[Audio] Thạch Kiếm
Tập 7: Máu đổ ven sông – Ma tâm pháp (c61-c70)
❮ sautiếp ❯Chương 61: Máu đổ ven sông
Bà Hồ Điểu đến Edo vào đầu tháng sáu. Tiết quý hạ Oi bức như trời muốn mưa mà không mưa được khiến bà khó chịu. Tuổi già, đường trường mệt nhọc, lại thêm nỗi thất vọng đâm hụt Thạch Đạt Lang càng làm bà buồn bực.
Từ ngày rời khỏi đồi Sinh Minh đến nay thấm thoát đã hai tháng. Hai tháng lang thang, không tin tức gì của Mãn Hà Chí, đứa con trai duy nhất, nhưng bà vẫn không nản chí. Không chùa miếu nào là bà không tạt vào thắp hương khấn vái, cầu nguyện. Bà Hồ Điểu chỉ sống với hy vọng độc nhất là bắt được kẻ thù không đội trời chung của dòng họ, đồng thời dẫn đứa con yêu quý về làng. Nhưng sức khỏe giảm dần, bà sợ chẳng còn đủ thì giờ làm tròn được lời nguyền ấy trước khi nhắm mắt.
Edo đương kỳ nắng hạn. Con đường gồ ghề chói chang. Chỗ nào cũng lọc cọc xe bò, lũ lượt phu khuân vác tung bụi mù mịt phủ trắng ngọn cây và trên các mái tranh các căn lều gỗ cất san sát ven lộ.
– Đây là Edo đấy ư ? Sao người ta lại có thể chọn một nơi khô cằn thế này làm kinh đô được ?
Bà Hồ Điểu lắc đầu, không tin những gì thấy trước mắt. Qua một giàn tre dựng cạnh bức tường đang xây dở, thấy chỗ râm mát, bà dừng chân nghỉ, lấy quạt trong bọc ra phe phẩy.
Bỗng “bộp” một cái, miếng vữa bằng cái bát từ trên giàn rớt ngay vào áo. Giật mình ngước lên, bà lớn giọng mắng kẻ vô ý. Bọn thợ trên giàn nhìn bà cười hô hố.
– A ! Tụi này hỗn láo quá ! Ở Miyamoto, chúng bay dám cười ta thế chăng ?
Nhưng tiếng cười càng to, vừa chế nhạo vừa khiêu khích.
– Con mẹ khùng ấy nói gì thế ?
– Đứa nào láo ? Này ta bảo cho mà biết, ta đáng tuổi mẹ chúng bay, đừng có hỗn !
Nhưng bọn thợ chẳng vì thế mà ngưng cười. Chúng còn trao đổi với nhau những câu ra ý dè bỉu khiến bà tức lộn ruột.
Trời nóng nực càng như quạt thêm lửa giận trong lòng, vừa mắng nhiếc, bà vừa lay cây cột chống. Tấm ván trên giàn đổ nhào, bọn thợ hồ ngã xuống kéo theo nào thùng nước, nào vôi cát bắng tung tóe. May mà bà Hồ Điểu tránh kịp và giàn tre cũng không cao nên không ai việc gì. Bọn thợ văng tục, vây quanh bà xắn tay áo định làm dữ. Bà Hồ Điểu cũng chẳng vừa, rút ngay cây gươm cũ ra. Tuy là gươm thờ lâu ngày cùn nhụt, nhưng trong tay một người có hành động liều lĩnh để tự vệ, nó cũng khiến bọn kia e dè không dám sấn tới.
Kẻ qua đường hiếu kỳ bắt đầu bu đông. Thấy bà lão dữ quá lại lăm lăm cây gươm, bọn thợ hồ đồ rằng bà cũng thuộc dòng dõi kiếm sĩ gì đây nên sợ liên lụy, đưa mắt nhìn nhau rồi rút vào một xó dọn dẹp, thỉnh thoảng liếc mắt lườm nguýt bà và lẩm bẩm chửi rủa.
Sự thay đổi thái độ ấy làm bà Hồ Điểu hài lòng. Bà tra gươm vào vỏ, phủi áo, rẽ đám đông bước ra, không quên quay lại mắng vài câu lấy lệ.
Ruồi nhặng vo ve trên những đống rác. Mùi hăng ngai ngái của phân bò phơi nắng luẩn quẩn trong bầu không khí oi ả. Bà Hồ Điểu mới đi được chừng quãng ngắn, bỗng thấy một thiếu niên xách thùng nước bẩn chạy theo, đổ vào lưng bà, tiếp theo là những tiếng cười hăng hắc. Thiếu niên này dáng thợ thuyền, chắc cũng cùng cánh với bọn thợ hồ lúc nãy. Đổ nước xong, hắn xách thùng trốn mất dạng sau những đống gạch vụn và tre gỗ ngổn ngang gần đó. Bà Hồ Điểu tức lặng người, không biết xử trí ra sao, đứng la hét chửi rủa một hồi, rồi cung cúc đi giữa những cặp mắt lãnh đạm của khách bộ hành qua lại.
“Đời bây giờ chẳng còn luân thường đạo lý gì ! Không ai trọng nể người già cả.
Nếu chẳng phải vì thằng Mãn Hà Chí thì không bao giờ ta ở đây thêm một ngày nào nữa”. Bà tự nhủ.
Xung quanh bà, cái gì cũng mới:
những ngôi nhà mới dựng hoặc vừa được xây xong, gạch ngói còn đỏ au, cây mớ trồng, đường mới đắp, thợ thuyền đều là những thanh niên trẻ trung lực lưỡng. Chỉ có bà là già, không hợp thời, không đúng cảnh ngộ, lạc lõng và bị chế nhạo. Tủi cực dâng lên trong lòng, bà khóc. Kéo vạt áo lau nước mắt, vạt áo ướt nhẹp. Bà lấy tay vắt mũi, bàn tay nhăn nheo, da điểm đồi mồi lấm tấm. Con đường đông người mà sao bà Hồ Điểu thấy cô độc như đang đi trong sa mạc.
Đến khúc rẽ, một đống đất cao nghều nghệu chắn cả lối đi. Gần đống đất có cắm bảng chỉ lối vào một nhà tắm công cộng. Bà Hồ Điểu theo hướng chỉ, đến nhà tắm mua tấm thẻ gỗ, cởi áo ngoài ra giặt rồi treo lên sào phơi. Tắm xong, ngồi đợi áo khô bên gốc cây, bà đưa mắt nhìn mông lung xung quanh.
Chỗ nào cũng thấy cất nhà, dựng quán. Sau quầy gỗ của một ngôi hàng xén nhỏ, một cô bé tuổi chừng mười lăm, mười sau, mãi soi gương kẻ lại lông mày. Cử chỉ quen thuộc ấy nhắc bà nhớ lại những năm còn trẻ khiến tự nhiên bà có cảm tình với cô bé xa lại. Đó là hảo cảm đầu tiên bà có giữa những cảnh náo nhiệt chen lấn và những lời mặc cả ồn ào ở chốn kinh đô đang được tạo lập này.
Loáng thoáng vài câu trả giá miếng đất đưa đến tai. Bà ngạc nhiên không hiểu sao một khoảnh đất rộng chừng ba trượng, sâu chừng chục trượng mà giá đắt đến thế, bằng một mẫu đất hay ruộng tốt ở quê nhà.
Bỗng nghe tiếng động sau lưng. Bà có cảm giác như ai vừa sờ vào áo. Giật mình quay lại, thằng kẻ cắp đang lần lưng bà. Bà nắm tay nó. Trễ mất rồi, nó đã giật mất túi tiền bà buộc hờ ngoài áo lót sau khi tắm.
– Ối kẻ cắp ! Bắt thằng ăn cắp !
Vừa la hoảng, bà Hồ Điểu vừa nhoài người ra ôm lấy nó. Nó đạp mạnh một cái khiến bà ngã lăn ra nhưng trong tay vẫn còn nắm được vạt áo nó. Sực nhớ đến thanh gươm, bà rút ra chém loạn.
Gã kẻ cắp tháo chạy, nhưng chẳng được xa. Dường như bị thương ở chân, gã chạy tập tễnh được một quãng. Có người đi ngược tới, nghe tiếng kêu, chẳng biết nếp tẻ ra sao, túm ngay được nó. Thì ra thằng Cốt Mục chuyên nghề cắp vặt trong vùng. Người ta trói nó lại và đi mời Diệp Hàn Khang đến phân xử.
Diệp Hàn Khang chẳng phải là kiếm sĩ hay phán quan gì ở địa phương. Ông chỉ cai quản một toán thợ chừng mấy chục người, thầu xây cất nhà cửa khi có khách gọi đến. Nhưng ông được tín nhiệm và kính trọng nhờ tính công bằng và lòng thương người, ưa giúp kẻ hoạn nạn.
Diệp Hàn Khang đến, thấy Cốc Mục bị trói gô nằm dưới đất, đã biết ngay là có chuyện gì rồi. Ông gọi gia nhân tới truyền lệnh:
– Trồng cây cột rồi kiếm miếng ván và bút mực đem đến đây.
Nghe nói trồng cột, Cốc Mục lo lắng ra mặt, van lạy:
– Chủ nhân tha cho, nô tài xin chừa. Từ nay sẽ về làm nghề khác.
Diệp Hàn Khang lắc đầu:
– Không được. Ngươi hứa nhiều lần rồi mà chứng nào vẫn tật nấy … Lần này ta không tha nữa.
Cột trồng ngay ven lộ, nơi đông người qua lại. Diệp Hàn Khang tự tay viết mấy dòng chữ lên miếng ván:
“Tên này là Cốc Mục, nguyên làm công cho bản nhân, phạm tội trộm cắp bị bắt quả tang, nay trói tại đây để mọi người phỉ nhổ cho chừa. Làm tại Edo, đường Ninh Hạ. Diệp Hàn Khang cẩn cáo”.
Viết xong, sai đóng lên đầu cột, trói Cốc Mục vào để người canh giữ và cho ăn uống trong ba ngày. Lại đích thân đem túi tiền trả cho bà Hồ Điểu. Sau khi hỏi han, được biết bà không phải người địa phương, bèn sai gia nhân săn sóc:
– Lý Tuất ! Ta thấy bà già này chẳng có ai thân thích ở đây. Để bà lang thang rồi lại bị lừa nữa cho xem. Người đưa được bà về nhà thì tốt. Tuổi cao mà bị đánh, thật bất hạnh.
Bấy giờ Edo mới lập, trộm cắp như rươi. Nạn sứ quân tuy tạm yên nhưng quyền lãnh chúa chưa vững, quan quân bận tâm dẹp loạn, không đủ thì giờ tuần tiễu và trừng trị kẻ gian phi. Dân chúng phải tự vệ và đảm trách lấy an ninh, cho nên khi bắt được đứa làm bậy, họ thường trói vào cột, kể tội để mọi người qua lại sỉ nhục. Đối với thường phạm, đó là hình phạt phổ thông nhất, vì thời bấy giờ không nói gì đến giới sĩ phu và kiếm sĩ, các tầng lớp dân gian khác cũng rất trọng danh dự, rất sợ bị đàm tiếu.
Diệp Hàn Khang đến Edo đã hơn mười năm, khi vùng này mới lèo tèo chỉ có vài quán xá. Nhờ trí thông minh, tài tháo vát và nhất là khéo léo mua chuộc lòng người, ông quy tụ được một số thợ giỏi làm thủ túc, nhân thầu xây cất cho những thương gia mới đến lập nghiệp. Công việc làm ăn phát đạt, có số vốn khá, ông đầu tư vào việc tạo mãi đất đai, tự xây nhà bán lấy lời. Cứ thế phất dần lên, bây giờ giàu có không phải bận tâm gì đến việc kinh doanh nữa, ông xoay ra kết thân với phái kiếm sĩ có quyền thế và được mọi người kính nể, mặc nhiên coi như là hào trưởng thủ lĩnh cả vùng, hễ có việc gì khó khăn là đến nhờ giải quyết.
Thời đó hai giới được trọng vọng nhất là kiếm sĩ và hào trưởng. Tuy nhiên giới sau này được quý mến hơn vì họ đứng về phía dân chúng. Đấy không phải là một tâm trạng mới mẻ hay lạ lùng gì. Lòng quý mến này có đã từ lâu trong dân gian và không phải chỉ thấy ở những vùng đang phát triển như Edo.
Sự hình thành của giới hào trưởng bắt nguồn từ thời kỳ còn sứ quân Ashikaga, lúc nội chiến đang mạnh. Khắp nơi, chỗ nào cũng có những bọn thảo khấu tung hoành giết người cướp của như loài dã thú. Theo truyền thuyết, bọn này cưỡi ngựa, đóng khố, thắt lưng da trâu to bản, tóc dài xõa xuống vai và thay vì quấn khăn, chúng buộc quanh đầu một vòng thừng lớn.
Bọn đó sử dụng trường kiếm dài đến bốn thước, đoản kiếm thước hai, nhưng cũng có khi dùng bồ cào, dao quắm và cả rìu nữa. Khỏi nói, bọn thảo khấu ấy giết người không gớm tay, quan quân phải nể sợ.
Tuy nhiên cũng có một số thảo khấu chủ trương tốt, không giết bừa bãi mà chỉ giết để trừng phạt những kẻ hay hà hiếp nhân dân mà thôi, rồi lấy tài sản của những kẻ đó chia cho người nghèo khó. Do đấy chúng được lòng dân và dân tôn chúng lên làm hào trưởng.
Hòa bình vãn hồi. Bọn thảo khấu phần lớn giải nghệ hoặc bị bắt đi phát vãng, nhưng cũng có kẻ đổi tên đổi họ lẩn trốn, chiêu tập đàn em lập thành phường đảng ở các thị trấn. Một số thành công được dân chúng tin cậy. Tuy danh hiệu không rõ ràng nhưng cái tinh thần hào trưởng vẫn có.
Họ được coi như loại người “lấy đạo nghĩa làm xương, lòng yêu dân làm thịt và sự dũng cảm làm da”. Nói cách khác, họ chính là những anh hùng dân gian đúng nghĩa.
Bà Hồ Điểu được Lý Tuất cõng, theo Diệp Hàn Khang về nhà ông ở bên kia cầu Đại Bản. Cầu này mới bắc được hơn năm, còn tươi màu gỗ mới. Chân cầu xây đá xanh, đồ sộ và vững chắc. Cầu này ai cũng biết và được dân chúng coi như một điểm mốc để đo các khoảng cách từ Edo đến các thị trấn lân cận.
Dưới sông, thuyền đậu san sát, chở đến Edo đủ các loại thực phẩm và vật liệu xây cất. Bên kia cầu là chợ cá và khu thương mại chính, chia thành nhiều phường:
phường thợ rèn, phường thợ nhuộm, thợ dệt chiếu, thợ bán đồ đồng.v.v …
Tư thất Diệp Hàn Khang ở một ngõ hẻm xa đường cái nên ít ồn ào bụi bặm, tuy không rộng lắm nhưng có nhiều điểm hợp với bà Hồ Điểu nên bà nấn ná mãi mười tám tháng sau vẫn còn ở đó.
Mỗi lần cáo biệt để ra đi, bà lại được Diệp Hàn Khang chí tình lưu lại:
– Vội gì ! Vãn bối đã ra lệnh cho gia nhân hễ được tin tức gì của Mãn Hà Chí hay Thạch Đạt Lang thì thông báo ngay. Lão bá cứ ở đây, hà tất phải nhọc lòng.
Mãi rồi bà cũng thành lười, an phận. Phải công nhận Diệp Hàn Khang là người tốt.
Căn nhà của vị mạnh thường quân này chẳng phải chỉ có bà Hồ Điểu mà thôi mà còn là nơi tá túc thường xuyên của vô số những kẻ lang bạt, những thanh niên phóng túng, những can phạm mới ở tù ra, thất nghiệp không ai chứa chấp. Tóm lại, đó là chỗ thường trú của những kẻ vô gia cư. Chúng tụ đến ăn uống, ngủ la liệt trên sàn, ngoài hiên. Tuy có đời sống phóng túng như vậy nhưng nói chung chúng rất trọng nghĩa khí, không bao giờ làm phiền đến ân nhân, và cũng có tổ chức:
kẻ đến trước bảo ban kẻ đến sau, ít khi để xảy ra những chuyện đáng tiếc.
Để có việc làm qua thì giờ, bà Hồ Điểu thường săn sóc những kẻ ốm đau, giúp việc may vá, nấu nướng cho cả bọn nên được bọn chúng quý trọng lắm. Phong cách kẻ cả của bà làm nhiều đứa phải nể phục và kháo nhau:
“Đúng là dòng dõi kiếm sĩ. Không biết trước đây chồng bà làm gì nhưng dòng Hồ Điểu chắc là một dòng có hạng”.
Để bà được yên tĩnh lễ Phật, Diệp Hàn Khang sai cất riêng cho bà một gian nhà gỗ ở góc vườn và hàng tuần đến vấn an. Có người hỏi tại sao ông đãi ngộ một người không thân thích mà hậu hĩnh như thế, Diệp Hàn Khang giải thích:
– Khi còn song thân, ta ở chẳng hết lòng. Nay thấy có bổn phận phải trọng những người già cả, coi họ như song thân ta lúc còn tại thế.
Mùa xuân tới. Hoa mận rừng nở rồi rụng mà những cây anh đào trồng ven lộ vẫn chưa chịu đơm hoa. Có lẽ do khí hậu hỗn tạp của đô thị đương xây cất mà hoa đào nở muộn chăng ?
Năm ấy chùa Phổ Giác ở tả ngạn sông Sumida về phía bắc có rừng mơ vừa chớm nụ. Thiên hạ rủ nhau đi lễ đông lắm.
Diệp Hàn Khang bảo với bà Hồ Điểu:
– Vãn bối lên chùa Phổ Giác, lão bá có đi không ?
– Đi chứ. Chùa Phổ Giác nghe nói linh thiêng. Ta cũng muốn tới dâng hương vài ngày, trước là lễ Phật, sau du xuân cho đỡ cuồng cẳng.
Diệp Hàn Khang bèn sai gia nhân đến bãi Kyobashi thuê thuyền. Rồi bày rượu ra, rót mời bà Hồ Điểu một chén.
– Vãn bối lên chùa là có ý định cầu siêu cho thân mẫu. Tiết thanh minh, chẳng tiện về quê tảo mộ. Nhớ đến song thân, lòng lại bồi hồi ân hận, nên nhân dịp này muốn giãi bày chút lòng hiếu.
Bà Hồ Điểu rưng rưng nước mắt:
– Lão đệ nghĩ thế là phải lắm. Nếu thằng con ta cũng được như lão đệ thì ta sung sướng biết mấy ! Nhưng chưa lễ lạc gì mà rượu chè thế này có tiện không ?
– Vãn bối đã dặn trước trên chùa rồi, lão bá yên tâm. Vả lại lễ lạc rềnh rang mà làm gì ! Thiển nghĩ cỗ bàn có to đến đâu cũng chẳng nguôi được lòng ân hận của vãn bối.
Bà Hồ Điểu cúi đầu, có lẽ cũng đồng ý với chủ nhân. Diệp Hàn Khang lại mời:
– Nào, xin cạn chén. Hôm nay ta phải đi thuyền ngược dòng sông một quãng.
Nhưng không hề gì. Thuyền to mà gia nhân đều là những chân sào thiện nghệ cả, lão bá đừng sợ.
Chén thù chén tạc, chẳng mấy chốc bà Hồ Điểu đã say khướt.
– Lâu lắm không uống rượu, nay vui miệng, ta thấy người như bay bổng.
Bữa rượu gần tàn thì thuyền cũng vừa tới. Gia nhân chạy lên thông báo. Cả bọn khiêng đồ, quẩy níp xuống thuyền, chèo ra giữa sông mà đi, vào một ngày xuân tươi đẹp, gió nhẹ bay vừa và nước sông chỉ hơi gợn sóng. Càng lên phía bắc, càng cách xa Edo bao nhiêu, cây cỏ càng xanh tươi bấy nhiêu, mặt nước long lanh trong vắt. Ở những chỗ gần bờ, rễ cây lớn đua ra, bóng rợp che kín cả vùng khiến lòng sông như sâu thẳm.
Trong bụi cây, tiếng chim trả lời nhau lảnh lót.
– Ồ ! Tiếng chim họa mi, lão đệ nghe thấy không ?
– Có. Khu rừng này có tiếng nhiều chim. Về mùa mưa, tu hú hót cả ngày.
Diệp Hàn Khang lại bày rượu ra. Hai người chân sào cũng nhắp mỗi người một chén.
– Một chén thôi. Để khi đến nơi, các chú muốn uống bao nhiêu thì uống. Say bây giờ, lộn cổ xuống sông cả lũ.
Mọi người cười ha hả:
– Phải rồi ! Phải rồi ! Một chén mà tiểu nhân đã thấy nước sông trôi như rượu trong vò đổ ra rồi !
Qua xóm chài, thuyền ghé vào bờ mua cá. Cá tươi đủ loại vô số kể, thả trong khoang tha hồ chọn. Mua xong, Diệp Hàn Khang xẻ thịt ra, lấy giấy lau khô, rưới nước gia vị lên ăn sống. Bà Hồ Điểu ghê sợ quay mặt đi niệm Phật.
Đến bến chùa trời đã quá ngọ. Bà Hồ Điểu tập tễnh trèo lên, tuy đau chân nhưng vẫn nhất định từ chối sự giúp đỡ của Diệp Hàn Khang. Từ bến lên tới cổng chùa phải qua một bãi đất rộng, lau lách mọc đầy xen lẫn với những hòn đá cuội to bằng trứng ngỗng. Buộc thuyền xong, cả bốn người theo chân nhau qua bãi.
Một bọn trẻ con tay xách giỏ tre đang cắm cúi vạch lau lật đá, thấy người lạ tới thì ùa đến.
– Ông khách, ông khách mua cho cháu đi !
– Lão bá ! Những món này đẹp lắm, lão bá mua đi, cháu lấy lão bá coi nhé ?
Diệp Hàn Khang có vẻ thích trẻ con, ông cười vui vẻ hỏi:
– Chúng mày bán gì thế ? Cua hả ?
– Không. Đầu mũi tên.
Vừa nói, một đứa vừa lấy trong giỏ ra một vài mũi tên bằng đồng đã han rỉ đưa Diệp Hàn Khang coi.
– Đằng kia co nhiều mộ hoang, khối người đến lễ. Họ mua đầu mũi tên cắm lên mộ. Ông mua vài cái cắm lên mộ lấy phúc.
Diệp Hàn Khang lắc đầu:
– Ta chẳng dùng đầu mũi tên làm gì. Đây, cho mỗi đứa mấy đồng, bằng lòng chứ ?
Dĩ nhiên là chúng bằng lòng, cười hể hả bỏ đi, nhưng được một quãng, một gã râu ria từ trong căn lều cuối bãi bước ra tịch thu hết cả số tiền ấy. Diệp Hàn Khang không ngạc nhiên, chỉ lắc đầu. Bà Hồ Điểu hỏi:
– Sao có nhiều đầu tên ở đây vậy ?
– Không rõ. Vãn bối dự đoán chỗ này xưa kia chắc là bãi chiến trường. Nghe nói cách đây mấy trăm năm, trên thượng lưu sông Sumida này có xảy ra nhiều trận thủy chiến. Hẳn đây là di tích của những trận ấy và những ngôi mộ đằng kia là mồ các chiến sĩ vô danh.
Hai gã chân sào đi trước thông báo nên khi Diệp Hàn Khang và bà Hồ Điểu tới nơi, vị tăng trụ trì đã đứng sẵn trên thềm nghênh tiếp.
Cảnh chùa Phổ Giác khiến bà Hồ Điểu thất vọng. Chùa chỉ là một ngôi nhà cổ, ngói vỡ nhiều nơi, cửa mục, tường đất bị nước mưa sói vào lâu ngày đã lở lói, để lộ chân cột mối ăn lỗ chỗ. Nhưng bối cảnh thật vĩ đại. Núi cao lừng lững với rừng tùng xanh đen, xen lẫn những gốc mơ điểm hoa trắng trên sườn đá rêu phong. Tiếng chim gõ thân cây đều đều như gõ mõ, hàng lau già xào xạc khiến bà Hồ Điểu cảm thấy như có nỗi buồn vô cớ đương len lỏi vào lòng lúc nào, không sao ngăn được.
– A di đà Phật ! Cung thỉnh chư vị vào chùa lễ Phật.
Tiếng vị tăng già đánh thức bà Hồ Điểu trở về thực tại.
– A di đà Phật ! Cảnh chùa điêu tàn quá đỗi ! Thế chùa ta khách thập phương không được mấy hay sao ?
– Cũng chẳng có nhiều. Như thí chủ thấy đấy, vì đường xa diệu vợi phải đi đò, lại ở nơi vắng vẻ nên không mấy người đến.
Khay trà dọn ra, chủ khách đàm đạo một lúc thì vị tăng dẫn Diệp Hàn Khang ra chính điện làm lễ cầu siêu cho mẹ. bà Hồ Điểu cũng theo ra ngồi phía sau nghe kinh.
Bà lâm râm khấn nguyện, cầu cho Mãn Hà Chí bình yên và cho bà chóng gặp lại hắn. Rồi hai tay chống xuống chiếu, đầu cúi rạp, bà hạ thấp giọng:
– Và cũng xin chư Phật mười phương ban cho già sức khỏe để già giết được thằng Kinh Tử. Lòng thành cúi xin các ngài chứng giám.
Bà suýt soa khấn vái, kể tội kẻ thù, tưởng như đức Phật trên tòa sen kia là một phán quan, và sau những lời cầu xin ấy, không có lý do gì không ban cho bà những điều bà mong ước.
Lễ xong, Diệp Hàn Khang và bà Hồ Điểu cúng vào chùa một số tiền đã phong bao sẵn.
Vị tăng trụ trì dẫn hai người ra hậu điện ghi tên vào sổ công đức. Nhìn trên bàn, thẻ gỗ mang danh tính thí chủ và tiền tặng xếp thành hàng. Thấy có tấm thẻ đề:
“Đại Cổ ở Narai, cúng lạng vàng lá”, Diệp Hàn Khang hỏi:
– Đại sư thứ lỗi. Mười lạng vàng này quả là món tiền lớn. Đại Cổ ở Narai là ai vậy?
– Bần tăng không rõ. Năm ngoái vị đó qua đây thấy cảnh chùa nghèo, mái dột nên có nhã ý tặng số tiền ấy để sửa lại mái. A di đà Phật ! Thật là công đức vô lượng !
– Chắc là một thương gia giàu có lại có lòng mộ đạo.
– Bần tăng cũng đoán thế. Được biết vị đó còn cúng vào chùa Kim Các tới hai mươi lạng vàng vì trong chùa có đặt vong của Thế Đạt Y Lâm. Vị đó nói:
“Thế Đạt Y Lâm không phải là kẻ phản loạn mà là một hào trưởng có nghĩa khí, đáng được ghi ơn vì đã có công mở mang miền đông nước Nhật”.
Diệp Hàn Khang yên lặng một lúc rồi gật đầu:
– Cũng có lý. Ở đời này, nhiều người có hành vi kỳ lạ …
Chưa kịp giải thích thêm, bỗng nghe ồn ào ở cửa ngoài. Vài ba đứa trẻ đang tranh nhau mách với hai người chân sào và chỉ trỏ ra phía bãi.
Vị tăng bước ra nạt:
– Đi chỗ khác chơi ! Làm gì ồn thế !
– Ngoài kia đang đánh nhau ! Đại sư ra mà xem !
– A di đà Phật ! Lại có chuyện chẳng lành rồi ! Chúng bay nói thật hay bỡn ?
– Thật !
– Xin lỗi chư vị, bần tăng phải ra coi chuyện gì. Bãi này vắng vẻ, mỗi khi có chuyện, bần tăng phải thảo tờ trình cho quan quân đến điều tra, nếu không thì phiền phức lắm.
Vị tăng già xỏ dép, chống gậy hối hả bước ra, theo sau là Diệp Hàn Khang, bà Hồ Điểu và hai người chân sào. Nhưng đến nơi, cuộc chiến đã mãn. Cảnh vật yên lặng lạ lùng. Gió hình như cũng không thổi nữa. Một con én đơn độc chao trên mặt nước ngoài xa rồi mất hút trong đám sậy.
Bốn xác người nằm rải rác giữa những vết chân chằng chịt in lên đất bùn nhão trên bãi và những ngọn lau tơi tả rụng xung quanh. Một thanh niên cao lớn mặc bào đỏ, len lỏi giữa những xác chết ấy ý chừng đang tìm lối ra bờ sông. Lưng hắn đeo kiếm dài.
Hắn không có vẻ gì sợ sệt hoặc quan tâm đến năm người vừa ở chùa ra đứng sững nhìn và mấy đứa trẻ lấp ló sau gốc liễu.
Bỗng có tiếng khàn khàn gọi. Hắn quay lại. Một xác người chống tay ngồi dậy, hổn hển nói:
– Nghiệt súc ! Đừng hòng trốn chạy. Trận chiến chưa xong mà, ta thề sẽ phanh thây mày !
Loáng một cái, lưỡi gươm của gã áo đỏ bổ xuống. Một tiếng rú thất thanh, máu phọt tung tóe. Đầu kẻ vừa nói bị chẻ đôi và tiếng cười của gã áo đỏ vang lên man rợ, thích thú:
– Hà hà ! Bây giờ thì trận chiến xong chưa ?
Đoạn, kéo áo người chết lau kiếm, gã thản nhiên tra vào bao và vũng nước gần đấy rửa tay, gột những chỗ áo bị rây máu.
Vị tăng già nuốt nước bọt thấy khó. Ông chưa bao giờ chứng kiến một cảnh giết người tàn bạo đến thế.
– A di đà Phật ! A di đà Phật !
Vị tăng dường như không nói được gì hơn, chỉ luôn mồm niệm Phật. Nhưng bà Hồ Điểu ngạc nhiên trố mắt. Thấy gã áo đỏ đứng lên, bà gọi rối rít:
– Cát Xuyên Mộc ! Cát Xuyên Mộc !
Cát Xuyên Mộc quay nhìn bà. Chẳng biết gã có nhận ra bà là ai không, chỉ thấy gã mỉm cười rồi rảo bước bỏ đi.
Bờ sông, tiếng sóng vỗ rì rào làm chòng chành con thuyền gỗ.
Chương 62: Mảnh vỏ bào
Diệp Hàn Khang ngạc nhiên, không ngờ bà Hồ Điểu là người ít giao thiệp lại quen biết gã kiếm sĩ trẻ tuổi ấy. Ông cũng định hỏi cho rõ nhưng trước mặt vị tăng già, thấy không tiện lại thôi.
Hai gã chân sào ra chỗ thuyền đậu, sửa soạn cởi giây buộc để dời bến. Thình lình Cát Xuyên Mộc rẽ lau bước tới:
– Các chú chở ta sang bên kia sông được không ?
Còn khiếp sợ vì đường gươm chớp nhoáng của gã thanh niên kiếm sĩ áo đỏ, hai gã ấp úng. May sao bà Hồ Điểu đến. Thấy bà, Cát Xuyên Mộc đổi ngay thái độ, tươi cười hỏi:
– Lão bá làm gì ở đây thế ?
– Ta lên chùa Phổ Giác dâng hương.
– Lão bá đi thuyền này đấy ư ?
– Phải.
– May quá ! Vãn bối cũng muốn sang sông về Edo. Phiền lão bá cho quá giang được chăng ?
Bà Hồ Điểu chưa kịp đáp, Diệp Hàn Khang đã tiến ra vái chào. Nhanh trí và khôn ngoan, ông biết không thể từ chối được nên đi bước trước để mua chuộc cảm tình của Cát Xuyên Mộc. Ông tự giới thiệu mình và ân cần mời chàng thanh niên kiếm sĩ cùng xuống thuyền trở về Edo.
Tâm thuật Diệp Hàn Khang và Cát Xuyên Mộc khác nhau nhiều lắm, nhưng đôi khi những người khác tính nết lại tình cờ có một vài sở thích giống nhau. Diệp Hàn Khang và Cát Xuyên Mộc đều thích ăn cá sống, vì vậy khi cá tươi được mang tới và khay rượu bày ra, cả hai đều tỏ vẻ hoan hỉ. Dưới mắt Diệp Hàn Khang bấy giờ, Cát Xuyên Mộc không còn là một kẻ sát nhân ghê sợ nữa mà là một tri kỷ.
Câu chuyện nổ như pháo ran. Trong lúc cao hứng, chàng thanh niên kiếm sĩ rửa chén chuốc rượu mời bà Hồ Điểu và chủ thuyền, sau đó lại rót cho hai gã chân sào mỗi người một chén. Bà Hồ Điểu hỏi tin tức về Thạch Đạt Lang:
– Hình như hắn vẫn còn ở vùng Edo này. Mùa thu năm ngoái, có người thấy hắn đến thăm một kiếm sĩ có danh vọng về võ học ở ngoại thành.
Diệp Hàn Khang không đồng ý, cho là sai lầm. Nếu Thạch Đạt Lang còn ở Edo thì gia nhân đã báo ông biết rồi. Kẻ chịu ơn ông không hiếm, lại thuộc mọi tầng lớp xã hội, có lý nào hành tung của một kiếm sĩ đã diệt gần hết phái Hoa Sơn qua khỏi mắt họ được.
Tuy tin tức về kẻ thù không rõ nhưng lòng quan tâm theo dõi của hai người làm bà Hồ Điểu yên bụng. Bà hy vọng nếu cả hai cùng giúp thì chóng chầy gì bà cũng bắt được Thạch Kinh Tử.
– Già này được cả hai vị để tâm ra sức giúp cho, thật muôn vàn may mắn. Chắc những lời cầu xin của già đã được đức Phật chứng giám nên ngài run rủi cho gặp hai vị.
Thật là hạnh ngộ.
Nói rồi bà cúi rạp đầu xuống sạp thuyền tạ Ơn và rót rượu mời Diệp Hàn Khang và Cát Xuyên Mộc.
Nhân cơ hội, Diệp Hàn Khang cũng muốn biết thêm về kẻ đối ẩm, bèn đưa đẩy:
– Cát Xuyên đại hiệp ! Thế bốn tên mà đại hiệp vừa giết ở ven sông là ai vậy ? Có liên hệ gì với Thạch Đạt Lang chăng ?
Dường như chỉ đợi có thế, uống xong chén rượu, Cát Xuyên Mộc nhếch mép cười khinh mạn, đáp:
– Có gì đâu mà phải bận tâm ! Bọn đó là tiểu tốt của Hồ Phong chứ không liên hệ gì đến Thạch Đạt Lang. Hồ Phong mở trường dạy binh pháp, ta có đến thăm mấy lần.
Toàn lý thuyết suông. Cũng có lần lão luận về thuật dụng kiếm, nhưng cũng như lý thuyết về binh pháp của lão, hão huyền cả. Ta có lên tiếng chỉ trích thì bị bọn đồ đệ Hồ Phong đả kích và thách thức. Ta chỉ cười và hẹn chúng đến bờ sông Sumida cho chúng nếm thử chiêu kiếm trảm nhạn của ta.
Ngừng một lát, rót thêm rượu uống cạn, Cát Xuyên Mộc lại tiếp:
– Có năm đứa đến, nhưng một đứa sợ quá bỏ chạy ngay từ đầu. Hà hà …Còn bốn đứa kia, làm sao địch nổi một cái vẩy tay của ta được.
Kể xong, hắn gật gù cười nhạt:
– Ở Edo này xem ra chẳng thiếu gì kẻ khoác lác, nói một tấc lên đến trời mà hành động thì khiếp nhược …
– Hồ Phong ? Hồ Phong nào nhỉ ?
– Hồ Phong Hạo Điền, tôn ông không nghe nói đến bao giờ ư ?
– Không, lão phu kiến thức nông cạn …
– Hồ Phong Hạo Điền xuất thân ở đất Cải, một thời giữ chức tham nghị quân sự cho sứ quân Hồ Điền Tân Dã. Bây giờ về hưu, mở trường riêng thu đồ đệ.
Diệp Hàn Khang tuy là một doanh nhân, không hiểu rõ về những việc xảy ra trong giới võ lâm nhưng tính tình chất phác dễ tin người. Những lời Cát Xuyên Mộc nói khiến ông phục lắm. Qua vài mẩu chuyện trao đổi, ông thấy ga thanh niên ngồi trước mặt tuy hợm hĩnh, tàn nhẫn nhưng là một kẻ có tài về kiếm thuật và chắc chắn đường gươm độc đáo của hắn sẽ dùng được việc khi cần, bèn nảy ý muốn mua lòng Cát Xuyên Mộc. “Gã này còn trẻ, chưa cạo đầu xuống tóc như các kiếm sĩ khác mà đã tỏ ra có bản lĩnh và kiến thức, thật không phải dễ tìm. Mình nên tìm cách giữ hắn làm thủ túc”.
– Đại hiệp ! Lão phu có lời đề nghị.
– …
– Hiện trong nhà lão phu có nuôi được chừng bốn năm chục gia nhân đều là thanh niên can đảm, khỏe mạnh. Lão phu có ý muốn xây dựng một võ đường cho họ luyện tập và mời đại hiệp giảng dạy. Đại hiệp nghĩ thế nào ?
Cát Xuyên Mộc ngồi im một lát, đoạn nhìn thẳng vào mặt Diệp Hàn Khang mà nói:
– Tôn ông cũng biết là đã có nhiều sứ quân mời tại hạ, bổng lộc hai ba ngàn gia. lúa mỗi năm nhưng tại hạ chưa tiện nhận lời vì thú thật, hiện nay chưa muốn bị ràng buộc bởi một lời hứa nào cả. Vả lại tại hạ đã định không làm việc gì nếu bổng lộc không được năm ngàn giạ.
Ngưng một lát, hắn lại tiếp:
– Nhưng thế nào cũng có dịp tới vấn an tôn ông.
– Đa tạ đại hiệp.
Bà Hồ Điểu khẩn khoản xin Cát Xuyên Mộc lưu tâm đến lời đề nghị ấy nhưng gã chỉ ậm ừ.
Đến gần cầu Đại Bản, cảnh hỗn tạp vùng tân đô đã thấy xuất hiện. Cát Xuyên Mộc yêu cầu cho thuyền cập bến, từ giã bà Hồ Điểu và chủ thuyền để lên bờ. Nhìn vóc dáng cao lớn của gã thanh niên với thanh kiếm đeo trên lưng dài như cây sào phơi in rõ nét trên nền áo tía khuất dần theo con đường mòn ven đô, Diệp Hàn Khang không khỏi khen thầm, khẽ thốt:
– Chà ! Con người trẻ tuổi mà ghê gớm quá !
Bà Hồ Điểu cũng trông theo. Liên tưởng đến Mãn Hà Chí, bà khẽ thở dài không nói.
Năm ngày sau, Cát Xuyên Mộc đến tư thất Diệp Hàn Khang như một cơn lốc. Chủ nhân hân hoan ra đón, lại gọi gia nhân lần lượt từng người tới cung kính vái chào khiến Cát Xuyên Mộc rất xứng ý.
– Đây là số gia nhân phụ trách trong nhà. Còn một số nữa cũng hiểu biết võ nghệ và kiếm thuật được lão phu sai đi làm chút việc nên không ra mắt đại hiệp được, xin thứ lỗi.
– Tôn ông có nếp sống phong lưu lắm nhỉ !
Diệp Hàn Khang mỉm cười:
– Cũng không phải lo về sinh kế. Như lần trước đã đề nghị với đại hiệp, lão phu muốn mở một võ đường …
– Tại hạ hôm nay đến đây cũng vì lý do ấy. Xin cho xem khu vườn tôn ông định dựng võ đường.
Diệp Hàn Khang dẫn Cát Xuyên Mộc ra vườn sau. Thấy có một số vải đương nhuộm phơi la liệt trên cỏ, Cát Xuyên Mộc ngỏ lời hỏi.
– Vườn rộng, lão phu cho nhà hàng xóm làm nghề thợ nhuộm thuê phơi vải. Nếu đại hiệp nhận lời, để bảo họ dẹp đi.
– Bất tất …Tôn ông dựng võ đường làm gì ! Vườn này khá kín đáo không trông ra đường, chỉ cần khai quang một khoảng đổ cát lên là được. Chẳng ai làm rộn.
– Nhưng nếu trời mưa ?
– Trời mưa tại hạ không đến. Và cũng báo để tôn ông rõ, những buổi tập luyện sẽ nguy hiểm lắm đấy, không như ở các võ đường khác đâu. Tôn ông cần cảnh cáo gia nhân, nếu họ không chú ý sẽ bị tàn phế cả đời hay có khi mất mạng nữa.
– Được rồi ! Họ phải hiểu chuyện đó. Đại hiệp cứ giảng dạy theo ý muốn.
Các buổi luyện tập được ấn định mỗi tháng ba lần vào những ngày mồng ba, mười ba và hăm ba nếu trời không mưa, lương bổng tùy số lần luyện tập nhưng không dưới hai ngàn gia. lúa mỗi năm và các phí tổn linh tinh trong khi giảng dạy chủ nhân phải đài thọ.
Sân luyện võ vừa hoàn tất, Cát Xuyên Mộc đã khai giảng ngay và mới hôm đầu tiên đã không nương tay với các võ sinh dù họ thiếu kinh nghiệm. Đến hôm thứ ba thì đã có một người gãy cẳng và bồn năm kẻ bị thương nhẹ.
Đứng giữa sân, lăm lăm cây kiếm tre, Cát Xuyên Mộc lớn tiếng cảnh cáo:
– Ta đã bảo phải cẩn thận chú ý đề phòng ! Nào ai muốn tập nữa ? Muốn thì vào đây, nếu không ta đi về, khỏi mất thì giờ vô ích.
Trong số võ sinh đứng ngoài lố nhố bên gốc phong lớn, một thiếu niên bước ra nói:
– Vãn sinh ! Xin đại hiệp nương tay cho !
Và cúi xuống nhặt thanh kiếm gỗ.
Một tiếng “chát”. Thanh trúc kiếm của Cát Xuyên Mộc đã giáng vào lưng. Thiếu niên ngã sấp, nằm bất động trên nền cát ẩm, chưa kịp giơ kiếm lên đỡ.
Mọi người xúm đến khiêng thiếu niên võ sinh đặt dưới tàn cây, lấy nước vẩy lên mặt. Nhưng gã không tỉnh, mặt nhợt nhạt, lát sau mắt lạc thần, không thở nữa.
– Các ngươi trông gương đó ! Lúc nào cũng phải cẩn trọng không được sơ hở. Để đối thủ khai thác nhược điểm của mình là điều tối kỵ trong khi giao đấu !
Bầu không khí nặng nề khó thở. Võ sinh đưa mắt nhìn nhau, có người cau mặt giận dữ, có người nhẫn nhục chịu đựng, nhưng ai cũng tỏ vẻ bi thương. Duy Cát Xuyên Mộc không hỏi han và cũng không hề để mắt nhìn đến cái xác không hồn của thiếu niên võ sinh nằm dưới tàng cây phong lớn.
– Nếu cái chết làm các ngươi sợ hãi thì tốt hơn hết nên từ bỏ kiếm thuật. Tinh thần còn quan trọng hơn kiếm thuật. Sự luyện tập là cần nhưng biết khép mình vào kỷ luật để chế ngự xúc động và giữ cho mình cái dũng khí cần thiết khi lâm trận, đó mới là điều cốt yếu. Nào ! Ai là kẻ tự cho mình còn giữ được cái dũng khí ấy thì vào đây !
Không ai lên tiếng và cũng không ai động đậy gì.
Thình lình một võ sinh trung niên cao lớn đứng phía sau Cát Xuyên Mộc nhảy vọt tới với ý định tập hậu hắn. Nghe tiếng gió, Cát Xuyên Mộc cúi rạp mình. Bị mất đà, trung niên võ sinh ngã lộn ra phía trước và thanh trúc kiếm của Cát Xuyên Mộc cũng vừa bổ xuống trúng hông gã. Tiếng thét đau đớn vang lên. May gã chỉ bị gẫy xương chứ không đến nỗi nguy đến tính mệnh.
Cát Xuyên Mộc vứt kiếm xuống sân, tháo bao tay, nói:
– Thôi ngưng ! Hôm nay như thế tạm đủ.
Đoạn ra giếng múc nước rửa mặt.
Xác gã thiếu niên võ sinh được khiêng vào hậu sảnh và người ta lo chữa trị cho những kẻ bị thương. Gia nhân đổ đi tìm Diệp Hàn Khang, kháo với nhau khe khẽ:
– Có lẽ phải nói với chủ nhân ngưng tập thôi. Nguy hiểm quá !
Về đến nhà, Diệp Hàn Khang hốt hoảng đến ngay hậu sảnh thăm gia nhân bị thương và cử người lo việc mai táng cho gã thiếu niên bạc phúc.
Ra nhà ngoài, thấy Cát Xuyên Mộc ung dung ngồi uống trà bên chiếc kỷ thấp, đột nhiên hình ảnh gã kiếm sĩ vung gươm kết kiễu đời kẻ thua trận không đủ sức tự vệ trên bờ sông Sumida tháng trước hiện lên trong trí ông khiến ông nửa bất mãn, nửa phẫn nộ.
Một người, dù có tài năng đến mấy đi nữa mà thờ ơ như thế trước cái chết và sự đau khổ của đồng loại do chính mình gây ra thì người ấy cũng không đáng để ông ngưỡng mộ.
Thấy ông vào, Cát Xuyên Mộc điềm nhiên quay lại hỏi:
– Nghe nói Tân đô có xóm yên hoa mới lập, chủ nhân chắc biết rõ, sao không cho tại hạ đến thăm ?
Muốn uống rượu hay hưởng lạc, Cát Xuyên Mộc thường vẫn có thói đòi hỏi như thế, chẳng biết vì dụng ý trơ trẽn hay chỉ vì tuổi thiếu niên thiếu tế nhị. Diệp Hàn Khang khôn khéo đáp:
– Thế ra đại hiệp chưa đến đó bao giờ ư ? Tối nay lão phu phải ở nhà trông coi gia nhân lo việc tang chứ không thì cũng đến đó với đại hiệp.
Nói đoạn gọi hai tên bộc thân tín là Lý Tuất và Liêu Túc đến đưa cho một số tiền và căn dặn:
– Các ngươi đến đó không phải để ăn chơi mà để đại hiệp sai bảo. Đừng để đại hiệp mất vui. Nhớ lời ta dặn.
Cả ba theo đường mới đắp qua bãi đậu thuyền Kyobashi, đến gần xóm yên hoa thì trời đã chạng vạng. Ban đêm ở tân đô bấy giờ phần lớn chưa có đèn. Những đêm không trăng như đêm nay, trời tối như mực, ba thầy trò Cát Xuyên Mộc bước khấp khểnh khó khăn. Đường gồ ghề, nhiều đoạn đá, cát chất thành đống ngổn ngang, đường chính không đi, đi xuống ruộng.
– Chà ! Đường xá gì mà tồi tệ quá. Đáng lẽ ta phải mang đèn.
Lý Tuất cười:
– Đi chơi mang đèn để tổ người ta cười cho. Ấy ! Cẩn thận, có đống đất mới đào, đại hiệp tránh sang bên kẻo sa xuống hố !
Cả ba cùng nói cười vui vẻ, quên hẳn chuyện bị thảm ban chiều. Đến một cái cầu gỗ bắc ngang qua một con lạch nước đục ngầu phản chiếu màu trời đỏ quạch, Liêu Túc bảo Cát Xuyên Mộc:
– Xóm yên hoa ở bên kia cầu này. Đây là đường tắt, chứ đường chính xa hơn và đông người qua lại. Đại hiệp có cần khăn vải không ?
– Để làm gì ?
– Để che mặt đi một chút. Như thế này …
Hắn vừa nói vừa lấy khăn trong bọc ra choàng lên đầu.
Cát Xuyên Mộc cũng bắt chước, dùng một tấm khăn lụa màu lá úa bịt tóc.
Liêu Túc nhìn rồi nói:
– Được lắm ! Bảnh quá rồi !
Lý Tuất cũng phụ họa:
– Màu khăn thật khéo chọn !
Đến xóm yên hoa, nhà nào nhà nấy đều đã lên đèn. Tuy không được như xóm Liễu ở Kyoto, nhưng cái không khí ăn chơi rộn rịp không kém. Trước cửa thanh lâu phần nhiều có treo rèm lụa màu hoàng yến hoặc nghệ non. Có nhà buộc dây đeo lục lạc hoặc khánh sành dưới chân cửa để báo hiệu cho con em biết mỗi khi có khách đến.
Cát Xuyên Mộc cùng hai gia nhân đi lẫn lộn trong đám khách tìm hoa, người nào trên đầu cũng buộc một vuông khăn như một ước lệ. Họ vào nhà này, nhà kia, ngắm nghía một lúc rồi lại đi ra, dường như chưa vừa ý.
– Thôi, đại hiệp khỏi cần giấu diếm nữa. Lý Tuất nói.
– Giấu diếm cái gì ?
– Đại hiệp bảo chưa tới khu này bao giờ, sao vừa đến nhà đằng kia đã có người nhận ra ngay ?
– Ai ? Ta đâu có biết !
– Một cô em nấp sau tấm bình phong, thấy đại hiệp đến, kêu lên rồi bỏ chạy.
Cát Xuyên Mộc mỉm cười:
– Họ lầm đấy. Ta quả chưa đến nơi này bao giờ.
Nhưng lát sau nghĩ thế nào, hắn lại bảo hai tên theo hầu:
– Hay là trở lại nhà đó, xem cô bé ấy là ai.
– Tùy đại hiệp.
Cả ba trở lại ngôi thanh lâu đầu tiên, trước cửa treo hai chữ Lạc Thiên. Căn nhà mới cất được một phần, kiến trúc dự trù có vẻ quy mô, hàng cột vài mái thấp rập theo lối kiến trúc các đền miếu cổ thành Kyoto, nhưng nhìn kỹ có một vẻ tạm bợ và thiếu phong cách chững chạc. Cát Xuyên Mộc đoán chừng dưới sàn gỗ có lẽ vẫn còn là bãi lầy với cỏ hoang và ếch nhái. Căn đại sảnh dùng làm phòng ăn chưa kịp dọn dẹp, bừa bãi khay rượu, khăn lau tay và những cánh hoa nhàu nát.
Lý Tuất vỗ tay ba lượt, đợi lúc lâu mới thấy một mụ trung niên ra đón vào, mời ngồi bên chiếc bàn thấp ở góc phòng. Trên bàn, độc nhất chiếc lọ sứ nhỏ cắm một bông cúc long trảo đã héo.
– Chỗ này mà gọi là lạc thiên sao ? Cát Xuyên Mộc hỏi, nửa bông đùa nửa chỉ trích.
– Xin quý khách lượng thứ. Quán mới cất, chưa được như ý. Xếp đặt phòng ốc và bài trí chưa đâu vào với đâu. Chừng nào xong, quý khách sẽ thấy quán chúng tôi chẳng kém gì nhà hàng chính Lạc Thiên ở Kyoto khi trước.
– Ồ ! Thế ra đây là hậu thân của Lạc Thiên quán ở Kyoto đấy ?
– Cũng không hẳn thế. Đây chỉ là một chi nhánh mới mở.
Nhìn Cát Xuyên Mộc một lát, mụ rụt rè hỏi:
– Qúy khách tha lỗi, hình như năm trước chúng tôi có gặp quý khách trên đường Koshu thì phải ?
Cát Xuyên Mộc quên lần gặp gỡ ấy nhưng vội nắm ngay lấy cơ hội để làm quen:
– Phải rồi ! Thế là ta cũng có duyên với quán này lắm.
Mọi người cười vui vẻ, không còn nhớ gì đến lời chê bai của hắn lúc trước.
– Dĩ nhiên đại hiệp có duyên với quán này rồi. Lý Tuất tiếp. Có nàng vẫn không quên đại hiệp mà !
Rồi gã tả qua dung mạo và y phục người thiếu nữ nhìn thấy sau bức bình phong cho mụ tài phán nghe. Mụ gật đầu:
– Tiện phụ biết. Tưởng ai chứ nàng đó thì đúng ở đây rồi. Xin để gọi ra bồi tiếp.
Nhưng đợi mãi không thấy ai ra, Liêu Túc nóng ruột lại vỗ tay gọi.
– Khách quan vui lòng thư cho một chút. Chủ nhân đang cho người đi tìm. Không hiểu nàng đi đâu mà tìm mãi không thấy.
– Nàng tên gì ?
– Mộ Hoa Nương.
Mộ Hoa Nương là tên mới của A Kế Mỹ. Sau cái đêm bị kẻ lạ mặt bắt đi và cưỡng bức ở ven sông trấn Hà Châu, tỉnh dậy, A Kế Mỹ không còn cách nào khác là theo đoàn kỹ nữ đến Edo và xin nhập bọn vậy. Nàng mang tên mới do Thôi Nãi Phu đặt cho từ đó.
Thấm thoắt thế mà đã gần hai năm. Kiếp bèo giạt tưởng tạm yên, ai ngờ định mệnh lại đưa đẩy gã này đến với nàng lần nữa. A Kế Mỹ sợ và ghét Cát Xuyên Mộc. Cũng như Sĩ Khánh và tên cường đồ đã cưỡng bức nàng, A Kế Mỹ thấy người đàn ông nào cũng ích kỷ, tàn bạo và đáng ghê tởm, ngoại trừ một người … Người đó, chao ôi ! nghĩ đến chỉ khiến nàng tủi thân muốn khóc. Sự sợ hãi thúc đẩy A Kế Mỹ tìm cách tránh mặt ba người khách. Nàng nép mình trốn trong đống gỗ vụn và dăm bào của căn lều đang dựng ở sân sau. Ngoài kia tiếng gọi “Mộ Hoa Nương” vang đến tai nàng lẫn với tiếng ồn ào của khách chơi đêm, tiếng sênh phách và những tiếng rao hàng lanh lảnh.
Mỗi tiếng gọi lại như làm tăng thêm nỗi lo sợ của A Kế Mỹ khiến nàng cố thu mình nhỏ lại hơn trong bóng tối như con chuột trong lỗ sâu. Nàng ngồi như thế lâu lắm, lắng nghe động tĩnh. Cho đến khi không còn tiếng réo gọi nữa và đồ chừng khách đã đi khỏi, A Kế Mỹ mới bò ra, len lén xuống bếp. Thấy nàng, mụ đầu bếp ngạc nhiên:
– Mộ Hoa Nương ! Đi đâu về thế ? Bao nhiêu người tìm, cả chủ nhân cũng …
– Khe khẽ chứ ! Chủ nhân đâu ?
– Ông lên nhà khách rồi.
– Cho ta chén rượu.
– Rượu bây giờ ư ?
– Ừ, nhanh lên !
Với hũ rượu trên kệ, mụ rót một chén rượu đưa A Kế Mỹ. Nàng ngửa cổ uống một hơi cạn, lấy vạt áo chùi mép đoạn chạy ra cửa.
– Đi đâu đấy ?
– Ta ra giếng sau rửa chân.
– Nhớ lên trình chủ nhân, nghe !
Nhưng A Kế Mỹ không lên đại sảnh gặp Thôi Nãi Phu. Nàng vòng qua bếp mở cổng sau ra đường. Gió đêm thổi lành lạnh. Chút rượu vừa uống khiến nàng chếnh choáng say. Nhìn mấy khung cửa giấy sáng, trên đó hiện lên hình một hai kỹ nữ với khách làng chơi ngồi kề vai nhau, A Kế Mỹ nhổ nước bọt rồi cắm cúi đi thật nhanh về phía trước.
Một cái hố, nước mưa đọng lưng chừng, phản chiếu nền trời sao lấp lánh. A Kế Mỹ dừng lại ngắm, rồi nghĩ thế nào, nhìn lên trời tìm ngôi sao lớn nhất, nàng thì thầm một lời ước.
Đằng xa về phía sau, bóng đèn lồng thấp thoáng. Gió thoảng đưa tiếng chân người và tiếng gọi “Mộ Hoa Nương” đến tai A Kế Mỹ.
Nàng tức giận rủa thầm:
– Đồ súc vật ! Chúng không để người con gái đau khổ này yên thân được lúc nào chăng ? Nước mắt và mồ hôi của ta trong bấy lâu không đủ để chúng mua thêm được cái cột hay cây kèo nào sao ?Đừng hòng bắt ta trở về nữa !
A Kế Mỹ rẽ theo đường mòn xuống ruộng. Trong bóng tối, nàng rảo bước đi nhanh, hy vọng chóng ra khỏi chỗ này càng sớm càng tốt.
Trên đầu nàng, vướng trong tóc, một mảnh vỏ bào cũng theo nhịp chân nàng bước mà nhún nhảy như múa.
Khi cả ba dời khỏi trà thất thì Cát Xuyên Mộc đã say chếnh choáng, phải vịn tay vào vai Lý Tuất mới đi được.
Phố xá vắng teo. Về đến gần bờ lạch, trời tối om nhất là qua những quãng đường có tàng cây rậm rạp. Đêm không trăng, dưới ánh sao lờ mờ khi ẩn khi hiện, cả ba bước thấp bước cao, không phân biệt được chỗ nào là đường chỗ nào là vệ cỏ nữa Lý Tuất bực dọc nói bâng quơ:
– Đã bảo ngủ lại, mai về có phải hơn không !
Liêu Túc cũng phụ họa:
– Phải rồi. Sao đại hiệp không ngủ lại ?
– Ngủ ở đâu ? Cát Xuyên Mộc lè nhè. Ở cái trà thất hôi hám đó à ? Không đời nào !
Thà trở lại quán Lạc Thiên còn hơn.
– Không nên …
– Sao lại không nên ?
– Nàng đó tuy biết đại hiệp song lại cố ý lánh mặt. Như thế thì còn thú vị nỗi gì ?
Cát Xuyên Mộc đập tay vào vai Lý Tuất:
– Phải ! Phải ! Ngươi nói phải lắm !
– Đại hiệp muốn cùng vui với nàng không ?
– Không.
– Nhưng vẫn nhớ nàng phải không ?
– Trong đời, ta chưa bao giờ nhớ ai cả. Ta không phải hạng người dễ say mê đàn bà. Ta có nhiều việc khác phải làm !
– Việc gì ?
– Tiền tài ! Danh vọng ! Lòng ngưỡng mộ của người đời ! Ta muốn …
– Ấy cẩn thận ! Đống đá trước mặt !
Cát Xuyên Mộc tránh sang bên. Đột nhiên, hắn gạt tay Lý Tuất và Liêu Túc rồi quát lớn:
– Ai ?
Một bóng đen nhào tới, mũi kiếm phóng thẳng vào bụng Cát Xuyên Mộc cùng với tiếng thét:
– Coi đây !
Tình hình khẩn cấp khiến Cát Xuyên Mộc tỉnh hẳn rượu. Hắn nghiêng mình tránh mũi kiếm sát thủ, rồi nhảy lên tảng đá đảo mắt nhìn. Quanh hắn, hàng chục bóng đen khác lố nhố từ các lùm cây ven lộ xông ra – Súc sinh ! Mày giết bạn đồng môn của ta, mày phải chết.
Cát Xuyên Mộc cười gằn, với tay ra sau lưng rút “cây sào phơi” nhanh như một lằn chớp.
Chương 63: Đĩa cá nướng
Bỏ ý định đi Mitsu gặp Liêu Chính Mộ Đức, Thạch Đạt Lang phiêu bạc khắp miền trung nước Nhật gần hai năm. Cuộc sống khổ hạnh, bất trắc đã tôi luyện chí khí hắn, cho hắn nhiều dịp giúp đỡ đồng loại và những kinh nghiệm quý báu về kiếm thuật. Say mê nếp sống hải hồ, phóng dật, Thạch Đạt Lang không để ý đến bề ngoài. Quần áo lôi thôi lếch thếch, râu ria lởm chởm, hắn mặc kệ, đói thì đào củ, hái trái cây rừng mà ăn, lạnh thì hiên chùa, cùng lắm bụi cây, hốc đá chố nào cũng là chỗ trú.
Sau khi thoát hiểm trên đồi Hòa Đa, hắn đến Edo lưu lại vài ngày rồi lại hướng về phía Thiên Đài mà đi. Hắn không muốn sự ràng buộc nào nên đã quyết định không lên phương bắc phục thị Liêu gia nữa. Số tiền Mạc Khải Kỳ tặng chưa trả được, Thạch Đạt Lang vẫn còn áy náy.
Cuộc sống phiêu bồng đưa đẩy hắn đến bình nguyên Hotengahara, nơi đây năm trăm năm trước, Nasakado đã khởi loạn. Bình nguyên này cho đến ngày nay vẫn thế :
một vùng hoang vu đầy lau thưa với cỏ dại. Đây đó, vài gốc sồi ngả nghiêng bên những thân cây mục nát đổ dài trên đất sỏi như xác những kẻ chiến bại bị đốn ngã từ nhiều thế kỷ trước.
Mặt trời xế về tây. Ráng chiều nhuộm hồng mặt nước đầm cỏ lác gần đó khiến bóng những ngọn cói đen, cao, rõ rệt như cắt trên nền nước sáng.
Nhìn quanh không hy vọng gì có chỗ trú ngụ qua đêm, Thạch Đạt Lang ngồi nghỉ chân bên một gốc cây mục. Hắn cảm thấy mệt mỏi. Sau trận bão vừa qua trên đồi Tochigi, khí trời ẩm thấp lùa vào lần áo trong làm hắn rùng mình ớn lạnh. Đã mấy hôm nay chỉ ăn hạt giẻ với rễ cây, hắn ao ước một bếp lửa ấm, một bát cháo nóng hay một thứ gì ăn cho chắc bụng.
Cơn gió thoảng mang đến vị mằn mặn của muối. Tiếng ếch kêu lúc xa lúc gần.
Thạch Đạt Lang đoán chừng sắp hết bình nguyên. Cứ đi nữa chắc sẽ ra bờ biển, có thể gặp xóm chài nào đó xin tá túc. Nếu không lại phải ngủ qua một đêm ngoài trời nữa.
Những lúc khác, có lẽ Thạch Đạt Lang đã tận hưởng cái thú được một mình trong cảnh tịch mịch như thế này. Nhưng sau nhiều ngày thiếu thốn, hắn chỉ thấy một cảm giác đau thương đến buốt nhói trong lòng và muốn xua đuổi cái cảm giác ấy đi. Trớ trêu thay, tiếng muỗi vo ve cùng những tiếng côn trùng ri rỉ xung quanh lại như đồng lòng lôi kéo, bao vây hắn trong niềm cô quạnh mà hắn không sao dứt ra được.
Thạch Đạt Lang đứng lên men theo con lạch nhỏ. Đến bờ đầm, bỗng nghe bì bõm trong đám cỏ lác, rõ là tiếng chân người hoặc tiếng rái cá bắt mồi. Đầm này sâu, mặt nước cao, chắc rái cá tụ vào đây không phải là ít ! Trong bóng tối chập choạng, hắn mở to mắt nhìn. Quả có bóng người đang lúi húi. Trông kỹ thì ra một đứa trẻ.
Thấy động, thằng bé ngẩng lên. Nó cũng chẳng khác gì con rái cá, quần áo đầy bùn đất nhưng hai mắt long lanh, đen, tròn nhìn Thạch Đạt Lang dò xét.
Mừng được gặp đồng chủng, Thạch Đạt Lang cười vui vẻ:
– Chú bé làm gì đó ?
– Bắt cá !
Thằng bé đáp gọn lỏn, đồng thời giơ cho hắn xem chiếc rổ tre đựng chừng chục con cá to bằng ba ngón tay, vẩy trắng bạc đang quẫy lẫn trong những cọng rong và lá cỏ phủ trên mặt.
– Nhiều cá nhỉ !
Thằng bé lắc đầu:
– Cũng chẳng nhiều. Bắt từ trưa đến giờ mới được chừng ấy. Mùa thu rồi, cá trốn xuống bùn hết.
– Bán cho ta được không ?
– Bán chỗ cá này ấy à ?
– Ừ, cho ta mua, ta sẽ trả tiền.
– Không được. Cá này tôi bắt về cho cha tôi.
Dứt lời nó ôm rổ cá nhảy lên bờ. Một loáng đã mất dạng trong đám cỏ tranh cao bằng đầu người, không để lại dấu vết.
– Thằng này nhanh nhẹn quá !
Thạch Đạt Lang bất giác hồi tưởng lại những kỷ niệm cũ thuở thiếu thời và nghĩ đến Giang, đứa học trò nhỏ bây giờ chẳng biết trôi giạt nơi đâu. Lần cuối gặp Giang ở trấn Kiso, gần biên giới tỉnh, bấy giờ nó mới mười lăm. “Nay chắc đã lớn, gần mười bảy tuổi rồi còn gì ! Tội nghiệp ! Nó gọi mình là sư phụ, tôn kính phục thị mình mà mình đã làm được gì cho nó đâu !”.
Nhớ đến những lúc đi với Giang và Oa Tử, hắn phiền muộn khôn cùng, tự trách mình đã không làm tròn bổn phận bảo vệ hai người trong cơn hoạn nạn. Trăng lên từ bao giờ hắn không biết. Mãi khi nhìn thấy bóng mình kéo dài trên nền cỏ ướt sương, hắn mới sực tỉnh. Vầng trăng đầy, tròn vành vạnh tỏa ánh sáng lung linh lên cánh đồng mênh mông càng làm tăng nỗi hiu quạnh trong lòng hắn. Nhớ lại những đêm trăng sáng như đêm nay, Oa Tử thường mang sáo ra thổi. Qua nhạc dế nỉ non, Thạch Đạt Lang nghe văng vẳng tiếng sáo của Oa Tử xen lẫn với những tiếng cười trong như thủy tinh của nàng và Giang. Thạch Đạt Lang lẳng lặng đi như kẻ mộng du. Vầng trăng chênh chếch ngang vai, biểu tượng mối tình son sắt của nàng, theo hắn từng bước, trung thành và im lặng.
Đi như thế chẳng biết bao lâu, bỗng xa xa thấy thấp thoáng có ánh đèn. Mừng được chỗ nghỉ chân và biết đâu chẳng có cái gì ăn lót dạ, Thạch Đạt Lang rảo bước về phía ấy.
Nhưng đến nơi, căn lều gỗ trơ trọi đen ngòm sau rặng lau cao khiến hắn e ngại.
Cửa đã đóng kín. Một tiếng ngựa hí vang. Hắn giật mình nắm đốc kiếm.
– Ai đó ?
Hắn nhận ngay ra giọng thằng bé bắt cá hồi chiều.
– Ta là khách lỡ đường, muốn ngủ nhờ một đêm, sáng mai đi sớm.
Tấm ván cũ dùng làm cửa được kéo sang bên, đứa trẻ thò đầu ra dò xét.
– À ! Ông khách !
Đoạn bước hẳn ra ngoài, nhìn Thạch Đạt Lang một lúc, nó nói:
– Được, mời ông vào.
Căn lều đổ nát quá đỗi. Mái tranh nhiều lỗ hổng, ánh trăng xuyên qua vẽ lên vách lá những vệt sáng tròn loang lổ. Cuối lều sát với một căn phòng, tạm gọi là phòng vì được ngăn ra bằng mấy tấm ván cũ, là một chỗ lõm xuống dùng làm bếp. Trong bếp than, sậy đã tàn nhưng mùi khét của những thân sậy chưa cháy hết vẫn còn phảng phất.
Đứa bé khêu to ngọn đèn dầu thông đặt trên bệ đất, mời Thạch Đạt Lang ngồi vào chiếc chiếu độc nhất trải trên nền nhà rồi quỳ xuống trước mặt hắn, trang trọng nói:
– Xin tha lỗi, nhà nghèo không có gì đãi khách. Lúc nãy ở ngoài đầm, ông ngỏ ý muốn ăn cá, bây giờ còn ý muốn ấy không ?
Trong căn lều nát, dáng trịnh trọng của thằng bé khiến Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Hắn không nói mà chỉ nhìn nó chăm chú. Thấy khách nhìn, thằng bé cũng nhìn lại, chờ câu trả lời.
– Ngươi bao nhiêu tuổi ?
– Mười hai.
Đứa trẻ đáp buông sõng. Nhìn khuôn mặt nó, Thạch Đạt Lang phân vân vì nó hao hao giống một khuôn mặt nào đó hắn không nhớ. Tuy thằng bé nhem nhuốc đen đủi như củ sen vừa móc dưới bùn lên, nhưng khuôn mặt ấy có nhiều nét thanh tú. Đặc biệt là đôi mắt sắc sảo vô cùng, vừa thông minh vừa cương nghị khiến hắn có cảm tình ngay.
Không thấy khách nói gì, đứa trẻ lại tiếp:
– Trong nhà cũng còn cháo kê nấu đậu. Cá nướng phần cha tôi rồi, ông có thể dùng chỗ còn lại.
Thạch Đạt Lang mỉm cười nghe câu nói thật thà ấy. Hắn gật:
– Tốt lắm. Vậy mang ra đây cho ta.
– Ông dùng trà không ?
– Nếu có trà thì còn gì bằng !
– Vậy ông chờ đấy.
Thạch Đạt Lang nghe tiếng đứa nhỏ bẻ những thân sậy ở phòng trong rồi tiếng thổi lửa phù phù. Chắc nó đang đun nước.
Qua khe vách, khói cuồn cuồn tuôn ra, xua hàng đàn muỗi với bọ mát bay tứ tung khắp chỗ.
Lát sau thằng bé bưng ra một cái khay gỗ trên bày lộn xộn những thứ thực phẩm vừa kể, kèm theo một ấm trà, đôi đũa và cái bát sành, để tất cả lên chiếu trước mặt khách.
Đang đói bụng, Thạch Đạt Lang không nề hà, ăn một loáng đã hết cả món cá nướng và bát kê nấu đậu. Hắn chép miệng ra vẻ còn thòm thèm, gật đầu cám ơn thằng bé.
– Ngon lắm ! Cho ta gửi lời cảm ơn chủ nhà nữa. Chủ nhà đâu ? Chắc ngủ rồi !
Đứa trẻ cười hì hì, lấy tay chỉ vào mũi mình:
– Chủ nhà đây !
Thạch Đạt Lang trố mắt:
– Ngươi là chủ nhà ?
Đứa trẻ gật. Yên lặng ngượng nghịu một lát, Thạch Đạt Lang lại hỏi:
– Ngươi ở một mình thì làm gì mà sống ?
– Bắt cá, trồng rau, cho thuê ngựa. Con ngựa buộc đằng trước ông thấy đó. Tôi cho thuê và làm nài giữ ngựa luôn.
Thằng bé vừa nói vừa thu xếp khay mang vào.
– Khuya rồi, ông đi nghỉ thôi ! Nằm ngay trên chiếu ấy. Nhà chỉ có thế !
Thạch Đạt Lang cảm ơn, cởi áo ngoài ra làm gối, dựa song kiếm vào vách cạnh túi hành trang rồi nằm nghỉ. Giấc ngủ đến chập chờn. Qua tiếng muỗi vo ve, hắn nghe đâu đây tiếng mưa rơi trên mái tranh và tiếng rin rít của sắt đá cọ vào nhau. Tỉnh dậy, mồ hôi toát ra như tắm ướt cả lần áo lót.
Bên ngoài, ánh trăng vẫn vằng vặc. Từ hiên vọng vào nhiều tiếng xoèn xoẹt, dường như có người đang mài dao trên đá. Một con dao hay một lưỡi kiếm ? Thạch Đạt Lang nhẹ nhàng ngồi dậy, đưa tay với thanh trường kiếm kéo lại gần mình. Tiếng mài dao dừng lại, tiếp theo giọng đứa trẻ hỏi:
– Ông tỉnh rồi à ?
Hắn cau mày. “Sao nó biết mình đã tỉnh ?” và hết sức ngạc nhiên về sự linh mẫn của thằng bé.
Ghé mắt qua khe vách, hắn thấy thằng bé bắt cá đang ngồi mài một lưỡi dao, loại dao dùng để phát cỏ của nhà nông, dài đến hơn thước. Bên cạnh nó là cái hũ sành đựng nước.
– Ban đêm mài dao làm gì vậy ?
– Ông sợ hả ?
Câu hỏi như nhát kiếm đâm vào tâm thức Thạch Đạt Lang. Hắn yên lặng, tự hỏi hay thằng bé này là một con rái cá thành tinh ở dưới đầm hiện lên trêu chọc hắn. Ở những chốn đầm lầy, thiếu gì chuyện chồn, cáo, rái cá sống lâu năm thành tinh có thể đọc được những ý tưởng thầm kín của người ta rồi đội lốt người, hiện lên quấy phá.
Thạch Đạt Lang đứng dậy bước ra hiên đến bên thằng bé:
– Ngươi mài dao làm gì thế ? Hắn hỏi lại.
Đứa trẻ chùi lưỡi dao và quần rồi giơ lên cao. Lưỡi dao loáng dưới ánh trăng. Nó đưa hai ngón tay sờ thử xem sắc hay nhụt, đoạn nói:
– Ông nghĩ dao này chặt người làm đôi được không ?
Thạch Đạt Lang cau mặt:
– Còn tùy …
Thằng bé ngẩng nhìn Thạch Đạt Lang ra ý hỏi.
– Còn tùy cách sử dụng. Ngươi biết cách dùng nó không ?
– Biết chứ !
– Định chặt ai thế ?
– Cha tôi !
Câu trả lời khiến Thạch Đạt Lang giật mình sửng sốt. Từ khi bước vào lều, hắn không ngờ đứa trẻ lại có ý tưởng ghê gớm đến thế !
– Chặt cha ngươi ra làm đôi ? Ngươi nói đùa không đấy ?
– Thật mà !
Thạch Đạt Lang phẫn nộ kêu lớn:
– Ngươi có ý định giết cha ? Ngươi có biết thế là vô luân hay không ? Đến lang sói ở đồng hoang này cũng không thế !
– Tôi đâu có giết. Tôi chỉ cắt đôi ra thôi mà …
– Thằng này điên rồi !
Thạch Đạt Lang nhảy lại định giật con dao. Nhưng thằng bé kêu lên:
– Không ! Không ! Nếu không chặt ra thì làm sao tôi mang đi chôn được !
Thạch Đạt Lang khựng lại:
– Thế cha ngươi chết rồi à ?
– Phải. Chết rồi ! Lúc sáng.
Thạch Đạt Lang thở phào tựa người vừa trút được một gánh nặng. Nhìn ra xa, đồng cỏ hun hút dưới ánh trăng mơ hồ như trong truyện liêu trai. Hắn lắc đầu, không ngờ cuộc đời lại có những chuyện bi hài đến thế được !
– Thi thể để đâu ?
– Ở phòng trong, ông vào mà coi !
Thạch Đạt Lang theo thằng bé vào phòng. Nó mang theo cái đèn đã khêu to ngọn đặt lên chiếu. Trên chiếu, xác một ông già mặt kimono mới, nằm ngay ngắn, tay để lên ngực, mái tóc bạc phơ cuốn gọn gàng trong chiếc mũ vải nông dân. Đầu chiếu, trên một cái kệ thấp bày bát cơm, bát nước và một đĩa gỗ đựng mấy con cá nướng, một cái lọ nhỏ cắm vài bông hoa dại còn tươi.
Trông đĩa cá, nhớ đến lúc hắn đòi mua những thứ ấy của thằng bé mang về làm lễ cúng cha, Thạch Đạt Lang cảm thấy bẽ bàng. Nghĩ rằng hắn cũng đã chia sẻ một phần những lễ vật kia, Thạch Đạt Lang chắp tay cúi đầu kính cẩn trước thi hài chủ nhân để tỏ lòng cám ơn và từ biệt.
Thằng bé mắt đỏ hoe. Nó không khóc, chỉ bậm môi. Thạch Đạt Lang khen cho lòng can đảm ấy và liên tưởng đến hành động thực tế của nó, mài dao định cắt thi thể cha ra để mang đi chôn cho dễ, hắn không biết phải nghĩ thế nào. Trong những tâm hồn hoang dã, ý niệm về luân lý có khác với ý niệm của mọi người. Một hành động khác thường trong một cảnh huống khác thường, âu đành coi như vậy !
– Ngươi định chôn cha ngươi ở đâu ?
– Trên đồi. Chỗ ấy cao, không ngập nước.
– Không mướn được ai khiêng xác hay sao ?
– Không có tiền.
– Ta tặng một số tiền làm ma.
Đứa trẻ lắc đầu:
– Cha tôi không muốn thế. Ông không nhận tiền tặng của ai bao giờ, mà cũng không muốn lễ lạc gì ở chùa nên không cần tiền.
Xem thái độ của thằng bé và nghe những lời nó nói thì gia đình này chắc không phải gia đình nông dân và có một quá khứ muốn giấu. Tôn trọng ý muốn ấy, Thạch Đạt Lang đề nghị giúp đứa nhỏ trong việc chôn cất.
Hôm sau, mới hửng sáng, thi thể ông lão đã được bó chặt lên lưng ngựa chở đi, đứa bé dẫn đường và Thạch Đạt Lang theo sau.
Đồng hoang khá rộng, nhiều chỗ lầy lội chỉ mọc toàn một thứ cỏ lác. Gặp những chỗ như thế, ngựa chở nặng không qua được, Thạch Đạt Lang phải vác thi thể ông lão lên vai, lựa chỗ đất rắn hoặc bước lên thân cây đổ mà đi. Xế trưa mới tới bãi tha ma trên một quả đồi trong một khu rừng thưa. Rải rác đây đó vài ngôi mộ, có ngôi chỉ còn là những nấm đất thấp lè tè, cỏ đã vàng cháy.
Tìm đến chỗ mấy ngôi mộ cũ có dựng bia, đứa bé ngỏ ý muốn an táng cha ở đấy.
Hai người hì hục đào huyệt xong, đặt thi thể ông lão xuống và lấp đất. Đứa bé cắm những bông hoa dại lên mồ rồi chắp tay cung kính vái. Nó nói:
– Ông bà và mẹ tôi chết đều chôn ở đây cả. Những mộ này là mộ các vị ấy.
– Sao không có danh tính gì khắc trên bia mộ ?
– Ông tôi không cho ! Cha tôi dựng những tấm bia đá này để đánh dấu. Theo lời kể lại thì lúc còn sống, ông tôi được nhiều nhà quyền quý đến thăm, mời giữ nhiều chức vụ.
Nhưng ông tôi không nhận, bảo rằng kiếm sĩ chỉ thờ một chủ. Nếu thất bại, không bảo vệ được chủ soái thì phải mai danh ẩn tích đi. Cho nên ông tôi về cày ruộng, không muốn lộ danh tính nữa.
– Ngươi biết tên tổ phụ ngươi là gì không ?
– Không. Cha tôi không cho biết.
– Cha ngươi tên gì ?
– Người ta thường gọi là Hạo ông.
– Thế còn ngươi ?
– Tôi tên Hạo đồng.
– Có anh chị em gì không ?
– Có. Có một người chị lớn nhưng không biết mặt vì khi tôi sinh ra thì chị tôi đã biệt tích rồi. Không biết giờ ở đâu !
– Bây giờ còn một mình, ngươi định làm gì ?
– Không biết nữa. Chắc vẫn bắt cá, trồng rau, chăn nuôi như trước.
Trên đường về, Thạch Đạt Lang nhìn cảnh bình nguyên trải dài trước mặt. Hắn lấy làm lạ tuy ở đây không có cây to, nhưng đất đai chẳng phải không màu mỡ. Xem những bụi lau, bụi cói thì biết. Xanh biếc tốt tươi. Chỉ những chỗ nào xa bờ đầm thì cỏ mới úa vàng cằn cỗi. Vấn đề có lẽ là nước. Hoặc trời ít mưa hoặc không giữ được nước lâu.
Nếu biết chế ngự thiên nhiên, con người sẽ giàu mạnh. Không hiểu vì sao vùng bình nguyên này lại không được khai phá. Cư dân ở đây quá nghèo. Đất rộng dân thưa mà phải chịu cảnh cơ cực thì cũng lạ. Nhìn Hạo đồng đi bên cạnh dắt ngựa, hắn tự nhủ:
“Như thằng bé này can đảm và tháo vát, nếu chưa khá được, chắc cũng vì còn nhỏ tuổi quá mà thôi !”.
– Hạo đồng ! Ngươi muốn ở đây cả đời trồng rau, bắt cá không ?
Nó lắc đầu:
– Không !
– Ngươi ước muốn làm gì ?
– Làm kiếm sĩ. Tôi muốn được như cha tôi.
– Cha ngươi là nhà nông, đâu phải kiếm sĩ !
– Vừa là nhà nông, vừa là kiếm sĩ. Tôi vẫn thường xem ông luyện kiếm ở sau nhà.
Thạch Đạt Lang không hỏi nữa, lẳng lặng đi bên Hạo đồng. Những lời hắn dự đoán quả không sai. Hắn thấy thương thằng bé.
Lát sau, Hạo đồng ngập ngừng hỏi:
– Ông khách ! Ông cũng là kiếm sĩ phải không ?
Thạch Đạt Lang gật:
– Ngươi hỏi làm gì ?
– Cha tôi chết rồi, không còn ai thân. Ông cho tôi theo được không ?
Thạch Đạt Lang không đáp, cứ lẳng lặng đi. Hắn đã đoán trước ý thằng bé nhưng phân vân quá. Giang là đồ đệ mà hắn cũng chưa làm được gì cho nó, lại không biết hiện giờ Giang ở đâu; nay nhận thêm Hạo đồng nữa, trách nhiệm càng nặng, biết có chu toàn được không hay chỉ làm nó khổ ! Nhưng thấy thằng bé nhỏ tuổi mà can đảm, trong tình trạng tứ cố vô thân khẩn cầu mình, nếu không giúp, nó sẽ trông vào ai ? Nếu cứ sợ trách nhiệm thì không làm được gì. Cha mẹ sinh con, chưa chắc đã bảo đảm được đường đi của con mình …Vả lại ai có thể khách quan để cả quyết được đường này đối với nó là tốt, đường kia đối với nó là xấu ? Hạo đồng muốn trở thành kiếm sĩ ? Được ! Nếu ước vọng của nó chỉ có thế, ta có thể dẫn dắt nó và trong cảnh ngộ này, có lẽ ta chỉ làm được vậy thôi.
Mải suy nghĩ và bị giằng co bởi lòng thương người và trách nhiệm, Thạch Đạt Lang vẫn chưa trả lời đứa bé.
– Nếu ông thuận, tôi sẽ dẫn ngựa và hầu hạ Ông. Ông chỉ phải dạy tôi cách đánh kiếm.
Thạch Đạt Lang bật cười:
– Không phải chỉ có thế. Muốn trở thành kiếm sĩ, ngươi phải nhẫn nhục và chịu nhiều gian khổ.
Cho là Thạch Đạt Lang không chịu thu mình làm đồ đệ, Hạo đồng quỳ ngay xuống trước mặt hắn, khẩn khoản:
– Xin ông giúp tôi thành kiếm sĩ. Lúc còn sống, cha tôi vẫn ước mong như thế nhưng chẳng tìm được ai để nhờ cậy.
– Hừ ! Thôi đứng lên ! Trước khi quyết định, ngươi hãy cho ta biết ngươi có đủ ý chí và khả năng không đã !
Hạo đồng mừng cuống quít:
– Dạ đủ ! Đủ !
– Khoan, để xem.
Rồi nhìn quanh, Thạch Đạt Lang tìm được một cành cây gãy, nhặt đưa cho đứa bé:
– Cầm cành này đánh ta. Xem ngươi dùng gậy ra sao.
– Nếu đánh trúng, ông cho tôi theo chứ ?
– Cứ thử đi đã.
Hạo đồng cầm cành cây múa tít xông vào. Thạch Đạt Lang né tránh rồi luồn ra phía sau phát vào lưng nó khiến nó ngã sấp. Lồm cồm bò dậy, thằng bé lại nhảy tới dùng cành cây đâm vào bụng Thạch Đạt Lang. Lần này nó chỉ đâm dứ. Cành cây chưa đến bụng, nó đã thu về phạt ngang chân địch thủ.
Thấy Hạo đồng cũng biết biến chiêu và cách cầm côn của nó tuy vụng về nhưng không đến nỗi tệ, Thạch Đạt Lang khen:
“Giỏi !”. Hắn đá cành cây bắn ra xa rồi thuận tay nắm thắt lưng thằng bé nhấc bổng lên. Hạo đồng dãy dụa, tức giận mặt đỏ bừng nhưng không thốt một lời nào.
– Ngươi đã chịu chưa ? Có muốn học kiếm nữa không ?
– Vẫn muốn học.
– Để làm gì ?
– Để thắng địch thủ.
– Ngươi trong tay ta, thắng thế nào được !
– Ông khỏe và lớn hơn tôi nhưng tôi sẽ tập luyện để thắng.
Thạch Đạt Lang cười ha hả:
– Ngươi nên nhớ trong khi ngươi tập thì ta cũng tập …
– Nhưng ông nhiều tuổi hơn, ông già trước tôi. Tôi thắng ông được !
– Hừ ! Nếu ta vất ngươi xuống phiến đá kia cho ngươi dập xương mà chết, ngươi có sợ không ?
– Không sợ !
– Bướng thật !
Hắn ném Hạo đồng xuống cỏ. Thằng bé đau nhưng vùng trở dậy nhặt cành cây xông vào nữa, lần này dáng quyết liệt.
– Thôi !
Thạch Đạt Lang xua tay. Hắn nhìn Hạo đồng lăm lăm cây gậy, cười mà bảo nó:
– Được rồi. Ta thu ngươi làm đồ đệ.
Về đến lều, trời tối mịt. Trên quãng đường còn lại, Hạo đồng vui vẻ hết sức, nhất định mời Thạch Đạt Lang ngồi lên lưng ngựa để nó dẫn đi. Cách xưng hô của nó với Thạch Đạt Lang cũng đổi khác. Nó gọi Thạch Đạt Lang là thầy và xưng con.
Tuy không được học hành nhưng Hạo đồng tỏ ra lễ phép và cũng biết đôi chút đạo lý mà Thạch Đạt Lang đồ chừng đã được cha nó dạy cho. Ngoài ra, về gia thế, nó không rõ gì hơn ngoài họ nó là Hạo.
– Ông con trước khi chết đã đốt hết gia phả. Cha con lại không muốn tiết lộ lý lịch của tổ tiên nên đến đời con không còn biết gì nữa.
Thạch Đạt Lang thở dài:
– Thật đáng tiếc ! Con là Hạo đồng, nhưng đồng không phải là tên riêng mà chỉ có nghĩa là thằng nhỏ. Từ nay ta gọi con là Hạo Nhiên, con có bằng lòng không ?
– Hạo Nhiên là gì hả thầy ?
– Hạo Nhiên là ngay thẳng. Ta muốn suốt đời con giữ cái chí khí ngay thẳng con vẫn có.
– Vậy con xin bái lĩnh.
Nói đoạn dập đầu xuống lạy tạ.
– Hạo Nhiên ! Ngày mai chúng ta sẽ lên đường đi khỏi nơi đây. Đêm nay là đêm cuối cùng con sống dưới mái nhà này. Mười hai năm, chắc con có nhiều kỷ niệm. Hãy giữ những kỷ niệm ấy, đừng quên con thuộc dòng họ Hạo.
Mắt Hạo Nhiên mờ lệ.
– Thế con có được mang vật gì làm kỷ niệm trong nhà này không ?
– Được ! Con thích vật gì cứ mang, nhưng đừng cồng kềnh, cản trở bước đường phiêu lưu của con.
Hạo Nhiên vào phòng trong, lấy cái đĩa gỗ đựng cá cúng cha cất vào bọc.
Chương 64: Khẩn hoang
Tinh sương ngày hôm sau, hành trang của Hạo Nhiên đã được gói gọn trong một cái đẫy vải. Nhưng nó bịn rịn mãi, hết đi ra lại đi vào, dường như không dứt ra khỏi được mấy luống hành và rau cải giồng trong vườn, lòng bâng khuâng nhớ tiếc. Thạch Đạt Lang cũng đã dậy. Hạo Nhiên nhóm lửa pha trà nóng bưng lên. Nhìn tiểu đồ gọn gàng trong bộ kimono mới màu chàm, chân đi dép cỏ, hắn chạnh lòng nhớ đến Giang. Trông Hạo Nhiên như một con ếch nhỏ, gầy guộc. Thấy ánh mắt thằng bé thoáng vẻ lo âu, Thạch Đạt Lang gọi nó đến gần:
– Hạo Nhiên ! Bỏ nơi này đi, con có hối hận gì không ?
Nó khẽ lắc đầu:
– Không ! Con chỉ hơi buồn.
Nhưng vội tiếp ngay, giọng cả quyết:
– Con đã nhất định rồi. Con không hối hận.
– Vậy tốt. Mong con thành đạt. Bây giờ hãy dẫn ngựa ra buộc vào cây đằng kia rồi thu xẻng cuốc, búa rìu lại, phòng có lúc dùng đến.
– Thế thầy cũng đi chứ ? Để con dẫn ngựa tới.
– Cứ làm theo lời ta bảo đã !
Buộc ngựa xong và gom nông cụ lại rồi, Hạo Nhiên trở lại đến bên thầy chờ sai khiến.
– Căn nhà này đã che mưa nắng cho con trong nhiều năm. Bây giờ bỏ đi, con hãy cám ơn và vĩnh biệt nó, đừng luyến tiếc.
Rồi Thạch Đạt Lang lại tiếp:
– Ta sẽ đốt nó đi, con bằng lòng không ?
– Đốt đi ?
– Ừ. Nếu bỏ hoang, nó sẽ là nơi trú chân của quân cường đạo. Tủi vong hồn tổ phụ con và chắc cha con cũng không bao giờ muốn thế !
Hạo Nhiên lặng thinh, nhưng lòng nó bồi hồi muốn khóc. Lát sau, nó gật đầu.
Khi Thạch Đạt Lang bước ra, căn lều đã chớm bốc khói. Chỉ một loáng, ngọn lửa phừng phừng dâng cao, đỏ rực. Tàn than như những cánh bướm đen chao lượn trên không. Gió thổi ù ù giữa những tiếng nổ răng rắc của thân tre và thân sậy. Hai thầy trò đăm đăm đứng nhìn ngọn lửa thiêu dần túp lều cho đến khi cả mái lều sập xuống.
Hạo Nhiên bỗng khóc òa. Thạch Đạt Lang vỗ lưng nó, an ủi:
– Thôi, ta đi, con ! Nếu cứ bận tâm về dĩ vãng thì chẳng bao giờ làm được việc gì cả.
Thằng bé miễn cưỡng chùi nước mắt, nhặt đẫy vải đeo lên vai, lủi thủi theo thầy đến chỗ buộc ngựa. Ngoài nhìn đống tro nghi ngút khói, chỗ trước kia là căn nhà nó ở với người thân, không cầm lòng được, nước mắt Hạo Nhiên lại trào ra.
– Con buộc nông cụ và những đồ dùng khác lên lưng ngựa, ta với con đi bộ. Cũng gần đây thôi.
– Đi đâu vậy thầy ?
– Đến đồi đằng kia. Ta sẽ dựng ở đó một căn nhà mới.
Hạo Nhiên không hiểu rõ ý thầy, ngước mắt nhìn:
– Ta vừa đốt nhà cũ mà. Dựng nhà mới làm gì ?
– Nhà đó là của tổ phụ con. Chỗ ấy trũng dễ bị lụt lội. Ta đã có chủ ý. Căn nhà chúng ta sắp dựng đây sẽ là của chúng ta.
– Thế thầy định cứ ở đây mãi sao ?
Thạch Đạt Lang gật đầu:
– Phải rồi. Chúng ta sẽ ở đây một thời gian.
– Thầy không đi đâu luyện tập và học hỏi nữa sao ?
– Ta sẽ luyện tập ngay tại đây.
– Ở đây ? Ở đây thì có gì mà luyện tập ?
– Tự ép mình vào kỷ luật, tập gian khổ, giữ tâm cho vững là căn bản của mọi thành công. Đường kiếm tinh thục chưa đủ, ta sẽ luyện cho con một nội lực dồi dào. Và ta sẽ dạy con biết đọc để sau này nếu ta không ở bên con được, con vẫn có thể học thêm để tăng kiến thức. Hạo Nhiên ! Con có đọc được sách không ?
– Dạ, có biết đôi chút.
– Ai dạy ?
– Cha con. Cha con có dạy đọc và viết những chữ thông thường mỗi khi nhàn rỗi.
– Vậy tốt. Để khi ổn định rồi, ta sẽ tiếp tục dạy con học. Nào, bây giờ thì lên đường, đến khu đồi kia, gần rừng, vừa dễ đốn gỗ vừa cao ráo.
Thạch Đạt Lang đi trước, để tâm quan sát địa hình. Hạo Nhiên dẫn ngựa theo sau.
Nó ít nói vì ở nơi hoang dã từ nhỏ, ít trò chuyện nên cứ cung cúc đi, thảng thầy hỏi gì mới đáp. Gần chiều, tới một nơi tương đối khoảng khoát trên đồi, cả hai dừng lại.
– Chỗ này được đấy ! Thạch Đạt Lang bảo. Ta dừng chân ở đây. Con nhóm lửa nấu cơm để ta đi một vòng xem xét.
Rồi tháo hành trang trên lưng ngựa xuống, Hạo Nhiên nhanh nhảu:
– Con biết chỗ này. Bên kia rừng thưa có con suối, lội qua suối là một đường mòn dẫn đến xóm tiều. Ở đấy có chợ nhỏ.
– Vậy tiện lắm. Nhất là không xa suối. Nếu địa điểm tốt, sáng mai ta sẽ khởi công.
Lúc Thạch Đạt Lang xem xét địa hình xong trở ra đã thấy đồ đệ ngồi canh nồi đậu đỏ nấu trên bếp. Bếp do nó tạm thời tạo nên trong lúc cấp bách bằng cách đào lỗ và quây đá xung quanh. Hắn mỉm cười khen thằng bé nhanh trí và nhiều sáng kiến.
Xong bữa ăn, trời vừa tối. Không đủ thì giờ làm việc gì khác, cả hai thầy trò đêm ấy ngủ dưới ánh sao, gối đầu lên những khúc cây nhặt về làm củi.
Hôm sau, trời mới tảng sáng, Thạch Đạt Lang đã tỉnh dậy. Bộ quần áo ướt sương làm hắn rùng mình. Hắn tĩnh tọa vận khí cho huyết mạch lưu thông, đoạn vác rìu lên đồi đốn cây trong khi Hạo Nhiên còn say ngủ.
Thạch Đạt Lang có ý định lưu lại vùng này một thời gian ngay sau khi cùng đồ đệ mang xác Hạo ông đến chôn ở đồi bên cạnh.
Hắn nghĩ:
Nếu thiền đạo, trà đạo và các sáng tạo mỹ thuật có tác dụng tốt đến tâm linh con người thì tại sao cày một thửa ruộng, trồng một khoảnh vườn lại không có ích ?
Khu hoang địa này chính là một thao trường lớn giúp ta luyện chí và nuôi sống ta không lệ thuộc vào người khác. Chỉ những người tự lực cánh sinh mới biết chân giá trị của sự tranh đua với ngoại cảnh.
Khi còn nhỏ, mẹ hắn dẫn hắn ra đồng nhiều lần, cùng cày cấy với các nông dân khác. Lúc đó hắn chỉ biết lao động cốt để mưu sinh, nhưng bây giờ hắn thấy, ngoài mục đích kiếm sống, sự lao động còn nhằm nuôi dưỡng tinh thần nữa. Nếu hắn thành công biến khu đất hoang này thành vườn ruộng với hoa màu thì quả hắn đã làm một việc tốt, góp phần vào sự hưng thịnh cho khu này. Nhưng điều quan trọng hơn cả là gián tiếp bảo cho những cư dân ở đây biết họ có thể thoát khỏi được nghèo đói, vươn lên hạnh phúc và tự do bằng ý chí và can đảm để tự giải thoát.
Cởi trần, da rịn mồ hôi đỏ au dưới nắng, Thạch Đạt Lang cầm rìu bổ những nhát dữ dội vào thân cây bạch dương trước mặt. Vỏ cây bắn tung tóe, chỉ một loáng, ba bốn gốc đã bị đốn ngã.
Tỉa cành và róc vỏ xong, hắn gọi đồ đệ:
– Hạo Nhiên, lấy dây buộc cành và vỏ để riêng ra làm củi. Chờ ta đốn xong vài cây nữa rồi gom lại dựng nhà.
Mùa thu sắp tàn, côn trùng dần dần im tiếng. Lá vàng rụng đầy đất. Hai thầy trò Thạch Đạt Lang đã dựng xong căn lều nhỏ, mái lợp gianh, vách bằng những cành bạch dương ken xít nhau, trát đất. Tuy không đẹp nhưng vững chắc, đủ che cho hai người trước những ngọn cuồng phong mà hắn dự đoán sẽ xảy ra rất thường ở vùng này. Lạ i có cả cái kho nhỏ, một bên để chứa nông cụ, một bên làm chuồng ngựa.
Tạm xong chỗ ở, Thạch Đạt Lang sửa soạn vỡ đất để ải, chờ gieo hạt.
Khu đồng hoang Hotengahara này quả là một nơi khó sống. Đất toàn sỏi đá, không giữ nước được, chỉ nắng một thời gian đã khô nứt nẻ. Đến mùa mưa, nước lũ chảy như thác kéo theo lớp mầu bên trên đổ xuống hằng hà sa số khe đá dưới chân núi. Không có sông lớn điều hòa việc canh nông, chỉ có một cái đầm độc nhất lại quá hẹp không đủ chứa nước cấy lúa.
Vấn đề chính rõ ràng bày ra trước mắt:
trị thủy. Nhưng vấn đề này một hai người không làm được, hay nếu có làm cũng chỉ hạn hẹp. Muốn mang lại sinh kế cho cả một làng hay một khu vực, phải có sự hợp tác của số đông. Thạch Đạt Lang nhìn rõ viễn tượng ấy nên quyết định thuyết phục dân chúng tham dự vào một kế hoạch quy mô.
Nhưng thuyết phục thế nào ?
Đã nhiều năm nay, hắn quan niệm kiếm đạo theo một khía cạnh khác với quan niệm của đa số người đương thời. Đối với hắn, lấy sự trau dồi kiếm thuật làm mục đích tối hậu thì quá phù phiếm, vì lưỡi kiếm tự nó không giải quyết được gì. Trong tay một kẻ dù tài giỏi đến đâu nhưng không lý tưởng, lưỡi kiếm cũng chỉ là bạo lực. Kiếm đạo phải có mục đích hướng dẫn con người đến sự quân bình của tâm hồn, đến hạnh phúc. Và lưỡi kiếm chỉ là một phương tiện để tìm sự quân bình ấy mà thôi. Hai năm trước, Thạch Đạt Lang đinh ninh nếu muốn áp dụng lý tưởng ấy tất phải có quyền hành, cho nên rắp tâm tìm minh chúa để phục vụ. Nhưng ngày nay, trong chốn đồng không mông quạnh này, quyền lực hay địa vị gì cũng vô dụng. Hắn phải tìm cách thuyết phục, vì thuyết phục chính là bước đầu của mọi công cuộc lãnh đạo. Từ nay, lưỡi gươm sắc đeo bên sườn, hắn sẽ dùng để bảo vệ người cô thế mà không làm cho họ sợ.
Những ngày sau đó, khí trời chưa lạnh, Thạch Đạt Lang và đồ đệ chặt cây, đào rễ, cuốc đất, be bờ, làm việc cực nhọc từ sáng đến chiều, có hôm tận tối mịt mới về nghỉ.
Công khó của hai thầy trò không phải là không có kết quả:
một khoảnh đất rộng chừng năm sào đã thành hình, tạm bằng phẳng để sẵn sàng đón nhận hạt giống.
Dân ở xa mang sản vật đến xóm tiều bán hoặc cư dân trong vùng theo đường mòn xuống núi dừng lại tò mò nhìn hai người. Họ kháo nhau:
– Gã này điên ! Chắc mới ở đâu tới chứ ai cũng biết đất này mà trồng cấy gì được !
– Phí công vô ích.
– Thằng bé kia hình như là con Hạo ông, trước ở khu dưới, sao bây giờ lại tới đây ?
Một hôm có kẻ đến tận chỗ Thạch Đạt Lang làm, khuyên nhủ:
– Đất này cằn cỗi, giồng gì cũng uổng công thôi. Nếu có hoa màu thì chúng ta đã chẳng bỏ hoang.
Thạch Đạt Lang chỉ cười. Khác với những nông dân kia, hắn tin hắn làm được.
Nếu thành công thì đây là một chứng cớ hiển nhiên:
ý chí con người đã thắng mọi trở lực và bằng thành quả này, hắn sẽ thuyết phục dân làng cùng hợp tác để thực hiện một công cuộc quy mô hơn.
Thấy bảo không được, dân vãng lai chẳng ai thèm khuyên nhủ nữa. Họ chế nhạo hắn, gọi thầy trò hắn là những thằng ngốc. Thạch Đạt Lang không để tâm, nhưng Hạo Nhiên tức lắm. Bữa kia, nó nhặt đá định ném. Hắn trừng mắt:
– Hạo Nhiên ! Làm vậy ích gì ? Nếu không biết tự chế, ta không nhận con làm đồ đệ nữa !
Mặt thằng bé đỏ bừng. Nó vất hòn đá đi, nhưng đến bên gốc cây bưng mặt tấm tức.
Thạch Đạt Lang nhìn nó, quay đi khẽ thở dài:
Tội nghiệp ! Nó cũng như ta, đơn độc trước bao khó khăn. Nó còn nhỏ tuổi quá !
Như thông cảm nỗi buồn của đứa trẻ, trời bỗng đổi khác. Gió thổi, cây rung ào ào, mây vần vũ tựa sắp có dông lớn. Bầu trời càng lúc càng tối, vài giọt mưa đã bắt đầu rơi lộp bộp trên những tàu lá to mọc xập xè dưới đất.
Thạch Đạt Lang thu xẻng cuốc vác lên vai, gọi Hạo Nhiên rồi rảo bước về lều. Vừa đến nơi, mưa đổ như trút. Một lằn chớp xẹt ngang, ngoằn ngoèo sáng rực, tiếp theo là tiếng sét nổ long trời lở đất. Lo lắng, hắn cao giọng gọi đồ đệ nhiều lần nhưng mưa và sấm chớp át tiếng hắn gọi.
Trong cảnh thịnh nộ của trời đất, Thạch Đạt Lang dường như thấy cây đại bách sau chùa Tiểu Sơn và vẳng nghe giọng trách mắng nghiêm khắc của Đại Quán. Hắn mở mắt trừng trừng, tưởng trông thấy nhà sư trước mặt. Hắn muốn được như cây đại bách kia, hiên ngang vững chãi trước dông tố và được như nhà sư, có tấm lòng độ lượng không bờ bến. Nếu làm được cho Hạo Nhiên và những người dân vùng này những gì Đại Quán đã làm cho hắn thì món nợ đối với Đại Quán chắc cũng nhẹ được đôi phần.
Thạch Đạt Lang lại lên tiếng gọi đồ đệ. Không thấy bóng dáng nó đâu, hắn bắt đầu sốt ruột.
Mưa dần dần ngớt hột, gió thổi giật từng hồi và trời đã hé rạng. Thạch Đạt Lang bước khỏi lều đi tìm Hạo Nhiên, thấy nó thu mình dưới tàng lá, ướt như chuột lột và tơi tả như thằng bù nhìn giữ dưa.
– Hạo Nhiên ! Sao không về nhà !
– Mưa này không lâu đâu thầy. Tạnh rồi đó ! Ta còn làm thêm được lúc nữa.
Không ngờ thằng bé bướng đến thế ! Thái độ và lời nói của nó vô tình dạy cho Thạch Đạt Lang bài học kiên trì trước nghịch cảnh khiến hắn phải suy nghĩ.
Những ngày sau đó, trời bàng bạc, ảm đạm. Trận mưa tuy to nhưng ngắn không làm hư hại gì đến công trình khẩn hoang của hai thầy trò. Khu đất mới cuốc trở nên sẫm màu. Cỏ xanh hơn trước và trên từng không, đã có những đàn ngỗng thiên di, tiếng khàn khàn qua màn sương mỏng dội xuống lẫn với gió heo may gây gây lạnh.
Thạch Đạt Lang tiếp tục làm việc cực nhọc trên thửa đất mới phá. Buổi sáng hắn luyện kiếm, dạy Hạo Nhiên những chiêu thức căn bản của một kỹ thuật hắn phát huy và khai triển nhưng chưa quy vào hệ thống. Buổi tối dưới ngọn đèn dầu thông, hắn dạy đồ đệ đọc và viết.
Một hôm trời trở nên oi bức khác lạ. Hai thầy trò đang đánh luống trên thửa đất mới vỡ, bỗng nghe nhiều tiếng ầm ì từ xa vọng lại. Chim bay xào xạc. Ở phía chân trời, mây đen kéo tối sầm, rồi như những luồng khói dày đặc, ùn ùn đùn nhanh, chẳng mấy chốc đã che kín cả bầu trời. Hạo Nhiên ngước nhìn, lo ngại:
– Lần này chắc có chuyện …
Chưa hết câu, một cơn lốc ở đâu thình lình nổi dậy, cuốn lá khô cành gẫy bốc cao.
Những cánh chim bị lốc cuốn, chao đi chao lại kêu keng kéc sợ hãi.
– Lại sắp mưa lớn phải không, Hạo Nhiên ?
– Vâng. Nhưng lần này dữ lắm. Ta về thôi, thầy !
Thấy đồ đệ nhiều kinh nghiệm về thời tiết, Thạch Đạt Lang thường hỏi nó khi có điềm gì khác lạ. Lần này Hạo Nhiên có vẻ vội vàng, chạy thẳng một mạch về nhà, mặc Thạch Đạt Lang thu dọn đồ đạc đi sau.
Về đến lều, chưa kịp cất nông cụ, mưa lớn đã ập xuống. Sấm chớp liên tiếp xé bầu trời tối om. Những giọt nước bằng hạt ngô đập rào rào lên vách, gió thổi cột kèo ngả nghiêng kêu cót két. Ở những chỗ trũng, bong bóng nổi phập phồng.
Mưa như thế, tầm tã trong một thời gian thì ngớt nhưng chẳng bao lâu lại tiếp tục, dữ dội hơn trước. Khu vườn xung quanh lều bị nước mưa đào những rãnh nhỏ, kéo đất trôi đi, trơ lại chỉ còn đá vụn và cành gẫy lởm chởm. Gió càng lúc càng mạnh, mái lều tưởng chừng bị giật sập. Đã có những nút buộc bị long. Thạch Đạt Lang đôn đáo chống chỗ này, che chỗ kia. Trời tối, hắn quên cả thắp đèn và không hiểu Hạo Nhiên đi đâu.
Lo lắng, tức giận làm hắn bồn chồn khó chịu. Mãi khi trời tối mịt và gió tạm yên, hắn mới mang đồ nguội ra ăn và ngồi nghỉ.
Qua một đêm dài thao thức, nghe mưa gió bên ngoài ào ào như trút giữa những lằn chớp sáng rực và những tiếng sét vang dội bốn bề, tâm trạng của Thạch Đạt Lang khi bị treo trên cành đại bách hơn mười năm trước lại hiện về. Trước sức mạnh vô cùng của vũ trụ, còn người thật nhỏ bé, bất lực. Và hắn liên tưởng đến Hạo Nhiên, đến Giang, đến Oa Tử, những con người cô thế. Hắn mong cho trời chóng sáng.
Hôm sau, dưới bầu trời xám đục, mưa đã ngớt nhưng gió vẫn còn mạnh. Qua khe cửa, Thạch Đạt Lang nhìn ra ngoài, giật mình vì cảnh vật đổi khác hẳn:
chỗ nào cũng mênh mông trắng xóa. Đây đó vài ngọn tùng rạp đầu xơ xác. Khoảng đất phía xa do hắn và đồ đệ khổ công cuốc xới, đắp bờ bị nước tràn ngập không còn dấu tích. May mà căn lều hắn dựng ở đồi cao và khá vững, chứ nếu không, chắc cũng bị nước cuốn đi rồi.
Tới trưa, chẳng thấy Hạo Nhiên đâu, Thạch Đạt Lang càng bồn chồn lo lắng.
– Thầy ! Thầy ! Con đã về !
Tiếng đồ đệ gọi từ phía đường mòn theo gió đưa đến khiến Thạch Đạt Lang mừng rỡ hết sức. Trông ra, thằng bé đầu đội nón nan, mình khoác tơi lá, đang dẫn ngựa đi trên sườn đồi phía bên kia suối. Trên lưng ngựa chất hai, ba giỏ tre đậy kỹ. Dường như nó đang tìm cách lội qua suối.
Bấy giờ Thạch Đạt Lang mới sực nhớ đến con ngựa và không ngờ Hạo Nhiên đã lấy ngựa cưỡi đi từ bữa trước, lúc chưa bão.
Hắn bắc loa tay kêu lớn, gọi thằng bé:
– Khoan ! Đứng đó ! Để ta sang giúp !
Nói đoạn, vớ vội cuộn dây chão đeo vào người, băng ra suối.
– Đây ! Phía này thầy !
Hạo Nhiên miệng gọi, tay vẫy rối rít:
– Chỗ này nhiều đá lớn dễ đi, con biết.
Thạch Đạt Lang buộc một đầu dây vào gốc cây bên này suối rồi cầm đầu kia lội sang. Đến nơi, hắn buộc đầu dây ấy vào một gốc cây khác, đồng thời cột bụng ngựa và cả lưng thằng bé vào dây chão rồi bảo nó lần theo dây mà qua suối. Thạch Đạt Lang kèm ngựa cho ngựa khỏi sợ. Nước suối chảy như thác. Tuy có dây giữ mà cả hai thầy trò và con ngựa cũng vất vả mới qua được. Cả ba ướt nhẹp, rét run, về đến nhà đốt lửa sưởi một lúc mới hoàn hồn.
– Hạo Nhiên ! Ngươi đi đâu sao không nói trước ta biết ?
– Con đến xóm tiều mua thức ăn dự trữ.
– Bão xong rồi, dự trữ làm gì ?
– Chưa xong đâu thầy. Dù hết gió to nhưng còn mưa nữa. Khí hậu vùng này lạ lắm.
Mưa dai dẳng còn lâu, có khi lụt lội cả tuần trước khi có tuyết. Đến lúc tuyết tan lại lụt nữa. Nếu không dự phòng thì đói.
Hạo Nhiên giở lớp vải sơn đậy các giỏ tre ra:
nào kê, nào đậu đỏ, nào gạo, lại có cả cá khô và thịt ướp. Nó cũng không quên mua cho thầy một gói trà.
Thạch Đạt Lang nhìn đồ đệ, lòng biết ơn dào dạt. Thằng này nhỏ tuổi mà khôn ngoan, biết phòng xa quá đỗi. Nhưng nó liều lĩnh hết sức. Có điều chẳng biết nó lấy tiền đâu ra để mua những thứ này.
– Tiền ở đâu thế con ?
– Con đến đền Toku mua chịu và gửi lại cái hộp cha con cho làm tin. Cha con bảo họp đó quý lắm.
– Phải hộp gia bảo của nhà con không ?
– Con không biết nhưng chắc thế.
– Cha con để lại cho con những gì ?
– Cái hộp đó và một thanh kiếm ngắn.
– Nó lấy trong bọc ra một thanh đoản kiếm đưa sư phụ coi. Thạch Đạt Lang trịnh trọng đỡ lấy thanh kiếm. Vỏ kiếm bằng gỗ bọc gấm đã sờn, không mang vết tích gì của người làm ra nó nhưng lưỡi kiếm xanh biếc. Gần sống kiếm có khắc hai chữ không rõ nét, dường như hai chữ đó đã bị mài mờ đi để những người sau không nhận diện được.
Thạch Đạt Lang gật gù:
– Đây là một thanh kiếm quý, nhưng không phải dùng để chiến đấu.
Hắn nói thế, không muốn cho đồ đệ biết lưỡi kiếm kia chính là lưỡi kiếm chủ nhân nó chỉ mang theo để kết liễu đời mình khi cần thiết. Hắn có cảm tưởng cái hộp mà Hạo Nhiên đã gửi lại làm tin ở đền Toku có một giá trị đặc biệt.
– Từ nay, con chớ giao cho ai những kỷ niệm do tổ phụ để lại. Để khi trời yên rồi, ta sẽ dẫn con đến chuộc.
– Con cám ơn thầy.
– Đêm qua ngủ ở đâu ?
– Ông thủ từ bảo ngủ tạm tại đền vì bão to quá, hôm nay mới về được.
– Đã ăn cơm chưa ?
– Chưa. Chắc thầy cũng chưa ăn ?
Thạch Đạt Lang cười:
– Ừ, con đi nấu cơm đi. Ta thấy hình như nhà cũng không còn củi.
– Còn, còn chứ …[Audio] Tạp Đồ (dịch)
Vừa nói, Hạo Nhiên vừa hối hả đứng lên ra nhà kho, chỉ chỗ nó để dành củi đốt và cỏ khô cho ngựa.
– Đây này thầy ! Nhiều lắm, đủ để sưởi cả mùa đông nữa.
Lại thêm một lần Thạch Đạt Lang thấy thằng bé quả biết lo xa. Tiên liệu là mọt đức tính của người chỉ huy. Về điểm này hắn thấy hắn còn thua đồ đệ.
Trong những ngày sau, mưa vẫn rả rích. Thạch Đạt Lang mang sách ra bảo Hạo Nhiên đọc những chương bổ ích và giảng dạy cho nó hiểu nghĩa lý trong sách. Những lúc học trò mệt mỏi, hắn chỉ dẫn cho nó cách vận khí và luyện tập ở những nơi chật hẹp. Hạo Nhiên tỏ ra rất thông minh, mới vài tuần đã tiến bộ lắm. Thạch Đạt Lang rất ưng ý.
Đến khi mưa dứt hẳn, mặt trời hé dạng và nước đã rút đi gần hết, hai thầy trò ra khỏi lều thăm mảnh đất khẩn hoang. Cả hai không còn nhận ra được mảnh đất ấy nữa vì nó chỉ còn là một vũng lầy nhão nhoẹt.
– Chỗ này không hy vọng trồng cấy gì như mình định được đâu. Hạo Nhiên nói.
Thầy nên đi tìm chỗ khác thôi.
– Không sao, ta đã xem rồi. Chờ nước rút hết, đất màu tốt còn lại thì phải trồng được chứ.
– Thế ngộ mưa nữa thì sao ?
– Ta sẽ ngăn không cho nước chảy vào.
Vừa nói hắn vừa lấy tay chỉ:
– Đắp một con đê ngăn nước đến tận đằng kia, bao quanh thửa đất.
– Trời ơi ! Công trình quá ! Thầy với con làm thế nào được !
– Hạo Nhiên ! Con chớ quên đây là nơi ta dùng làm thao trường để luyện tập.
Luyện tinh thần trong khi tập thể chất. Đừng bao giờ nản chí cả.
Thế là suốt mùa đông năm ấy, trừ những ngày tuyết rơi nhiều, thầy trò Thạch Đạ t Lang lại ra công đào xới, lấy đá đắp đê trước những cái nhìn chế giễu của cư dân trong vùng.
Nhưng đê mới xong được nửa, con tuyết tan đầu xuân đã tràn tới, kéo văng công trình khó nhọc của cả hai xuống chân núi.
Buồn rầu, Thạch Đạt Lang ngồi trong lều trông ra, không biết đối phó thế nào với những tàn phá không cưỡng nổi ấy của thiên nhiên. Thầy trò nhìn nhau chẳng thốt một lời.
Bỗng Thạch Đạt Lang sực nghĩ ra. Vô tình hắn đã quẩn quanh trong việc phá một thửa đất rồi san ra vuông vức như ở đồng bằng. Thảo nào không được. Vì ở đây là sườn đồi, thế đất phải khác. Hắn không thể giữ cho nước không chảy, hay giữ cho đất đứng yên không bị nước soi mòn. Nước là nước, đất là đất, sao hắn lại điên rồ đòi thay đổi bản chất của nó.
Phải thuận theo dòng nước và thế đất. Đừng ngăn nó chảy. Hãy lợi dụng sự di động của nước, đưa nó dần dần vào những thửa ruộng nhỏ, không cần vuông vức mà thuận với sườn đồi thấp dần từng bậc một, tất nước không còn đủ mạnh để phá đất nữa.
Nghĩ đến đấy, hắn sung sướng quá, đập tay vào đùi nói lớn:
– Thật là ngốc. Không biết thuận theo thiên nhiên, sao đòi thành công được ?
Rồi lấy sổ tay ra, hắn ghi một nhận xét:
“Làm ruộng cũng như làm chính trị, phải thuận với thiên nhiên. Nhưng trước hết, hãy tìm hiểu thế nào là thuận với thiên nhiên đã”.
Chương 65: Sơn quỷ
Đền Toku thực ra là một thiền viện, cách xóm tiều chừng năm dặm. Lão ông thủ viện tính tình trầm mặc, trước cũng là kiếm sĩ nhưng nay ẩn ở chốn hoang vu này để tránh dòm ngó.
Ông vẫn giữ liên lạc với vài người bạn cũ phục thị trong dinh Hòa Giả ở Cổ thành, nhưng mối giao tình cũng vì địa vị xã hội khác biệt mà không còn thắm thiết lắm.
Hôm ấy Điền Xán Quang tới chơi. Điền Xán Quang làm tham kiểm trong dinh sứ quân Hòa Giả Nghị, giữ một chức vụ quan trọng coi việc tra xét danh sách những người được đề bạt và cố vấn cho sứ quân Hòa Giả Nghị việc sử dụng những người được đề bạt ấy.
Trong các chuyến công du, Điền Xán Quang thường có khá đông người tháp tùng, nhưng lần này đến thăm người bạn cũ, ông chỉ đem theo hai kiếm sĩ tùy viên và một gia nhân thân tín.
Đã lâu không hưởng cảnh thanh nhàn, Điền Xán Quang tỏ ra hết sức thích thú khi được ngồi trong một mảnh vườn nhỏ xa thị thành, dưới gốc phong cành đã bắt đầu nảy lộc, nghe tiếng ếch kêu báo hiệu sự hồi sinh của vạn vật sau một thời gian đông miên đằng đẵng.
Trời xế chiều, Điền Xán Quang không để ý. Mãi khi gia nhân bưng trà ra, ông mới nói:
– Ồ ! Hóa ra ta ngồi quên trong cõi vô minh này cũng lâu rồi nhỉ.
– Xin đại nhân bảo trọng. Trời hãy còn lạnh …
– Không sao ! Ông cười. Tấm thân này đã nhiều xông pha, xá gì chút lạnh cuối mùa. Chà ! Mùi hoa mai mới nở thơm thật dễ chịu. Mai chiếm xuân khôi …Ngươi có ngửi thấy gì không ?
– Bẩm, tiểu nhân chẳng thấy gì cả.
– Chắc không ? Hay ngươi bị cảm hàn rồi đấy ?
Điền Xán Quang vừa nửa đùa nửa thật bảo kẻ hầu trà đứng cạnh.
Thình lình một tiếng quát lớn sau hàng giậu khiến ai nấy giật mình.
– Dòm ngó cái gì ? Có đi chỗ khác không ?
Tiếp theo là tiếng chân lui về phía bếp rồi vệ sĩ của Điền Xán Quang hớt hải chạy tới.
– Chuyện gì thế ?
– Bọn tiểu nhân không rõ, để hỏi chủ viện.
Chủ viện đến ngay không đợi gọi.
– Xin tha lỗi, gia nhân không biết làm kinh động đến tôn khách. Đó chỉ là một đứa trẻ trong xóm.
– Trẻ trong xóm ? Nó đến dò xét gì vậy ? Có chắc không hay là gian tế đấy ?
– Chắc. Thằng bé đó tên là Hạo đồng. Nghe nói trước tổ phụ cũng là kiếm sĩ nên cứ thấy ai là kiếm sĩ thì thập thò nhìn ngó vì nó cũng muốn được như tổ phụ.
Điền Xán Quang gật gù:
– Trẻ con tò mò là sự thường, lão huynh đừng chấp. Nếu đúng thế thì gọi nó đến cho nó vài cái bánh. Biết đâu chẳng phải là đứa trẻ có khả năng, tập luyện nên người được.
Hạo Nhiên vào bếp ném chiếc túi vải đến trước mặt mụ giữ kho:
– Mụ đổ kê vào đấy để tôi còn mang về, trời sắp tối rồi.
– Á ! Thằng này trịch thượng quá ! Mày làm như chúng tao nợ mày ấy.
– Đừng thấy viện chủ thương, cho mày ăn mà hỗn láo. Muốn xin cái gì thì phải nói cho có lễ phép.
Gã đầu bếp phụ họa.
– Tôi đâu có xin, tôi mua mà ! Tôi trả tiền bằng chiếc hộp quý cha tôi để lại và đã trao cho viện chủ rồi.
– Cha mày làm phu giữ ngựa mà để lại cho mày đồ quý gì ?
– Can dự gì đến chú ? Có đong kê đổ vào đấy hay không thì bảo. Viện chủ bảo tôi xuống đây lấy kê chứ không xin của chú.
Gã đầu bếp cười hinh hích:
– Thằng bé này hay giận quá ! Ừ, rồi chúng ta đổ kê vào bị cho. Nhưng này, ta hỏi thật, sao mày lại phải đem tiền của cha mày đi nuôi cái thằng khùng ấy ? Hai đứa đào xới thửa đất ấy thì trồng cấy gì được ! Tìm vàng hả ?
Hạo Nhiên tức giận đứng sững, không nói được lời nào. Thấy có con cóc ẩn mình trong góc bếp, nó vồ lấy ném cái bốp vào mặt gã vừa nói rồi định quay đầu chạy.
Nhưng ngay lúc đó, lão viện chủ bước vào. Ông nắm vai thằng bé. Hạo Nhiên sợ hãi giằng ra.
– Đừng sợ, ta đã nghe hết. Mụ già và gã kia không được trêu chọc nó nữa. Bây giờ bỏ chuyện ấy đi, ta dẫn nó lên gặp Điền đại nhân.
– Chắc nó lại làm điều gì xúc phạm đến Điền đại nhân chứ không sai.
Lão viện chủ cười:
– Không, các ngươi đoán lầm. Ngài chỉ muốn gặp nó và còn muốn cho nó bánh nữa.
Hạo Nhiên đứng nép bên rào gỗ, tò mò nhìn Điền Xán Quang. Lần đầu tiên nó gặp và được nhìn thỏa thích một kiếm sĩ có danh vọng ở trong dinh. So với các kiếm sĩ giang hồ khác và nhất là với thầy nó, Hạo Nhiên thấy sự khác biệt cách xa nhau ghê gớm, từ y phục, cử chỉ đến dáng dấp.
– Lại gần đây. Ngươi tên gì, mấy tuổi ?
– Nô tài là Hạo Nhiên, mười ba tuổi.
– Ngươi muốn trở thành kiếm sĩ phải không ?
Hạo Nhiên gật đầu:
– Dạ phải.
– Tốt lắm. Vậy có muốn vào trong dinh ở không ? Ngươi sẽ giúp gia nhân làm việc vặt và ta sẽ cho lệnh dạy ngươi trở thành kiếm sĩ.
Hạo Nhiên lắc đầu. Tưởng thằng bé nhút nhát, Điền Xán Quang nhắc lại và bảo nó ông có ý ấy thật chứ không phải nói đùa. Nhưng Hạo Nhiên đáp:
– Nghe lão trượng nói ngài định cho nô tài ăn bánh …
Lão viện chủ tái mặt:
– Hạo nhi ! Không được hỗn.
Đoạn tiến đến dắt tay nó định lôi đi. Điền Xán Quang ngăn lại:
– Không sao ! Lão huynh ! Nó nói phải. Ta đã hứa thì phải giữ lời.
Bèn gọi gia nhân mang bánh tới cho Hạo Nhiên. Hạo Nhiên đổ cả vào bọc gói lại.
– Ngươi không ăn ở đây sao ?
– Không. Nô tài phải về, sư phụ đợi.
– A ! Ngươi có sư phụ hả ?
Nhưng Hạo Nhiên không đáp, hối hả quay đi quên cả chào và cảm ơn người cho bánh.
Vốn tính độ lượng và yêu trẻ, Điền Xán Quang không để tâm, cho là thằng bé cứng đầu, không giống tính nết những đứa trẻ khác. Trái lại, lão viện chủ có vẻ e ngại, sợ làm mất lòng khách quý. Ông xin lỗi thay cho nó nhiều lần, uống tách trà rồi đàm đạo với Điền Xán Quang một lúc rồi mới lui gót.
Đến bếp, hỏi Hạo Nhiên đâu thì được biết nó đã mang túi kê về rồi. Xa xa, vẳng tiếng kèn làm bằng lá nó mới cuốn, vừa đi vừa thổi phỏng theo một điệu nhạc cổ thường nghe trong các buổi tế lễ mà khi còn sống cha nó vẫn dẫn nó đi xem.
Trên đường về, từ Toku đến Hotengahara, chỗ hai con suối nhập lại thành một dòng sông nhỏ có cây cầu bắc ngang, bỗng Hạo Nhiên giật mình, nhảy lui nấp vào bụi rậm.
Nó vừa trông thấy trên cầu ba cái bóng đen cao lớn, dáng điệu dữ dằn, tay cầm giáo, đang châu đầu vào nhau bàn bạc.
Từ trong bụi, Hạo Nhiên banh mắt nhìn ra. Ba thằng quần áo lôi thôi lếch thếch, râu xồm, tóc búi quấn trong những cái khăn không phân biệt rõ màu, trông như quỷ.
“Đúng rồi”, Hạo Nhiên nghĩ thầm. Và kỷ niệm hãi hùng của thời thơ ấu hiện lên, gợi trong trí nó nhiều hình ảnh ghê sợ khiến tim nó đập dồn dập.
Ngay từ nhỏ, mẹ nó đã dọa, nếu hay khóc đêm và không ngoan ngoãn thì sơn quỷ tới bắt đi. Sơn quỷ râu xồm, nanh dài, đeo bị và uống máu con nít. Đến khi khôn lớn, nó không tin những lời ấy nữa, nhưng ấn tượng sơn quỷ nanh dài, uống máu con nít vẫn để lại trong lòng nó một nỗi khiếp sợ không sao gột sạch.
Đã từ lâu, hàng trăm năm trước, trên triền núi Hitachi cách xóm tiều chừng vài chục dặm có một ngôi cổ miếu thờ sơn thần.
Không ai biết đó là thần gì nhưng khẩu truyền thần rất linh thiêng, nếu cúng bái hàng năm đầy đủ, thần sẽ phù hộ cho được mùa và không bị dịch tễ. Cho nên dân trong vùng luân phiên nhau mang lễ vật đến dâng cúng. Lễ vật gồm có dê, bò , lợn và các loại ngũ cốc. Vào những năm ngài đặc biệt ra oai, lễ vật còn gồm cả một thiếu nữ đồng trinh nữa.
Lễ vật thường được rước về đêm, dưới ánh đuốc chập chờn đến chân núi, qua nhiều tàng cây rậm và những khe đá ẩm ướt trơn như đổ mỡ. Nhưng đấy là chuyện xưa, khi dân xóm còn thưa thớt và chưa mấy người dám phiêu lưu đến gần ngôi cổ miếu. Sau này, những tiều phu đi kiếm củi phát giác sơn thần thực ra chỉ là một người hoặc con cháu của người đó, có lẽ là một tên cướp lẩn trốn trong rừng, lợi dụng lòng mê tín của dân xóm mà ra oai tác phúc. Lễ vật vì thế thưa và ít dần, vơi theo với lòng kính trọng.
Sau cuộc tranh chấp sứ quân, số binh sĩ thua trận đào tẩu nhiều, miếu sơn thần trở nên rộn rịp. Ban đêm người ta thấy có ánh lửa nhiều nơi trên triền núi, tiếng người kêu khóc và những bóng đen ra vào sân miếu. Từ đó cướp đổ xuống các xóm hẻo lánh bắt gia súc cùng với đàn bà con gái mang đi, không năm nào là không có, có khi một năm hai ba lượt.
Chúng vẽ mặt dữ tợn, mang đủ loại vũ khí, từ gậy, đinh ba đến đao kiếm. Ai chống cự liền bị giết tức thì. Dân làng gọi chúng là sơn quỷ. Mới năm trước, bọn này từ trên núi xuống cướp phá, đốt nhà, xúc thóc, bắt bò lợn dẫn đi lại còn giết ba thanh niên chống lại chúng. Trong ký ức của Hạo Nhiên, biến cố ấy xác định sự có thật của bầy sơn quỷ nó từng được nghe kể trong thời thơ ấu và càng làm tăng nỗi kinh hoàng trong lòng nó.
Nấp sau bụi rậm, Hạo Nhiên run lập cập. Nghĩ đến lời Thạch Đạt Lang dặn trong cơn nguy biến đừng bao giờ để những xúc động, kể cả sự sợ hãi, làm chủ mình, nó cắn chặt hai hàm răng với nhau.
Ngoài kia, trên cầu gỗ lại thêm bốn năm bóng đen nữa, rồi chúng cứ tiếp tục đến, lúc hai lúc ba, chẳng bao lâu tổng số bọn cướp đã tới non hai chục đứa.
Hạo Nhiên cố trấn áp sự sợ hãi, giữ cho đầu óc tỉnh táo để suy nghĩ tìm kế thoát thân, nhưng nó không tìm ra cách gì, chỉ ngồi yên không thở mạnh và mở banh mắt nhìn ra ngoài trong bóng tối chập choạng. Bọn sơn quỷ dường như không lưu ý gì đến người và cảnh vật xung quanh, ồn ào nhổ bọt, hỉ mũi và cãi vã. Nhờ đó Hạo Nhiên biết đêm nay chúng đến ăn hàng ở xóm tiều.
Lúc sau khi trời tối hẳn, cả bọn bỏ đi. Hạo Nhiên thấy nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng.
Bước ra khỏi bụi cây, cành lá sột soạt, đột nhiên một tiếng quát làm nó giật bắn người.
– Ai ?
Kinh hoảng, Hạo Nhiên vất túi kê xuống đất, co giò chạy thục mạng. Nó không ngờ bọn cướp còn để lại hai thằng ở đầu cầu để canh chừng. Thấy bóng người vụt ra ven suối, hai đứa vác giáo rượt theo. Hạo Nhiên tuy nhanh nhẹn nhưng làm sao địch nổi những tên cướp lực lưỡng. Chẳng mấy chốc chúng đuổi kịp thằng bé, trói nghiến lại, mặc cho nó kêu cứu vang động cả khu đồi hoang tịch.
– Trói làm gì, thí cho nó một nhát.
Một tên nói.
Hạo Nhiên hết hồn, không kêu nữa vì biết kêu cũng vô ích, có lẽ chỉ làm cho những tên cướp thêm tức giận.
– Không. Tao có cách này hay hơn.
Nói đoạn, một tên xách bổng Hạo Nhiên lên. Thằng bé bồn chồn sợ hãi không biết chúng định làm gì mình. Nó không đạp, không giẫy, người mềm như sợi bún và bỗng thấy đũng quần ướt nhẹp.
Không đợi lâu, tên cướp xách nó ra bờ sông. Một tiếng “phọp”, Hạo Nhiên bị quẳng xuống nước. Nước lạnh bắn tung tóe lên mặt. May mà chỗ ấy lòng sông cạn, nó chỉ nằm ngửa trên bùn, xung quanh cỏ lác, ếch nhái vô số nhảy tòm tọp.
Tên cướp lội ra, kéo Hạo Nhiên đến chân cầu, buộc nó vào đấy.
– Ở đây chờ nước lên, mày về với tổ tiên con ạ !
Sau tiếng cười hềnh hệch chấm dứt lời đe dọa, tên cướp bỏ vào bờ. Cảnh sông cô tịch trong đêm lại trở lại cái hoang vắng cũ, giữa những tiếng côn trùng ri rỉ và lau khô xào xạc.
Hạo Nhiên lấy lại bình tĩnh. Cơn sợ đã tan và nó có cảm giác như tự nhiên được giải thoát, mặc dầu vẫn bị trói chặt vào chân cầu. Không hiểu tại sao, có lẽ vì tên cướp không còn đó, có lẽ vì mùi bùn nước quen thuộc làm nó yên tâm hơn, hay có lẽ vì cả hai.
Hạo Nhiên ngẩng nhìn trời. Trời cao vòi vọi, vài đốm sao lúc ẩn lúc hiện. Hạo Nhiên nhìn mặt sông. Mặt sông lăn tăn gợn sóng, nước vỗ bờ ì ọp. Xung quanh nó, tạo vật thờ ơ đến lạnh lùng !
Nó thử vặn mình, rướn người. Sợi dây trói nó vào chân cầu gặp nước nở ra siết chặt vào bụng và đùi khiến nó đau đớn, nhăn mặt. Hạo Nhiên cựa quậy những đầu ngón tay thấy dễ dàng hơn, bèn lần xuống bụng tìm mối dây buộc. Khó nhọc lắm mới cởi được nút ra thì các ngón tay cứng đơ, gần như tê dại. Nhưng nó mừng vô tả. Gió đêm thổi mạnh mà thân thể nó nóng ran, khích động như chưa bao giờ như thế.
Hạo Nhiên vặn mình cho dây trói tuột đi rồi nương theo chân cầu trầm mình xuống. Nó sờ soạng, hy vọng tìm một vật gì nhất thời cắt được dây buộc cổ tay. Khi chạm phải hòn đá sắc cạnh tạm dùng được, nó kê sợ dây lên hòn đá cứa đi cứa lại. Một lúc lại dừng, nghe ngóng. Khi sợi dây đã có chiều hơi lỏng muốn dãn ra, nó sung sướng mất cả bình tĩnh, đưa tay cứa sợi dây nhanh hơn. Trong đêm vắng, nước đọng bì bọp vang dội. Ếch nhái im bặt, tiếng nước vỗ chân cầu nghe càng lớn.
Giật mình, Hạo Nhiên dừng tay. Tim nó đập thình thịch trong lồng ngực như muốn vỡ. Nhớ lời sư phụ, Hạo Nhiên hít vào thật sâu, vận khí chu lưu khắp cơ thể. Bốn bề vắng lặng, dường như hai tên cướp đã đi xa rồi. Một lúc, thấy huyết mạch điều hòa, nó mới yên tâm tiếp tục cứa sợi dây cho đến đứt rồi cúi xuống cởi dây trói chân. Đoạn, hít một hơi dài, nó đạp nhẹ vào chân cầu, lặn xuống nước và trườn mình ra xa. Bơi qua khúc sông hẹp đối với Hạo Nhiên chẳng khó gì. Nó vẫn thường bơi như cơm bữa khi bắt cá ở đầm, tuy lần này cẩn thận hơn, không để gây tiếng động.
Sang đến bên kia sông, Hạo Nhiên vẫn chưa hoàn hồn. Bám vào rễ cây, nó trườn lên bờ như một con rắn, chờ tới chỗ khuất không trông thấy cây cầu gỗ nữa, nó mới vội vã đứng lên hướng về phía đồng Hotengahara rảo bước.
Sau nó, về mạn xóm tiều, lửa cũng vừa rực sáng, chiếu đỏ chân trời và khiến những hàng cây ở gần hiện rõ nét như cắt.
– Thầy ! Thầy ơi ! Thầy có nhà không ?
Nghe giọng sợ hãi, cấp bách của đồ đệ, Thạch Đạt Lang vùng dậy mở cửa. Nhìn thằng bé ướt nhẹp bùn đất, hắn trố mắt ngạc nhiên. Không đợi sư phụ hỏi, Hạo Nhiên liến thoắng:
– Con ở đền Toku về. Bọn sơn quỷ đang phá xóm, đốt nhà …
Thạch Đạt Lang cau mày:
– Sơn quỷ ? Sơn quỷ nào ? Phải cướp không ?
– Dạ phải, phải. Nhiều lắm, đến hai chục đứa … Xóm tiều … Con suýt bị giết chết… Thầy mau đi cứu họ …
Không đợi trò nói thêm, tuy chỉ là những câu nhát gừng, hỗn loạn, Thạch Đạt Lang chạy bổ vào nhà trong, một loáng đi ra, song kiếm đã giắt ngang lưng, khăn trên đầu buộc vội.
– Thầy cho con đi cùng …
– Không được ! Con ở lại con nhà !
Hạo Nhiên trố mắt:
– Thầy chưa biết đường, để con chỉ …
– Không cần ! Chỗ lửa cháy đằng xa kia chứ gì. Ta biết !
Nó năn nỉ:
– Nhưng con giúp thầy được nhiều việc, thầy cho con đi …
– Không ! Nguy hiểm lắm. Vướng cẳng ta.
Thấy thầy sẵng giọng, Hạo Nhiên đành cúi đầu vâng lệnh. Rồi tần ngần nhìn sư phụ bước nhanh về phía chân trời đỏ rực, lòng nó băn khoăn chẳng rõ ông có đủ tài đối phó với bọn quỷ dữ ấy không ! Nỗi lo âu bỗng dưng tràn ngập tâm hồn ngây thơ của nó.
Bọn sơn quỷ mới ra khỏi xóm chừng non một dặm thì Thạch Đạt Lang cũng vừa tới. Chúng khoảng bảy tám đứa, mặt đỏ gay phần vì rượu, phần vì do ánh lửa từ những bó đuốc chúng cầm hắt tới, mồ hôi nhễ nhại, đánh hai chiếc xe bò lớn chở thực phẩm cao có ngọn, theo sau có đến chục phụ nữ tóc xõa, áo quần xốc xếch, tay bị trói giật cánh khuỷu, vừa đi vừa khóc mếu. Nói đi thì cũng không đúng vì họ bị trói thành một xâu, nếu chẳng may có kẻ ngã thì những người kia cũng ngã theo. Tên cướp đi cạnh hò hét, thúc đẩy, thỉnh thoảng lại pha trò tục tằn hoặc giơ roi hăm dọa. Kẻ nào tránh né thì cả xâu nghiêng ngả, nên có những lúc cả bọn phụ nữ phải bò. Dưới ánh đuốc bập bùng, đoàn người khốn khổ ấy trông chẳng khác gì tội nhân dưới địa ngục bị bầy quỷ sứ dẫn đi hành quyết.
Thấy một bóng người cao lớn chặn đường, cặp lông mày rậm bị chiếc khăn kéo ngược xếch đến thái dương, đôi mắt đỏ au như hổ phách, sát khí phừng phừng toát ra từ chân tóc, bốn tên cướp đi đầu khựng lại, quát:
– Ai ?
Yên lặng. Bóng người cao lớn kia vẫn tiến bước, tay để vào đốc kiếm. Bọn cướp nhất tề thoái lui. Thạch Đạt Lang đảo mắt vọ, đếm đúng tám đứa. Bốn trước mặt, ba áp tải xe lương và một đứa đoạn hậu dẫn đám phụ nữ.
Một tiếng thét như sấm, ánh thép lóe sáng. Hai thây người gần nhất đổ xuống tựa củi mục, máu ở ngực và cổ họng chúng phun ra có vòi. Tiếng la hét thất thanh của đám phụ nữ cùng tiếng chân chạy loạn xạ.
– Mày là đứa nào ? Sao dám cản trở việc làm của chúng ta ?
Thạch Đạt Lang cười gằn, lau máu kiếm lên áo rồi tra kiếm vào vỏ. Bây giờ hắn tay không, thách thức. Hắn không cần võ khí vì cầm chắc phần thắng. Biết địch thủ chỉ là những tên thảo khấu tầm thường, ô hợp, Thạch Đạt Lang muốn một lần làm cho chúng phải nể sợ, cạch đến già. Đó là hành động khinh địch, Thạch Đạt Lang biết, nhưng là một hành động có mưu tính.
– Ta là thiên sứ, trời sai xuống bảo vệ dân xóm này.
Tên cướp không tin, cầm giáo xỉa Thạch Đạt Lang một nhát. Hắn né tránh và nhanh như cắt, bắt lấy cán giáo giật mạnh. Gã kia theo đà ngã chúi về phía trước.
Thuận chân, Thạch Đạt Lang đá một cước như trời giáng vào hạ bộ nó. Cùng với tiếng thét xé ruột vì đau đớn, tên cướp tung lên rồi rơi xuống, đầu đập vào tảng đá, nằm ngay đơ như cán cuốc trên mặt cỏ.
Hai đứa khác xông tới. Một đứa định dùng dao quắm phạt ngang sườn, một đứa lấy gậy bổ lên đầu địch thủ. Thạch Đạt Lang nhanh mắt vớ ngay cây đuốc cắm trên xe ném vào mặt một thằng. Trong lúc chúng đang lúng túng, cây giáo trên tay Thạch Đạt Lang tựa lằn chớp phóng ra, xiên cả hai đứa làm một như xâu cá nướng.
Thủ pháp của Thạch Đạt Lang xuất quỷ nhập thần, nhanh vô kể. Những đứa kia đã bỏ chạy từ bao giờ, còn lại một tên không tin ở mắt mình, đứng nhìn, mồm há hốc.
Thạch Đạt Lang tiến đến, hai tay chắp lại giơ cao. Một tiếng rắc, đầu tên cướp vỡ nát, chết tươi, không kịp kêu. Máu ở mắt và miệng ộc ra loang thẫm cả râu và ngực.
Đám phụ nữ phía sau khóc như ri. Thạch Đạt Lang bước đến, họ sụp lạy xin tha.
Hắn phải trấn an:
– Đừng sợ ! Ta không hại người vô tội. Ta đến giết bọn quỷ cứu dân xóm.
Bây giờ bọn phụ nữ mới vén tóc hé mắt nhìn lên. Thấy gã làm ruộng vẫn ở căn lều cùng với một thằng nhỏ tại đồng Hotengahara, họ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Thật là chuyện không ngờ. Kẻ mà dân làng vẫn cho là đần độn, không ai lưu ý lại chính là ân nhân của cả xóm.
– Bọn chúng bao nhiêu đứa ? Sao chỉ có mấy thằng này thôi ?
– Chúng nhiều lắm, còn ở lại trong xóm.
Thạch Đạt Lang cắt dây trói và bảo bọn phụ nữ đánh xe bò trở lại. Hắn về xóm trước xem tình thế ra sao và xử bọn sơn quỷ còn lẩn quất ở đó.
Đến nơi, lửa đã bớt. Mùi gỗ thông lẫn với mùi quần áo và thực phẩm cháy khét lẹt.
Trẻ con và những người già nhớn nhác tìm cha mẹ, con cháu, gọi nhau ơi ới. Nhưng thanh niên thì không thấy ai. Có lẽ họ đã trốn hết, sợ bọn sơn quỷ ra tay giết sạch. Nắm một cụ già lại hỏi, cụ sợ hãi lắp bắp chẳng ra hơi. Mãi sau, gặp nhiều người khác, giải thích mãi, Thạch Đạt Lang mới được họ cho biết bọn chúng tập trung tại nhà trưởng xóm. Ở đấy có mấy thùng rượu sa-kê, chúng tiếc chưa bỏ đi, còn ngồi nướng gà vịt nhậu nhẹt. Thạch Đạt Lang phóng đến. Trong nhà ồn ào như chợ vỡ. Ngoài cửa, một tên cướp cầm giáo ngồi canh.
Bò dưới hàng giậu thấp, Thạch Đạt Lang đến gần, xuất kỳ bất ý phóng ngay quyền vào gáy nó. Chỉ kịp nấc lên một tiếng ngắn, nó gục xuống. Thạch Đạt Lang giật cây giáo lẩn vào bụi rậm.
Trong gian phòng chính nhà trưởng xóm, trên chiếu trải xung quanh bếp, lố nhố nằm ngồi chừng hơn chục tên cướp, đứa nào cũng râu ria xồm xoàm, mặt mày dữ tợn.
Gần bếp, ngay dưới cửa sổ, một tên ý chừng đầu đảng, ngồi lầm lì, tay ôm hũ rượu lớn.
Gã cởi trần, khoác áo da beo màu vàng sẫm ngắn đến lưng, trên đầu thắt sợi dây chão thay khăn. Khắp nhà, la liệt hũ với bát cùng võ khí đủ loại. Thình lình một tên xô cửa bước vào. Tiếng ồn ào im bặt. Nhìn nét mặt và dáng điệu vội vàng sợ hãi của nó, cả bọn đoán ngay có sự chẳng lành. Quả nhiên đó là một trong những tên đi hộ tống xe lương bị Thạch Đạt Lang đánh, kinh hoảng chạy về thông báo cho đồng đảng biết.
Còn bán tín bán nghi và đang vật vờ vì say rượu, chưa đứa nào nói gì thì một tiếng thét vang như sấm làm rung động vách ván của căn nhà gỗ. Tiếp theo là một bóng đen từ trên cửa sổ nhảy xuống. Phản ứng của tên đầu đảng nhanh nhất. Nó vớ con dao quắm đứng lên, nhưng không kịp nữa. Ngọn giáo trong tay Thạch Đạt Lang đã phóng tới đâm suốt sau lưng, mũi giáo lòi ra trước ngực đến một tấc. Tên cướp ngã sấp xuống chiếu giữa những tiếng loảng xoảng của hũ, chén đổ vỡ.
Trường kiếm rút ra, Thạch Đạt Lang tung hoành như cọp dữ trong đàn dê. Kiếm quang lóe tới đâu, thịt rơi tới đó. Thủ cấp lăn lông lốc trên sàn, mắt mở trắng dã đến nứt kẽ như còn giữ nỗi kinh hoàng của kẻ bị giết trước khi chết. Tiếng kêu, tiếng rú thất thanh, tiếng ằng ặc, phì phì của máu phun ra khắp chỗ trong hỗn loạn cùng cực.
Khi không còn một tên đứng vững, Thạch Đạt Lang mới ngừng tay. Hắn lau kiếm, dựa lưng vào vách nhìn cảnh tàn sát trong phòng, lòng bỗng rung động, khẽ thở dài.
Trong giai đoạn lịch sử xáo trộn, ở một nơi hoang vu như thế này, không ai biết luật lệ là gì, hắn không còn cách nào khác là nhất thời dùng lưỡi kiếm của mình để bảo vệ kẻ cô thế.
Đoàn phụ nữ bị bắt giải đi cũng đã trở về, đẩy theo hai xe bò chở lương thực bị cướp. Cha mẹ, vợ con gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Lại nghe bọn sơn quỷ bị giết gần hết tại nhà trưởng xóm, dân làng kéo nhau đến tạ Ơn cứu tử.
Khi trông thấy ân nhân, họ ngạc nhiên vô cùng. Không ngờ chính là gã nông phu ở đồng Hotengahara. Nhiều người phục xuống lạy, một phần vì quá xúc động, một phần vì muốn tạ tội đã coi thường hắn trong bao lâu. Thạch Đạt Lang bối rối, đỡ những người già dậy và bảo tất cả đứng lên. Hắn xin được coi như dân trong xóm.
Trong khi một số trai tráng bận lo việc thu nhặt xác bọn cướp chôn cất, Thạch Đạt Lang cáo từ để trở về căn lều cỏ.
– Ta chắc thế nào cũng có những bọn cướp khác trở lại. Hãy họp nhau thành đội mà chống cự. Đào hào, rào giậu, canh phòng, chữa lửa. Mỗi đội có trách nhiệm riêng.
Hãy luyện tập cho giỏi, nhưng đừng vì thế mà sao lãng việc trồng cấy. Tay gậy, tay cuốc để sinh tồn, anh em hãy nhớ !
Đó là những lời cuối cùng Thạch Đạt Lang nói với trai tráng ở xóm tiều đêm ấy.
Chương 66: Giang hồ quen thói
Họ Hòa Giả thiên đến Tân đô, ở một tòa lâu đài đồ sộ, lũy cao hào sâu, xứng đáng là tư dinh của sứ quân một thời đã làm cho Tôn gia phải kính nể.
Nhưng Hòa Giả Nghị, vị trưởng tộc, không ngụ tại lâu đài. Sau nhiều năm chinh chiến, ông muốn hưởng cuộc sống an nhàn tại cổ thành Osaka, nơi sinh quán, để uống trà làm thơ và chơi cây cảnh. Mọi quyền hành giao cho con trai trưởng, Hòa Giả Đạo Uẩn nắm giữ. Hòa Giả Đạo Uẩn tuổi mới ngoài hai mươi, đã chứng tỏ có tài cai trị khôn khéo và thích nghi với chính tình mới có phần hơn cả các bậc trưởng thượng từ xưa chỉ quen quy luật chiến tranh. Những chính sách khôn ngoan làm thay đổi bộ mặt lãnh địa, sở dĩ thực hiện được là nhờ sự cương quyết và nhìn xa của tân chủ soái, nhưng tất nhiên cũng phải kể đến công của các phụ tá kinh nghiệm và sáng suốt khuyến nghị.
Điền Xán Quang chính là một trong số các phụ tá tin cẩn ấy mà Hòa Giả Nghị đã đích thân chọn lọc và chỉ định đến Tân đô làm tham vấn cho Đạo Uẩn.
Sáng hôm ấy, như thường lệ, ông sửa soạn đến tư dinh, bỗng gia nhân vào báo có kẻ muốn xin tham kiến. Thì ra là một tùy viên tên gọi Cao Mục Lân.
– Ngươi có việc gì ?
– Tiểu nhân muốn cầu một ân huệ, xin đại nhân giúp cho.
Điền Xán Quang nhướng mày ra ý hỏi.
– Đại nhân vẫn thường đàm đạo với thiếu gia. Nếu có dịp nào tiện, xin đề bạt cho một người.
Điền Xán Quang mỉm cười. Ở nhiệm vụ tham kiểm ông giữ, những kẻ thuộc quyền và thân hữu hay nhờ cậy ông giới thiệu kẻ này người nọ vào những chức vụ còn trống.
Nhưng thường ông rất ngại. Có người ông chưa biết rõ khả năng và đức độ, có người ông biết nhưng lại không thích hợp.
– Ai thế ? Ngươi biết rõ không hay lại chỉ là một gã phiêu lưu lo tìm công danh thì nhiều mà tinh thần phục vụ thì ít đấy ?
– Không. Gã này còn trẻ, bà con bên tiện nội, sinh quán ở Iwakuni tỉnh Suo, đến tá túc tại tệ xá đã hơn hai năm nay.
– Iwakuni ? Trước khi xảy ra trân Sekigahara, tỉnh Suo thuộc gia tộc Lưu Hòa cai trị.
Phải gã là kiếm sĩ của tộc đó chăng ?
– Bẩm không phải. Gã tên gọi Cát Xuyên Mộc, cùng với Y Tô Gia Nghĩa là hai môn đồ nổi tiếng của danh kiếm Cổ Tư Nhiễm Chúc. Gã có tài đặc biệt rút gươm nhanh cực kỳ, chém đứt cánh nhạn đang bay …
Điền Xán Quang lắng tai. Viên cận vệ đem hết sở trường của người hắn nhờ đề bạt ra khoa trương:
nào chiêu trảm nhạn Cát Xuyên Mộc thi triển ra sao, chiêu chiết liễu gã khổ công luyện tập thế nào, thao thao như người đích thân sử dụng những đường kiếm ấy vậy.
Tuy lắng tai, nhưng Điền Xán Quang không khỏi không liên tưởng đến một việc xảy ra trước đây hai năm tại một làng nhỏ vùng Hotengahara khi ông công du qua đấy.
Một nông dân đã một mình một kiếm giết hết bọn cướp từ trên núi đổ xuống vơ vét, sau đó lại tổ chức dân làng tự vệ chống cướp, hữu hiệu đến độ không một tên thảo khấu nào dám lai vãng quấy phá nữa. Kẻ thuật lại bảo người đó là một nông dân đần độn nhưng Điền Xán Quang không tin. Cho người đó phải là kẻ có tài, không muốn phô trương mà lại có óc thực tế, ông bèn đem chuyện thuật lại với Hòa Giả Đạo Uẩn, nhưng không thấy chủ soái có lệnh gì đặc biệt nên sau đó cũng quên đi. Nay nghe Cao Mục Lân tán dương người bà con của hắn, ông hỏi thêm cho rõ:
– Cát Xuyên Mộc có làm ruộng ở vùng Hotengahara bao giờ không ?
– Không. Tiểu nhân không nghe nói.
– Được rồi, để coi. Nếu có dịp, ta sẽ giúp.
Ở thao trường, Hòa Giả Đạo Uẩn đang tranh tài với một số tùy tướng cùng lứa tuổi về môn bắn cung thì Điền Xán Quang bước vào. Nhìn tư thế và phong cách của thiếu chủ, ông không thể không khen thầm. Phong cách trang nghiêm, tư thế vững chãi, tay áo bào lụa đen vén cao để lộ những bắp thịt cuồn cuộn, mắt nhìn thẳng hồng tâm, chẳng trách tên bắn đi mười lần trúng cả mười. Có người bảo Đạo Uẩn quá chú trọng đến môn bắn cung là một môn không mấy thích hợp với thời đại của hỏa khí và trường thương thì Đạo Uẩn chỉ đáp vắn tắt:
“Tên của ta nhắm mục tiêu tinh thần”. Nhìn Đạo Uẩn luyện tập, Điền Xán Quang tiếc đã hứa giúp đề bạt người của Cao Mục Lân. Một lãnh tụ như Đạo Uẩn không dễ gì chấp nhận sự tầm thường.
Thấy Điền Xán Quang, vị tiểu lãnh chúa niềm nở:
– Kìa Điền tiên sinh ! Đến sớm thế ? Hay tiên sinh muốn thử tài với vãn sinh đấy ?
– Đâu dám ! Vả lão phu đã tự hứa chỉ so tài với những người đồng tuế.
– Tiên sinh hẳn chê vãn sinh còn con nít ?
– Không phải vậy. Điền Xán Quang nói chữa. Thiếu gia hiểu lầm rồi ! Lão phu đã già, lâu nay ít luyện tập, tranh tài với một trang thanh niên dũng nhuệ có kỹ thuật điêu luyện như thiếu gia thì sao gọi là công bằng được ?
Mọi người trong sảnh cười ha hả. Đạo Uẩn cũng cười, đoạn rửa tay chỉnh y phục, cùng Điền lão sánh bước vào hậu đình.
– Tiên sinh cần gặp vãn sinh có việc gì ?
– Cũng chẳng có việc gì quan trọng.
Đoạn, sau khi trình bày vài việc thông thường, Điền Xán Quang nói:
– Có người nhờ lão phu đề bạt lên thiếu gia một kiếm sĩ.
– Ai thế ?
– Hắn còn trẻ, tên Cát Xuyên Mộc, người tỉnh Suo. Nghe nói có tài về kiếm thuật.
Đang lơ đãng nhìn ra xa, Đạo Uẩn quay lại chú ý:
– Cát Xuyên Mộc ? Tên nghe quen quen. Tiên sinh biết gã không ?
– Lão phu không rõ lắm, nhưng là học trò của Cổ Tư Nhiễm Chúc.
– Ý tiên sinh thế nào ? Sao không gọi đến thử ?
– Thiếu gia chọn người đã biết chúng ta không những chú trọng về võ thuật mà còn phải có đạo đức và kiến thức nữa.
– Đúng vậy, nhưng đừng bỏ lỡ dịp. Theo thiển ý, tiên sinh cứ cho triệu cả hai đến khảo sát xem sao.
– Cả hai ? Sao lại cả hai ? Còn ai nữa ?
– Thế tiên sinh quên rồi chăng ? Năm ngoái, vãn sinh có nghe kể câu chuyện một nông dân đuổi cướp ở vùng Hotengahara. Người đó xem ra cũng có tài đấy. Tên hắn là gì nhỉ ? Thạch Điền …Thạch Điền Đạt Lang thì phải !
– Ồ, thế ra thiếu gia vẫn nhớ chuyện ấy !
– Nhớ chứ ! Chẳng biết bây giờ hắn còn ở Hotengahara không ?
– Lão phu cũng không rõ. Thấy thiếu gia không hỏi gì đến, tưởng ngài không quan tâm.
– Để một nhân vật như vậy lọt vào tay kẻ khác mà không xét thì uổng lắm.
– Lỗi tại lão phu. Nhiều người cầu cạnh quá, lão phu chẳng muốn làm thiếu gia bận lòng.
– Đa tạ tiên sinh. Vãn sinh bận thật nhưng bỏ qua là bỏ qua những chuyện khác kia chứ người nào tiên sinh đã để mắt tới, sao vãn sinh lại không lưu ý được. Xin xét việc này ngay cho.
Tảng sáng hôm sau, Điền Xán Quang lên đường cùng với một tùy viên nhắm hướng Hotengahara thẳng tiến.
Ngày đi đêm nghỉ, đến nơi, chiều đã xế. Đồng Hotengahara bây giờ khác lạ. Trước kia đìu hiu hoang vắng là thế, nay xanh ngắt những ruộng kê non thoai thoải xếp thành bậc trên sườn đồi. Lại có chỗ giồng đậu, giồng bắp. Con suối sau khu rừng thưa đã được be lại, chia thành nhiều nhánh chảy vào các chỗ trũng tạo nên các hồ nhỏ điều hòa mực nước để từ đó dẫn vào tưới các ruộng kê.
Một con chim sơn ca thấy động vụt lên cao, tiếng hót lảnh lót. Cảnh thanh bình, sung túc như hiện ra trước mắt. Điền Xán Quang ngạc nhiên nói với người tùy tùng:
– Hotengahara là đây đấy ư ? Hơn hai năm trước, vùng này còn là hoang địa, ta đi qua chỉ thấy lau sậy, có đâu được như thế này !
Theo đường mòn dẫn đến chân núi Hitachi, cả hai vừa cho ngựa đi bước một vừa ngắm cảnh. Tuy một đôi chỗ chưa khai phá hết, cây mục còn rải rác trên nền cỏ dại, nhưng nói chung toàn vùng hiển nhiên đang trên đà phát triển. Xa xa, một đám nông phu vác cào, cuốc đứng tụ tập trước một căn lều.
Người tùy viên bỗng thốt lên như để lưu ý Điền Xán Quang:
– Đại nhân ! Ngài có thấy gì không ?
Điền Xán Quang nheo mắt, lấy tay che ánh nắng chiều chênh chếch:
– Hình như có toán nông phu đang hành lễ trước một căn miếu thì phải …
– Dạ đúng. Tiểu nhân cũng thấy thế.
– Mình lại coi, nhân thể hỏi thăm tin tức. Ta biết gần đây có ngôi đền, tới tạm trú qua đêm được.
Bèn lỏng cương cho ngựa thong dong bước. Đến nơi, thấy khoảng hai chục nông dân vừa lễ xong, đứng trước một ngôi miếu nhỏ bằng gỗ mới dựng trên một cái gò cao.
Sau miếu là căn lều cũ đã được sửa sang lại. Miếu nhỏ quá, cửa miếu chỉ rộng bằng mặt chiếc bàn con, một người chui không lọt. Bên trong có pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm đặt trên một cái kỷ với những đồ tế tự.
Toán nông phu dường như vừa thăm ruộng về, nông cụ đã được rửa sạch sẽ và đang sửa soạn lục tục rời khỏi nơi hành lễ.
Điền Xán Quang sai tùy viên gọi một gã nông phu còn trẻ lại hỏi. Anh ta ngần ngại bước tới.
– Miếu này thờ ai vậy ?
– Thạch Điền đại hiệp.
– Ủa ! Phải Thạch Điền Đạt Lang chăng ?
– Phải. Thạch Điền đại hiệp là đại ân nhân của chúng tôi. Các ngài là ai ?
– Chúng ta là những người trong dinh Hòa Giả muốn gặp đại hiệp. Phải chăng…
phải chăng đại hiệp đã … quy tiên ?
– Không biết. Thạch Điền đại hiệp trước ở căn nhà này nhưng nay không còn ở đây nữa.
Thấy có khách lạ hỏi thăm, những nông dân khác xúm đến vây quanh, ồn ào mỗi người một câu nghe không rõ gì cả. Một nông phu giả phải bước ra, đỡ lời cả toán:
– Thạch Điền đại hiệp trước ở đây với một đồ đệ. Ngài là thiên sứ giúp chúng tôi đánh đuổi bọn sơn quỷ, lại còn chỉ bảo chúng tôi cách ngăn nước, lấy nước vào ruộng.
Khi thành công, chúng tôi đến tạ Ơn thì ngài đã về trời, nên lập miếu này thờ ngài và nhớ ơn ngài chỉ dạy.
Điền Xán Quang bước xuống ngựa, tần ngần nhìn gian lều cỏ cùng ngôi miếu con.
Ông hối tiếc đã chậm trễ, để lỡ cơ hội chiêu dụ một người tài đức về cho soái chủ. Ông quay bảo tùy viên:
– Thạch Đạt Lang là một kiếm sĩ giang hồ. Ta không biết mặt và cũng không rõ thân thế, nhưng ta tin đấy là một người mà tài năng và kiến thức ít ai bì kịp. Lại không ham danh lợi. Uổng quá !
Nhưng ông vẫn còn chút hy vọng. Quay sang người nông phu già, ông hỏi:
– Từ đây đến thiền viện Toku đi đường nào tiện ?
– Ngài cứ theo đường mòn này, qua suối rẽ trái một thôi thì đến.
– Cư sĩ Tuệ Tĩnh còn trụ trì ở viện không ?
– Dạ còn. Ngài bây giờ là chỉ đạo của cả khu này. Phải rồi, nếu các vị cần biết rõ thêm điều gì nữa thì cứ đến đấy mà hỏi.
– Cảm ơn lão trượng.
Nói xong, Điền Xán Quang và tùy viên lên ngựa. Toán nông dân cũng dần dần giải tán.
Nghe tin khách quý từ Tân đô đến, viện chủ Tuệ Tĩnh lật đật bước ra nghênh tiếp.
Hàn huyên xong, hỏi về lý do cuộc thăm viếng bất ngờ, Điền Xán Quang đáp:
– Đệ muốn thăm tin tức của Thạch Điền Đạt Lang trước làm ruộng ở vùng này. Hỏi nông dân quanh đây, họ cho biết chỉ lão huynh mới rõ.
Tuệ Tĩnh buồn bã gật đầu:
– Thạch Đạt Lang bỏ đi đã non nửa năm nay, ngay sau khi thu hoạch vụ kê thứ hai. Thật là một vị anh hùng, kiên trì và cương quyết. Không nhờ Thạch Điền đại hiệp thì xóm tiều đã tan nát rồi mà cả vùng cũng không được thịnh vượng như thế này.
Rồi vị cư sĩ tóm tắt công trình của Thạch Đạt Lang kể cho Điền Xán Quang nghe.
Sau khi đánh tan bọn sơn quỷ, Thạch Đạt Lang tổ chức dân lành thành đoàn đội, đào hào, đắp lũy để tự vệ. Ngay năm ấy, dân làng còn phải chống chọi với hai bọn cướp khác nữa. Chết mất hai thanh niên, bị thương sáu người nhưng từ bấy giờ không tên cường khấu nào dám bén mảng tới xóm nữa. Nhưng đấy không phải là thành quả chính.
Điều quan trọng là Thạch Đạt Lang đã gây cho dân làng lòng tự tin ở sức mình để tự cường và tự túc. Chính Thạch Đạt Lang đã hô hào mọi người kết đoàn gom sức đắp bờ, be suối để phòng lụt và dẫn nước vào ruộng cho nên mới được như ngày nay. Năm đầu thu hoạch được một số kê, bắp khá; măn sau số thu hoạch tăng gấp đôi. Dân xóm mừng rỡ mở hội, mang đến tặng Thạch Đạt Lang mười hũ rượu, ngũ cốc và dê, gà nhưng Thạch Đạt Lang không nhận, tặng lại dân làng để dùng vào bữa tiệc. Chưa bao giờ xóm tiều lại có những ngày vui như thế.
– Họ cử lão tới tạ Ơn Thạch đại hiệp. Đại hiệp có nói sự thành công này do tinh thần kết đoàn và lòng quyết tâm của dân xóm chứ ông không có công gì, lại tặng lại dân xóm pho tượng Quan Thế Âm do ông điêu khắc những khi nhàn rỗi.
Mấy hôm sau, lão lại đến cùng với một số chức sắc, chủ ý rước đại hiệp tới ở hẳn trong xóm tại một căn nhà đã được thu xếp tươm tất trước, nhưng đến nơi thì Thạch đại hiệp đã đi rồi. Căn lều bỏ trống.
Mất mấy hôm dân chúng buồn rầu chẳng thiết làm ăn gì cả. Lão phải giải thích, khuyên họ chớ nên sao nhãng công việc thường nhật vì như thế trái với lời dặn của Thạch đại hiệp. Họ có lập căn miếu nhỏ, đặt pho tượng Quan Thế Âm trong đó và ngày hai lần, lúc đi làm cũng như lúc trở về, đến khấu đầu làm lễ tỏ lòng nhớ ơn ân nhân.
Nghe xong, Điền Xán Quang mơ màng nhìn ra xa. Ông mường tượng bóng người hiệp sĩ chưa hề quen biết, lòng ngẩn ngơ hối tiếc:
“Ta đã không tròn bổn phận với chủ soái. Biết bao giờ mới lại gặp được một người như thế ?” Hữu ngạn sông Sumida, trên ngã ba đường liên tỉnh dẫn đến Tân đô, người ta mới dựng một trạm canh thật lớn. Cổng cao, hai cánh bằng gỗ kiên cố chắn ngang đường, lính biên phòng ngày đêm thay nhau canh giữ và tuần tiễu suốt từ bờ sông đến chân núi.
Thạch Đạt Lang cùng đồ đệ đứng trong hàng chờ lính tuần kiểm soát. Ba năm trước, hắn cũng đã ghé qua đây, không gặp điều gì khó khăn nhưng tình thế mỗi ngày một tồi tệ hơn. Nhà cửa dựng thêm nhiều nhưng cái không khí thanh bình bây giờ không còn nữa.
– Anh kia ! Đến lượt anh ! Bước lại đây !
Thạch Đạt Lang tiến lại, giơ cao hai tay cho hai người lính tuần lực lưỡng, mặc quần da đi dép cỏ, lục soát.
– Vào thành làm gì ?
– Chẳng có chủ đích gì nhất định.
– Không có chủ đích gì ? Ngươi định nói đùa chăng ?
– Ô hay ! Thì ta là kẻ giang hồ nay đây mai đó, đến hay đi làm gì có chủ đích !
– Nói láo. Ai làm gì mà không có chủ đích. Hay là kẻ gian đấy ?
– Nếu vậy cứ cho là ta vào thành để cầu học cũng được.
Người lính lặng thinh, giở một quyển sổ lớn ra rồi vừa hỏi vừa ghi chép:
– Tên gì ? Bao nhiêu tuổi ? Sinh quán ở đâu ?
– Thạch Đạt Lang, hăm chín tuổi, sinh quán làng Miyamoto, tỉnh Mimasaka.
– Sư phụ là ai ?
– Không có sư phụ.
– Ai cho tiền ngươi đi đây đó ?
– Ta ăn nhờ ngủ đậu tại các đền chùa, đôi khi bạn bè giúp đỡ chút đỉnh. Cũng có lúc trồng trọt sinh nhai.
Ngẫm nghĩ một lát, người lính lại hỏi:
– Đến thành ở nhà ai ?
– Chưa biết. Chưa có địa chỉ nhất định.
– Vào thành phải khai chỗ trú ngụ. Không chỗ trú ngụ không được vào.
Thạch Đạt Lang nghĩ nếu cứ khai thật thì không bao giờ xong cuộc tra vấn cù nhầy này. Bèn nói đại:
– Ta ngụ Ở dinh Trúc Mộ đại nhân, trong phủ.
Trúc Mộ đại nhân chẳng ai khác, chính là Trúc Mộ Trung, trưởng nam Trúc Mộ Chính, một kiếm sĩ danh tiếng vùng Nara, nay đã lui về ở ẩn tại Trúc Lâm cốc. Ngưỡng mộ tài học và kiếm thuật nhà Trúc Mộ, lãnh chúa Tôn Điền Tùng Cương cử Trúc Mộ Trung vào giữ chức trung quân tham vấn trưởng và khi đặt bản doanh mới tại Tân đô, lại dành riêng một khu để làm tư dinh cho Trúc Mộ.
Để tránh một cuộc tra xét kéo dài, bất đắc dĩ Thạch Đạt Lang phải quyền biến nhắc đến tên Trúc Mộ Trung, hy vọng vị này biết đến hắn qua sự giới thiệu của thiền sư Đại Quán hoặc của chính Tôn Điền.
Quả nhiên khi nghe danh Trúc Mộ, người lính há hốc mồm. Tính danh đó hầu như có ma lực làm người lính sợ hãi. Gã đổi giọng lễ phép:
– Sao đại hiệp không nói trước ? Nếu biết đại hiệp có liên hệ với Trúc Mộ đại nhân, kẻ nô tài này đâu dám xét hỏi.
Người lính kia cũng đỡ lời:
– Bây giờ gian tế trà trộn trong dân chúng nhiều không kể xiết. Lệnh trên ban xuống là phải xét hỏi kỹ những kẻ giang hồ, xin đại hiệp bỏ qua cho.
Thạch Đạt Lang mỉm cười gật đầu cám ơn rồi ung dung dắt tay đồ đệ qua cổng hướng về phía bến đò. Hạo Nhiên hỏi:
– Sao họ đặc biệt khám xét kỹ những kiếm khách như chúng ta vậy thầy ?
– Họ sợ gian tế.
– Ngốc quá ! Gian tế dại gì ăn mặc như kiếm khách. Cứ mặc như nông phu hay thường dân khác, ai biết !
– Nói khẽ chứ ! Phải giữ mồm miệng. Chỗ này chẳng phải vùng Hotengahara đâu.
– Làm ta lỡ chuyến đò.
– Lỡ đò thì đợi chuyến sau, càng có thì giờ ngoạn cảnh núi Phú Sĩ.
– Ở Hotengahara cũng ngắm được núi Phú Sĩ, cứ gì ở đây !
– Ở đây khác. Núi Phú Sĩ thay đổi theo giờ, theo mùa, theo thời tiết, lại theo chỗ người đứng ngắm nữa. Nó còn đổi khác theo tâm trạng người đứng ngắm.
Hạo Nhiên lơ đãng nghe. Nó đâu có lưu tâm gì đến núi Phú Sĩ nên chẳng hỏi tại sao. Nó chỉ mong chóng vào thành, đến ở nhà Trúc Mộ đại nhân như lời thầy nó nói với người lính.
– Tối nay ta đến nhà Trúc Mộ đại nhân thật hả thầy ?
– Để ta xem đã.
– Nãy thầy nói vậy mà ?
– Ừ, nhưng không phải giản dị như thế. Trúc Mộ đại nhân giữ chức vụ rất lớn cạnh lãnh chúa đương nhiệm, gần như một vị đại thần trong cung, phải có giới thiệu mới được.
– Chắc ông ấy uy nghi, oai vệ lắm ! Lớn lên con cũng muốn được như thế !
– Uy nghi, oai vệ ?
– Dạ, uy nghi như ông ấy.
– Sao con nhắm thấp thế ?
Hạo Nhiên nhíu mày ngước nhìn thầy:
– Con không hiểu.
– Con hãy trông núi Phú Sĩ. Núi Phú Sĩ có uy nghi không ?
– Người ta so sánh với núi sao được ?
– Núi Phú Sĩ tuy uy nghi, oai hùng, bất di bất dịch nhưng vẫn giữ yên lặng. Con muốn trở nên một người phi thường sau này, tốt lắm. Nhưng hãy giữ yên lặng như núi.
Con làm nên việc phi thường, tự nhiên sẽ được nể trọng thật sự, không phải giữ chức vụ cao mới được nể trọng.
Những lời Thạch Đạt Lang chưa kịp thấm vào bộ Óc non nớt của thằng bé, thì tiếng ồn ào của chuyến đò ngang đã tới. Hạo Nhiên vui mừng chạy xuống bến.
Sông Sumida ở khúc này có nhiều điểm trái ngược:
chỉ trong một quãng ngắn, chỗ rộng chỗ hẹp, chỗ sâu chỗ nông. Khi nước lên, sóng đục ngầu dào dạt vỗ vào bờ. Khi nước xuống, dòng sông trong leo lẻo. Bến đò ở đầu một cái vụng nhỏ đá chờm ra ngoài.
Trời xanh, nước trong vắt. Ngồi bên mạn thuyền, Hạo Nhiên nhìn đáy sông thấy lờ mờ hình chiếc mũ sắt đã han rỉ. Tiếng khách quá giang ồn ào nó chẳng để ý, mải nhìn đàn cá nhỏ lội tung tăng vẩy trắng óng ánh như bạc.
Thạch Đạt Lang đảo mắt nhìn quanh. Con đò hầu mang đủ hạng người của đủ thành phần trong xã hội:
một người thợ mộc, bàn tay với những đốt to lớn giữ khư khư túi đồ nghề trong bọc; hai mã phu quần áo nhớp nhúa, nét mặt nhăn nhúm như trái táo phơi khô; ba ả kỹ nữ phấn son loè loẹt; một du tăng nón tu lờ che kín mặt, nhắm mắt ngồi tham thiền trong góc; một kiếm khách lang thang cũng như hắn, quần áo bạc phếch và bốn năm gã trai tráng có vẻ phu khuân vác, ngồi đứng hỗn độn, trò chuyện, chửi thề oang oang.
Đò cập bến, bọn họ tranh nhau lên, xô đẩy đám phụ nữ kêu om sòm. Chờ cho khách quá giang đi đã vãn, thầy trò Thạch Đạt Lang mới bỏ thuyền lên bờ. Được mấy bước, bỗng có tiếng người gọi giật:
– Tráng sĩ ! Tráng sĩ quên cái này !
Quay lại, thấy người kiếm khách đồng hành cầm một cái túi gấm đưa cho. Cái túi cũ đã rách miệng và những đường chỉ thêu viền bạc đã sờn nhiều chỗ. Thạch Đạt Lang lắc đầu:
– Không phải của tại hạ. Chắc của người nào bỏ quên.
Bỗng Hạo Nhiên chạy đến, giật ngay cái túi từ tay người khách lạ, nhét vào bọc rồi nói:
– Của tôi !
Khách nhìn thằng bé, trừng mắt:
– Tiểu tử này thật vô lễ. Muốn sống đưa nó lại cho ta rồi khấu đầu xin lỗi ba lần, ta sẽ trả.
Hạo Nhiên trề môi thè lưỡi chế nhạo. Khách nắm áo nó định làm dữ, nhưng Thạch Đạt Lang vội giơ tay ngăn lại, xin lỗi về sự lỗ mãng ấy của nó, lấy cớ con trẻ còn dại, xin khách bỏ qua cho.
Người kia quay nhìn hắn khinh bỉ:
– Ngươi tên gì ? Liên hệ gì với thằng bé này ? Chú hay anh nó ?
– Tại hạ là Thạch Điền Đạt Lang, sư phụ thằng bé này.
Người kia nhíu lông mày, nhìn Thạch Đạt Lang một chặp, đoạn bảo Hạo Nhiên:
– Liệu hồn ! Lần sau đừng trách.
Rồi lập tức quay gót bỏ đi.
– Khoan ! Thạch Đạt Lang gọi. Xin cho tại hạ hỏi một điều.
Lời lẽ ôn hoà cùng dáng điềm tĩnh của hắn khiến người kia đứng sững, e ngại, tay để vào đốc kiếm.
– Ngươi muốn gì ?
– Các hạ cho biết quý danh.
– Can dự gì đến ngươi ?
– Tại hạ đã nói tên khi các hạ hỏi đến. Dĩ nhiên tại hạ cũng phải được quyền biết danh tính người đã hỏi.
Người kia lại trừng mắt nhìn Thạch Đạt Lang từ đầu đến chân, rồi không biết nghĩ sao, đáp:
– Ta là Liêu Phong.
Thạch Đạt Lang gật đầu:
– Tốt lắm. Giờ các hạ đi được rồi !
– Ta sẽ không quên cuộc gặp gỡ này.
Nói xong khách bỏ đi không quay lại.
Hạo Nhiên thở phào. Nó nhìn sư phụ với ánh mắt thán phục. Thạch Đạt Lang bảo:
– Hạo Nhiên ! Sống ở thành phố khác với sống ở thôn quê. Ở thôn quê, ta làm bạn với cầy cáo; ở đây, xung quanh ta có nhiều người. Con phải để ý cách cư xử cho có lễ độ.
– Thưa thầy vâng.
– Nếu mọi người biết sống hoà hợp với nhau thì mặt đất này là tiên cảnh. Người ta ai cũng có phần xấu phần tốt, không biết kềm chế để phần xấu lộ ra làm hại kẻ khác thì mặt đất này là địa ngục. Lễ độ không phải là giả dối đâu, nó giúp ta loại bỏ những hành động xấu, không hợp với xã hội, để mọi người sống hòa đồng với nhau. Con hiểu rõ chưa?
Hạo Nhiên gật. Thạch Đạt Lang lại tiếp:
– Xã hội nào cũng được tổ chức nhằm mục đích duy trì sự hòa đồng ấy. Hành động của con vừa rồi thật đáng trách. Chuyện nhỏ, nhưng suýt nữa thành lớn. Chúng ta chưa biết rồi đây sẽ đi đâu, nhưng bất kỳ đi đâu, con cũng phải tỏ ra có lễ độ và tôn trọng người xung quanh.
Hạo Nhiên lí nhí một lời xin lỗi. Nó rút cái túi gấm ra đưa cho Thạch Đạt Lang:
– Thầy giữ hộ con. Con giữ sợ mất.
– Túi này cha con để lại phải không ?
– Vâng.
Thạch Đạt Lang nhớ đến công đồ đệ. Nhờ những kỷ vật trong túi này mà hắn đã qua được mùa mưa lụt đầu tiên tại đồng hoang Hotengahara. Những năm sau, trồng cấy có kết quả hơn, Hạo Nhiên đã chuộc lại được cái túi. Hắn chắc tiền bán con ngựa trước khi ra đi, thằng bé cũng đã gom cả vào đây. Giao cái túi cho hắn giữ, Thạch Đạt Lang biết đồ đệ tin mình lắm. Hắn chỉ phiền không có khả năng giữ tiền, nhưng vẫn mỉm cười bảo thằng bé:
– Cũng được, để ta giữ cho. Nhưng khi nào tiêu việc gì, con tự quyết định lấy. Tối nay con thích ngủ ở đâu ?
– Nếu không đến nhà Trúc Mộ đại nhân được thì ta tìm cái quán nào trọ tạm chứ !
Hạo Nhiên nhìn cảnh vật xung quanh thấy cái gì cũng khác lạ. Khu này thuộc về phía bắc ngoại thành Edo. Một cái chợ ngựa quy tụ hàng trăm con đủ giống và màu sắc thường xuyên họp ở đây. Lái buôn, mã phu tấp nập ra vào, ngựa hí vang rần. Kẻ mua người bán điều đình giá cả trong những quán trà, quán rượu hoặc quán ăn dựng la liệt xung quanh chợ. Họ đập tay vào nhau, dùng những tiếng lóng và thổ ngữ nếu không phải tay nghề thì khó mà hiểu.
Một người tuổi trạc trung niên cao lớn, dáng mạnh mẽ, râu quai nón rậm tới mang tai, mặc trang phục kiếm sĩ, cùng đi với hai gia nhân, len lỏi, xem xét hàng chục con ngựa. Gã chỉ trỏ, vạch khuyết điểm của từng con rồi kết luận:
– Về thôi. Hôm nay chẳng có con nào khá. Họ bán lừa chứ ngựa gì mà tồi thế. Mua loại này về để tập luyện sao được !
Ra đến cổng chợ, kiếm sĩ mua ngựa vô ý suýt đụng phải thầy trò Thạch Đạt Lang.
Vừa định ngỏ lời xin lỗi, bỗng gã khựng lại, ngạc nhiên lùi mấy bước:
– Ủa, Thạch Điền Đạt Lang ! Phải Thạch Điền Đạt Lang đó không ?
Thạch Đạt Lang cũng nhìn gã, rồi kêu lớn:
– Mạnh Đạt !
Quả người đó là Mạnh Đạt. Mặc dầu hắn và Mạnh Đạt đã trực tiếp so gươm ở đại lâu viên trong Trúc Lâm cốc sáu bảy năm trước nhưng Mạnh Đạt tỏ ra không mang một chút hiềm thù gì. Lại còn có vẻ thân thiện nữa.
– Không ngờ gặp đại hiệp ở đây. Đại hiệp tới Tân đô lâu chưa ?
– Tại hạ mới từ Shimosa đến. Lão nhân gia vẫn được bình yên chứ ?
– Bình yên. Nhưng ở tuổi đó cũng chưa biết thế nào. Xấp xỉ cửu tuần rồi còn gì !
Đại hiệp đã định trọ đâu chưa ?
– Chưa. Tại hạ cũng còn đang tìm …
– Còn tại hạ thì ở ngay trong dinh Trúc Mộ đại nhân. Nếu có dịp, xin mời đại hiệp đến thăm, tại hạ rất hân hạnh được giới thiệu đại hiệp.
Rồi ghé tai Thạch Đạt Lang, Mạnh Đạt nói nhỏ:
– Còn chuyện nữa. Một bảo vật rất quý thuộc quyền đại hiệp đấy.
Gã mỉm cười bí mật:
– Đừng quên đến, càng sớm càng tốt.
Nói đoạn, cùng với gia nhân nhảy lên ngựa phóng đi mất.
Chương 67: Ma tâm pháp
Lữ quán Mã Đề thật xứng với tên gọi, vì có một dãy chuồng ngựa lớp xếp theo hình vòng cung, dựng lên để mã phu mang ngựa đến. Quán chia làm hai tầng ngăn thành nhiều phòng nhỏ, mỗi phòng trải được hai chiếu. So với dãy chuồng ngựa lớn vây quanh, nơi để khách trọ Ở chẳng khác gì một căn nhà phụ, nhưng được cái rẻ tiền.
Thày trò Thạch Đạt Lang chọn lữ quán này để trọ cũng vì lý do ấy. Vả lại, nếu đem so sánh với căn lều cỏ tại Hotengahara, quán này cũng còn sang chán ! Sau ba năm ở đồng hoang, quán nào đối với thầy trò hắn cũng tốt, dù đó chỉ là một lữ quán rẻ tiền, dành cho bọn mã phu và dân thợ.
Một người làm công dáng thô kệch chỉ Thạch Đạt Lang tới một căn phòng cuối dãy. Căn phòng trông ra hướng tây năm, nắng chiều gay gắt rọi qua khung cửa sổ trần mở rộng khiến không khí trong phòng oi bức khó chịu. Thấy có người vào, đàn ruồi trâu đồng loạt cất cánh bay lên, vo ve, đan đi đan lại loang loáng dưới tia nắng.
Thạch Đạt Lang cau mặt. Vài ngày trước, có lẽ hắn không thấy khó chịu như thế, vì nắng ấm khiến kê, lúa chóng chín. Ở ngoài ruộng rộng rãi, sau mỗi cơn gió nhẹ, nắng có vẻ ấm ấp hơn. Ngay cả những con ruồi cũng vậy. Khi hắn cuốc đất khó nhọc, mồ hôi đổ đầy mình, nếu có con ruồi nào đậu lên đầu lên cổ, hắn cũng chỉ nhẹ nhàng xua đi, coi như là những sinh vật làm công việc kiếm ăn hàng ngày mà thôi. Như hắn. Thế mà chỉ cách một vài ngày đường, qua mấy khúc sông vào trong sự náo nhiệt của đô thị, lòng con người đã đổi khác. Thạch Đạt Lang ngồi xuống chiếu, bên chiếc bàn thấp thô sơ, quên những điều bực dọc nhỏ nhặt để giữ lòng bình thản.
Đồ đệ hắn xếp gọn hành trang rồi ra đóng cửa sổ. Nhưng xem chừng cũng không kết quả. Không khí trong phòng càng ngột ngạt hơn.
– Hay để con gọi chủ đổi cho phòng khác ?
Thạch Đạt Lang gật đầu. Hạo Nhiên đi ra, lát sau dẫn vào một phụ nữ trạc trung niên, ăn mặc chải chuốt, dáng chững chạc có vẻ như là quản lý. Mụ đảo mắt nhìn quanh rồi bảo:
– Nếu không bằng lòng phòng này thì khách quan lên lầu hai, mát và đỡ ruồi hơn.
Lầu hai không đỡ ruồi nhưng quả có mát hơn đôi chút. Sau khi xếp dọn xong hành lý, Hạo Nhiên cảm thấy đói bụng. Mùi thức ăn từ phòng bên bay sang càng khiến ruột nó cồn cào. Nó hít hà:
– Hình như bên kia đang ăn mì nấu. Hay ta cũng gọi mì ăn hả thầy ?
Thạch Đạt Lang mỉm cười gật đầu. Hạo Nhiên vui mừng chạy ngay xuống lầu. Ở thôn quê, muốn ăn mì người ta gieo hạt ngay từ đầu xuân. Khi hạt nảy mầm, phải cào cỏ, tưới nước, bón xới để mùa hạ trổ bông, mùa khô gặt về phơi khô đập lấy hạt, xay thành bột rồi mới làm ra sợi mì. Ở đây dễ quá, chỉ việc vỗ tay gọi người hầu đến là có mì ăn. Thành ra dân kẻ chợ nhiều người chẳng biết cây lúa mì nó thế nào và chắc cũng chẳng mấy ai lưu tâm đến công khó nhọc của người nông dân trồng ra nó.
Thạch Đạt Lang đưa tay lên chiếc kỷ thấp, ngồi ngó mông lung. Tiếng ồn ào của phiên chợ đã vãn. Bên kia đường, người đi lại cũng bớt tấp nập. Bỗng một bảng gỗ mộc, trên viết hàng chữ đen nhánh:
“Ma tâm pháp – Vương Chính đảm trách mài giũa theo phương pháp chân truyền của Cổ gia”, làm hắn chú ý. Phương pháp của Cổ gia là phương pháp gì ? Người họ Cổ độc nhất hắn biết là Cổ Huy Đạo. Nghĩ đến Cổ Huy Đạo, hắn nhớ ngay tới nhà luyện kiếm kiêm nghệ sĩ tài hoa này với bà lão mẫu tại ngõ Kim Phong hắn đã tá túc khi còn ở Cổ thành.
Hạo Nhiên cũng vừa trở lại, đến ngồi bên sư phụ. Trông sang bên kia đường, thấy tấm bảng, nó tỏ vẻ không hiểu:
– Họ quảng cáo bán gì thế hả thầy ?
– Ta không rõ, nhưng đoán có lẽ họ mài kiếm theo một phương pháp riêng do họ Cổ truyền lại. Ma tâm là mài giũa tinh thần. Nếu coi kiếm là tinh hoa của võ thuật thì mài kiếm cho sắc cũng như luyện cho tinh thần linh mẫn. Chắc họ quảng cáo mài kiếm đấy thôi. Để xem, có dịp ta sẽ sang đấy. Nếu quả đúng, ta đưa họ chuốt lại lưỡi kiếm của ta luôn thể.
Món mì nấu chờ mãi chưa thấy mang lên. May nhờ có gió nhẹ, trời cũng đỡ nóng.
Thạch Đạt Lang thiu thiu ngủ, nhưng những tiếng cười nói ồn ào ở phòng bên đột nhiên làm hắn tỉnh giấc. Hắn bảo tiểu đồ:
– Hạo Nhiên ! Sang bảo họ bớt làm ồn để ta ngủ một chút.
Hạo Nhiên vừa kéo cửa bước vào, tiếng cười nói bỗng im bặt. Bốn người đang quây quần bên khay rượu quay mặt ra nhìn thằng bé, người nào cũng râu ria xồm xoàm, dáng dấp thô lỗ.
– Các bác hãy nói nho nhỏ, để thầy tôi ngủ.
– Cái gì ? Mày nói cái gì, thằng tiểu quỷ ?
Bị gọi một cách xấc xược là tiểu quỷ, Hạo Nhiên tức giận:
– Ai là tiểu quỷ ? Chúng tôi thuê phòng để được yên tĩnh, các bác làm rộn như vậy, không để ai nghỉ ngơi gì hay sao ?
– Mày nói vậy hay thầy mày bảo mày sang đây nói vậy ?
– Thầy tôi bảo.
Cả bọn cười hô hố. Một gã to lớn cất giọng khinh bỉ:
– Thế hả ! Vậy mày về bảo với thầy mày đợi đấy, ta là Mã Tiên đại ca sẽ trả lời sau. Mã tiên là cái roi ngựa. Hay muốn ăn roi ngựa thì bảo !
Nhìn dáng điệu dữ dằn của cả bọn, Hạo Nhiên ngại không dám đứng lâu, lùi ra ngoài, lủi thủi về phòng. Bài học lễ độ Thạch Đạt Lang dạy nó trên bến sông Sumida xem chừng không phải người nào cũng biết. Phòng thầy trò Thạch Đạt Lang và phòng của bốn gã kia chỉ được phân cách bằng một bức vách mỏng. Tiếng cười nhạo báng và những lời khích bác tục tằn vang đến Thạch Đạt Lang nghe rõ mồn một.
– Thằng ấy tên gì, tao quên không hỏi, nhưng ai thì cũng phải nể mặt chúng ông chứ ! Nó làm như quán này là nhà nó vậy !
– Phải cho nó biết tay.
– Dẫn nó ra sau nhà, đổ vào mồm nó vài gáo nước đái ngựa cho nó chừa thói hỗn láo đi.
– Ha ha ! Phải đấy ! Cho nó uống nước đái !
– Để tao. Tao sang trói nó lại bắt làm giấy xin lỗi rồi mang ra sau nhà. Thằng này !
Kiếm cái gì đựng nước đái trước đi nghe không !
Hạo Nhiên cau mặt nhìn thầy như hỏi ý. Ba năm theo Thạch Đạt Lang, nó đã được sư phụ dạy cho cách vận khí, luyện công, sử dụng quyền cước và kiếm thuật. Thủ pháp của nó đã tiến bộ nhiều, những chiêu kiếm phóng ra cũng chính xác hơn trước, nhưng vì tuổi còn nhỏ nên không đủ bình tĩnh. Vả lại chưa dịp nào so tài với một địch thủ thật sự nên nó e ngại. Hạo Nhiên nhìn thầy chờ lệnh; Thạch Đạt Lang chỉ đưa mắt mỉm cười không nói năng gì.
Hai bát mì với một hũ rượu nhỏ mới được mang tới đặt trên mặt kỷ còn nóng hổi.
Thạch Đạt Lang khẽ bảo học trò:
– Ăn đi con. Ta thấy đói bụng lắm rồi !
Chưa kịp hết câu, cánh cửa đã xịch mở. Gã to lớn có tên là Mã Tiên ở phòng bên khệnh khạng bước vào. Hạo Nhiên nói khẽ:
– Nó đấy …
Gã to lớn cười khềnh khệch.
– Chú kia ! Khoan ăn đã. Chú có biết ta là ai không ?
Thạch Đạt Lang điềm tĩnh lấy đũa khều những sợi mì trong bát, làm như không để ý đến kẻ mới vào.
Mã Tiên lại nói:
– Khoan hãy ăn. Đừng tưởng làm thế mà giấu được sự sợ hãi của ngươi, không qua mắt ta được đâu !
– Hả ? – Thạch Đạt Lang vờ không hiểu, ngước lên – Ngươi là ai, đến có việc gì ?
– Chỉ những thằng ngu, hoặc vừa đui vừa điếc mới không nghe đại danh của ta mà thôi. Cả vùng này không ai không rõ …
– Ta có hơi lãng tai. Ngươi hãy nói to chút nữa. Tên gì ? Ở đâu đến ?
– Hừ ! Thằng này muốn chết ! Đã thế thì trước khi chết, ta cũng cho ngươi biết tên để khỏi hối tiếc. Ta là Mã Tiên đại ca, chuyên môi giới lừa ngựa. Khắp vùng Chichibu này ai cũng kiêng nể. Con nít thấy ta không dám hó hé.
Thạch Đạt Lang cười khẩy:
– Vậy là lái ngựa rồi !
– Lại nói cho ngươi hay, ta cung cấp ngựa cho tướng phủ đó. Liệu hồn mỗi khi tiếp xúc với ta …
– Tiếp xúc ? Tiếp xúc cái gì ?
– Sao ? Phải ngươi sai thằng nhỏ này sang quấy rầy chúng ta không ? Quán này đâu phải khách sạn. Muốn yên tĩnh thì ở nhà, chúng ta lái ngựa thích nói to, được không ?
Giọng Mã Tiên hằn học, mặt gã đỏ gay, bóng loáng. Mấy giọt mồ hôi từ trên trán chảy ngoằn ngoèo xuống tận chân mày, gã giơ tay quệt rồi nghĩ sao, rút ngay dao găm cài bên sườn ra cầm lăm lẳm.
– Ngươi phải lập tức xin lỗi.
Thạch Đạt Lang ngừng đũa, ngẩng nhìn Mã Tiên, mặt đanh lại:
– Xin lỗi cái gì ?
– Xin lỗi đã làm rộn cuộc vui của anh em chúng ta !
– À ra thế ! Mã Tiên, phải tên ngươi là Mã Tiên không ? Hãy trông đây rồi cho biết ngươi làm được như thế này chăng.
Vừa hết câu, bỗng xoét một tiếng, Thạch Đạt Lang thình lình rút đoản kiếm. Ánh thép loáng lên dưới tia nắng, ba vật đen lả tả rơi xuống chiếu. Chưa ai biết rõ là gì, Thạch Đạt Lang đã tra kiếm vào vỏ nhanh trong chớp mắt. Trông kỹ những vật đen trên chiếu thì ra ba con ruồi trâu. Hắn thản nhiên bảo đồ đệ:
– Hạo Nhiên ! Nhặt mấy con ruồi vất ra ngoài rồi lau chiếu cho sạch !
Mã Tiên há hốc mồm. Chưa bao giờ gã thấy ai xuất thủ thần tốc như vậy. Kinh hãi cực kỳ, gã lui dần ra cửa.
Khi Hạo Nhiên trở lại, phòng bên chỉ còn nghe vài tiếng thì thào khe khẽ. Lát sau yên lặng như tờ, có lẽ bọn lái ngựa đã rút đi cả. Hai thầy trò cười thỏa mãn, ăn xong mì thì trời vừa tối. Trăng thượng tuần lấp ló sau những mái nhà mới lợp đơn sơ. Đâu đây vài tiếng ngựa dậm chân đuổi muỗi và hí nho nhỏ.
Thạch Đạt Lang nói:
– Ta sang nhà bên kia xem có đúng là xưởng mài kiếm không, ở nhà đóng cửa lại, kẻ tiểu tâm hay thù vặt, nên cẩn thận đề phòng.
Đoạn, xốc áo xách kiếm ra đi. Nửa thang gác, gặp mụ quản lý hối hả bước lên:
– Khách quan phải là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto chăng ?
– Chính thị !
– Vậy có thư đây !
Cầm cuốn thư, định bật niêm, hắn bỗng sực nhớ, hỏi:
– Người mang thư còn đấy không ?
– Không, đi rồi.
Ngạc nhiên không hiểu ai đã biết chỗ trọ của mình sớm thế, Thạch Đạt Lang muốn hỏi thêm nhưng nghĩ chẳng ích gì, lại thôi. Hẳn cảm ơn mụ quản lý rồi trở lại phòng mở thư ra đọc. Thì ra của Mạnh Đạt. “Trúc Mộ tướng công rất vui mừng khi được tin các hạ đến Tân đô. Ngài ủy cho tại hạ viết thư này ân cần mời các hạ vào dinh hội kiến. Xin chớ để ngài thất vọng”.
Không do dự, Thạch Đạt Lang gọi lấy giấy bút phúc đáp ngay, đại ý nỏi rất cảm kích vì sự lân ái của Trúc Mộ và sẽ đến bái kiến nếu được nhà danh kiếm này đích thân chỉ dẫn cho một vài tuyệt kỹ. Để tránh ngộ nhận, hắn giải thích:
“Tại hạ bôn tẩu giang hồ cốt cầu học. Nếu không được mở đường chỉ lối cho, thì đâu dám bận đến các vị tiền bối”.
Viết xong, gọi Hạo Nhiên đến:
– Ta nhờ con đưa thư này cho một người tên Mạnh Đạt ở phủ Trúc Mộ. Đường đi ta không rõ lắm, nhưng hẳn không xa. Con là đứa trẻ tháo vát, chắc làm được. Phủ Trúc Mộ tất nhiều người biết.
Được sư phụ giao phó trách nhiệm, Hạo Nhiên hãnh diện:
– Con làm được. Thầy cứ tin ở con.
Đoạn mặc áo, xỏ dép, hăng hái theo Thạch Đạt Lang ra ngoài.
Căn nhà gỗ của Vương Chính không có vẻ gì là một xưởng mài kiếm. Mặt tiền cũng không phải là một cửa hàng nữa, vì ngoài cái bảng gỗ quảng cáo ra, không thấy có chỗ nào trưng bày bất cứ cái gì cả. Mà cái bảng quảng cáo đề chữ “Ma tâm pháp” càng bí hiểm nữa, khiến ai muốn đoán và hiểu thế nào cũng được.
Thạch Đạt Lang bước vào. Căn nhà vắng teo. Một cái bình phong che sơ sài gian ngoài cho thấy bên trong là một phòng hẹp, hơi tối. Bên trái có hành lang chạy hun hút sâu đến đâu không rõ. Trong phòng kê một chiếc tủ thấp, trên sàn trải chiếu và trên chiếu một người nửa ngồi nửa nằm, mặt hơi nghiêng ra phía ngoài, đầu gối lên một cái tráp.
Thạch Đạt Lang nhìn người đó, không đoán được bao nhiêu tuổi và cũng không biết được là gã đang làm gì, ngủ hay tĩnh tọa. Ngọn đèn leo lét để trên tủ chiếu ánh sáng lờ mờ trên khuôn mặt vàng bủng khiến sắc diện gã bềnh bệch như đất sét. Trông gã, Thạch Đạt Lang liên tưởng đến hình một đạo sĩ vẽ trong những bức cổ họa.
Hắn hắng giọng. Người kia dường ngủ say, chẳng có phản ứng gì. Hắn gọi to hơn:
– Chủ nhân ! Chủ nhân !
Bấy giờ mới thấy người kia từ từ quay đầu ra, như có vẻ cố gắng lắm mới thoát khỏi giấc mộng dài hàng thế kỷ. Gã lấy tay chùi nước dãi bên mép, đoạn thong thả ngồi dậy ngước nhìn Thạch Đạt Lang:
– Khách muốn điều gì ?
– Phải chủ nhân quý danh là Vương Chính, chuyên mài kiếm chăng ?
– Phải, mài kiếm và tâm con người.
Thạch Đạt Lang có cảm tưởng gã Vương Chính này, nếu quả thật là tay chuyên môn mài kiếm thì chỉ làm cho kiếm nhụt đi mà thôi. Nghĩ vậy hắn cười thầm, nhưng cũng cứ nói rõ mục đích của mình.
– Xin cho xem kiếm.
Kiếm vừa đưa ra, Vương Chính chồm hẳn người lên, hai tay đỡ lấy, trân trọng, vui mừng như gặp bạn quý.
“Kỳ thật ! Gã này thấy người thì lạnh nhạt mà thấy kiếm thì trọng vọng !”. Thạch Đạt Lang nghĩ, “Cũng lạ !”.
Vương Chính đến bên đèn, khêu cho sáng, rồi tay trái cầm bao kiếm, tay phải nhè nhẹ rút lưỡi kiếm ra. Cầm kiếm thẳng đứng trước mặt, gã chăm chú quan sát kỹ càng từ chuôi kiếm đến mũi kiếm. Thạch Đạt Lang thấy mắt gã sáng rực như đôi mắt thủy tinh của pho tượng Di Lặc trên chùa. Bỗng “cắc” một tiếng khô khan, lưỡi kiếm được tra ngay vào bao, nhanh và mạnh khiến Thạch Đạt Lang giật mình. Vương Chính quay sang nhìn hắn:
– Mời khách vào trong này !
Thạch Đạt Lang tháo dép, bước lên chiếu. Vương Chính lùi lại nhường chỗ rồi đẩy một cái gối tới mời ngồi.
– Kiếm này thuộc gia đình khách đã mấy đời ?
– Tại hạ không biết. Đó không phải là đồ gia bảo mà cũng chẳng phải danh kiếm gì.
– Khách đã mang nó ra trận hay chỉ dùng thường ngày ?
– Dùng thường ngày. Nó chẳng có gì đặc biệt, nhưng có cũng còn hơn không.
– Hừ …
Rồi nhìn thẳng mắt Thạch Đạt Lang, gã hỏi:
– Qúy khách muốn mài nó thế nào ?
Thạch Đạt Lang ngạc nhiên:
– Muốn mài thế nào ? Chủ nhân hỏi vậy là có ý gì ?
– Chắc quý khách muốn mài thật sắc ?
Thạch Đạt Lang cười:
– Dĩ nhiên rồi. Kiếm thì càng sắc càng tốt, còn mong gì hơn nữa !
Vương Chính thở dài:
– Quả vậy ! Qúy khách cũng như mọi người, ai cũng nghĩ thế …
– Vì đó là lẽ thường. Vả lại chủ nhân chẳng phải là kẻ chuyên môn mài kiếm ư ?
Hà tất …
Không để Thạch Đạt Lang nói dứt câu, Vương Chính đã lặng lẽ cầm ngược thanh kiếm trao trả lại hắn:
– Rất tiếc ! Kẻ này chẳng giúp gì được cho quý khách. Xin mang đi chỗ khác.
Thạch Đạt Lang lặng thinh, giơ tay đón thanh kiếm, cố giữ để không lộ vẻ phật ý.
Ngay lúc đó, một người mở cửa thò đầu vào:
– Vương huynh, đệ định đi câu mà cần lại gãy. Huynh có cần câu cho đệ mượn một buổi.
Vương Chính cau mặt:
– Không có ! Ta chẳng giữ những đồ sát sinh ấy trong nhà làm gì ! Đi chỗ khác mà mượn !
Điệu bộ và giọng nói của gã rõ ra vẻ khó chịu. Người khách thì đã bỏ đi, nhưng Thạch Đạt Lang nổi tính tò mò. Có lẽ gã này là một kỳ nhân thật, thiếu thông minh tế nhị, ghét nhân quần xã hội, nhưng lại quan thiết đến những vật vô tri. Bèn hỏi thẳng:
– Sao chủ nhân không muốn mài kiếm này ? Kiếm này xấu qua không đáng được sửa hay sao ?
Vương Chính lắc đầu:
– Hiển nhiên là không ? Khách đã dùng nó nhiều lần, tất biết đó là một thanh bảo kiếm vùng Bồ Điền. Khách muốn mài nó cho thật sắc để giết người cho ngọt chứ gì ?
– Dĩ nhiên ! Như thế có gì là xấu ?
– Phải rồi ! Mang kiếm sắc để giết cho ngọt thì có gì là xấu ! Kẻ mang kiếm tất nhiên phải thích thú chứ …
– Ai mang kiếm cũng muốn kiếm mình sắc. Chủ nhân là kẻ mài kiếm …
Vương Chính vội giơ tay ngăn lại, chỉ ra ngoài cửa:
– Khoan ! Kẻ này đâu có chủ ý mài kiếm. Xin đọc kỹ lại bảng cho:
“Ma tâm pháp” chứ không phải “Ma kiếm pháp”. Chữ rành rành ra đó, sao khách lại lầm ? Đa số những người mang kiếm lại đây cần được mài cái tâm trước khi mài kiếm. Họ không hiểu tại sao phải như thế, nhưng đó là điều căn bản kẻ này được giáo huấn trước khi học kỹ thuật mài kiếm.
Thạch Đạt Lang gật gù, nhìn gã chờ giải thích thêm.
– Cho nên, thấy người nào cầm kiếm mà không có cái tâm trung trực, khoan thứ thì kẻ này không mài kiếm cho.
– Hay lắm ! Vậy dám hỏi lệnh sư là ai ?
– Thì bảng ngoài kia cũng đã ghi rõ:
“Theo phương pháp Cổ gia”. Cổ gia là Cổ Huy Đạo tiên sinh, chắc quý khách có nghe danh ?
Thạch Đạt Lang thầm nghĩ:
“Quả không lầm ! Gã này thuyết chẳng khác gì ông già họ Cổ”, bèn đáp:
– Không những nghe danh mà còn hân hạnh được biết đích thân Cổ tiên sinh cùng Cổ lão bá nữa. Tại hạ có tá túc tại ngõ Kim Phong một thời gian …
Vương Chính ngạc nhiên tròn xoe mắt, lui lại một bước, nhìn Thạch Đạt Lang kỹ hơn:
– Xin thứ cho tội đường đột. Phải chăng quý khách chính là …là …người đã gây chấn động Cổ thành năm năm trước đây khi một mình cự với cả Hoa Sơn phái, và quý danh là Yết Mân Thạch Điền Đạt Lang ?
Thạch Đạt Lang hơi đỏ mặt:
– Quả vậy. Không ngờ tiện danh lại được chủ nhân lưu ý.
Vương Chính bối rối cúi đầu:
– Kẻ này thật có mắt cũng như không. Đáng lẽ chẳng được phép nói những lời vô ý thức như thế trước mặt một đại kiếm sĩ.
– Chủ nhân quá khen. Những điều tại hạ vừa nghe thật quý báu.
Phần thấy Thạch Đạt Lang tâm đầu ý hợp, phần nghe sư phụ đã nói nhiều đến vị kiếm sĩ anh hùng này, Vương Chính không ngần ngại đem những quan niệm về tâm và kiếm của mình ra luận. Gã thao thao:
– Đối với kiếm sĩ, kiếm với tâm là một. Nếu đi tìm cái tinh hoa của kiếm thuật thì lưỡi kiếm là cứu cánh, thể hiện sở học và tài năng của mình. Nhưng nếu vào đời hành đạo thì, cũng như vị chân tu nhập thế, kiếm là phương tiện bất tuyệt gìn giữ và khích lệ cái tâm. Tâm kiếm dựa nhau quan trọng là thế, cho nến kiếm sắc mà tâm nhụt thì chẳng làm được gì. Có người nói mục đích tối hậu của kẻ cầm kiếm là không dùng kiếm. Tại hạ cho là phải, nhưng muốn thế, phải giữ cái tâm cho ngay thẳng, độ lượng. Nêu chủ trương mài tâm trước khi mài kiếm.
Thạch Đạt Lang nhìn Vương Chính. Trong cơn nhiệt thành trình bày những suy tư của mình với người đồng điệu, mắt gã sáng như sao, hai gò má ửng hồng, vẻ ủ rũ và sắc diện vàng bệch không còn nữa. Hắn so sánh gã mài gươm này với một hũ rượu sa-kê bằng sành, tuy bên ngoài thô kệch nhưng rượu bên trong thơm ngon, làm lòng người ấm áp.
– Cổ tiên sinh có nói thấy thanh kiếm báu như được thấy ánh chân quang bảo vệ sự an hòa cho xã hội. Người không nói rõ nhưng hiển nhiên đã ẩn dụ cái tâm của kẻ cầm kiếm trong đó.
Thạch Đạt Lang gật đầu:
– Như vậy chắc khi thấy lưỡi kiếm của tại hạ, chủ nhân ghê sợ lắm nhỉ !
Vương Chính cười xòa:
– Cũng một phần nào. Quả thật khi quan sát lưỡi kiếm của khách quan, kẻ này thấy có khích động. Từ khi đến Tân đô mở xưởng này, nhiều người đã mang kiếm đến nhờ sửa, nhưng phần lớn chỉ quan tâm làm sao cho kiếm thật sắc bén để giết người cho nhiều, cho ngọt. Giết ai ? Lúc nào ? Làm sao phải giết ? Hình như họ chẳng bao giờ để ý!
Đến khi xem lưỡi kiếm của khách quan, lại thấy có nhiều chỗ gợn mẻ chứng tỏ nhiều lần kiếm đã va chạm vào xương thịt người, nên cho rằng chẳng qua đây cũng chỉ là một kẻ cầm kiếm tầm thường như ngàn kẻ khác, lấy sự giết người làm thích thú mà thôi …
– Đa tạ chủ nhân cho biết. Tại hạ đã suy nghĩ nhiều mỗi khi xuất thủ nhưng đôi lúc vẫn còn hối tiếc. Xin bái lĩnh những lời vàng ngọc.
Vương Chính nhìn thẳng mắt Thạch Đạt Lang:
– Xin đừng khách sáo nữa. Khách quan cứ để kiếm đây, kẻ này sẽ vì tri kỷ mà mài kiếm.
Đêm dường đã khuya. Thạch Đạt Lang đứng dậy cáo từ.
– Hãy khoan ! Khách quan còn thanh kiếm nào để ở nhà trọ không ?
– Không. Tại hạ chỉ có thanh trường kiếm đó.
– Vậy lấy gì dùng ? Mời khách quan vào trong này xem có thanh nào được thì dùng tạm, thay thế.
Chủ khách theo nhau qua dãy hành lang tối đến một căn phòng nhỏ trải chiếu, sát tường kê nhiều kệ gỗ lớn. Vương Chính đến bên một cái rương đặt trên kệ gỗ, mở nắp lấy ra sáu bảy thanh trường kiếm đặt lên chiếu, rồi bảo:
– Hiện nay trong nhà không có thanh kiếm nào đặc biệt. Chỉ có mấy thứ này, tùy khách quan lựa chọn.
Thạch Đạt Lang cầm từng thanh lên ngắm nghía, thấy chủ nhân quả có khiêm nhượng. Tất cả đều là kiếm có giá trị, nhưng có một cây không thể nào hắn dời mắt ra được. Bao đen bóng, chạm trổ tinh vi, dáng hơi cong, thật cân đối. Hắn rút kiếm ra khỏi bao, lượng định sắc nhụt, nhấc trên tay thấy vừa vặn quá. Ánh thép xanh biếc, những nét chạm đường khắc trên chuôi nhất nhất đều trau chuốt, hoàn hảo. Ghé sát vào đèn, quan sát kỹ, càng trông càng thích, không chỗ nào chê trách. Sợ kiếm ấy đối với mình quá sang, hắn bỏ xuống định chọn cây khác mộc mạc hơn, nhưng không sao rứt ra được.
Bèn ngẩng đầu lên nhìn Vương Chính:
– Tại hạ lấy thanh này được chăng ?
Hắn không nói “mượn” vì thấy thanh kiếm thật vừa ý nên muốn mua đứt.
– Khách quan thật có mắt tinh đời. Nó là một danh phẩm của thế kỷ trước đấy !
– Chắc chủ nhân không bán ?
Vương Chính mỉm cười:
– Sao lại không ? Gặp người xứng đáng thì bán chứ !
– Bao nhiêu ?
– Xin để lại với giá vốn thôi.
– Nghĩa là bao nhiêu ?
– Hai chục lạng vàng !
Số tiền quá lớn, Thạch Đạt Lang không thể nào có nổi. Hắn ngần ngừ:
– Vậy tại hạ chẳng dám mượn đâu.
– Sao vậy ? Khách quan cứ dùng, bao lâu cũng được !
Thạch Đạt Lang lắc đầu:
– Kiếm tốt quá, dùng quen rồi khi trả lại như phải vĩnh biệt một người thân, tại hạ chịu không nổi.
– Khách quan thích nó đến thế kia à ? Vương Chính nhìn kiếm rồi lại nhìn Thạch Đạt Lang. Vậy xin biếu …để làm duyên, nhưng cũng xin khách quan cho lại một cái gì…
Thạch Đạt Lang gãi cằm bối rối. Hắn chẳng có cái gì để cho lại.
– Nghe Cổ tiên sinh nói khách quan tạc tượng đẹp lắm. Một bức tượng nhỏ cũng đáng quý.
Thạch Đạt Lang đỏ mặt, càng bối rối hơn. Bức tượng Quan Âm mới đây hắn đã tặng cho dân xóm tiều rồi, trong đẫy hiện nay chẳng còn gì để trao đổi.
– Hay thế này. Chủ nhân cứ giữ lấy kiếm, tại hạ bây giờ cũng nhàn rỗi, sẽ tạc một pho tượng bằng gỗ bạch đàn nhỏ, khi nào xong đem tới đổi lấy kiếm.
– Hà tất phải câu nệ như vậy. Khách quan mang kiếm về dùng và cứ coi như là của khách quan. Còn bức tượng, lúc nào trao cũng được.
Cả hai cùng cười vui vẻ, đập tay vào nhau để thắt chặt điều vừa thỏa hiệp. Vương Chính thêm:
– Mà tại sao khách quan không sang ở hẳn tệ xá ? Việc cơm nước, tiện nội có thể chu tất được. Khách quan chỉ có một mình …
– Không ! Tại hạ còn một tiểu đồ.
– Không sao, càng có người sai bảo.
– Như vậy sợ phiền chủ nhân chăng ?
– Có gì mà phiền ! Xin đừng từ chối, phụ lòng người ngưỡng mộ.
Dứt lời, Vương gọi vợ ra bảo hâm rượu đãi khách. Hai người, một kẻ mài kiếm, một kẻ xử kiếm, ngồi đối ẩm với nhau thoải mái không còn câu nệ gì nữa, luận bàn vô cùng hứng thú. Câu chuyện dĩ nhiên không ngoài đề tài liên quan đến kỹ thuật rèn kiếm khiến Thạch Đạt Lang cũng biết thêm được nhiều điều bổ ích.
Vương chủ nhân nói:
– Tạo nên một thanh kiếm giá trị, người thợ phải mất nhiều công phu và kinh nghiệm. Trước hết phải chọn thép tốt, chấn than phải dưới một phần trăm thì mới đủ mềm để rèn, nhưng cũng không được mềm quá, lưỡi kiếm sẽ yếu. Nhiệt độ nung phải cao. Những bậc thầy trong nghề, nhìn ánh thép phát ra khi nung biết là đã rèn được hay chưa. Thép nung đúng độ rồi thì rút ra để trên đe để thợ phụ đập cho dẹp theo chiều dài.
Lúc thép đã khá mỏng, phải nhanh tay xoay trở gấp lại cũng theo chiều dài lưỡi kiếm.
Nếu nguội, cho vào lò nung rồi lấy ra đập nữa. Rèn như thế hàng nghìn lần, lớp nọ chồng lớp kia, thép kiếm mới đủ cứng, đồng thời lại khá dẻo không dễ gãy. Sau đó đem tôi. Tôi thép nghĩa là làm cho thép nguội nhanh để giữ những đặc tính của nó. Nói thì dễ, nhưng khi thực hiện mới thấy khó. Nếu không kinh nghiệm, ở một giai đoạn nào đó trong lúc rèn, người thợ làm sai tiêu chuẩn thì lưỡi kiếm coi như hỏng. Bây giờ chỉ còn rất ít những tay lành nghề rèn được kiếm tốt mà thôi, và dường như họ tụ lại ở cả Nara thì phải.
Thạch Đạt Lang ngồi nghe không dám lạm bàn, đôi lúc cũng hỏi vài câu hoặc xin dẫn giải thêm những điều chưa rõ. Thấy khách chú ý, Vương Chính hết sức sốt sắng, mắt long lanh, lấy từ tráp ra nhiều tập sách cổ, chỉ cho Thạch Đạt Lang xem những thanh kiếm quý được ghi chép và mô tả trong đó.
– Những năm gần đây, tại hạ có đi các nơi, nhất là đến những đền miếu, được biết có lưu trữ nhiều cổ kiếm. Như ở Suwa, tỉnh Shinano, một vị thiền sư đã cho tại hạ xem bộ sưu tập kiếm quý. Có đến hàng trăm chứ không ít, phần nhiều là kiếm gia bảo do chủ nhân không muốn giữ, đem tặng đền. Kiếm cổ thật, nhưng rất tiếc bị han rỉ gần hết. Ở Omishima, trong hàng ngàn kiếm đã xem, tại hạ chỉ chọn được chừng một chục là còn sửa được.
Nhấp ngụm rượu, ngồi thừ ra một lúc, Vương Chính thở dài:
– Điều trớ trêu là kiếm càng cổ bao nhiêu thì dường như chủ nhân nó càng cất kỹ bấy nhiêu, có khi còn chôn đi cho khỏi lộ nên rỉ sét hư hỏng cả. Những người đó chẳng khác gì các bậc làm cha mẹ, che chở bảo vệ con mình quá đáng, để chúng không được tôi luyện trên trường đời nên sau này trở thành ngu xuẩn, đần độn.
Nói đến đây, mắt Vương bỗng sáng lên, rồi như sực nhớ ra điều gì, xin lỗi chạy vào trong nhà. Lúc ra mang theo một cây kiếm dài một cách khác thường, để lên chiếu.
Thạch Đạt Lang giật mình, tim như ngừng đập. Không lầm được, đây chính là “cây sào phơi” của Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc.
Nhìn khách, Vương Chính ngạc nhiên:
– Sao ? Khách quan cũng biết thanh kiếm này à ?
– Biết. Của một kiếm sĩ tên Cát Xuyên Mộc.
– Phải rồi. Nhân có việc đến dinh Hòa Giả, một tùy viên trong dinh là Cao Mục Lân đã nhờ tại hạ sửa lại cho thanh kiếm này. Hắn nói kiếm của người bà con hắn tên Cát Xuyên Mộc.
Vương Chính rút thanh kiếm ra, kiếm quang sáng lòa:
– Đây là một thanh kiếm lạ, dài quá mức bình thường. Kẻ nào dùng nó phải là người khổng lồ, tay như tay vượn, hoặc nếu không thì cũng phải thành thuộc lắm.
Thạch Đạt Lang cầm kiếm lên ngắm:
– Sao không thấy khắc tên người đã tạo ra nó ?
– Không khắc tên nhưng đúng là kiếm Tư Dưỡng Trai đấy ! Tư Dưỡng Trai là một nhà luyện kiếm danh tiếng ở tỉnh Suo, qua đời vào thế kỷ trước. Tạo phẩm của ông để lại không nhiều và có một số không đề tên nhưng quan sát kỹ tất biết.
– Kiếm này dùng xung trận …
– Đúng vậy, và phải đeo trên lưng. Nhưng chủ nó bây giờ muốn sửa lại đeo ngang hông. Cũng mất công lắm. Khách quan có thấy vài chỗ rỉ sét trên mặt không ? May là kiếm tốt có thể mài mất đi được, chứ kiếm bây giờ mà như thế là rỉ ăn xuyên sang bên kia rồi, coi như bỏ.
Chuyện vãn hồi lâu, thấy không tiện lưu lại thêm nữa, Thạch Đạt Lang xin cáo thoái.
Đêm khuya, lá cây phong bên cửa sổ sương đã bắt đầu động giọt. Trở lại phòng trọ, vẫn chưa thấy Hạo Nhiên đâu, Thạch Đạt Lang lo lắng đứng nhìn ra ngoài cửa sổ.
Chương 68: Con cáo
Đêm càng lúc càng khuya. Trên mặt con rạch nước đen, sương đã phủ lờ mờ, có chỗ che khuất cả những lùm cây dại và chân cầu gỗ.
“Chẳng biết đây có phải là khu Kobikicho không ?”. Hạo Nhiên đi đã mỏi và mặc dầu đã hỏi thăm nhiều người, ai cũng bảo đúng, nó vẫn phân vân nghi hoặc. Cảnh trí đìu hiu. Chỉ còn vài ngôi nhà gỗ tận đàng xa le lói ánh đèn. Gió về khuya chớm lạnh thoảng đưa đến tai nó lúc xa lúc gần những tiếng rì rào của sóng vỗ ngoài vịnh. Gần bờ rạch, nhiều đống gỗ đá ngổn ngang, trong bóng đêm tạo thành các hình thù kỳ dị. Ở thành đô bây giờ chỗ nào nhà cửa cũng đua nhau mọc lên như nấm gặp trời mưa, nhưng Hạo Nhiên khó có thể tin được Trúc Mộ đại nhân lại ở một khu nghèo nàn như khu này.
Nó hoang mang chẳng biết tính thế nào:
đi thì đêm khuya khó gặp người để hỏi thăm đường, mà về thì quyết không được rồi ! Một lời hứa với sư phụ không thể coi thường. Sư phụ chẳng phạt nó đâu nhưng lần đầu tiên ông sai làm một việc nó cho là quan trọng, việc chẳng thành, nó cảm thấy hổ thẹn.
Mấy ngón chân hơi nhức, Hạo Nhiên tìm một tảng đá ngồi xuống cởi dép ra, để chân trần lên đám cỏ ướt sương, thấy mát dễ chịu. “Tất cả đều do mụ quản lý ở quán Mã Đề mà ra cả. Hỏi mụ, mụ bảo đến khu Kobikicho mà tìm. Khu nghèo nàn vắng vẻ thế này, làm gì có phủ Trúc Mộ !”. Hạo Nhiên nhặt hòn đá ném mạnh xuống đất cho đỡ bực bội. Nó không ngờ rằng Kobikicho là một khu rộng lớn bao gồm rất đông dân ở ngoại ô, chạy dài mãi ra tận bờ vịnh. Chỗ này chỉ là một xóm nghèo thuộc khu ấy, tập trung toàn dân vô gia cư, thợ thuyền tay làm hàm nhai và những kẻ gần như cùng đinh trong xã hội.
Có tiếng động sau đống gỗ làm Hạo Nhiên giật mình. Xỏ dép đứng lên vòng ra phía sau, nó ngạc nhiên thấy một căn nhà, không, một túp lều mới đúng, với ánh đèn hắt qua khe cửa sổ nhỏ xíu dán giấy. Túp lều đã nhỏ lại ẩn sau đống gỗ cao, thảo nào nó không để ý.
Rón rén đến gần, Hạo Nhiên thấy dưới ánh đèn lờ mờ, một người đàn bà đầu quấn vuông chiếu cói thay khăn đang dọn dẹp. Ánh sáng yếu ớt không cho nó đoán được mụ chừng bao nhiêu tuổi. Tuy vậy nó vẫn đánh bạo gõ cửa và gọi bừa, hy vọng được tiếp nhận:
– Thái thái ! Mở cửa cho cháu.
Người đàn bà mở cửa nhìn ra, cất giọng the thé:
– Lại mày nữa ! Phải hồi chiều mày ném đá vào tao rồi chạy không ?
– Dạ không, không phải. Hạo Nhiên vội vã cải chính. Cháu mới gặp thái thái lần này là lần đầu mà !
Người đàn bà bỏ vuông chiếu cói ra nhìn nó một lúc:
– Ờ ờ không phải. Thằng kia nhỏ hơn.
Đoạn phá lên cười:
– Hà hà ! Thế tối tăm thế này mày đến đây làm gì ?
Bấy giờ Hạo Nhiên mới chú ý đến cách phục sức diêm dúa không hợp với khung cảnh của người đàn bà trung niên trước mặt. Tóc mụ chải cẩn thận, thoa dầu bóng, mặt trát phấn trắng như bôi vôi, môi son đỏ chót, áo kimono đã cũ nhưng bằng hàng lụa thêu hoa.
Hơi sợ, nó lùi lại một bước. Mụ kéo tay nó vào trong nhà:
– Tối tăm thế này em đến đây làm gì ? Cần gì ta giúp.
Hạo Nhiên ngây thơ đáp:
– Cháu muốn gặp Trúc Mộ đại nhân.
Người đàn bà trố mắt nhìn nó:
– Mày nói giỡn đấy à ?
– Thật mà ! Cháu muốn vào phủ Trúc Mộ.
Người đàn bà ré lên cười, lát sau mới bảo:
– Trúc Mộ tướng công là bậc quyền quý, mày tưởng ngài mở cửa tiếp mày sao ?
– Cháu mang thư cho một người trong phủ.
Hạo Nhiên vừa nói vừa rút ra một cuộn giấy gắn niêm và chỉ cho người đàn bà xem tên người nhận.
– Người đó là Mạnh Đạt ở phủ Trúc Mộ đại nhân.
Người đàn bà gật đầu ra vẻ thông cảm:
– Phải rồi, chắc là một kẻ trong đám lính hầu. Thế mà mày nói cứ như là thân thuộc với ngài lắm. Thật tức cười !
– Vậy thái thái biết phủ Trúc Mộ Ở đâu chỉ cho cháu.
– Biết chứ ! Qua cầu gỗ sang bên kia rạch, đi một quãng đến trại Ninh Cát của tướng công Y Lâm, qua trại Lan Châu, trại Lâm Phố, trại Hồ An …
Vừa nói mụ vừa đếm ngón tay kể tên từng trại một. Có đến bảy tám trại như thế, sau cùng mới bảo:
– Ta chắc thế nào mày cũng tìm ra. Trại Trúc Mộ lớn nhất ở cuối đường không chú ý cũng thấy.
– Thế qua cầu sang bên kia còn thuộc khu Kobikicho không ?
– Còn chứ.
– Trời đất ! Thế mà chúa cứ tưởng …Khu này sao mà rắc rối quá !
Người đàn bà mỉm cười. Thấy thằng bé hiền lành, lễ phép lại tỏ ý lo ngại chẳng tìm ra đường, mụ ngần ngừ một lúc rồi nói:
– Mày ngớ ngẩn lắm, thôi để ta dẫn đi.
Nói đoạn đẩy nó ra, đóng cửa, xăm xăm đi trước, bảo Hạo Nhiên theo sau. Trong đêm tối, tà áo mụ phất phơ tựa cánh con thiêu thân lớn bay trong sương mù lãng đãng.
Gần đến giữa cầu, bỗng có gã đàn ông đi ngược chiều sát vào người mụ, huýt sáo.
Nhưng gã không dừng bước, cứ tiếp tục qua mặt cả hai người. Mùi rượu sa-kê bốc lên nồng nặc.
Mụ dẫn đường dừng chân lại nhìn theo rồi gọi với:
– Ai như Quản Bạc Nhất ?
Gã đàn ông khựng lại một chút, rồi tiếp tục đi chẳng nói chẳng rằng. Mụ chạy theo nắm vai áo:
– Quản Bạc Nhất ! Ngươi biết ta mà ! Sao hờ hững với nhau quá thế ?
– Bỏ ra ! Gã kia đáp.
– Không ! Lâu nay không gặp, không muốn đi với ta chăng ?
– Hết tiền rồi !
– Can gì ! Lúc khác trả cũng được !
Rồi ôm cứng lấy gã đàn ông có tên Quản Bạc Nhất ấy, mụ quay bảo Hạo Nhiên:
– Đi đi ! Ta cần nói chuyện với ông này.
Kinh ngạc chẳng hiểu đầu đuôi gì, Hạo Nhiên đứng sững nhìn hai người giằng co nhau cho đến khi mụ kia kéo gã đàn ông xuống chân cầu và mất hút trong bóng tối dưới đó.
Lát sau hoàn hồn, nó bước ra thành cầu vịn vào lan can gỗ, tò mò nhìn dòng nước đen bẩn, lờ đờ chảy bên dưới. Thình lình, giọng người đàn bà rít lên the thé, nhọn hoắt như đâm vào tai nó cùng với tiếng gió rít của hòn đá ném về phía nó đứng.
– Súc sinh ! Mày nhìn cái gì thế ?
Hạo Nhiên né tránh, bỏ ra giữa cầu rồi cúi đầu lầm lũi bước. Suốt thời kỳ ở Hotengahara cho đến nay, chưa bao giờ nó thấy một bộ mặt nào ghê sợ hơn bộ mặt trắng bệch như vôi của người đàn bà ấy lúc đó.
Qua khỏi cây cầu gỗ, Hạo Nhiên theo con đường trải đá xanh độc nhất đến trước một kho hàng rồi tới một tường rào ngăn kho hàng ấy với một kho hàng khác. Kho nào cũng tường cao, cổng kín kiên cố. Qua vài kho hàng như thế, nó bỗng hiểu ra đấy là những trại mà mụ đàn bà lúc nãy đã chỉ cho nó. Có lẽ mụ gọi là trại vì có quân canh giữ vật dụng và lừa ngựa cho các chủ tướng.
Đến trại sau cùng ở cuối đường, Hạo Nhiên tin chắc đã tìm ra được phủ Trúc Mộ khi thấy trên cánh cổng có vẽ hình đầu một thiếu phụ búi tóc hai tầng. Mà hình này qua những bài hát dân giả, ai cũng biết là huy hiệu của dòng họ Trúc Mộ.
Hạo Nhiên mạnh dạn gõ cổng. Nhưng cổng vừa cao vừa dày, gõ mãi chẳng ai thưa. Tức mình, nó nhặt đá đập thình thình. Lúc sau mới thấy người lính tuần mở hé một khe cửa sổ nhỏ phía trên cổng nhìn xuống:
– Thằng bé kia, hỏi gì ?
– Có thư tới.
Người lính bèn mở một khung cửa nhỏ đặt lẩn trong cánh cổng lớn để tiện việc ra vào mà không cần mở cổng, bước ra cầm cuộn thư trong tay Hạo Nhiên, soi đèn mà đọc.
– Thư này gửi cho một kiếm sĩ tên Mạnh Đạt phải không ?
– Phải. Cháu đợi lời phúc đáp để mang về. Ông làm ơn chuyển thư cho cháu.
– Nhưng Mạnh Đạt không có ở đây.
– Thế ông ấy ở đâu ?
– Ở Higakubo.
– Sao ? Ai cũng bảo phủ Trúc Mộ Ở Kobikicho mà !
– Ờ ! Người ta bảo thế nhưng đây là trại quân, chỉ có gạo và các vật dụng nuôi quân mà thôi. Tướng phủ ở Higakubo kia !
– Higakubo có xa đây không ?
– Xa, xa lắm.
– Ở tận chỗ nào ?
– Trên núi, phía đông Tân đô này đến hàng chục dặm.
Hạo Nhiên buồn bã lắc đầu. Nó không ngờ khó khăn đến thế ! Nhưng vốn tính bướng bỉnh và có tinh thần trách nhiệm từ khi còn thơ ấu, phải đương đầu với bao nhiêu cam go của cuộc sống để mưu sinh và giúp đỡ cha già, nó không chịu khuất phục.
– Thưa ông, thế ông có thể vẽ cho cháu đường nào đi đến Higakubo được không ?
– Thằng này điên ! Dù ta có vẽ cho mày thì mày cũng phải đi hết đêm mới đến được.
– Không sao, cháu sẽ đi cả đêm.
Người lính lẳng lặng không nói gì, nhưng trong lòng thầm phục thằng bé.
– Ở chân núi, cầy cáo vô số. Mày sợ cáo nó hớp hồn không ?
– Không, cháu không sợ.
– Mày quen với hiệp sĩ Mạnh Đạt hả ?
– Không, nhưng thầy cháu quen.
Người lính không hỏi thêm gì nữa, nhưng sau nghĩ thế nào, bảo với Hạo Nhiên:
– Ta khuyên như thế này. Bây giờ khuya rồi mà mày lại không biết đường, sợ lạc.
Ta cho ngủ ở đây, sáng mai hãy đi, mày nghĩ sao ?
Ngần ngừ một lát, có lẽ cho là phải, Hạo Nhiên gật đầu.
– Có rơm trong chuồng ngựa ấy. Mang vào vựa thóc trải ra mà ngủ.
Hôm sau gần trưa, Hạo Nhiên mới giật mình thức giấc. Trong vựa thóc vừa tối vừa ấm, nó ngủ quên, không ngờ trời sáng lúc nào. Bước ra cửa, ánh nắng chan hòa khiến mắt nó hấp háy phải lấy tay che. Sực nhớ đến nhiệm vụ phải làm, Hạo Nhiên rảo bước ra điếm canh. Người lính đêm qua còn đó, thấy nó, nhe răng cười chế nhạo:
– Sao không ngủ thêm giấc nữa ?
Nó cũng cười xòa:
– Cháu ngủ quên ! Thế ông đã vẽ đường cho cháu chưa ?
– Rồi. Hôm qua mày nói cần gấp mà !
– Vâng, cảm ơn ông, cháu đi ngay giờ đây.
– Khoan, ở lại ăn chút gì lót lòng đã. Đủ cơm cho hai người đấy, ăn đi !
Thấy người lính tử tế với mình, Hạo Nhiên cúi đầu cảm tạ.
Ăn xong, cầm mảnh giấy vẽ sơ sài những đường chính dẫn đến Higakubo, Hạo Nhiên cáo từ người lính, lên đường.
Trời xanh và trong. Những cụm mây trắng nhẹ như bông trôi lờ lững. Nắng không gay gắt. Hạo Nhiên thấy lòng lâng lâng vui thích. Nó không ngờ thấy nó ở quán Mã Đề đang bồn chồn lo lắng vì nó.
Qua quãng đường lát đá xanh, dọc theo những lộ chính tấp nập trên bờ các kênh đào ngang dọc ven đô, Hạo Nhiên thỉnh thoảng lại dừng bước xem thợ nề, thợ mộc bận tíu tít dựng sườn nhà, xây tường, xẻ gỗ. Tiếng đục tiếng búa chan chát không làm nó khó chịu, trái lại khiến nó vui vẻ thích thú. Không khí sinh động, rộn rịp khác hẳn với những ngày ở Hotengahara. Những người phu lực lưỡng, cởi trần hè nhau kéo nhiều tảng đá lớn, hò những câu hò lạ tai. Đằng xa, trên lưng chừng giàn tre cao ngất ngưởng dựng sát tường một tòa lầu đang xây, thợ thuyền hành động chẳng khác gì những con ong bò vẽ bu trên giàn hoa bìm bìm sặc sỡ về mùa xuân.
Mải mê theo dõi các sinh hoạt muôn màu muôn vẻ diễn ra trước mắt, Hạo Nhiên quên hẳn mục đích của mình. Đến khi mặt nước hắt ráng chiều đỏ hồng và đàn quạ bay ngang, buông những tiếng khô khan trên nền trời bắt đầu nhạt nắng, nó mới giật mình:
“Ờ, thế mà đã chiều rồi ! Chóng quá !”. Và ba chân bốn cẳng, nó vội vã tìm đường đi về phía đông.
Hạo Nhiên rảo bước nhanh như chạy, mong sao tới được Higakubo trước khi trời tối mịt. Chẳng bao lâu đã đến chân đồi Azabu, con đường cây cao bóng rợp đan xít nhau, tuy thỉnh thoảng có ánh nắng xiên khoai chiếu qua tàn lá loang loáng, nhưng đường vẫn ẩm ướt và trơn trượt. Gốc cây, rêu mọc đầy. Có nhiều chỗ âm u, tưởng như đêm đã xuống từ lâu. Hạo Nhiên càng bước vội, mấy lần suýt ngã, phải nhặt một cành cây làm gậy chống. Cho đến khi trèo lên đỉnh đồi, nhìn về phương tây, thấy mặt trời đỏ khé còn cách chân trời đến non con sào, nó mới yên lòng.
Đồi hoang vụ lạ lùng. Không cả tiếng chim vỗ cánh bay ngang. Đứng giữa rừng cỏ tranh cao ngang ngực, trông xung quanh trùng trùng điệp điệp những tàng cây nối tiếp nhau từ sườn đồi trải dài đến tận thung lũng phía dưới, tiếng suối nước róc rách đâu đây càng làm tăng vẻ hoang vắng, Hạo Nhiên bỗng có cảm giác kỳ lạ, vừa bâng khuâng vừa sợ hãi như đứng trong một ngôi chùa cổ, giữa những pho tượng trang nghiêm. Âm vang của một hồi chuông, không, của tiếng cồng thúc quân hay của hồi trống trận, ầm ì trong gió khiến nó rùng mình. Hạo Nhiên không ngờ nó đang đứng giữa vùng linh địa của ngôi đại điện thờ thần Thái Dương giờ đây đã hoang phế. Sương chiều xám đục quanh quất bên những ngọn cây thấp và những lùm bụi ven đường mòn. Hạo Nhiên bỗng thấy những gốc cây như sáng hơn lên. Đã có lần nó có cảm giác như thế khi đứng trong gian phòng bên khung cửa sổ dán giấy lúc chập choạng tối. Gian phòng dường như sáng hẳn trong khi bên ngoài trời chiều mỗi lúc một tối. Thầy nó bảo đó là ảo giác. Nhưng lần này cảm giác ấy mạnh lắm. Nó không cho là ảo giác, lấy tay dụi mắt, và bỗng chú ý đến đôi mắt tròn xoe, đỏ như hổ phách đang trừng trừng nhìn nó từ trong hốc một gốc cây mục.
– Con cáo !
Hạo Nhiên vùng lên, vung gậy đập mạnh một cái. Soạt ! Con vật nhảy qua đống lá khô. Nhanh không kém, Hạo Nhiên chạy theo. Cây gậy vung lên giáng xuống hết bên tả lại bên hữu, kêu bồm bộp ! Một tiếng chít ! Hình như con vật trúng thương bật lên cao.
Bộ lông màu lá úa xẹt trong bóng tối tựa tia nắng quái loé lên rồi vụt tắt lúc chiều tà. Rồi mất hút. Hạo Nhiên đuổi theo, cầm gậy hất tung những đám lá khô, cành gẫy. Không vết tích gì của con vật. Nó cau mặt, lo lắng đảo mắt nhìn quanh. Ngay từ khi còn dưới gối mẹ, Hạo Nhiên đã được nghe kể rất nhiều chuyện cổ tích về con cáo. Đó là một giống vật ghê gớm, rất xảo quyệt, có biệt tài thay hình đổi dạng và mê hoặc những kẻ nào ở gần. Bản tính Hạo Nhiên ưa loài vật, kể cả lợn rừng và chồn hôi, nhưng nó ghét cáo vô kể. Ghét và sợ nữa. Nó tin chắc nếu gặp con cáo này, nó sẽ bị dẫn đi lạc đường cũng như hôm qua cáo đã dẫn nó đi lạc tại khu Kobikicho. Hơn nữa, con cáo này vừa bị nó đánh có thương tích, tất sẽ tìm cách trả thù. Vừa tức, vừa buồn, Hạo Nhiên ngồi xuống bên thân cây đổ trong đám cỏ cao. Nó cảm thấy đói và khát, nhất là khát.
Hoàng hôn xuống nhanh. Những vạt ánh sáng sau cùng của một ngày quý xuân như rút vội vàng khỏi đỉnh các ngọn đồi ở đằng xa. Hạo Nhiên thè lưỡi liếm những lá trà dại đọng sương cho đỡ khát. Mồ hôi trên mép chảy vào miệng hơi mặn, nó giơ tay áo quẹt ngang. “Con cáo đó chết thì may, nếu không thể nào cũng trở lại bắt hồn mình !” Bỗng có tiếng nhạc ngựa văng vẳng. Hạo Nhiên lắng tai, thầm nhủ:
“Rồi, rồi !
Chắc nó trở lại. Không biết lần này nó đội lốt gì !”. Bèn lấy nước bọt bôi lên hai bên lông mày để giải trừ ảnh hưởng của loài yêu quái. Cảm thấy lòng yên ổn và bình tĩnh hơn, Hạo Nhiên đến nấp sau bụi gai, tay lăm lăm cây gậy.
Từ xa, nhạt nhoà trong sương chiều, bóng một thiếu nữ cưỡi ngựa dần dần hiện ra.
Nàng đội nón nan to, choàng mạng che nửa mặt và ngồi lệch một bên trên lưng ngựa, buông lỏng tay cương cho con vật thong thả đi bước một. Sự xuất hiện lạ lùng, nếu chẳng phải thần tiên thì cũng quỷ mị ấy, khiến Hạo Nhiên không còn nghi ngờ gì nữa:
“Con cáo này quả đáng sợ ! Nó đã thành tinh, đội lốt người đến dụ dỗ mình đây ! Nhưng ta đã đề phòng, đừng hòng mê hoặc …”.
– Oa Tử …ử …ử …
Tiếng gọi kéo dài từ lưng chừng đồi vang dội cả vùng theo gió đưa đến tai Hạo Nhiên nghe rõ mồn một. “Chắc bạn bè con cáo ấy gọi ! Cáo thành tinh phải có chín đuôi và nhiều kẻ hầu hạ !”. Bèn vất gậy đi, rút cây kiếm ngắn gia bảo vẫn giắt theo bên mình, sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc.
Đến gần đỉnh đồi, như thuộc đường lối, ngựa đột nhiên rẽ sang một đường khác về hướng nam. Màu son nạm bạc của yên ngựa loé sáng dưới tia nắng hồng cuối cùng của mặt trời vừa lặn.
Hạo Nhiên nắm chặt tay kiếm, tự trấn an và khích lệ:
“May mà nó không biết mình ở đây !”.
Theo sự hiểu biết của thằng bé, hồn những con cáo thành tinh đội lốt người bao giờ cũng theo sau lưng nó chừng vài bước. Hạo Nhiên nuốt nước bọt, định chờ cho nó quay hẳn đi mới ra tay. Nhưng con cáo khôn ngoan dường như đoán được ý thằng bé, dừng lại và xuống ngựa.
– Oa …Tử …
Lần này tiếng gọi gần lắm.
– Ở đây ! Tiểu nữ ở trên này !
Chỉ một loáng đã nghe tiếng chân người bước rào rạo. Một tráng sĩ hiện ra, y phục giản dị đến thô sơ, hông đeo trường kiếm nhưng đi hơi thọt.
Hạo Nhiên đứng sững, chân tay run lẩy bẩy. “Trời ơi ! Đây mới là con cáo ấy.
Đúng nó rồi. Vết thương ở chân thế kia không thể nào lầm được. Nó không đội lốt thiếu nữ mà đội lốt đàn ông ! Trời ! Con cáo này ghê thật !”. Hạo Nhiên sợ. Người đàn ông còn trẻ, dáng cao lớn. Thằng bé tự xét mình không làm gì được, đành đứng yên không dám thở mạnh, chỉ trố mắt ra nhìn.
– Cô nương lên ngựa đi để ta dẫn cho. Chúng ta phải về mau kẻo tướng công áy náy …
Oa Tử e lệ đáp:
– Tiểu nữ đâu dám. Xin thiếu gia đi trước, tiểu nữ theo sau.
Nhưng tráng sĩ kia không nghe, cứ giằng lấy dây cương mà dẫn ngựa.
Một cành khô gãy rơi cạnh Hạo Nhiên. Tiếng động làm tráng sĩ đảo mắt nhìn quanh, nhãn tuyến dừng ngay chỗ thằng bé đứng. Hạo Nhiên hết hồn định vùng lên chạy nhưng chân cứng đơ như bị dính chặt xuống đất. Nó chưa bao giờ khiếp hãi đến thế, tay run run tưởng chừng đánh rơi cây kiếm ngắn.
May sao tráng sĩ kia không nói gì, nhìn một lúc rồi quay đi dường như không quan tâm đến nó, theo sau là Oa Tử. Cả hai trò chuyện vui vẻ với nhau những gì, trong cơn thảng thốt, Hạo Nhiên cũng không biết nữa.
Bầu trời tối dần. Vài đốm sao mọc sớm đã hiện lên lác đác.
Tại vùng Higakubo này, vào những thế kỷ trước, có dựng một đền thờ Thái Dương thần nữ. Đền hướng ra biển, phía đông, rất được nhiều người sùng mộ đến lễ bái. Nhưng trong cuộc tranh chấp giữa các sứ quân, không may đền đã bị tàn phá, phần vì chiến tranh, phần vì cường đạo, cướp bóc. Di tích không được trùng tu, dần dần theo thời gian mà đổ nát, nhưng địa linh, nhân kiệt, khí thiêng vẫn còn phảng phất. Trúc Mộ Trung, người được lãnh chúa đương thời vời vào giảng huấn cho trưởng nam vì ngưỡng mộ sở học và kiếm thuật nhà Trúc Mộ, đã xin được lập tư dinh tại đây. Cũng như cha là Trúc Mộ Chính, Trúc Mộ Trung tuy giữ địa vị cao và tư dinh được tôn danh là tướng phủ, bản tính lại không thích khoa trương nên dân giã ít người biết đến nơi ẩn dật này.
Trúc Mộ Trung có người cháu gọi bằng bác, hơi có tật nơi chân, cũng là tay anh hùng trẻ tuổi, tính tình hào phóng, đã giữ chức vụ cao cho một lãnh chúa, nay được gọi về phụ tá ông quản trị gia nhân. Người đó là Trúc Mộ Mẫn Đức, chính là tráng sĩ vừa đi đón Oa Tử.
Mẫn Đức gặp Oa Tử trong một trường hợp ngẫu nhiên lúc mới đến, giúp bá phụ tại tướng phủ. Trước đó, trong ba năm, Oa Tử đã sống cuộc đời hết sức bấp bênh dưới sự kềm toa? của Mãn Hà Chí. Đi đâu hắn cũng tìm cách cho mọi người biết Oa Tử là vợ hắn.
Với sức khoẻ của Mãn Hà Chí, tìm việc làm như vác đá, thợ hồ, thợ mộc có lẽ cũng dễ, nhưng hắn không muốn. Hắn muốn một công việc nhàn nhã hơn. Oa Tử xin vào làm nữ tỳ cho một gia đình kia, số tiền công dành dụm cũng cưu mang hắn được một thời gian, nhưng chứng nào tật nấy, Mãn Hà Chí chẳng bỏ được rượu chè, có khi bạo hành nàng, khiến chủ nhà phải can thiệp.
Bữa kia, trên đường phố Tân đô, cả hai đang đi bỗng gặp một đám rước với nghi trượng của lãnh chúa Tôn Điền. Theo mọi người quỳ rạp hai bên lề đường, Oa Tử trông thấy, sau kiệu của Tôn lãnh chúa, cả nghi vệ và huy hiệu nhà Trúc Mộ.
Kỷ niệm xưa dâng lên dào dạt trong lòng, nàng không cầm được nước mắt, vừa thương thân tủi phận vừa nhớ tiếc những ngày đã qua, Oa Tử gục xuống lề đường, bên cạnh người chồng hờ Mãn Hà Chí.
Bỗng có tiếng gọi đích danh khiến nàng giật mình ngửng lên.
– Oa Tử ! Phải Oa Tử cô nương không ?
Người gọi chẳng ai xa lạ, chính là Mạnh Đạt, một trong ba hiệp sĩ của Trúc Lâm cốc, nơi nàng tá túc khi xưa dưới sự yêu mến độ lượng của Trúc Lâm cư sĩ. Chẳng biết bây giờ lão nhân gia ra sao ? Nghĩ đến đấy, nàng lại hối hận trước khi ra đi, chẳng vào từ biệt cốc chủ.
– Oa Tử cô nương ! Cô nương còn nhớ tại hạ chăng ?
Nước mắt chan hoà, Oa Tử chỉ gật đầu không đáp. Mạnh Đạt giơ tay đỡ luôn nàng lên ngựa, trước sự ngạc nhiên sửng sốt của Mãn Hà Chí và những kẻ xung quanh. Vừa mở miệng phản đối, hắn đã bị đoàn lính tùy tùng vây lại:
– Muốn khiếu nại gì thì làm đơn nộp lên tướng phủ.
Đám rước cứ đi. Kèn, trống, thanh la, não bạt vang vang, át cả tiếng kêu nghẹn ngào tức tối của Mãn Hà Chí.
Về trước đại sảnh, Mẫn Đức quỳ tại hiên ngoài, chưa dám lên tiếng, chờ lệnh bá phụ gọi.
Trúc Mộ nhìn ra, khẽ gọi:
– Đã về đấy ư ? Vào trong này !
Đại sảnh thật rộng và uy nghi. Hai hàng cột lớn, vân gỗ nổi như mây, ngả bóng dài trên sàn gỗ trắc đen bóng lộn. Nhưng chỗ Trúc Mộ Trung ngồi làm việc, cách trần thiết lại đơn giản. Trên chiếc kỷ thấp, cây đèn lồng nhỏ hắt ánh sáng mờ dịu lên một tập sách để gần. Góc phòng, một lọ sứ men rạn cắm ba bông cúc long trảo và trên tường treo một thanh trường kiếm. Trần thiết chỉ có thế. Có lẽ vì sinh trưởng nơi dân giả và quen nếp sống khắc khổ nên ông không thích sự rườm rà. Dinh thự này cũng do chính ông họa kiểu và dùng ngay những vật liệu sẵn có tại địa phương để xây cất. Dựa vào rặng đồi thoai thoải và lấy rừng cổ tùng gần đó làm bối cảnh, ông đã cho dựng sảnh đường và những phòng ốc phụ thuộc vào lối kiến trúc hơi thô nhưng giản dị và vững chãi của Trúc Lâm cốc.
Mẫn Đức quỳ gối tiến vào. Đối với bá phụ, chàng luôn luôn có thái độ tôn kính vì biết ông rất câu nệ về nghi thức. Vừa là thuộc cấp lại vào hàng con cháu nên chàng không bao giờ dám suồng sã như một đôi khi đã tỏ ra với tổ phụ là Trúc Mộ Chính.
Lúc Trúc Mộ Trung ở sảnh đường, ông luôn luôn ngồi nghiêm túc sau chiếc bàn thấp, nếp áo ngay ngắn buông toa? xung quanh. Cần nói hay sai bảo gia nhân điều gì, lời ông chỉ vừa đủ nghe, đĩnh đạt, trang nghiêm. Ở chỗ công chúng, chưa bao giờ Mẫn Đức thấy ông tỏ thái độ bối rối hay giận dữ, một điều chàng cố noi theo mà không được.
– Oa Tử cô nương đã về chưa ?
– Thưa đã. Nàng lễ đền trên núi, lúc trở về để ngựa thong dong nên có hơi trễ.
– Ngươi đi đón nàng phải không ?
– Dạ phải.
Trúc Mộ tướng công im lặng. Khuôn mặt ông nhìn ngang dưới ánh đèn rắn đanh, suy tư và khắc khổ. Đột nhiên ông lên tiếng:
– Oa Tử ở đây lâu thật khó xử. Ta đã bảo Mạnh Đạt gặp dịp thuận tiện, lựa lời để nàng đi nơi khác.
Mẫn Đức ngạc nhiên. Ba tháng trước, khi Oa Tử đến đây, Mạnh Đạt giới thiệu nàng là người thân tín hầu cận lão nhân gia ở Trúc Lâm cốc, Trúc Mộ tướng công đã vồn vã tiếp đón, bảo nàng lưu lại trong dinh bao lâu cũng được, nay không hiểu sao lại đổi ý.
Bèn rạp đầu xin hộ:
– Xin bá phụ rủ lòng thương xét lại. Oa Tử cô nương tứ cố vô thân, nếu bá phụ không cho tá túc thì nàng biết đi đâu.
– Không phải ta không rộng lượng, nhưng việc gì cũng phải có giới hạn.
– Con tưởng bá phụ đã có ý bao dung …
Trúc Mộ tướng công gật đầu:
– Oa Tử chưa làm điều gì khiến ta phiền lòng, nhưng chắc ngươi cũng rõ một thiếu nữ nhan sắc như nàng ở phủ này làm sao tránh khỏi lời dị nghị. Trong số những kiếm sĩ hầu cận ta, sớm muộn gì rồi cũng có chuyện đáng tiếc, bấy giờ thêm khó xử.
Mẫn Đức không đáp. Những lời của bá phụ chàng không có ý gián tiếp chỉ trích ai và riêng đối với chàng lại càng không có ý ám chỉ. Mẫn Đức đã ba mươi, tuy vẫn còn độc thân, nhưng chưa bao giờ để lộ cho ai biết cảm tình đặc biệt của chàng đối với Oa Tử. Giữa Oa Tử và chàng, sự giao du chưa bao giờ vượt quá mức của hai người bạn. Mẫn Đức phỏng đoán vấn đề có lẽ liên quan đến chính bá phụ và bá mẫu chàng chứ không ai khác. Bá mẫu chàng xuất thân từ giai cấp quý tộc, trong một gia đình thuộc loại con gái xuất giá phải được rước bằng kiệu sơn son, phủ rèm gấm với đầy đủ nghi thức và danh vọng trong ngày hôn lễ. Bá phụ, bá mẫu chàng ở một khu riêng biệt, xa đại sảnh, hạnh phúc ra sao chẳng mấy ai biết, ngay đến con cháu trong nhà cũng ít khi lai vãng.
Cho nên khi thấy một thiếu nữ lạ mặt có nhan sắc đến tá túc trong dinh, qua những lời đồn đại thị phi, tránh sao bá mẫu chàng chẳng đem lòng nghi kỵ. Bèn nói:
– Bá phụ nghĩ vậy rất phải. Xin để con và Mạnh Đạt lo chuyện này. Thế nào cũng tìm được cách giải quyết ổn thỏa không để lụy đến Oa Tử cô nương.
– Vậy hay lắm ! – Trúc Mộ gật đầu – Ngươi nên giải quyết càng sớm càng tốt.
Nghe xong, Mẫn Đức chưa kịp cáo từ, chợt gia nhân vào bẩm có thư ở Trúc Lâm cốc do khoái mã đưa đến. Trúc Mộ Trung hơi cau mày:
– Khoái mã ? Chắc có tin khẩn cấp. Bảo mang vào ngay ta coi:
Thì ra thư của Sử Đà:
“Lão nhân gia mới trở bệnh, lần này có phần nguy kịch hơn lần trước. Người nói bệnh của người không phải lý do để tướng công phải rời nhiệm sở, nhưng môn hạ ngại vì người tuổi cao, nếu có mệnh hệ nào, e không kịp. Vậy khẩn có thư này, xin tướng công lưu ý”.
Trúc Mộ Trung không để lộ xúc động. Ông yên lặng một lúc, vẫy tay cho gia nhân lui rồi vắn tắt với Mẫn Đức:
– Lão nhân gia trong người không được khoẻ. – Đoạn tiếp với giọng điềm tĩnh cố hữu – Mẫn Đức, ngươi hãy thay ta về Trúc Lâm cốc.
– Dạ.
– Hãy lo phụng dưỡng lão nhân gia, đừng để người thiếu thốn gì. Phải đích thân săn sóc tổ phụ, có tin gì báo cho ta biết ngay, chớ chậm trễ.
– Dạ.
– Tốt lắm ! Vậy về sửa soạn ngay đi, sáng mai lên đường sớm, miễn vào gặp ta nữa.
Mẫn Đức lui ra. Trúc Mộ tướng công mở thư đọc lại, nét mặt đăm chiêu:
“Bây giờ chỉ còn cầu Trời Phật cho lão nhân gia tai qua nạn khỏi mà thôi. Chắc chưa đến nỗi nào !”.
Tin dữ chẳng mấy chốc đã loan truyền khắp tướng phủ. Oa Tử, mắt đỏ hoe, vội vã đến gõ cửa phòng Mẫn Đức:
– Nghe tin thiếu gia sắc đi Trúc Lâm cốc, xin cho tiểu nữ đi theo. Đã lâu lắm không được gặp lão cốc chủ, nay nhân cơ hội, tiểu nữ mong được về vấn an và hầu hạ người để đền đáp phần nào ơn cứu trợ.
Thấy Oa Tử, Mẫn Đức chợt nhớ đến lời hứa với bá phụ khi nãy. Thật là dịp may hiếm có, không để cho nàng đi lần này thì còn dịp nào hơn nữa. Bèn gật đầu ưng thuận ngay:
– Vậy cô nương chuẩn bị đi, tại hạ đến xin phép tướng công. Nếu được, sáng mai ta sẽ khởi hành sớm.
– Đa tạ thiếu gia.
Nói đoạn, Oa Tử lật đật ra về sửa soạn hành trang rồi lên đại sảnh cáo biệt Trúc Mộ tướng công.
– Cô nương cùng đi với Mẫn Đức, thế thì tốt lắm ! Hắn vừa ở đây ra cũng đã trình ta về chuyện đó. Chắc phụ thân ta rất vui lòng được gặp lại cô nương.
Ông gọi gia nhân mang tiền và một bộ áo vóc thêu hoa mẫu đơn đưa tặng Oa Tử.
Buổi chia ly diễn ra bịn rịn giữa kẻ ở người đi, lúc trời chưa hửng sáng. Hai nữ tỳ mang đèn lồng cùng đoàn gia nhân tiễn Mẫn Đức và Oa Tử ra đến tận cổng ngoài. Đốm sao mai lấp lánh qua cành thưa, lúc ẩn lúc hiện, lòng Oa Tử vui buồn lẫn lộn cũng chẳng khác gì. Trong cuộc đời trôi nổi của người thiếu nữ kém may mắn ấy, mỗi lần đi lại như mang đến cho nàng một chút hy vọng nhưng kèm theo niềm bâng khuâng tiếc nhớ. Hy vọng gặp được người tình. Tiếc nhớ niềm an vui vuột mất.
Tiếng gà rừng gáy xa xa. Trời sắp sáng. Chiếc nón nang rộng vành sương xuống ướt đẫm. Oa Tử xốc lại túi hành trang trên vai, kéo vạt áo sát vào người cho đỡ lạnh, chống gậy dò từng bước theo sau Mẫn Đức. Băng qua bãi cát ướt ven sông và cây cầu gỗ, cả hai tới một con đường lớn được đắp từ thời Kamakura nhưng bây giờ không còn mấy người qua lại. Hai bên đường, cây cao bóng ngả tối đen, yên lặng và sâu hun hút. Mẫn Đức dừng chân chờ Oa Tử:
– Vắng quá phải không cô nương ? Xưa kia chỗ này nhiều đạo tặc lắm !
– Vậy ư ? Thảo nào nghe rờn rợn. Chỗ này địa danh là gì vậy, thiếu gia ?
– Ngã ba Dogen. Những tên cường đạo cùng bọn đàn em ẩn nấp trong các hang động gần đây hay ra quấy nhiễu, cướp của giết người. Gặp đàn bà con gái chúng bắt cóc mang đi …
– Ghê quá ! Thôi, thiếu gia đừng nói nữa.
Mẫn Đức cười thầm. Biết làm cho nàng sợ hãi là không nên nhưng chàng vẫn thấy hơi thích thú khi cảm thấy mình mạnh để có thể bảo vệ người khác. Không biết đó có phải là một hiện tượng tâm lý để tự vệ, gây cho ta lòng tự tin hơn trước khi áp đảo kẻ thù hay không, dù sao chàng cũng cần trấn an người bạn đồng hành:
– Nhưng đấy là chuyện xưa kia. Từ khi bá phụ tại hạ lập tư dinh ở Higakubo, bọn chúng đâu còn dám lai vãng nữa. Vả lại, ngày nào chả có lính tuần tiễu.
Oa Tử gật đầu, yên tâm đôi chút. Tuy nhiên vẫn ráng bước dài hơn để theo kịp Mẫn Đức.
Chợt tiếng lá xao động. Oa Tử nắm chặt cánh tay chàng kiếm sĩ đồng hành.
– Cái gì thế cô nương ?
– Có người !
– Đâu ?
Oa Tử trỏ một bóng đen đang lẩn vào bụi rậm. Nhanh như cắt, Mẫn Đức nhảy tới.
Bóng đen vung tay. Ánh sáng của một lưỡi dao ngắn lóe lên.
– Này ! Con cáo !
Mẫn Đức bắt ngay cánh tay cầm dao. Bóng đen vùng vẫy, tay đấm chân đạp.
Nhưng sức yếu, chỉ một loáng đã bị Mẫn Đức đè sấp xuống đất. Thì ra là thằng bé gặp chiều qua trên sườn đồi. Nó vẫn tưởng chàng là con cáo thật.
Nằm trên cỏ, hai cổ tay bị khóa chặt trong lòng bàn tay cứng như sắt của hiệp sĩ trẻ tuổi, Hạo Nhiên thở phì phì, đạp tứ tung. Nhưng nó nhất định không van xin con cáo. Oa Tử vừa đến. Động lòng trắc ẩn, nàng bảo Mẫn Đức:
– Thiếu gia tha cho nó, tội nghiệp ! Nó còn nhỏ.
Mẫn Đức nới tay:
– Ngươi là ai ? Rình mò chuyện gì ?
Hạo Nhiên không đáp. Oa Tử gỡ tay Mẫn Đức ra, đỡ thằng bé ngồi dậy.
– Tên em là gì ? Sao mới tinh sương mà đã đến đây được ? Nhà em ở đâu ?
– Thế các ngươi không phải là cáo à ?
Oa Tử mỉm cười:
– Không, chúng ta không phải là cáo.
– Láo ! Con cáo bị thương ở chân hôm qua đây mà !
Dứt lời đạp mạnh một cái, lấy đà đứng lên, định xông vào đánh nữa. Oa Tử tránh sau gốc cây kêu lớn:
– Chà ! Thằng bé này dữ quá !
Mẫn Đức hét một tiếng, tay trái giữ hai khuỷu tay Hạo Nhiên, tay phải nắm cổ áo nó nhấc bổng lên, xăm xăm trở lại cây cầu gỗ, dốc ngược đầu nó xuống rồi bảo:
– Thằng này điên. Hay mày bị cáo nó bắt hồn thật chăng ?
Dưới chân cầu, nước chảy ào ào tung bọt trắng. Trong ánh bình mình vừa rạng, Hạo Nhiên trông những hòn đá tròn rêu phủ đen, ngổn ngang như đầu bầy quỷ vẽ trong tranh trên chùa.
– Ta vất mày xuống đây, sợ không ?
Dĩ nhiên thằng bé sợ. Sợ lắm ! Nhưng nó cắn răng không kêu khóc, chân đạp vào thành gỗ thình thình.
– Thiếu gia, thiếu gia làm gì thế ?
Oa Tử chạy đến, hốt hoảng hỏi Mẫn Đức.
– Thằng bé này dường như bị quỷ ám hay bị Oan hồn nào nhập vào rồi. Mắt nó trừng trừng như mắt người điên vậy.
– Ta không điên ! Ta không bị quỷ ám ! Chính các người là hồ ly hiện hình định bắt hồn ta, còn nói gì ?
– Khoan, đừng nói bậy ! Thiếu gia bỏ nó xuống đi để tiểu nữ hỏi cho rõ. Chắc có uẩn khúc gì đây.
Mẫn Đức đặt thằng bé xuống. Ngồi bệt trên sàn cầu, khiếp sợ, đói khát và bị sỉ nhục, không tự kềm chế được nữa, Hạo Nhiên òa lên khóc. Đáng thương cho nó, bao nhiêu nhuệ khí, khôn ngoan bỗng tiêu tán đâu mất cả Oa Tử đến ngồi bên, quàng tay lên vai nó, ôn tồn an ủi:
– Tội nghiệp em ! Em ở đâu ? Đến đây có việc gì ? Cứ nói cho ta biết, ta sẽ giúp em. Ta chẳng phải là hồ ly đâu.
Giọng nói và dáng điệu thiếu nữ khiến thằng bé yên lòng. Nhưng nó vẫn phân vân không tin hẳn, hỏi lại, giọng vẫn còn nghẹn nước mắt.
– Thật không ? Thật không phải cáo không ?
Oa Tử cười, nắm tay nó. Tay nó ẩm và lạnh. Sờ trán. Trán nó hâm hấp nóng.
– Trời ơi, bị cảm lạnh rồi. Tối qua em ngủ ở đâu ?
Hạo Nhiên hất hàm về phía bụi cây:
– Chỗ đó !
– Em từ đâu đến ?
– Kobikicho !
– Mô Phật ! Kobikicho cách xa đây hàng chục dặm đường ! Mà em đến đây làm gì?
– Em phải đưa một cuốn thư vào phủ Trúc Mộ. Người ta bảo phủ Trúc Mộ Ở khu này. Phải khu này tên gọi Higakubo không ?
– Phải.
Hạo Nhiên mở bọc rút một cuốn thư ra đưa Oa Tử coi. Thấy lạ, Mẫn Đức cũng tò mò ghé mắt nhìn.
– Thư này gửi cho hiệp sĩ Mạnh Đạt trong phủ.
– Đúng rồi. Vậy ông không phải là cáo. Cáo không biết đọc.
Mẫn Đức cả cười, khiến Oa Tử và Hạo Nhiên cũng cười theo. Không khí hết căng thẳng trở nên hòa dịu hẳn. Hạo Nhiên tiếp:
– Em phải đưa thư đến tận tay hiệp sĩ Mạnh Đạt và đợi thư phúc đáp mang về.
Oa Tử gật đầu, cảm thấy việc này đối với thằng bé quan trọng lắm, như một sứ mệnh nó phải làm và chắc không bao giở để cho ai khác Mạnh Đạt xem thư ấy. Bèn bảo nó:
– Tướng phủ ở cách đây chừng non một dặm về phía tây. Hiệp sĩ Mạnh Đạt có ở đó, nhưng em đi sai đường rồi. Phải trở lại đường này mới đúng.
Định mệnh trớ trêu thật. Cơ hội đoàn tụ chờ đợi đã hơn ba năm giữa Oa Tử và Thạch Đạt Lang, một cơ hội hãn hữu còn hơn cả cuộc gặp gỡ giữa ả Chức và chàng Ngâu qua giải ngân hà, lại một lần nữa bị lỡ.
Mẫn Đức chỉ đường thêm cho thằng bé:
– Qua cầu, đến ngã tư thì nhớ rẽ trái. Khi nào nhìn thấy cổng đá cao trên có chòi canh thì hỏi người lính tuần, họ chỉ cho.
Hạo Nhiên cảm ơn định bước đi. Chợt Oa Tử gọi:
– Khoan đã.
Nàng mở bọc, lấy bốn chiếc bánh nếp gói lá tre mang theo dự bị để ăn đường, đưa cho nó và bảo:
– Ăn đi em !
Hạo Nhiên đứng sững nhìn khuôn mặt người thiếu nữ trước đây nó tưởng là con cáo, lờ mờ dưới bóng chiếc nón nan rộng vành, như cố ghi lấy những nét đặc biệt của ân nhân. Đoạn gỡ lấy bánh giơ ngang mày, nó lí nhí một câu cám ơn rồi cúi đầu chào, quay gót.
Sau nó, tiếng Mẫn Đức dặn với, nửa đùa nửa thật:
– Cứ thong thả mà đi, không xa lắm đâu, đừng để cáo nó bắt hồn mà lạc.
Oa Tử khẽ thở dài.
– Thằng bé thật lạ !
Bất giác liên tưởng đến Giang. Nỗi băn khoăn tràn ngập tâm hồn khiến nàng đứng sững cho đến khi nghe tiếng Mẫn Đức gọi mới sực tỉnh.
Chương 69: Khúc gỗ
Bộp ! Trái mận xanh rụng ngoài vườn kêu một tiếng khô khan. Trong phòng, dưới ngọn đèn dầu thông hơi rung rung theo nhịp thở, Thạch Đạt Lang mải miết đưa lưỡi dao sắc trên một khúc gỗ cũ. Vỏ gỗ mỏng rải rác trên mặt kỷ và khắp nơi quanh chỗ hắn ngồi.
Thạch Đạt Lang mới dọn từ quán Mã Đề sang tạm trú tại một phòng sau xưởng mài kiếm của Vương Chính. “Thằng bé này khó tính !”. Lời nói của mẹ, hắn thường nghe lúc nhỏ vì mỗi khi không vừa ý điều gì hắn lại khóc ré lên, đòi cho bằng được thứ mình muốn, còn ăn sâu vào tiềm thức như vết sẹo không xóa được của một cái mụn nhọt hắn mang trên đầu thuở thiếu thời. Những kỷ niệm xưa liên tiếp theo nhau qua ký ức, nét mặt và hình dáng mẹ hắn lúc nhạt nhòa, lúc rõ rệt hiện lên như một người mẫu. Mắt Thạch Đạt Lang chăm chú, tay thoăn thoắt đưa đi đưa lại trên khúc gỗ. Hắn cố phổ lên đó những nét dịu dàng, yêu thương của mẹ hắn còn giữ được. Thạch Đạt Lang đã hứa và cố tạc cho xong pho tượng Quan Âm để đổi lấy thanh kiếm của Vương Chính. Hắn làm việc vội vàng suốt từ chiều sau khi vừa thu xếp xong chỗ ăn ở. Vì không sẵn gỗ bạch đàn và theo sở thích riêng của Vương Chính, hắn đồng ý tạc tượng trên một khúc gỗ cũ do Vương Chính để dành từ lâu và trìu mến đưa hắn:
“Ba năm trước, tại hạ hành hương ở phương bắc, thấy thợ thuyền đang phá một ngôi đền cổ thì dừng lại xem. Đền đổ nát gần hết, nhưng không phải là không giá trị. Họ không biết gì cứ phá bừa. Tiếc quá, tại hạ xin một khúc gỗ làm kỷ niệm. Khúc gỗ này đây, chắc phải lâu hàng mấy trăm năm, thớ gỗ mềm, vân đẹp, đại hiệp xem dùng được thì dùng”.
Thạch Đạt Lang nhận lời, nhưng thấy Vương Chính băn khoăn lo lắng về khúc gỗ gã coi như vật gia bảo, Thạch Đạt Lang đôi khi không giữ được bình tĩnh. Tay hắn hơi run và đã mấy lần phải sửa lại toàn bộ hình thể bức tượng.
Gần sáng, bức tượng tưởng như sắp thành hình, bỗng gặp phải một đường nứt ngay phía trên đầu. Không phải là một nhà điêu khắc chuyên môn, không biết kỹ thuật sửa chữa thế nào cho khéo để che vết nứt, hắn cứ gọt bớt. Khúc gỗ trước dài hơn hai gang tay, nay chỉ còn độ gang rưỡi và không ra hình thù gì nữa. Chán nản, Thạch Đạt Lang bỏ dao gục xuống kỷ. Ngọn đèn lụi dần. Ngoài kia, tiếng chim vành khuyên đã bắt đầu lích chích. Hắn thiếp đi lúc nào không biết.
Tỉnh dậy, Thạch Đạt Lang thấy trong người dễ chịu hơn, tinh thần bớt căng thẳng.
Hắn ra giếng súc miệng rửa mặt rồi trở vào tiếp tục công trình bỏ dở. Ngọn đèn dầu được khêu to thêm. Thạch Đạt Lang đưa lưỡi dao nhẹ nhàng trên khúc gỗ, linh cảm sự sống động của từng thớ cây mềm, tưởng chừng qua mỗi đường dao gọt những thớ gỗ ấy lại phát hiện ra bao nhiêu thăng trầm của lịch sử ngôi cổ miếu. Nếu không cẩn trọng, những đường dao của hắn là những đường dao vô ích làm hỏng cả khúc gỗ, biến khúc gỗ quý báu thành đống vỏ bào vô dụng.
Liên tưởng và so sánh lịch sử ngôi cổ miếu với lịch sử dân tộc, Thạch Đạt Lang bỗng giật mình. Và hắn sợ. Những đường kiếm của hắn sẽ để lại gì ? Xây dựng hay chỉ là phá hoại ? Băn khoăn, nghi hoặc, hắn dừng tay thừ người suy nghĩ.
Nhưng một chốc lại thấy Thạch Đạt Lang cúi xuống, lưỡi dao sắc đưa lia lịa, cuồng nhiệt. “Lần này phải thành công”, hắn cố moi ký ức, hình dung ra nét mặt mẹ hắn, những nét hiền hậu hắn muốn phổ vào bức tượng lịch sử này, nhưng không thể nào bắt nổi … Nó nhạt nhòa như sương khói. Nó lãng đãng như ở một nơi xa xôi, vô thức nào hắn không sao đến được. Trước sự bất lực và giới hạn của chính mình, Thạch Đạt Lang tức giận hét lớn. Ngọn đèn phụt tắt.
Chủ nhân bước vào:
– Thạch đại hiệp ! Sao thế ?
Thạch Đạt Lang nhìn khúc gỗ. Nó chỉ dài độ bằng ngón tay giữa đống vỏ bào vương vãi trên mặt kỷ và xung quanh chỗ ngồi.
– Bức tượng đâu ?
– Hỏng rồi ! Ta đã làm hỏng khúc gỗ.
Hắn gục xuống kỷ. Có tiếng chân dồn dập trong phòng và hình như hắn đang được nâng dậy. Nỗi xót xa vừa tỉnh cơn ảo mộng giảm bớt. Thay vào đó, một màn sương đục trùm lên toàn thân và bọc kín lấy hắn. Dần dần trí não Thạch Đạt Lang chỉ còn là một khoảng trống vô hạn.
Trưa hôm sau, len lỏi trong đám mã phu dẫn ngựa, Hạo Nhiên trèo vội vã lên thang gác quán Mã Đề, mồ hôi nhễ nhại, quần áo bám đầy bụi đất. Qua cửa văn phòng, mụ quản lý gọi giật lại:
– Thằng bé kia, đi đâu ?
– Lên gác. Tôi trọ với thầy tôi trên gác mà.
– A, ta nhớ ra rồi. Mày đi khỏi quán từ hôm nào ?
Hạo Nhiên lẩm nhẩm tính:
– Từ hôm trước ngày hôm qua.
– Thế là đã ba ngày, hai đêm phải không ?
Hạo Nhiên gật đầu:
– Phải.
– Từ đây đến phủ Trúc Mộ mà ba ngày hai đêm ? Mày thấy có lâu quá không ? Hay là bị cáo nó bắt hồn ?
Hạo Nhiên đáp liền:
– Sao bà biết ? Hay bà cũng là cáo đấy ?
Tìm được lời trả miếng mụ quản lý, nó cười khanh khách, tiếp tục lên thang.
– Thầy mày không ở đây nữa.
Lời nói như gáo nước lạnh dội lên đầu. Hạo Nhiên đứng sững nhìn mụ rồi tỏ vẻ không tin, chạy ba bước một lên gác. Trở xuống, nét mặt nó ngơ ngác:
– Ông …ông ấy đổi phòng rồi hở bà ?
– Thằng này lạ …Thì ta đã bảo thầy mày đi rồi …
– Đi thật à ?
Hạo Nhiên hốt hoảng hỏi lại.
– Không tin thì sổ đây, xem đi.
– Tại sao …tại sao ông ấy lại không đợi …
– Tại mày đi lâu quá chứ sao ! La cà cho lắm vào …
Hạo Nhiên hỏi như mếu:
– Bà biết thầy tôi đi đâu không ?
– Không biết ! Ta nghĩ ông ấy bỏ mày lại vì thấy mày vô tích sự.
Hạo Nhiên tái mặt. Nó chạy ra hiên, hết nhìn đầu phố lại cuối phố rồi nhìn lên trời, nước mắt ứa ròng ròng hai bên má.
Mụ quản lý mỉm cười quay vào, lấy gương soi rồi lấy bông phấn ra thoa lên mặt:
– Ta đùa đấy. Ông ấy chẳng đi đâu xa, dọn sang xưởng mài kiếm bên kia đường ấy.
Đến đấy mà tìm.
Người ta dẫn Hạo Nhiên vào phòng Thạch Đạt Lang. Sư phụ nó nằm trên chiếu, hai tay khoanh lại đặt sau đầu, thiêm thiếp như ngủ.
– Thưa thầy, con đã về.
Thạch Đạt Lang yên lặng. Trong phòng, không khí buồn tẻ. Những mảnh vỏ bào vương vãi khắp nơi, lấm tấm trắng trong bóng tối. Đĩa đèn dầu thông tắt đã lâu vẫn còn nguyên trên kỷ gỗ. Không thấy sư phụ nói gì, Hạo Nhiên lại nhắc:
– Thưa thầy, con đã về.
– Ai đấy ?
Thạch Đạt Lang mở mắt nhìn:
– A ! Hạo Nhiên hở ?
Đoạn thoang thả ngồi dậy. Hạo Nhiên quỳ rạp xuống chiếu:
– Con về trễ, xin thầy tha tội.
Nhưng Thạch Đạt Lang lặng thinh, gần như chẳng có phản ứng gì trước sự hối lỗi của đồ đệ. Một lát mới nói:
– Ra mở cửa sổ, dọn phòng xong rồi đi tắm.
Nói xong khoác áo lững thững bước ra vườn, ngồi dưới gốc mận. Sự thất bại sáng nay của hắn chứng tỏ khả năng con người chỉ có giới hạn, và một mình hắn, đơn phương, chưa chắc làm nên chuyện gì hữu ích. Thạch Đạt Lang tự hứa sẽ suy nghĩ về điều này kỹ càng hơn trước khi đem lưỡi kiếm phục vụ minh chủ mình chọn lựa.
Quay vào phòng, nhìn đồ đệ quỳ trước cửa chờ lệnh, Thạch Đạt Lang ân cần hỏi:
– Con đi đường có mệt không ? Có thư phúc đáp gì cho ta không ?
Thấy không bị quở trách, Hạo Nhiên vui vẻ:
– Dạ có, thưa đây.
Nó lôi trong bóc ra cuộn thư còn lấm tấm vệt mồ hôi trình sư phụ. Thạch Đạt Lang bật niêm, đọc:
“Trúc Mộ đại nhân rất tiếc, vì chức vụ, không thể so kiếm cùng đại hiệp.
Tuy nhiên, Trúc Mộ Mẫn Đức, một trong những người thấu đáo về kiếm học nhà Trúc Mộ, có thể bồi tiếp. Chỉ tiếc hiện nay Mẫn Đức đã đi Trúc Lâm cốc để săn sóc Trúc Lâm cốc chủ, chưa biết bao giờ mới về. Vậy xin hẹn dịp khác”.
Thạch Đạt Lang mỉm cười, tự nhủ “Cũng được !”. Trúc Mộ Mẫn Đức là ai, hắn không biết. Hắn chỉ muốn thử tài với Trúc Mộ Trung, người đã được vời vào giảng huấn về kiếm học cho trưởng nam đương kim lãnh chúa. Nếu không được thì thôi, Thạch Đạt Lang chẳng tha thiết gì tranh tài hơn kém với người mang tên Mẫn Đức nào đó.
Để cuốn thư lên kỷ, hắn hỏi đồ đệ:
– Hạo Nhiên, chắc ngươi đi lạc ?
– Dạ.
– Lạc đường tới những ba ngày, ngươi thấy có lâu quá không ?
– Con bị cáo nó dụ.
– Cáo nó dụ ? Ngươi sinh trưởng ở thôn quê, lạ gì con cáo mà bị nó dụ ?
– Dạ …dạ …Con không rõ, nhưng đúng con bị cáo dụ đi loanh quanh mất hai ngày đêm.
– Hừ …lạ thế !
– Dạ, đúng vậy. Có lẽ cáo ở Tân đô này nhiều và tinh khôn hơn cáo ở miệt Hotengahara, thành ra con bị nó bắt.
Thạch Đạt Lang nghiêm mặt nhìn đồ đệ:
– Nó bắt ra sao ?
– Thưa thầy, nó định theo hại con vì con đánh nó bị thương. Con đã lấy nước bọt bôi lên lông mày để làm phép nhưng vẫn bị nó bắt được và trừng phạt.
Trước sự ngây thơ và tin tưởng thành thật của thằng bé, Thạch Đạt Lang không nỡ quở trách, chỉ ôn tồn bảo:
– Không phải con cáo trừng phạt con đâu. Chắc con có làm điều gì đáng lẽ chẳng nên làm nên bị lương tâm con trừng phạt đấy. Thôi sửa soạn đi tập buổi chiều.
Chương 70: Tiếng muỗi đêm hè
Mỗi ngày theo thông lệ, điểm tâm xong, Hòa Giả Đạo Uẩn thường ra đại sảnh hỏi han mọi việc xảy ra trong lãnh địa, duyệt phê những tờ trình của thuộc cấp rồi vào thư phòng đọc sách hoặc cùng với các tham vấn luận bàn về tư tưởng của Nho gia, buổi chiều tập luyện ở thao trường; đến tối rảnh rỗi, đàm luận võ nghệ với các thuộc cấp thân cận cùng trang lứa.
Đạo Uẩn còn trẻ, tính tình khoáng đạt, nên trong những cuộc mạn đàm như vậy, không khí bên khay trà hay chiếu rượu thường cởi mở, tự nhiên. Ông mặc áo mỏng bằng vải gai, hàn huyên cùng thuộc cấp thật thoải mái.
– Này Hồ Kiện Bình, nghe nói ngươi giỏi về môn trường thương, không mấy ai địch nổi, đúng chăng ?
– Bẩm, quả vậy !
Thấy lời đáp ra vẻ đắc ý, không tỏ chút khiêm nhường nào, Đạo Uẩn mỉm cười:
– Ngươi tự tin lắm nhỉ !
– Bẩm thiếu gia, cho đến nay chưa ai qua mặt được tiểu nhân thì hà tất phải chối cãi làm gì ?
Đạo Uẩn gật đầu:
– Ừ phải, để đấy. Có ngày ta sẽ thử tài cho ngươi biết.
– Xin đa tạ. Tiểu nhân mong ngày ấy sớm đến.
– Nếu ngày ấy không đến thì may cho ngươi lắm đấy !
Mọi người ha hả cười. Hồ Kiện Bình lại nói:
– Thiếu gia chắc đã nghe câu đồng dao trẻ con hát ngoài phố ?
– Chưa, câu gì thế ?
– Câu hát ngụ ý ca tụng tiểu nhân.
– Vậy hả ? Đọc ta nghe thử.
Sử thương nhiều kẻ Năng luyện ắt tinh Vạn người khôn địch Thương Hồ Kiện Bình.
Nghe đọc vừa dứt, Đạo Uẩn đập tay vào đùi cười sằng sặc:
– Hay lắm ! Khéo lắm ! Nhưng ai đã sửa câu ấy thế ?
– Sửa ? Bẩm có ai sửa đâu ? Câu ấy do người nhà tiểu nhân nghe được rồi về thuật lại đấy chứ !
Đạo Uẩn vẫn không nín được cười. Lát sau mới lập nghiêm, bảo thuộc hạ:
– Câu này trong một truyện về đời Hậu Hán, dân gian đặt ra để ca ngợi Hàn Lý Thanh, một võ tướng vô địch trường thương đương thời chứ đâu phải tên ngươi.
– Vậy tiểu nhân không rõ, xin thiếu gia tha tội.
– Ta cũng đoán không phải chính ngươi sửa mà là một kẻ nào đó đặt ra để phỉnh ngươi mà thôi. Nhưng nên thận trọng, tự tin là một đức tính, nhưng tự mãn thì không.
Đoạn quay nhìn xung quanh, Đạo Uẩn hỏi:
– Trong các bằng hữu đây, có bao nhiêu người chuyên về trường thương, bao nhiêu chuyên về kiếm thuật ?
Bảy người thì năm người cúi đầu đáp sở trường về thương pháp, chỉ có hai chuyên về kiếm thuật.
– Trường thương lợi gì mà nhiều người học thế ?
– Thưa đó là võ khí có nhiều ưu điểm lúc lâm trận. Nó dài nên chiếm lợi thế hơn kiếm, miễn đừng dài quá khó sử dụng. Thương dùng đâm, chém, đỡ gạt được cả. Khi chẳng may thất bại, có thể bỏ thương dùng kiếm, còn nếu chỉ dùng kiếm, không may kiếm gãy, sinh mạng coi như trứng để đầu đẳng. Như vậy, kiếm bổ túc cho thương …
– Không hẳn thế ! – Một kiếm sĩ vội vàng lên tiếng phản đối – Sự nghiệp của chúng ta không phải chỉ giới hạn trong những trận chiến ở sa trường. Huống chi kiếm là linh hồn của kiếm sĩ. Kiếm học giúp ta giữ tâm đoan chính trong khi đi tìm tinh hoa của kỹ thuật, và đó mới là căn bản của mọi sự học tập. Nếu giữ được cái tâm cho ngay thì với võ khí gì, dù cả với hỏa khí nữa, ta cũng không phạm vào những lỗi lầm ngu xuẩn và vô luân. Cho nên kiếm đạo có những áp dụng rất phổ quát …
Đạo Uẩn cắt ngang:
– Quan niệm này ta đã nghe ở đâu rồi.
– Thưa đó là quan niệm của tiểu nhân và cũng có thể tất cả những ai lưu tâm đến kiếm đạo.
– Như những ai ?
– Như Cổ Huy Đạo tiên sinh và một danh kiếm đương thời Cát Xuyên Mộc. Cả hai đều khẳng định như vậy.
Nhắc đến tên Cát Xuyên Mộc, Đạo Uẩn mới sực nhớ ra chưa quyết định dứt khoát có nên gọi hắn vào để thử tài không. Mặc dầu đã được Điền Xán Quang đề bạt qua trung gian của Cao Mục Lân, Đạo Uẩn thực ra vẫn chưa rõ sở học cùng tài năng Cát Xuyên Mộc. Với tuổi ấy, xét lương bổng chỉ cần hơn ngàn gia. lúa mỗi năm cũng đủ.
Nhưng vấn đề không phải ở đấy. Vấn đề, như lời thân phụ Đạo Uẩn đã nói, chính là xét kỹ người trước khi dùng và khi đã dùng rồi thì đãi ngộ trọng hậu. Xét người kỹ không những về tài năng mà còn cả về khuynh hướng đạo đức nữa. Nếu họ không hòa đồng được với chính sách chung của tộc đảng thì cũng vô ích. Ông đã nói:
“Lãnh địa này ví như một tòa lâu đài được xây cất bởi nhiều phiến đá. Nếu phiến đá nào không đẽo gọt được để có thể cùng ghép chung vào các phiến đá khác, tạo nên bức tường thành vững chắc chống đỡ cho lâu đài khỏi đổ, thì phiến đá ấy dù có tốt đẹp hay to lớn đến đâu cũng bằng vô dụng. Ở trên núi, ở đồng hoang, thiếu gì những phiến đá như thế bị bỏ lại”. Xét khía cạnh này, Cát Xuyên Mộc có một ưu điểm. Gã còn trẻ, có thể đẽo gọt để trở thành phiến đá tốt chống đỡ lâu đài họ Hòa Giả. Đạo Uẩn lại nghĩ đến kẻ kia, người kiếm sĩ tên Thạch Điền Đạt Lang đã không may để vuột mất. Nếu những điều Điền tham vấn nói là đúng thì kiếm sĩ ấy quả là người dùng được. Tiếc thay ! Chẳng biết bây giờ hắn lưu lạc phương nào ? Nhưng thật khó mà đánh giá. Tài năng cả hai chỉ căn cứ vào những lời đồn đại, có gì chính xác đâu. Xét gia thế, Cát Xuyên Mộc được hai lợi điểm:
hắn sinh trưởng tại Suo, lại là môn đệ của Nhiễm Chúc, một danh kiếm mà tài năng ai cũng phải kính phục, tất nhiên sở học vững vàng hơn Thạch Điền Đạt Lang, xuất thân từ một gia đình kiếm sĩ tầm thường ở thôn Mimasaka cô lậu và không có căn bản vững chắc về kiếm học.
Bèn quay sang tả hữu, hỏi:
– Các ngươi có ai biết Thạch Điền Đạt Lang không ?
– Phải chăng thiếu gia muốn nói đến Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto, đất Harina ? Một kiếm sĩ giang hồ cách đây non bốn năm đã giao tranh với Hoa Sơn phái ?
– Ta không rõ lắm nhưng đại cương hình như thế.
Mọi người nhìn nhau không hiểu rõ ý chủ soái nên ngài ngại chưa đáp.
– Có chuyện gì ? Các ngươi định giấu ta chăng ?
– Xin tha lỗi. Về Thạch Điền Đạt Lang, bọn tiểu nhân nhận được nhiều tin tức trái ngược, nhưng tựu trung chẳng ai biết diện mạo hắn ra sao mà tin tức cũng không có gì làm bằng chứng nên chưa dám mạo muội.
– Thì ta cũng thế. Nghe nói hắn là một kiếm sĩ dũng mãnh, lại có lòng cứu khốn phò nguy, giúp dân khai hoang nên được mến chuộng lắm phải không ?
– Chuyện đó thì bọn tiểu nhân không biết, nhưng hình như hắn là người rất tàn ác.
Khi còn ở Miyamoto, nơi sinh quán, hắn giết người không gớm tay. Lúc giao tranh với Hoa Sơn phái, hắn đã nhẫn tâm chặt đầu cả một đứa trẻ mới tuổi.
Đạo Uẩn chau mày:
– Thật thế ư ?
– Và ngay bây giờ đây, ở Tân đô này, cũng có yết thị gọi đích danh hắn ra đối chất với một lão phụ cùng làng về một chuyện điếm nhục gì đó, hình như cướp đoạt vị hôn thê của con trai bà và phá hoại danh dự gia tộc bà thì phải.
– Bảng yết đã lâu chưa ?
– Bẩm cũng mới vài tháng.
– Thế hắn có ra mặt không ?
– Không ! Không thấy động tĩnh gì. Có thể hắn không biết và cũng có thể hắn trốn luôn. Người ta nói trong những trường hợp kém thế, hắn thường lủi mất. Đã mấy lần xảy ra như vậy, nhất là trong lần giao tranh với Hoa Sơn, sau cùng hắn cũng bỏ chạy, ẩn trốn trên núi mãi về sau mới lộ diện.
Hòa Giả Đạo Uẩn nét mặt đăm chiêu. Những tin tức ông vừa được thuộc hạ cho biết thật khác xa với những tin tức của Điền Xán Quang thuật lại về vị anh hùng khẩn hoang mà nông dân vùng Hotengahara hàng ngày thờ phụng. Hình ảnh người kiếm sĩ ông ngưỡng mộ mờ dần, thay vào đó là mối nghi hoặc mỗi lúc một lớn. Hòa Giả Đạo Uẩn cáo mệt đứng lên lui vào hậu thất. Là người không chịu chấp nhận những điều chưa rõ rệt, Đạo Uẩn tự nhủ “Con người đó có thể là một kỳ nhân. Ta sẽ tìm hiểu hắn kỹ hơn”.
Hôm sau, ở thư phòng ra, gặp Điền Xán Quang, Đạo Uẩn không ngần ngại kể lại những tin tức mới biết và yêu cầu ông đặc biệt lưu tâm, nếu có gặp Thạch Đạt Lang thì tìm cách dẫn hắn vào dinh ngay. “Vãn sinh muốn biết mặt hắn thế nào và nó i chuyện với hắn một lúc”.
Đến chiều, ở thao trường, Cao Mục Lân lại nhắc tới Cát Xuyên Mộc. Đặt mũi tên trên dây cung, Đạo Uẩn nói:
– Ờ, ta quên khuấy đi mất. Cứ dẫn hắn lại đây, lúc nào cũng được. Còn chuyện thu nạp hay không thì sau sẽ xét.
Ngồi trong phòng riêng nhà Cao Mục Lân, Cát Xuyên Mộc rút “cây sào phơi” ra ngắm nghía. Suy đi tính lại, hắn đổi ý không muốn sửa thanh kiếm ấy nữa. Nó tuy dài quá thật, nhưng dùng đã quen, đối với người khác có lẽ gặp khó khăn nhưng trong tay hắn lại là một võ khí cực kỳ lợi hại. Nên hắn đã sai người đến xưởng mài kiếm lấy về.
Dĩ nhiên kiếm vẫn còn nguyên hình cũ, nhưng rút ra khỏi bao mới thấy khác rõ rệt. Từ màu xanh đen, lưỡi kiếm bây giờ sáng loáng, nhuyễn, mịn như gương. Các đốm nhỏ rỉ sét bằng mũi kim đã biết đi hết và hình vẽ sóng gợn dọc theo chiều dài lưỡi kiếm hiện lên, rõ nét như cắt. Ánh thép bóng ngời toa? hào quang, tưởng như mang theo trong lòng nó bao chiến công hiển hách của hàng thế kỷ trước. Toàn bộ lưỡi kiếm rực rỡ tựa tia nắng mai khiến Cát Xuyên Mộc không khỏi thốt lên một tiếng “Ồ” ngạc nhiên thích thú.
Càng nhìn lâu, hắn càng đắc ý.
“Ta có cảm tưởng như mới được trông thấy nó lần đầu. Khác trước quá !”. hắn đứng lên múa thử vài chiêu. Không ! Vẫn là lưỡi kiếm đó. Sự khác lạ có chăng chỉ ở bên ngoài, và lần này xoay trở thanh kiếm trong lòng bàn tay, hắn lại có cảm tưởng như vừa được hội ngộ với cố nhân, vừa được nắm một bàn tay quen thuộc.
Tra kiếm vào bao, nghe tiếng “cắc” khô và gọn, Cát Xuyên Mộc gật gù:
“Được lắm!”, rồi vỗ nhẹ vào bao kiếm, hắn thấy dậy lên trong lòng một niềm tin tưởng vô biên vào người bạn chí thân ấy.
Mải thử kiếm, Cát Xuyên Mộc không để ý và cũng không ngờ có một bóng người đứng ở cổng từ bao giờ nhìn hắn qua khung cửa sổ mở.
– Cát Xuyên Mộc – Ồ, Hồ Điểu lão bá ! Đến từ bao giờ, sao không lên tiếng ?
Tiếng cười khe khẽ qua cái miệng móm:
– Đến từ lâu. Đại hiệp luyện võ chăng ?
– Không, vãn bối thử kiếm. Thanh kiếm mới đưa người ta sửa lại. Mời lão bá vào trong này.
Nhà Cao Mục Lân ở trên cao, tại một nơi được gọi là đồi Lãm Nguyệt, nhở cảnh trí khoảng khoát, từ lưng chừng đồi đã có thể ngắm trăng một cách dễ dàng ngay từ khi trăng mới tỏ. Phòng Cát Xuyên Mộc ở trông ra vịnh đằng xa. Những đêm trăng sáng, mây với nước cùng màu, mặt biển đẫm ánh trăng lung linh mờ ảo không phân biệt được đâu là trời đâu là nước, đẹp lạ lùng. Nhưng Cát Xuyên Mộc không bao giờ để ý.
Bà Hồ Điểu rửa chân xong, bước vào nhà, ngó quanh quẩn:
– Chà ! Đại hiệp có căn phòng mát mẻ quá ! Không sợ đâm lười ra ư ?
Cát Xuyên Mộc mỉm cười cải chính:
– Nhà này của Cao Mục Lân, vãn bỗi chỉ ở nhờ. Vả chăng, vãn bối đâu phải là Mãn Hà Chí !
Bà Hồ Điểu không nhận ra lời nói chọc, hay có nhận ra cũng vờ như không biết.
Bà cúi tìm trong thắt lưng một mảnh giấy đưa cho Cát Xuyên Mộc rồi nói:
– Chả có gì làm quà, có bài kệ hiếu tử để đại hiệp đọc những lúc nhàn rỗi. Ta chép một ngàn bài cơ đấy !
– Một ngàn bài ! Nhiều thế ?
Cát Xuyên Mộc cầm tờ giấy liếc qua đoạn đầu:
Trên mọi nẻo đường đời Vạn sự do nhân duyên Nhân chính là hạt giống Duyên xúc tác môi sinh Nhìn vào thân chúng ta Duyên chính là cha mẹ Khổ nhọc thuở sinh ra Dưỡng nuôi từ tấm bé.
…
Hắn đặt tờ giấy xuống:
– Hay lắm, cảm ơn lão bá, để rồi vãn sinh sẽ xem sau.
– Quạ còn biêt tha mồi mớm cho mẹ, vượn biết săn sóc cho già, con người mà không có lòng hiếu thì thua cả loài cầm thú. Ta thấy bây giờ lòng người đen bạc, tình cha con, nghĩa vợ chồng hỏng cả, nên bỏ công chép bài kệ này phổ biến. Đại hiệp thấy ai muốn có kệ tụng thì cho ta biết, ta mang đến.
Cát Xuyên Mộc quay đi giấu nụ cười thầm và hỏi sang chuyện khác:
– Tấm giấy cáo thị vãn sinh viết cho lão bá, lão bá đã cho người đem dán khắp nơi chưa ?
– Lâu rồi, nhưng chẳng thấy kết quả gì. Nó vẫn trốn chui trốn nhủi ở đâu chứ có ra mặt đâu.
Đoạn hạ thấp giọng:
– Này, khi đến đây, ta thấy có một người khả nghi lắm. Gã cũng mặc rách rưới kiểu kiếm sĩ lang bạt như thằng Thạch Đạt Lang, nhưng không phải nó. Thấy ta, gã nhìn một lúc rồi lủi vào bờ giậu mất.
Cát Xuyên Mộc nhíu mày:[Audio] Vĩnh Sinh (dịch)
– Ai vậy kìa ?
– Gã này đã đứng tuổi. Đại hiệp nên cẩn thận.
Cát Xuyên Mộc gật đầu cám ơn, gọi người nhà mang dưa ra đãi khách. Cả hai vừa ăn dưa vừa chuyện vãn. Bà Hồ Điểu than thở đã lâu lắm, có đến mấy năm nay chẳng gặp mặt con, tuổi già càng ngày càng yếu nên mọi việc đều trông cậy cả vào Cát Xuyên Mộc chứ chẳng mong gì ở thằng Mãn Hà Chí. Bà vừa nói vừa khóc.
Chán ngấy vì đã nghe chuyện gia đình bà nhiều lần, lại không hiểu kẻ nào theo dõi mình nên trong lòng băn khoăn nên trong, Cát Xuyên Mộc chỉ đưa đà cho có lệ. Câu chuyện trở thành nhạt nhẽo. Ngoài kia trăng đã lên, lấp ló ngọn cây. Thấy không tiện ngồi thêm, bà Hồ Điểu đứng dậy cáo biệt.
Tiễn khách ra cổng xong trở vào, Cát Xuyên Mộc khoanh tay gối đầu nằm ngửa trên chiếu, mắt xa vắng. Đèn chưa thắp, muỗi bay vo ve hắn cũng mặc kệ. Qua khung cửa sổ mở, ánh trăng chênh chếch chiếu vào in bóng những ngọn cây rung động lên vách.
Chiều xuống đã lâu mà Cao Mục Lân chưa về. “Chắc đêm nay hắn phải ở lại trong dinh”, Cát Xuyên Mộc nghĩ thầm rồi dần dần thiếp đi trong tiếng muỗi cùng những tiếng côn trùng ri rỉ quanh hè.
Dưới chân đồi, một bóng đen vừa nhảy qua hàng giậu. Đêm khuya, trăng lơ lửng giữa trời, vằng vặc. Lẩn trong những lùm cây thấp, bóng đen phủ phục, chờ đợi. Rồi như một con ếch, gã bò vào, nhích từng bước, từng bước, sau mỗi bước lại dừng lại nghe ngóng.
Cát Xuyên Mộc vẫn ngủ say, tiếng ngáy đều đều khiến bóng đen vững dạ. Gã đưa lưỡi kiếm luồn qua khe cửa, nhẹ nhàng đẩy sang bên. Khung cửa lùa mở hé, êm như ru, bóng đen bò vào, mất hút trong căn phòng tối.
Tiếng ngáy thưa dần, có tiến sột soạt của người vừa trở mình. Bên ngoài, ánh trăng vẫn chan hòa đổ trên những lá trà đen cứng như phủ lên đó một lớp bạc lỏng.
Yên lặng kéo dài chẳng biết bao lâu, một khắc hay mười khắc ? Ý niệm về thời gian mất hết. Chợt tiếng thét như xé toang màn đêm yên tĩnh và sau đó là tiếng mũi kiếm cắm phập xuống chiếu ngay chính giữa chỗ Cát Xuyên Mộc nằm. Một bóng người vọt ra ngoài cửa sổ. Tiếp liền đó, Cát Xuyên Mộc, tay trái còn giữ bao kiếm, tay phải trỏ mũi “cây sào phơi” vào cổ họng bóng đen đứng thở hổn hển.
– Ngươi là ai ?
Giọng Cát Xuyên Mộc hết sức bình tĩnh. Như bức tượng đá, hắn không tỏ vẻ gì ngái ngủ hoặc bị khích động sau cuộc tập kích. Bóng đen vẫn đứng yên không đáp.
– Nói ngay ! Ngươi là ai ? Tên gì ?
– Ta thất bại thì ngươi giết ta đi, cần gì hỏi danh tính. Nhưng báo cho ngươi biết phái Hồ Phong sẽ không để ngươi yên.
Cát Xuyên Mộc cười nhạt. Thì ra tên này thuộc phái Hồ Phong đến để trả thù cho đồng bọn bị hắn giết tại bờ sông Sumida đây ! Một cái xoay tay nhẹ. Lưỡi kiếm loáng lên như lằn chớp dưới ánh trăng. Tiếng rú tắt nghẹn trong cổ họng và một thây người đổ xuống trước nụ cười thỏa mãn chưa tắt của Cát Xuyên Mộc.