[Aduio] Lá Cờ Ma
Lá Cờ Ma Phần 3
❮ sautiếp ❯Chương 11
“Chậu tụ bảo thật ư, có thể có chiếc chậu tụ bảo thật đó hay không, chúng ta không nhắc tới nữa. Tương truyền, chiếc chậu tụ bảo đó đã bị vỡ rồi. Còn ‘chiếc chậu nạp tài, phỏng theo chậu của Thẩm Tú’ cũng chỉ có một chiếc duy nhất thôi”.
“Tại sao lại chỉ có một chiếc duy nhất?”
“Lúc Thẩm Tú và Chu Nguyên Chương còn thân thiết, Thẩm Tú đồng ý để Chu Nguyên Chương mời những người thợ gốm giỏi nhất thiên hạ tới chế tác một chiếc chậu mô phỏng chiếc chậu tụ bảo. Chu Nguyên Chương tin rằng, những đường vân vấn vít nhau trên thân chiếc chậu tụ bảo đã làm nên tác dụng thần kì của nó, nên chiếc chậu mô phỏng được làm giống hệt nguyên mẫu, tuy thế, nó không có được công hiệu của chiếc chậu nguyên mẫu. Chu Nguyên Chương rất thất vọng vì điều đó, về sau ông đã ban chiếc chậu này cho đại tướng quân Thường Mậu”.
“Sao anh biết, câu chuyện này có trong lịch sử à?”
“Là một người chứng kiến lịch sử, đương nhiên tôi phải biết nhiều rồi”, Vệ Tiên tủm tỉm.
“Theo như anh nói thì chiếc chậu của Thẩm Tú đúng là một vật quý hiếm đấy. Nhưng manh mối mới mà anh muốn nhắc tới ở đây là gì thế?”
“Người ta chưa từng chính thức phát hiện mộ của đại tướng quân Thường Mậu. Ngôi mộ này cũng là một trong những ngôi mộ bí ẩn được lưu truyền trong giới trộm mộ, có điều bảy mươi năm về trước, ngôi mộ này đã bị…”
“Vệ Bất Hồi!”, Vệ Tiên chưa nói hết câu, tôi đã buột miệng thốt ra.
“Đúng thế, ngôi mộ này đã góp phần làm nên danh tiếng lẫy lừng của Vệ Bất Hồi. Vì thế, chiếc chậu nạp tài, phỏng theo chậu của Thẩm Tú này vốn dĩ phải ở trong tay ông ta”.
Tôi và Vệ Tiên ăn vội đồ ăn nhanh rồi tất tả đến Tập đoàn Đóa Vân Hiên. Tìm được người ủy quyền bán đấu giá tức là tìm được Vệ Bất Hồi, hoặc người đó chí ít cũng phải có mối quan hệ khăng khít với Vệ Bất Hồi.
Thế nhưng người ta bảo mật thông tin nên lần này ngay đến thẻ phóng viên của tôi cũng không giúp ích được gì.
Lời nói của vị giám đốc lúc tiếp chúng tôi đã cản ngay ý định của chúng tôi: “Thân phận của người ủy quyền bán đấu giá phải được bảo mật, đó là quy định trong ngành của chúng tôi. Nếu để lộ thông tin ra bên ngoài, ai sẽ đảm bảo an toàn cho họ?”
Tôi giơ thẻ phóng viên rồi đưa cả danh thiếp cho ông ta xem, tôi muốn chứng tỏ mình thật tâm muốn tìm hiểu câu chuyện sưu tầm chiếc ‘chậu nạp tài phỏng theo chậu của Thẩm Tú’.
Tôi phải nói cạn lời vị giám đốc mới miễn cưỡng đồng ý sẽ giúp chúng tôi xin ý kiến của người ủy quyền bán đấu giá, nếu người này nhận lời phỏng vấn, ông ấy sẽ cho tôi thông tin liên hệ.
“Nhưng theo hiểu biết của tôi về lão tiên sinh, có lẽ ông ấy sẽ không đồng ý gặp các anh đâu”.
Bỗng nhiên, tôi sực nhớ tới một người bèn hỏi: “Không lẽ lại là… Trương Khinh tiên sinh ư?”
Vị giám đốc “á” lên một tiếng, không giấu nổi vẻ sửng sốt.
Cuộc nói chuyện tiếp sau của chúng tôi trở nên dễ dàng hơn nhiều. Vì tôi đã đoán đúng tên người ủy quyền bán đấu giá nên vị giám đốc vui vẻ cung cấp cho chúng tôi thêm một số thông tin.
Trương Khinh vốn là một nhân vật nổi tiếng trong giới sưu tầm của Thượng Hải. Hội chợ bán đấu giá mùa thu của Tập đoàn Đóa Vân Hiên lần này thiếu một bảo vật uy chấn hội trường, nên ông giám đốc Dương tuy biết tính tình của lão Trương cổ quái khó gần nhưng vẫn đành mặt dày mày dạn tới gõ cửa nhà ông lão, cầu cứu người bạn quen biết đã hơn mười năm. Nài nỉ mãi cuối cùng ông ta cũng thuyết phục được ông lão Trương Khinh đem chiếc ‘chậu nạp tài, phỏng theo chậu của Thẩm Tú’ ấy ra.
Đáng lẽ tôi phải nghĩ ra lão Trương Khinh chính là Vệ Bất Hồi từ lâu rồi chứ. Năm xưa, người bạn đồng hành thứ ba mà bốn anh em nhà họ Tôn mời tới, cũng chính là người bạn đồng hành tham gia nhiều nhất vào kế hoạch của họ, có thể ai ngoài “Vua trộm mộ”?
Biết được điều này, mọi việc sẽ vô cùng thuận lợi.
Thực ra, tôi vốn dĩ đã hoài nghi thân phận của lão Trương Khinh, ông lão luôn không chịu hợp tác với tôi nên khi nghe ông giám đốc nói thế, tôi thử thăm dò xem sao, quả nhiên tôi đã đoán đúng.
Về tới khách sạn, tôi và Vệ Tiên cùng nhau ngồi làm sáng tỏ những manh mối thu thập được kể từ khi bắt đầu cho tới thời điểm hiện tại.
Mỗi khi điều tra tới một giai đoạn nào đó, chúng tôi đều phải làm cho đầu óc tỉnh táo trở lại, vừa là để tư duy trở nên minh mẫn hơn vừa là để tĩnh tâm suy nghĩ, biết đâu có thể phát hiện ra những chi tiết quan trọng mà chúng tôi đã bỏ sót trước đó do quá hấp tấp thì sao.
Bốn anh em nhà họ Tôn muốn tìm kiếm một ngôi mộ cổ. Ngôi mộ cổ này có niên đại từ sau thời Tần, vị trí của nó nằm dưới lòng đất của “khu ba tầng”. Dựa vào những manh mối hiện có thì nhiều khả năng ngôi mộ cổ này được kiến tạo vào thời Tam Quốc. Bốn anh em nhà họ Tôn sở hữu một lá cờ có công dụng thần kì, lá cờ này giúp họ xác định được vị trí của ngôi mộ cổ.
Bốn anh em nhà họ Tôn xây dựng “khu ba tầng”, thực chất là để khoanh vùng phạm vi. Họ tiến hành giải phóng mặt bằng rồi bắt đầu đào công trình ngầm dưới lòng đất và để che mắt thiên hạ, họ phải tiến hành đồng thời cả việc xúc ủi những ngôi nhà mái bằng xung quanh và lấp ao Khâu Gia, xây vườn hoa Sạp Bắc để người đời không chú ý nhiều tới lượng đất khổng lồ mà họ vận chuyển ra khỏi “khu ba tầng”.
Tượng đài Tôn Quyền đặt tại vườn hoa Sạp Bắc và ngoại hình của bốn anh em nhà họ Tôn cho phép chúng tôi suy đoán, anh em nhà họ Tôn có thể là hậu duệ của Tôn Quyền, nên hẳn nhiên họ có những hiểu biết nhất định về ngôi mộ cổ này, chí ít thì họ cũng hiểu biết việc thâm nhập vào ngôi mộ cổ là vô cùng khó khăn, thậm chí có cả nguy hiểm rình rập nữa. Bởi thế, họ phải mời tới ba trợ thủ.
Trợ thủ đầu tiên là nhà sử học Chung Thư Đồng. Bốn anh em nhà họ Tôn hi vọng tri thức lịch sử của Chung Thư Đồng có thể giúp họ tìm kiếm ngôi mộ cổ hoặc có thể biết thêm một số chi tiết về nó. Nhưng rõ ràng ý định của họ đã thất bại. Một nhà sử học không thể biết chân tơ kẽ tóc như thế nên họ quyết định gạt bỏ Chung Thư Đồng sau vài lần thử thăm dò. Và do đó, Chung Thư Đồng gần như không biết gì về kế hoạch của bốn anh em nhà họ Tôn.
Trợ thủ thứ hai là Đại sư Viên Thông. Bốn anh em nhà họ Tôn thầm mong khả năng tiên đoán của Đại sư Viên Thông có thể giúp họ biết được một số thông tin quan trọng và cầu đảo phúc lành, tránh kị điều dữ. Nhưng họ không thể ngờ, sau khi Đại sư Viên Thông đến ở trong “khu ba tầng” thì khả năng tiên đoán của ngài vấp phải một lực cản vô cùng mạnh mà không rõ nguyên nhân. Chỉ có một lần duy nhất ngài tiên đoán thành công nhưng dự cảm đó cũng rất mơ hồ, khi ấy, bốn anh em nhà họ Tôn mất tích đã chứng minh dự cảm của Đại sư Viên Thông khá chuẩn xác. Xét từ góc độ tham gia vào kế hoạch của bốn anh em nhà họ Tôn, Đại sư Viên Thông hẳn nhiên là người ngoài cuộc.
Trợ thủ thứ ba là Trương Khinh, cũng chính là Vệ Bất Hồi. Từ trước đó rất lâu, Vệ Bất Hồi đã bắt đầu tìm kiếm ngôi mộ cổ này nhưng chỉ xác định được trên một phạm vi rộng lớn, không thể tìm thấy vị trí cụ thể của nó. Bởi thế, khi gặp bốn anh em nhà họ Tôn, ông “Vua trộm mộ” thích hành động đơn lẻ này đã nhận lời đồng hành ngay. Điều kiện mà bốn anh em nhà họ Tôn đưa ra để Vệ Bất Hối trực tiếp tham gia vào kế hoạch của họ chắc chắn là năm người cùng nhau phân chia đồ tùy táng trong đó. Vì lẽ đó, khi ở vào giai đoạn cuối cùng, khi đường hầm dưới lòng đất đã nối liền cửa vào mộ cổ, bốn anh em nhà họ Tôn sẵn sàng bỏ ngoài lời tiên đoán chẳng lành của Đại sư Viên Thông mà vẫn cùng Vệ Bất Hồi tiến vào ngôi mộ cổ. Nói chính xác hơn thì Vệ Bất Hồi có lẽ là người tiên phong mở đường, vì trong những ngôi mộ cổ như thế, khắp nơi đều có các hệ thống bảo vệ ngầm có thể lấy đi mạng sống của những kẻ cả gan bước vào.
Thời điểm quân Nhật ném bom oanh tạc Thượng Hải, đường hầm dưới lòng đất đã gần xong, bốn anh em nhà họ Tôn lo sợ công trình ấy sẽ bị tổn hại bởi bom đạn nên đã mượn sức mạnh của lá cờ ma thêm lần nữa để đuổi quân Nhật, nhờ thế mà “khu ba tầng” may mắn thoát nạn. Sau đó ít lâu, họ thâm nhập vào ngôi mộ cổ và không bao giờ trở ra được nữa.
Nhưng Vệ Bất Hối lại có thể thoát ra ngoài. Ông ta đổi tên thành Trương Khinh, mai danh ẩn tính, thôi không thể hiện uy phong của một “Vua trộm mộ” nữa. Những cổ vật thu thập được từ những lần trộm mộ trước đó khiến ông ấy trở thành một nhà sưu tầm.
Rốt cuộc ông ấy đã gặp phải điều gì dưới lòng đất? Vì sao chỉ có một mình ông ấy có thể ra ngoài?
Muốn biết được điều bí mật đó thì phải chờ đợi những lời kể trực tiếp của ông lão đó thôi.
Tôi trở lại tòa nhà ba tầng trung tâm trong tâm trạng rối bời.
Nhất là Vệ Tiên, anh chàng thường ngày vẫn có cái vẻ không kiêng sợ của một kẻ chừng như chỉ dạo chơi chốn nhân gian hôm nay bỗng trở nên rất nghiêm túc. Có lẽ, Vệ Bất Hồi là thần tượng của anh ta, một thần tượng ở nơi cao thăm thẳm mà anh ta luôn ấp ủ một niềm tôn kính vô bờ.
Hai chúng tôi đã đến trước cửa nhà lão Trương Khinh. Bàn tay của Vệ Tiên ngừng lại giây lát trên không trung rồi hạ xuống cánh cửa.
Cửa mở.
Thoáng thấy gương mặt già nua trước mặt, toàn thân Vệ Tiên run rẩy.
Tôi ngạc nhiên thấy anh ta đột ngột cúi thấp người, quỳ một chân trên mặt đất, phủ phục vái chào ông lão trước mặt.
“Vệ Tiên, con trai của Vệ Duyên Vũ bái kiến Tứ Thúc Công”.
Ông lão Trương Khinh nhìn chàng trai trẻ đang phủ phục vái chào trước mặt, lặng im hồi lâu rồi thở dài: “Đứng lên đi”. Nói rồi, ông lão quét mắt một lượt qua anh chàng bên cạnh là tôi đang đứng cách xa cánh cửa, sau đó quay người bước vào trong phòng.
Vệ Tiên đứng dậy, ngoái nhìn tôi một cái, rồi đi vào.
Tôi theo gót Vệ Tiên vào phòng.
Tôi nhìn một lượt khắp gian phòng. Đây mà là nhà của “Vua trộm mộ” ư? Cách bài trí trong nhà gần giống với gian phòng của bác Tô Miễn Tài, mọi đồ đạc đều hết sức giản dị, không thấy chút phong thái cổ kính nào như trong tưởng tượng của tôi.
“Vua trộm mộ” giàu có bạc tỷ, ấy là chưa kể nhà trưng bày bảo vật sưu tầm có khi được xây ở một nơi khác.
“Ngồi đi, tôi già rồi, khó cất chân động tay lắm, muốn uống trà thì tự rót”, ông Trương Khinh chỉ tay vào hai chiếc ghế gỗ nói.
Tôi và Vệ Tiên dè dặt ngồi xuống. Tôi có cả tá câu hỏi muốn hỏi ông lão trước mặt, nhưng lúc này để Vệ Tiên mở lời trước có lẽ tốt hơn. Anh chàng Vệ Tiên vẫn chưa hết câu nệ nên chưa biết nên bắt đầu từ đâu.
“Cháu, cháu biết anh ta hả?”, ông lão Trương Khinh liếc xéo tôi một cái nhưng lại hỏi Vệ Tiên.
“Dạ, cũng… cũng chỉ sơ sơ thôi ạ”.
Quỷ tha ma bắt, anh ta nói cái gì thế, tôi lườm anh ta một cái.
“Dạ, là như thế này ạ…”, Vệ Tiên đã lấy lại tinh thần. Anh ta tiếp lời câu hỏi của ông lão Trương Khinh, bắt đầu kể lại chân thực những sự việc từ khi anh ta bắt đầu điều tra tấm bản đồ đó cho đến lúc gặp được tôi.
Ông lão Trương Khinh, mà lúc này có lẽ nên gọi là ông lão Vệ Bất Hồi, lẳng lặng lắng nghe câu chuyện của Vệ Tiên, ngón tay gõ nhịp xuống mặt bàn, vẻ mặt không có chút thay đổi đặc biệt nào. Nhưng một người nhìn chằm chằm vào ông lão như tôi vẫn có thể phát hiện thấy đuôi mắt ông lão khẽ nhếch lên vài lần, nhất là khi Vệ Tiên nói tới những phân tích hiện tại của tôi và anh ta về sự việc năm xưa.
Xem ra những gì chúng tôi biết được đã vượt ra ngoài suy nghĩ của ông lão.
Vệ Tiên đã ngừng lời. Tôi và anh ta chờ đợi ông lão Vệ Bất Hồi cất tiếng nói, nhưng lão vẫn im lặng.
Rốt cuộc ông lão đang ngẫm ngợi điều gì? Tôi ngầm suy đoán trong lòng, tuyệt nhiên không có ý định phá vỡ trạng thái câm lặng này.
“Cháu đã nói hết chưa?”, cuối cùng, ông lão Vệ Bất Hồi cũng lên tiếng.
Vệ Tiên gật đầu.
“Còn gì muốn nói nữa không?”.
“Có lẽ… có lẽ chỉ thế thôi ạ”.
“Tôi đã nghe hết câu chuyện, giờ thì các anh có thể về rồi đấy”.
“Tứ Thúc Công!”, Vệ Tiên vội vã.
“Vệ lão tiên sinh, chúng cháu đã điều tra tới mức này rồi thì dù thế nào cũng không thể quay lại được. Mà với tiến độ như bây giờ, chuyện tìm thấy ngôi mộ cổ dưới lòng đất đó chỉ còn là vấn đề thời gian, rốt cuộc thì nó nằm ở đây, có đúng không ạ?”, tôi chỉ tay xuống dưới đất.
“Nếu đã như thế, các anh còn tìm tới lão già như tôi làm gì?!”
“Chúng cháu điều tra tới thời điểm hiện tại cũng biết rằng ngôi mộ cổ đó không chỉ là một ngôi mộ đơn thuần, nếu không tại sao trong số những người thâm nhập vào ngôi mộ cổ năm đó lại chỉ còn duy nhất một mình bác sống sót trở về?” Nói tới đây, tôi trộm liếc ông lão Vệ Bất Hồi, ông lão vẫn trầm ngâm, không có một phản ứng nào. Nhưng điều đó cũng đủ để tôi biết, năm xưa, bốn anh em nhà họ Tôn quả nhiên đã vùi xác trong ngôi mộ cổ.
“Có lẽ bác ghét cay ghét đắng gã phóng viên thích đào gốc tróc rễ sự việc như cháu. Nhưng cháu điều tra sự việc chỉ là để thỏa mãn lòng hiếu kì của riêng cháu, cháu không có ý định công bố điều ấy với công chúng. Hơn nữa, ở đây còn có cháu của bác. Anh ấy luôn coi bác là thần tượng, và mơ ước có thể giải được câu đố năm xưa bác đã để lại. Để lần theo dấu vết của bác, anh ấy không màng nguy hiểm. Anh ấy đã có lòng như thế, lẽ nào bác không muốn nói cho anh ấy biết, năm xưa bác đã gặp phải chuyện gì và sắp tới đây, anh ấy có thể phải đối mặt với điều gì khi thâm nhập vào lòng đất ạ?”
Tôi lấy tình thân để lay chuyển ông lão. Ban nãy, ông lão để chúng tôi vào trong nhà, để Vệ Tiên nói một tràng giang đại hải như vậy chứng tỏ trái tim ông lão đã rung động khi gặp được người thân sau bao nhiêu năm xa cách, chứ không phải lạnh lùng như vẻ bên ngoài. Ngay bản thân tôi cũng cảm thấy xúc động trước những lời vừa rồi của mình, nếu ông lão vẫn không có xúc cảm gì thì tôi thật hết cách.
“Hừ, nếu các anh thâm nhập vào trong ngôi mộ cổ đó tức là tự tìm đến cái chết đấy”.
Rốt cuộc, ông lão Vệ Bất Hồi đã chịu mở lời, tốt rồi, chỉ cần khích ông lão thêm chút nữa.
“Trước khi tới đây, cháu được nghe Vệ Tiên kể về uy danh của bác năm xưa, nức tiếng xa gần, một thời không có đối thủ. Nhưng rốt cuộc ngôi mộ cổ đó là ngôi mộ như thế nào mà ngay cả một ông vua dưới lòng đất như bác cũng bị cản giữ suốt hơn sáu mươi năm qua thế ạ?”
Tôi cứ nghĩ, nghe xong những lời này, với tính khí của ông lão, ông lão không đập bàn mới là lạ, nhưng không ngờ ông lão chỉ nén một tiếng thở dài.
Tôi chợt thấy ớn lạnh trong lòng. Đến một “Vua trộm mộ” như Vệ Bất Hồi mà còn phải kiêng dè như thế khi nhắc đến ngôi mộ cổ này thì kết cục của tôi và Vệ Tiên sẽ ra sao nếu cứ liều mình thám hiểm nó?
Ý nghĩ vừa hiện lên trong đầu đã bị tôi gạt đi ngay tức khắc. Nhớ lại những lần trước, lần nào cũng vô cùng nguy hiểm, lần này chắc cũng không ngoại lệ.
Vệ Tiên cũng rất bất ngờ trước phản ứng của của Tứ Thúc Công nhà anh ta nên hỏi dò: “Ngôi mộ cổ đó thật sự nguy hiểm đến thế cơ ạ?”
“Ngay cả cửa ngôi mộ cổ đó ta cũng không dám bước chân vào”.
Vệ Tiên trợn tròn mắt: “Lại có cả những ngôi mộ mà Thúc Công không dám vào cơ ạ? Cửa đó có hệ thống ngầm gì ạ, là đấu xoay lật, hoa mai ngầm,… hay… hay là cửa nhảy quỷ[6]?”
[6] Đấu xoay lật, hoa mai ngầm, cửa nhảy quỷ: tên một số cơ quan được bố trí ngầm trong các ngôi mộ cổ của Trung Quốc, chưa có khái niệm tương tự trong tiếng Việt nên xin được tạm dịch.
Vệ Tiên nói một mạch những danh từ mà tôi chưa từng nghe thấy trong đời, có lẽ đó là tên những cơ quan cực kì nguy hiểm trong các ngôi mộ cổ.
“Đấu xoay lật, hoa mai ngầm, mấy cái này ta nghĩ bây giờ chắc cháu cũng qua được, nhưng còn cửa nhảy quỷ, nếu không vượt qua nó thì ta có lấy được chiếc ‘chậu nạp tài, phỏng theo chậu của Thẩm Tú’ đó hay không?”
Tôi hơi ngạc nhiên. Chúng tôi chưa tiết lộ điều gì mà ông lão Vệ Bất Hồi đã biết vì sao chúng tôi có thể gõ cửa nhà ông lão.
“Vậy…”, Vệ Tiên cau mày.
“Cháu đừng nghĩ nữa, thực ra là ta không dám vào thôi”.
“Tức là sao ạ?”
“Ta đã thâm nhập vào 132 ngôi mộ cổ, trong đó có bảy ngôi mộ cổ phải bỏ dở giữa chừng và hai ngôi mộ cổ vừa trông thấy cửa đành ngậm ngùi quay về, cháu không ngẫm ra nguyên nhân hay sao?”, ông lão Vệ Bất Hồi hỏi lại Vệ Tiên.
Vệ Tiên suy tư hồi lâu rồi lắc đầu.
“Vậy thì cháu đừng tiếp tục làm cái nghề này nữa, nếu không ắt có một ngày sẽ chôn thây trong mộ của người ta đấy”.
Vệ Tiên bàng hoàng nhìn ông lão Vệ Bất Hồi. Gương mặt anh đỏ rần, rõ ràng là anh rất bất mãn với câu nói vừa rồi của ông lão nhưng không ra mặt phản bác lại.
Một người ấp ôm hoài bão trở thành “Vua trộm mộ” lại bị “Vua trộm mộ” đời trước mà mình luôn sùng bái dè bỉu ngay trước mặt như thế tất nhiên phải cảm thấy vô cùng chua chát trong lòng.
“Là trực giác phải không ạ?”, tôi đột ngột hỏi.
Ông lão Vệ Bất Hồi nhìn tôi chòng chọc suốt mấy giây, đây có lẽ là lần đầu tiên ông lão nhìn thẳng vào tôi.
Chương 12
“Lần đó, khi cách cửa mộ khá xa, ta đã biết hễ bước vào bên trong chỉ có một con đường là về nơi chín suối. Bốn anh em nhà họ Tôn không có bất cứ cảm giác nào, nhưng ta gần như không dám tiến lên phía trước, dù chỉ một bước. Còn có cả cái lão Tiền Lục nữa, trực giác của lão ấy cũng không đến nỗi nào, lão ấy rốt cuộc cũng không bước vào bên trong cửa mộ. Đáng tiếc là sau khi ra ngoài, lão ấy trở nên dở dại dở điên”.
“Bác còn không dám vào, tại sao bốn anh em nhà họ Tôn lại liều lĩnh thế ạ?”
“Bọn họ chờ đợi giây phút ấy đã quá lâu rồi. Dự cảm của Đại sư Viên Thông khiến họ dự liệu tới tình huống xấu nhất, nên làm sao họ có thể dừng chân chỉ vì chút cảm giác của ta? Bọn họ theo ta học hành mấy tháng, cứ nghĩ là mình đã luyện được chút bản lĩnh nên khi ta không dám xông vào thì bọn họ cứ liều mình tiến bước. Ta chỉ biết đau lòng nhìn bọn họ bỏ mạng ngay trước mặt”, ông lão Vệ Bất Hồi nói, giọng trầm khàn.
“Bọn họ chết như thế nào ạ?”
“Ta nghe thấy tiếng của ba anh em nhà họ Tôn, còn Tôn Lão Tam thì cố nhao ra khỏi cửa mộ, toàn thân tua tủa gai nhọn như gai nhím. Tôn Lão Tam cường tráng là thế mà chỉ đi vài bước đã tắt thở. Lúc lâm chung, ông ta ôm khư khư một cái đầu, không lẽ đó chính là thứ bọn họ muốn tìm kiếm?”
“Một cái đầu, là đầu gì thế ạ?”
“Là một cái đầu lâu của con người nằm trong ngôi mộ cổ ấy”, gương mặt của ông lão Vệ Bất Hồi thoáng chút không tự nhiên.
“Người đó là ai và bọn họ cần cái đầu đó để làm gì ạ?”
“Đủ rồi đấy, các anh đừng hỏi nữa”, sắc mặt ông lão Vệ Bất Hồi chuyển sang màu trắng, đôi lông mày hơi rung rung, rõ ràng là ông lão đang hoảng sợ.
Đừng nói là “Vua trộm mộ” Vệ Bất Hồi mà ngay cả một anh chàng trộm mộ trẻ tuổi như Vệ Tiên cũng từng tận mắt trông thấy không ít đầu lâu, vậy tại sao khi nhắc đến cái đầu lâu này, ông lão Vệ Bất Hồi lại thất kinh đến thế?
Rốt cuộc cái đầu lâu đó là đầu của ai? Vì sao Tôn Lão Tam khi chết vẫn ôm riết lấy nó, có thật là ông ta đã lấy nó ra khỏi quan tài không?
Ông lão Vệ Bất Hồi nhắm nghiền đôi mắt. Khi mở mắt ra, dường như ông ta đã lấy lại được tinh thần: “Lúc đó ta chỉ cách Tôn Lão Tam có mười mấy bước chân, nhưng không dám bước lên phía trước để nhặt xác ông ta. Cái lão Tiền Lục muốn nhặt xác chủ, nhưng đi được mươi bước, lão đã phải quay lại ngay”.
“Chỉ cách có mấy bước thôi, hơn nữa Thúc Công nói Tôn Lão Tam chết ở ngoài cửa mộ, nếu ngoài cửa mộ không có cơ quan ngầm nào thì vì sao, vì sao… Thúc Công…”, Vệ Tiên ấp a ấp úng, anh ta muốn tránh không nói hai từ “không dám”.
“Đó là lý do tại sao ta khuyên cháu không nên tiếp tục làm cái nghề này nữa, nhất là anh đấy”, ông lão Vệ Bất Hồi nhìn tôi, “nếu anh bước chân tới đó, chắc chắn anh sẽ hiểu được cảm giác của ta năm xưa”.
“Nhưng cháu là cháu của ta, sau này dù cháu thế nào đi nữa, ta cũng không bao giờ mong muốn cháu thâm nhập vào ngôi mộ cổ đó, vì thế ta sẽ không nói cho cháu biết đó là mộ của ai. Hơn nữa, mục đích cuối cùng của bốn anh em nhà họ Tôn là gì, ta cũng không biết”, ông lão Vệ Bất Hồi nói rành rọt từng câu, từng chữ với Vệ Tiên.
“Chúng cháu đã điều tra tới mức này rồi, Thúc Công không cần nói cho cháu biết đó là mộ của ai cũng được, nhưng xin Thúc Công hãy nói cho cháu biết phải thâm nhập mộ cổ như thế nào và cửa vào của nó ở đâu thôi ạ”, Vệ Tiên tha thiết nói. Anh ta đã bị thôi thúc tới mức phải quyết tâm thám hiểm ngôi mộ cổ này.
Ông lão Vệ Bất Hồi thoáng chút ngạc nhiên, nói: “Thâm nhập như thế nào ư? Ha ha, ngay cả điều ấy mà cháu không nghĩ ra thì làm gì có tư cách vào trong mộ cổ đó chứ!”
Nhìn biểu hiện của ông lão Vệ Bất Hồi thì hình như chúng tôi vừa hỏi một câu thật ngu ngốc.
Ra khỏi tòa nhà ba tầng trung tâm, đầu óc tôi luôn bị ám ảnh bởi biểu hiện cuối cùng của ông lão Vệ Bất Hồi.
“Này, anh thử nói xem, những lời cuối cùng của ông lão Vệ Bất Hồi muốn ám chỉ điều gì nhỉ?”, tôi hỏi anh chàng Vệ Tiên đi ngay bên cạnh.
“Á, là ý gì, ý gì cơ?”
Tôi nhìn Vệ Tiên, anh ta đang thẫn thờ.
Trước khi đi, anh ta tràn trề hi vọng, nào ngờ chẳng những không có thêm nhiều manh mối mà còn bị chê bai thẳng thừng “đừng tiếp tục làm cái nghề này nữa” nên giờ đây, trong lòng anh ta chắc hẳn lẫn lộn nhiều cảm xúc chua cay, đắng chát, mặn ngọt, vì thế không mấy để tâm tới lời nói và biểu hiện cuối cùng của ông lão Vệ Bất Hồi.
“Ý tôi muốn nói là hình như bác Vệ Bất Hồi hơi ngạc nhiên khi thấy chúng ta không tìm được lối vào ngôi mộ cổ”.
“Điều đó thì có gì lạ đâu, có lẽ chuyện này với Thúc Công tôi thì dễ như bỡn, nhưng có phải tất cả mọi người đều cảm thấy đơn giản như thế đâu, Thúc Công tôi là ai cơ chứ!”
Tôi cau mày: “Không phải thế đâu, tôi luôn cảm giác có điều gì đó không ổn”.
Bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy, dưới lòng đất của vườn hoa Sạp Bắc không thể có đường hầm, có lẽ do bọn tôi đọc tiểu thuyết nhiều quá nên bị bản năng đánh lừa khi trông thấy tượng đài Tôn Quyền và cái cây đại thụ đó. Thực ra, khi đầu óc minh mẫn và ngẫm nghĩ kĩ một chút, chúng tôi sẽ suy đoán được đường hầm không thể kéo dài tới tận vườn hoa Sạp Bắc, không chỉ vì lượng công trình đồ sộ mà xét từ manh mối bác Chung Thư Đồng đã tận mắt trông thấy lượng đất đào được từ “khu ba tầng” được những công nhân dùng tay đẩy xe đẩy vận chuyển tới ao Khâu Gia, vậy thì làm sao người ta có thể đào một đường hầm khác cơ chứ?
Thình lình, tôi không đi tiếp nữa. Anh chàng Vệ Tiên thần hồn thơ thẩn đi xa khỏi tôi thêm vài bước nữa mới nhận ra biểu hiện lạ lùng của tôi.
“Na Đa, anh làm sao thế?”
“Anh tỉnh táo lại chút đi, đừng quá buồn nản vì lời nói của ông lão Vệ Bất Hồi nữa. Tôi nghĩ, tôi đã biết lối vào ngôi mộ cổ nằm ở đâu rồi”, tôi nói với anh ta.
Chỉ với vài ba lần nhấc lên nhấc xuống một tấm kim loại hình thù kỳ dị, Vệ Tiên đã dễ dàng mở được cánh cửa sắt của gian phòng ngầm.
“Anh vẫn còn nhớ tình huống mà bác Chung Thư Đồng gặp phải vào buổi sớm hôm ấy khi vội vã ra ga xe lửa chứ?”
“Ừ, anh có viết việc đó vào trong cuốn Sổ tay công tác”, Vệ Tiên đóng cánh cửa lại và cả hai chúng tôi bị khóa chặt trong bóng tối sau một tiếng “bâng”.
“Bây giờ ngẫm lại tôi mới thấy lạ là tại sao mình lại bỏ qua một manh mối rõ ràng như thế, khà khà, mà ngay cả anh cũng bỏ qua nó.”
Vệ Tiên không đáp lời tôi, anh ta lấy ra một chiếc đèn pin được chế tạo đặc biệt và bật nó lên. Một luồng ánh sáng chói gắt tỏa ra từ chiếc đèn, nhưng nó không hề phát huy tác dụng giữa khoảng không gian đen như mực, mà ngược lại, càng khiến bốn bề xung quanh trở nên thâm u hơn.
Vệ Tiên điều chỉnh lại chiếc đèn pin, góc độ của tấm kính quang học có chút thay đổi, luồng ánh sáng tỏa rộng hơn hẳn. Xem ra chiếc đèn pin này là một trợ thủ đắc lực của Vệ Tiên trên đường hành tẩu lăng mộ người chết nằm sâu dưới lòng đất.
“Bây giờ thì anh đã nghĩ ra rồi chứ. Năm đó, bác Chung Thư Đồng nhìn thấy rất nhiều xe đất được chở ra khỏi một tòa nhà ba tầng, nói cách khác thì khi đó, ở tòa nhà ba tầng này có một lối vào đường hầm. Hiện nay, tòa nhà ba tầng đó đã bị dỡ bỏ, dù nó hãy còn tồn tại cũng vô tác dụng, vì sau khi công trình hoàn thành được già nửa, lối ra chỉ để vận chuyển xe chở đất đã bị lấp lại. Nhưng tòa nhà ba tầng trung tâm mà bốn anh em nhà họ Tôn năm xưa từng sống thì rất có thể vẫn còn giữ một lối vào, mà nếu lối vào đó có thật, nó phải nằm ở gian phòng ngầm của ông Tiền Lục.”
Nhờ ánh sáng của chiếc đèn pin, Vệ Tiên tìm thấy mấy cơ quan ngầm, nhưng chúng đều không có phản ứng.
“Khỉ thật, căn phòng cũ rích không thể tự ngắt nguồn điện được, lẽ nào ngày thường ông lão Tiền Lục dở dại dở điên trung thành giữ cửa cho chủ suốt sáu, bảy mươi năm không sử dụng đèn?”
Tôi nhớ lại tình cảnh lần trước tới thăm ông lão, xem chừng nhiều khả năng là thế.
Một ông lão sống trong bóng tối, chỉ vừa tưởng tượng tới cuộc sống âm u của ông lão, tôi đã thấy hơi thở của mình nặng nề thêm mấy lần rồi.
Gian phòng ngầm chỉ rộng chừng hai mươi mét vuông, tuy không rộng lắm nhưng việc tìm kiếm một đường hầm chưa hẳn có thật cũng trở nên vô cùng khó khăn nếu chỉ nhờ vào ánh sáng của đèn pin.
Tôi không rành về lĩnh vực này lắm nhưng anh chàng Vệ Tiên thì khá chuyên nghiệp. Động tác linh hoạt của anh ta nói lên điều đó. Tôi đứng ở cạnh giường, quan sát luồng ánh sáng chầm chậm chuyển động tỏa ra từ chiếc đèn pin. Anh chàng Vệ Tiên lúc sờ, lúc gõ vào những chỗ được chiếu sáng, động tác thành thạo. Không có vật nào bị xoay lật.
“Ắt có một ngày sẽ chôn thây trong mộ của người ta đấy”, trí não của tôi lại hiện lên câu nói cả quyết của ông lão Vệ Bất Hồi.
Tôi vịn tay dọc theo chiếc giường. Trên chiếc giường này hôm qua nằm chỏng chơ một thi thể cứng lạnh. Trước khi chủ nhân của thi thể ấy ra ma, ông ta đã từng cảm khái thốt lên “Ra quân chưa thắng thân mất trước – Mãi để anh hùng tay áo ướt”. Giờ này ngẫm lại, tôi mới thấy lời cảm thán ấy phần nhiều ám chỉ nỗi xót xa cho cái chết dưới lòng đất của bốn anh em nhà họ Tôn.
“Anh đi đi, đến chỗ đó, đi đi”, bên tai tôi dường như văng vẳng giọng nói khản đặc của ông lão Tiền Lục âm thầm vang vọng trong bóng tối.
Tình cảnh lúc đó tôi vẫn còn nhớ, cánh tay ông ấy vẫy vẫy về phía tôi.
Có phải ông ấy muốn chỉ cho tôi lối vào gian phòng ngầm?
Tôi nằm vật xuống giường, dát giường trơ cứng. Tôi nhớ lại động tác của ông lão Tiền Lục ngày hôm đó cũng nằm ở vị trí giống như tôi bây giờ. Hôm đó, khi tôi bước vào và đẩy cánh cửa, gian phòng le lói chút ánh sáng từ bên ngoài lọt vào, giúp tôi trông thấy lờ mờ cái hình hài đen thui của ông lão.
“Na Đa, anh đang làm gì thế?”, nghe thấy âm thanh vang lên, Vệ Tiên quay đầu lại, chiếc đèn pin trong tay anh ra rọi thẳng vào cánh tay đang huơ lên của tôi.
Tôi ngồi dậy, chỉ tay về phía khoảng không gian chênh chếch phía đối diện.
“Anh nhìn đằng kia xem, có thể là ở chỗ đó đấy!”
Ánh sáng của chiếc đèn pin chuyển hướng chiếu sang góc phòng phía tay tôi chỉ, bên đó là một chiếc tủ sách.
“Chắc chắn là không ổn rồi, ở đây không có đèn, ông ta đọc sách kiểu gì?”
“Lại đây giúp tôi một tay”, Vệ Tiên vẫy tôi.
Tủ sách nặng trịch bị chúng tôi xê dịch.
Vệ Tiên gõ gõ lên tường mấy cái.
“Lạ thật, bên trong đặc”.
“Thật không?”, tôi giơ cánh tay rờ rẫm trên tường, cảm thấy đất dưới chân đột nhiên trở nên không bằng phẳng.
Tôi giậm mạnh hai bước.
“Là khoảng không đấy!”, tôi và Vệ Tiên đồng thanh kêu lên.
“Quả nhiên là ở đây”, tôi lại cố sức giậm thêm mấy cái nữa, rồi bàn chân bỗng trở nên mềm nhũn, cả người tôi thụt mạnh xuống dưới cùng với âm thanh của đồ vật bị nứt vỡ.
Tôi “á” lên một tiếng kinh hoàng, bàn tay phải đang vùng vẫy nắm chặt lấy bàn chân của Vệ Tiên, hai chân treo lơ lửng, tôi hãi hùng không biết cái động bất ngờ xuất hiện này sâu bao nhiêu.
Chân trái của Vệ Tiên giật lùi một bước, anh ta ngồi xổm xuống tóm lấy bàn tay tôi.
“Anh thả lỏng chân tôi ra, nền đất chỗ tôi đứng cũng không chắc chắn lắm đâu, đừng để cả hai cùng rơi xuống, nắm chặt lấy tay tôi”.
Vệ Tiên hết tóm lại kéo, cuối cùng cũng lôi được tôi lên mặt đất. Chiếc đèn pin trong tay anh ta rơi xuống cái động đen ngòm. Tôi vẫn chưa thể gọi hồn vía trở về ngay được.
Lối vào này hẳn đã bị ông lão Tiền Lục đóng lại và chặn một tủ sách nặng trịch lên trên trong nhiều năm nên nó đã bắt đầu lõm xuống. Bởi thế, khi tôi giậm mạnh mấy cái, lớp đất bùn không chống đỡ nổi làm tôi thụt xuống dưới.
Đứng trên cửa động nhìn xuống dưới, tôi mới nhận ra, ban nãy nếu không tóm được chân của Vệ Tiên, tôi cũng không đến nỗi nguy hiểm vì cái động này chỉ sâu khoảng hơn hai mét, chưa đến ba mét.
Vệ Tiên vỗ vỗ vào vai tôi, nói: “Đi thôi, biết lối vào ở đây là được rồi. Hôm khác chúng ta lại tới, tôi phải chuẩn bị một số thứ. Mà anh không nhận ra là không khí ở đây hơi ngột ngạt sao?”
Tôi gật đầu, cùng Vệ Tiên bước mau ra khỏi gian phòng ngầm. Tôi có cảm giác, không khí ở đây có phần bức bối khó chịu, cũng may là mới chỉ qua sáu, bảy mươi năm nên bầu không khí bên trong không đến nỗi trở thành một luồng khí độc, giết hại tính mệnh con người.
Chiếc cửa sắt được khóa lại nhữ cũ, nhưng chìa khóa để gỡ mớ bòng bong của sáu, bảy mươi năm về trước thì chúng tôi đã nắm trong tay.
Mấy ngày sau đó, Vệ Tiên không hề liên lạc với tôi.
Những ngày sau đó, tôi không thể tập trung vào những cuộc phỏng vấn. Tôi chỉ loắng ngoắng viết bài cho xong. Mỗi khi chuông điện thoại kêu lên, tôi lại hấp tấp nhìn những con số hiện lên trên màn hình. Lòng đất mà tôi chưa từng biết đó rốt cuộc ẩn chứa điều gì?
Cuối cùng, tôi cũng nhận được điện thoại của Vệ Tiên vào năm ngày sau đó.
Anh ta đã chuẩn bị xong xuôi.
Thứ ba, ngày 22 tháng 6.
Tôi gọi điện thoại tới tòa soạn, báo rằng mình bị trật khớp chân, phải tới bệnh viện khám, nếu tình trạng tốt, buổi chiều tôi có thể đến tòa soạn. Nói cách khác là tôi đang kiếm cho mình một cái cớ để không tới tòa soạn. Không bị giam ở căn hầm đó vài ngày thì chắc cũng không sao.
Đương nhiên, vấn đề không phải là có thể bị giam ở đó vài ngày hay không, mà là có ra khỏi đó được hay không.
9 rưỡi sáng, tôi và anh chàng Vệ Tiên khệ nệ xách hai chiếc ba lô du lịch to oạch gặp nhau trên đường Phổ Tề, nơi cách tòa nhà ba tầng trung tâm không xa lắm.
“Cái này là của anh”, Vệ Tiên đưa một chiếc ba lô cho tôi.
“Đợi lát nữa hẵng xem”, Vệ Tiên vội cản khi thấy tôi khom lưng định mở khóa.
Chúng tôi chờ thêm mấy phút, chọn lúc không có người qua lại, lẻn nhanh vào cửa lớn của “khu ba tầng”. Nếu có người trông thấy hai chúng tôi ôm hai chiếc ba lô đại tướng đi vào gian phòng ngầm, chúng tôi sẽ khó lòng mà giải thích rõ với người ta cho quang minh.
Chúng tôi mở cánh cửa sắt, đặt hai chiếc ba lô du lịch vào trong, rồi quay trở ra bên ngoài, đứng dưới ánh sáng mặt trời. Cửa vẫn để ngỏ.
Trước tiên, phải khử hết luồng khí u uất bên trong cái đã.
Người dân trong “khu ba tầng” sẽ không để ý đến cánh cửa sắt của gian phòng ngầm lúc nào cũng mờ mờ tối tối bị để ngỏ. Muốn biết họ phải đi xuống dưới cầu thang, bước tới trước cánh cửa và quan sát.
“Phải đợi bao lâu?”, tôi hỏi Vệ Tiên.
“Khoảng tàn hai điếu thuốc để không khí ở lối ra trong lành hơn”, Vệ Tiên lấy ra bao thuốc, tôi rút một điếu và châm lửa.
“Tôi thấy đường hầm bên trong không nhỏ đâu, khử khí độc bằng cách này liệu ổn chứ? Tôi đọc xem phim tài liệu nước ngoài thì thấy, muốn làm không khí nơi này trở nên trong lành phải bật quạt thông gió trong một thời gian nhất định”.
“Không cần tới thứ đó, tôi đã chuẩn bị một bộ quần áo đầy đủ, có cả bình oxy nữa”, gương mặt Vệ Tiên thoáng hiện lên nụ cười.
Cánh cửa sắt lại bị đóng kín.
Chương 13
Hai chúng tôi đứng trước miệng hố – nơi tôi từng bị thụt xuống. Vệ Tiên cầm đèn pin soi xuống bên dưới mấy lần, rồi lấy từ trong chiếc ba lô du lịch ra một chiếc búa thép đầu nhọn, gõ xuống miệng hố mấy cái, làm miệng hố rộng gấp đôi lúc trước.
Cái nắp ông lão Tiền Lục làm để chặn trước miệng hố đã bị phá vỡ hoàn toàn. Giờ đây, chúng tôi có thể nhìn thấy một cái hố hình tròn, đường kính chừng hơn một mét hiện ra dưới ánh sáng của chiếc đèn pin. Trên bức tường phía dưới hố có gắn một chiếc cầu thang sắt đã hoen gỉ.
“Chúng ta mặc quần áo vào rồi hãy xuống dưới”, vừa nói Vệ Tiên vừa lấy từ trong ba lô một bộ quần áo.
“Là quần áo phòng hóa chất à?”, tôi mắt chữ O mồm chữ A nhìn anh chàng Vệ Tiên đang lúi húi mặc quần áo.
“Không, là quần áo du hành vũ trụ đấy”, chiếc mũ chụp đầu trong suốt của anh ta làm đứt đoạn luồng ánh sáng phát ra từ chiếc đèn pin.
“Bộ quần áo này có thể ngăn không cho khí độc xâm hại cơ thể, bình oxy đeo trên lưng có chứa khí oxy nén dùng được trong bốn tiếng, nguồn năng lượng trong bình đảm bảo cho nó có thể thay mới khí oxy trong vòng bốn mươi tám tiếng, còn nữa, bộ quần áo này là quần áo chống đạn đấy, nó sẽ bảo vệ chúng ta khỏi mấy mũi tên bắn ra từ bên trong mộ cổ nếu trong đó có bẫy ngầm. Thôi nào, đừng đờ người ra thế chứ, mau mặc quần áo vào đi!”.
Quần áo chống đạn? Lại còn cả bình oxy có thể thay mới khí oxy trong vòng bốn mươi tám tiếng? Tôi không thể không thán phục sự thần thông quảng đại của Vệ Tiên, những trang bị vừa kể trên không phải người bình thường nào cũng được trông thấy.
“Ồ, thế ra hai hôm nay anh bận mải chuẩn bị những thứ này à? Một bộ quần áo như thế này chắc phải có giá trên trời đấy nhỉ!”
“Giá cũng bình thường thôi nhưng đồ thì ít quá, tôi vốn có một bộ cho riêng mình, còn một bộ nữa phải mượn của người khác, hi vọng nó sẽ vừa với anh”.
Giá cũng thường thôi ư? Tôi không tin điều đó! Có lẽ do tiêu chuẩn đánh giá về tiền bạc của tôi và anh ta không giống nhau.
Mặc bộ quần áo này lên người thật không dễ chút nào, tôi cũng xoay sở xong nhờ sự giúp đỡ của Vệ Tiên. Những chiếc cúc được đóng chặt, cảm giác không khó chịu lắm, chỉ trừ chiếc bình oxy đeo trên lưng là hơi nặng. Tôi vẫn có thể nghe rõ tiếng của Vệ Tiên.
Một tay cầm chiếc đèn pin được chế tạo một cách đặc biệt mà Vệ Tiên đưa cho tôi, một tay ôm chiếc túi nhỏ tôi mang theo trước khi đi, bên trong có đồ nghề vô cùng quan trọng của tôi: chiếc máy ảnh kĩ thuật số. Tôi bước ngay sau Vệ Tiên, từ từ bước xuống dũng đạo[1] bên dưới theo chiếc cầu thang sắt.
[1] Dũng đạo: đường dẫn vào sân hoặc nghĩa trang, ở đây nghĩa là đường đi trong mộ cổ.
Bộ quần áo ôm sát cơ thể, nên hành động không đến nỗi bất tiện. Bộ quần áo này quả nhiên là một thứ trang bị hoàn hảo. Chiếc bình oxy đeo sau lưng cũng không bị lộ ra bên ngoài, mà được kẹp giữa bộ quần áo, như thế nó sẽ được bảo vệ bằng chất liệu đặc biệt của bộ quần áo, không dễ bị xây xước hay va đập.
Hành lang thấp và nhỏ hẹp, tôi chỉ có thể khom lưng bước đi theo sau anh chàng Vệ Tiên. Dũng đạo chỉ cao chừng một mét sáu, lúc đầu do không cẩn thận, chiếc mũ chụp đầu của tôi bị cụng phải trần nhà, làm tôi sợ mất mật, ngộ nhỡ nó hỏng, tôi lấy tiền đâu mà đền.
Hai chúng tôi chưa đi được bao lâu, thì ánh sáng của chiếc đèn pin trong tay rọi tới một chiếc khay sắt nhỏ thò ra khỏi vách tường.
“Nó là cái gì thế?”, tôi hỏi.
Vệ Tiên dừng chân, lấy từ trong ba lô ra một cái chai lớn, đổ thứ gì đó vào bên trong khay sắt.
“Là đèn dầu đấy”, Vệ Tiên nói, rồi lấy trong túi ra một sợi bấc đèn và đặt vào bên trong.
Tôi nhìn anh ta châm đèn, thoáng chút ngạc nhiên.
“Anh mang cả những thứ này theo ư?”
“Thực ra, trong các ngôi mộ cổ lớn thường có những chiếc đèn kiểu này, nếu chưa bị đột nhập thì bên trong tất có những chiếc đèn chưa được sử dụng, nhưng ngôi mộ cổ này từng chứng kiến sự xâm phạm của bốn anh em nhà họ Tôn nên tôi đoán những chiếc đèn đã được dùng, bèn mang theo một ít dầu và bấc, không ngờ nó lại hữu dụng trong cái dũng đạo này”. Khi Vệ Tiên nói tới mấy chữ “không ngờ”, giọng điệu của anh ta có phần huênh hoang.
Anh ta suy nghĩ rất thấu đáo hoặc anh ta muốn chứng tỏ lời phỏng đoán của ông lão Vệ Bất Hồi là hoàn toàn sai lầm theo cách này.
Hai chúng tôi tiếp tục tiến lên phía trước, cứ cách chừng mười mấy, hai mươi mét lại có một chiếc đèn dầu, con đường quay về trở nên sáng rõ hơn nhiều so với con đường trước mặt được rọi sáng bằng ánh đèn pin mà chúng tôi sắp sửa đi tới.
Chúng tôi đi tiếp, chẳng mấy chốc đã trông thấy ngã rẽ đầu tiên.
“Đi lối nào bây giờ?”, tôi hỏi.
“Đi lối nào cũng được, nhưng tốt nhất là hai chúng ta đừng nên tách nhau”.
“Tại sao lại có đường nhánh nhỉ?”
“Tôi nghĩ chắc là do bốn anh em nhà họ Tôn không biết vị trí chính xác của ngôi mộ cổ này. Anh có nhận ra trên tường và dưới mặt đất của dũng đạo chúng ta vừa đi có một số cái lỗ nhỏ và sâu không?”
Tôi nhớ lại: “Hình như tôi có nhìn thấy một cái”.
“Những cái lỗ đó được đào bằng xẻng Lạc Dương, có lẽ là do Tứ Thúc Công tôi đào để xác định vị trí ngôi mộ cổ. Nhưng nếu ngôi mộ cổ nằm cách quá xa cái lỗ mấy con đường, sau đó kết hợp với xẻng Lạc Dương để xác định vị trí”.
Vệ Tiên đột nhiên dừng bước.
“Sao thế?”, tôi hơi căng thẳng, vẫn không có chỗ nào kì dị hiện lên dưới ánh sáng của chiếc đèn pin trong tay tôi.
“Ha ha, chúng ta gặp may rồi đây”, Vệ Tiên cười nói.
“Chúng ta đi đúng đường à? Làm sao anh biết được?”
“Không, chúng ta đi sai đường, phải quay trở ra thôi”, Vệ Tiên xoay người lại, “nhưng tôi đã tỏ cách nhận biết đường đi rồi”.
“Anh không phát hiện thấy con đường này có gì không ổn à?”
Tôi cẩn thận soi đèn pin, chẳng có gì khác lạ cả, nó vẫn thấp và mấp mô như con đường ban nãy.
“Na Đa, tôi thấy anh hơi căng thẳng đấy, lẽ ra, anh phải phát hiện ra chứ. Không phải là chúng ta tới thám hiểm mộ người chết sao, thoải mái chút đi, khà khà, lát nữa còn có cả bộ xương của anh em nhà họ Tôn nữa cơ mà”.
Tôi cười mỉa mai. Tôi không thể phủ nhận, từ lúc bước vào ngôi mộ cổ, Vệ Tiên đã lấy lại được phong độ ngày thường, không còn thấy nét muộn phiền vì sự đả kích mà ông lão Vệ Bất Hồi mang lại; còn tôi thì trái ngược hẳn, từ lúc cánh cửa sắt gian phòng ngầm đóng sập lại phía sau lưng, tôi đã bắt đầu thấy căng thẳng, tới khi bước vào trong dũng đạo này, tôi không thể ngăn trí não mình nhớ lại cái lần suýt chút nữa không thể ra khỏi dũng đạo trong hang người năm đó, bởi thế, tôi nắm thật chặt chiếc đèn pin, chỉ sợ có vật gì bất chợt nhảy xổ ra từ một nơi nào đó.
“Đâu được như các hạ đào mộ người chết đã nhiều, bản lĩnh kiên cường như thép gang, tiểu sinh đây sợ hãi lắm lắm!”, tôi tự giễu cợt mình, cũng là để dịu bớt nỗi phập phồng trong tim. Tôi vốn không phải là một người để ý nhiều tới chuyện sống chết nên mới bạo gan tham dự vào hành động mong manh giữa sự sống và cái chết này, nhưng nỗi âu lo về những điều chưa biết thì người thường ai chẳng có, tôi chỉ khác người bình thường ở một điểm, ấy là tôi vừa sợ vừa tò mò trước những điều chưa biết.
Tôi soi kĩ khắp xung quanh một lần nữa và chợt hiểu.
“Không có đèn dầu”.
“Đúng thế”, Vệ Tiên bật tách ngón tay cái, “xem ra thì những người công nhân khi đào cái động này đã sử dụng loại đèn thợ mỏ mang theo bên người, đèn dầu trên tường được gắn vào sau khi đào xong động và chỉ gắn trên con đường dẫn vào mộ cổ, vừa để chiếu sáng vừa tránh nhầm đường”.
Chúng tôi quay người bước trở ra. Lần này thì tôi đi trước, Vệ Tiên theo sau. Chúng tôi đi theo một con đường khác không lâu, quả nhiên lại nhìn thấy đèn dầu.
Kể từ lúc đó, mỗi khi tới một ngã rẽ, tôi lại rọi đèn pin trước quan sát xem con đường nào có khay sắt đựng đèn dầu, sau đó mới chọn con đường chính xác. Ở đây không giống như trên mặt đất, mỗi bước đi hết khom người lại vặn mình, eo lưng tôi mỏi nhừ, tê nhức. Tôi và Vệ Tiên đã đi qua bảy, tám ngã rẽ, dũng đạo ngầm dưới mặt đất này lớn thật.
Nó thoải dần xuống dưới, chứng tỏ chúng tôi có lẽ đã đi đúng đường.
Chất liệu của bộ quần áo tôi mặc trên người khá thoáng mát, nhưng do thời tiết quá nóng nực, lại thêm không khí trong dũng đạo không được lưu thông nên lưng tôi đã ướt đẫm từ lâu, những cúc áo trên người đều đóng chặt cả, không thể lấy tay lau mồ hôi, bởi thế, cảm giác khó chịu của tôi lên đến cực điểm.
Chúng tôi lại đi qua một ngã rẽ nữa. Vệ Tiên thắp thêm một chiếc đèn. Đi thêm mấy bước nữa, tôi thảng thốt đứng khựng lại.
“Tại sao lại là đường cụt thế nhỉ?” Luồng ánh sáng thẳng tắp của chiếc đèn pin không rọi tới dũng đạo mờ tối, sâu hun hút, mà chiếu trên một bức tường đất lổn nhổn, rõ ràng, dũng đạo chỉ đào tới đây, không tiếp tục đào xuống sâu thêm nữa.
“Không thể như thế chứ?”, Vệ Tiên lách người, len qua tôi, tiến lên trước.
“Quỷ tha ma bắt, tại sao lại thế… á, tôi đoán ra rồi”. Vệ Tiên rướn thẳng lưng, chiếc mũ chụp đầu cụng phải trần nhà phía trên hành lang.
Tôi thò đầu ra xem, trông thấy chiếc đèn pin trong tay Vệ Tiên không chiếu thẳng hướng phía trước mặt, mà rọi tới một điểm nằm hơi chếch về phía trước, ở cách chỗ chúng tôi không xa.
Ở đó có một cái động.
Tim tôi đập dồn dập hơn.
Chúng tôi bước lên phía trước, có cầu thang đất dẫn xuống phía dưới.
“Tôi xuống trước, anh theo sát ngay sau nhé!”, Vệ Tiên nói bằng một giọng trầm trầm rồi dẫn đầu nhảy trên các bậc thang đất.
Đi xuống phía dưới chừng năm, sáu mét, chúng tôi tới một gian dũng thất[2] khác. Gian dũng thất này có lẽ cũng do bốn anh em nhà họ Tôn đào, rộng gần mười mét vuông, cũng thấp lè tè như dũng đạo ở phía trên.
[2] Dũng thất: khoảnh đất dẫn vào các lối đi trong mộ cổ.
Bên trong gian dũng thất có một phiến đá cực lớn đã bị dịch chuyển, đúng ra, nó không phải là một phiến đá mà là một tảng đá bằng phẳng, to bằng nửa gian dũng thất, dày khoảng hơn bảy cen ti mét, không biết nặng mấy tấn.
Con đường dẫn xuống dưới vốn bị tảng đá bằng phẳng này chặn lối giờ đã hiện ra trước mắt chúng tôi.
Đó là một con đường được tạo bởi những bậc thềm làm bằng đá đen lớn, được mài nhẵn thín, dẫn tới một nơi tối như hũ nút mà chúng tôi chưa hề biết.
“Xuống thôi!”, anh chàng Vệ Tiên lên tiếng thúc giục sau một hồi đứng trên cửa động rọi đèn pin xuống phía dưới quan sát.
Lúc này, ngay cả tiếng nói của anh ta cũng rè rè bên tai tôi.
Chúng tôi từ từ đi xuống phía dưới theo từng bậc đá, hai luồn ánh sáng phát ra từ hai chiếc đèn pin đan chéo vào nhau thăm dò con đường phía trước. Không giống với dũng đạo nhỏ hẹp lúc trước, dũng đạo chúng tôi đang đi là một khoảng không gian thoáng rộng vô cùng.
Chỉ ngay cái cầu thang bằng đá này cũng có đến hơn ba mươi bậc, càng đi càng rộng, tới bậc cuối cùng có một con đường rộng chừng hơn ba mươi mét nằm giữa những bức tường thâm nghiêm.
Không gian ở đây lớn đến nỗi hai chiếc đèn pin của chúng tôi chừng như không thể phát huy tác dụng. Vệ Tiên ra hiệu cho tôi đừng vội tiến lên phía trước, anh ta đứng ở bậc thang cuối cùng của chiếc cầu thang đá, chậm rãi lia chiếc đèn pin soi sáng khắp mọi ngóc ngách.
Chỗ này cách nơi bốn anh em nhà họ Tôn vùi thây không xa nên chúng tôi không thể sơ suất được.
Dự cảm của Đại sư Viên Thông về mối hung hiểm dưới lòng đất khó lòng nói rõ năm đó nằm ở đây.
Một cảm giác kì lạ, rờn rợn cồn lên trong bóng tối lại có một sức mạnh phi thường khiến một vị đại sư tu trì cao thâm mất đi Phật pháp và vào giây phút này đây, chúng tôi đang đứng ở nơi đó, nghĩ thế, lòng tôi không khỏi bàng hoàng. Đương nhiên, có cả muốn làm rõ tất cả.
Vệ Tiên vẫn đứng trên bậc đá cuối cùng, anh ta không tiếp tục tiến lên phía trước nữa mà rọi chiếc đèn pin rồi dừng lại trên một bệ kim loại hình trụ tròn gần sát vách đá phía bên trái, hình như nó được làm bằng đồng.
“Tôi tới đó xem sao!”, Vệ Tiên nói.
“Nó là cái gì thế?”, tôi hỏi.
“Có lẽ là, tôi cũng không chắc chắn lắm, có lẽ là một thứ máy móc nào đó”, Vệ Tiên hơi ngập ngừng trong câu nói, có lẽ anh ta đã đoán ra nó.
“Cẩn thận đấy!”, tôi nhắc anh ta.
“Không sao, ở đây có lẽ không nguy hiểm đâu”.
Vệ Tiên thong dong bước tới đồ vật phía trước mặt, lấy từ trong ba lô ra một chiếc bật lửa cán dài được chế tác một cách đặc biệt.
“Phùng”, một ngọn lửa bùng lên trên một ngọn đèn chiếu sáng cỡ lớn. Tuy thế, nó vẫn không thể làm cả mộ đạo rực sáng.
Tôi cảm thấy hơi kì lạ vì không trông thấy Vệ Tiên đổ dầu hay đặt bấc vào trong, tại sao anh ta vừa châm lửa, nó đã cháy sáng ngay? Bốn anh em nhà họ Tôn không thể không thắp sáng đèn khi đặt chân tới đây.
Đúng vào lúc tôi đang định hỏi Vệ Tiên thì trông thấy anh ta vẫn đứng yên ở đó, chiếc đèn pin trong tay chiếu hắt lên tường trong mộ đạo, dưới ánh sáng lập lòe, tôi trông thấy một vật thò ra ngoài.
Một chuỗi âm thanh “phùng, phùng” gối nhau vang lên, không gian phía trước mặt bỗng trở nên sáng rõ.
Thì ra chiếc đèn được Vệ Tiên châm lên đầu tiên lại là một hệ thống có thể kích hoạt tất cả đèn trong mộ đạo.
“Ở đây có cả loại đèn liên hoàn vạn năm, chứng tỏ chủ nhân của ngôi mộ cổ này không phải là người tầm thường đâu”, Vệ Tiên nói khi bước lại phía tôi.
“Đèn liên hoàn vạn năm á?”
“Tất nhiên là không thể cháy đến một vạn năm được, nhưng có thể giữ lửa liên tục trong vài tháng, hơn nữa mỗi chiếc đèn đều có bộ phận nối liền với hệ thống nên chỉ cần châm lửa ở một chiếc đèn là có thể thắp sáng tất cả những chiếc còn lại. Hơn nữa, tôi nghĩ, ở đây chắc chắn có lắp bộ phận hẹn giờ đấy, những chiếc đèn chỉ cháy sáng trong một thời gian nhất định rồi tự tắt. Bởi thế, bốn anh em nhà họ Tôn tới đây một lần, mười lần hay trăm lần đi nữa cũng như nhau cả, vẫn có thể thắp sáng toàn bộ đèn trong mộ đạo”.
Chương 14
Nhưng lúc này, tôi không có tâm trạng để thán phục và ca ngợi chỗ tinh diệu của hệ thống này. Sau khi những chiếc đèn trong mộ đạo tỏa ra ánh sáng, tôi nhận ra, vật liệu xây mộ đạo là một loại khác hẳn những phiến đá đen lớn ở cầu thang đá. Chúng có màu sắc sặc sỡ, rõ ràng là đá cẩm thạch. Ánh lửa nhảy nhót phản chiếu trên nền đá khiến những hoa văn trên phiến đá trở nên ma quái.
Sau khi định thần lại, tôi bỗng nhìn thấy thi hài của Tôn Huy Tổ.
Mộ đạo dài thăm thẳm, theo ước lượng bằng mắt của tôi, nó dài khoảng hai trăm mét, phía tận cùng là một cổng vòm hình bán nguyệt. Thực ra, nên gọi nó là lối vào hình vòm, vì nó không có cửa. Đèn trong mộ đạo sáng trưng, nhưng bên trong lối vào hình vòm đó lại là một khoảng đen thẫm mịt mùng.
Trên mặt đất cách cửa mộ không xa có một người nằm sấp. Từ xa nhìn lại trông không rõ nhưng chắc chắn đó là một thi thể. Quần áo mặc trên người vẫn chưa vụn rữa.
Cứ theo lời kể của ông lão Vệ Bất Hồi thì người này chắc chắn là Tôn Lão Tam.
Đáng lẽ, trong tay ông ta vẫn ôm khư khư một cái đầu lâu, nhưng vì đứng xa quá nên tôi nhìn không rõ.
Mối nguy hiểm thật sự đang ở phía trước mặt.
Mặc dù bị chiếc mũ chụp đầu chắn tầm nhìn, song tôi vẫn nhận ra vẻ mặt nặng nề của Vệ Tiên. Anh ta lấy từ trong ba lô ra những đồ vật gì đó, rồi lắp ghép chúng lại với nhau một cách thuần thục, thành một chiếc gậy kim loại dài chừng ba mét. Sau đó, anh ta giơ lên một chiếc ống nhỏ xíu như chiếc ống nghe của các bác sĩ trong bệnh viện, để cách chiếc gậy kim loại không xa. Một đầu của chiếc ống có gắn giác mút, anh ta đặt giác mút lên trên chiếc mũ chụp đầu ở phía bên tai trái.
“Anh đi theo ngay sau tôi nhé, nhớ đừng đi đường khác đấy!”, Vệ Tiên dặn tôi.
Vệ Tiên cầm chiếc gậy kim loại gõ xuống đất ba lần, khoảng cách vị trí mỗi lần gõ cách nhau chừng một thước[3], rồi anh ta nhảy xuống bậc thang cuối cùng.
[3] Một thước bằng khoảng 33cm.
Tôi theo sát gót Vệ Tiên, lò dò tiến lên trước. Vệ Tiên cứ lần lượt gõ xuống đất ba nhịp theo một đường thẳng, sau đó dịch về phía trước một thước lại gõ ba nhịp, chúng tôi tiến về phía trước, từng thước, từng thước một. Cây gậy kim loại này bên trong rỗng ruột, âm thanh phát ra từ nó truyền đến tai Vệ Tiên thông tin nằm ẩn sâu dưới lòng đất. Dụng cụ chuyên nghiệp này có thể báo cho anh ta biết vị trí bẫy ngầm được chôn giấu.
“Ban nãy lúc đi xuống cầu thang đá sao anh không dùng tới nó, ngộ nhớ ở đó có chôn giấu bẫy ngầm, không phải chúng ta đã đi tong rồi à?”, tôi hỏi.
“Không thể nào”, Vệ Tiên trả lời gọn lỏn. Anh ta không giải thích gì thêm. Nhưng cái vẻ tự tin tràn đầy về tri thức chuyên môn của anh ta đã minh chứng cho lời quả quyết vừa rồi.
“Thực ra, trên mộ đạo này có lẽ cũng không có đâu, mối nguy hiểm chỉ thật sự bắt đầu khi chúng ta đặt chân vào cái cửa phía trước mặt kia thôi, có điều cẩn thận một chút vẫn hơn”.
Phải chăng thi thể đang nằm phía trước kia đã khiến anh ta trở nên thận trọng như vậy?
Chiếc gậy kim loại vẫn rung nhịp đều đều trên nền đá cẩm thạch.
“Boong, boong, boong”.
“Boong, boong, boong”.
“Boong, boong, boong”.
Chúng tôi tiến tới cửa mộ mỗi lúc một gần hơn.
Tuy Trung Quốc là nước có sản lượng đá cẩm thạch khá phong phú, nhưng vùng Thượng Hải không sản xuất loại đá này mà mua từ các vùng sản xuất lân cận, tuy thế quãng đường vận chuyển cũng phải lên tới hàng trăm cây số. Thời cổ đại không thể khai thác được nhiều đá cẩm thạch như bây giờ, bởi vậy quãng đường vận chuyển đá cẩm thạch xa xôi cả ngàn dặm ấy không thể khiến người ta kinh ngạc bằng quy mô của ngôi mộ cổ này.
Vì sao ngôi mộ cổ này lại được xây bằng đá cẩm thạch? Từ trước tới nay, tôi chưa bao giờ nghe nói có nhân vật nào đó dùng đá cẩm thạch để xây mộ cả.
“Vệ Tiên, trước đây anh đã từng vào ngôi mộ nào xây bằng đá cẩm thạch chưa?”
“Chưa”.
Vệ Tiên ngừng trong giây lát rồi lại tiếp tục: “Mà cũng chưa từng nghe nói có quy mô lớn nào như thế này dùng đá cẩm thạch cả”.
Tiếng gõ nhịp của chiếc gậy kim loại vẫn vang lên lanh lảnh, nhưng không gợi lên trong tôi một cảm xúc nào.
“Boong, boong, boong”.
“Boong, boong, boong”.
“Boong, boong, boong”.
Chúng tôi đang tiến tới gần, rất gần bộ xương đó.
Nói thực lòng, tôi biết mình không nên trò chuyện với Vệ Tiên.
Vì khi trò chuyện và trả lời những câu hỏi của tôi, khả năng tập trung lắng nghe của anh ta sẽ bị phân tán. Lúc này đây, anh ta đang mở căng thính giác để lắng nghe và nhận biết phía trước có hệ thống ngầm hay không. Từ lúc trả lời câu hỏi của tôi, chiếc gậy trên tay anh ta rõ ràng đã gõ nhịp chậm lại.
Nhưng tôi vẫn cứ hỏi.
Hỏi câu thứ nhất rồi lại hỏi câu thứ hai.
Bởi lẽ, càng tiến về phía trước tôi càng cảm thấy bồn chồn, dường như có một áp lực vô tận đang dồn nén trong bầu không khí xung quanh chúng tôi. Nó lọt qua bộ quần áo chống đạn kín như bưng, len thấm vào cơ thể tôi, làm tim tôi càng lúc càng đập gấp gáp hơn.
Tiếng gõ gậy nhịp nhàng của Vệ Tiên càng làm tôi thêm thấp thỏm.
Tôi chỉ còn mỗi cách phải trò chuyện với Vệ Tiên, phải làm rối loạn tiếng gõ gậy nhịp nhàng của anh ta để mong thứ áp lực lớn khủng khiếp đó dịu bớt.
“Vệ Tiên, anh thử nhìn tường hai bên mộ đạo xem, hình như có khắc thứ gì đó”, cuối cùng, tôi lại cất tiếng hỏi câu thứ ba.
Trên bức tường bằng đá cẩm thạch ở hai bên mộ đạo quả nhiên có chạm trổ những hình vẽ, là những đường vân nổi hoặc chìm. Vì trên mặt đá cẩm thạch cũng có những hình vẽ đan xen vào nhau, mà chúng tôi lại đang đi trên con đường nằm ở chính giữa hai bức tường, cách hai bức tường một khoảng nhất định nên nếu tôi không cố tình quan sát bốn phía để chuyển hướng sự chú ý của mình thì sẽ không phát hiện ra. Càng về phía trước, những hình vẽ càng nhiều.
“Tôi không biết, có thể chúng ẩn giấu một hàm ý nào đó, hoặc cũng có thể chỉ là để trang trí thôi. Anh làm sao thế Na Đa?”, rốt cuộc Vệ Tiên cũng nhận ra sự khác thường của tôi.
“Tôi cũng không biết nữa, chỉ cảm thấy vô cùng khó chịu thôi”. Đương nhiên, tôi không thể bắt anh ta ngừng gõ cây gậy xuống nền đá. Trông dáng vẻ của anh ta thì hình như anh ta không có cảm nhận giống tôi.
Lẽ nào nỗi bức bối trong lòng tôi bây giờ lại chính là cảm giác của ông lão Vệ Bất Hồi năm xưa?
Vệ Tiên không có trực giác và anh ta không tin vào trực giác.
Nhưng tôi có trực giác và tôi tin vào nó, vì nó đã từng cứu mạng tôi.
Cảm giác chẳng lành cứ nặng dần, nặng dần theo mỗi bước chân của tôi.
Vệ Tiên cau mày: “Anh phát hiện ra cái gì à?”
“Không, chỉ là cảm giác thôi”.
Sắc mặt của Vệ Tiên không được tốt, hình như anh ta đang nhớ lại lời của ông lão Vệ Bất Hồi.
“Ắt có một ngày sẽ chôn thây trong mộ của người ta đấy!”
Vệ Tiên không nói lời nào, tiếp tục gõ chiếc gậy xuống nền đá, tiếp tục tiến lên phía trước.
Tôi đành đi theo sau anh ta, cũng tiếp tục tiến lên phía trước. Tôi không thể quay trở ra một mình.
Mồ hôi thi nhau vã ra.
Lạnh toát.
Chúng tôi chỉ còn cách cửa mộ mấy chục mét.
Và cách cái thi thể đó chưa đến mười mét.
Cuối cùng, Vệ Tiên đã ngừng bước chân. Ở khoảng cách này, chúng tôi có thể trông rõ thi thể của Tôn Huy Tổ. Một bộ khung xương to lớn nằm sõng soài dưới lớp vải của quần áo, lấp lánh những lân quang li ti.
Bộ khung xương to lớn này chứng minh chủ nhân của nó lúc sinh thời là một người phải cao tới hơn hai mét, hai bàn tay duỗi thẳng về phía trước, chộp nắm trên mặt đất; bộ quần áo đỏ sậm trên người không biết đã thấm bao nhiêu máu. Hàng chục mũi tên han gỉ cắm ngẳm trên bộ xương, lởm chởm như những chiếc gai nhím; phía sau gáy có một vết thương nhưng không trông thấy mũi tên đâu nữa. Chỉ một điểm ấy cũng đủ để hình dung ra sự dũng mãnh phi thường của Tôn Huy Tổ trước khi ngừng hơi thở. Mũi tên rõ ràng đã găm vào sau đầu và nó đã bị Tôn Huy Tổ rút bật ra. Dẫu thế, ông ta vẫn không thể kéo dài thêm sự sống của mình.
Đôi bàn tay của Tôn Huy Tổ chỉ còn trơ lại những đốt xương trắng thếch, bàn tay phải vẫn cố giữ thật chặt một cái đầu lâu.
Một cái đầu lâu khiến mồ hôi lạnh túa ra đầm đìa trên người tôi.
Ngón trỏ và ngón giữa của Tôn Huy Tổ bập vào hai cái lỗ mà trước kia vốn là đôi con mắt của kẻ đã chết để giữ chặt cái đầu lâu trong tay. Phía trên hai hốc mắt của cái đầu lâu, ở chính giữa lông mày hướng lên trên một chút vẫn còn một cái lỗ tròn tròn, to hơn hai hốc mắt một vòng.
Cái lỗ tròn tròn ấy không phải là vết tích của sự tấn công bằng bằng một thứ vũ khí nào đó mà nó là một cái lỗ có đường viền bên ngoài trơn bóng, u tối và dữ dằn khủng khiếp.
Bởi thế, cho tới tận bây giờ, ông lão Vệ Bất Hồi vẫn còn hãi hùng khi nghĩ tới cái đầu lâu này, anh chàng Vệ Tiên run rẩy và tôi cũng thế.
Đó là vật gì?
Sao nó lại có thể là đầu lâu người?
Con mắt thứ ba ư?
Đứng trước cái vật quái dị không biết đã ra ma bao nhiêu năm, nỗi khiếp đảm trong lòng tôi cứ cồn lên mạnh mẽ, không sao khống chế nổi.
Tôi chưa bao giờ có cảm giác kinh hãi như lúc này, ngay cả khi đối diện với mãnh hổ, thậm chí là những con vật khổng lồ thời tiền sử chưa từng nhìn thấy hay những con quái vật ngoài hành tinh trong các bộ phim điện ảnh đi nữa. Vật hiển hiện trước mặt tôi rõ ràng là sọ đầu của người, nhưng nó lại có thêm một con mắt con con nữa. Hình như tôi có thể nhìn thấy con mắt đã rữa nát từ lâu ấy, nó lúc ẩn lúc hiện trong cái hốc mắt tròn tròn.
Cái sọ đầu lâu này có phải là sọ đầu lâu của chủ nhân ngôi mộ cổ này không? Chủ nhân ngôi mộ cổ này rốt cuộc là ai?
Tim tôi đập dồn dập, hơi thở gấp gáp đến nỗi không thể làm chậm lại được. Tôi chưa bao giờ gặp phải tình trạng này.
Tôi miễn cưỡng hướng ánh nhìn ra chỗ khác. Đột nhiên, tôi nhìn thấy bàn tay trái của Tôn Huy Tổ đang nắm một mảnh vải lớn.
Lá cờ ma? Đó chính là lá cờ ma ư? Dường như nó chỉ còn lại một nửa.
Còn một nửa nữa có lẽ vẫn ở trong ngôi mộ cổ u tối đằng kia.
Tôi đưa mắt về phía chiếc cổng vòm. Bốn phía xung quanh chiếc cổng vòm khắc chi chít những hình vẽ, hoặc có lẽ đó là những văn tự mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Những hình vẽ ở đây nhiều hơn những hình vẽ trên tường ở hai bên mộ đạo rất nhiều, tôi vẫn có thể nhìn rõ chúng dù đứng cách xa hơn hai mươi mét.
Vệ Tiên lại tiến lên phía trước, chiếc gậy trong tay rung nhè nhẹ. Nó lại gõ nhịp trên nền đá.
“Đừng, đừng…”, tôi định lên tiếng gọi Vệ Tiên nhưng không cất nổi thành lời.
Tim tôi như muốn nhảy ra ngoài, tôi cố sức gọi nhưng luồn hơi chỉ nghèn nghẹn di chuyển trong cổ họng, không sao thoát ra bên ngoài.
Tôi như đang rơi vào cơn ác mộng.
“Đừng đi”, cuối cùng tôi cũng phát ra tiếng. Khi nói tiếng “đừng”, luồng hơi chỉ thoáng qua, khẽ tới mức không thể nghe được; khi hét tiếng “đi”, tôi dồn trút tất cả sức lực của mình gào lên.
Vệ Tiên choáng váng. Anh ta ngoái đầu lại nhìn, thấy mặt tôi trắng bệch.
“Đừng đi tới đó, anh hãy tin tôi một lần, đừng đi tới đó”, những giọt mồ hôi vã ra trên trán chảy vào mắt tôi, khiến nó nhức xót.
Sắc mặt của Vệ Tiên trở nên khó coi: “Anh thật sự có cảm nhận nào đó à?”
“Một cảm giác vô cùng dữ dội, vô cùng nguy hiểm, chúng ta cần thêm người giúp đỡ, chỉ hai người chúng ta thôi không làm được đâu”, áp lực vô hình đè nặng lên tim khiến tôi thở hổn hển.
“Đó chỉ là tác động tâm lý thôi, chúng ta đã có bộ quần áo này bảo vệ rồi thì còn sợ gì nữa”, lúc này, tâm trạng Vệ Tiên cũng bị kích động, anh ta lấy tay gõ tung tung vào hai bên chiếc mũ chụp đầu.
“Không phải là tác động tâm lý đâu. Anh cũng biết tôi không phải là người chưa từng trải nghiệm điều gì, tôi nghĩ lúc này tôi cũng có cảm giác chẳng lành giống như ông lão Vệ Bất Hồi năm xưa”.
“Vứt mẹ cái trực giác của ông ấy đi”, Vệ Tiên đột ngột hét lên. Kể từ khi quen biết anh ta đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi thấy anh ta nổi khùng lên như thế.
Chương 15
“Vứt mẹ cái trực giác của ông ấy đi, muốn ra ngoài thì anh tự ra ngoài một mình”, Vệ Tiên sải từng bước lớn tiến về phía cửa mộ. Anh ta không dùng chiếc gậy kim loại để dò đường nữa, điềm nhiên bước qua thi thể của Tôn Huy Tổ và không hề dừng lại, tiến thẳng vào khoảng không tối đen như màn đêm ở bên trong cái cổng vòm phía trước mặt.
Tôi nhìn trân trân vào bóng dáng của anh ta, không nhúc nhích một bước. Tôi hét lên gọi anh ta quay lại. Nhưng dường như anh ta không nghe thấy.
Tất cả đều diễn ra giống như năm xưa, chỉ có điều ông lão Vệ Bất Hồi và Tiền Lục ngày ấy là tôi bây giờ và bốn anh em nhà họ Tôn là Vệ Tiên.
Kết quả sẽ ra sao, liệu có giống như năm xưa?
Vệ Tiên đã thôi không bước tiếp nữa.
Vệ Tiên đứng trước cửa mộ và dừng lại ngay khi chỉ còn một bước chân nữa là tiến vào bên trong.
Anh ta đứng quay lưng lại với tôi một lúc, tôi trông thấy đôi vai nhô lên gấp gáp của anh ta từ từ xuôi xuống.
Rốt cuộc, anh ta cũng kiềm chế được bản thân ở vào thời khắc cuối cùng.
Vệ Tiên cứ đứng như thế một hồi lâu, rồi anh ta quay người lại.
“Thật khó mà tưởng tượng là tôi lại có những lúc mất khả năng tự điều khiển bản thân như thế này, nếu tôi luôn ở tình trạng này, e rằng ắt có một ngày chôn thây trong mộ người ta thật”, trong lúc nói chuyện, Vệ Tiên đã lấy lại được vẻ mặt bình thường.
“Anh nói đúng. Nếu anh đã có cảm giác đó mà tôi cứ xông vào thế này thì liều lĩnh quá, nhưng chúng ta không thể đi một chuyến uổng công vô ích được”, gương mặt của Vệ Tiên nở một nụ cười.
Tôi trông thấy đôi tay anh ta vẫn còn hơi run run.
Anh ta bước tới bên cạnh bộ xương tàn của Tôn Huy Tổ rồi ngồi xổm xuống.
“Anh thật sự không dám bước tới đây à?”, Vệ Tiên ngẩng đầu lên nói với tôi.
Tôi cố nở nụ cười. Tình trạng của tôi đã khá hơn ban nãy, nhưng khi tôi vừa thử tiến lên phía trước một bước nhỏ, tim tôi lại đập thình thịch trong lồng ngực.
Bàn tay của Vệ Tiên đang lần mò bên trong bộ quần áo rách nát của Tôn Huy Tổ. Anh ta tiếp xúc với xương người chết như cơm bữa và việc ấy vẫn chưa gây ra cho anh ta một tác dụng phụ nào.
Tôi lấy chiếc máy ảnh kĩ thuật số ra khỏi ba lô, lắp đèn chớp, điều chỉnh về chế độ bóng tối và bắt đầu chụp lại quang cảnh xung quanh.
Tôi phải cố gắng lấy được nhiều tư liệu nhất có thể để làm cơ sở cho lần thám hiểm sau, hi vọng lần sau tôi sẽ không có cảm giác hiểm nguy rình rập như hôm nay nữa.
Tôi chụp vài bức ảnh của chiếc cổng vòm, đặc biệt là những đường vân kì lạ bên trên, tôi phải chụp chúng theo kiểu đặc tả. Tôi chụp cả những hoa văn lúc nổi lúc chìm trên bức tường chạy dọc theo mộ đạo. Tôi nghĩ, có lẽ bác Chung Thư Đồng có thể đoán biết những hoa văn ấy thể hiện ý nghĩa gì.
Cuối cùng, tôi cũng chụp một kiểu đặc tả cái đầu lâu quái dị nằm yên trên tay Tôn Huy Tổ.
“Ha ha, Na Đa, anh xem tôi tìm thấy cái gì đây này!”, anh chàng Vệ Tiên đột nhiên reo lên, tay giơ ra một cuốn sổ.
“Nhật kí, là cuốn nhật kí của anh em nhà họ Tôn”, rõ ràng, anh ta đã giở mấy trang của cuốn sổ.
“Tốt quá, mang nó về rồi chúng ta từ từ nghiên cứu”.
“Còn cả cái này nữa, cũng phải mang về chứ”, Vệ Tiên xoạc chân tiến thêm vài bước, giằng lá cờ ra khỏi bàn tay trái của Tôn Huy Tổ.
“Còn nữa…”, Vệ Tiên lại lật bàn tay phải của Tôn Huy Tổ.
Không, nói đúng hơn thì nó là khung xương của bàn tay phải, những khớp xương cắm sâu vào chiếc đầu lâu.
“Thế quái nào thế nhỉ?”, Vệ Tiên cố gắng dùng sức mấy lần, vẫn không thể giằng cái đầu lâu ra khỏi khung xương tay trắng nhởn, to bè của Tôn Huy Tổ.
“Chết thì cũng đã chết rồi, thịt cũng ra tro rồi, ông còn giữ chặt như vậy để làm gì?!”, Vệ Tiên chửi rủa.
Chứng kiến cảnh Vệ Tiên cố sức tranh giành cái đầu lâu với bộ xương trắng, trong lòng tôi không khỏi run rẩy.
“Thôi được rồi, Vệ Tiên, anh đừng giằng nữa, để lần sau tới rồi tính tiếp. Tôi chụp xong ảnh rồi”.
Vệ Tiên ngừng tay.
“Được thôi”, anh ta vừa nói vừa nhỏm người dậy.
Xem bộ dạng anh ta trả lời mau mắn thế tôi biết trong lòng anh ta sớm muốn từ bỏ rồi, lời của tôi chẳng qua là một bước đệm cho anh ta thôi.
“Có cuốn nhật kí này trong tay là chúng ta có thể biết rõ sự thật rồi. Giờ chúng ta cứ ra về trước đã, đợi sau khi làm rõ sự thật sẽ lại tới”.
Vệ Tiên gật đầu đồng ý.
Chúng tôi từ từ ra khỏi mộ đạo thâm u, dài dặc và mênh mông đó. Luồng sức mạnh nặng trĩu đè chẹn trong tim tôi nhẹ dần, nhẹ dần, tới khi quay trở lại vị trí phiến đá bị dịch chuyển, tôi thở một hơi thật dài.
Tôi quay đầu nhìn lại chiếc cầu thang đá bên trong động, ánh lửa phía dưới vẫn còn bập bùng, nhìn xuống phía dưới không còn cảm giác tối đen như lúc trước nữa, mà sáng rõ.
Tôi tưởng như mình vừa đi dạo trước Quỷ Môn Quan.
Hai chúng tôi khom lưng di chuyển qua dũng đạo leo lét ánh đèn u ám, tới gian phòng ngầm rồi ra bên ngoài, trở lại tòa nhà ba tầng trung tâm. Đứng dưới ánh sáng tươi trong của buổi ban ngày, tôi có cảm giác như mình vừa được tái sinh về với kiếp người.
Bộ quần áo chống đạn kín mít đã được cởi ra và nhét vào trong chiếc ba lô du lịch. Lúc này, bộ quần áo trên người tôi sũng sượi như khi vừa nhấc ra khỏi chậu nước.
Anh chàng Vệ Tiên cũng chẳng hơn gì tôi.
“Chúng ta về nhà tắm rửa thay quần áo. Anh đến phòng tôi trước bữa tối nhé, chúng ta cùng nghiên cứu cuốn nhật kí của anh em nhà họ Tôn”.
“Ok”, tôi đáp.
Có lẽ những gì diễn ra ban nãy khiến tôi quá khiếp đảm, mà cũng có lẽ cuốn sổ nhật kí của anh em nhà họ Tôn thu hút quá nhiều sự chú ý của tôi nên lúc này tôi hoàn toàn quên mất, trong chiếc ba lô du lịch của anh chàng Vệ Tiên, ngoài cuốn nhật kí của 67 năm về trước còn có cả một nửa lá cờ.
Phải, một nửa lá cờ ma.
Tôi đã bấm chuông tới lần thứ ba, vẫn không có người ra mở cửa.
Tôi nhìn lại tấm biển ghi số phòng, không sai, đây đúng là phòng của Vệ Tiên.
Lẽ nào anh chàng này lại mang theo cuốn nhật kí cao chạy xa bay mất rồi? Đầu óc tôi vụt lóe lên ý nghĩ như thế.
Anh ta không phải là hạng người ấy, nhưng nếu như cuốn nhật kí đó có nhắc đến một vật gì đó không tầm thường…
Đúng lúc tôi định giơ nắm đấm lên dọi vào cánh cửa thì cửa mở.
“Anh làm sao thế, sao mãi mới ra mở cửa?”, nét mặt của anh chàng hiện ra trước mắt tôi có chút hoang mang.
“À, tôi không sao, tự nhiên người tôi đờ đẫn mất một lúc”.
Hơi gió mạnh phả vào mặt tôi. Tôi ngó ra phía sau anh chàng Vệ Tiên, cửa sổ mở rộng. Căn phòng này ở trên tầng 18 của khách sạn Hilton, càng ở trên cao gió thổi càng mạnh, cửa sổ để toang, gió lùa vào hất tung mấy tờ giấy xuống đất làm căn phòng hơi bừa bộn.
“Anh mở tung cửa sổ ra thế để làm gì?”
“Cho thông gió ấy mà, tôi cảm thấy hơi bức bối”.
Vẻ sợ sệt thoáng hiện trên gương mặt của Vệ Tiên.
Hay tôi nhìn nhầm, anh ta khiếp hãi cái gì nhỉ? Lúc ở trong mộ đạo tôi đâu thấy anh ta sợ như thế.
Tôi liếc thấy cuốn sổ nhật kí để trên chiếc bàn trà.
Máu của Tôn Huy Tổ rỉ thấm trên cuốn sổ đã từ lâu. Cuốn sổ tuy không bị rời rách do những mũi tên nhưng nó vẫn gây khó khăn cho người đọc bởi những vệt máu đã đông đặc và đen thẫm lại.
Tôi cầm nó lên tay và phảng phất ngửi thấy mùi máu tanh tanh.
Tôi tỉ mẩn giở cuốn sổ, chỉ sợ làm rách giấy, được một lúc tôi mới phát hiện ngoài một vài trang đầu tiên ra, những trang sau đều dính bết lại với nhau do thấm máu.
Mấy trang đầu tiên vốn dĩ cũng bị dính bết như thế, nhưng rõ ràng là chúng đã được Vệ Tiên tách ra.
“Sao anh vẫn chưa xem hết cuốn sổ thế?”
Một tư liệu quan trọng như thế mà anh ta lại gắng chờ tôi đến để cùng nhau đọc, có điều việc tắm rửa thay quần áo cũng làm anh t mất một chút thời gian.
Tôi hỏi luôn mấy câu, Vệ Tiên không đáp lời cũng chẳng để ý, anh ta lẳng lặng lật trở lại trang đầu tiên, cố gắng phân biệt những nét chữ hiển hiện trên giấy.
Trang đầu tiên nhắc đến lá cờ ma. Lúc này, tôi mới nhớ ra, khi ở trong mộ đạo, chúng tôi còn lấy được nửa lá cờ ma!
“Vệ Tiên, lá cờ đó vẫn ở chỗ anh đấy chứ? Mau lấy ra đây xem nào!”, vừa hỏi, tôi vừa nhìn xuống dưới cuốn sổ.
…
Không có tiếng trả lời? Tôi ngẩng đầu lên nhìn, bất giác giật mình.
Trong phòng, gió không còn thổi mạnh như lúc trước, tôi cứ ngỡ Vệ Tiên khép bớt cửa sổ lại, nhưng bây giờ tôi trông rõ mồn một, một chân của anh ta vắt qua bậu cửa sổ, hơn một nửa thân người đã thò ra bên ngoài.
Ngoài cửa sổ có cái gì thế nhỉ? Phản ứng đầu tiên tôi nghĩ, anh chàng Vệ Tiên trông thấy thứ gì đó bên ngoài cửa sổ nên mới thử nhao ra tìm hiểu trong tư thế nguy hiểm như thế, mà có lẽ tư thế này không hề nguy hiểm với anh ta.
Ý nghĩ ấy vụt hiện lên trong đầu tôi, nhưng bản năng mách bảo tôi rằng nó không đúng.
Hai bàn tay của Vệ Tiên không bám vào bất cứ vật gì, anh ta cứ để trọng tâm của cơ thể hướng ra bên ngoài cửa sổ.
“Vệ Tiên!”, tôi hét lên, âm thanh phát ra trong cổ họng tôi còn chưa dứt thì Vệ Tiên đã quay đầu lại nhìn tôi, cùng lúc đó, một bên chân còn lại của anh ta vắt nốt ra bên ngoài.
Vẻ mặt anh ta tuyệt vọng đến cùng cực!
Tôi vội vàng nhào tới. Tất cả đã muộn.
Tôi ngây người nhìn gương mặt của Vệ Tiên mau chóng rời xa khỏi tầm mắt, vẻ mặt của anh ta chuyển từ chán nản sang sợ hãi. Sự thay đổi lớn này là do anh ta đột ngột phát hiện ra mình đang lơ lửng trên không trung, tiếp theo đó là một tiếng thét làm cạn mòn hơi sức.
Tôi tận mắt trông thấy cơ thể của Vệ Tiên rơi từ tầng 18 xuống như thế. Lúc cơ thể anh ta chạm xuống mặt đất, hình như có một tiếng “bịch” đập vào màng nhĩ tôi. Đôi chân tôi lẩy bẩy thụt lùi lại phía sau mấy bước, tại sao lại xảy ra chuyện này?
Ban nãy rõ ràng là anh ta tự nhảy ra ngoài cửa sổ, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, anh ta có lý do gì để tự sát?
Đầu óc tôi trở nên bấn loạn. Vốn dĩ chúng tôi đã cách chân tướng sự việc năm xưa rất gần, lúc ở trong mộ đạo, khi cận kề nguy hiểm, tôi đã khuyên ngăn được anh ta và chúng tôi không có bất cứ sai lầm nào. Tại sao bây giờ anh ta lại đột nhiên tự sát?!
Thì ra tất cả đều không nằm trong tầm khống chế của tôi, cú nhảy của Vệ Tiên làm cả người tôi như có một dòng nước lạnh chảy suốt từ đầu tới chân.
Còn cả biểu hiện cuối cùng của anh ta nữa…
Ánh mắt của tôi quay trở lại cuốn nhật kí, không lẽ mấy trang đầu tiên của cuốn sổ nhật kí ghi lại điều gì đó khiến Vệ Tiên bị kích động mạnh tới mức không thể chống cự được?
Hay là do một nửa lá cờ ma đó?
Tôi nhớ lại cảnh tượng vừa rồi khi anh ta mở cửa cho tôi, thần thái của anh ta hình như rất lạ, nếu tôi chú ý hơn một chút thì…
Song bây giờ không phải là lúc để nghĩ đến những điều ấy. Chỉ một lát nữa thôi, cảnh sát sẽ tới đây và tôi trở thành nghi phạm mưu sát Vệ Tiên. Hơn nữa, làm sao tôi có thể giải thích với cảnh sát về thân phận của Vệ Tiên, về những đồ đạc trong chiếc ba lô du lịch, về cuốn nhật kí dính máu và…
Đúng rồi, một nửa lá cờ ma đó bây giờ ở đâu?
Chiếc ba lô du lịch để ở cạnh giường, một nửa lá cờ có lẽ cũng được anh ta nhét trong đó. Tôi nhanh tay lục chiếc ba lô, vừa hành động vừa thầm cầu nguyện anh ta đừng để nó trong người vì như thế, việc lấy lại lá cờ ma sẽ vô cùng phiền phức.
Nhưng, nằm ngoài dự liệu của tôi, tôi dễ dàng tìm thấy một nửa lá cờ đó trong ba lô của Vệ Tiên. Như thế có nghĩa, anh ta vẫn chưa lôi nó ra xem?
Tôi nhét nửa lá cờ và cuốn nhật kí vào trong chiếc túi của mình. Trống ngực đập liên hồi, những động tác này của tôi cơ hồ là một phản ứng tự bảo vệ mình theo bản năng. Tuy mối giao tình của tôi với Vệ Tiên chưa đến mức sâu sắc, nhưng chúng tôi đã có những ngày vui vẻ bên nhau, thế mà bây giờ, tôi lại tận mắt chứng kiến anh ta rời bỏ thế tục ngay trước mặt tôi, cú sốc này trong phút chốc làm tôi hụt hẫng. Chẳng những thế, trong căn phòng này còn lưu lại mọi đồ đạc của Vệ Tiên, e rằng không phải đồ vật nào tôi cũng có thể giải thích rõ với cảnh sát.
Vì thế, trong đầu tôi lúc này chỉ có một suy nghĩ: mau mau rời khỏi đây.
Tôi đứng trước cửa, hít một hơi thật sâu rồi trấn tĩnh lại, sau đó mở cửa bước ra ngoài.
Hành lang không có người, tôi nhanh như chớp bước ngay tới cầu thang ở chênh chếch phía đối diện, cuốc bộ xuống khoảng năm tầng, tới tầng 13 thì quay ra lẻn vào trong thang máy và đi thẳng xuống tầng trệt.
Lúc tôi ra khỏi đại sảnh, bên ngoài khách sạn nhốn nháo, phía không xa từng vòng người xúm đông xúm đỏ.
Tôi đứng yên lặng, sững sờ nhìn đám người hồi lâu. Cuối cùng, tôi quyết định không tới xem tấm thảm kịch của Vệ Tiên mà quay người bước đi.
Ban nãy, lúc một mình bước đi ở cầu thang, tâm trạng tôi đã ổn định nhiều, ít ra thì so với lúc sự việc vừa xảy ra, bây giờ tôi có thể trấn tĩnh lại phân tích một chút. Lúc này, tôi mới nghĩ thông suốt rằng, nếu đám cảnh sát không phải là một phường ngu dốt thì sớm muộn gì họ cũng sẽ tìm tới tôi.
Tôi chưa bao giờ nghĩ sự việc lại có thể xảy ra theo chiều hướng này nên thản nhiên ra vào khách sạn, không kiêng dè gì cả. Bởi thế, cảnh sát dễ dàng truy ra người tiếp xúc với người chết nhiều lần nhất trong khoảng thời gian gần đây. Hơn nữa, hồi nãy khi tôi tới khách sạn, nhiều khả năng mấy người phục vụ đã trông thấy tôi, có thể lúc đó họ không để ý, nhưng khi cảnh sát hỏi đến, họ sẽ nhớ ra thôi.