mãi à ?
Oa Tử gật.
– Ứ ! Không được !
Giang dậm chân phản đối.
Oa Tử phân vân chẳng biết có nên giải thích cho thằng bé hiểu rõ ý mình không, nhưng nhìn nét mặt hờn giận của Giang và nghĩ đến lòng nhiệt thành của nó, nàng không thể không nói. Vả nó đã lớn, có lẽ giãi bày tâm sự cho nó hiểu càng làm tăng sự cảm thông giữa hai người.
– Giang. Em đã biết đấy. Cô yêu Thạch Đạt Lang với tất cả tâm hồn. Trước đây cô tưởng mối tình không được đáp ứng, nhưng sau khi gặp lại thầy em sau gần năm năm xa cách, cô đã hiểu và tin cậy ở chàng vô cùng. Thạch Đạt Lang với cô bây giờ như cây liền cành, dù phải xa nhau hàng vạn dặm hay có bị chia lìa vì cái chết thì hai người cũng vẫn như một. Cho nên cô không thấy cô độc nữa. Cô có thể cứ sống như thế này suốt đời để cầu nguyện cho thầy em tìm được con đường muốn đi và đạt được lý tưởng thầy em theo đuổi …
– Cô nói dối ! Thế sao cô vẫn muốn gặp ông và khi không được gặp, cô lại khóc ?
Cô có bằng lòng cuộc sống như thế này đâu ?
Oa Tử rút khăn lau nước mắt. Giang cầm tay nàng lắc mạnh:
– Đấy ! Cô lại khóc rồi !
Oa Tử ngẩng nhìn Giang, mắt đỏ hoe nhưng miệng mỉm cười:
– Cô mềm yếu quá phải không em ? Tại cô không cầm được xúc động mỗi khi nghĩ đến thầy em. Em ăn cơm rồi à ?
– Ăn rồi.
Giang đáp sẵng. Nó giận Oa Tử vì có cảm tưởng như bị lừa dối. Mấy ngày nay, Giang đã mất nhiều công dò hỏi tin tức sư phụ, hy vọng khi tìm được chỗ ẩn của Thạch Đạt Lang, chắc thế nào Oa Tử cũng đến thăm. Ngờ đâu nàng không cùng một ý. Giang bỏ ra suối ngồi.
Chiều xuống thong thả. Bóng núi đổ trên những khu rừng xa loang to dần thành từng mảng màu lam sẫm. Giang lấy chân khỏa nước. Nước trong nhưng lạnh khiến nó vội vàng rụt chân lại, xuýt xoa:
– Chà, lạnh dữ !
Ngồi một lúc, cơn giận dường đã tan, Giang đứng lên về nhà. Bỗng một gia nhân trong dinh Lưu tướng công hối hả chạy đến:
– Giang ! Có thư !
Vừa nói vừa lấy trong bọc ra một cuộn giấy nhỏ trao cho thằng bé. Trao xong, còn dặn:
– Tướng công nói cô nương phải bảo trọng sức khỏe. Nếu cần giúp đỡ gì, cứ đến dinh.
Giang gật đầu, cầm thư. Nhìn chữ đề bên ngoài, nó thốt kêu mừng rỡ:
– Ô ! Đúng chữ thầy ta đây ! Vậy là ông còn sống !
Rồi định bật niêm giở ra đọc, nhưng dừng ngay lại kịp. Thư gửi cho Oa Tử, không phải cho nó. Hờn giận lại kéo đến, Giang xịu mặt, lững thững đi vào. Oa Tử hỏi:
– Thư của ai đấy em ?
– Của sư phụ !
Nét mặt Oa Tử tươi hẳn lên:
– Thư gửi cho cô hả ?
– Gửi cho cô ! Nhưng ông ở đâu, cô để ý làm gì ?
Oa Tử mỉm cười thấy Giang giấu thư ra sau lưng. Nàng định giật lấy nhưng Giang né tránh, chạy vòng quanh bàn.
– Giang ! Em ác lắm nhé !
Oa Tử đuổi theo. Hai, ba vòng thấm mệt, nàng ngồi thở dốc. Thằng bé ái ngại đến bên, chìa cuốn thư ra:
– Em xin lỗi. Thế mà cô bảo không muốn đi thăm. Không muốn đi thăm mà mới nghe nói có thư đã rối rít cả lên !
Nhưng Oa Tử không quan tâm đến lời Giang chế giễu. Nàng cầm thư chạy ngay vào phòng.
Những ngón tay run rẩy trắng bệch bật vội sáp niêm. Đèn mới khêu mà hoa đèn đã nở, chắc có tin vui. Oa Tử đọc đi đọc lại không biết chán những chữ thân yêu, nét mực còn đen nhánh. Trong thư, Thạch Đạt Lang hẹn rõ nơi gặp. Hai hàng lệ chứa chan, nàng không ngờ có được cơ hội và hạnh phúc như thế.
Bất giác liên tưởng đến câu thơ của Bạch Cư Dị tả nàng Dương Qúy Phi lúc ở âm cảnh được tin vua Đường gửi xuống:
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can Lê hoa nhất chi xuân đới vũ Oa Tử thẹn, chùi nước mắt, tự nhủ:
“Chắc bây giờ chàng đang đợi ta. Ta phải sửa soạn hành trang ngay mới được !”. Bèn viết vài hàng vội vã cáo biệt chủ nhân cùng Lưu tướng công rồi xếp quần áo vào đẫy.
Ra khỏi phòng, thấy Giang vẫn còn ngồi ngoài hiên, nét mặt ủ rũ, Oa Tử gọi:
– Giang ! Em vào sắp quần áo rồi đi với cô chứ !
Thằng bé chẳng đáp mà cũng chẳng nhìn Oa Tử. Nàng đến bên đặt tay lên vai nó:
– Em vẫn giận cô đấy à ?
– Sao không giận được ? Thư sư phụ nói những gì mà cô giữ bí mật thế ?
– Ấy chết ! Cô quên ! Tại mừng quá đấy mà. Không có lý do gì mà cô lại giấu em.
Đây, Giang đọc đi !
– Không đọc nữa. Em chả muốn đọc.
– Giang ! Đọc đi ! Đây là cái thư đầu tiên thầy em gửi cho cô và hẹn gặp cô. Cô mừng quá !
Nét mặt Oa Tử rạng rỡ khiến Giang cũng vui lây. Nó quên hết những điều hờn giận trước.
Tuy trời tối nhưng cả hai đều muốn đi ngay để hôm sau đến kịp nơi hẹn.
– Hôm nay có trăng. Đi ban đêm càng mát, cô nhỉ.
Thạch Đạt Lang đến trấn Ô Tu lúc trời hửng sáng. Vài sợi khói xanh nhạt mỏng manh bốc lên nhẹ nhàng từ những mái rạ. Qua bầu không khí ướt sương, hắn đã nhìn thấy mờ mờ những con đường ngang dọc trong trấn. Thạch Đạt Lang tự hỏi không biết Oa Tử đi đường nào tới. Thư đến tay nàng chắc cũng phải nửa ngày. Ban đêm nàng phải nghỉ, chắc buổi sáng mới khởi hành. Với sức đi bộ của Oa Tử thì đến được chỗ hẹn ở cầu Kara buổi chiều cũng là sớm. Cho nên hắn cứ thong thả dẫn bò đi, vừa đi vừa ngắm cảnh.
Qua một cây đền có nhiều cây anh đào cổ thụ, hoa mới nở còn động sương mai, Thạch Đạt Lang thích thú thưởng ngoạn từng thế cành, từng bông hoa hàm tiếu. Những cây anh đào này chắc đã được trồng từ lâu lắm nên gốc mới vặn vẹo nghiêng ngả vì mưa gió. Có cây cong trĩu xuống như người lễ Phật, có cây giơ cành ra tựa như chào đón khách thập phương. Mỗi cây một vẻ, cây nào cũng đẹp.
Nhưng điều Thạch Đạt Lang ưa thích nhất là sức sống mãnh liệt của chúng. Cành non vươn lên, thẳng và mạnh như những nét phát của một họa sĩ tài hoa, lấy sinh lực luân lưu trong lòng thớ gỗ cổ thụ để nuôi dưỡng hoa mới, truyền lại đời sau một mầm sống tốt đẹp.
Cạnh đền, trên một cái gò thấp, dựng một bia đá. Thạch Đạt Lang tò mò đến gần xem, thấy có chữ li ti khắc trên bia. Thì ra là một bài ngụ ngôn hắn đã biết và thuộc lòng từ nhỏ. Bài ngụ ngôn kể chuyện một vị tăng già đang đứng chiêm ngưỡng bóng đức Phật Quan Âm ánh trên mặt hồ trong cung, bỗng thấy một phi tần hái hoa đi ngang đấy.
Phi tần đẹp tuyệt vời khiến vị tăng già không sao kềm chế được lửa dục. Bao nhiêu đạo đức thu thập được sau gần một kiếp tu hành bỗng nhiên mất hết. Vị tăng trở về căn nhà cỏ, đốt hương trước Phật đài cầu nguyện. Nhưng trông đâu cũng chỉ thấy mặt mỹ nhân.
Trông song cửa tưởng lược cài, trông mây tưởng tóc …chỗ nào cũng có bóng dáng người đẹp. Mấy ngày đêm như thế, tâm hồn hoang mang, dao động, vị tăng già buồn bã, hổ thẹn. Ông không mong gì thấy niết bàn nữa nên nhất quyết đi tìm nàng cung phi để thổ lộ nỗi lòng, dù có chết cũng được bình yên mà chết … Đến trước hoàng cung, ông cắm gậy xuống đất đứng chờ … suốt ngày … suốt đêm … Suốt ngày … suốt đêm …
Thạch Đạt Lang vừa dắt bò vừa lẩm nhẩm đọc bài ngụ ngôn như người đọc kệ, nhưng không sao nhớ lại được đoạn cuối ra thế nào.
– Đại hiệp ! Đại hiệp dắt bò ! Dừng lại đã !
Một tráng niên dáng nông phu chạy theo. Thạch Đạt Lang dừng lại. Gã nông phu để tay lên đầu con vật và xoa mũi nó. Dường như nhận ra người quen, con bò vẫy tai kêu “bò …ò …” ra vẻ bằng lòng lắm.
– Đại hiệp ở trên chùa Hồ Phong xuống ?
– Phải ! Sao bác biết ?
– Tôi cho sư thầy trên chùa thuê con bò này để chở đậu. Sao đại hiệp lại dẫn nó đi đâu ?
– Ồ ! Thế ra bác là chủ bò đấy ? Trên chùa nhờ tôi dẫn nó về trả bác. Nhưng tôi muốn thuê nó ít lâu nữa để đi Edo, bác thuận không ?
– Tôi không phải chủ mà chỉ là người làm ở trại. Đại hiệp muốn thuê cứ dắt đến trại. Cũng gần đây thôi, tiện đường lắm.
Quả nhiên trại ở ngay ngã ba sông, rất tiện cho khách thương hồ đi lại. Chỉ còn vài dặm là đến trấn Ô Tu, chỗ này có thể coi như cửa ngõ vào trấn nên hàng quán đông đúc.
Sau khi thuê bò xong, Thạch Đạt Lang dùng điểm tâm ngay tại quán gần đấy, mua vài thức lặt vặt rồi lại thong thả giong bò đi.
Hắn nghĩ đến lúc được hội ngộ Oa Tử mà lòng xốn xang. Trước đây, tuy yêu Oa Tử thành thực, Thạch Đạt Lang vẫn sợ những ràng buộc. Nhưng bây giờ, sau khi đã gặp nàng trên núi, hắn không còn e ngại nữa.
Oa Tử thông minh, xinh đẹp, nhiệt thành và nhất là thông cảm mối ưu tư của hắn, nên hắn tin tưởng vô cùng. Thạch Đạt Lang nguyện sẽ không từ chối bất cứ điều gì Oa Tử muốn nhưng ngược lại, nàng phải tôn trọng nếp sống kiếm sĩ của hắn. Dù sao chăng nữa, Thạch Đạt Lang không muốn lưỡi kiếm sắc của mình bị nhụt.
Mỉm cười, Thạch Đạt Lang nói thầm như tự nhủ:[Audio] Đan Hoàng Võ Đế (dịch)
– Không khéo thành ông sư già trong truyện ngụ ngôn mất. Bây giờ đến lượt ta, phải giữ sao đừng để cho sóng tình dìm mình chết đuối.
Trời sáng hẳn. Cầu Kara hiện rõ ở phía chân trời. Cầu gồm hai nhịp, nối liền với nhau bằng một đảo nhỏ. Trên đảo một cây liễu lớn mọc vượt hẳn lên trên những tàn cây khác, từ xa trông rất rõ nên khách thập phương dùng nó làm mốc gọi là Liễu Kiều. Lên tới giữa nhịp cầu thứ nhất, Thạch Đạt Lang đã nghe tiếng reo vui mừng của tên học trò nhỏ:
– Kia rồi ! Sư phụ kia rồi !
Giang vừa nhẩy cẫng lên vừa chỉ trỏ cho Oa Tử trông thấy. Nàng ở quán trà dưới gốc liễu bước ra, lấy tay che ánh nắng sớm làm chói mắt.
– Đó ! Ông đi ở trên cầu đó ! Ồ, mà sao ông lại dắt con bò ?
Giang cắm đầu chạy lên cầu đón thầy. Thạch Đạt Lang cười, phô hàm răng trắng bóng, giơ hai tay ôm chặt lấy Giang vào lòng:
– Lâu ta không gặp con. Con nhớ ta không ?
Không đáp, Giang chỉ gật. Nó thấy cay cay ở mắt. Giang cầm lấy dây dắt bò cho thầy, đi bên cạnh, liến thoắng:
– Cô Oa Tử kia kìa ! Ở trước quán. Thầy mua bò làm gì ? Để cưỡi đấy à ? Thầy đau chân hay bị thương không đi được ?
Thạch Đạt Lang mỉm cười:
– Không, ta không sao. Bò ta thuê cho Oa Tử cưỡi đi Edo.
Giang mừng rỡ:
– Vậy con cũng cưỡi.
Nói đoạn quay lại kêu “bò” nhại con vật. Con bò không biết gì cũng đáp bằng một tiếng “bò … Ò” dài như trêu tức nó làm cả hai thầy trò cùng cười vui vẻ.
Đến trước quán, Thạch Đạt Lang nhìn Oa Tử và Oa Tử nhìn hắn. Bốn mắt đầy tình ý yêu thương nhưng chẳng ai nói một lời. Trước mặt khách lạ, họ sượng sùng không muốn biểu lộ cảm nghĩ.
Nhìn về phía sau, giàn hoàng đậu đã trổ hoa. Thạch Đạt Lang bảo Oa Tử:
– Hoa mới nở đẹp quá.
Rồi bước ra vườn. Oa Tử đi theo, có Giang bên cạnh liến láu kể chuyện ở Sơn Nguyệt trang cho thầy rõ. Sự ngượng ngùng nhờ thế cũng hết và một lát sau, người ta đã nghe tiếng cười và tiếng nói chuyện nho nhỏ giữa hai người.
Một làn chớp bỗng lóe lên trong không khí, tiếp theo là tiếng sấm vang động làm Oa Tử giật mình, run rẩy.
Chủ quán chạy ra, tay ô tay nón vẫy gọi:
– Các vị vào thôi. Sắp bão đến nơi rồi !
Đằng xa, phía đỉnh núi, mây đen từng đám đùn lên chẳng mấy chốc đã kín cả bầu trời. Gió thổi ào ào làm rung động các chùm hoa vàng trên giàn hoàng đậu và những con ong vò vẽ cuối cùng cũng đã bỏ đi nơi khác từ bao giờ.
Vài giọt mưa bắt đầu rơi lộp độp.
Giang thích thú vỗ tay reo:
– Mưa ! Ồ mưa ! Thật là đúng lúc !
Đối với Giang, mưa đến thật là đúng lúc nhưng đối với Thạch Đạt Lang và Oa Tử, cơn mưa làm cả hai bối rối. Cùng đi vào phòng cả thì có vẻ như là một đôi tình nhân hẹn hò nhau trong tiểu thuyết nên Thạch Đạt Lang nấn ná ngoài vườn. Oa Tử bước vào hiên, tà áo vàng của nàng run rẩy không khác gì những chùm hoa hoàng đậu.