[Audio] Thạch Kiếm
Tập 9: Con đò chiều (end)
❮ sau❯Chương 81: Con đò chiều
Thu qua, đông tới rồi lại sang xuân.
Tháng tư năm ấy, hành khách đứng chờ tàu trên bến Sakai đông nghẹt.
Thạch Đạt Lang cũng là một trong số những hành khách đáp tàu đi Kokura, nhưng còn bịn rịn vì cuộc tiễn đưa của các thân hữu trong một lữ quán trên bến.
Cổ Huy Đạo, Vương Chính đều có mặt. Hải Chính Hành không đến được vì bệnh, ủy cho thứ nam Hải Tụ Khuê đi tiễn. Tụ Khuê lại dẫn vợ, một giai nhân tuyệt sắc ở xóm Liễu đi theo. Cả bọn ra bến. Bao con mắt đổ dồn cả vào trang giai nhân tuyệt thế.
– Chà ! Con người mới đài các làm sao ! Giai nhân này là ai vậy ?
– Yến Nương đấy !
– Phải Yến Nương, danh kỹ quán Lạc Thiên ngày trước chăng.
– Chính thị.
– Không phải.
Kẻ cho rằng đúng, người bảo sai. Thạch Đạt Lang không nhận ra cũng chẳng lấy gì làm lạ vì nàng này là Tiểu Yến Nương, không phải Yến Nương ngày trước. Chẳng ai biết nàng Yến trước đi đâu, còn độc thân hay đã xuất gia, vì đã lâu nàng chẳng được ai nhắc đến. Trong nếp sống phù du nơi xóm Liễu, hoa nở rồi tàn, thời gian đi mau lắm.
Yến Nương ! Cái tên gợi lại bao kỷ niệm trong lòng Thạch Đạt Lang. Những đêm tuyết xuống đầy trời như mai rụng … Mùi thơm của gỗ củi mẫu đơn … Cây đàn tỳ bị vỡ…
– Thấm thoắt thế mà đã tám năm ! Cổ Huy Đạo than tiếc. Tám năm không gặp tráng sĩ. Chóng quá !
Thạch Đạt Lang lặp lại như trong giấc mơ:
– Ừ nhỉ, tám năm rồi ! Chẳng biết những năm tháng đó chúng đi đâu ?
Hắn bỗng có cảm giác lần đi này đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời hắn. Thạch Đạt Lang đến Kokura, tỉnh Buzen, nơi hắn sẽ đương đầu với Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc trong một cuộc tranh tài về kiếm thuật và nội lực. Cuộc tranh tài này đã được chuẩn bị từ lâu do sự thúc đẩy của Điền Xán Quang.
Kể từ ngày Cát Xuyên Mộc được thu nạp vào làm đệ nhất giảng viên trong Kiếm pháp giảng tập bộ Ở dinh Hòa Giả, ai cũng biết cuộc đối đầu này rồi ra không thể nào tránh được.
Đối với Thạch Đạt Lang, đây là một cuộc tranh chấp phi lý và phù phiếm nhưng hắn không thể từ chối nếu không muốn chịu những tiếng thị phi của võ lâm và những lời chê trách của những người đã thành tâm giúp đỡ hắn. Như giọt dầu bị cuốn theo bánh xe của một guồng máy lớn, Thạch Đạt Lang phải tuân theo những thế lực và tiêu chuẩn khắt khe của xã hội thời đó.
Được mọi người tôn vinh, Thạch Đạt Lang cảm thấy ngượng ngùng. Hắn chẳng ngờ và cũng chẳng bao giờ muốn được coi như thần tượng của ai. Sống trong một khung cảnh luôn luôn chỉ nghe những lời khen lao, xưng tụng, Thạch Đạt Lang sợ hãi không nhìn thấy hoặc không dám nhìn những khuyết điểm của mình. Có người đã nói:
“Nếu cứ ngồi trước đèn, nhìn bóng mình trên tường, thấy bóng mình to, lâu dần tưởng mình cũng to như thế”. Làm anh hùng cho thiên hạ ngưỡng mộ không phải là mục đích của Thạch Đạt Lang, bây giờ hay những năm sau này nữa.
Thực ra, thắng hay bại, hắn chẳng quan tâm. Giai đoạn đi tìm gặp hảo thủ để thử thách tài năng, phân định hơn kém, đã qua rồi. Hắn muốn dành nhiều thì giờ trong việc trau dồi kiếm học, dùng lưỡi kiếm như một phương tiện để bảo vệ xã hội được tốt đẹp hơn. Chiếc áo đen rộng tay hắn đang mặc là do thân mẫu Cổ Huy Đạo khâu cho, đôi dép cỏ hắn đi, chiếc nón nan hắn đội của Hà Chu Cát Tỉnh tặng, thanh kiếm đeo bên sườn:
quà của Vương Chính. Cơm hắn ăn, nhà hắn ở … tất cả đều là do công lao của những người hắn quen biết hay không quen biết, hắn có bổn phận phải đền đáp những công lao ấy.
Sự tranh thắng sắp tới sẽ là cuộc tranh thắng cuối cùng. Sau này, nếu chết thì thôi, nếu còn sống, lưỡi gươm hắn sẽ không bao giờ được dùng vào những hành động vị kỷ và phù phiếm như thế nữa mà sẽ phải phục vụ cho một mục đích cao cả khác.
Tàu sắp nhổ neo, chân sào đã ra giục khách. Giờ chia tay của một giang hồ lãng tử như hắn, thế mà cũng bịn rịn.
Thạch Đạt Lang cúi đầu tạ Ơn những lời chúc bình an lần chót. Bình an ! Bình an !
Thạch Đạt Lang mỉm cười. Hắn đã chọn cuộc sống chẳng bình an, chúc làm gì những lời ngô nghê ấy !
Tàu nhổ neo. Cánh buồm căng phồng trước gió. Sườn tàu sóng vỗ dạt dào tung bọt trắng xóa. Như cánh chim hải âu bay ra biển rộng, con tàu lướt nhanh trên mặt nước xanh màu lục dưới trời lấm tấm sao.
Khách tiễn chân lục tục ra về gần vãn thì có người hối hả chạy đến. Thấy tàu đã ra khỏi bờ khá xa, gã giậm chân bứt tóc:
– Thật đáng giận ! Trễ mất rồi ! Đáng lẽ ta nên đến ngay mới phải.
Hỏi ra mới biết là Lâm Bằng. Cổ Huy Đạo nói:
– Phải chăng tráng sĩ đến tiễn Thạch đại hiệp ?
– Dạ phải. Tiếc rằng tiểu nhân tới quá trễ.
– Không sao. Vài ngày nữa lại có chuyến khác, ngại gì !
– Tiểu nhân có ý muốn cùng đi với Thạch huynh.
– Ồ ! Thì ra tráng sĩ có liên hệ …
– Dạ phải. Thạch Đạt Lang đã nhân tiểu nhân làm nghĩa đệ ; tuy thế, trong thâm tâm, tiểu nhân coi ông như sư phụ. Xin thứ lỗi, dám hỏi tiên sinh phải chăng là Cổ Huy Đạo, ngoại hiệu Kim Phong …
Cổ Huy Đạo cười, vỗ vai Lâm Bằng:
– Phải phải … Thế tráng sĩ cũng biết đến tiện danh đấy ! Vậy ta vào trong quán này uống trà đi. Ở đây gió đã lạnh.
Trong quán, không khí ấm áp dễ chịu. Hai người chọn một chỗ gần bếp lửa. Trà bánh mang ra, câu chuyện thêm đầm ấm, thẳng thắn. Lâm Bằng nói:
– Chuyến đi này của Thạch huynh thật là chuyến đi quyết định. Tiểu nhân không tin Giang Biên Liễu có thể thủ thắng được. Nhưng …
Hắn có vẻ ngại lời. Lát sau nói tiếp:
– Việc đời biết sao mà nói trước. Trong trường chiến đấu, đã là kiếm sĩ ai cũng phải trải qua những trận một mất một còn như thế. Một chút rủi may đủ định được thành bại…
Cổ Huy Đạo nghiêm trang:
– Lão phu tưởng tráng sĩ chẳng nên lo ngại quá. Thạch đại hiệp xem ra thoải mái và tự tin lắm.
– Tiểu nhân chẳng ngờ gì điều ấy nhưng Giang Biên Liễu không phải tay vừa. Từ khi vào phục thị trong dinh Hòa Giả, nghe nói những chiêu kiếm của hắn càng ngày càng tinh thục đến Đạo Uẩn cũng phải e dè. Không những thế, hắn lại còn khai triển nhiều chiêu thức lạ lùng khác nữa.
Cổ Huy Đạo gật gù:
– Lại càng chứng tỏ cuộc chiến sắp tới gay go, đáng xem lắm. Một cuộc tranh phong giữa một kỳ nhân về kiếm thuật, tuy hơi hợm hĩnh, với một người thường. Tráng sĩ nghĩ thế nào ?
– Tiểu nhân không cho Thạch Đạt Lang là một người thường.
– Thế mà hắn là người thường đấy. Tự thấy không có điều gì phi thường, hắn đã luôn học hỏi, khép mình vào kỷ luật với một nghị lực vô biên để tự cải hoán. Từ một kẻ nông phu dốt nát, cục cằn, hắn đã trở thành kiếm sĩ tài năng, dũng lược không ai phủ nhận được. Thấy thế người ta cho hắn là siêu phàm, có tài năng thiên phú. Chẳng qua họ muốn che đậy, biện minh cho sự hèn nhát của họ mà thôi.
Lâm Bằng nhìn Cổ Huy Đạo. Con người tóc bạc hoa râm, phong thái tiêu diêu, thích hưởng nhàn, tránh những bon chen của cuộc sống mà lại nói thế ư ? Ông tự trách mình hay ngầm ý dạy ta một bài học ? Dù thế nào đi nữa, hắn đã lý hội được ý nghĩ.
Lâm Bằng cúi đầu thật thấp:
– Xin đa tạ tiền bối.
Đàm đạo hồi lâu, biết thêm được nhiều điều mới lạ về thân thế Thạch Đạt Lang, hắn thấy những nhận xét của Cổ Huy Đạo quả có đúng. Đêm khuya dần, tiếng ồn ào ngoài bến đò đã giảm. Lâm Bằng cáo từ nhà danh sĩ kiếm học, trở về phòng trọ. Hỏi thăm chủ quán, được biết tàu đi Kokura, nếu thuận buồm xuôi gió ít nhất cũng phải mất hai ngày đêm mới đến, hắn nẩy ý nghĩ muốn đi đường bộ để theo kịp Thạch Đạt Lang.
– Ông quán xem nếu đi đường bộ thì có cách gì đuổi kịp tàu không ?
– Khó lắm ? Phải vượt qua ba cái đèo cao, vất vả và mất nhiều thì giờ. Nhưng để coi, chắc cũng có cách chứ !
Ngừng một lát, ông gật gù tiếp:
– Tàu này thường cập bến Shikama đổ hàng. Nếu theo đường tắt đến đó trước khi tàu cập bến thì may ra có hy vọng.
– Bến Shikama ở đâu, có xa không ?
– Shikama là một vịnh nhỏ cách đây vài chục dặm về hướng nam. Ven vịnh có cái bến cùng tên. Đi Kokura, thế nào tàu cũng phải qua đấy, nhưng quý khách phải đi ngay mới kịp.
Lâm Bằng mừng rỡ, bảo lấy cho ít thực phẩm khô, trả tiền rồi hối hả lên đường theo lời chỉ dẫn của chủ quán.
Vịnh Shikama hôm ấy gió êm, biển lặng. Mặt nước phẳng lì như tấm gương trong, phản chiếu màu da trời xanh biếc. Chỗ nước sâu bên ghềnh đá, một con sứa trắng phau bơi lờ lững. Cảnh vật êm đềm khiến Oa Tử cũng dịu được phần nào nỗi lòng khắc khoải.
Cùng đi với nàng trên chiếc đò nhỏ đón Thạch Đạt Lang có bà Hồ Điểu và Giang, cả hai lòng bồn chồn chẳng kém gì Oa Tử.
Bà Hồ Điểu từ khi được gia nhân khiêng về làng săn sóc, chẳng bao lâu đã bình phục. Sức khỏe bà vẫn như xưa nhưng tính tình thì thay đổi hẳn.
Từ khi biết được Oa Tử đã cứu mình thoát chết trong hốc đá, bà nhìn nàng bằng cặp mắt khác. Bà triệu tập cả họ lại, tỏ lòng sám hối về những việc đã làm và tuyên bố hủy lời hứa hôn của Mãn Hà Chí với Oa Tử. Không những thế, bà còn công khai bày tỏ lòng biết ơn Oa Tử và muốn nàng kết duyên với Thạch Đạt Lang, người mà bây giờ bà cho là xứng đáng với nàng nhất.
Chỉ tiếc Oa Tử không còn được như trước. Sau trận mưa ngày hôm đó, nàng bị cảm lạnh cứ ho khan. Vốn tạng người yếu đuối, lại phải dùng sức quá độ, bệnh cũ của Oa Tử tái phát, sức khoẻ mỗi ngày một suy giảm.
Sư cụ chùa Tiểu Sơn thương tình dành cho một phòng nhỏ sau hậu liêu, cạnh phòng dệt như trước và để nàng tùy tiện thong dong ngày hai buổi sớm hôm đèn nhang cúng Phật.
Oa Tử gầy đi nhiều, da mặt trắng xanh, đôi mắt đăm chiêu u uẩn càng tăng thêm cốt cách thanh tú khiến nàng có một vẻ đẹp siêu thoát ai thấy cũng phải não lòng. Hàng ngày, bà Hồ Điểu lui tới chùa lễ Phật, nhân tiện thăm nom Oa Tử.
Thấy bà thương mình như con, ban đầu Oa Tử còn dè dặt, sau không nghi ngờ gì nữa. Nghe những lời thăm hỏi ân cần và trước những cử chỉ tuy nhỏ nhặt nhưng nặng ý quan hoài của bà:
đắp thêm cho nàng tấm chăn, giúp nàng sắc siêu thuốc, Oa Tử cảm động đến rơi lệ. Nàng thầm cảm ơn đức Bồ Tát đã chấp nhận những điều nàng khấn nguyện, cảm hóa bà trở thành một người khác. Dân làng đều lấy làm lạ. Một con người trước đây ngang bướng và độc đoán nhất họ đột nhiên trở nên nhu hòa phúc hậu khác thường, ai ở gần cũng mến.
Ở cái tuổi mà sống thêm được ngày nào cảm ơn Trời Phật ngày ấy, bây giờ bà Hồ Điểu mới biết thế nào là yêu thương và thông cảm nỗi bất hạnh của kẻ khác. Bà lấy thế làm sung sướng và hãnh diện. Dù không có Mãn Hà Chí ở bên, nỗi cô đơn cũng bớt dần, sắc mặt bà mỗi ngày một thêm rạng rỡ. Có người đã lâu không gặp, thấy bà, bỗng ngạc nhiên thốt:
“Ủa, bà Hồ Điểu đấy ư ? Sao bây giờ coi tươi tắn quá !”. Bả chỉ cười khanh khách. Trước kia ở làng ra đi, tóc bà hoa râm, bây giờ soi gương đã trắng như tuyết.
Nhưng bà tự nhủ:
“Chẳng cần. Miễn lòng ta thanh thản không tì ố là ta mãn nguyện”.
– Ngươi có lạnh không, Oa Tử ?
Ngồi trong khoang thuyền, bà Hồ Điểu cầm tay Oa Tử, trìu mến.
– Không, con không lạnh. Nhưng bà cũng nên cẩn thận. Về chiều, ngoài bãi thường có sương, trời ẩm dễ sinh phong thấp lắm.
– Ừ, ta biết chứ ! Để đi thêm đôi tất vào rồi nhóm lửa nấu cái gì ăn chứ. Ngươi muốn ăn gì, Oa Tử ?
– Con không đói.
– Không đói cũng phải cố ăn một chút để lấy sức. Tàu đến, thằng Kinh Tử thấy ngươi gầy yếu thế này, nó buồn lắm đấy !
Bà vẫn không bỏ thói quen gọi Thạch Đạt Lang bằng Thạch Kinh Tử.
Oa Tử nhìn ra khơi, cố ngăn giọt lệ xúc động.
Người lái đò bước vào khoang, tay xách ấm nước. Bà Hồ Điểu hỏi:
– Tàu đi Kokura đã sắp đến chưa ?
– Chưa đâu, lão bá ! Trời lặng gió thế này làm sao đi nhanh được. Chắc phải khuya mới tới.
Oa Tử thở dài:
– Lâu quá nhỉ ! Thằng Giang đâu bà ?
– Ta bảo nó ra bến đón hễ tàu đến thì về báo. Chắc bây giờ nó còn ở đấy.
Trên bến bắt đầu rộn rịp. Cùng với những người lui tới đưa đón thân nhân hoặc nhận gửi hàng hoá, Lâm Bằng cũng có mặt từ trưa. Một số khác, nghe đồn sắp có cuộc tranh phong giữa hai tay kiếm sĩ danh tiếng đương thời là Thạch Đạt Lang và Cát Xuyên Mộc tại Buzein thì nổi lòng hiếu kỳ muốn được tận mắt trông thấy một trong hai tay danh kiếm ấy, nên hộp nhau lại tại lữ quán độc nhất trên bến để chờ đợi. Lại có nhà mạnh thường quân vì nghe danh và ái mộ Thạch Đạt Lang đã lâu, đặt sẵn tiệc rượu khoản đãi. Bến Shikama vì thế lần này khác với những lần trước, ồn ào náo nhiệt hơn. Ai cũng chờ đợi, mong ngóng. Thuyền nhỏ đổ về như lá tre.
Để tránh những con mắt tò mò nhòm ngó, bà Hồ Điểu và Oa Tử cứ ở rịt dưới đò, chờ Giang trở về báo tin.
Nhưng chờ mãi chẳng thấy gì. Bóng chiều đã ngả, phương tây trời đỏ khé chuyển sang tím nhạt rồi chẳng bao lâu chỉ còn vệt sáng dài phân cách chân trời với mặt biển.
Những tàng thông trên ghềnh đá cao bắt đầu ngả màu đen xẫm. Gió chiều nhè nhẹ gợn sóng lăn tăn, rải rác trên vài con thuyền đã thấy lên đèn:
những chấm sáng màu cam lúc ẩn, lúc hiện nhấp nháy.
– Hay chúng ta đến lầm ngày ?
– Không đâu ! Đúng hôm nay đấy. Tôi đã sai người đi hỏi tin tức, đại lý họ cho biết tàu nhổ neo chiều qua dời bến Sakai. Chắc trễ vì không có gió, phải chèo tay đấy thôi.
Bỗng có kẻ hô lớn:
– Kia kìa ! Tàu đến kia kìa !
Mọi người nhốn nháo trông ra. Xa tít ngoài khơi, quả nhiên thấy hiện lên trên nền trời xanh thẫm một chấm đen nhỏ.
Giang hốt hoảng chạy về. Chưa vào hẳn trong khoang, nó đã gọi giật giọng, thở hổn hển:
– Bà Hồ Điểu ! Cô Oa Tử ! Tàu đến ! Tàu đến rồi !
Oa Tử tung chăn ngồi dậy. Bà Hồ Điểu cũng lật đật:
– Đâu ? Đâu ? Phía nào ? Tối quá, ta chẳng trông thấy gì cả. Ra ngoài khoang xem sao !
– Vâng ! Vâng !
Trong lúc vội vàng, Oa Tử run lật bật suýt ngã.
– Cẩn thận ! Oa Tử, đưa tay đây ta đỡ.
Bà Hồ Điểu bảo Giang, mỗi người một bên, vực Oa Tử lên trên sạp.
Ngoài kia, trên mặt biển đen ngòm, dưới ánh sao mới mọc, chấm đen cứ to dần cho đến khi hiện ra lờ mờ một cánh buồm lớn.
– Đấy ! Tàu của sư phụ, cô có trông thấy không ?
Oa Tử gật đầu rồi bảo:
– Bác lái đâu, chèo ra đón tàu đi !
Nhưng người lái đò đáp:
– Vội gì cô ! Kìa đã có vô số người chèo thuyền ra đón rồi kìa.
Giang cũng phụ họa:
– Phải rồi ! Thế nào rồi tàu cũng cập bến. Bây giờ cô ra, người ta nói. Vả lại làm sao sư phụ xuống thẳng đò này được, phải tiếp đón những người kia trước đã chứ !
Oa Tử gắt khẽ:
– Em thì cứ nghĩ thế ! Như vậy ta cứ đợi trên bờ có hơn không ?
– Cô không biết miệng thiên hạ hay đồn đại lắm. Cô yên tâm, thế nào em cũng tìm cách thông báo để sư phụ biết, đến đây gặp cô.
Nói đoạn, không đợi trả lời, Giang nhảy vội lên bờ lẩn vào đám đông cầm đèn đứng lố nhố trên bãi.
Bà Hồ Điểu gật đầu cho là phải:
– Thằng Giang nó nói đúng đấy. Con cứ ở đây. Bà thấy con còn yếu lắm, chẳng nên xông xáo.
Nghe lời, Oa Tử bước vào khoang. Xúc động, hồi hộp khiến nàng cảm thấy tức thở, ngực nóng ran. Cơn ho ở đâu kéo đến, Oa Tử húng hắng rồi rũ rượi, mặt trắng bệch.
Qùy bên cạnh, bà Hồ Điểu dùng tay vuốt ngực nàng nhè nhẹ.
– Lại ho rồi ! Ta đã bảo ngươi chớ nên lo lắng thái quá, thế nào rồi nó cũng tới mà.
Nằm xuống đây nghỉ một chút đi.
Bà đỡ Oa Tử nằm xuống, kéo chăn đắp. Nắm tay bà lão, bàn tay nhăn nheo điểm những vệt đồi mồi lấm tấm, trong lòng bàn tay gầy guộc của mình, nước mắt Oa Tử bỗng trào ra thấm ướt cả gối.
– Cảm ơn bà …
Oa Tử nghiêng đầu nhìn qua khung cửa sổ. Con tàu nằm im bất động, thuyền nhỏ vây quanh chẳng khác gì một con cá voi khổng lồ mắc cạn bị những con cá con xông đến rỉa thịt.
Đợi mãi không tin tức, bà Hồ Điểu sốt ruột bảo:
– Oa Tử, ngươi cứ nằm đây để ta lên bến xem có chuyện gì mà thằng Giang đi lâu thế !
Một mình trong khoang thuyền vắng vẻ, Oa Tử ngồi dậy, sửa xiêm áo ngay ngắn rồi thắt lại dây lưng. Nàng thò tay ra ngoài mạn thuyền cầm nhúng nước chải đầu và buộc tóc lại gọn ghẽ sau gáy bằng một sợi lụa đỏ. Rồi soi gương, phớt nhẹ chút phấn hồng lên má, đoạn ngồi bó gối đăm đăm nhìn con tàu ngoài xa.
Nàng phải nói gì với Thạch Đạt Lang nhỉ. Phân vân quá ! Giờ phút này biết nói gì đây ? Những ngày sắp tới là những ngày quyết liệt, Oa Tử chẳng muốn có những lời nói hoặc cử chỉ khiến lòng Thạch Đạt Lang phải mềm yếu. Nàng tin ở Thạch Đạt Lang, ở tài năng của chàng, nhưng biết đâu, ờ biết đâu đấy, một ý nghĩ về nàng khiến Thạch Đạt Lang phải phân tâm trong lúc nguy cấp … Trời ơi ! Nếu Thạch Đạt Lang thất bại, nàng sẽ đau khổ biết chừng nào, sẽ hối hận biết chừng nào … Lúc ấy chỉ còn một cách …
Chết ! Chết để chuộc lại lỗi lầm … Suối vàng sẽ là nơi gặp mặt …
Nhưng … nhưng đã bao lâu rồi, nàng có dịp nào bày tỏ nỗi lòng với Thạch Đạt Lang đâu ? Kể từ khi rời thác Phu Phụ ngày ấy, Thạch Đạt Lang bỏ đi, chẳng biết có hiểu nàng không ? Nàng thì không bao giờ quên được nối băn khoăn lo lắng đến hốt hoảng của người tình khi nàng cố gắng từ chối sự cưỡng ép, không để chàng bị ràng buộc bởi những trách nhiệm khác ngoài kiếm đạo.
Bao nhiêu nước chảy qua cầu … bao nhiêu biến cố … Oa Tử đắm mình trong giấc mộng. Trong bóng tối, tiếng muỗi vo ve, Oa Tử không để ý cho mãi đến khi có tiếng chân bước ngoài mũi thuyền, nghe giọng Giang nói với bà Hồ Điểu nàng mới sực tỉnh.
– Bà Hồ Điểu ! Hỏng rồi !
– Hỏng rồi ? Hỏng cái gì ? Mày nói gì mà khó hiểu vậy ?
– Thì khoan đã, bà để từ từ con cắt nghĩa.
– Không cắt nghĩa gì cả. Sao mày đi lâu thế ? Thằng Kinh Tử có đến không ?
Bực tức, Giang đáp sẵng:
– Không !
– Không ? Nó không đến hả ?
– Không ! Tàu không cập bến mà cũng chẳng có ai lên bờ cả.
Bà Hồ Điểu trố mắt nhìn Giang, đoạn liếc vào trong khoang thuyền rồi nghĩ sao bà kéo tuột Giang lên bờ.
– Này Giang ! Khe khẽ chứ. Nào bây giờ nói ta nghe chuyện gì xảy ra thế ?
– Tàu chỉ đậu ngoài xa để chuyển hàng xuống thuyền nhỏ mang vào bờ thôi, vì đêm nay ít hàng. Họ bảo đã trễ rồi phải đi gấp.
– Thế còn thằng Kinh Tử ?
– Có hai người đã chèo thuyền ra gặp để mời ông vào quán, nhưng ông từ chối.
Ông nói có việc cần phải theo tàu đi ngay.
– Sao mày không theo ra ?
– Con biết họ đi lúc nào mà theo ! Họ về kể lại mới biết chứ !
Bà Hồ Điểu ngẩn người. À, thì ra thế ! Nhưng biết nói sao với Oa Tử đây ! Lúng túng, bà bảo Giang:
– Hay gọi lái đò bảo họ chèo thuyền theo ?
– Trễ rồi bà ạ ! Kìa bà trông, tàu đã ra xa rồi còn gì !
Bà Hồ Điểu tần ngần đứng lặng. Lúc sau, đẩy Giang xuống thuyền trước:
– Mày xuống trước đi, ta đi sau ! Nói cho Oa Tử biết chuyện xảy ra như thế, ta chẳng có can đảm nói với nó đâu ! Mà kheo khéo nhé, kẻo nó thất vọng quá lại tăng thêm bệnh.
Vào trong khoang, đã thấy Oa Tử dậy từ bao giờ. Nàng ngồi dựa mạn thuyền, mắt nhìn vào quãng không như kẻ mất hồn.
– Cô Oa Tử !
– …
– Cô thấy trong người thế nào ? Sao không nằm nghỉ ?
– Thầy em không đến phải không ?
Giang giật mình:
– Dạ, không ! Nhưng sao cô biết ?
– Cô nghe rõ hết cả rồi !
Nàng quay mặt ra, nước mắt ràn rụa:
– Buồn quá nhỉ ! Cứ nghĩ chàng gần như thế mà cô chẳng được gặp.
Bà Hồ Điểu cũng vừa tới ngồi xuống bên. Bà cầm tay Oa Tử và chùi nước mắt cho nàng.
– A di đà Phật ! Số mệnh cả con ạ, chẳng nên buồn làm gì. Can đảm lên, còn mấy ngày nữa kia mà. Bà đã tính rồi.
– Bà tính sao ?
– Ta sẽ thuê thuyền đi đến tận Kokura. Bà cũng có vài điều muốn nói với nó.
Oa Tử gật đầu. Đột nhiên, nàng thấy dậy lên trong lòng một ao ước ghê gớm muốn được gần Thạch Đạt Lang, kể cho chàng nghe hết nỗi niềm tâm sự để đánh tan những ngộ nhận có lẽ chàng vẫn ấp ủ từ bấy lâu nay. Dù sống hay chết, nàng cũng phải nói.
Nếu Thạch Đạt Lang thắng thì hay, bằng không … bằng không … nàng sẽ tự tay thu nhặt di hài của chàng đem về Miyamoto chôn cất. Rồi sau đó sẽ theo chân chàng về bên kia thế giới, cùng người yêu đoàn tụ đời đời …
Nghĩ đến đấy, Oa Tử mỉm cười, đôi má ửng hồng. Nàng lại thấy phấn khởi, máu nóng chạy rần rần trong huyết quản, như xưa kia lúc mới đôi tám, nàng đã trèo lên cây đại bách sau chùa Tiểu Sơn cắt dây trói cứu Thạch Kinh Tử trong một đêm dông bão.
Và ở đâu, cơn ho lại kéo đến, sặc sụa, rũ rượi khiến Oa Tử gục xuống !
Chương 82: Con chim ưng
Kokura vốn là một hải quan hiểm yếu, sau trận Sekigahara, lọt vào tay họ Hòa Giả, được Hòa Giả Nghị ủy cho con trai là Đạo Uẩn trấn giữ cùng với một tòa lâu đài nữa gần Tân đô.
Thời gian này, đồn lũy vùng Kokura được tu bổ và mở rộng thêm. Bản doanh đặt tại lâu đài trông ra biển. Đạo Uẩn lúc ở Tân đô, lúc ở Kokura, tung tiền bạc mua chuộc các tay danh kiếm, tích trữ lương thảo, khiến uy thế tộc Hòa Giả càng ngày càng mạnh, suốt vùng duyên hải Osaka đến Tân đô, chẳng ai không biết.
Vào thời kỳ này, Cát Xuyên Mộc được tuyển mộ vào phục vụ trong kiếm pháp giảng tập bộ tại dinh Hòa Giả. Giảng tập bộ gồm nhiều kiếm sĩ tài danh, đứng đầu là Bột Hải Vạn Phong, một lão tướng không những nhiều kinh nghiệm chiến đấu mà còn là một nhà kiếm học uyên bác. Nhưng từ khi Cát Xuyên Mộc được thu nạp, giữ chức giảng viên thì ngôi sao Bột Hải bị lu mờ dần.
Cát Xuyên Mộc thua Vạn Phong về kiến thức, nhưng về kiếm thuật, hắn đã chứng tỏ nhiều lần Vạn Phong không bì kịp. Những chiêu kiếm của Cát Xuyên Mộc vừa nhanh vừa chính xác, lại có cái uyển chuyển của những nhành liễu, hoàn toàn thích hợp với cây trường kiếm hắn sử dụng. Chẳng trách, hắn lấy ngoại hiệu là Giang Biên Liễu và kiếm pháp của hắn, giang hồ mệnh danh là Liễu kiếm. Ngoài biệt tài ấy ra, Cát Xuyên Mộc còn khôn khéo trong việc giao tế, biết dựa theo tính tình từng người mà đối xử; tùy ca nhân mà đãi ngộ, lúc thì cao ngạo, khi thì khiêm cung nên rất được lòng chủ soái và đã tạo cho mình một hào quang khiến bạn đồng bối nể sợ và rất nhiều kẻ xu phụ.
Bữa kia, tại thao trường, Đạo Uẩn ngỏ ý muốn được thưởng thức tài nghệ của cả hai danh thủ. Bột Hải và Cát Xuyên Mộc vâng lệnh, gọi gia nhân mang mộc kiếm ra.
Cuộc giao đấu đang lúc hào hứng, bỗng Cát Xuyên Mộc đến quỳ trước mặt Bột Hải, nói:
– Vãn sinh ngông cuồng, thật chẳng xứng là địch thủ của lão tiền bối, xin lão tiền bối miễn chấp.
Mọi người ngạc nhiên vì cuộc tranh tài chưa phân thắng bại, nhưng cứ xem những chiêu kiếm của Cát Xuyên Mộc và cách hắn công hãm lão tướng Bột Hải thì rõ ràng hắn sắp chiếm thượng phong, không hiểu sao bỗng dưng lại nhún nhường như vậy. Chẳng biết vì nể nang mà dung tình hay vì một mục đích nào khác, nhưng sau bữa đó, danh tiếng Cát Xuyên Mộc nổi như cồn. Chẳng bao lâu, hắn được sung chức đệ nhất giảng tập viên trong giảng tập bộ.
Đôi khi, trong lúc giảng luận, có kẻ đề cập Thạch Đạt Lang, ngầm ý coi Thạch Đạt Lang như một bậc thầy về kiếm thuật, và thạch kiếm nếu không hơn thì cũng chẳng thua gì liễu kiếm.
Cát Xuyên Mộc nghe, cười khẩy:
– Thế mới biết nhân tài kiếm học mỗi ngày một hiếm. Thạch Đạt Lang mà được coi như bậc thầy về kiếm học thì thiên hạ mù hết rồi ! Chưa luận gì đến tài năng vội, vì tài năng phải được xác định trong cuộc giao đấu, ta chỉ nói về đức hạnh thôi, gã đó cũng đáng chê trách. Tám năm trước, ở đồi Sinh Minh, ta đã có dịp thấy Thạch Đạt Lang tự tỏ ra là một kẻ vũ phu hèn nhát. Sau khi nhẫn tâm chặt đầu một đứa trẻ mới mười hai tuổi không biết võ công, bị cả phái Hoa Sơn xông lại trừng trị, gã biết không thắng được, đã co giò bỏ chạy. Ấy là không nói đến chuyện gã dùng lời ngon tiếng ngọt cướp đoạt vị hôn thê của bạn, phá hoại danh giá nhà người ta. Hành động côn đồ và vô lại như thế sao xứng đáng với người cầm kiếm, nói gì đến việc khác. Hừ ! Coi Thạch Đạt Lang là một tên vũ dũng thì còn nghe được, chứ bảo là bậc thầy về kiếm học thì hiển nhiên là quá đáng !
Những lời phê bình cay độc, đầy ác ý ấy được đồn đi rất nhanh khiến nhiều người tự hỏi không biết trước đây Cát Xuyên Mộc đã có hiềm thù gì với Thạch Đạt Lang mà hắn gay gắt đến thế !
Giới võ lâm nghi hoặc, bàn tán. Kẻ cho Cát Xuyên Mộc nói đúng, người thì bảo hắn vì lòng đố kỵ mà dèm pha, mãi rồi những lời thị phi ấy cũng phải lọt đến tai Hòa Giả Đạo Uẩn.
Đạo Uẩn triệu tập hội đồng tham vấn hỏi ý kiến. Điền Xán Quang bàn:
– Nếu Cát Xuyên Mộc là kiếm sĩ vô danh trong võ lầm thì chẳng nói làm gì, ngặt vì hắn lại giữ một chức vị lớn thuộc lãnh địa ta. Nếu cứ để những lời chê khen ấy đồn đại mãi thì có thể hại đến uy tín của thiếu gia. Vả lại, hắn đã cho rằng tài năng phải được xác định qua những cuộc giao đấu, theo thiển ý, ta nên gọi hắn vào, hỏi thẳng. Nếu hắn bằng lòng, sẽ tổ chức một cuộc tranh tài giữa hắn và Thạch Đạt Lang để phân định cho rõ hơn kém.
Đạo Uẩn do dự:
– Nếu Thạch Đạt Lang thắng thì sao ? Ta e rằng uy tín của giảng tập bộ … – Những cuộc giao đấu như thế này không phải là những cuộc so tài biểu diễn ở thao trường. Cả hai bên tất hiểu và mặc nhiên phải đem tính mệnh ra bảo đảm danh dự mình. Nếu Thạch Đạt Lang thắng, xin thiếu gia cứ dùng hắn …
Ngưng một lát, Điền Xán Quang mỉm cười, tiếp:
– Lão phu tin chắc nếu thất bại, Cát Xuyên Mộc sẽ không đủ khả năng và thời giờ để phản đối đâu !
Mọi người trong hội đồng tham vấn đều cho là phải và đề nghị để Điền Xán Quang đứng ra sắp xếp.
Quân tế tác được phái đi khắp nơi dò xét tung tích Thạch Đạt Lang cùng với thư riêng của tham vấn họ Điền. Chẳng bao lâu, sau khi tiếp được hồi âm và sự đồng ý của Thạch Đạt Lang, một nhật lệnh được ban ra từ dinh Hòa Giả, yết bảng gỗ khắp nơi, công bố quyết định của lãnh chúa Đạo Uẩn.
“Ngày tháng tư năm nay, vào đầu giờ thìn tại đảo Funashima thuộc eo biển Nagato ở Buzen, Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc, kiếm sĩ trong dinh, theo lệnh lãnh chúa Hòa Giả Đạo Uẩn, sẽ tỉ thí bằng kiếm với Yết Mân Thạch Điền Đạt Lang, một kiếm sĩ giang hồ quán tại Mimasaka.
Mọi sự tiếp tay giúp đỡ cho bên nào, bất cứ từ đâu đến, đều cấm chỉ. Vậy nay ra lệnh cho thuyền bè các loại, ngoại trừ thuyền chở các đương sự, không được lai vãng đến eo biển Nagato suốt buổi sáng ngày hôm đó.
Làm tại Kokura, ngày quý xuân năm Dậu.” Cáo thị vừa ban hành, tin đã được truyền đi nhanh như mồi thuốc súng. Cao Mục Lân vội đến ngay tư thất Cát Xuyên Mộc. Từ khi được sủng đãi, Cát Xuyên Mộc ngụ tại một biệt thự, gia nhân hàng chục người và đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, luôn luôn có bảy tên cầm giáo dài đi trước dọn đường và theo sau hộ vệ.
Nhưng vì là chỗ họ hàng thân tình, lại trước đây có cho Cát Xuyên Mộc nhờ vả nên tuy chỉ là tùy viên trong dinh, Cao Mục Lân được ra vào biệt thự tự do không phải báo danh trước, chuyện trò cũng không câu chấp như nhiều người khác.
Đến nơi thấy Cát Xuyên Mộc đang bận bón mồi cho một con chim ưng đậu trên cườm tay, Cao Mục Lân giọng khẩn trương, nói:
– Đại hiệp ! Có chuyện quan trọng, đã biết chưa ?
Cát Xuyên Mộc không đáp, quay ra nhướng mày tỏ ý hỏi.
– Thiếu gia đã quyết định địa điểm cho cuộc tỷ kiếm. Hội đồng tham vấn đề nghị mấy nơi, nhưng chỗ thì quá hẹp, chỗ lại không khoảng khoát, khó bề lược trận, chỗ dễ bị công chúng dòm ngó; sau hết thấy chỉ có hòn đảo nhỏ tên gọi Funashima ở eo biển Nagato là thuận tiện hơn cả ?
– Thuận tiện ra sao ?
– Đảo Funashima thuộc lãnh địa Hòa Giả, công chúng khó đến, lại vắng vẻ, có bãi cát rộng trước một khu rừng thưa. Thiếu gia có thể ngồi trên khán đài dựng ở ven rừng để quan sát trận thế. Bãi cát ngay bờ biển sẽ là chỗ tranh phong, đại hiệp nghĩ thế nào ?
Cát Xuyên Mộc đặt chim ưng trở lại đậu trên giá, mỉm cười gật đầu:
– Cũng được !
Cao Mục Lân tỏ vẻ tư lự:
– Có nên đến đó trước hay không ? Xem địa thế ra sao cũng có lợi lắm. Nếu đại hiệp bằng lòng, ta sẽ bảo thuyền chở chúng ta đi ngay ngày mai.
Cát Xuyên Mộc không đồng ý:
– Khi chiến đấu, ưu điểm của người cầm kiếm là phải biết linh động, nắm lấy cơ hội không để lỡ. Trước đó dù có cẩn thận đến mấy cũng không dự liệu được những việc gì sẽ xảy ra hoặc nếu gặp địch thủ tinh ý, những toan tính của ta cũng có thể bị phá hỏng. Phản kích vì thế mất tính chất linh động. Tại hạ thiết tưởng cứ lâm trận với một tinh thần cởi mở, không gò bó thì hơn.
Thấy Cát Xuyên Mộc cũng có lý, vả lại hắn chủ động, Cao Mục Lân không nhấn mạnh thêm nữa, ngồi lặng yên.
Một thiếu nữ bước ra, mang rượu và trà để lên kỷ.
Nàng đẹp sắc sảo tự nhiên. Cao Mục Lân khen:
– Đã lâu không gặp Mộng Hoa. Nàng vẫn đẹp như trước nhỉ.
Mộng Hoa thẹn, mặt đỏ bừng, để khay rượu lên kỷ rồi vội vàng khép nép bước vào phòng trong. Cao Mục Lân quay hỏi Cát Xuyên Mộc:
– Thế nào, bao giờ thì có tin mừng đấy ?
– Tin mừng gì ?
– Thì chuyện của đại hiệp với Mộng Hoa đó !
Cát Xuyên Mộc khẽ nhíu mày, đoạn cười bí hiểm:
– Chưa định.
– Đại hiệp có nói càng quen với con chim ưng của thiếu gia tặng bao nhiêu càng ưa thích nó bấy nhiêu. Thế còn Mộng Hoa ? Có nàng bên cạnh chẳng hơn chỉ có chim ưng sao ?
Cát Xuyên Mộc nhìn Cao Mục Lân. Trong ánh mắt bình tĩnh thoáng một vẻ tàn nhẫn như ánh mắt của chim ưng sắp tung cánh bắt mồi. Hắn thản nhiên nói:
– Tại hạ thích con chim ưng vì nó chưa bao giờ bắt trượt một con mồi nào. Mỗi khi nhìn lông cánh con mồi rụng lả tả, tại hạ lại thấy khích động vô cùng, tưởng chính mắt mình vừa bắt con mồi đó. Còn giữ con mồi hay không, tại hạ không bao giờ nghĩ đến.
Cao Mục Lân quay mặt đi, nhìn chỗ khác.
Chương 83: Tình cố lý
Nhật lệnh của Đạo Uẩn mới công bố được ít lâu, tư thất Cát Xuyên Mộc không mấy ngày là không có khách. Khách từ khắp nơi đến:
Osaka, Kyoto, thôn Iwakumi sinh quán hắn. Lại có những kiếm sĩ ở miền xa xôi tận vùng địa đầu hẻo lánh hải đảo Shikoku cũng không bỏ lỡ dịp, đáp tàu ngày đêm đến để kịp có mặt chứng kiến cuộc đấu.
Võ lâm xôn xao, dư luận xúc động. Trà đình tửu quán, chẳng chỗ nào là không có những lời bình phẩm bàn tán về tư cách và võ công của hai đối thủ:
– Phải thế chứ ! Phải có cuộc giao đấu để phân định tài năng chứ ! Giang Biên Liễu thì vùng này ai cũng biết, nhưng Thạch Đạt Lang, cái tên đó nghe hơi lạ !
– Thạch Đạt Lang là kiếm sĩ giang hồ có thực tài. Cứ xem hắn dám đối đầu với cả phái Hoa Sơn ở đồi Sinh Minh trước đây thì rõ. Hắn ra chiêu xuất quỷ nhập thần, những năm sau này nghe nói hắn sử dụng song kiếm, lại còn khai triển nhiều thế tuyệt kỹ.
– Nhưng hình như Thạch Đạt Lang chẳng phải con người đạo đức. Hắn ra tay tàn ác lắm thì phải …
– Ồ, cần gì ! Trong cuộc tranh hùng, biết thế nào là tàn ác ! Miễn thắng. Đây là cơ hội tốt để chúng ta dự kiến một cuộc đấu không tiền khoáng hậu.
– Trận này chắc ghê gớm lắm, chẳng biết kết quả sẽ ra sao, ai thắng ai bại ? Mà không rõ Thạch Đạt Lang đã đến Kokura chưa ?
– Chắc gì hắn dám đến dự ? Nếu thấy yếu thế, có thể hắn chuồn mất rồi cũng nên.
Trước kia ở đồi Sinh Minh bị vây khốn, hắn cũng làm vậy !
Đại để những lời bàn tán cứ thế truyền đi, mỗi người một ý chia thành hai phe rõ rệt. Đệ tử Hoa Sơn còn sống nghĩ đến thù cũ, không bỏ lỡ cơ hội bịa đặt thêm nhiều tin tức khác nữa không ngoài chủ ý hạ uy thế và gièm pha Thạch Đạt Lang trước công chúng.
Đã mấy ngày nay, Cát Xuyên Mộc bận rộn tiếp khách không mấy lúc được nhàn rỗi. Đầy tớ trong nhà không đủ sai bảo, Cao Mục Lân phải tiếp tay cắt thêm người đến phục dịch.
Chiều , nhân được đôi chút thời giờ rảnh, Cát Xuyên Mộc ra vườn sau chăm sóc con chim ưng hắn ưa thích. Bỗng nghe báo có khách phương xa tới viếng, Cát Xuyên Mộc cau mày bảo gia nhân:
– Ai thế ?
– Thưa một bà lão nói từ thôn Iwakumi tỉnh Suo tới.
Cát Xuyên Mộc cắn môi:
– Tên gì ?
– Bà không xưng tên, chỉ nói cùng quê với đại nhân. Đại nhân gặp chắc sẽ nhận ra.
Cát Xuyên Mộc lắc đầu:
– Ta bận, không muốn tiếp ai hết. Bảo bà ấy về đi !
Gia nhân vừa lui gót, hắn bỗng đổi ý:
– Phải bà lão người thấp bé, trạc độ sáu mươi, sáu lăm không ?
– Dạ phải.
– Có lẽ di mẫu ta ở dưới quê lên. Thôi được, dẫn bà vào, bảo ngồi đợi ta ở phòng riêng rồi gọi Ôn Chấn Lâm đến đây !
Ôn Chấn Lâm là đệ tử thủ túc của Cát Xuyên Mộc.
Linh cảm một điều chẳng lành, hắn thấy trong lòng bứt rứt.
Ôn Chấn Lâm tới, Cát Xuyên Mộc cố giữ bình tĩnh, hỏi:
– Sáng mốt ở Funashima phải không ?
– Dạ phải.
– Ngươi chuẩn bị đầy đủ cho ta:
quai dép đừng để khô quá, bao tay ta vẫn dùng quen và áo giáp mặc trong …
– Dạ.
– Ngày mai ta phải lên cáo biệt thiếu gia, xong muốn được một đêm yên tĩnh nghỉ ngơi.
– Dạ, đệ tử sẽ thông báo cho gia nhân tạ khách. Họ tới đông quá, nhiều khi cũng phiền.
Cát Xuyên Mộc gật đầu:
– Vì thế ta chẳng muốn tiếp ai. Đôi khi tự hỏi nếu ta vẫn chỉ là một kiếm sĩ không danh vị gì thì không biết họ có đến đông như thế không ? Thắng bại là do khả năng mình định đoạt, chẳng phải nhờ những lời cầu chúc của kẻ xung quanh mà được, huống chi ta biết đôi khi những lời ấy chưa chắc đã thành thật.
Ngưng một lát, Cát Xuyên Mộc lại tiếp:
– Vạn nhất nếu thất bại, ta có hai bản di chúc thảo sẵn để trong thư phòng. Ngươi hãy mang một bản trao cho Cao Mục Lân và một bản cho Mộng Hoa.
Ôn Chấn Lâm cúi đầu:
– Đệ tử trộm nghĩ …
– Không, không ! Những chuyện ấy tự nhiên ta phải tiên liệu. Cuộc chiến nào cũng có những việc bất ngờ. Ta chọn ngươi hôm đó cùng đi với ta. Nhớ mang theo cả con chim ưng này. Trên thuyền, nó sẽ là niềm khích lệ và hộ mệnh cho ta.
– Đa tạ tôn sư.
Cát Xuyên Mộc hài lòng, khẽ gật:
– Bây giờ ngươi lui được rồi.
Chờ đệ tử đi khuất, Cát Xuyên Mộc mới thong thả bước vào phòng riêng.
Trời về chiều. Mây đen từng đám dầy cuồn cuộn đùn lên nền trời vàng úa, báo hiệu một đêm không yên tĩnh.
Trong phòng, tì nữ đã thắp đèn. Dì hắn ngồi nghiêm túc sau chiếc bàn thấp, nét mặt nhẫn nại, bên cạnh la liệt nào gói nào bọc mang từ dưới quê lên. Bà là người thân thích độc nhất còn lại trong gia tộc sau khi mẹ hắn qua đời, tuy không liên lạc thường xuyên nhưng vẫn lưu tâm theo dõi những hoạt động của hắn ở chốn giang hồ.
Cát Xuyên Mộc cúi đầu chào, lễ phép ngồi xuống chiếc bồ đoàn trước mặt. Sau vài lời thăm hỏi thường lệ, bà trịnh trọng nói:
– Cát Xuyên Mộc ! Ta nghe tin ngươi sắp dự một cuộc tranh tài quyết định phải không ?
– Dạ phải.
– Ở làng, ai cũng bàn tán về chuyện ấy, nên ta nóng ruột hôm nay đến thăm. Lâu lắm ngươi chẳng về làng mà ta mỗi ngày tuổi một cao chẳng biết sống chết thế nào, muốn được trông thấy ngươi một lần trước khi nằm xuống.
Yên lặng, bà ngắm Cát Xuyên Mộc. Người kiếm sĩ thành danh trong bộ y phục xa xỉ bằng vóc tía thật khác xa với đứa cháu thiếu niên hơn mười năm trước, khi từ biệt bà ra đi, mặc bộ áo vải thô, trên lưng chỉ đeo có cây trường kiếm. Bà gật đầu thỏa mãn:
– Ta rất vui lòng thấy ngươi đã thành đạt !
– Đa tạ di mẫu. Xin di mẫu tha lỗi cho tiểu điệt đã không viết thư về thăm hỏi trong suốt thời gian ấy. Tiểu điệt tự xét chức vụ còn thấp kém nên không dám làm bận tâm gia đình.
Bà cười rộng lượng:
– Không hề gì. Ta vẫn theo dõi và biết tin ngươi qua những khách thương lui tới tỉnh Suo cất hàng. Lại nghe nói có nhiều kiếm sĩ trong vùng cũng đáp tàu đi Kokura chờ kết quả cuộc đấu. Chỉ tiếc vì có lệnh cấm đến gần đảo Funashima nên chưa biết tìm cách gì mà coi cho rõ.
– Nếu di mẫu muốn, tiểu điệt sẽ xin với thiếu gia mời di mẫu lên khán đài.
– Ấy là nói các kiếm sĩ kia chứ ta biết võ công gì đâu mà coi. Cát Xuyên Mộc ! Ta từ quê lên đây thăm ngươi, nhưng chủ ý cốt dặn ngươi phải thủ thắng, nếu không cả họ sẽ bị nhục lây đó !
Nhưng vừa dứt lời, nhìn nét mặt Cát Xuyên Mộc, bà bỗng thấy hối hận. Lời dặn của bà quả là thừa. Trong ánh mắt kiêu căng của hắn, thoáng hiện vẻ bực dọc, bất mãn khiến bà bối rối. Cát Xuyên Mộc không còn là đứa cháu nhỏ cần đến sự khuyên bảo hướng dẫn của bà hay của bất cứ ai khác nữa.
Bà cúi xuống, giơ tay với cái bọc vải kéo đến gần, mở ra cầm tấm áo lót gấp rất cẩn thận đưa Cát Xuyên Mộc:
– Ta có vật này cho ngươi. Ta đã lên chùa cầu xin các thầy ban phúc, mặc vào sẽ tránh được tai họa. Ngươi hãy mặc nó trước khi lâm trận.
Cát Xuyên Mộc trịnh trọng đưa hai tay đỡ chiếc áo, giở ra ướm thử lên ngực. Trên mặt áo, tên chư Phật, tên các thần linh và bùa chú được vẽ ngoằn ngoèo chi chít.
Cát Xuyên Mộc cúi đầu cảm tạ, gấp áo lại rồi nói:
– Di mẫu đi đường chắc mệt, xin mời di mẫu đi nghỉ.
Đoạn gọi con hầu dẫn bà sang phòng riêng.
Ngồi một mình, nghĩ đến những lời dì hắn vừa dặn, Cát Xuyên Mộc cảm thấy trách nhiệm đè nặng trĩu trên vai. Gia đình, bằng hữu, chủ soái, đồ đệ, mọi người ai cũng giục hắn phải thắng. Đến chính hắn, hắn cũng thấy thế. “Phải thắng ! Phải thắng !
Phải thắng !”. Lời giục giã như những đợt sóng bị gió đánh vào bờ liên tiếp, đập vào tâm giới hắn khiến hắn có cảm tưởng bị bao vây và con đường duy nhất thoát ra để lấy lại quân bình là chiến thắng.
Cát Xuyên Mộc đứng dậy bước ra hiên. Một tiếng “quác” của loài ác điểu săn mồi ban đêm khiến hắn liên tưởng đến luật của kẻ mạnh. Bất giác đôi mắt sắc của con chim ưng hiện ra trong trí. Hăn không ngờ hình ảnh ấy dai dẳng đến thế !
Thạch Đạt Lang đên Shimonoseki đã ba ngày. Ở Kokura chẳng có ai quen thuộc, hắn dự định tìm một lữ điếm nào vắng vẻ tạm trú. Nhưng khi đáp tàu ở Sakai, viên chủ tàu chẳng hiểu được ai giới thiệu, đã nhận ngay ra hắn, mời vào phòng riêng đối ẩm.
Chủ, khách tâm đầu ý hợp, chỉ trong hai ngày hải hành đã trở thành đôi bạn vong niên tương đắc.
Ông tên Mạc Vãn Đạt, tuổi ngoại lục tuần, là một tay cự phú trong nghề vận tải hàng hải, có nhiều chi nhánh đặt tại các thương khẩu lớn miền đông như Nagoya và Osaka. Ở Shimonoseki, một trấn tiếp giáp với Kokura, ông cũng có căn nhà kiến trúc khá quy mô dựng ngay bên bìa rừng ven biển, về mùa hè thường dùng làm nơi nghỉ mát cho cả gia đình.
Chỗ ấy tĩnh mịch lại thuận đường biển đi Kokura và các đảo nhỏ lân cận, thật lý tưởng cho những ai muốn tránh cảnh ồn ào nơi thị tứ. Cho nên khi Vãn Đạt ngỏ ý mời đến tá túc, Thạch Đạt Lang nhận lời ngay.
Hôm sau, Thạch Đạt Lang đến vấn an Điền Xán Quang để cảm ơn về việc ông đứng ra trung gian sắp xếp cuộc gặp gỡ giữa hắn và Cát Xuyên Mộc, đồng thời xác nhận sự có mặt của hắn vào ngày sắp tới tại Funashima.
Một kiếm sĩ hầu cận trong Điền phủ ra nghênh tiếp. Nhìn khách mặc bộ y phục vải gai cũ, gã có ý khinh thường, nghĩ thầm:
“Thì ra đây là danh kiếm Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto đấy !”. Tuy nhiên gã vẫn lễ phép mời vào và nói:
– Điền đại nhân hãy còn trong dinh, chắc ngài cũng sắp về. Xin đại hiệp chờ một lát.
– Bất tất ! Cũng chẳng có chuyện gì quan trọng, hãy chuyển lên đại nhân lời ta cảm ơn là đủ.
Gã hầu cận bước vào. Thạch Đạt Lang vừa định quay gót thì một thiếu niên chạy ra ôm chầm lấy hắn. Thạch Đạt Lang cũng ôm lấy thiếu niên, vỗ vào lưng gã, cảm động nói:
– Hạo Nhiên ! Hạo Nhiên !
Hạo Nhiên khóc nức nở:
– Con đợi tin thầy đã lâu. Thầy có biết con ở đây không ?
Thạch Đạt Lang gật:
– Ta mới biết đây. Con được thương gia Mạc Vãn Đạt nhờ người giới thiệu vào phủ phải không ?
– Dạ phải. Trên đường đi Osaka con bị lạc Lâm đại hiệp, được Mạc đại nhân nuôi làm gia nhân, cho giữ sổ sách. Được ít lâu, vì thấy con không thích việc văn phòng, ông lại nhờ người giới thiệu vào phủ Điền đại nhân cho học kiếm.
Thạch Đạt Lang gật đầu:
– Thế là may lắm. Mạc Vãn Đạt tiên sinh là người tốt, con phải biết ơn ông.
Hạo Nhiên gật đầu nhưng mắt vẫn long lanh ngấn lệ, đăm đăm nhìn Thạch Đạt Lang. Nó sờ tay thầy rồi bỗng nói:
– Thầy gầy hơn trước !
Thạch Đạt Lang mỉm cười, kéo đồ đệ đến ngồi trên ghế đá:
– Con vẫn tập luyện đều như trước kia ta dạy con ở Musashino chứ ?
– Dạ, vẫn tập đều.
– Chớ quên đọc sách nữa. Đọc sách để trau dồi kiến thức và phải luôn luôn khiêm nhường học hỏi.
– Dạ.
– Hạo Nhiên ! Con là đứa trẻ thông minh, tháo vát. Hãy suy nghĩ trước khi hành động, đừng để cho lòng hăng say của tuổi trẻ khiến con làm những điều càn rỡ. Con còn trẻ, đời còn dài. Ai cũng chỉ sống có một lần, hãy gìn giữ đời sống, dành cho nó một mục đích cao cả:
cho danh dự, cho kiếm đạo, cho tổ quốc. Con nhớ lấy:
chỉ chết khi nào cần thiết và hãy chết cho xứng đáng.
Hạo Nhiên ràn rụa nước mắt. Nó thấy đau lòng như đang nghe thầy nói những lời trối trăn, những lời vĩnh biệt:
– Thầy sắp đi Funashima rồi phải không ?
– Ừ, ta phải đi.
– Vậy thầy hãy cố thắng. Cứ nghĩ thầy sẽ không trở về nữa, con không thể nào chịu nổi.
Thạch Đạt Lang cười:
– Vì thế mà con khóc đấy hả ?
– Ở đây người ta bảo thầy không thắng được Giang Biên Liễu đâu. Thầy nhận tham dự làm gì cuộc đấu ấy !
– Lời con nói, ta chẳng ngạc nhiên chút nào. Chỗ này là lãnh địa Hòa Giả mà !
– Vậy thầy chắc thắng chứ ?
– Ta không biết. Nhưng thắng hay bại không phải là chuyện quan tâm nữa. Có thể ta đã nhầm lẫn, nhưng trong hoàn cảnh này, ta buộc lòng phải quyết định như thế. Bỏ trốn tức là từ bỏ con đường chính trực của người cầm kiếm, chẳng những làm nhục ta mà còn làm nhục lây đến nhiều người khác.
– Sao thầy bảo con phải gìn giữ lấy cuộc sống mà …
– Phải, ta đã bảo con như thế. Ta sẽ đem hết sức ra để chiến thắng, nếu có chết cũng chết trong dũng cảm. Nhưng nếu ta chết, âu cũng là bài học cho con:
hãy cố tránh những sự đối đầu phi lý, chẳng lợi gì cho ai và chẳng ích gì cho lý tưởng mình theo đuổi.
Hạo Nhiên ôm chặt lấy Thạch Đạt Lang, dụi đầu vào ngực thầy. Nó linh cảm đây là lần cuối cùng được sum họp với sư phụ nên nước mắt lại trào ra ướt áo.
Có lẽ thấy mình đã đi quá xa, Thạch Đạt Lang đổi đề mục:
– Hạo Nhiên, khi Điền đại nhân về, con hãy chuyển đến ngài lời chào tôn kính của ta. Nói với ngài ta sẽ có mặt ở đảo vào ngày hẹn.
Hạo Nhiên tiễn sư phụ đến tận cổng ngoài, bịn rịn giữ chiếc nón nan và níu áo thầy chẳng muốn rời nửa bước. Thạch Đạt Lang khẽ gỡ tay nó ra, bảo:
– Hạo Nhiên ! Con hãy tỏ ra trưởng thành. Ta ở mãi đây với con được sao ?
Khỏi cổng một quãng, Thạch Đạt Lang rẽ sang đường nhỏ ra bãi biển. Hắn muốn tìm một nơi thoáng đãng để lòng thư thái quên bớt nỗi phiền muộn của cuộc chia ly vừa rồi.
Biển rộng bao la, xanh biếc. Sóng dập dìu xô vào bờ, gần đến chỗ hắn đứng thì tan dần trên cát. Thạch Đạt Lang cảm thấy thoải mái. Ngoài xa, vài con hải âu bay lượn. Về phía tay trái, đảo Funashima hiện rõ với rặng cây xanh và bãi cát trải dài, ánh mặt trời phản chiếu lóng lánh.
Ba chiếc tam bản chở nhiều vật liệu dài và nặng dường như tre hay gỗ, được neo ven bờ đảo. Trên bãi cát, người đứng lố nhố chỉ trỏ. Thạch Đạt Lang đoán chừng họ đang tìm địa điểm dựng khán đài và bãi cát ấy chính là chỗ sẽ diễn ra cuộc tranh phong sắp tới. Hắn để ý quan sát hướng mặt trời mọc và những vệt nước do thủy triều để lại trên mặt cát, đoạn bỏ đi, nhắm hướng Shimonoseki thẳng tiến.
Được một quãng đường bỗng nghe tiếng gọi phía sau. Quay lại thấy bốn năm người tóc hoa râm, da sạm nắng, ăn mặc ra lối kiếm sĩ đang bàn tán chỉ trỏ về phía hắn.
– Thạch Kinh Tử ! Phải tráng sĩ là Thạch Kinh Tử không ?
Ngạc nhiên, Thạch Đạt Lang không rõ những người này là ai, sao lại biết tục danh của mình, thì một người đã tới gần, nói:
– Ta trông tráng sĩ quen lắm. Phải chăng quý quán ở Miyamoto ?
– Tại hạ chính ở Miyamoto, tên Thạch Kinh Tử, nhưng nay đã đổi thành Thạch Điền Đạt Lang. Còn các vị đây là thế nào, sao lại biết tại hạ ?
– Vậy đúng rồi ! Chúng ta đều ở vùng Mimasaka cả. Trước đây năm người chúng ta đều có tập luyện ở võ đường của ông Mưu Ni Sai. Bấy giờ tráng sĩ còn nhỏ chắc chẳng nhớ chúng ta đâu. Ta là An Kiện, lão này là Khương Tích Ân, còn kia là Từ Đồng Hữu, Quan Căn và Hà Đức Bằng. Tuy học ông Mưu Ni Sai nhưng ông đãi ngộ chẳng khác gì bạn, không tỏ vẻ khách khí …
Nghe giọng nói ề à của dân làng hắn, Thạch Đạt Lang không lầm được. Xa quê gặp người đồng hương, hắn mừng rỡ cười cởi mở:
– Ồ, thì ra quý vị tiền bối là bằng hữu với gia nghiêm. Vãn sinh không biết thành ra thất lễ.
Nói đoạn cúi đầu thật thấp tỏ lòng tôn kính.
– Không ngờ gặp các vị Ở đây. Thế làm sao các vị lại có mặt cùng lúc ở một chỗ như thế này được ?
An Kiện giải thích:
– Câu chuyện khá dài. Chỉ biết sau trận Sekigahara, chúng ta tán lạc mỗi người một nơi. Về sau may mắn được Trời Phật phù hộ và nhất là nhờ họ Hòa Giả giúp đỡ, chúng ta làm ăn phát đạt, tuy chẳng giàu có gì nhưng cũng không đến nỗi túng thiếu, nên hàng năm có lệ họp nhau lại ở đây để gặp mặt ôn chuyện cũ và làm lễ cảm tạ Trời Phật cùng ân nhân.
An Kiện nói xong, cả bốn người kia đều gật đầu xác nhận.
Quan Căn lại nói:
– Không ngờ con ông Mưu Ni Sai bây giờ trưởng thành như thế này rồi đấy ! Đáng tiếc ông chẳng còn tại thế để được thấy tài con trai.
Từ Đồng Hữu tiếp lời:
– Lần này tráng sĩ nói đã đổi tên thành Thạch Điền Đạt Lang. Phải chăng chính là người sẽ đối đầu với Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc ngày tháng này tại Funashima?
– Chính thị.
Mọi người “ồ” lên một tiếng.
– Thế sao không vào gặp Điền đại nhân ? Từ Đồng Hữu hỏi. Điền đại nhân là ân nhân của chúng ta, nghe nói rất có hảo cảm với tráng sĩ và trước đây đã cho người đi tìm tráng sĩ nhiều lần. Ta có bạn thân phục thì trong Điền phủ, hãy theo ta đến đó.
Dứt lời, Từ Đồng Hữu vội vã quay gót, kéo bốn người kia đi theo và tưởng Thạch Đạt Lang cũng làm như thế. Ông cho ông là bạn của Mưu Ni Sai thì đương nhiên Thạch Đạt Lang sẽ theo ông. Nhưng hắn vẫn đứng yên chỗ cũ.
– Vãn sinh rất tiếc không đến được, xin lão tiền bối miễn chấp.
– Sao vậy ?
– Vãn sinh e có điều không tiện.
– Thế nào mà không tiện ?
– Lâu nay nghe tin đồn có sự bất đồng ý kiến giữa lãnh chúa Hòa Giả với Điền đại nhân về vấn đề tuyển dụng những kẻ được đề bạt vào trong phủ. Điền đại nhân xem ra không vừa ý với việc bổ nhiệm Cát Xuyên Mộc khiến lãnh chúa có ý nghi ngờ ông lập đảng riêng. Vì thế vãn sinh chẳng muốn để lụy đến ân nhân các vị.
– Tin đồn bậy. Làm gì có chuyện ấy !
Nhưng thấy Thạch Đạt Lang xử sự cẩn trọng, Từ Đồng Hữu cũng thôi, không ép.
Thạch Đạt Lang cười xòa nói chữa cho không khí bớt nghiêm trọng:
– Ấy là vãn sinh đoán mò vậy. Thật ra ở chốn cô lậu, vãn sinh chẳng biết gì về những hoạt động tại phủ đình. Chẳng qua là muốn được về nghỉ một lát cho đỡ mệt nên kiếm cớ đấy thôi. Các vị đừng chấp.
Mọi người đều cười. Nhân sắp đến giờ làm lễ, An Kiện đề nghị mời Thạch Đạt Lang theo họ đến dự lễ rồi sau đó ở lại ăn cơm tối. Thạch Đạt Lang đáp:
– Điều này thì vãn sinh chẳng thể từ chối được. Vậy xin đi theo các vị.
Cả bọn sáu người qua nhiều đường phố và hàng quán, nhưng chẳng thấy ai mời hắn vào. Thạch Đạt Lang lấy làm lạ, lưu tâm đề phòng. Xét tuổi tác, cách ăn nói và cử chỉ, chẳng có điều gì khả nghi. Quanh co mãi, đi hết cả vùng có người ở, ra ngoại ô vắng vẻ, đến một khu rừng thưa mới thấy dừng lại.
Thạch Đạt Lang tưởng đâu trong rừng có đền miếu gì, để ý quan sát. Nhưng không!
Khu rừng vắng vẻ, nắng xế chiếu qua tàn cây, vẽ những hình loang lổ, lay động trên mặt cỏ. Tiếng chim gõ kiến vẳng lại từ xa đều đều càng làm tăng vẻ tịch mịch.
Dưới gốc cổ thụ xù xì, một người ra dáng lão bộc đã đứng đấy tự bao giờ, bên cạnh mấy bó rơm khô và hai bọc lớn. Thấy sau người tới, lão hơi ngạc nhiên nhưng chẳng nói năng gì, yên lặng mở bọc lấy ra năm chiếc chiếu nhỏ trải trên cỏ thành hàng sau một cái bàn thấp. An Kiện gọi người lão bộc lại, bảo lấy thêm tấm chiếu nữa trải dưới gốc cây, mời Thạch Đạt Lang ngồi rồi nói:
– Xin thứ lỗi cho chúng ta đã dẫn tráng sĩ đến nơi hoang dã này. Đây chính là chỗ chúng ta hành lễ hàng năm. Buổi lễ này thật ra không bao giờ có mặt người lạ, nhưng nay ngẫu nhiên gặp tráng sĩ, một người cũng ở Mimasaka như chúng ta, lại là con đại hiệp Mưu Ni Sai ngày trước, nên chúng ta coi tráng sĩ như người nhà và mời đến dự kiến.
Xin cứ tự nhiên, đừng câu nệ.
Thạch Đạt Lang không rõ lý do gì buổi lễ lại không diễn ra ở một nơi thuận tiện hơn, nhưng vì là khách nên không tiện hỏi. Hắn cảm tạ rồi trịnh trọng ngồi xuống chiếu.
Lão bộc mang rơm đến chia cho năm người mỗi người một nắm. Họ nâng rơm lên ngang trán, lâm râm khấn nguyện, đoạn đặt trước mặt, ngón tay thoăn thoắt xe những cọng rơm, bện lại thành chiếc dép nhỏ dùng để lồng vào móng ngựa cho ngựa chạy được êm hơn như người ta vẫn thường thấy trong thời chiến.
Cả năm người lặng lẽ làm việc, môi mím lại, vẻ trang nghiêm và thành kính.
Nhìn dáng điệu hăng say và quyết tâm của họ, Thạch Đạt Lang bỗng xúc động.
Chẳng biết ngày thường, những kiếm sĩ này làm nghề gì để độ nhật, nhưng cứ xem cung cách họ làm việc. Thạch Đạt Lang thấy hãnh diện được là đồng hương của họ.
Khi mỗi người đã làm xong một bộ bốn chiếc dép, họ xếp tất cả lên bàn, rồi vị cao tuổi nhất đứng trước bàn trịnh trọng nói:
– Mười lăm năm trước, trận Sekigahara đã để lại trong lòng chúng ta những kỷ niệm đau thương không phai nhạt. Tuy gặp nhiều gian lao và cay đắng, chúng ta đã sống quá tuổi thọ chúng ta mong ước. Đó là nhờ ơn Trời Phật, ơn tộc Hòa Giả đã cưu mang và ơn dòng họ Yết Mân đã dạy dỗ. Những công ơn ấy chúng ta không bao giờ quên. Hôm nay chúng ta họp nhau tại đây để nhắc nhở những công ơn ấy và mong cho mọi người chúng ta được an lạc.
Lời lão vừa dứt, tất cả đều đồng thanh hô lớn:
– Ơn Trời Phật, ơn tộc Hòa Giả, ơn họ Yết Mân, ba công ơn ấy xin đời đời khắc cốt.
Đoạn khấu đầu làm lễ:
một lễ tạ Ơn Trời Phật, một lễ hướng về phía lâu đài dinh Hòa Giả và một lễ về quê hương Mimasaka xa tắp. Lễ xong, lão An Kiện bưng chiếc bàn đến những cây quanh vùng, theo sau là bốn bạn đồng cảnh, treo những chiếc dép móng ngựa đã làm lên cành cây, vỗ tay mà khấn vong hồn các tử sĩ về tiếp nhận.
Bữa ăn sau đó được bày ra, cũng chẳng lấy gì làm thịnh soạn:
món cá khô, món măng nấu đậu và món khoai sọ hầm. Nhưng có rượu sa-kê. Mọi người ăn uống vui vẻ.
Riêng Thạch Đạt Lang thấy ngon miệng và thoải mái vô cùng.
Trong không khí cởi mở ấy, hắn đã không ngần ngại hỏi:
– Vãn sinh rất hân hạnh được các vị tiền bối cho dự lễ hôm nay. Buổi lễ tuy nhỏ nhưng nặng ý nghĩa. Duy có điều chưa hiểu, tại sao các vị lại làm những chiếc dép rơm như vậy.
Từ Đồng Hữu bèn giải thích:
– Có gì đâu. Số là sau khi thua trận, năm anh em ta ngẫu nhiên gặp nhau ở đồi này. Tất cả đều đói khát rách rưới, chẳng biết nương tựa vào đâu nữa. Nhưng xách gươm đi ăn cướp thì dù chết đói chúng ta cũng không làm. Nên họp nhau lại tìm kế. Bấy giờ tuy nói là chiến tranh đã kết liễu nhưng nhiều nơi vẫn còn loạn lắm. Quan quân phải tuần tiễu. Ngựa chạy nhiều thì mòn móng, vả quân tế tác cũng cần ngựa chạy cho êm nữa, nên chúng ta họp nhau lại đan dép ngựa mà bán. Chẳng làm nghề này bao giờ, lại không khéo tay, chỉ học lỏm của người ta nên vụng về lắm. Lúc đầu kiếm chẳng đủ ăn, sau dần dần cũng khá. Vì vậy cho nên nhớ đến nghề cũ đã cứu anh em khỏi cảnh khốn cùng mà năm nào chúng ta cũng làm vài đôi dép tượng trưng như thế để đừng quên thuở hàn vi.
Kể xong, Từ Đồng Hữu bưng hũ rượu rót cho mọi người, đoạn tiếp:
– Mà tráng sĩ bận tâm làm gì đến những chuyện nhỏ mọn ấy ? Hai ngày nữa đây, tráng sĩ sẽ ra trận. Ta ước mong tráng sĩ chiến đấu dũng cảm. Nếu chẳng may có mệnh hệ nào, chúng ta sẽ mang di hài về Mimasaka mai táng tươm tất. Món ăn của chúng ta có thể không ngon, rượu của chúng ta có thể không lấy gì làm đặc biệt, nhưng lòng anh em chúng ta nhất định thành thật. Ta đoan với tráng sĩ như vậy.
Thạch Đạt Lang vui vẻ giơ cao bát rượu:
– Vãn sinh may mắn được dự tiệc nhỏ này với các vị tiền bối. Bữa tiệc này còn ngon hơn cả những chỗ cao sang khác. Vãn sinh hy vọng được may mắn như các vị !
– Hà hà ! Vậy tráng sĩ phải học đan dép rơm trước đã.
Mọi người ha hả cười, vang cả khu rừng vắng.
Chương 84: Hôn ước
Nghe tin Thạch Đạt Lang tìm đến vấn an mà người nhà chẳng ai giữ lại, Điền Xán Quang giận lắm. Nhưng bản tính khoan hòa trầm tĩnh, ông chỉ quở mắng qua loa, tự trách mình sơ xuất không dặn trước kẻ hầu cận. Chẳng ai biết Thạch Đạt Lang ngụ Ở đâu. Ông cho gia nhân đi lục soát khắp các lữ quán, nhưng đến trưa, một số trở về, không ai tìm ra tung tích người kiếm sĩ giang hồ ấy.
Điền Xán Quang cau mày lo ngại. Sự quan tâm của ông không phải không có duyên cớ. Trước đó, ông nghe nói một số đệ tử Hoa Sơn cũ đã nuôi ý định mai phục ở gần bến đò trông sang đảo Funashima, chờ Thạch Đạt Lang đến thì dùng hỏa khí bắn để trả hận. Ông không tin, vì hắn dễ gì bị rơi vào ổ phục kích như thế. Tuy vậy, ông vẫn đứng ngồi không yên, lòng bồn chồn như lửa đốt.
“Hay là hắn bỏ trốn rồi ? Có lý nào …”. Và Điền Xán Quang vội gạt ngay ý tưởng ấy, cho rằng ông đã đánh giá sai lầm một người mà ông vẫn trọng là có danh dự và nghị lực.
Tối đến, gia nhân ông lục tục về đầy đủ, người ngựa mệt nhoài. Vẫn không có tin tức gì của Thạch Đạt Lang cả. Điền Xán Quang lo lắng hỏi:
– Đã tìm khắp các trà thất, tửu điếm chưa ?
– Dạ, không bỏ sót nơi nào. Bọn tiểu nhân không những đã hỏi thăm thực khách mà còn lục soát hết phòng ốc. Tuyệt nhiên chẳng ai biết hoặc trông thấy người có dáng dấp như thế đến trọ !
– Vậy chùa chiền, đền miếu ? Hắn thường đến trú ở những nơi đó.
– Cũng đã tìm hết. Ngay cả các võ đường bọn tiểu nhân cũng đã tới nhưng chẳng có tin tức gì.
– Lạ thật !
Trán Điền Xán Quang nhăn lại. Hồi chiều, lòng phiền muộn, ông đã cáo ốm không dự bữa tiệc linh đình do Giảng tập bộ khoản đãi Cát Xuyên Mộc, bây giờ nghe báo cáo những tin thất ý, ông lại càng buồn bực lắm. Mỗi nghi ngờ mỗi lúc một tăng làm ông trằn trọc suốt đêm không chợp mắt.
Ngày mai đã là , ngày ước định, mà tối nay vẫn chưa biết chỗ trú của Thạch Đạt Lang ở đâu. Từ nay đến lúc ấy, nếu chẳng được tin tức gì của gã thì không rõ rồi đây ông phải giải thích ra sao với chủ soái.
Điền Xán Quang cố tự thuyết phục mình rằng Thạch Đạt Lang là kẻ tự trọng, không thể hèn nhát như thế được, nhưng những chuyện đồn đại về hắn, nói hắn thường tìm cách tránh mặt mỗi khi thấy yếu thế khiến ông nửa tin nửa ngờ. Vạn nhất nếu chuyện đó xảy ra thì ông, người đứng ra bảo trợ và đề bạt Thạch Đạt Lang, không còn cách nào khác hơn là tự sát để tạ tội với lãnh chúa.
Hôm sau, mới tinh sương, Điền Xán Quang đã trở dậy ra vườn đi bách bộ. Tiếng kêu lích chích của đàn chim nhỏ chuyền cành khuấy động bầu không khí mỏng nhẹ như tơ. Vào những lúc khác, có lẽ ông đã chú ý lắng nghe những tiếng xôn xao ấy báo hiệu sự hồi sinh của vạn vật, nhưng hôm nay ông không còn bụng dạ nào mà nghe chúng nữa. Bước chân ông vội vã trên con đường sạn nhỏ, đôi lúc ngập ngừng dừng lại, băn khoăn bên tảng đá xanh rêu.
– Có lý nào ta đã nhận xét lầm kẻ đó ? Mà thật ra, ta chỉ mới nghe nói chứ đã trực diện với hắn bao giờ đâu !
Kẻ hầu đến trình với ông, trước sân nhà Cát Xuyên Mộc đã có hàng trăm tân khách tụ tập. Họ dựng cổng chào, trang hoàng rực rỡ, nào cờ xí, nào huy hiệu của tộc Hòa Giả và của Giang Biên Liễu, lại còn đặt bình phong giát vàng treo thiếp mang lời chúc tụng của khách. Nghe đâu còn dự định chia nhau đến những ngôi chùa lớn cầu nguyện cho Cát Xuyên Mộc nữa.
Điền Xán Quang không nói gì, nét mặt đăm chiêu trở vào phòng riêng gây một lư trầm nhỏ. Hàng ngày mỗi buổi sáng ông thường có thói quen như thế, nhưng hôm nay, trông dáng ông mệt mỏi và nghiêm trọng khác thường. Bỏ từng thanh trầm nhỏ vào lư, Điền Xán Quang lặng lẽ nhìn làn khói xanh thong thả bốc cao. Mùi trầm thơm tỏa nhè nhẹ. Ông gọi gia nhân bảo sửa soạn bồn tắm và mang đến cho ông một bộ kimono trắng cùng đoản kiếm, đoạn vời vệ sĩ thân tính Đàm Phương Nghi vào. Nhìn ông, viên vệ sĩ đã đoán ngay chuyện gì sắp xảy ra. Gã thảng thốt kêu khẽ:
– Đại nhân !
Điền Xán Quang gật đầu, điễm tĩnh:
– Ta làm việc phải làm. Sáng nay có tin gì mới về Thạch Đạt Lang không ?
– Dạ không, nhưng tiểu nhân trộm nghĩ có thể hỏi Hạo Nhiên được. Hôm trước thấy Hạo Nhiên đứng nói chuyện với Thạch Đạt Lang khá lâu tại cổng ngoài.
Điền Xán Quang cau mày:
– Sao không cho ta biết sớm ? Gọi nó vào đây !
Lát sau Hạo Nhiên được dẫn vào, nhưng hỏi, nó cũng không biết Thạch Đạt Lang hiện trọ Ở đâu, chỉ ước đoán có lẽ tạm trú tại nhà Mạc Vãn Đạt ở Shimonoseki mà thôi.
Như sực tỉnh, Điền Xán Quang tự trách mình sao không sớm nghĩ ra. Bèn viết ngay một phong thư cho Thạch Đạt Lang, nói đại ý Cát Xuyên Mộc sẽ tới Funashima vào giờ thìn. Ông giục hắn đến nhà ông ngay lập tức. Thuyền nhẹ và trạo phu lành nghề sẵn sàng để chở hắn tới chỗ hẹn.
Trao thư cho vệ sĩ xong, ông còn cẩn thận dặn:
– Nếu gặp Thạch đại hiệp, nhớ đưa tận tay và chờ phúc đáp. Chọn ngựa tốt, đi ngay kẻo trễ.
Hạo Nhiên xin theo, Điền Xán Quang cũng gật. Cả hai hối hả xuống tàu ngựa và chỉ một thoáng sau đã nghe tiếng vó ngựa phi lộp cộp ở cổng ngoài.
Đến Shimonoseki, gặp lại ân nhân, Hạo Nhiên vui mừng khôn xiết. Thi lễ xong, hỏi về tin tức sư phụ, được biết Thạch Đạt Lang quả có tá túc tại đó, nó thở phào nhẹ nhõm. Đàm Phương Nghị nói:
– Thật không ngờ ! Nếu biết đại hiệp ở đây thì cả ngày hôm qua Điền đại nhân đâu phải lo ấu đến thế !
Bèn xin cho được gặp mặt. Mạc Vãn Đạt sai người thông báo, lát sau gia nhân ra, nói:
– Đại hiệp còn ngủ.
Đàm Phương Nghị sửng sốt:
– Còn ngủ ? Thế ông không nhớ hôm nay là ngày gì à ?
– Chắc ông không quên đâu. Mạc Vãn Đạt nói. Nhưng không sao, để lão phu vào đánh thức …
Một chốc, thấy Thạch Đạt Lang đi ra, thần sắc thư thái lạ lùng như người không hề có điều gì lo lắng. Nhìn Hạo Nhiên quỳ ở góc phòng, hắn gật đầu cười rồi quay sang phía Đàm Phương Nghị:
– Tôn khách muốn gặp tại hạ, chắc có điều chi dạy bảo ?
Đàm Phương Nghị tự giới thiệu xong trình thư lên. Thạch Đạt Lang bật niêm mở xem, đoạn vắn tắt:
– Xin đa tạ.
– Vậy đại hiệp đi ngay cho, kẻo trễ.
Nhưng Thạch Đạt Lang lắc đầu:
– Rất tiếc tại hạ không nghe theo được. Để xin phúc đáp, nhờ túc hạ mang về trình Điền đại nhân rõ.
Nói đoạn đến bên kỷ thảo một bức thư trao cho Đàm Phương Nghị:
– Tất cả đã được giải thích trong thư này, phiền túc hạ chuyển giúp và nói với đại nhân, tại hạ rất cảm kích.
Trong suốt thời gian gặp gỡ, Thạch Đạt Lang và Hạo Nhiên không trao đổi với nhau một lời, nhưng đến khi chia tay, nhìn mắt học trò rưng rưng lệ, Thạch Đạt Lang nghiêm mặt:
– Hạo Nhiên, nếu thực lòng ngươi muốn theo kiếm đạo thì phải giữ tâm đừng để dao động, dù trước cái chết !
Thấy vệ sĩ mang tin tức Thạch Đạt Lang về, Điền Xán Quang mừng như người vừa trút được gánh nặng lớn. Ông mở vội thư ra đọc:
“Đa tạ đại nhân đã ưu ái dành cho thuyền riêng để sử dụng. Nhưng rất tiếc, tiểu nhân buộc lòng phải từ khước. Thứ nhất vì tự xét không đáng được hưởng danh dự ấy, thứ hai vì tiểu nhân là đối thủ của Giang Biên Liễu, nếu nhận lời dùng thuyền của đại nhân cấp cho thì e sẽ gây ngộ nhận giữa đại nhân và lãnh chúa tộc Hòa Giả. Cũng vì lý do ấy mà tiểu nhân đã đến tạm trú tại tư gia Mạc Vãn Đạt tiên sinh. Vậy xin đừng quan tâm gì đến kẻ lãng tử này. Tiểu nhân hứa sẽ có mặt ở nơi hẹn vào lúc thích hợp”.
Đọc xong, Điền Xán Quang mơ mộng nhìn ra xa. Lời thư thẳng thắn, ý tứ ân cần mà khiêm tốn biết bao ! Chẳng biết rồi đây ông có cơ hội nào được tiếp xúc với con người ấy nữa không ! Bất giác Điền Xán Quang cảm thấy hối hận đã nghi ngờ hắn.
– Trình đại nhân, sắp đến giờ rồi, xin đại nhân sửa soạn. Cao Mục Lân và toán nhân chứng đã lên đường từ lúc nãy.
Lời nhắc của thuộc hạ chợt kéo ông về thực tại.
– Ờ … mặc họ, vội gì … Đã lấy gì làm trễ !
Rồi gọi Hạo Nhiên đến, ông hỏi:
– Hạo Nhiên ! Ngươi là đứa trẻ tháo vát nhưng liệu có giữ được bình tĩnh khi gặp chuyện chẳng lành không ?
– Dạ, thưa … chắc được !
– Vậy tốt, ta sẽ cho ngươi theo đến Funashima. Nhưng ta bảo trước:
nếu phải thu nhặt thi hài của sư phụ ngươi thì ngươi phải làm cho đĩnh đạt. Ta không muốn thấy kẻ hầu cận ta khóc lóc hay có thái độ hèn yếu.
– Dạ, tiểu nhân xin tuân lệnh.
– Hay lắm ! Vậy bây giờ hãy vào sửa soạn đi rồi chờ Đàm Phương Nghị đến đón.
Ngoài bãi, bến đò vắng hoe. Vệ binh đã bắt đầu tuần tiễu từ nửa đêm. Thuyền đánh cá cùng những đò xuôi ngược đều bị giam, neo lại một rạch nhỏ ăn thông ra biển và được canh chừng nghiêm mật. Trừ những kẻ có phận sự ra, tuyệt đối không ai được lai vãng trên bãi. Tuy thế, ở các ghềnh đá cao trông sang Funashima, nếu chú ý, người ta cũng vẫn thấy có nhiều bóng đen đứng, ngồi lố nhố chờ đợi.
Bên kia là đảo. Khán đài lộ thiên đã dựng xong ở ven một khu rừng gồm toàn những cây bạch tùng cằn cỗi, cành khẳng khiu bị gió vùi dập lâu ngày đã giạt hẳn về một phía. Lá cờ lệnh thêu nhật nguyệt của tộc Hòa Giả được cắm chính giữa khán đài, gió đánh bay phần phật. Xung quanh là tám lá cờ ngũ sắc tượng trưng cho tám vì tinh tú và cũng là huy hiệu của tám kiếm sĩ trụ cột hộ vệ cho tộc ấy.
Trước khán đài, bãi cát mênh mông. Thủy triều rút đi để trơ lại những tảng đá đen rải rác, nước đọng xung quanh như những hòn đảo nhỏ, chim hải âu bay lượng kêu quang quác.
Xa xa ở phía chân trời, lẩn sau những vạt khói lam chưa tan hết, lâu đài Hòa Giả hiện ra mờ nhạt. Dưới chân lâu đài, tân khách đứng chật khu vườn nhỏ. Con thuyền Đạo Uẩn dành riêng cho Cát Xuyên Mộc trong chuyến đi đinh mệnh này đã sẵn sàng với hai trạo phu thiện nghệ, mũi thuyền cắm cờ lệnh mang huy hiệu của Giang Biên Liễu.
Thấy Cát Xuyên Mộc tới, tân khách giãn ra hai bên. Nghiêm trang đi giữa hai hàng tân khách, hắn thỉnh thoảng cúi đầu đáp lễ những lời chúc tụng ồn ào của họ, rồi bước đến bên thuyền đợi sẵn, theo sau là Ôn Chấn Lâm, người đệ tử thân tín với con chim ưng hộ mệnh đậu trên cườm tay.
Hôm nay, Cát Xuyên Mộc mặc kimono lụa tay chẽn, thêu hoa chìm, quần ống rộng bó sát vào bắp chân bằng xà cạp da, bên ngoài khoác áo choàng vóc tía. Dép vừa đủ ấm để giữ cho quai mềm dễ đi. Trên lưng đeo cây trường kiếm dài đặc biệt cố hữu, tuy từ khi vào nhận chức vụ giảng viên trong giảng tập bộ, hắn chẳng mấy khi dùng đến. Cát Xuyên Mộc đẫy đà hơn trước, gương mặt tròn hơn, phong cách cao ngạo, rõ ra là một kiếm sĩ danh vọng.
Hắn bước lên thềm, Ôn Chấn Lâm ngồi phía sau. Lái đò đẩy mạnh thuyền khỏi bến rồi rướn người đưa những mái chèo nhanh và gọn. Con thuyền phăng phăng lướt sóng ra khơi giữa những tiếng hoan hô vang dậy của đám đông đi tiễn trên bãi.
Tân khách lục đục ra về. Cạnh gốc thông, nàng Mộng Hoa nhìn theo, mắt mờ lệ.
Bên cuộc đời công, ai cũng có một đời tư. Sau những cuộc tiễn đưa linh đình và những lời chúc tụng hoa mỹ ấy, có ai biết người thiếu nữ kia đã khóc hết nước mắt.
Trên thuyền, Cát Xuyên Mộc vuốt ve con chim ưng hắn ưa thích. Trời xanh biển rộng, nước trong veo, nhưng hôm nay sóng hơi lớn. Mỗi khi con thuyền chòng chành, bọt nước văng trắng xóa lên mạn thuyền, con chim lại hung hăng xù lông, nghiêng đầu, vỗ cánh.
Cát Xuyên Mộc gõ chiếc mũ trùm mắt, tháo dây buộc chân chim ra, tung nó lên cao và nói:
– Trả ngươi về trời !
Như mọi lần, con chim xoải rộng cánh, rồi như tên bắn, rượt theo chụp một con mồi bay ngang. Chỉ nghe tiếng quác, lông con mồi đã rơi xuống lả tả. Nhưng không thấy chủ gọi lại, nó vút lên cao mất hút trong những tầng mây bạc.
Sau khi đã phóng thích con chim, Cát Xuyên Mộc mang bùa và các vật dụng linh tinh khác do thân hữu tặng để cầu may, kể cả chiếc áo lót dì hắn cho, thả từng cái một xuống biển rồi ngả lưng vào mạn thuyền nhìn trời mơ mộng. Những thứ ấy bây giờ đối với hắn là gánh nặng và những lời chúc tụng của họ, dù thành thực đến đâu, cũng chỉ bó buộc, phiền toái chứ chẳng giúp ích gì được.
Trước giờ giao đấu, Cát Xuyên Mộc tin vào hắn và chỉ mình hắn thôi, mọi thứ khác đều hão huyền cả.
Gió biển mặn mơn trên má. Cát Xuyên Mộc chăm chú nhìn rặng bạch tùng trên đảo Funashima hiện rõ dần trước mặt.
Ở Shimonoseki, Mạc Vãn Đạt gọi gia nhân vào hỏi:
– Ngươi đã sửa soạn thuyền bè đầy đủ như ta dặn chưa ?
– Dạ, đã sẵn sàng. Nô tài chọn chiếc thuyền nhanh nhất, kỳ cọ sạch sẽ và đã rắc muối tẩy uế, hiện neo ở sau nhà cùng với các thuyền khác.
Ông gật đầu bằng lòng, nhưng lát sau, nghĩ sao lại đổi ý:
– Thôi đừng để nó ở đấy nữa. Chèo ra chỗ ghềnh đá, gần gốc tùng lá bạc vẫn được gọi là ngân tùng ấy, ngồi đợi.
– Sao phải thế, thưa chủ nhân ?
– Thạch đại hiệp ở đây, bây giờ chắc đã nhiều người biết, ta không muốn họ đến làm phiền đại hiệp.
Dự đoán của Mạc Vãn Đạt quả đúng. Sáng nay, sự sinh hoạt trong trấn Shimonoseki rộn rịp khác thường. Xung quanh biệt thất của ông dường như có nhiều người qua lại dòm ngó. Có thể là quân do thám của phái Hoa Sơn cũ, nhưng cũng có thể là những người thân thuộc hoặc kẻ đồng hương với Thạch Đạt Lang, chẳng ai biết chắc.
Đầu giờ thìn đã qua mà chẳng thấy động tĩnh gì trong phòng Thạch Đạt Lang, Mạc Vãn Đạt thắc mắc gọi người hầu đến hỏi:
– Thạch đại hiệp còn trong phòng không ?
– Dạ còn.
– Ông hiện làm gì trong đó ?
– Thưa, ông vẽ tranh.
– Vẽ tranh ?
Mạc Vãn Đạt cau mặt. “Hừ … Tối qua ta có đàm đạo với ông về hội họa và ngỏ ý xin một bức tranh. Có lẽ vì thế chăng ?” Khẽ thở dại, ông bảo người hầu:
– Bây giờ không phải lúc vẽ. Ngươi vào nhắc đại hiệp đã đến giờ để đại hiệp chuẩn bị. Nói cho khéo …
Người hầu lui ra, nhưng nghĩ sao ông lại gọi lại bảo thôi, để ông đích thân vào nhắc.
Trong phòng, Thạch Đạt Lang quỳ trên chiếu, yên lặng như người tĩnh tọa, mắt đăm đăm nhìn tờ giây trải ngay ngắn trước mặt, xung quanh la liệt những ống bút, mực và màu nước.
Tờ giấy còn trắng nguyên. Hắn không biết vẽ gì, hay đúng hơn, có lẽ đang đắm mình trong những suy tư tìm cảm hứng cho bức tranh. Tờ giấy trắng là vũ trụ chưa thành hình. Một nét bút đặt đúng chỗ sẽ như tia lửa khởi đầu để phát huy sức sống mãnh liệt trong vũ trụ ấy. Chủ đề có thể là mưa, là gió, là sấm sét hay dông bão mà cũng có thể là những vật tầm thường, một búp non, một con kiến, nhưng phải thể hiện sức sống dạo dào trong trời đất từ vạn kỷ trước cho đến nay và sau này, mãi mãi. Dù diễn tả cái gì, tâm hắn cũng sẽ được phơi trải trên giấy. Tâm hắn xao động, tranh sẽ cuồng loạn; tâm hắn yên bình, tranh sẽ thuần hậu ôn nhu, thông điệp ấy người xem không thể không cảm thấy. Đó là cái hồn của tranh và nó sẽ còn mãi, lưu lại trên giấy dù sau khi thể xác hắn đã mai một. Cho nên hắn cố giữ cho lòng thư thái, để tâm tư hòa hợp trong một trạng thái đồng nhất. Phải đó là chân như của nhà Phật hay không, hắn không dám xác quyết nhưng hắn tin trạng thái ấy sẽ gây cho hắn một nguồn cảm hứng chân thật và sẽ là cái hồn của bức tranh hắn muốn lưu lại sau này.
Tiếng động ngoài cửa khiên Thạch Đạt Lang quay nhìn ra. Thấy chủ nhân, hắn cúi đầu chào rồi cung kính mời vào.
– Lão phu đến làm gián đoạn cảm hứng của tráng sĩ, thật ân hận, nhưng buộc lòng phải nhắc để tráng sĩ rõ đã đến giờ hẹn.
– Vãn sinh biết.
– Tất cả mọi thứ đã chuẩn bị xong, chỉ còn chờ tráng sĩ.
– Xin đa tạ hảo ý.
– Tráng sĩ đừng quan tâm đến tranh làm gì nữa. Để khi ở Funashima về, vẽ sau cũng được.
Thạch Đạt Lang mỉm cười. Chủ nhân lại tiếp:
– Khi nào chuẩn bị xong, xin cứ gọi. Lão phu đợi ở phòng ngoài.
Cảm động về sự ân cần ấy, Thạch Đạt Lang không biết nói sao, chỉ nhắc lại lời cảm ơn và hỏi:
– Thưa tiên sinh, bao giờ thì nước triều dâng ?
– Mùa này, từ giờ mão đến giờ thìn là lúc thủy triều thấp nhất. Bây giờ nước triều sắp dâng đấy.
– Xin đa tạ.
Thấy không còn gì để nói nữa, Mạc Vãn Đạt quay ra, giơ tay khép cửa. Nhưng ngồi trong phòng khách chưa được bao lâu, ông thấy bồn chồn trong dạ, đứng dậy ra hiên đi đi lại lại.
Nước triều đã lên. Ngoài xa, những đợt sóng bạc đầu liên tiếp dồn tới, tiếng vọng rì rào, thúc giục.
Trên bãi cát, một người phi ngựa như bay tới. Đến gần thì ra là Đàm Phương Nghị:
– Thạch đại hiệp đã đi chưa, thưa tiên sinh ?
Mạc Vãn Đạt lắc đầu.
– Xin tiên sinh nói với đại hiệp đã trễ giờ rồi, phải lên đường ngay mới kịp. Cát Xuyên Mộc đã khởi hành từ lâu, chắc bây giờ đã ở Funashima. Điền đại nhân cũng vừa rời khỏi Kokura.
– Được, để lão phu thông báo.
– Xin tiên sinh thứ lỗi, nhưng Điền đại nhân sợ Thạch đại hiệp trễ hẹn.
Chưa dứt câu, gã đã giật cương cho ngựa phóng đi mất. Gia nhân nhà Mạc Vãn Đạt túc trực quanh hiên. Chủ cũng như tớ, sốt ruột nhìn nhau. Sau cùng không thể chịu đựng sự chờ đợi khắc khoải hơn được nữa, chủ nhân lại vào mở cửa phòng Thạch Đạt Lang.
Hắn không còn đấy. Trên chiếu, đè dưới hai tập sách dày, bức tranh mới vẽ còn ướt mực. Trong phần lạc khoản ở đầu bức tranh ghi rõ lời đề tặng của người vẽ cho chủ nhân Mạc Vãn Đạt.
– Thạch tráng sĩ !
Từ phòng thay áo, Thạch Đạt Lang bước ra, gọn gàng trong bộ y phục chẽn bằng vải gai hắn vẫn thường mặc, lưng đeo song kiếm. Hắn nhoẻn miệng cười, vô tư lạ lùng.
Hình như những eo xèo của thế cuộc không còn làm bận tâm con người ấy nữa. Thạch Đạt Lang nói mấy lời cảm tạ và từ biệt người bạn vong niên, đáp lời chúc tụng của số gia nhân đi theo đưa tiễn, đoạn mở tấm cửa gỗ hẹp bước ra, cúi đầu lần chót:
– Xin bảo trọng …
Rồi bước nhanh khỏi cửa, hắn không hề quay đầu nhìn lại.
Cây ngân tùng mọc đơn độc bên ghềnh đá cách đường giáp nước khoảng chừng ba chục trượng. Chỗ ấy vắng vẻ vì là bãi cụt, không có đường lối thông sang bên kia nên chẳng ai lai vãng.
Đã được dặn trước, Thạch Đạt Lang cứ thẳng phía ấy mà tiến tới, lòng bình thản như không. Buổi vẽ tranh lúc nãy đã gột sạch hết mọi ưu tư hay háo hức trong lòng hắn.
Và bây giờ đến Funashima dự cuộc đấu quyết định trong đời, có trở lại hay không hắn cũng chẳng quan tâm nữa. Sống, chết không còn là điều để phải suy nghĩ, Thạch Đạt Lang thản nhiên như sắp bắt đầu một cuộc du ngoạn.
Hồi tưởng lại tám năm về trước, lúc còn hai mươi bốn, hai mươi lăm, ở chân đồi Sinh Minh khi tiến đến bên gốc cổ tùng, tinh thần hắn căng thẳng, lòng lo lắng khi nghĩ đến phải đương đầu với cái chết gần kề. Thanh kiếm đơn độc tuốt trần trong tay, hắn mang nặng tâm trạng sợ hãi, đôi khi tuyệt vọng của con thú bị dồn đến bước đường cùng. Bây giờ thì không, hắn chẳng cảm thấy gì hết !
Chẳng phải vì Cát Xuyên Mộc không ghê gớm bằng đồ chúng Hoa Sơn, trái lại thế, nhưng có lẽ bây giờ hắn đã tự tin hơn. Hay có lẽ tâm tư hắn đã được giải thoát khỏi nỗi lo âu về sự sống, chết ?
– Thạch huynh !
– Thạch Kinh Tử !
Tiếng gọi cùng hai bóng người theo chân nhau chạy về phía hắn làm Thạch Đạt Lang sửng sốt:
– Kìa Lâm Bằng ! Bà Hồ Điểu ! Hai người làm gì ở đây vậy ?
Cả hai, áo quần lem luốc, đến quỳ dưới chân Thạch Đạt Lang. Hắn tránh sang bên rồi cũng vối vã quỳ xuống đỡ bà Hồ Điểu dậy.
– Bà Hồ Điểu ! Bà sao thế ? Con đây mà !
– Nghe tin ngươi sắp giao tranh với Cát Xuyên Mộc, ta đến tiễn ngươi. Chỉ sợ không kịp.
– Thạch huynh, đệ cũng thế, không ngờ may mắn còn gặp đại huynh.
– Trước khi ngươi đi, ta có lời xin lỗi.
Vừa nói, bà Hồ Điểu vừa cúi đầu chấm nước mắt.
– Có chuyện gì vậy bà ? Sao bà phải xin lỗi ?
– Ta xin lỗi vì đã tàn ác với ngươi trong bao nhiêu năm nay. Ta hiểu lầm, tình mẫu tử đã làm ta mờ mắt. Bây giờ biết ra thì đã muộn, ta thành tâm xin lỗi. Thạch Kinh Tử, con tha lỗi cho ta !
Thạch Đạt Lang nhìn bà Hồ Điểu. Hắn không tin những lời hắn vừa nghe được, nhưng trông bà già bé nhỏ, đầu cúi vì hối hận, ngập ngừng nói những lời cầu khẩn trong nước mắt rưng rưng, hắn bỗng thấy lòng tràn ngập thương cảm. Xúc động, Thạch Đạt Lang nắm tay bà, tay bà run run và tay hắn cũng không vững. Phải một lát sau mới trấn tĩnh, hắn nói:
– Con cảm ơn bà đã cho biết như thế. Bây giờ con yên tâm. Trong cuộc chiến, dù có chết, lòng con cũng thanh thản không còn hối tiếc gì nữa.
– Vậy con tha lỗi cho ta chứ ?
– Dĩ nhiên rồi ! Con cũng xin bà bỏ qua cho tất cả những điều con đã gây ra khiến bà phải đau lòng từ khi con bỏ làng ra đi.
Bà Hồ Điểu gật.
– Còn chuyện này nữa. Oa Tử kia kìa ! Nó cũng đến đấy !
Bà hất hàm chỉ về phía cây tùng. Thạch Đạt Lang trông theo và chỉ mấy bước đã chạy đến gốc cổ tùng:
– Oa Tử ! Nàng đấy ư ?
Oa Tử nhìn Thạch Đạt Lang, không nói được câu nào. Nàng như người nghẹn họng, nước mắt chỉ chực trào ra. Chao ôi ! Nói gì đây ? Lời nào đủ để lấp cho đầy khoảng trống bao năm xa cách ?
Oa Tử cúi đầu, hai tay bưng mặt. Sự xúc động khiến sắc mặt nàng tái nhợt.
– Oa Tử ! Nàng sao thế ? Nàng không được khỏe phải không ?
Lời hỏi thăm của Thạch Đạt Lang xa xôi, nghe như một câu thơ lạc vận. Oa Tử bặm môi cố giữ cho khỏi khóc. Giờ khắc này đứng đây với người yêu, biết đâu không phải là những giờ khắc cuối cùng chẳng bao giờ có lại được nữa. Nàng không thể làm hư nó được. Nàng phải can đảm. Bình tĩnh ! Bình tĩnh !
– Vâng, thiếp chẳng được khỏe.
– Mấy năm nay nàng ở đâu ?
– Thiếp đã trở về chùa Tiểu Sơn mùa thu năm ngoái.
– Trở về chùa Tiểu Sơn ư ?
– Vâng, về chùa Tiểu Sơn.
Oa Tử ngẩng nhìn Thạch Đạt Lang. Hai giọt lệ bắt đầu long lanh nơi khóe mắt:
– Nhưng không có nơi nào là quê hương thật sự cho một kẻ mồ côi như thiếp cả.
Quê hương thật sự chỉ có trong lòng thiếp mà thôi !
– Nàng đừng nói vậy ! Bà Hồ Điểu cũng thương yêu nàng thật tình chứ ?
Oa Tử gật.
– Vậy nàng hãy cố gắng giữ sức khỏe, cố khỏi bệnh để giữ lấy hạnh phúc.
– Lúc này thiếp đang có hạnh phúc.
– Vậy ư ? Nếu nàng có hạnh phúc thì ta cũng có hạnh phúc. Ráng giữ lấy, vì ta mà giữ lấy … Oa Tử …
Thạch Đạt Lang ôm Oa Tử vào lòng, quên cả sự có mặt của Lâm Bằng và bà Hồ Điểu gần đó, áp má hắn vào má người yêu:
– Nàng gầy quá !
Trên má hắn, hơi thở của Oa Tử nóng như lửa đốt.
– Nóng như thế này không phải là điều tốt ! Oa Tử, tha lỗi cho ta, tha lỗi cho ta nhé. Có lẽ nàng cho là ta vô tình nhưng thật ra không phải thế !
– Thiếp biết chứ !
– Nàng biết ư ? Thật không ?
– Thật ! Nhưng xin chàng hãy nói với thiếp một điều, một điều thôi. Hãy nhận thiếp là vợ chàng !
– Nói gì điều thừa ấy ? Nàng vừa bảo nàng đã rõ lòng ta rồi mà !
– Không ! Không ! Chàng cứ nói ! Nói đi, Thạch Đạt Lang …
Không dằn được, Oa Tử bật khóc nức nở.
– Hãy nói cho thiếp biết thiếp là vợ chàng trong suốt kiếp này nhé … nhé ! Thạch Đạt Lang, chồng yêu quý của thiếp !
Thạch Đạt Lang ôm đầu Oa Tử, nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ của nàng, khẽ gật.
Hai người đứng yên như thế, quên hết mọi sự xung quanh. Không gian và thời gian không còn nữa. Lát sau, nhè nhẹ gỡ tay Oa Tử ra, Thạch Đạt Lang bảo:
– Vợ kiếm sĩ thấy chồng ra trận không được khóc. Oa Tử ! Nàng hãy cười đi ! Đây có lẽ là lần cuối cùng trượng phu của nàng dự vào một cuộc tranh phong như thế này.
Hãy tiễn ta bằng một nụ cười cho ta yên bụng.
Oa Tử biết giờ chia tay đã điểm. Thạch Đạt Lang nhìn nàng lúc lâu rồi mỉm cười khẽ nói:
– Tạm biệt Oa Tử ! Tạm biệt người vợ yêu quý của ta !
– Vâng, xin tạm biệt.
Oa Tử muốn mỉm cười đáp lại, nhưng môi vừa hé, nước mắt đã trào ra ướt đẫm má.
Nàng không còn nhìn thấy gì nữa.
Thạch Đạt Lang bước vội đến bên ghềnh đá. Gió biển thổi tạt tóc râu hắn, bộ áo vải gai hắn mặc kêu phần phật.
Thấy Thạch Đạt Lang, người trạo phu lành nghề và lực lưỡng được lệnh ở đó từ sáng, chèo thuyền lại gần. Hắn nhảy lên thuyền, nhẹ nhàng như én đậu. Trong khoảnh khắc, con thuyền đã ra xa, nhấp nhô ẩn hiện sau những đợt sóng bạc đầu, nhằm đảo Funashima thẳng tiến.
Oa Tử chạy theo ra ghềnh đá.
– Cô Oa Tử ! Cô định làm gì thế ?
Giang đuổi theo nàng. Cùng với bà Hồ Điểu, nó vừa bắt kịp và giữ Oa Tử lại ở chỗ giáp nước.
– Oa Tử ! Ngươi nghĩ quẩn rồi !
– Không, không ! Bà không hiểu ! Bà để mặc con !
Tìm một chỗ khoáng đãng, Oa Tử ngồi xuống nhìn về phía hướng thuyền vừa đi, sửa lại y phục tề chỉnh, vuốt mớ tóc rối, rồi hai tay đặt lên cát, nàng khấu đầu làm lễ:
– Thạch Đạt Lang ! Chàng đi may mắn !
Bà Hồ Điểu, Lâm Bằng và cả Giang cũng quỳ xuống bên Oa Tử, cầu nguyện cho Thạch Đạt Lang thành công. Mặc dầu hết sức ao ước được nói với sư phụ những lời giã biệt, Giang đã không có được cơ hội. Nhưng nó không hối hận đã nhường những khắc cuối cùng ấy cho Oa Tử.
Chương 85: Lòng biển sâu
Nước triều dâng ào ào, tuôn qua vùng eo biển mạnh như thác lũ.
Gã trạo phu chở Thạch Đạt Lang quả là tay thiện nghệ. Theo đà con nước dâng, lúc rạp mình, lúc ưỡn ngực, gã đẩy mái chèo lên xuống nhịp nhàng, đưa thuyền lướt phăng phăng trên những đợt sóng bạc đầu dồn dập.
Ngồi giữa sạp, nhìn mây trắng lờ lững bay trên nền trời cao trong vắt, lòng Thạch Đạt Lang lâng lâng không bợn chút lo lắng. Quanh thuyền, nước cuồn cuộn trôi nhanh, xanh biếc và sâu thẳm.
Nhìn mây nước, Thạch Đạt Lang bỗng cảm thấy như đang hòa đồng cùng vạn vật và hốt nhiên hiểu rõ cái lẽ vô thường của tạo hóa.
Mây, sóng chẳng qua là những biến động, chỉ được nhận thức qua quan năng của con người. Mây, sóng có sinh có diệt nhưng bản chất không hề thay đổi. Con người nếu tước bỏ hết những ràng buộc bên ngoài đi để trở về cái “bản nguyên vô trạng thái” của mình thì tâm, thân, ý chỉ là một, sẽ thích nghi được với mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ được thư thái. Phải chăng đó là cõi “chân như” ? Tuy vậy Thạch Đạt Lang còn phân vân lắm.
Đối với hắn bây giờ, sự sống chết như bọt nước. Nhưng gió khơi lồng lộng, hắn vẫn rùng mình. Tâm hắn đã vượt khỏi lo âu của sống chết, nhưng thân xác hắn vẫn chưa theo kịp.
Tâm, thân hắn chưa hòa hợp trong một phản ứng đồng nhất. Hắn còn phải tập luyện nhiều để thống nhất quan năng và tư tưởng, để có thể nghĩ bằng tâm, cảm bằng trí. Bấy giờ cả con người hắn sẽ không còn có mây hay sóng nữa.
Thạch Đạt Lang quay hỏi gã trạo phu:
– Bao lâu nữa thì đến Funashima ?
Gã đáp:
– Cũng không lâu, nhờ con nước đang lên và có gió xuôi. Nhưng hiện giờ ta đã trễ rồi, phải chèo gấp.
– Ngươi nhắm chừng lúc nào thì đến nơi ?
– Khoảng giờ tỵ. Bấy giờ con nước bắt đầu xuống.
Thạch Đạt Lang gật đầu, vẻ bằng lòng:
– Không sao, vậy càng tốt.
Trời đẹp. Nắng rực rỡ rắc lên mặt biển những đốm sáng lấp lánh. Thạch Đạt Lang chợt chú ý đến một cây chèo gỗ để bên cạnh chỗ ngồi. Cầm lên ngắm nghía, hắn hỏi gã trạo phu:
– Cho ta mượn tạm cây chèo này được không ?
– Dạ được, nhưng cây chèo ấy gãy một đoạn trên đầu rồi. Đại hiệp định dùng nó làm gì ?
Thạch Đạt Lang nhấc thử trên tay, đoạn vui vẻ cười bí mật:
– Chiều dài được lắm mà tay cầm cũng vừa vặn.
Rồi đặt chiếc bơi chèo lên đùi, hắn rút đoản kiếm ra, băt đầu đẽo vát chỗ gãy đi và gọt nhọn như một lưỡi trường kiếm. Thạch Đạt Lang chăm chú làm, chẳng lưu ý gì đến những việc xung quanh.
Trước đây thấy hắn thản nhiên không tỏ vẻ quan hoài đến những người thân ra tiễn, bây giờ lại thấy hắn bình tĩnh chẳng lo lắng gì trước giờ tử chiến, gã trạo phụ ngạc nhiên quá.
Đối với gã, thái độ ấy thật lạ lùng. Những kiếm sĩ khác chẳng biết có thế không nhưng thái độ này của Thạch Đạt Lang quả thật ít thấy.
Khi chiếc bơi chèo đã được sửa xong, Thạch Đạt Lang phủi những mảnh gỗ vụn trên lòng, cầm múa thử mấy chiêu. Thấy ưng ý, hắn nói với gã trạo phu:
– Thanh kiếm ta vẫn dùng ngắn quá !
Đoạn rút trong bọc ra một tập giấy lụa, hắn bóc từng tờ se lại thành dây. Khi đã được chừng hai chục, hắn bện thành hai sợi chão, loại chão giấy gọi là tasuki vẫn thường được giới kiếm sĩ giang hồ thế kỷ trước dùng để buộc tay áo cho gọn khi lâm trận. Cách bện chão tasuki đã thất truyền từ lâu, không hiểu Thạch Đạt Lang học được ở đâu mà làm nhanh và khéo thế. Gã trạo phu khen, Thạch Đạt Lang chỉ cười, hất hàm về phía giải đất phía xa mà hỏi:
– Phải Funashima đó không ?
– Không. Đấy là Hikojima. Funashima ở sau đó vài dặm.
Thạch Đạt Lang lại nói:
– Hôm nay trời đẹp lắm nhỉ.
– Vâng, trời đẹp.
Gã trạo phu đáp, nhưng thật ra trong lòng khích động lạ lùng. Sau hoang đảo kia chỉ vài khắc nữa sẽ diễn ra một cuộc tranh phong vô cùng ác liệt, gã không đoán được trong bao lâu nhưng thế nào một trong hai đối thủ cũng phải tử vong. Người kiếm sĩ ngồi kia khi trở về, có còn được toàn vẹn hình hài không, hay chỉ là một cái xác đẫm máu què cụt ? Không ai biết. Trước kết quả còn bất định nhưng bi thương ấy, kẻ bàng quang như gã còn hoang mang huống chi người trong cuộc. Vậy mà sao Thạch Đạt Lang có thể bình thản đến thế nhỉ ? Hắn còn thấy trời hôm nay đẹp ! Hay hắn đã trở thành vô tri vô giác rồi, như đám mây nổi trên trời, như hòn đá trơ trơ ngoài bãi ?
Thuyền qua đảo Hikojima. Không ai ngờ trên đảo đã có chừng vài chục người phục sẵn, phần lớn là đệ tử Cát Xuyên Mộc vi phạm lệnh cấm, ở đó làm hiệu thông báo tin tức với đất liền và sẵn sàng xông ra truy cản nếu chẳng may chủ soái chúng thất bại.
– Thuyền kia chắc là thuyền chở Thạch Đạt Lang rồi !
– Có thể lắm, anh em hãy để ý nhìn cho kỹ.
– Còn ai vào đấy nữa ? Có hai tên, một tên chèo thuyền, còn tên kia chắc là Thạch Đạt Lang. Kéo cờ báo hiệu đi !
– Anh em sẵn sàng, giáo mác đủ chưa ? Nếu có lệnh là ra tay tức khắc.
Lát sau trên đảo Funashima, tiếng reo hò nổi lên vang trời dậy đất.
– Thạch Đạt Lang đến rồi ! Thạch Đạt Lang đến rồi !
Thủy triều dâng cao phủ gần kín bãi cát nhưng mực nước vẫn còn cách xa khán đài đến bốn, năm chục trượng.
Trên khán đài, đích thân lãnh chúa Hòa Giả Đạo Uẩn ngồi lược trận, xung quanh là các kiếm sĩ tùy tòng. Bên trái ông, đoàn nhân chứng bút giấy sẵn sàng ghi chép; bên phải, tham vấn Điền Xán Quang cùng với toàn bộ hội đồng tham vấn và kiếm pháp giảng tập bộ thuộc dinh Hòa Giả.
Quanh khán đài, binh sĩ hộ vệ và gia nhân nháo nhác chỉ trỏ. Thuyền Thạch Đạt Lang hiện ra. Cao Mục Lân, trưởng đoàn nhân chứng đứng bật dậy khiến các nhân chứng khác cũng đứng dậy theo, nghểnh cổ nhìn. Sau một thời gian dài ngóng đợi, ai cũng sốt ruột. Cử chỉ ấy thật ra chỉ là sự thường, nhưng với tư cách trưởng đoàn nhân chứng, Cao Mục Lân không thể tỏ lộ tình ý được, người ngoài trông vào có thể cho là ông thiên vị. Biết đã hớ hênh, ông nhìn chủ soái và bẽn lẽn ngồi xuống, đồng thời giơ tay ra hiệu cho những người khác cũng làm như thế.
Không khí đột nhiên căng thẳng, im phắc. Tiếng sóng biển rì rào lẫn gió thổi qua tàng thông nghe rõ mồn một. Bên trái, cách khán đài chừng chục trượng, dưới một gốc bạch tùng, người ta lấy vải căng tạm một cái lều làm chỗ cho Cát Xuyên Mộc ngồi nghỉ.
Trong lều để sẵn ghế, khạp nước với gáo tre dùng giải khát và trên cành bạch tùng treo hiệu kỳ của Giang Biên Liễu.
Qùy dưới chân Điền Xán Quang, Hạo Nhiên trông ra khơi. Nhìn bóng con thuyền nhỏ tiến đến mỗi lúc một gần, mặt nó tái đi thấy rõ. Điền Xán Quang nghiêng đầu khẽ gọi nó. Ông nghiêm nghị nhìn Hạo Nhiên, đoạn ôn tồn hỏi:
– Hạo Nhiên ! Nhớ lời ta dặn chứ ?
– Dạ nhớ.
– Ngươi hãy nhìn cho kỹ, không được bỏ qua điều gì, dù đó chỉ là những chi tiết nhỏ. Sư phụ ngươi có thể sẽ phải hy sinh cả mạng sống để dạy ngươi một bài học. Đừng quên điều ấy và phải nhập tâm những gì ngươi sắp được thấy !
– Dạ.
Hạo Nhiên chú mục nhìn con thuyền tiến đến gần tảng đá đen trên bãi mà thủy triều đã phủ gần kín. Mỗi khi có đợt sóng lớn ập đến, bọt nước tung cao trắng xóa. Dưới ánh nắng bắt đầu gay gắt, mặt biển loang loáng chói mắt.
Chỗ ấy còn xa, cách khán đài hàng mấy chục trượng, làm sao nó có thể nhìn rõ chi tiết các chiêu kiếm Thạch Đạt Lang thi triển. Chắc Điền Xán Quang không có ý bảo nó quan sát những thế kiếm của sư phụ, vì có thể nó chưa đủ khả năng hiểu nổi, nhưng chỉ lưu ý nó về phương lược mà Thạch Đạt Lang sẽ áp dụng trong một cuộc tử chiến như thế này mà thôi. Điều này thì chắc Hạo Nhiên không bỏ qua được và sẽ ảnh hưởng đến nó suốt đời.
Một con bướm trắng nhẹ nhàng bay đến đậu trên tay áo, Hạo Nhiên không nhìn thấy, mắt dán vào con thuyền nhỏ sắp cập bến. Nó gọi thầm Thạch Đạt Lang trong hơi thở mà nó cố giữ cho khỏi hổn hển:
– Sư phụ ! Sư phụ !
Thuyền Thạch Đạt Lang đã vượt qua khỏi tảng đá. Bấy giờ vào khoảng giữa giờ tỵ.
Cát Xuyên Mộc bước khỏi lều, đến trước khán đài, cúi chào Hòa Giả lãnh chúa và hai bên tả hữu, đoạn hiên ngang tiến ra bãi.
Thuyền tới gần. Thủy triều dường như đã đứng, sóng dồn nhẹ hơn trước và ở những chỗ nông, nước chỉ tới mắt cá chân, sóng gợn lăn tăn.
– Cho thuyền cập bến chỗ nào, đại hiệp ?
– Cứ tiến thẳng vào bờ.
Thạch Đạt Lang đứng dậy, buộc tay áo. Trạo phu cúi rạp mình đẩy mạnh thuyền lướt tới. Khi gần đến chỗ cạn, gã rà mái chèo nghiêng nghiêng mặt nước để thuyền trôi chầm chậm. Có tiếng chim hải tước hót đâu đây.
– Thôi được rồi. Chỗ này là bãi nông, đừng chèo thêm nữa mà hỏng thuyền. – Đạt Lang nói – Vả thuỷ triều cũng sắp rút, ta xuống đây cũng được.
Đằng xa, bóng một người mặc bào tía đi tới. Gã trạo phu quay nhìn Thạch Đạt Lang, định báo cho hắn biết thì Thạch Đạt Lang đã nhảy xuống nước rồi, nhẹ như én liệng, mắt hướng về phía bóng người đang đi tới. Hắn lấy một vuông khăn màu lá úa, gấp chéo buộc quanh đầu giữ tóc, cởi trường kiếm đặt lên sạp thuyền, chỉ giữ lại đoản kiếm, rồi cầm cây chèo gỗ lội vào bờ, mắt vẫn không rời bóng người áo tía.
Cây chèo gỗ được sửa lại trong tay Thạch Đạt Lang như một thanh mộc kiếm quá khổ, kéo sau hắn vẽ một vệt bọt dài tên mặt nước.
Năm bước. Mười bước. Thạch Đạt Lang vẫn chưa tới bờ cát khô. Trong khi ấy bóng người áo tía rảo bước nhanh hơn, vỏ kiếm dát bạc đeo sau lưng lóe sáng dưới nắng trông như đuôi một con chồn tuyết.
– Nhanh lên đại hiệp !
Tiếng kêu của gã trạo phu vừa dứt, người áo tía đã tới gần bờ nước. Kinh hoảng và chắc mười phần Thạch Đạt Lang sẽ bị xẻ làm đôi, gã trạo phu quay mặt đi, không đành lòng nhìn cảnh ghê sợ ấy.
Thạch Đạt Lang dừng lại, chân còn đứng dưới nước. Nắng chói chang. Nước biển phản chiếu ánh sáng lên mặt Cát Xuyên Mộc trông dữ tợn và tàn nhẫn. Gã cười gằn, sẵng giọng:
– Thạch Đạt Lang !
Đạt Lang cũng trừng trừng nhìn lại gã. Rồi mỉm cười, hắn khẽ đáp, giọng dịu dàng không oán giận:
– Cát Xuyên Mộc !
Nhưng trong ánh mắt lóe lên một ý chí phi thường, một lòng tự tin mãnh liệt, quyết tâm đưa địch thủ đến chỗ diệt vong. Cát Xuyên Mộc lại thét, mắt đổ lửa:
– Thạch Đạt Lang !
Không đáp.
– Ngươi lại đến trễ ! Phải chăng đấy là chiến thuật ngươi từng áp dụng để địch thủ mất kiên nhẫn ? Ngươi cho thế là khôn ngoan, ta cho chỉ là hèn nhát !
Đạt Lang không đáp, vẫn trơ trơ dưới nước. Hắn không muốn phân tâm vào những chuyện vô ích.
– Đồ chúng Hoa Sơn mắc bẫy chứ Giang Biên Liễu này thì không ! Ra chiêu đi !
Hãy chứng tỏ ngươi là con người có khí phách chứ không phải chỉ biết bỏ chạy.
Dứt lời, quàng tay ra sau lưng, Cát Xuyên Mộc rút thanh trường kiếm, tay kia tháo vỏ kiếm vứt ra xa.
Thái độ khinh địch ấy là một sai lầm chiến lược. Chiêu trảm nhạn kiếm chỉ hữu hiệu khi xuất thủ thần tốc. Rút kiếm từ từ làm mất tính cách đột phá bất ngờ của nó.
Thạch Đạt Lang nhếch mép:
– Cát Xuyên Mộc ! Ngươi thua rồi !
– Cái gì ? Cuộc chiến chưa bắt đầu …
– Nhưng ngươi thua rồi đó ! Vứt vỏ kiếm đi, ngươi đã từ bỏ tương lai, từ bỏ cuộc sống …
Cát Xuyên Mộc cười rộ:
– Nói bậy ! Đừng hòng làm mất tinh thần ta !
Một con sóng mạnh ào đến. Cùng với sóng ầm ầm, tiếng thét xung trận của Thạch Đạt Lang vang như sấm động. Cây kiếm gỗ vung lên chênh chếch, đồng thời hắn nhảy chéo hai bước. Chân vừa rời khỏi mặt nước, kiếm quang đã ập tới, “cây sào phơi” của Cát Xuyên Mộc nhanh như lằn chớp phạt từ trên xuống dưới chỉ cách gót chân Đạt Lang và chỗ hắn đứng trước đây chừng nửa tấc. Nước bắn tung tóe.
Thấy không trúng đích, Cát Xuyên Mộc thu kiếm về, xoay người nhảy lui, tránh chiêu kế tiếp của Thạch Đạt Lang mà gã đồ rằng hắn sẽ không bỏ lỡ.
Nhưng trái lại, Thạch Đạt Lang dường như không có ý tấn công tiếp. Hai tay nắm chặt cây mộc kiếm, hắn để mũi kiếm chếch về bên phải, chân hơi co, sẵn sàng ưỡn người ra phía sau, tránh ngọn đòn chí tử của địch. Bằng lòng với tư thế ấy, hắn chờ.
“Cây sào phơi” tuy dài nhưng không dài bằng thanh một kiếm làm bằng chiếc bơi chèo gỗ Thạch Đạt Lang đang nắm trong tay. Muốn trúng đích, Cát Xuyên Mộc phải vươn người ra hoặc phóng nhanh tới như rắn hổ bắt mồi. Thạch Đạt Lang không đổi bộ vị nhưng sẽ lợi dụng lúc ấy, dùng mộc kiếm phạt ngang sườn địch thủ. Đấy là một hành động liều lĩnh. Chỉ chậm một sát na, nếu mộc kiếm chưa chạm sườn Cát Xuyên Mộc mà “cây sào phơi” đã kề cổ thì Thạch Đạt Lang trong chớp mắt sẽ không còn nguyên vẹn hình hài nữa.
“Cây sào phơi” đã giơ cao, nguy hiểm và đe doạ, sẵn sàng giáng xuống đầu Thạch Đạt Lang. Nhưng chủ nhân nó không hiểu sao lại do dự, rồi bỗng đổi bộ vị, nhảy sang trái.
Thạch Đạt Lang lập tức nhảy theo. Hai tay nắm chắc thanh mộc kiếm, hắn di chuyển từng bước ngắn về phía bờ nước. Cả hai đối thủ nhìn nhau không chớp. Đằng sau Thạch Đạt Lang là biển cả; đằng trước, Cát Xuyên Mộc lăm lăm cây trường kiếm chỉ chờ cơ hội đưa hắn sang bên kia thế giới. Trên khán đài, quan khách hồi hộp nín thở.
Hai địch thủ nói với nhau không phải bằng lời. Trong sự căng thẳng nặng nề, ngột ngạt ấy, mắt Thạch Đạt Lang đổi dần sang màu hổ phách. Tâm trí hắn cùng bao nhiêu thớ thịt đường gân, cả đến từng sợi tóc móng chân trên người, tất cả đều nhập làm một trong một nỗ lực phi thường và duy nhất để tranh thắng.
Thạch Đạt Lang bỗng thấy người nhẹ hẫng. Như kẻ xuất thần, hắn không còn cảm thấy mình đứng trên đất liền nữa mà như đã hòa với tâm ý bay cao.
Hắn nghĩ gì, các bộ phận khác trong người hắn theo kịp liền. Không chậm trễ khó khăn, không mảy may sai lệch. Dường như óc hắn đã nằm sẵn trên vai, trên cánh tay, trên bắp chân, ở khắp nơi trong người hắn. Bất kỳ một cử động gì của địch, dù chỉ là một cái chớp mắt, muôn ngàn kinh mạch và thớ thịt của hắn cũng sẽ phản ứng tức khắc.
Tâm, thân đạt tới mức hoà đồng, phối hợp như vậy quả là trác tuyệt.
Thời gian hai địch thủ gờm nhau tưởng kéo dài vô tận, thực ra chỉ lâu vào khoảng đủ để năm sáu đợt sóng xô đến rồi tan đi.
Mặt trời vừa ló khỏi đám mây. Nước biển bỗng rực sáng long lanh hắt lên mặt Cát Xuyên Mộc khiến gã nheo mắt.
Lập tức tiếng thét xe không gian của Thạch Đạt Lang được phát ra. Tiếng thét kinh thiên động địa không phải từ cổ họng mà từ toàn thể châu thân hắn, tiếp theo là một tiếng thét khác, ghê hồn, tiếng thét của Cát Xuyên Mộc làm rung chuyển cả khán đài.
Hai tiếng thét phát ra gần như cùng một lúc, va vào nhau, âm hưởng vang lên đến tận trời xanh tựa hai ngọn sóng vĩ đại đập vào vách đá.
Đồng thời hàn quang thanh trường kiếm của Cát Xuyên Mộc lóe lên như ánh cầu vồng nhằm cổ Thạch Đạt Lang chém xuống chênh chếch theo đường vòng cung. Thạch Đạt Lang lập tức co chân phải, trầm mình xuống thấp hơn nữa. Chiều cao của hắn chỉ còn hai phần ba. Lưỡi kiếm rà sát đỉnh đầu, cắt bay chéo khăn buộc tóc của Thạch Đạt Lang.
Tưởng hạ được địch thủ, Cát Xuyên Mộc phát một nụ cười. Nhưng nụ cười chưa kịp tắt, cây mộc kiếm đã đập mạnh như trời giáng vào thái dương gã như đập vào một hòn cuội. Thạch Đạt Lang cảm thấy những mảnh xương vỡ vụn.
Cát Xuyên Mộc ngã chúi xuống dưới sức mạnh của cây kiếm gỗ, chỉ cách chỗ Thạch Đạt Lang đứng chừng hai thước, ngay bên bờ nước. Máu mũi bắt đầu tuôn ra nhưng trên môi, Cát Xuyên Mộc vẫn còn giữ nụ cười vừa hé.
– Ồ …[Audio] Quỷ Bảo
Kết quả bất ngờ khiến Cao Mục Lân nhăn mặt, đứng bật dậy.
Trong một lúc, cả khu Funashima dường như không một tiếng động. Gió reo trên những ngọn thông già càng làm tăng vẻ yên lặng dị thường của hòn đảo nhỏ, như giễu cợt tính chất phù ảo của cuộc sống.
Thạch Đạt Lang ngước nhìn trời. Hắn sực tỉnh bước lại gần thi thể địch thủ. Cát Xuyên Mộc nằm nghiêng, trên mặt, hai dòng máu đặc chảy từ tai và mũi xuống, loang dần trên nền cát ướt. Cát Xuyên Mộc từ giã cõi đời, không tỏ dấu gì phiền muộn hay lo âu, chỉ có vẻ thỏa mãn, một sự thoa? mãn tròn đầy của kẻ chiến thắng, tin rằng mình vừa hoàn thành nhiệm vụ, không hối tiếc.
Nhìn mảnh khăn buộc tóc vướng trong chùm cỏ dại trên bãi, Thạch Đạt Lang rùng mình. Chưa bao giờ trong đời, hắn gặp một địch thủ ghê gớm đến thế. Dù sao, Cát Xuyên Mộc cũng đã nêu thêm cho hắn một tấm gương dũng cảm và một tài năng kiệt hiệt.
Qùy xuống cạnh thi thể Cát Xuyên Mộc, Thạch Đạt Lang đưa tay để gần vào mũi gã. Hơi thở còn nhẹ như tơ. Nếu đừng chậm trễ và chữa chạy đúng phép, may ra có thể cứu được. Thạch Đạt Lang thành thực mong cho gã được cứu sống.
Nhưng cuộc chiến xong rồi, hắn phải đi. Thạch Đạt Lang cúi đầu vĩnh biệt đối thủ, kẻ mà tài năng khiến hắn ngưỡng mộ, rồi ra bờ nước nhảy lên thuyền đợi sẵn, giục chèo ra khơi. Thanh mộc kiếm bằng bơi chèo hắn mang trả lại gã trạo phu không dính một vệt máu.
Thạch Đạt Lang đi đâu, chẳng ai biết. Hắn có bị đệ tử Giang Biên Liễu tập kích ở Hikojima không, chẳng tài liệu nào nhắc tới.
Cho đến hơi thở cuối cùng, con người vẫn không thoát khỏi tình yêu và thù hận.
Như những đợt sóng thủy triều dâng lên rồi lại rút, thất tình của con người theo nhau lui rồi lại tới, mãi mãi không dứt.
Có người không ưa Thạch Đạt Lang, chỉ trích thái độ hắn trong trường hợp này là hèn nhát, vì sợ trả thù mà vội bỏ đi. Nhưng biển trần gian, lúc nào chẳng có tiếng sóng lao xao ? Trên mặt nước, tôm tép dập dìu, nhưng ai biết dưới kia, xa vạn dặm, lòng biển sâu nghĩ gì ? Ai đo được hồn vực thẳm ?