[Audio] Thạch Kiếm
Tập 8: Chim bằng khoe vuốt – Họa vô đơn chí (c71-c80)
❮ sautiếp ❯Chương 71: Chim bằng khoe vuốt
Hôm sau trên đường từ dinh Hòa Giả về tư thất, Cao Mục Lân dừng lại dưới chân đồi, giao ngựa cho vợ chồng người mã phu già trông giữ. Vợ chồng nhà này không con, ngụ tại căn lều gỗ, sinh nhai bằng nghề cho thuê chuồng ngựa và săn sóc những con ngựa được người thuê gửi ở đấy.
Vừa bước vào cổng, Cao Mục Lân đã được lão mã phu lật đật ra đón, ghé tai nói nhỏ:
– Tôn khách biết chuyện chưa ? Tối qua lại có vụ giết người, xác còn nằm ở chân đồi đó !
– Lại trộm chứ gì ! Dạo này trộm cướp ở Tân đô, chẳng ngày nào mà không có.
– Không biết có phải không, nhưng cứ thế này lão cũng ngại lắm, chả biết có bảo toàn được ngựa cho quý khách không !
Cao Mục Lân trấn an:
– Không sao đâu, lão đừng lo ! Nếu xảy ra chuyện gì, cứ chạy lên nhà ta, báo cho Cát Xuyên hiệp sĩ biết. Ông ấy ở không có đến cả năm nay rồi, chân tay ngứa ngáy cứ than thở chẳng có việc gì làm.
– Cát Xuyên hiệp sĩ phải chăng là Cát Xuyên Mộc ?
– Chính thị. Sao lão biết ?
– Ai chứ Cát Xuyên Mộc thì giới giang hồ lạ gì. Người ta bảo ông ra chiêu xuất quỷ nhập thần. Nhưng chẳng biết có chịu giúp cho những kẻ như nô tài này không ?
Lời ca tụng của người mã phu già khiến Cao Mục Lân rất vừa ý. Ai cũng biết một trong những bổn phận của thuộc hạ Ở dinh Hòa Giả là phải tìm kiếm và đề bạt những kẻ có tài, nhất là về võ học. Cát Xuyên Mộc, người được Cao Mục Lân bảo trợ, không những còn trẻ, lại quả có tài. Nếu hắn được kết nạp, chức vụ hiện nay của Cao Mục Lân không những coi như vững chắc mà còn hy vọng thăng tiến nữa. Tuy thế, không bao giờ Cao Mục Lân tỏ ra vì lợi riêng mà vận động cho Cát Xuyên Mộc. Lúc nào hắn cũng nói chỉ vì mong muốn lãnh địa Hòa Giả được hưng thịnh và trường tồn mà tha thiết lo tròn bổn phận ấy. Cho nên, nếu Cát Xuyên Mộc được mọi người biết đến thì chính là một điều tốt, góp phần vào việc nâng cao giá trị của hắn.
Cao Mục Lân bước vào nhà. Thấy Cát Xuyên Mộc đang ngồi uống trà, hắn cười hớn hở, chào hỏi xong báo có tin vui, nhưng lại vội vào phòng tắm rửa mặt thay áo đã rồi mới trở ra.
Gọi gia nhân, không ai đáp. Hỏi thì Cát Xuyên Mộc nói:
– Hôm qua, vì không có việc gì, thằng bộc xin về thăm mẹ, tại hạ đã cho nó nghỉ.
Quái lạ, sao bây giờ vẫn chưa trở lại.
Vì có họ xa với vợ Cao Mục Lân nên Cát Xuyên Mộc vẫn giữ lễ trong cách xưng hô, tuy nhiên đôi khi hắn cũng tỏ ra lạm quyền như trong vụ cho tên bộc về nghỉ. Cao Mục Lân không nói gì. Chắc trong lúc vui, hắn không để ý. Chỉ thấy rót rượu ra hâm, mang lại trước mặt Cát Xuyên Mộc rồi cả hai ngồi đối ẩm.
– Hôm nay tại hạ có tin mừng.
– Tin gì ? Cát Xuyên Mộc hỏi.
– Như đại hiệp biết, tại hạ nhiều lần đã nêu danh tính đại hiệp ra trước mặt thiếu gia nhưng mãi đến hôm qua mới được ngài lưu ý. Ngài nói mời đại hiệp đến gặp ngài.
Thật là một vinh hạnh.
Tưởng như thế cũng đủ để Cát Xuyên Mộc vui mừng. Không ngờ hắn chẳng nói gì.
Cao Mục Lân bồi thêm:
– Thuộc hạ trong dinh chẳng thiếu. Ai cũng sẵn sàng giới thiệu người của mình, nhưng dường như thiếu gia đã có chủ ý, muốn hội kiến với đại hiệp trước.
Cát Xuyên Mộc rót rượu ra chén, đưa cho Cao Mục Lân:
– Xin phép tôn huynh, mừng tôn huynh một chung rượu.
– Hà hà ! Mừng đại hiệp mới phải chứ !
Đoạn giơ cao chén rượu lên “khà” một cái cạn chung.
Thấy Cát Xuyên Mộc vẫn ngồi im, không đổi sắc mặt, Cao Mục Lân thầm khen con người khí phách, biết tiết chế cảm xúc.
Cát Xuyên Mộc lại tự rót rượu ra chén, bưng uống. Lát sau mới nói:
– Đa tạ tôn huynh.
– Có gì đâu ! Xin đừng khách sáo. Đối với kiếm sĩ tài ba, tương lai rạng rỡ như đại hiệp lẽ dĩ nhiên tại hạ phải lo tiến cử lên chủ soái. Đó chỉ là bổn phận, còn riêng đối với đại hiệp, đó là nghĩa tương tri. Có gì mà phải bận tâm.
– Tôn huynh quá khen. Xin biết cho, tại hạ chẳng phải vì lương bổng mà muốn phụng thị họ Hòa Giả nhưng chính vì lòng ngưỡng mộ ba người trong họ ấy, là đương kim lãnh chúa Hòa Giả Đạo Uẩn, thân phụ ngài là Hòa Giả Nghị và tổ phụ ngài là Hòa Giả Khang …
– Vậy bao giờ đại hiệp có thể vào yết kiến thiếu gia ?
– Lúc nào cũng được.
– Ngay ngày mai được không ?
– Được.
Khí nói chuyện, nét mặt Cát Xuyên Mộc bình thản, không lộ vẻ háo hức hay băn khoăn mà chỉ tỏ niềm tự tin vững mạnh lạ lùng.
Cao Mục Lân lại tiếp bằng một giọng cố làm ra thản nhiên:
– À, chắc đại hiệp cũng rõ thiếu gia chỉ quyết định thu nạp hay không sau buổi hội kiến và sau khi đã lượng định khả năng. Thủ tục ấy mà, tại hạ tin sẽ không có gì trở ngại.
Đặt chén rượu xuống, Cát Xuyên Mộc nhìn trân trân vào mặt Cao Mục Lân. Rồi với một vẻ lạnh lùng gần như thách thức, hắn gằn giọng:
– Nếu vậy tại hạ không vào. Rất tiếc đã làm phiền tôn huynh.
Mặt Cao Mục Lân đã đỏ vì rượu lại càng đỏ thêm. Những tia máu xung quanh vành tai hắn như sắp nổ tung. Hắn lắp bắp:
– Sa … sao ? Đại hiệp nói không muốn vào gặp thiếu gia nữa ư ?
– Phải. Tại hạ không thích nữa.
Cát Xuyên Mộc chỉ vẻn vẹn nói có thế, không giải thích thêm. Sự bất ngờ và thất vọng làm Cao Mục Lân ngồi trơ như phỗng. Hắn nhìn kẻ bảo trợ mà lòng muốn điên lên được, nhưng cố nén tức giận.
Cả hai không nói thêm lời nào. Uống hết chung rượu dở, Cao Mục Lân đứng dậy về phòng riêng, quên cả cáo biệt.
Một mình trên chiếu, Cát Xuyên Mộc cũng đã say, dựa đầu lên kỷ lặng lẽ cười thầm. Hắn biết Cao Mục Lân giận lắm vì đã bị đặt vào một tình thế khó xử. Biết nói năng ra sao với vị chủ soái đây ? Nhưng hắn bất cần. Tuy bảo không quan tâm gì đến lương bổng nhưng thực ra không phải thế. Là một người rất nhiều tham vọng, Cát Xuyên Mộc muốn có địa vị và tiền tài càng nhanh càng tốt. Mà ngày nay cách nhanh nhất là bằng lưỡi kiếm. Hắn biết khả năng của mình nên không dễ gì để cho sự khiêm nhượng thao túng. Hắn chỉ làm cao một chút thôi, nhằm mặc cả thêm chút danh vọng, và vì đã dự trù hướng đi của mình từ lâu một cách thông minh và khôn khéo, hắn lùi một bước để tiến hai bước. Cao Mục Lân tuy lớn tuổi hơn hắn nhưng còn ngây thơ và dễ xúc động lắm.
Trong cơn say, Cát Xuyên Mộc mơ thấy mình đang ngụp lặn trong cảnh vinh quang và tiền bạc như nước.
Phần Cao Mục Lân, tuy có cảm tình với Cát Xuyên Mộc, hắn cũng không sao ngăn nổi bực mình.
Ngồi trong phòng riêng, sau khi đã tỉnh rượu, Cao Mục Lân loay hoay mãi không biết xử trí ra sao. Vấn đề không phải là phải đối phó cách nào với người bà con bên vợ và cũng là kẻ bảo trợ của hắn, nhưng chính là phải giải thích làm sao với chủ soái. Ai cũng biết Cát Xuyên Mộc đã được hắn vận động tận tình để được thu nạp vào dinh, bây giờ sự thể thế này, tất nhiên uy tín của hắn không còn nữa.
Là người có óc quyền biến, Cao Mục Lân thử phân tích thái độ mới đây của Cát Xuyên Mộc và xét thái độ ấy qua một nhãn quan khác. “Có lẽ Cát Xuyên Mộc muốn chứng tỏ là một nhân vật đặc biệt chăng ? Địa vị người khác, tất đã nhảy vào nắm lấy cơ hội rồi. Để xem !”. Càng suy nghĩ, Cao Mục Lân càng tin Cát Xuyên Mộc, tuy kiêu ngạo nhưng là kẻ có thực tài đáng được nâng đỡ. Như vậy thì vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho hắn. Bèn mưu tìm cách khác thuyết phục.
Ngày kế đó, Cao Mục Lân ở luôn trong dinh. Sáng hôm sau về nhà, hắn đến gặp Cát Xuyên Mộc, tươi cười bả lả như không có chuyện gì xảy ra.
– Cát Xuyên đại hiệp, trong mấy ngày nay, thiếu gia vẫn hỏi thăm tại hạ về đại hiệp. Mỗi đầu tuần thường có cuộc tranh tài bắn cung, sao đại hiệp không đến tham quan, coi xem thuật bắn cung của tộc Hòa Giả ra sao ?
Cát Xuyên Mộc chỉ mỉm cười không đáp.
– Thiếu gia nghe danh đại hiệp đã lâu. Ngài muốn gặp, đó là việc thường tình, có gì mà phải câu nệ ?
– Đành rồi, nhưng giả dụ ngài không vừa ý thì có phải tại hạ khó xử không ? Nếu bị từ khước, tôn huynh đã biết tại hạ đâu phải hạng người đi hạ mình cầu cạnh …
– À ra thế. Vậy lỗi ở tại hạ đã không nói rõ. Chuyện ấy không hề có, không bao giờ thiếu gia có ý ấy.
– Ngài đã nói gì ?
– Chưa có điều gì nhất định, nhưng ngài tỏ vẻ sốt ruột …
Suy nghĩ một lúc, Cát Xuyên Mộc đáp:
– Đa tạ tôn huynh giúp đỡ. Tại hạ thật áy náy để tôn huynh phải lâm vào tình trạng như thế này.
– Đại hiệp thử xét lại xem:
đến gặp ngài một lần, nếu không bằng lòng thì thôi, ngại gì ?
Cát Xuyên Mộc gật đầu:
– Vậy cũng được.
Cao Mục Lân mừng lắm:
– Ngay ngày hôm nay, được không ?
– Sớm thế ?
– Hôm nay đầu tuần, có thí võ. Thiếu gia chắc thế nào cũng dự kiến.
– Thí võ lúc mấy giờ ?
– Thường thì vào khoảng sau giờ ngọ.
– Vậy để tại hạ chuẩn bị.
Cao Mục Lân ra khỏi phòng, hối hả trở lại dinh. Cát Xuyên Mộc tắm xong, chọn mặc một chiếc quần bằng hàng ngoại hóa đắt tiền, một kimono gấm, bên ngoài phủ áo chẽn rộng vai màu đỏ khé, hồ bột cứng, chân đi dép da mới và quấn xà cạp màu vàng nghệ. Thanh trường kiếm dài đặc biệt đeo chéo sau lưng, đoản kiếm giắt ngang hông trông đường bệ, rõ ra một kiếm sĩ phục thị cho một đại gia, lương bổng đồng niên vạn gia. lúa.
Hắn hỏi tên bộc:
– Nhà có sẵn ngựa không ?
– Dạ có, nhưng để ở tàu ngựa dưới đồi.
Xuốn đến tàu ngựa, không gặp lão mã phu. Quanh ra sau lều, thấy đám đông. Hỏi ra mới rõ người ta đang lo việc tống táng cho cái xác vô thừa nhận bị giết hai hôm trước.
Xác còn nằm trơ, mắt mở trừng trừng chẳng ai vuốt, ở cổ vết thương sâu hoắm, máu đọng đen lại. Lão mã phu cũng có mặt trong đám người phục dịch ấy.
Cát Xuyên Mộc bước tới vỗ vai lão:
– Ta là khách của Cao đại nhân ở trên đồi. Hình như lão giữ ngựa cho Cao đại nhân ?
Nhìn cách phục sức của thanh niên kiếm sĩ, lão mã phu cũng một phần đã đoán ra là ai rồi, sợ hãi líu ríu:
– Dạ, dạ.
Đoạn hối hả trở về tàu, dắt ra một con ngựa lông xám tro đốm trắng. Cát Xuyên Mộc cầm dây cương, vỗ nhè nhẹ lên bờm ngựa, khen:
– Con này được đấy !
– Dạ. Nó thuộc dòng ngựa hay, đại nhân vẫn thường cưỡi, nhưng hôm nay không hiểu sao người lại chọn con ngựa hồng.
Cát Xuyên Mộc gật đầu, nhảy lên yên, rút ra một túi bạc nhỏ, lấy ba đồng ném cho lão và nói:
– Để mua hương hoa, còn thừa giữ lấy !
Ngạc nhiên, lão mã phu hỏi lại:
– Mua hương hoa làm gì ?
Cát Xuyên Mộc hất hàm về phía đám đông:
– Kẻ chết đó !
Đoạn giật dây cương phóng đi trong tiếng ngựa hí. Qua khỏi chân đồi Lãm Nguyệt, Cát Xuyên Mộc khạc và nhổ mạnh bãi nước bọt để xua đuổi cái cảm giác lợm giọng khi nhìn thấy gương mặt đen xạm của tử thi lúc nãy. Hắn có cảm tưởng cái xác hình như đã cử động trong manh chiếu, đôi mắt trắng dã phóng theo hắn. Cát Xuyên Mộc thúc ngựa chạy nhanh hơn.
Đến dinh Hòa Giả, trời đã xế trưa, chờ ở nhà khách đã lâu, ngồi đứng không yên, chợt thấy hắn, Cao Mục Lân chạy vội ra nắm lấy dây cương, vui mừng nói:
– May quá, đại hiệp đến đúng lúc. Hãy nghỉ một chút chờ tại hạ vào bẩm với thiếu gia.
Rồi gọi gia nhân mang nước thơm để Cát Xuyên Mộc lau mặt và một khay thuốc lá đặt lên kỷ. Khi gã hầu cận tới dẫn Cát Xuyên Mộc ra thao trường, hắn tháo trường kiếm trên lưng trao cho người hầu cận, chỉ mang theo thanh đoản kiếm giắt ngang hông.
Hòa Giả Đạo Uẩn mải bắn cung. Mỗi buổi tập, ông đã tự hứa bắn hết trăm mũi tên, số tên chưa hết, không ai dám cắt ngang nên Cát Xuyên Mộc cũng như mọi người khác, đứng xa xa nhìn.
Đạo Uẩn dé chân chèo, mặc quần ống rộng chùng đến mắt cá, cánh tay trái để trần cầm cung, tay phải mang bao da, dáng trang nghiêm đĩnh đạt nhưng không gò bó.
Mắt ông nhìn thẳng, mỗi phát tên bắn đi, nhanh và mạnh trúng hồng tâm. Tiếng reo hò của thuộc hạ nghe vang động cả thao trường. Cát Xuyên Mộc gật gù tán thưởng, nghĩ thầm:
“Thật danh bất hư truyền, không hổ với tổ phụ !”.
Bắn xong trăm mũi tên, Đạo Uẩn gác cung lên giá. Gia nhân mang nước và khăn lại, thuộc hạ vây quanh thoa bóp tay chân, ông pha trò cười giỡn. Cát Xuyên Mộc thấy những điều hắn dự đoán về Đạo Uẩn sai lạc cả. Có lẽ vì còn trẻ nên vị tiểu lãnh chúa này không có cái phong thái kiểu cách như phần đông các lãnh chúa khác.
Cao Mục Lân tiến tới trình điều gì, Đạo Uẩn khẽ gật. Ông chỉnh lại y phục, đến ngồi dưới lá cờ lệnh của tộc Hòa Giả, vẽ huy hiệu một vòng tròn lớn với tám vòng tròn nhỏ bao quanh, tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú.
Cao Mục Lân vẫy Cát Xuyên Mộc lại gần. Hắn quỳ gối trước mặt vị tiểu lãnh chúa để làm lễ ra mắt rồi được mời ngồi trên ghế đối diện coi như thượng khách.
– Tráng sĩ quê ở Iwakumi ?
– Dạ phải.
– Trước trận Sekigahara, tộc Lưu Hòa ở vùng đó nổi tiếng khôn ngoan, giỏi nghề cai trị. Lệnh nghiêm có phục thị trong tộc đó không ?
– Thưa không. Tiểu nhân nghe nói tiên phụ vì sức yếu nên sớm ở ẩn và quy tiên tại quê nhà.
Sau vài câu thăm hỏi thêm về gia thế, Đạo Uẩn lại tiếp:
– Nghe nói tráng sĩ muốn phục thị tộc ta. Vì lý do nào lại chọn lựa như thế ?
– Hòa Giả là một đại tộc tiểu nhân ngưỡng mộ nên muốn sống chết với tộc ấy.
Ngoài ra không còn lý do nào khác.
Đạo Uẩn gật đầu, xem chừng vừa ý về lời đáp trên.
– Tráng sĩ có những chiêu kiếm nào đặc biệt ?
– Tiểu nhân vẫn thường sử chiêu Trảm Nhạn và Chiết Liễu.
– Trảm Nhạn và Chiết Liễu ? Ta không nghe nói bao giờ !
– Thưa đó là những thế kiếm do chính tiểu nhân phát kiến.
– Đành vậy, nhưng cũng phải có tiền tích ra sao chứ ?
– Tiểu nhân học kiếm Vạn Mai, sau theo Cổ Tư tiên sinh. Những chiêu kiếm học được, tiểu nhân đã tự biến hóa để chém những cánh nhạn bay thấp và chẻ các nhành liễu rũ ở bờ sông.
Đạo Uẩn gật gù:
– Phải, phải. Tỉnh Suo nhiều không ngòi, chỗ nào cũng trồng liễu. Chắc tráng sĩ luyện kiếm ở một khúc sông gần nhà ?
– Dạ chính thế.
– Ta muốn xem một vài chiêu kiếm của tráng sĩ, được chăng ?
– Xin tuân lệnh.
Đạo Uẩn quay nhìn thuộc hạ:
– Trong các ngươi, ai muốn so tài với Cát Xuyên tráng sĩ ?
Thuộc hạ Hòa Giả Đạo Uẩn ở thao trường bấy giờ có đến vài chục người. Họ đứng đằng sau ông, chăm chú theo dõi cuộc thẩm vấn, thấy Cát Xuyên Mộc còn trẻ, chẳng biết tài năng ra sao nhưng thái độ và ngôn ngữ huênh hoang tự phụ thì có ý ghét. Vài người định bước ra, nhưng Đạo Uẩn đã chỉ Hồ Kiện Bình:
– Hồ Kiện Bình ! Ngươi đắc ý về môn sử thương của ngươi. Hãy chứng tỏ cho mọi người biết.
– Dạ, tiểu nhân sẵn sàng nếu được tráng sĩ đây cho phép.
– Dĩ nhiên, tại hạ rất hân hạnh.
Câu đáp lễ phép nhưng hết sức lạnh lùng. Trong ánh mắt Cát Xuyên Mộc, lóe lên một chút tàn ác.
Đạo Uẩn vẫy tay cho gia nhân dẹp chỗ trong thao trường. Ghế ngồi và các giá binh khí được tạm chuyển đi nơi khác. Không khí đột nhiên căng thẳng hẳn lên. Cuộc thi tài, tuy bề ngoài là một cuộc biểu diễn kiếm thuật, nhưng mặc nhiên, qua thái độ của các đối thủ, có thể sẽ xảy ra rất ác liệt. Thuộc hạ của Đạo Uẩn chỉ có kinh nghiệm ở thao trường, không mấy khi được dự kiến một cuộc giao đấu như lần này. Sinh mạng đôi bên không còn quan trọng nữa, đối thủ phải trông vào khả năng của chính mình, chỉ trong chớp mắt hoặc một chút lầm lẫn, thân bại danh liệt như chơi. Đâu đây xem chừng đã phảng phất mùi tử khí.
Đám thuộc hạ nhìn Hồ Kiện Bình, đặc biệt tin tưởng vào bạn đồng đạo. Hồ Kiện Bình lui vào hậu trướng thay áo lót mới theo đúng truyền thống của kiếm sĩ:
mỗi sáng và trước mỗi cuộc giao tranh, bắt đầu bằng một nụ cười và y phục tề chỉnh vì đến chiều, chẳng biết hình hài có còn nguyên vẹn hay không !
Phần Cát Xuyên Mộc, gã đã nhờ Cao Mục Lân mượn cho một thanh mộc kiếm.
Đứng ở góc thao trường, tay khoanh trước ngực, gã nhìn đám người bận rộn xung quanh như chim bằng nhìn đàn quạ. Lòng tự tín của Cát Xuyên Mộc có thể nói, gần như vô giới hạn. Thái độ ấy không qua khỏi mắt của một số người và họ thầm lo cho tính mạng của Hồ Kiện Bình.
Hồ Kiện Bình y phục tề chỉnh, vén màn bước ra khỏi trướng, tay phải lăm lăm cây thương dài non một trượng, tay kia một cuộn vải ẩm. Hắn dừng lại, quấn vải quanh mũi thương sắc như lưỡi chủy thủ và dài có đến ba tấc.
– Các hạ làm gì vậy ? Cát Xuyên Mộc hỏi. Nếu sợ tại hạ bị thương thì xin cứ yên tâm. Mũi thương sắc hay nhụt cũng thế thôi, đối với tại hạ chẳng quan hệ gì.
Một lần nữa, trong lời nói lễ độ có hàm ý khinh mạn. Hồ Kiện Bình liếc xéo đối thủ, mặt cau lại, dữ dội:
– Chắc không ?
– Chắc.
Hoà Giả Đạo Uẩn và đám tùy tùng không ai nói gì nhưng đưa mắt nhìn Hồ Kiện Bình dường như ngầm bảo:
“Đã thế thì cứ cho nó nếm thử vài mũi thương trần …” Hồ Kiện Bình gật đầu, lập tức xoay nhanh cán thương, gỡ lần vải quấn ra.
– Được ! Nếu các hạ muốn. Nhưng hãy dùng thiết kiếm. Tại hạ không muốn một đặc quyền nào.
– Không sao, thanh mộc kiếm này cũng hợp với tại hạ lắm.
– Không. Ta không chấp nhận một cuộc giao đấu chênh lệch như vậy !
– Sao ? Các hạ bắt ta dùng thiết kiếm trước mặt thiếu gia đây hay sao ? Ta là khách, đâu dám vô lễ như thế trước mặt ngài.
– Nhưng …
Đạo Uẩn vội xen vào:
– Hồ Kiện Bình ! Có ai bảo ngươi khiếp nhược đâu mà phải đắn đo mãi không chiều ý tráng sĩ.
Cả hai đấu thủ bèn bước vào giữa thao trường, cúi đầu trước Hòa Giả Đạo Uẩn tỏ ý tôn kính rồi nghiêng mình nhìn nhau thi lễ. Vừa dứt, Hồ Kiện Bình nhảy né sang bên, phóng đầu mũi thương vào gáy Cát Xuyên Mộc trong một cuộc tấn công tiên thủ chớp nhoáng. Một tiếng “cắc” khô khan, cây mộc kiếm gạt cán thương bắn lên cao, Cát Xuyên Mộc đã tiến sát bên đối thủ. Thừa dịp cánh tay đối phương còn vướng chưa kịp thu về, Cát Xuyên Mộc thi triển chiêu:
“Chẻ liễu” đưa kiếm phạt chéo ngực Hồ Kiện Bình. Nhưng Hồ Kiện Bình chẳng phải tay vừa, uốn cong người tránh đòn chí mạng đó rồi lại nhảy sang bên với ý định luôn luôn giữ khoảng cách một ngọn thương giữa hắn và Cát Xuyên Mộc. Biết điểm đặc thù này là nhược điểm của lối sử dụ ng trường thương, Cát Xuyên Mộc không ngớt khai thác, bỏ lỡ một cơ hội nào mà không tấn công xáp lá cà.
Không để Hồ Kiện Bình chiếm ưu thế, hắn nhảy theo bám sát, lúc trước mặt, lúc sau lưng, lúc hai bên sườn, lúc nào cũng sát nách, khiến đối thủ hắn phải cầm ngắn cây thương lại chỉ lo thủ thế. Thành ra cây thương dài một trượng của Hồ Kiện Bình hó a vô hiệu, lại còn vướng víu.
Trong khi đó thì Cát Xuyên Mộc liên tiếp tấn công như vũ bão bằng kiếm ngắn, thi triển vài chiêu rất ngoạn mục, kể cả chiêu trảm nhạn, khiến Hồ Kiện Bình ban đầu còn chống đỡ, sau cứ nhảy lui dần, lui dần. Trông Hồ Kiện Bình bấy giờ chẳng khác gì một con chim ưng nhỏ bị chim đại bàng đuổi theo mổ tới tấp.
Chợt một tiếng rắc vang lên, cây thương gãy hai. Mũi thương bắn ra xa, trong tay Hồ Kiện Bình chỉ còn một đoạn gỗ ngắn. Cùng lúc, tiếng kêu đau đớn như xé màng tai của gã. Người ta tưởng tiếng rú của kẻ sắp hồn lìa khỏi xác cũng chỉ bi thương và ghê rợn đến thế !
Cuộc so tài ngắn ngủi chấm dứt. Một thuộc hạ khác của Hòa Giả Đạo Uẩn định xách kiếm bước ra nhưng vị tiểu chúa ngăn lại và nói:
– Như vậy cũng đã đủ !
Ông đứng dậy bỏ vào hậu sảnh, nét mặt đăm chiêu, trong khi bạn hữu và gia nhân xúm quanh Hồ Kiện Bình xem xét vết thương tìm cách cấp cứu.
Tối hôm ấy, khi Cao Mục Lân về nhà, Cát Xuyên Mộc hỏi:
– Trước mặt thiếu gia, tại hạ biểu dương kiến thức có quá đáng không ?
– Không. Rất đặc sắc. Ngài rất lưu ý đến kỹ thuật của đại hiệp.
Tuy vậy trong lòng Cao Mục Lân hơi khó chịu. Đã biết tài của Cát Xuyên Mộc, hắn có cảm nghĩ con chim hắn đang ấp ủ trong tay, sau này có thể trở thành một loài nghịch điểu, biết đâu chẳng gây cho hắn những tai họa bất ngờ.
– Ngài có thể nói thêm gì không, hay chỉ lưu ý đến kỹ thuật của tại hạ thôi ?
– Không nói thêm gì.
– Thôi mà tôn huynh, chẳng nên giấu nhau nữa.
– Ta giấu làm gì ? Ngài chỉ truyền trị thương và săn sóc cẩn thận Hồ Kiện Bình mà thôi. Ngài có vẻ xúc động.
Thất vọng, Cát Xuyên Mộc ngồi im, lát sau mới nói:
– Thiếu gia xem ra là người có kiến thức và đức độ. Trong tình thế này, nếu cần phụng sự một ai, tại hạ sẽ chọn lựa vị ấy. Nhưng dĩ nhiên, sự quyết định đâu phải ở tại hạ.
Cát Xuyên Mộc chỉ nói có thế. Những năm gần đây hắn đã trưởng thành và cả với Cao Mục Lân, nhiều khi cũng không muốn tiết lộ hết những suy tư thầm kín.
Theo hắn, chẳng sớm thì muộn, hai tộc Hòa Giả và Tôn Điền thế nào cũng xung đột, nhất là khi Hòa Giả Nghị Ở Osaka, tuy bề ngoài làm như ở ẩn nhưng thật ra vẫn chiêu binh mãi mã và thế lực ngày càng bành trướng. Không thể tiên đoán được kết quả ra sao, nhưng có điều những người như hắn, nếu không khôn ngoan mà chọn lầm chúa thì sau này sẽ có thể lại trở thành lang bạt, ăn cơm thí, ngủ đầu hè và sinh mạng nhiều khi cũng không giữ được chỉ vì miếng cơm manh áo.
Hai hôm sau, có tin Hồ Kiện Bình đã tỉnh. Nội tạng bị chấn động và xương hông bị giập nát, hắn vẫn còn trong tình trạng khẩn trương nhưng có lẽ không nguy đến tính mệnh. Nghe tin, Cát Xuyên Mộc không xúc động. Hắn bình tĩnh tự nhủ nếu sau cuộc thử tài hôm trước không nhận được một chức vụ gì như ý mong ước thì ít nhất hắn cũng đã tạo được danh tiếng.
Nhưng tuần sau, Cát Xuyên Mộc ngỏ lời muốn đi thăm Hồ Kiện Bình. Rồi không giải thích vì sao lại đột nhiên có lòng tốt như thế, hắn đích thân đến nhà nạn nhân.
Đang nằm dưỡng thương, Hồ Kiện Bình cảm động rơi lệ:
– Chiến đấu thì thua được là lẽ thường. Tại hạ sở học còn kém, dĩ nhiên không địch lại được các hạ, đâu dám phiền trách. Các hạ đến thăm thật quý hóa. Xin đa tạ !
Cát Xuyên Mộc ra về rồi, Hồ Kiện Bình còn tỏ lòng ngưỡng mộ, nói với người thân:
– Trước ta tưởng hắn chỉ là một tên hợm hĩnh, nham hiểm, không ngờ cũng là tay khá, có tài và nhã nhặn.
Đó là phản ứng Cát Xuyên Mộc đang mong đợi. Điều đó, hắn cũng đã xếp đặt sẵn trong kế hoạch:
làm cho kẻ thua hắn phải ca ngợi hắn để danh hắn được vang động giang hồ và ảnh hưởng thuận lợi đến quyết định của Hòa Giả lãnh chúa.
Mấy ngày sau, Cát Xuyên Mộc lại đến thăm Hồ Kiện Bình. Một lần còn sai gia nhân mang đến tặng Bình một con cá tươi lớn.
Chương 72: Những quả hồng xanh
Tiết đại thử, sau mùa mưa, trời nóng như thiếu đốt. Cua trong lỗ lổm ngổm bò ra, trèo lên cả đường phố. Mấy tấm bảng gỗ thách Thạch Đạt Lang ra mặt đối chất với bà Hồ Điểu, cái thì bị đánh cắp đem về làm củi, cái thì bị gãy, nước mưa cuốn đi mất tự bao giờ.
Tình cờ qua khu này ở ngoại vi Tân đô, thấy đói bụng, Cát Xuyên Mộc nhìn quanh tìm hàng quán. Đây không phải cổ thành nên ít người qua lại, nhưng chỗ bán trà nước kèm điểm tâm như ở Kyoto còn hiếm hoi lắm. Tuy vậy hắn cũng tìm được một quán ăn, nếu không mua được cơm tất cũng có bình trà giải khát.
Quán chẳng lấy gì làm khang trang. Dựng dưới gốc hòe cỗi, có hàng lau ngang ngực che khuất như một bình phong thiên nhiên, quán xem ra cũng mát. Giữa trời hè nóng nực, chỗ nghỉ chân thế này thì thật quý ! Ngoài cửa, sát hàng lau, cắm biển gỗ đề ba chữ “Don-Ji-Ki” đọc nghe tương tự như “Tonjiki”, khẩu phần cơm nắm của lính trận ngày xưa. Trong quán, bên chiếc bàn dài, hai gã kiếm sĩ giang hồ đang ngồi ăn cơm.
Cát Xuyên Mộc bước vào, kéo ghế:
– Ông quán, có gì ăn không ?
– Dạ, có cơm và rượu.
– Biển ngoài kia đề ba chữ “Don-Ji-Ki”. Tên quán hay món ăn gì vậy ?
– À … à … dạ … thưa lão cũng không rõ.
– Không phải ông viết sao ?
– Dạ không. Năm ngoái khi quán mới dựng được một tháng, có ông khách ghé ăn cơm, khen ngon, lúc ra về viết cho mấy chữ, lão còn cắm đó !
Cát Xuyên Mộc chú ý, ngắm lại tấm biển rồi gật gù:
– Nét chữ sắc sảo lắm !
– Khách đã đứng tuổi, nghe nói ưa du ngoạn, thăm các đền chùa, đến đâu cũng cúng đường, có vẻ mộ đạo lắm.
– Ông biết khách là ai không ?
– Dạ, hình như là Cổ … Cổ … à, Đại Cổ ở Nara.
– Vậy hả, ta nghe tên quen lắm.
– Don-Ji-Ki, lão cũng chẳng biết nghĩa là gì nhưng thấy người mộ đạo lại sang trọng như Đại Cổ viết thì chắc tránh được bần hàn nên cứ để bảng hiệu từ bấy đến nay.
Khách trong quán cười tủm tỉm, ông quán cũng cười theo. Cát Xuyên Mộc gọi cơm với cá, chan nước trà, cầm đũa xua ruồi rồi bắt đầu ăn. Một trong hai kiếm sĩ ngồi bàn bên dùng bữa xong, ngó ra ngoài, chợt kêu lên:
– Kìa, phải thằng bán dưa không ?
Người kia bỏ đũa ngẩng đầu nhìn ra. Ngoài cửa quán, một gã quẩy gánh dưa da ếch, đi lặc lè, đầu hơi cúi, chiếc đòn gánh nặng trĩu trên vai đỏ ửng.
– Đúng rồi ! Chính nó đấy !
Cả hai bèn hối hả chạy ra. Một tên chẳng nói chẳng rằng, rút phắt gươm ché m một nhát đứt luôn dây quàng gánh. Gã bán dưa mất đà ngã chúi về phía trước, dưa theo nhau lăn long lóc đổ đầy đường.
– Ô hay, các chú làm gì thế ?
– Làm gì hả ?
Chưa kịp bò dậy, gã bán dưa đã bị mũi kiếm dí vào gáy và chân của tên cầm kiếm dậm trên lưng.
– Con bé đó đâu ?
– Con bé nào ? Ta đâu có biết !
– Không biết ? Này không biết …
Gót chân ấn xuống mạnh hơn. Gã bán dưa mặt đỏ như gấc, vừa tức vừa sợ, định vùng dậy. Bỗng nhói một cái, mũi kiếm hình như đâm vào gáy gã.
– Ngươi mang nó đi đâu ? Mặt mũi thế này mà cũng biết cuỗm vợ người ! Để ta trói lại xem còn chối nữa không ?
Dứt lời tên ấy quỳ ngay xuống, dùng đầu gối đè lên lưng gã bán dưa, một tay bẻ quặt tay gã ra sau lưng, một tay với tìm sợi dây quàng gánh.
Bỗng có tiếng ằng ặc phía sau như lợn bị chọc tiết. Nhìn lui, bạn hắn đổ xuống tựa khúc gỗ mục, máu ở cổ phun ra có vòi. Đứng bên là Cát Xuyên Mộc. Hốt hoảng, hắn đứng phắt dậy:
– Ngươi là ai, sao dám giết người giữa thanh thiên bạch nhật ?
Không nghe đáp, chỉ thấy thanh trường kiếm của Cát Xuyên Mộc tựa con mãnh xà vung lên trước mặt hắn. Hắn lui một bước né tránh, kiếm tiến thêm một bước. Hắn tránh sang bên phải, kiếm cũng theo sang phải. Quay sang trái, kiếm chận bên trái. Hình như Cát Xuyên Mộc không cố tình, hay chưa có ý định giết hắn, nên lúc nào mũi kiếm cũng ở cách mặt hắn chừng non một tấc.
Hắn chửi thề, vung kiếm phản kích. Một chiêu, hai chiêu, ba chiêu … rồi năm, sáu chiêu liên tiếp. Quái lạ ! Chẳng ăn thua gì, đánh như đánh vào quãng không vậy, không mảy may đụng vào địch thủ mà thanh trường kiếm tựa con rắn vẫn nhảy múa trước mặt.
Như mèo vờn chuột, Cát Xuyên Mộc thích thú trước sự khiếp sợ của đối phương, tiếng cười hăng hắc khiến người nghe sởn gáy.
Gã bán dưa ngồi dậy. Một lúc, hoàn hồn định chạy, bỗng gã giương mắt ngạc nhiên, mồm há hốc:
– Cát Xuyên Mộc ! May quá, đại hiệp cứu tiểu nhân với !
Nghe tên Cát Xuyên Mộc, gã kiếm sĩ kia kinh hãi, biết gặp phải tay ghê gớm, xoay mình chém bậy một chiêu rồi nhảy vào đám sậy định trốn. Nhưng đã trễ, kiếm quang loáng lên, “cây sào phơi” đã xẻo đứt tai gã và phập xuống cắt luôn cổ gã đến gần gáy.
Gã gục xuống chết ngay tức khắc.
Cát Xuyên Mộc lau kiếm lên áo nạn nhân, đoạn quay hỏi gã bán dưa:
– Mãn Hà Chí, lâu lắm không gặp ngươi. Bây giờ đi buôn dưa đấy ?
Mãn Hà Chí bẽn lẽn nhìn xuống đất.
– Làm gì mà để hai tên này vây đánh ?
– Chuyện dài lắm. Đại hiệp vẫn khỏe chứ ?
– Dĩ nhiên là khỏe. Chỉ có ngươi chắc không được như ý phải không ?
– Dạ … dạ …
Rồi như tránh không muốn nhắc đến một chuyện đau đớn, Mãn Hà Chí lặng thinh cúi xuống nhặt dưa bỏ vào sọt.
Chủ quán chạy ra, mặt tái mét, lắp bắp:
– Khách quan ! Khách quan ra tay thế này không ai trông thấy, quan quân hỏi, lão biết trả lời làm sao ?
Cát Xuyên Mộc đáp:
– Không hề gì, lão cứ yên tâm.
Đoạn trở vào quán, theo sau là Mãn Hà Chí và chủ quán. Bảo lấy giấy bút, Cát Xuyên Mộc viết:
“Ta là Cát Xuyên Mộc, ngoại hiệu Giang Biên Liễu, xác nhận đã giết hai tên côn đồ này trong khi chúng bắt nạt người lương thiện”.
– Đây thế này được chưa ? Nếu quan quân hoặc có ai khác muốn hỏi gì thì cứ bảo gặp ta trên đồi Lãm Nguyệt, ta sẵn sàng tiếp.
Rồi lại thêm:
– Gã này quen biết với ta, ông quán cho gã gửi tạm hai sọt dưa ở đây, mai lấy.
Chủ quán líu ríu:
– Dạ … dạ …
Đoạn gấp tờ giấy bỏ vào bọc và quay vào mang ra hai bình nước trà.
Ngồi đối diện Cát Xuyên Mộc trước bàn, Mãn Hà Chí đầu cúi gầm như đứa trẻ có lỗi. Trước sau gì rồi cũng phải kể hết chuyện cho Cát Xuyên Mộc nghe. Mà chuyện gì đây ? Toàn những việc xấu xa không đáng nói, nhưng vốn tính nhu nhược, Mãn Hà Chí không thể từ chối. Từ khi Oa Tử vuột khỏi tay hắn, càng ngày hắn càng chán nản chẳng thiết làm gì, đàn đúm với bọn vô lại ăn cắp, ăn xin, được đồng nào lại mua rượu uống say sưa tối ngày. Gần đây, túng quẫn quá, phải nhận gánh thuê cho người ta chứ làm gì có tiền mà buôn bán.
– Thế còn hai tên kia, lý do gì ngươi bị chúng đánh ?
Mãn Hà Chí thở dài:
– Cũng chỉ vì một con bé …
Cát Xuyên Mộc mỉm cười. Thì ra cái tên vô tích sự này vô tích sự Ở đâu chứ với gái thì đào hoa quá ! Hay là cái nghiệp của hắn đấy ? Bèn hỏi:
– Con bé tên gì, ở đâu, nói rõ ta nghe.
Mãn Hà Chí cứ cúi gầm mặt xuống, vặn hỏi mãi mới đáp:
– Con bé làm ở một trà thất nhỏ cách đây chừng một dặm. Chỗ đó đông khách, đủ mọi hạng người, kể cả hai tên lúc nãy. Tại hạ tới uống rượu đôi ba lần, được con bé để ý.
Nó bảo vị hai tên đó cứ theo chọc ghẹo hoài mà lão chủ thì sợ không dám làm gì nên muốn đi chỗ khác mà chẳng biết đi đâu. Thấy tại hạ hiền lành ít nói, nó nhờ dẫn nó đi trốn. Chuyện chỉ có thế …
– Hừ ! Cát Xuyên Mộc cười khẩy. Ta nghe có vẻ khả nghi lắm …
– Gì mà khả nghi ?
– Thế tên nó là gì ?
– Ờ … Ờ … Tên nó là …
Cát Xuyên Mộc cắt ngang:
– Mà thôi, ở đây nóng quá, dẫn ta về nhà, ngươi kể ta nghe rõ ngọn ngành sau cũng được !
Mãn Hà Chí giật mình đánh thót.
– Có gì phiền chăng ?
– Nhà tại hạ quê mùa hủ lậu, đại hiệp đến làm gì ?
Cát Xuyên Mộc ngạc nhiên, nhưng nhìn nét mặt thiểu não của Mãn Hà Chí, hắn thôi không không hỏi nữa, chỉ nói:
– Cũng được, để khi khác vậy. Ta ở đồi Lãm Nguyệt, nhà Cao Mục Lân, lúc nào cần việc gì, cứ đến.
Mãn Hà Chí mừng như mở cờ trong bụng:
– Thế thì còn gì bằng ! Thế nào cũng phải có dịp đến vấn an đại hiệp chứ !
– À, trong những tháng gần đây, ngươi có thấy cáo thị nói về Thạch Đạt Lang không ?
– Có.
– Trong cáo thị có nêu tên thân mẫu ngươi, sao ngươi không tìm thăm ?
Mãn Hà Chí gãi đầu, bối rối:
– Tại hạ như thế này đến thăm sao được ! Vả lại … vả lại …
– Ngươi là đứa con bất hiếu. Tưởng tượng xem mẹ ngươi sống được bao lâu nữa ?
Rồi nếu gặp Thạch Đạt Lang, biết chuyện gì sẽ xảy ra ? Bấy giờ ngươi sẽ hối hận suốt đời!
– Ờ, có lẽ tại hạ cũng phải nghĩ đến chuyện đó.
Nói thế, nhưng thật ra Mãn Hà Chí sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện tìm gặp mẹ.
Mọi người, kể cả kẻ vừa mới cứu mạng hắn, xét cho cùng, chẳng hiểu gì về những liên hệ tình cảm giữa mẹ con hắn cả.
Hai người chia tay nhau. Mãn Hà Chí đi đường nhỏ sang phía tây, còn Cát Xuyên Mộc dọc hướng đông nam về thành phố. Nhưng được một quãng, Cát Xuyên Mộc quay trở lại đuổi theo Mãn Hà Chí, vừa đi vừa ẩn trong các lùm cây ven đường không để gã biết.
Đến một nơi cỏ tranh mới cắt lam nham, chỗ đất còn cháy xém, màu than đen loang lổ từng đám, chỗ cỏ mọc đã cao, hiên ra chục căn nhà dài mái rạ, vách ván lẩn giữa những cây hồng dại, quả vàng quả xanh lẫn lộn. Đó là chỗ ở của một số công nhân làm đủ nghề trong các dinh lãnh chúa đang xây cất ở Tân đô:
thợ nề, thợ mộc, thợ vác đá, thợ đào giếng … Mỗi căn chứa được năm hộ, có khi sáu, bảy.
Tân đô bành trướng nhanh, thợ thuyền đến lập nghiệp mỗi ngày một đông, mạnh ai nấy sống, tranh nhau đốt cỏ khai quang thêm mãi ra. Ngoại vi tân đô này có đến hàng trăm xóm như thế.
Mãn Hà Chí, may có người giới thiệu, len lỏi vào cũng chiếm được khoảnh đất nhỏ, đương nhiên trở thành kẻ ngụ cư trong xóm.
Về đến nhà, một thiếu phụ lật đật ra đón. Nàng là cô bé Mãn Hà Chí kể cho Cát Xuyên Mộc nghe lúc nãy. Tưởng ai, hóa ra A Kế Mỹ.
– Giao hết chỗ dưa rồi hả ? Thay áo đi tắm đi !
Mãn Hà Chí vui vẻ gật đầu. Nghèo và bị chèn ép như hắn, nhưng đôi lúc hắn cũng thấy vui, cuộc đời đáng sống lắm. A Kế Mỹ bỏ hắn đi mấy lần, tưởng chẳng bao giờ gặp lại, ngờ đâu số mệnh run rủi, hoa xưa ong cũ lại tìm thấy nhau. Hàng xóm toàn thợ thuyền bình dân nhưng chất phác chẳng phiền hà hắn bao giờ. Hắn thấy hạnh phúc.
Nước tắm đã pha xong, Mãn Hà Chí cởi trần, đóng vỏn vẹn cái khố, vừa bước vào bồn vội rút ngay chân ra.
– Chà chà ! Nóng quá !
Gọi A Kế Mỹ đến, đổ thêm nước lạnh vào rồi ngồi trong bồn gỗ, hắn thở phào, khoan khoái.
Lão ông hàng xóm chạy sang, bắc ghế đẩu kề bên, bắt đầu chuyện gẫu.
– Hôm nay ngoài phố có chuyện gì lạ không ?
– Không. Như mọi hôm.
– Giao hết dưa rồi hả ? Nắng thế này, chắc dưa bán chạy.
– Chắc thế. Nhưng còn để một số ở quán Don-Ji-Ki.
– Nếu bác nghe lão, xin chân đào giếng trong dinh thì có phải giờ khá hơn không ?
– Dạ … dạ … nhưng A Kế Mỹ đâu để tại hạ làm việc đó.
– Sao vậy ?
– Còn đào giếng thì còn phải ở trong thành, đâu ra ngoài được. Nàng than một mình buồn, chẳng ai bầu bạn.
Ông lão cười hinh hích:
– Hạnh phúc nhỉ ! Lấy nhau lâu chưa ?
– Ối !
– Gì thế ?
– Có quả hồng xanh rơi lên đầu !
Mãn Hà Chí cầm quả hồng xanh đưa ông lão coi. Tiếng cười lớn hơn:
– Chả khoe vợ yêu nữa đi ! Trời phạt đấy !
Mãn Hà Chí cũng cười. Những tâm hồn giản dị thường dễ thông cảm với nhau về những chuyện không đâu.
A Kế Mỹ mang khăn ra. Mãn Hà Chí bước khỏi bồn tắm và ông lão hàng xóm cũng bỏ về, chẳng muốn làm phiền đôi vợ chồng mà ông cho là có hạnh phúc.
Thay áo mới xong, đứng trước hiên, Mãn Hà Chí kể cho A Kế Mỹ nghe câu chuyện xảy ra hồi nãy. Nàng tái mặt:
– Chàng gặp Cát Xuyên Mộc hả ? Có nói thiếp ở đây không ?
– Không. Ai ngu gì mà nói !
– Hắn có đòi đến nhà này không ?
– Có, nhưng ai ngu gì mà cho hắn biết.
A Kế Mỹ thở dài. Mãn Hà Chí cầm tay nàng để lên đùi mình:
– Nàng yên tâm, ta không đời nào tiết lộ cho hắn biết chỗ ở của nàng đâu ! Thằng vô lại đó sẽ theo dõi …
Thình lình, một quả hồng xanh nữa lại đập đến bộp vào má hắn. Lần này mạnh hơn, thịt hồng vỡ tung tóe.
Mãn Hà Chí giơ tay xoa má, không biết rằng ở đầu nhà, một bóng người cao lớn đang men theo những bụi cỏ tranh, bước vội ra đường cái.
Chương 73: Thầy trò
Thầy trò Thạch Đạt Lang rời khỏi xưởng mài kiếm của Vương Chính đã hai hôm, đi mãi về hướng đông qua mấy xóm tiều xơ xác, lèo tèo vài căn nhà gỗ hoặc đôi ba cái chòi rạ.
Đến đồng Musashimo, cỏ cao ngang bụng, con đường mòn ít người qua lại hình như bị lấp kín từ lâu, chỉ còn lờ mờ dấu vết. Lầm lũi đi trong đám cỏ cao, Hạo Nhiên ngẩng lên bỗng không thấy sư phụ đâu nữa. Nó hốt hoảng gọi:
– Thầy ! Thầy có đấy không ?
Tiếng Thạch Đạt Lang từ phía trước:
– Ta đây, sao chậm thế ?
Nghe tiếng sư phụ, Hạo Nhiên thở phào, bẽn lẽn vì đã sợ hãi vu vơ. Nó bước nhanh để theo kịp thầy, sỏi dưới chân kêu rào rạo, mồ hôi thấm vào những vết xước trên da hơi xót.
– Con đường này đi đâu hả thầy ?
– Ta cũng không rõ, nhưng chắc không phải đến một thị trấn đông đúc.
– Sao mình không đến chỗ nào đông vui ?
– Mình không tiện ở những chỗ đông vui.
– Thế mình ở những chỗ như thế này à ?
– Sao lại không ? Mình cần học, con còn phải tập luyện nhiều, không tiện ở những nơi đô hội. Vả ta cũng không thích.
Hạo Nhiên ngước nhìn trời, nhìn khoảng mênh mông của khung cảnh trước mặt rồi nghĩ đến sự trống rỗng buồn tẻ khi phải sống trong cảnh ấy. So với nếp sinh hoạt nhộn nhịp vừa trải qua, nó thấy lòng ngao ngán. Nó xịu mặt.
Nhìn Hạo Nhiên, Thạch Đạt Lang biết ngay đồ đệ đang nghĩ gì, nhưng không nỡ quở trách. Tuổi trẻ ham vui, cũng như hắn khi xưa, lúc còn nhỏ. Thạch Đạt Lang để tay lên vai thằng bé, cũng nhìn trời và nói:
– Hạo Nhiên ! Sắp vào thu rồi. Trời sẽ đẹp bao nhiêu, gió gợn sóng hoa lau bạc trắng và mỗi sáng sương đọng trong vắt trên nền cỏ trước nhà !
Thạch Đạt Lang nói với Hạo Nhiên mà như nói với chính mình. Trong đáy lòng con người lang bạt có một tâm hồn đa cảm lạ lùng và không biết cuộc đời hắn đang sống đây là do tâm hồn ấy xui khiến hay do lòng yêu thiên nhiên thúc đẩy. Có lẽ cả hai.
– Trước nhà ? Xung quanh đây có nhà nào đâu ?
– Ta sẽ tìm chỗ làm nhà chứ !
– Như ở Hotengahara ấy hả thầy ?
– Ừ. Nhưng lần này ta không làm ruộng nữa. Ta muốn có thì giờ suy tư và tập luyện cùng dạy con về võ nghệ nhiều hơn. Có lẽ cũng cần phải tìm một chố nào hẻo lánh nhưng đừng xa thị trấn lắm. Chúng ta còn phải nhờ cậy vào xã hội nhiều.
Tối hôm đó, như những con thú hoang, hai thầy trò lại ngủ ngoài trời, bên một dòng suối gần cạn, sau bữa ăn đạm bạc gồm cơm khô với cá nướng.
Hôm sau lên đường, qua trấn Kashiwagi, tạt vào quán mua ít thực phẩm khô xong, Thạch Đạt Lang và Hạo Nhiên lại tiếp tục trở lại đường mòn, đi mãi. Vào sâu, đồng cỏ dường như khác dần. Đã có cây sồi và giẻ gai điểm lác đác. Xa xa là bìa một khu rừng thưa, tùng trắc xanh đen chen lẫn với màu lá phong, chỗ đậm chỗ nhạt, không còn làm chán mắt. Đến nơi, lại thấy dòng suối nhỏ, nước róc rách qua những tảng đá xanh rêu dưới vòm rễ cây đan nhau chằng chịt.
Thạch Đạt Lang rất lấy làm thích ý, gật gù:
– Chỗ này được đây. Ta tạm nghỉ rồi ngày mai sẽ bắt tay vào việc.
Sáng hôm sau, mặt trời mới ló, thầy trò Thạch Đạt Lang đã vào rừng hăng hái chặt cây dựng nhà. Hạo Nhiên tính vẫn như xưa, lo xa và cần kiệm, nhặt những cành nhỏ bó lại để dành phơi làm củi. Trong khi nấu cơm cho cả hai thầy trò ăn, nó không khỏi không nhớ lại thời kỳ ở Hotengahara, những lúc vui buồn với Thạch Đạt Lang, những ngày bão lụt và chống cự bầy sơn quỷ. Lòng tri ân, yêu mến sư phụ dào dạt. Hạo Nhiên, trong khi chờ cơm chín, pha một bình trà mang vào rừng để sư phụ giải khát. Hai thầy trò ngồi dưới tàng thông uống nước, ôn lại chuyện những năm qua, tình sư đệ càng thêm khắng khít.
Chẳng bao lâu đã hết hạ sang thu. Khi những chiếc lá phong đầu tiên đổi màu thì căn nhà Thạch Đạt Lang dựng lên cũng vừa hoàn tất. Gọi là nhà, thực ra chỉ là một cái lều gỗ để nguyên cây ghép lại, vỏ còn xù xì chưa róc, mái cỏ tranh do Hạo Nhiên cắt ở cánh đồng ngay đấy phơi khô, ken lại thành từng tấm đem lợp.
– Chẳng khác gì lều của những kẻ đốt than. – Thạch Đạt Lang cười bảo đồ đệ – Nhưng cũng còn hơn không có gì để che mưa nắng.
Những ngày sau đó, ngoài công việc nấu ăn thường nhật, thời biểu luyện tập của thầy trò Thạch Đạt Lang được ấn định rõ ràng và buổi trưa, đôi khi tiếng đọc sách của Hạo Nhiên át cả tiếng ve cuối mùa ngoài đồng vắng.
Đối với Giang, đồ đệ cũ trước đây, Thạch Đạt Lang không khắt khe đến thế. Hắn để mặc Giang được tự nhiên, chỉ hướng dẫn và giải thích chứ không ngăn cấm. Áp dụng cách ấy vào việc giáo dục Hạo Nhiên, hắn thấy dường như kết quả không được như ý muốn. Tác phong tốt mất dần, đồng thời tật xấu xem chừng bắt đầu nảy nở như cỏ dại ở vườn hoang. Nếu không nhổ hẳn đi, sau này khó mà trừ được.
Trong những thập niên gần đây, các sứ quân thắng trận liên tiếp lên cầm quyền Người nào cũng chỉ biêt xây dựng uy thế trên võ lực và củng cố uy thế ấy để giữ quyền lợi cho đảng tộc mình mà thôi. Dân chúng ít được lưu tâm đến, nếu có cũng chỉ được coi như một giai cấp thấp hèn được sinh ra để phục vụ. Trận chiến Sekigahara đã mở mắt cho nhiều người và Tôn Điền Tùng Cương hình như cũng có ý muốn theo con đường sửa đổi chính sách. Đó là một điều hay để đưa các từng lớp xã hội từ chỗ hỗn loạn đến trật tự, từ chỗ chia rẽ đến thống nhất và từ chỗ phá hoại đến xây dựng.
Thạch Đạt Lang cũng chủ tâm theo hướng ấy khi luyện tập cho Hạo Nhiên thành một kiếm sĩ có khả năng nhằm mục đích góp phần vào công việc đào tạo giai cấp lãnh đạo sau này. Song song với việc luyện kiếm, hắn bắt đồ đệ phải đọc sách để thêm kiến thức và tu dưỡng tâm tính trong những buổi diện bích suy tư. Vì vậy kỷ luật gắt gao hơn, không còn lơi như những năm trước.
– Hạo Nhiên !
– Dạ.
– Mặt trời sắp lặn. Đã đến giờ tập. Mang kiếm ra đây !
Hạo Nhiên đem hai thanh mộc kiếm lại, một dài một ngắn, quỳ dâng trước mặt sư phụ. Thạch Đạt Lang cầm kiếm, bảo đồ đệ đứng dậy, đưa nó thanh kiếm ngắn và ra lệnh thủ thế.
Thầy trò nhìn nhau yên lặng, kiếm giơ ngang tầm mắt. Vệt sáng cuối cùng của ngày tàn còn đọng lại ở chân trời, nhưng gần căn lều Thạch Đạt Lang và Hạo Nhiên ở, bóng tối đã tràn ngập. Sau lùm cây trắc lá đen dày, mảnh trăng thượng huyền mới mọc lấp ló.
– Mắt !
Giọng Thạch Đạt Lang sắc và gọn. Hạo Nhiên mở to mắt.
– Mắt ta ! Nhìn vào mắt ta !
Hạo Nhiên nhìn mắt sư phụ. Trong bóng tối, mắt Thạch Đạt Lang sáng như sao, có ánh đỏ. Nó sợ, chỉ muốn quay đi, nhưng dường đoán được ý nó, Thạch Đạt Lang quát:
– Mắt ta ! Nhìn mắt ta ! Không được quay chỗ khác !
Hạo Nhiên bủn rủn chân tay, thanh kiếm gỗ rung động. Nó cố chú mục vào mắt thầy nhưng mới chỉ một thoáng đã đầu váng mắt hoa, kiếm trên tay nặng trịch chỉ chực rớt.
Thạch Đạt Lang tiến một bước, ánh mắt không rời khỏi mắt đồ đệ. Hạo Nhiên định bước lui mà chân cứ chôn chặt xuống đất, không tiến mà cũng không lui được.
Người nó nóng ran. Sự tức giận như muốn nổ tung. Dường cảm nhận được sức mạnh của nguồn nội lực bộc phát trong lòng Hạo Nhiên, Thạch Đạt Lang lại quát:
– Tấn công !
Hạo Nhiên giật mình nhảy tới. Lưỡi gươm chém bậy lên đầu địch thủ trong một phản ứng hỗn loạn vì thói quen chứ không vì chủ đích. Vù một cái, Thạch Đạt Lang đã cúi mình, thu vai lại, trườn mình như cá đến sau lưng nó, mũi gươm kề sát nách đồ đệ.
– Đủ rồi ! Tạm ngưng !
Hạo Nhiên hoàn hồn, quỳ xuống chân sư phụ. Thạch Đạt Lang chống kiếm, nghiêm khắc nói:
– Vừa rồi ngươi đã thấy sự thiếu bình tĩnh và sợ hãi mang đến kết quả như thế nào.
Trong cuộc chiến, đôi mắt hết sức quan trọng. Nếu sử dụng đúng lúc, nhãn quang có sức mạnh ghê gớm khôn lường, có thể làm tâm ý địch thủ tổn thương ngay từ đầu, chưa đánh đã nắm chắc phần thắng. Đừng để tinh thần dao động vì khiếp nhược, vì khiếp nhược là chết.
– Dạ.
– Bây giờ ra kia, ta tiếp tục.
Hai thầy trò quần thảo với nhau trong bóng tối chập choạng, yên lặng không thốt một lời. Chỉ nghe tiếng thở mỗi lúc một mau của Hạo Nhiên và đôi lúc tiếng mộc kiếm chạm nhau kêu lách cách.
Sương xuống ướt đẫm bãi cỏ ven rừng và vầng trăng cong tựa sừng trâu đã lên khỏi ngọn cây trắc cao nhất. Mỗi khi có cơn gió mạnh, côn trùng lại tạm ngưng điệu nhạc ri rỉ buồn bã. Thu đã về. Những bông hoa dại ban ngày trông không rõ, ban đêm hiện ra run rẩy, xôn xao dưới ánh trăng, trong sương đêm tỏa hương nhè nhẹ.
Thạch Đạt Lang cùng đồ đệ ngừng tập, bước vào nhà thắp đèn. Bỗng nghe tiếng ngựa hí, Thạch Đạt Lang cau mày:
– Ai vậy ?
– Chắc lại một lữ khách nào lỡ đường. Để con ra xem.
– Ừ ra xem ai.
Một lát, Hạo Nhiên trở vào. Thạch Đạt Lang hỏi:
– Lữ khách ?
– Dạ không. Ông này muốn đến thăm thầy. Ông xưng danh là Kỳ Sâm, đồ đệ của Hồ Phong Hạo Điền.
– A ! Ta nhớ rồi. Ra mời vào đây !
Tuy không quen thuộc gì với Kỳ Sâm, nhưng Thạch Đạt Lang có biết hắn khi còn ở trọ tại xưởng mài kiếm của Vương Chính. Vương Chính thường liên lạc với các học viên của trường dạy binh pháp Hồ Phong. Sau lần Cát Xuyên Mộc ra tay giết một số học viên của trường này bên bờ sông Sumida rồi sau đấy lại tận diệt mấy người khi bọn này tìm đến báo thù cho bạn đồng môn thì Vương Chính xem chừng phẫn nộ lắm. Vì không muốn dính dáng đến những chuyện ân oán giang hồ như thế, Thạch Đạt Lang bỏ đi, không ở trọ nhà Vương Chính nữa. Bây giờ Kỳ Sâm lại đến tìm hắn, chẳng hiểu có mục đích gì ?
Thạch Đạt Lang ra đón khách ở cửa ngoài. Tuy gọi cửa ngoài nhưng thực ra căn lều không có cửa. Những hôm gió lộng, mưa to, chỉ có tấm liếp cỏ được dùng để che chỗ nằm cho hai thầy trò và những vật dụng linh tinh cùng sách vở. Góc bên kia là bếp.
Thành ra chủ khách phải đứng ngoài hiên đàm đạo.
– Túc hạ đến có việc gì ? Sao biết tại hạ Ở đây mà tìm ?
– Đại hiệp tha cho tội đường đột. Câu chuyện còn dài xin để kể sau. Vả lại đấy không phải là việc chính. Việc chính là có một vị hiện đang là tân khách của gia phụ muốn được gặp đại hiệp.
– Ồ ! Ai vậy ?
Kỳ Sâm mỉm cười:
– Không tiện tiết lộ danh tính. Vị đó bảo muốn dành cho đại hiệp một sự ngạc nhiên thích thú.
Thạch Đạt Lang cũng cười:
– Ra thế đấy ! Thế vị đó đâu, sao không mời vào ?
– Hiện ở tại tệ xá. Và đó cũng là lý do tại hạ vâng nghiêm mệnh đến đây thỉnh đại hiệp …[Audio] Cửu U Long Giới (dịch)
Thạch Đạt Lang cau mày. Ở Tân đô hắn chẳng quen ai nên tò mò gặng hỏi, thì chỉ được đáp người đó biết hắn từ khi còn nhỏ.
“Ai thế nhỉ ?”. Thạch Đạt Lang nghĩ thầm. Chẳng lẽ Mãn Hà Chí, hay có thể một người nào đó ở Mimasaka, hoặc Đại Quán hay Oa Tử. Hắn không tin là Oa Tử, nhưng trong thâm tâm ước mong người đó sẽ là nàng. Niềm hy vọng tràn ngập trong lòng, Thạch Đạt Lang hớn hở như đứa trẻ sắp được kẹo.
– Đại hiệp đến không ?
– Ngay bây giờ ư ?
Kỳ Sâm gật:
– Ngay bây giờ. Đêm nay có trăng, trời mát mẻ. Tại hạ đã dẫn theo một con ngựa buộc ngoài kia chờ sắn.
Thạch Đạt Lang gọi Hạo Nhiên tới dặn dò mấy câu rồi ra khỏi nhà. Kỳ Sâm hỏi:
– Hồ Phong Thừa Chí, con trai duy nhất của Hồ Phong Hạo Điền mới bị Cát Xuyên Mộc giết chết, đại hiệp biết chưa ?
– Chưa. Tại hạ Ở chỗ cô lậu này, hàng tháng chẳng có người qua lại, như ếch ngồi đáy giếng, có rõ gì đâu !
– Thừa Chí đến chỗ Cát Xuyên Mộc trọ trên đồi Lãm Nguyệt định ám sát hắn, không ngờ việc chẳng thành nên vong mạng.
Thạch Đạt Lang lắc đầu. Những chuyện oán cừu như thế nếu không tìm rõ ngọn ngành để giải tỏa, chắc còn nhiều người chết. Kể từ ngày bọn đệ tử Hồ Phong bị mất mạng trên bờ sông Sumida, rồi năm học viên của trường bị giết, cộng với Thừa Chí tử thương mới đây, tất cả có trên mười người thuộc phái Hồ Phong bị Cát Xuyên Mộc tàn sát. Và như thế chứng tỏ Giang Biên Liễu chẳng phải tay vừa.
Tiếng ngựa hí nghe đã gần. Kỳ Sâm tới tháo cương ngựa cho Thạch Đạt Lang, yên cương đã bắt đầu ẩm. Thạch Đạt Lang nhảy lên ngựa cùng với Kỳ Sâm sóng đôi đi sâu vào rừng qua các lùm trắc cao, chẳng mấy chốc đã bị sương đêm che khuất dạng.
Hạo Nhiên ngồi trước hiên trong bóng tối của căn lều, giữa sự cô tịch của cảnh vật xung quanh. Nó đã sống trong cảnh hoang vắng từ nhỏ, nhưng sao đêm nay Hạo Nhiên bỗn thấy sự hoang vắng ấy rõ nét như chưa bao giờ thấy. Tiếng côn trùng nhỏ hơn, hàng trắc sau nhà cũng im phắc, không nghe rì rào như mọi lúc.
Hạo Nhiên nhớ đến những lời sư phụ khi nãy:
“Mắt ta ! Nhìn vào mắt ta !”. Trước đây nó không hiểu tại sao khi tập luyện, sư phụ thường bắt nó nhìn vào mắt người. Bây giờ mới vỡ lẽ, không những chỉ để dằn xúc động và sợ hãi mà còn để chế ngự kẻ địch nữa.
“Đừng để tinh thần dao động vì khiếp nhược”, ôn lời sư phụ dạy, Hạo Nhiên chợt thấy trong bóng tối, trên lùm trắc cao, một đôi mắt đang chằm chằm nhìn nó. Đôi mắt tròn xoay, đỏ quạch nhìn nó không chớp một cách ma quái. Hạo Nhiên cau mày. Tuy không giống mắt sư phụ nhìn trong những lúc giao đấu nhưng tia mắt cũng ghê gớm như thế, khiến nó rùng mình, da nổi gai ốc. Ở những nơi hoang vu như thế này, xưa kia biết đâu chẳng là chỗ chiến trường, oan hồn vô số lẩn quẩt bên bờ lau, bụi cỏ. Cũng như con cáo trước đây đã dẫn nó đi lạc ở Higakubo là hiện thân của loài ma quỉ nào đó, bất luận người hay vật có đôi mắt tròn đỏ lạ lùng như thế kia chắc không phải là bạn. Hạo Nhiên định bước vào nhà, tránh nhìn đôi mắt khiến nó rợn người, nổi gai ốc như khi nghe tiếng dao cạo vào cật nứa. Nhưng bỗng ý thức sự hèn kém của mình, Hạo Nhiên không đứng dậy nữa. Nó ngồi yên, trừng trừng nhìn lại đôi mắt đang nhìn nó.
“Ta không sợ”, Hạo Nhiên tự nhủ. “Dù mày là ai, oan hồn hay yêu quái, ta cũng không sợ”.
Kỳ dị thay ! Trong một sự tranh thắng lạ lùng, đôi mắt kia dường như cũng nghĩ như vậy và trở nên sáng hơn, mục lực mạnh hơn như xoáy vào mắt nó. Hạo Nhiên nhìn lại, không chớp, tinh thần căng thẳng, vận toàn lực buộc đôi mắt kia phải bỏ cuộc. Thời gian trôi đi bao lâu không rõ, Hạo Nhiên tưởng đã phải nín thở suốt trong thời gian ấy.
Và trong một sát na, nó biết là nó đã thắng.
Đôi mắt không còn ở đó nữa. Có tiếng lá động sột soạt và tiếng chim vỗ cánh bay đi, nhẹ như gió thoảng.
Trán Hạo Nhiên ướt đẫm mồ hồi. Bây giờ nó thấy người dễ chịu hơn và tự hứa lần sau luyện kiếm với sư phụ sẽ nhất quyết không để bị khiếp nhược.
Hạo Nhiên bước vào nhà, tắt đèn, nằm lên chiếu như thường lệ, thanh kiếm gỗ để bên. Bên ngoài lều, cỏ lóng lánh sương, phản chiếu ánh trăng màu nguyệt bạch. Nó thiếp đi.
Trong giấc mơ, Hạo Nhiên tưởng nhìn thấy một điểm sáng nhỏ xíu giữa bóng đen vô tận. Điểm sáng to dần mãi ra, chuyển từ màu lục sang màu hồng rồi đỏ chói, vàng sậm, tím ngắt quay tròn như hào quang của một chiếc cầu vồng không có đầu mà cũng không có cuối làm nó choáng ngợp.
Giật mình tỉnh dậy, trở mình trên chiếu, Hạo Nhiên nhìn qua khung cửa mở thấy trên cao, tít từng cao, hai vì sao xanh biếc đang nhìn nó.
Chương 74: 1 cuộc dàn xếp
Đến chân đồi Akagi, đêm đã sang canh. Kỳ Sâm và Thạch Đạt Lang xuống ngựa dắt theo đường nhỏ quanh co giữa hai hàng trúc cao tới một cổng đá lớn.
Xa xa, vẳng tiếng sáo đưa lại, nghẹn ngào. Âm vang nức nở như khơi dậy trong lòng Thạch Đạt Lang một nỗi cảm hoài man mác. Kỳ Sâm đẩy cổng bước vào, nói:
– Đây là đường tắt. Tại hạ dẫn đại hiệp theo đường này thật không phải, nhưng nếu đi đường chính thì quá lâu, sợ các vị khách chờ …
– Có hề gì, các hạ đừng để tâm.
Quanh co một hồi nữa, bỗng thấy ánh đèn thấp thoáng, rồi hai thanh niên cầm thương tiến đến. Khi nhận ra Kỳ Sâm, cả hai đều cúi đầu chào. Kỳ Sâm hỏi:
– Lão nhân gia đã đi nghỉ hay còn ở đại sảnh ?
– Thưa còn ở đại sảnh.
Kỳ Sâm trao cương ngựa cho một thanh niên dẫn đi và bảo người kia cầm đèn soi đường đi trước.
Thạch Đạt Lang không biết rõ gia thế Kỳ Sâm nhưng xét cung cách đối xử của gia nhân thì gã tất phải thuộc một tộc có danh vọng trong vùng. Chẳng hiểu trường hợp nào thân phụ gã lại quen với người đã biết hắn từ khi còn ở Miyamoto ! Bỗng nhiên Thạch Đạt Lang sực nhớ và mười phần đoán được tám chín người đó là ai rồi.
Đường lên đại sảnh quanh co ngoắt ngoéo càng lúc càng cao như tạc trên sườn núi. Tới cửa một tòa lâu đài tường đá dày, cột gỗ lớn hai người ôm không xuể, đã thấy bốn gia nhân túc trực trên thềm cầm đèn sẵn.
Kỳ Sâm dẫn Thạch Đạt Lang vào ngồi trong phòng đợi rồi xin cáo lui, nói để trình với thân phụ.
Nhìn ra cửa sổ, qua một khu vườn khi ẩn khi hiện dưới ánh trăng, chỉ thấy mây tỏa tứ bề, không có nhà cửa cây cỏ gì khác. Sương mù trắng đục bao phủ khắp nơi, len lỏi cả vào phòng. Thạch Đạt Lang dự đoán khuôn viên này có lẽ được dựng trên một ngọn đồi cao hoặc trên một triền núi cheo leo nào đó bao quát cả vùng. Chắc ban ngày, nhìn từ đại sảnh xuống, cảnh trí vô cùng ngoạn mục.
Cửa mở êm như ru. Một tì nữ mặc kimono màu hoàng yến bước vào, để lên kỷ trước mặt Thạch Đạt Lang khay trà, bánh và thuốc hút rồi kín đáo lui gót, lặng lẽ như tan biến qua khung cửa. Mùi phấn son còn phảng phất trong phòng, nhẹ nhàng nhưng quyến rũ.
Uống chưa cạn tuần trà đã thấy chủ nhân tới. Ông thấp lùn nhưng thật khó mà đoán được tuổi. Tóc ông lốm đốm bạc, phía trên trán có lẽ không cần cạo vì đã hói gần hết, răng cửa hổng hai cái. Tuy thế, da dẻ hồng hào không một vết nhăn trên mặt, ria mép và tóc mai dày chứng tỏ sức lực còn sung mãn. Ông chính là Hà Chu Cát Tỉnh, một hào trưởng vùng này, trước cũng là kiếm sĩ có danh vọng phụ thị trong đạo quân ngự lâm. Trong cuộc chiến Sekigahara, Cát Tỉnh đứng về phe chiến thắng nhưng sau đó không nhận tưởng thưởng gì. Tính tình phóng dật, không ưa bị câu thúc nên ông lui về ở ẩn tại tòa lâu đài do tổ phụ dựng lên từ mấy đời trên sườn núi Akagi này, lấy cớ để bảo vệ di sản của ông cha nhưng chính thực để được sống an nhàn theo sở thích.
Buổi sơ kiến, qua những tràng cười thành thật và hào sảng của ông, Thạch Đạt Lang đã có hảo cảm ngay, cho nên sau khi thi lễ và vài câu xã giao, hắn hỏi thẳng:
– Vãn bối được lệnh tử cho biết có người muốn gặp. Dám xin lão tiền bối xác nhận phải thế chăng ?
Cát Tỉnh gật đầu:
– Phải. Chẳng những một mà là hai người nữa kia. Một vị may mắn đã được biết đại hiệp khi còn ở Miyamoto, vị kia thì chỉ mới nghe danh nhưng rất mong được hội kiến.
– Thật hân hạnh. Vãn bối đã đoán được người đó là ai rồi.
– Ai thế ?
– Phải chăng là thiền sư Đại Quán ?
Đập mạnh chiếc quạt đang cầm lên đùi, Hà Chu Cát Tỉnh cười ha hả:
– Phải rồi ! Thật không điều gì giấu được đại hiệp !
Đoạn không đợi Thạch Đạt Lang nói thêm, ông đứng ngay dậy:
– Xin mời đại hiệp theo lão phu.
Cát Tỉnh xăm xăm tiến vào một hành lang sâu và hơi tối ở phía trong. Hành lang rộng nhưng ngoắt ngoéo, lúc lên lúc xuống, lúc hướng sang trái lúc quặt sang phải, Thạch Đạt Lang theo mà gần như lạc hướng. Đến một khúc rẽ, đột nhiên không thấy chủ nhân đâu. Đang phân vân, chợt nghe tiếng Cát Tỉnh gọi:
– Thạch đại hiệp ! Lão phu ở dưới này !
Tiếng gọi dường như phát ra từ một căn phòng sáng có rèm che ở phía dưới. Từ chỗ hắn đứng đến căn phòng ấy là một khoảng lõm tối om trong vách đá và ở gần đấy, một cửa hông mở hé trổ ra khu vườn nhỏ hắn trông thấy khi ngồi trong phòng đợi.
Bất giác Thạch Đạt Lang cảm có điều gì bất ổn. Tiếng chủ nhân lại gọi vọng lên:
– Có chuyện gì vậy, đại hiệp ? Chúng ta ở cả dưới này, ngay cuối hành lang, xin xuống ngay cho.
Thạch Đạt Lang vội đáp:
– Đa tạ. Vãn bối tới ngay bây giờ !
Dứt lời, quay ngoắt trở lại mở cửa hông bước ra vườn rồi men theo những bậc đá ở hàng hiên dốc mé tả mà vào phòng.
Cửa vừa mở, Cát Tỉnh quay nhìn Thạch Đạt Lang không giấu vẻ ngạc nhiên trên nét mặt, nhưng ở góc phòng, thiền sư Đại Quán chỉ ngẩng đầu mỉm cười. Thạch Đạt Lang đến quỳ trước mặt Đại Quán, dáng điệu vô cùng tôn kính !
– Thầy Đại Quán !
Nhà sư phong thái vẫn như xưa, tuy diện mạo có già hơn đôi chút. Vẫn bộ áo chùng nâu cũ, vẫn cái dáng điệu ung dung gần như buông thả, nhưng lần này ở đây không thấy ông đeo tràng hạt. Hình thức bề ngoài hình như không còn để cho thiền sư quan tâm nữa.
– Lâu lắm chẳng gặp con, tuy vậy ta vẫn để ý theo dõi hành tung của con cho đến khi con rời khỏi xưởng mài kiếm của Vương Chính.
Lời nói thân tình mà nặng ý quan hoài khiên Thạch Đạt Lang cảm động.
– Lần cuối cùng ta gặp con ở đâu nhỉ ? À phải, ở Kyoto, có đúng không ? Sau khi mẫu thân ta mất, ta ở lại cư tang một năm rồi lại lên đường phiêu du, thăm nhiều đền miếu và các thân hữu, đọc các kinh sách lạ, đàm đạo với chư tăng, cũng thu thập được nhiều điều bổ ích lắm.
– Thế thầy mới đến Tân đô này thôi ư ?
– Ừ, ta được biết chủ nhân đây trong một dịp tình cờ qua sự giới thiệu của một thân hữu chung. Thế còn ngươi ? Trong thời gian đó làm những gì ?
– Theo dõi hành động của con, chắc thầy đã rõ.
Nhìn Thạch Đạt Lang, Đại Quán dường như muốn so sánh hắn bây giờ với gã nông dân Thạch Kinh Tử khi trước. Ông mỉm cười, chậm rãi:
– Sao còn quan tâm đến những việc đó ? Một người ở tuổi con mà đã nổi danh như thế chẳng phải chuyện thường, nhưng chừng nào con không làm điều gì ô nhục, xấu xa thì có gì đáng trách ? Điều ta muốn biết là sự luyện tập của con đến đâu rồi ?
Thạch Đạt Lang trình bày sơ lược những học hỏi và thành quả của mình trong những năm qua cho Đại Quán nghe rồi kết luận:
– Con sợ còn dại dột, sự suy tư chưa được chín chắn, hành động đôi khi còn khinh suất. Càng đi, con thấy đường càng dài và có cảm tưởng đang trèo một con dốc vô tận mà chưa trông thấy đâu là đỉnh núi.
Đại Quán gật gù xem chừng thỏa mãn về những nhận định thành thật của người thanh niên ông bảo trợ.
– Phải như thế, con ạ ! Nếu một người ở lứa tuổi ba mươi mà tự cho mình đã đến bờ giác thì sự tu luyện coi như chấm dứt rồi. Gã sẽ luẩn quẩn mãi trong mê muội. Ta thật bối rối nếu có người coi ta như một vị bồ tát hay sùng mộ ta như một vị Phật sống. Hãy tự cho là may mắn khi thấy người đời không đánh giá con quá cao, con ạ !
Thạch Đạt Lang cúi đầu cung kính:
– Con xin bái lĩnh lời thầy dạy.
Vừa khi ấy, một người trạc trung niên, dáng đường bệ, tay còn cầm trường kiếm để nguyên trong bao, bước vào. Thấy Thạch Đạt Lang ngồi bên Đại Quán, người ấy khựng lại, đưa mắt nhìn chủ nhân rồi lại nhìn nhà sư, đoạn phá lên cười ha hả:
– Phải chăng đây là Thạch Điền đại hiệp ?
Thạch Đạt Lang cúi chào:
– Chính phải. Tiểu nhân là Thạch Điền Đạt Lang, sinh quán tại Miyamoto. Dám hỏi phải chăng ngài là Trúc Mộ đại nhân ?
– Đúng. Ta chờ đại hiệp trong phòng tối từ lâu không thấy đi qua. Giờ đã ở đây rồi!
Khá thật !
Hà Chu Cát Tỉnh quay sang Thạch Đạt Lang, giải thích:
– Đó là mẹo nhỏ do chính lão phu chủ trương, đại hiệp sớm phát kiến làm cho lão thật bẽn lẽn.
Đại Quán cười:
– Đó là cuộc đùa chơi, có gì mà chủ nhân phải để ý !
Nhưng Cát Tỉnh vẫn trần tình:
– Lão phu không ngờ Thạch đại hiệp lại linh mẫn đến thế ! Nghe nhiều lời đồn đại về đại hiệp, lão phu muốn chính mắt được chứng kiến võ công của đại hiệp nên đã bày ra trò này và mời Trúc Mộ tướng công giúp một tay. Khi đại hiệp dừng lại ở hành lang, chính ngài là người đứng trong phòng tối sẵn sàng rút kiếm để thử xem phản ứng của đại hiệp đến mức nào.
Thạch Đạt Lang cười:
– Ra thế đấy !
– Nhưng đại hiệp lại đi cửa khác, vòng ra ngoài vườn mà vào phòng này. Dám hỏi lý do gì khiến đại hiệp phát giác ra có bẫy mà tránh ?
Thạch Đạt Lang không trả lời. Thực ra hắn cũng chẳng biết trả lời ra sao nữa. Đại Quán bèn đỡ lời:
– Chỉ là khác biệt về phản ứng.
– Thế là thế nào ? Xin đại sư nói rõ thêm.
– Phản ứng của một chiến thuật gia khác với phản ứng của một kiếm sĩ. Phản ứng chiến thuật căn cứ trên tri thức, do suy luận mà có. Phản ứng của kiếm sĩ do trực giác.
Khi tôn huynh dẫn hắn theo đường hành lang tới căn phòng này, tôn huynh suy luận đương nhiên hắn sẽ đi theo. Nhưng không ! Đến một chỗ nào đó, trực giác linh mẫn của hắn chắc đã cảm thấy có điều khác lạ nên hắn lập tức phản ứng. Và vì điều khác lạ đó không xác định được ngay, hắn đã chọn cách an toàn nhất để tự vệ:
tránh né.
Phản ứng ấy rất thông thường của người cầm kiếm và hoàn toàn theo bản năng.
– Phải chăng cũng giống như trường hợp đốn ngộ trong thiền phái ?
Đại Quán gật đầu:
– Ở một phương diện nào đó, nếu tuệ căn mẫn nhuệ thì cũng có thể so sánh như thế !
– Đại sư đã bao giờ gặp trường hợp như vậy trong lúc nghiên cứu thiền học chưa ?
Đại Quán mỉm cười:
– Bần tăng không biết, vì giá có gặp cũng không ý thức được.
Trúc Mộ xen vào:
– Dù sao, bài học đáng để chúng ta suy gẫm. Một kiếm sĩ nào khác thấy nguy hiểm có lẽ đã rút kiếm xông bừa, áp đảo địch thủ, thắng bại trông vào tài năng. Hành động của Thạch đại hiệp thật khác thường, giải quyết vấn đề êm thấm và thích đáng.
Nói đoạn, quay sang Thạch Đạt Lang ngồi ở góc phòng, ông tiếp:
– Mạnh Đạt có đề cập đại hiệp nhiều lần với lão phu và cách đây không lâu, có trình bức thư của đại hiệp. Bấy giờ vì căn bệnh của lão nhân gia trở nên trầm trọng nên rất tiếc đã không chiều lòng đại hiệp được. Tuy nhiên …
Ông ngừng lại một lúc. Đại Quán hỏi:
– Vậy tình trạng của Trúc Lâm lão tiền bối bây giờ ra sao ?
– Cũng không khá hơn trước mấy. Gia nghiêm tuổi đã cao, nếu chẳng may mệnh hệ nào …
Nhưng bỏ dở câu nói, Trúc Mộ lại trở về với ý lúc nãy:
– Nếu không nệ, xin đại hiệp coi những lời yêu cầu trong thư như thế là đã thực hiện. Lão phu hy vọng, phương cách không mấy công chính ấy không làm đại hiệp phật ý !
Thạch Đạt Lang rạp đầu:
– Tiểu nhân đâu dám trái lệnh.
Sự cung kính của Thạch Đạt Lang cũng chỉ là tự nhiên. Trúc Mộ tướng công ở vào một địa vị quá cao, không những ở hiện tại, mà vào hàng danh gia thế tộc từ lâu đời. Đối với một kiếm sĩ lang bạt và nghèo như Thạch Đạt Lang, sự có mặt của hắn với ông cùng trong một phòng đã là điều lạ, huống chi còn ngồi chung đàm đạo với nhau như bạn hữu.
Chủ nhân gọi tì nữ hâm rượu mang tới. Chén chú chén anh, câu chuyện lan man sang nhiều vấn đề khác ngoài lãnh vực võ học. Thạch Đạt Lang nhận thấy sự phân biệt tuổi tác và giai cấp xã hội không còn nữa. Đại Quán và Cát Tỉnh, cả hai đều không tỏ vẻ gì quan tâm đến chức tước của Trúc Mộ cả. Họ coi nhau như anh em và hắn cũng đã được chấp nhận như thế vì cùng theo một lý tưởng đi tìm tinh hoa của Đạo, dù đó là thiền đạo hay kiếm đạo.
Rượu được vài tuần, Đại Quán hỏi Thạch Đạt Lang:
– Oa Tử dạo này thế nào ?
– Đã lâu lắm con không được tin tức gì của nàng.
– Mô Phật ! Ngươi không quan tâm gì đến nàng nữa sao ?
– Oa Tử phải chăng là thiếu nữ trước đây hầu cận lão nhân gia ở Trúc Lâm cốc ?
Trúc Mộ hỏi.
– Thưa chính phải.
– Thế thì lão phu biết. Năm ngoái, nàng được Mạnh Đạt dẫn về tướng phủ, bây giờ lại trở lại Trúc Lâm cốc rồi. Nàng giúp xá điệt săn sóc lão nhân gia.
Nhân cơ hội, Đại Quán nói sơ về thân thế Oa Tử và mối liên hệ giữa nàng với Thạch Đạt Lang. Nhà sư kết luận:
– Bần tăng nghĩ sớm muộn gì cũng phải có giải pháp thỏa đáng mà bần tăng là kẻ tu hành không tiện đứng ra tác hợp. Xin nhị vị giúp cho một tay.
Thạch Đạt Lang cúi đầu yên lặng, trong lòng hết sức phân vân. Giữa tình yêu và sự nghiệp, sự giằng co vẫn chưa ngã ngũ. Trước kia, trên cầu Hanada, khi khắc những dòng chữ từ biệt lên thành cầu, hắn đã quyết tâm trốn tránh Oa Tử. Nhưng lòng hối hận day dứt, hắn lại tìm gặp người yêu. Quãng đường từ quán Liễu Kiều đến thác Phu Phụ còn để trong tâm khảm hắn bao nhiêu xúc động mà mỗi khi nghĩ đến, Thạch Đạt Lang lại thấy lòng rộn lên một niềm yêu thương dào dạt. Không ngờ con tạo trớ trêu, chia ly xảy ra liền đó. Âu cũng là số mệnh, nhưng đối với Thạch Đạt Lang, vô tình số mệnh đã dẫn hắn tiếp tục đi theo con đường tuy cam go nhưng đầy khích lệ của kiếm đạo. Hắn đã quên Oa Tử, đắm mình trong việc tập luyện, quên bản thân, giúp dân xóm tiều Hotengahara chống giặc cướp và nhọc nhằn canh tác.
Cho đến đêm nay, trong cuộc hội ngộ bất ngờ này, Thạch Đạt Lang không ngờ lại bị đặt trước một quyết định khó khăn. Như một đống tro chưa tàn hẳn, lời nói của Đại Quán là cơn gió khơi dậy ngọn lửa yêu đương trong lòng hắn và nhắc cho hắn đừng quên trách nhiệm và bổn phận đối với người con gái đã từng cứu hắn thoát khỏi cơn nguy khốn năm xưa. Động lực nào đã run rủi nhà sư làm việc này ? Đó là một suy tính có kế hoạch hay chỉ là lòng thương xót chúng sinh ? Thạch Đạt Lang bối rối.
Cát Tỉnh gật gù khen phải và Trúc Mộ cũng cho rằng đã đến lúc Thạch Đạt Lang phải ổn định đời sống. Trong thâm tâm, ông nghĩ nếu hắn chịu lập thân tại Tân đô thì sau này tộc Tôn Điền sẽ có thêm một tay kiệt xuất và không còn lo gì những cuộc nổi loạn nữa. Về tình và lý, xem ra cả hai người đều tán đồng ý kiến của Đại Quán và hoan hỉ đứng ra bảo trợ cuộc hôn nhân. Ngoài ra, Trúc Mộ dự định sẽ đề bạt Thạch Đạt Lang vào một chức vụ huấn luyện kiếm thuật trong giảng huấn bộ của Tôn lãnh chúa. Ngặt nỗi chức này phải tuyển chọn rất kỹ và người được đề bạt ít nhất phải là thành viên của vệ binh đoàn trong phủ. Nhất là sau vài vụ nổi loạn được phát giác kịp thời và dập tắt, sự thanh lọc hàng ngũ những cận vệ của Tôn Điền lãnh chúa càng gắt gao hơn nữa. Vấn đề gai góc chính là gia thế của Thạch Đạt Lang. Không có giấy tờ gì chứng minh hắn thuộc dòng dõi kiếm sĩ danh vọng, nói gì đến liên hệ huyết thống với Tôn lãnh chúa. Tệ hơn nữa, trong cuộc chiến Sekigahara, Thạch Đạt Lang lại đứng về phía bên kia và dường như tổ phụ hắn trong những thế kỷ trước, đã bị giam giữ và sát hại tại một trong nhiều căn thạch thất của lâu đài. Tuy nhiên, cả ba đều đồng ý là với sự can thiệp và bảo lãnh của Trúc Mộ tướng công cùng Đại Quán thiền sư, vấn đề có thể giải quyết được.
– Thế nào, con nghĩ thế nào về việc này ?
Đại Quán hỏi.
– Con xin đa tạ và tri ân thầy cùng nhị vị tiền bối đã tỏ lòng ưu ái, nhưng con tự xét hãy còn not nớt …
– Khoan ! Đừng nhìn vấn đề ở mặt ấy. Nào có ai bắt ngươi khi đã lập thân rồi thì phải thôi không được luyện tập nữa đâu ! Trái lại, chúng ta còn khuyên ngươi phải trau dồi tâm, đức và kỹ thuật cho thật hoàn hảo, đừng bao giờ xao lãng. Vấn đề chúng ta muốn biết là ngươi có định nhận trách nhiệm không hay cứ để mặc Oa Tử chờ đợi như thế cho đến khi nàng nhắm mắt ?
Thạch Đạt Lang có cảm tưởng bị sập bẫy. Oa Tử đã nói với hắn nàng chấp nhận mọi sự thử thách nhưng như vậy không có nghĩa là hắn trút bỏ mọi trách nhiệm cho nàng. Oa Tử yêu hắn và hắn cũng yêu Oa Tử. Tình yêu đã được chia xẻ. Đối với Oa Tử, mối tình ấy là lẽ sống duy nhất của đời nàng, nhưng đối với Thạch Đạt Lang lại khác.
Con đường còn dài, hun hút trước mặt mà lòng nhiệt thành theo đuổi kiếm đạo của hắn vẫn chưa nguôi.
Yêu Oa Tử, nhưng Thạch Đạt Lang cũng yêu kiếm, say mê cuộc sống giang hồ hành hiệp và muốn dâng hiến cả tâm tình lẫn thể xác của mình cho công bằng xã hội, cho lý tưởng cao đẹp mà kiếm đạo đã vạch ra, soi sáng đời hắn như một ánh chân quang.
Gia đình và công danh, với những ràng buộc của nó, có để cho hắn làm tròn được ước vọng ấy không ? Thạch Đạt Lang sợ rằng không. Lưỡi kiếm mang bên mình, hắn sẽ không còn được rút ra tung hoành vì đại nghĩa, cũng như tâm hồn hắn sẽ phải đóng khung cứng ngắc trong những tư tưởng đã định ; những giáo điều có sẵn, những chỉ thị được ban hành nhiều khi không hợp với suy tư của hắn.
Nghĩ đến đây, Thạch Đạt Lang nhăn mặt. Hắn không dám trình bày hết ý, sợ bị bài bác và cho rằng đã có tư tưởng vô trách nhiệm và không thực tế ; nên chỉ quanh quẩn trong những lý do:
còn quá trẻ, chưa đủ trưởng thành, sự tập luyện chưa được như ý muốn …
Đại Quán gạt đi:
– Không sao ! Con cứ tin cậy ở chúng ta !
Hà Chu Cát Tỉnh cũng phụ họa:
– Đại hiệp chẳng nên từ chối. Việc này thế nào rồi cũng xong. Trúc Mộ tướng công đảm trách tiến cử đại hiệp, còn lão phu xin lo hết mọi chuyện vật chất về hôn sự.
Ông nghiêng mình về phía trước, cầm quạt đập nhẹ lên đùi Thạch Đạt Lang, cười hà hà:
– Chỉ xin đại hiệp khi thành gia thất đừng quên ngu lão.
Thạch Đạt Lang thừ người, chẳng biết mình chủ động hay là nạn nhân của cuộc dàn xếp.
Chương 75: Tiếng trống
Trận bão đêm trước trên đồng cỏ Musashino xem chừng còn dữ dội hơn cả cơn lụt ở Hotengahara dạo nào. Hàng năm, những ngày đầu tháng tám là những ngày nông dân địa phương lo sợ nhất. Gió bão liên miên khiến mùa kê lúa thiệt hại nặng nề, nhà cửa sập đổ. Ấy là theo lời khuyên của những người trong vùng, thầy trò Thạch Đạt Lang đã đề phòng từ trước, chặt cây chống sườn nhà và lấy đá đè lên mái, thế mà căn lều vẫn không vững trước cơn bão. Bây giờ nó nghiêng hẳn sang một bên, gianh lợp tróc nhiều chỗ, mỗi khi gió hơi manh, kèo cột cọ vào nhau kẽo kẹt như đưa võng. Trong nhà, vật dụng, quần áo ướt nhẹp, nước mưa đọng thành vũng. Mấy quyển sách của Hạo Nhiên sũng nước. Nhìn những hàng chữ nhòe nhoẹt trên tập giấy mủn nát, mắt nó đỏ hoe, Thạch Đạt Lang đến bên, vỗ về an ủi:
– Thôi con ạ, để khi có dịp, ta sẽ dẫn con đi mua quyển khác.
Hạo Nhiên ôm thầy khóc nấc. Mặc cho thằng bé được tự do xả hết nỗi phiền muộn qua hai hàng nước mắt, lúc sau Thạch Đạt Lang mới ôn tồn nói:
– Chuyện thiên tai, có tiếc mấy cũng không làm gì được. Lần sau, chúng ta phải cẩn thận hơn. Con đi nấu cơm ăn đi.
Hạo Nhiên lau nước mắt:
– Nhà không còn gạo, để con nướng hạt dẻ thầy lót lòng.
– Không, ta không đói. Con cứ nướng hạt dẻ mà ăn. Ta vào trong xóm, chiều mới về được.
– Thầy vào trong xóm làm gì ?
– Bão lớn chắc nhiều nhà sập và ruộng kê ngập nước hỏng cả. Ta đến giúp họ một tay.
Hạo Nhiên tần ngần nhìn sư phụ bước ra cửa. Nó tự hỏi ông nghĩ gì khi căn nhà của chính ông không lo sửa chữa lại đi giúp sửa những căn nhà của người khác. Nhưng nó không dám tỏ ý. Khói bếp tỏa dày đặc làm nó cay mắt. Hạo Nhiên cời than vùi hạt dẻ vào rồi bó gối nhìn những tàn than nổ lách tách. Mỗi khi thấy hạt dẻ chín bắn ra, nó nhặt vội, xoa vào quần cho bớt nóng rồi suýt soa ăn, quên hết nỗi buồn phiền khi nãy.
Không khí ấm áp quanh bếp lửa khiến nó vui trở lại. Ăn xong, Hạo Nhiên mang quần áo ra hong và xếp dọn chỗ nằm cho sư phụ.
Xế chiều, Thạch Đạt Lang trở về đem theo kê, gạo và cả bánh đậu đã làm sẵn khiến Hạo Nhiên mừng hết sức.
– Đây là những món quà dân xóm tạ Ơn. Bánh đậu này khá ngon, ta mang về cho con đó.
Thì ra khi ta quên mình để giúp người, tự nhiên ta sẽ được người khác giúp. Hạo Nhiên tự nhủ. Bài học tương trợ ấy làm nó sực tỉnh.
Hai ngày sau, trong khi thầy trò Thạch Đạt Lang đang hì hục dựng lại căn lều, lại có ba nông dân tới. Họ đến giúp thầy trò hắn. Nhưng thấy lều đổ nghiêng quá nguy hiểm khó mà dựng lại được, họ đề nghị cả hai đến trú tạm tại nhà họ ít lâu, chờ lối xom gặt xong sẽ góp sức chặt cây cất cho hai thầy trò một căn nhà mới. Những người dân quê chất phác ấy đã tỏ lòng lân ái và tương trợ một cách tự nhiên thật cảm động. Chẳng tiện từ chối và thật ra cũng đang cần một nơi trú ngụ, Thạch Đạt Lang nhận lời, cúi đầu cảm tạ. Hôm sau, hai thầy trò thu nhặt hành trang cùng vật dụng đến tạm cư tại nhà một trong ba người hàng xóm.
Thấm thoắt đã gần nửa tháng. Tiết trung thu, trăng sáng vằng vặc. Dịp này, công việc đồng áng tương đối mãn, nhiều nơi trong vùng bắt đầu mở hội. Nghe tiếng trống từ xa vọng đến, Hạo Nhiên lại nhớ đến những đêm đi xem hội xưa kia, chen vai thích cánh giữa đám đông, nghểnh cổ nhìn các vũ công đeo mặt nạ múa hát trong những tiếng reo hò ầm ĩ. Nó mong cho chóng sáng, hỏi thăm chố nào đánh trống. Nghe nói ở đền Mitsumine trên núi Chichibu.
Hạo Nhiên, lúc pha trà cho Thạch Đạt Lang, đã khéo dò ý:
– Núi Chichibu có xa đây không thầy ?
– Không xa lắm. Con hỏi làm gì ?
– Con muốn đến đền Mitsumine xem tế thần.
Thạch Đạt Lang nhướng mày hơi lấy làm lạ về sự đột nhiên quan tâm đến việc tế tự của đồ đệ. Hắn gật gù:
– Cũng tốt.
– Thế thầy dẫn con đi nhé ! Nhà mình chưa khởi công, đợi họ gặt xong đã, chắc cũng phải hết tuần trăng …
Nhìn Hạo Nhiên, Thạch Đạt Lang cười mỉm:
– Chắc ngươi lại muốn đi coi múa hát chứ gì ?
Thằng bé toét miệng, gật đầu. Khúc nhạc và điệu vũ độc nhất Hạo Nhiên biết đều do ở những cuộc đi xem hội lúc còn nhỏ vùng Hotengahara. Nó rất thích và không bao giờ quên được những âm thanh của khúc nhạc khi tươi vui, khi nghẹn ngào đứt quãng, những tiếng ự … ư … ư …, theo nhịp dậm chân của vũ công trên sàn gỗ. Và tiếng trống !
Trời ơi ! Tiếng trống sao mà thúc giục và lôi cuốn đến thế ! Nó nôn nóng hỏi Thạch Đạt Lang:
– Con nấu cơm, nắm mang đi ăn đường thầy nhé ! Hôm qua thầy nghe tiếng trống không ? Họ tập để vào hội ngày mốt đấy !
– Sao ngươi biết ?
– Người ta bảo thế !
Tính nết Hạo Nhiên nhắc Thạch Đạt Lang nhớ đến đồ đệ cũ. Thằng Giang muốn điều gì thì hay vòi vĩnh, không như Hạo Nhiên khôn khéo hơn biết dò ý, xếp đặt có lớp lang và tính toán. Bất giác nghĩ đến tuổi thơ của mình không có ai để mà vòi vĩnh, hắn thương cả hai đứa, không nỡ từ chối, gật đầu:
– Ừ thì đi !
Hạo Nhiên hối hả xuống bếp nói vọng lên:
– Tối nay còn trăng. Đi đêm chắc mát.
Cơm xong, nó ra đầu xóm mua hai đôi dép cỏ, sửa soạn hành trang. Thế là lên đường ngay chiều hôm ấy.
Vết tích cơn bão hai tuần trước còn lưu lại nhiều nới. Lá khô cành gãy ngổn ngang.
Ở những vũng nước rải rác, tiếng ếch nhái kêu ì ộp, đàn dơi bay thấp chao đi chao lại bắt muỗi dưới bầu trời hoàng hôn đỏ khé.
Thầy trò Thạch Đạt Lang thong dong bước, vừa đi vừa ngắm cảnh. Đến bờ một con suối nước dâng cao như dòng sông con, giữa dòng chỉ còn lại một đoạn cầu gỗ chơ vơ vô dụng, Thạch Đạt Lang dừng bước lưỡng lự. Trong khi hắn loay hoay tìm cách sang bờ bên kia, Hạo Nhiên bỗng chú ý đến vài mẩu sắt nhỏ trên bờ suối. Nó nhặt lên. Thì ra những đầu mũi tên đã han rỉ và có cả một cái chỏm mũ gãy của chiến binh tử trận. Nó đưa cho sư phụ coi:
– Chắc chỗ này trước kia là bãi chiến trường phải không thầy ?
Thạch Đạt Lang gật:
– Chắc thế !
Tò mò, Hạo Nhiên lại men theo những hòn đá mấp mé mặt nước để tìm thêm.
Bỗng nó la lớn:
– Xương người ! Có xương người !
Thạch Đạt Lang chạy lại. Quả nhiên, rải rác trên một khoảng bằng cái nong là những lóng xương trắng hếu bị nước cuốn lẫn với cỏ rác và những mảnh vải cũ.
– Chắc xung quanh đây còn nhiều xương nữa. Con thử tìm xem.
– Trời ơi, ghê quá ! Tìm làm gì hả thầy ?
– Để đem chôn con ạ. Cho thú rừng khỏi tha đi và người ta khỏi dẫm lên, tội nghiệp.
– Những người chết này có liên quan gì đến mình đâu mà phải làm thế ?
– Hạo Nhiên ! Ta đã đọc cho con nghe một vài đoạn về sử nước nhà. Vùng Musashimo này, trăm năm trước đã là chiến trường giữa hai phái tranh chấp nhau. Cuộc phân tranh kéo dài hàng chục năm …
– À, con nhớ rồi. Trận Kotensashigara. Vậy ở chỗ này đây hả thầy ?
– Ta không biết đích xác, nhưng chắc đã xảy ra nhiều trận đẫm máu trên bờ suối này hoặc trong rừng lân cận. Những người chết di tích còn đây là những chiến binh đã góp phần xây đắp nền móng quốc gia. Không có họ, quốc gia không thể tồn tại. Bây giờ những mảnh xương vô định của họ, hoặc vùi nong dưới cát như mảnh xương này, hoặc tản mác khắp nơi, không đáng để chúng ta thương xót hay sao ? Chiến tranh như những cơn bão, rồi sẽ qua đi, nhưng núi sông vẫn còn đó. Là những kẻ hậu sinh, chúng ta không thể quên ơn họ được !
– Dạ, con biết.
– Thế sao con lại nghĩ là không liên quan ?
Hạo Nhiên lặng lẽ cúi đầu.
– Bây giờ con đi nhặt hết những khúc xương ấy đem về đây cho ta.
Đoạn tìm chỗ cao ráo, hai thầy trò đào một huyệt nhỏ, bỏ xương và di tích người chết xuống rồi lấp đất. Lại kiếm một cành cây lớn, khắc chữ “tử sĩ vô danh” cắm lên đó.
Hạo Nhiên hỏi:
– Cần lấy hoa đặt lên mộ không thầy ?
– Tùy con. Nhưng nếu con đã hiểu được hết ý nghĩa của hành động con làm thì đặt hoa hay không cũng thế thôi.
Tần ngần một lúc, Hạo Nhiên lại hỏi:
– Nếu người nằm dưới mộ là trung thần thì làm thế, nhưng ngộ người ấy là phản loạn thì sao ?
Thạch Đạt Lang yên lặng nhìn vầng trăng. Hắn không tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Lát sau mới nói:
– Đức Phật “thường hành bình đẳng”. Đối với người đã chết, ngài siêu độ tất cả, không phân biệt tốt xấu, kẻ thiện người ác.
– Thế kiếm sĩ tốt hay xấu khi chết cũng như nhau, không để lại gì à ?
– Có chứ ! Để lại cái danh của mình.
– Vậy một kiếm sĩ dũng cảm, trung liệt sẽ lưu danh mãi mãi hả thầy ?
– Phải đó. Nhưng không phải chỉ giản dị vậy đâu ! Dũng cảm và trung liệt chưa đủ, phải có lòng nhân ái. Nếu kiếm sĩ chỉ biết dùng sức mạnh của lưỡi kiếm thì, như cây khô ngoài sa mạc, như cơn bão dữ dằn, không những không lợi ích gì cho ai mà còn nguy hiểm. Kiếm sĩ phải có lòng trắc ẩn, có trái tim biết cảm thông với những bất hạnh của người khác.
Hạo Nhiên lặng im, chắp tay thành kính cúi đầu trước mộ.
Sườn núi Chichibu bữa nay mây phủ đầy. Từ trên đền Mitsumine nhìn xuống, khách trẩy hội trông như đàn kiến, từng hàng theo chân nhau ẩn hiện qua những dải mây màu khói lam vắt vẻo ngay sườn núi. Họ chống gậy, đội nón nan, kẻ khoác tay nải, người gồng gánh lễ vật mang lên đền. Ba ngọn sơn lĩnh Kumotori, Shiraiwa và Myoho sau núi Chichibu hợp thành một bối cảnh hùng vĩ làm tăng vẻ nguy nga tráng lệ cho vùng thắng tích.
Đền Mitsumine khá lớn, được xây cất từ lâu và đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử. Ngôi đại điện ở một khu đất bằng phẳng trên sườn núi, rộng trăm mẫu, hàng năm vẫn là địa điểm tế lễ và tiếp đón khách thập phương. Xung quanh vô số miếu nhỏ, thờ đủ các vị thần linh, lẩn trong những hàng tùng trắc xanh biếc. Cảnh trí u nhã, thêm tin đồn đền rất linh thiêng, lại lưu trữ một bộ sưu tập đồ cổ ngoạn vô giá khiến khách du đã đi qua vùng đông bắc nước Nhật không mấy ai bỏ lỡ cơ hội đến chiêm bái.
Dưới chân núi, một làng được lập ra gồm toàn những gia đình nông dân trưng canh ruộng đền, xuân thu nhị kỳ mang lên đóng góp sản vật đã thu hoạch được. Một số tiểu thương mở trà thất, cửa hàng bán đồ tế tự và kỷ niệm làm cho vùng này quanh năm lúc nào cũng có không khí sầm uất.
Hai thầy trò Thạch Đạt Lang đến chân núi thì đền đã bắt đầu vào hội từ hôm trước, nhưng đêm nay mới là đêm lễ chính. Quán trọ Phật Bà, nơi thầy trò Thạch Đạt Lang dừng chân tạm trú, đèn treo tự sao sa. Hai cây đuốc lớn cắm trên giá trước cổng cháy hừng hực, soi sáng cả một vùng hàng chục trượng. Hạo Nhiên nôn nóng muốn lên đền ngay sau bữa cơm chiều, nhưng thấy sư phụ còn thong thả bên khay trà nên không dám giục.
– Họ đã bắt đầu thúc trống rồi đấy !
Nghe đồ đệ nói lửng lơ, Thạch Đạt Lang dư biết Hạo Nhiên muốn gì. Hắn mỉm cười:
– Họ sửa soạn còn lâu chán ! Xem hội phải thong thả. Vội vàng hấp tấp nó mất thú đi !
Hạo Nhiên đi ra đi vào, mang dép của thầy đặt ngay ngắn trước cửa. Lại kiểm soát hai ống tre xem nước uống có đủ không và mấy chiếc bánh mua của quán hồi chiều đã bỏ vào bọc chưa. Nhìn lên núi, khách hành hương đông như kiến leo kín các bậc đá, nó quay đi giấu tiếng thở dài.
Đợi mãi, sau mới thấy Thạch Đạt Lang nói:
– Nào, ta đi !
Tựa con chó nhỏ xổng xích, Hạo Nhiên chạy vụt ra cửa. Trời tối dần. Sao lác đác trên nền trời đen sẫm và giải ngân hà bắt đầu hiện ra lờ mờ như vệt khói nhạt.
– Đông quá ! Đêm nay mà trời mưa thì hỏng bét !
Hạo Nhiên theo dòng suối người xô đẩy, quên cả Thạch Đạt Lang phía sau. Nó háo hức trèo, nhằm phía đèn lửa sáng trưng trên đỉnh núi tiến tới. Địa điểm hành lễ còn trống nhưng sáng rực như ban ngày nhờ hàng trăm cây đình liệu đã thắp sẵn cắm cách nhau chừng trượng một. Cờ xí đủ màu sắc sặc sỡ bay phần phật. Trống thúc liên hồi, tiếng đàn sáo lẫn với tiếng cười nói của đám đông khích động tinh thần nó vô kể.
Thạch Đạt Lang đi thong thả, hình như không quan tâm gì đến mọi người chung quanh. Thật ra hắn vẫn đề phòng. Cuộc đời hành hiệp của hắn nhiều ân oán, biết đâu một kẻ tiểu nhân nào đó đang rình rập, chỉ chờ cơ hội hắn sơ ý là ra tay. Thạch Đạt Lang luôn luôn đứng trên bờ vực của cái chết. Để sinh mệnh mình bị kẻ khác lấy đi một cách uổng phí, thật không gì hối tiếc hơn. Trong đám đông như thế này, Thạch Đạt Lang lại cần phải cảnh giác.
Nhìn tấm bảng gỗ ghi công đức những thí chủ cắm trước cổng đền, Thạch Đạt Lang bỗng chú ý đến hàng chữ lớn:
“Đại Cổ ở Nara”. Hắn nhớ ngay đến người đã dẫn Giang đi mất, cho đến nay vẫn không tin tức. Đột nhiên, tiếng Hạo Nhiên như kéo hắn về thực tại:
– Thầy ! Thầy coi gì vậy ? Sắp bắt đầu tế rồi !
– Ờ, ngươi cứ vào xem trước đi ! Ta có việc phải làm, sẽ vào sau.
Thạch Đạt Lang có chủ ý, muốn nhân dịp này đến gặp viên quản khố, hỏi thăm tin tức về Đại Cổ.
Lão quản khố ở sau đền đã già, nhìn khách lạ bằng đôi mắt hấp háy, dè dặt:
– Bần tăng không biết gì về chuyện này. Chỉ biết khách thập phương ai cúng vật gì thì nhập kho, thế thôi. Thí chủ muốn biết rõ xin hỏi vị thủ tòa.
– Thủ tòa ở đâu ?
– Ở hậu điện.
Đáp xong, dường như không muốn nghe hỏi lôi thôi gì thêm nữa, lão quản khố sập mạnh cửa trước mặt Thạch Đạt Lang và lẩn mất trong bóng tối của gian nhà kho rộng lớn.
Thạch Đạt Lang lắc đầu đi ra, tìm đến hậu điện. Trước một tấm cửa gỗ dày có ghi chữ “văn phòng thủ tòa”, hắn gõ cửa. Một vị tăng phong thái khắc khổ bước ra nghênh tiếp. Sau khi nghe hắn trình bày có việc liên quan đến người tên Đại Cổ ở Nara, vị tăng trịnh trọng dẫn hắn vào, mời ngồi trên bồ đoàn trong một gian phòng rộng, bài trí trang nhã. Trong phòng, nhiều tủ sách thấp trưng bày kinh Phật và vô số đồ cổ ngoạn.
Sa di bưng trà ra, rồi bánh, trái cây đang mùa và cả một bình rượu sa-kê thượng hạng. Tất cả đặt trên những khay sơn mài khảm xà cừ cực kỳ mỹ lệ. Thạch Đạt Lang không ngạc nhiên vì những món đồ đãi khách xa xỉ, nhưng ngạc nhiên vì sự tiếp đãi quá trọng hậu ấy.
Thủ tòa là một vị tăng trung niên, mập lùn, da đỏ hồng, xúng xính trong bộ thiền phục màu vỏ dà, bước ra chắp hai tay:
– A di đà Phật ! Thiểm tòa lại được cung nghênh thí chủ lần nữa. Cửa thiền cô lậu, chẳng có gì xứng đáng đãi khách, mong thí chủ đừng để ý.
Biết có sự nhầm lẫn, Thạch Đạt Lang vội cải chính:
– Tại hạ mới đến đây lần đầu. Tại hạ chỉ là một giang hồ lãng nhân muốn biết tung tích Đại Cổ tiên sinh ở Nara mà thôi.
Thái độ thủ tòa lập tức đổi khác. Ông nhìn Thạch Đạt Lang từ đầu đến chân, mặc dù ông chỉ đứng đến ngực hắn, cất giọng hách dịch:
– A ! Vậy thí chủ đến đây không phải để dâng cúng gì mà chỉ để hỏi tin tức một người khác đã dâng cúng vào đền thôi, phải không ?
– Dạ phải. Tại hạ chỉ có mục đích ấy !
– Thế tại sao không nói trước ?
– Tại hạ đã nêu rõ là việc có liên quan đến một người tên Đại Cổ chứ không hề nói cung hiến tài vật gì. Chắc có sự hiểu lầm.
– Vậy thí chủ là giang hồ khất sĩ đấy ! Ta chẳng biết và cũng chẳng muốn hỏi danh tính quê quán thí chủ làm gì, nhưng nói cho thí chủ hay bản tòa không bao giờ tiết lộ những tin tức như thế. Muốn biết điều gì cứ coi sổ.
Nói đoạn, hất hàm bảo sa di mang sổ tới. Thạch Đạt Lang liếc qua chỉ thấy ghi vỏn vẹn:
“Đại Cổ ở Nara, cúng ba lần, mỗi lần lạng”, ngoài ra không tin tức gì khác.
Bèn cảm ơn và bước ra cửa.
Buổi lễ đang hồi thịnh. Đoàn nhạc công áo vóc viền vàng, đội mũ cao nghệu, thổi sáo trúc, tiếng ríu rít lảnh lót như chim. Ca công đeo mặt nạ, vừa đi vừa múa hát một bài lễ ca, thỉnh thoảng lại đập vào mặt trống đeo trước ngực kêu “Bung ! Bung !” để giữ nhịp. Nhìn cảnh ấy, Thạch Đạt Lang tưởng mình đang sống lại thời thơ ấu đi xem hội đền Mimasaka ngày trước. Hắn như thấy hiện ra trước mắt cũng đám đông ấy, lẫn lộn giữa những người dân quên chen lấn nhau, nét mặt trắng hồn nhiên của Oa Tử, cái cười chân thật ngờ nghệch của Mãn Hà Chí, và cậu Ngô em bà Hồ Điểu đi đi lại lại dáng điệu quan trọng. Và mờ ảo như sương khói, mẹ hắn lo lắng đến tìm hắn sợ hắn về khuya.
Tiếng trống cái càng lúc càng dồn dập. Khúc ca đổi khác, điệu múa nhanh hơn, rồi quay cuồng như trong một cơn lốc, cả đoàn vũ công chạy tròn quanh sàn gỗ, những chiếc mặt nạ lắc lư, kệch cỡm nhìn đám người lố nhố đứng dưới sàn qua đôi mắt trắng dã ghê sợ. Thạch Đạt Lang biết cảnh này. Hắn cũng thuộc cả lời của khúc ca diễn tả những khổ hình dưới âm ty trừng phạt kẻ báng bổ thần linh. Hắn nhìn hai tay người đánh trống cái. Đột nhiên, sự phát hiện nổ ra như tiếng sét. Hắn nín thở.
– Phải rồi ! Phải rồi ! Song kiếm !
Thạch Đạt Lang mừng rỡ hét lên. Vài người đứng gần quay đầu lại tưởng hắn điên, nhưng rồi sự ngạc nhiên của họ cũng qua mau. Tiếng hét của hắn chìm ngay vào âm thanh cuồng loạn của điệu nhạc và những tiếng chân dậm thình thịch trên sàn gỗ.
Hạo Nhiên ngồi vắt vẻo trên cành cây ngay trên đầu Thạch Đạt Lang nhìn xuống:
– A ! Thầy đã đến ! Con ở trên này, thầy !
Thạch Đạt Lang chẳng nghe thấy gì. Mắt hắn chăm chú dán vào đôi tay kẻ đánh trống. Không phải trong sự mê say âm hưởng của loại nhạc khí cổ điển này nhưng hoàn toàn bị khích động bởi đôi dùi trống.
– Phải rồi ! Hắn lẩm bẩm. Đôi dùi trống và song kiếm ! Cùng một nguyên lý. Hai chiếc dùi trống, một tiếng phát ra.
Thạch Đạt Lang khoanh tay, đăm đăm quan sát từng cử động của người đánh trống.
Thật là giản dị. Người ta sinh ra có hai tay, tại sao không dùng cả hai ? Trong cuộc giao đấu, mọi người thường chỉ dùng một kiếm, mãi rồi thành quen, thành lệ. Nếu cầm kiếm tay phải, tay trái sẽ không còn thuần thục nữa. Cầm kiếm cả hai tay, lợi biết bao nhiêu. Trước đây, trong trận chiến dưới gốc cổ tùng, hắn đã dùng cả hai kiếm, trường kiếm tay phải, đoản kiếm tay trái. Nhưng đó là một hành động phá lệ, không chính thống. Đối diện cái chết trước mắt, như một con thú bị dồn vào chân tường, hắn phải tận dụng mọi phương tiện và khả năng để tự cứu. Bây giờ, hắn thấy hành động ấy thật tự nhiên, nếu không nói là muốn chiến thắng mà không hành động như thế thì thật dại dột.
Trong binh pháp, không một võ tướng nào cầm quân lại dại dột chỉ bảo vệ một bên sườn đạo quân của mình, còn sườn bên kia bỏ trống. Tại sao một kiếm sĩ đơn độc lâm trận lại chỉ cầm kiếm một tay ? Sự phi lý ấy hẳn do tập quán. Tập quán đã khiến một hành động tự nhiên của con người trở thành không tự nhiên, tỉ như đi bằng một chân vậy. Tập cho quen thì đi một chân cũng được nhưng sao bằng hai chân ?
Khi lằn ranh giữa sự sống, chết nhỏ như sợi tơ, hắn đã hành động tự nhiên bằng cách dùng cả hai kiếm, một hành động dáng lẽ hắn phải làm hàng ngày, mà làm một cách thuần thục. Đời kiếm sĩ buộc hắn luôn luôn đi trên lằn ranh ấy, sao hắn ngu ngốc cứ đi bằng một chân ?
Dùng song kiếm chính là phương thức tự nhiên, không tránh được của một kiếm sĩ để tự bảo vệ sinh mệnh. Tuy là một hành động có ý thức như phải tập luyện, khai triển cho hai kiếm thuần thục, bổ túc cho nhau để trở thành một phản ứng vô thứ c, như ăn ngủ, thở hit không khí. Thạch Đạt Lang nhìn hai chiếc dùi trống. Người đánh trống ý thức dùi nào tay phải, dùi nào tay trái, nhưng khi đánh trống đã hoàn toàn hành động một cách vô thức:
tay này đập, tay kia gõ; tới lui, lên xuống, hòa hợp đúng với âm điệu của khúc nhạc.
Hai dùi trống, một âm hưởng.
Đột nhiên, hắn thấy trải ra trước mắt quan niệm thiện ác của nhà Phật. Dưới mắt đại đồng của đức Phật, thiện ác như hai đứa trẻ sinh đôi cùng một vú mẹ, như cặp âm dương, tuy mâu thuẫn đấy nhưng chẳng hề bao giờ rời nhau. Phải biết vượt lên trên cả ác lẫn thiện thì mới mong siêu thoát. Ở khía cạnh này, kiếm đạo khác gì thiền đạo ? Thạch Đạt Lang bỗng cảm thấy vui sướng vô cùng, như người hốt nhiên vừa tỉnh ngộ.
Một cành khô nhỏ rớt lên đầu. Hắn ngước mắt nhìn. Thấy Hạo Nhiên đang còn mải mê xem, hắn bắc loa tay gọi:
– Hạo Nhiên ! Liệu về thôi ! Ngay mai ta còn phải vào trong núi.
Chương 76: Họa vô đơn chí
Đền Mitsumine có nuôi một đàn chó chừng hai chục con để bảo vệ kho tàng cổ ngoạn. Chúng hung ác vô cùng, nghe nói pha giống chó miền bắc với loài sơn cẩu vùng hoang địa Chichibu nên chịu được lạnh và rất dai sức. Đàn chó thường thả rông, sục sạo khắp nơi, xông cả vào trại của nông phu dưới chân núi phá phách và bắt gia súc ăn thịt. Nhưng cư dân không dám động đến. Họ coi chúng là những sinh vật do thần linh sai khiến để giám hộ tài sản của đền nên chỉ biết dựng rào cao để ngăn chặn.
Đàn chó được giao cho một lão tráng thủ hộ. Lão tuổi chừng năm mươi, mặt hơi rỗ, tuy phục sức tươm tất, áo màu dà, quần gai bó chẽn nhưng ăn nói lỗ mãng, điệu bộ hung hăng chẳng thua gì đàn sơn cẩu.
Đêm hành lễ, đi tuần, lão dẫn theo một con chó lông đen to như con bê con. Con chó quả thật dữ tợn. Đi bên lão, nó cứ hực lên gần như lúc nào cũng chỉ muốn chồm tới cắn người. Tuy khỏe mà lão phải cố gắng lắm mới ghìm lại được, sợi dây xích căng thẳng tưởng chừng muốn đứt. Con vật ghê gớm quá, chẳng ai dám đến gần. May mà người giữ chó dẫn nó xa xa ở vòng ngoài nên cũng không gây náo loạn gì mấy.
Đang đi, bỗng lão dừng bước, lánh xa đám đông rồi suỵt chó lẩn vào một đường rẽ.
Đến nơi có vài quán nhỏ lẫn mấy căn lều gỗ mới dựng, bày bán lèo tèo những đồ tế tự hoặc kỷ vật thô sơ bằng tre cho khách thập phương, lão đi chậm lại đưa mắt nhìn các bảng hiệu. Khách đã thưa, phần lớn có mặt ở đám lễ trên đền. Đèn nến cũng bớt sáng, tiếng cười nói ồn ào chỉ còn văng vẳng. Bên gốc cây, một cặp vợ chồng già ngồi quanh ngọn lửa chăm chú nấu món ăn tối trong chiếc nồi đất. Mùi đậu đỏ lẫn với mùi khói củi còn tươi bốc lên hắc và hơi ngọt. Thấy con chó tiến đến bên, người vợ sợ hãi nép vào bên chồng. Lão dắt chó giật mạnh sợi dây xích, suỵt con vật rồi hỏi một câu sẵng:
– Quán trà mụ Ôkô ở phía nào ?
– Dạ, đằng kia. Trước quán có treo lồng đèn.
Vừa chỉ, người chồng vừa kéo vạt áo che ngực.
Chẳng cảm ơn mà cũng chẳng hỏi gì thêm, lão xăm xăm dẫn chó đi sâu vào con đường tối. Đến một căn nhà gỗ nghèo nàn, trước cửa treo hai cây đèn lồng đề bốn chữ “Thanh Sơn lữ điếm” nhưng một cây đã tắt nến, lão bước vào:
– Chủ quán đâu ?
Ngồi ngủ gật bên quầy, đứa hầu gái giật mình tỉnh giấc, dụi mắt. Nhìn người và vật, cả hai đều có dáng hung dữ như quỷ âm ty, nó sợ hãi líu lưỡi:
– Dạ … dạ …
– Dạ cái gì ? Ta hỏi chủ ngươi đâu ?
Chưa hoàn hồn, đứa bé sụp xuống lạy. Vừa lúc ấy, Ôkô bước vào. Mụ già đi nhiều.
Son phấn không che được hết các nếp nhăn trên mặt. Cặp lông mày giả tô đậm, vẽ cao gần chân tóc và bộ y phục diêm dúa khiến Ôkô trông giống như một đào thương trên sân khấu tuồng Nô. Nhìn khách, mụ reo lên:
– A ! Chu lão gia !
Quả vậy, lão chính là Chu Kế Phong Tất Đạt, người thợ rèn ở xóm Ujii đã có lần Thạch Đạt Lang tha chết. Chính lão đã chế ra thiết liêm cầu, một thứ võ khí cổ quái gồm có quả cầu sắt móc vào sợi dây xích cùng với cây gậy ngắn giấu kín một lưỡi dao cong và có răng cưa như lưỡi liềm. Chu Tất Đạt đã dùng thứ võ khí cổ quái này nhiều lần giết hại những khách bộ hành xem ra có máu mặt chẳng may lạc đường vào xóm lão ở. Nhưng sau thấy nghề đạo tặc chẳng kiếm được bao nhiêu, mà nghề thợ rèn lương thiện thì không đủ nuôi sống vợ con nên lão giải nghệ, lang bạt đến vùng Edo này tìm kế khác sinh nhai. Dịp may, có người giới thiệu vào làm ở đền Mitsumine. Nhờ tài sử dụng món võ khí cổ quái thiết liêm cầu, lão thắng bọn côn đồ đến cướp phá và từ đó giữ chức trưởng toán an ninh phòng vệ, kèm thêm việc chăn đàn chó dữ.
– Chu lão gia đến có việc gì thế ?
Ôkô hỏi:
– Báo một tin quan trọng.
Ôkô hạ thấp giọng:
– Có đúng nó không ?
– Đích thị ! May mà mụ nhìn ra nó sớm.
– Bây giờ phải làm gì ?
Tất Đạt không đáp. Lão vốn ít nói và cẩn thận nên hỏi lại, lửng lơ:
– Hồ Định đâu ?
– Không biết. Mới về ! Chắc ở nhà trong.
Mụ quay sang con hầu:
– Lại ngủ phải không ?
– Dạ, đâu có.
– Ta không bảo ngươi. Ta hỏi ông chủ kìa !
– Ông chủ ? Vâng, ông chủ ngủ trong nhà.
Ôkô lầu bầu:
– Đồ ăn hại ! Ngày lễ ngày lạc, chẳng để ý đến việc gì cả ! Chỉ rượu với ngủ. Thảo nào cửa hàng ế chơ ế chỏng.
Nói đoạn, xăm xăm bước đến sau tấm bình phong, kéo tuột chăn của một người đang nằm trên chiếc ghế dài gần đó.
– Này dậy đi ! Ngủ gì ngủ lắm thế !
Bị đánh thức thình lình, người đang ngủ nhỏm dậy, mắt hấp háy:
– Gì thế ?
Ôkô lùi lại, ngạc nhiên, đoạn cười lên sằng sặc:
– Trời ơi, ta lầm rồi ! Ta tưởng thằng chồng trời đánh chứ !
Tấm chăn rớt xuống chân ghế. Người kia nhặt lên trùm kín mặt, sửa lại chiếc gối gỗ rồi ngủ tiếp. Bên cạnh chỗ gã nằm, lăn lóc cái bát với đôi đũa, sát tường dựng một đôi dép cỏ loang lổ bùn, một túi hành trang bạc phếch, một cái nón nan cũ và cây gậy tre lớn đã lên nước bóng loáng.
– Chắc là khách trọ ?
Đứa hầu gái đáp:
– Dạ. Ông khách chỉ đủ tiền trả tiền cơm nên xin ngủ nhờ, mai đi sớm.
Chu Tất Đạt ghé tai mụ thì thầm:
– Con chó này kềnh càng dễ gây chú ý. Để ta mang nó về, lát nữa trở lại. Mụ gọi chồng mụ dậy.
Ôkô gật. Đợi cho Chu Tất Đạt ra khỏi cửa, mụ mới bước vào phòng, Hồ Định đã tỉnh giấc nhưng còn nằm nán trên chiếu. Cũng như ở Ôkô, thời gian đã in lên thể chất và tinh thần Hồ Định những vết tàn phá càng ngày càng rõ nét. Qua nhiều năm cực nhọc và sa đọa, nhất là sau lần thoát chết trên đồi Hòa Đa, đồ đảng tan rã, gã trở thành một lão già bạc nhược, nhút nhát, không còn chút phong độ nào của một kiếm sĩ trước đây được coi như rường cột của phái Hoa Sơn. Thú vui duy nhất của gã bây giờ là ngày ba bữa rượu rồi ngủ vùi. Mọi việc phó mặc Ôkô lo liệu. Lữ điếm nghèo nàn của vợ chồng gã mở ra kiếm tiền độ nhật mỗi năm một suy tàn trông thấy. Hồ Định không ngờ gã đang bước theo vết chân của Mãn Hà Chí và chẳng bao giờ quan tâm xem mình hiện đang ở nấc thang nào của sự trụy lạc.
Hồ Định tung chăn bước ra, chân xiêu vẹo và quần áo xốc xếch. Gã đến bên vại nước. Nhìn dáng khom khom của chồng, mụ Ôkô nhổ nước bọt. Gã múc một gáo nước đầy uống ừng ực rồi đổ chỗ còn lại lên đầu, dùng tay mặt vuốt tóc. Nước lạnh làm gã tỉnh táo đôi chút.
– Này Hồ Định ! May cho ông lắm đấy ! Bữa nay mà còn la cả ở quán rượu thì chết mất xác rồi !
Hồ Định cau mặt:
– Nói cái gì ?
– Tôi nói từ giờ ông phải cẩn thận. Ông biết thằng Thạch Kinh Tử hiện đang ở vùng này không ?
Mặt Hồ Định nghệch ra:
– Thế à ? Mụ trông thấy hắn à ?
– Phải. May mà tôi nhìn thấy và báo cho Chu Kế Phong biết. Chút nữa lão trở lại.
Hồ Định thừ người rồi bước vội vào phòng. Qua mặt vợ, gã nói nhỏ:
– Khe khẽ chứ. Vào đây, nói gì thì nói.
– …
– Tắt đèn đi. Đừng để nó biết mình mở quán ở đây.
– Xì ! Ông thì nhát như cáy ngày. Định trốn trong buồng cả đời sao ?
– Thế mụ không nhớ chuyện xảy ra trên đồi Hòa Đa à ? Thằng ấy nguy hiểm lắm, mình suýt chết thiêu về tay nó.
– Nhớ chứ sao không. Nhưng việc gì mà sợ quá thế ? Đây là cơ hội tốt mình trả cái hận đó. Lại còn mối thù môn phái.
Mụ khích thêm:
– Ông là người của Hoa Sơn. Nó tàn sát cả tông môn, đến thằng bé con cũng giết mà ông không có phản ứng gì. Không biết nhục !
Thật ra khi cuộc giao chiến giữa Hoa Sơn và Thạch Đạt Lang xảy ra dưới gốc cổ tùng mấy năm trước, Hồ Định không có mặt. Nhưng được tin chưởng môn cùng bao anh em đồng đạo chết thảm khốc, gã áy náy vô cùng và lấy làm hổ thẹn đã hèn nhát bỏ đi.
Một lần, lừa được Thạch Đạt Lang vào tròng tại căn nhà sàn chứa thuốc ở đồi Hòa Đa, tuy không phải hoàn toàn chỉ vì mục đích trả hận cho môn phái, gã đã hy vọng diệt được kẻ thù không đội trời chung ấy. Nhưng Thạch Đạt Lang không mắc bẫy. Không những thế, hắn còn quật ngược lại, trói vợ chồng gã vào gốc cây rồi nổi lửa thiêu sống.
“Thằng đó ghê gớm quá !”. Hồ Định nghĩ thầm. Bản năng tham sống sợ chết của gã nổi dậy càng làm gã thêm khiếp nhược.
– Ở Hòa Đa, băng đảng nhiều mà còn không làm gì được. Huống chi bây giờ chỉ còn ta với mụ !
– Sao lại chỉ còn ông với tôi ? Lão Chu Kế Phong cũng hận nó không kém, có thể hợp tác với ta được !
Ôkô bèn đem chuyện Thạch Đạt Lang giết em Chu Kế Phong Tất Đạt là Chu Kế Phong Thử Mạch trên đồi Ibuki ra kể cho Hồ Định nghe. Gã mừng lắm, vì không những lão biết sử dụng thuần thục thứ võ khí cổ quái thiết liêm cầu mà còn đứng đầu bọn tuần vệ nữa. Bề nào cũng trông cậy vào lão được rất nhiều.
– Hay lắm ! Vậy mụ đã bảo với lão chưa ?
– Dĩ nhiên là rồi.
– Lão nói sao ?
– Chút nữa trở lại Hồ Định bỗng giật mình. Gã đưa mắt ra nhà ngoài nhìn kẻ ngủ trên ghế dài rồi hỏi nhỏ vợ:
– Ai thế ?
– Khách trọ !
– Bảo nó dậy đi đi !
Ôkô gọi đứa hầu gái đến đánh thức khách, mời ra khỏi quán. Tuy lẩm bẩm phản đối nhưng người khách trọ cũng không nài ở lại, khoan thai đeo hành trang, cầm gậy bước ra cửa.
Vóc gã thô kệch nhưng dáng đi mềm mại mà vững vàng, khác với dáng dấp của phần đông khách hành hương thường thấy. Ôkô hơi thắc mắc, hỏi con hầu về số tiền cơm. Thấy nói khách đã trả đủ, mụ bỏ qua không lý đến nữa, đoạn bảo nó tắt đèn và đóng cửa quán.
Chừng nửa đêm, Chu Kế Phong Tất Đạt trở lại, mang theo một bọc vải dài. Ôkô ra mở cửa dẫn vào. Lão tháo dép ngồi bên Hồ Định. Khay rượu đã dọn sẵn. Cả ba yên lặng một lúc dường như còn ngại ngùng chưa biết mở đầu thế nào. Họ uống rượu hết đĩa này đến đĩa khác.
Mãi sau, Ôkô mới hỏi:
– Lão có kế hoạch gì chưa ?
– Hồi tối đi tuần, ta nghe nói nó với một đứa nhỏ sáng mai chúng nó vào hậu điện.
Cứ phục ở dọc đường, thế nào cũng giết được nó.
– Chỉ có ta với lão sợ không đủ sức !
Chu Tất Đạt cười ghê rợn, quả quyết:
– Cứ tin ta. Nó không thoát được đâu !
Rồi thấp giọng:
– Ta đã bảo mấy đứa thân tín cầm giáo dài núp ở ven suối.
Đoạn hất hàm về phía Hồ Định:
– Còn lão huynh dùng cái này !
Chu Tất Đạt mở bọc vải lấy ra cây súng hỏa mai đưa cho gã:
– Thấy nó thì bắn ngay. Bọn ta sẽ nhất tề xông vào, nó có mười chân cũng chẳng thoát được.
Hồ Định mừng rỡ đập tay xuống chiếu:
– Hoàn hảo quá ! Phen này thằng ấy đến số rồi !
Tất Đạt cười hềnh hệch, không đợi mời, chìa đĩa để Hồ Định rót thêm rượu. Ngồi kế bên, Ôkô góp ý. Cả ba châu đầu vào nhau thì thầm bàn bạc mãi đến khuya mới giải tán.
Tinh sương hôm sau, bọn Hồ Định đã tề tựu bên bờ suối. Trăng hạ huyền lơ lửng trên thung lũng, bên cạnh ngôi sao mai còn lấp lánh trong bầu trời mực loáng. Ven núi, sương phủ mờ mờ, rừng cây chỗ đậm chỗ nhạt như nổi lềnh bềnh trên biển khơi.
Tất Đạt gọi thuộc hạ:
– Anh em đủ mặt cả chưa ?
– Đủ.
– Bao nhiêu ?
– Mười ba.
Lão cắt đặt:
– Thằng Y Lâm dẫn bốn đứa bố trí dọc theo bờ đường, sau tảng đá lớn đằng kia. Số còn lại núp vào các bụi cây trước mặt. Giáo đặt nằm dưới đất cho khỏi lộ hình tích. Hễ nghe tiếng súng nổ là nhất tề xông ra đâm chết nó, chớ để nó thoát.
Mọi người gật đầu y kế tản ra, thoáng cái đã mất hút.
– Còn Hồ lão huynh ! Xem lại mồi thuốc súng đừng để ẩm. Nạp đạn sắn đi, núp ở triền dốc cao này, thấy nó thì bắn liền, chậm là khốn đấy.
Đoạn rút thiết liêm cầu ra, lão men theo bờ đường, tìm chỗ nấp kín đáo ngồi đợi.
Bình minh ló dạng. Ba đỉnh núi Kumotori, Shiraiwa và Myoho đã bắt đầu in hình rõ rệt trên nền trời ửng hồng buổi sớm. Cảnh trí huy hoàng như tranh vẽ. Vượn hú trong tàn cây, chim vỗ cánh rời tổ, cành lá rung động xào xạc khiến không khí sinh động hẳn.
Con đường dốc hiện ra lờ mờ, ngoằn ngoèo như dải lụa, một đầu mất hút trong sương. Đầu kia, từ dưới chân núi đi lên, thầy trò Thạch Đạt Lang thong dong bước.
Thấy mặt trời vừa hé, Hạo Nhiên xòe tay ra đón. Những kẽ tay nó hồng rực lên dưới ánh dương quang. Hạo Nhiên cười thích thú:
– Thầy ơi ! Máu con đây này. Đỏ như ánh mặt trời !
Thạch Đạt Lang gật đầu:
– Phải. Thần Thái Dương là tổ chúng ta, tự ngàn xưa truyền huyết lực cho dân tộc Nhật và sẽ còn truyền mãi cho đến những đời sau. Con phải nhớ thế mới được !
Liên tưởng đến ý nghĩa bài lễ ca, Hạo Nhiên nghe văng vẳng từ những từng mây ngũ sắc trên cao, vọng xuống tiết điệu thần bí, trang nghiêm của khúc nhạc tế đền. Cảm động, nó ngước nhìn thầy, thấy trong lời dạy của sư phụ có một cái gì thiêng liêng như chính đó là những lời truyền dạy của thần linh. Nó nắm chặt tay thầy, lòng tràn ngập biết ơn và tôn kính.
Đến lưng chừng núi, Thạch Đạt Lang nhận thấy ở bên đường, nhiều chỗ cỏ bị dẫm nát. Trực giác báo cho biết có sự chẳng lành, hắn lập tức ôm đồ đệ nhảy vào bụi rậm.
Ngay lúc đó, súng nổ chát chúa vang động cả khu rừng. Vượn kêu, chim đập cánh bay tán loạn, mùi thuốc súng khét lẹt. Những tiếng thét xung trận “Giết ! Giết !” dội vào vách đá tứ phía, không còn phân biệt được ở đâu và của ai nữa.
Bình minh chưa rạng hẳn. Lẫn trong bóng tối của những tảng quái thạch, thầy trò Thạch Đạt Lang nép mình thật sát vào một hốc đá nông. Chỗ núp chật hẹp, Thạch Đạt Lang không rút được kiếm. Hắn ghé tai đồ đệ, thì thầm:
– Nằm im, có bị dẫm lên cũng đừng …
– Úi cha ! Có người !
Một ngọn giáo đâm tới, gió rít nghe “vù”. Không kịp tránh, Thạch Đạt Lang bắt luôn ngọn giáo giật chếch sang bên đồng thời phóng cước đá một phát như trời giáng về phía trước. Một tiếng “hự”, tên cầm giáo tung lên, đầu đập vào đá giấy đành đạch.
Chỉ ba bước, Thạch Đạt Lang đã ra khỏi chỗ nấp, song kiếm tuốt trần, mắt đổ lửa.
Đột nhiên có tiếng thét đau đớn nổi dậy ở dưới thung lũng. Thạch Đạt Lang ngạc nhiên không hiểu chuyện gì và kẻ địch bao nhiêu người. Hắn chưa xuất thủ, không hiểu sao lại có tiếng thét ? Hay chúng sát hại lẫn nhau như đã xảy ra trước kia ở đồng cỏ Hannya ? Thạch Đạt Lang bối rối, nhưng vội gạt đi ngay những suy luận vô ích. Rối trí là chết ! Hắn cẩn trọng di chuyển đến gần một gốc cổ thụ, lợi dụng gốc cây to để đỡ mặt sau.
– Các ngươi là ai ? Muốn gì ? Chốn trang nghiêm, ta không muốn có đổ máu, nhưng nếu không khai rõ danh tính hoặc rút lui thì đừng trách ta tàn ác.
Đáp lại lời cảnh cáo của Thạch Đạt Lang, ba bóng đen cầm trường thương hiện ra, chậm chạp tiến về phía hắn. Cả ba đều mặc tăng bào màu vỏ dà, quấn khăn bịt mặt và quần da bó chẽn. Chúng không nói lới nào, mũi thương chĩa về phía trước, bước những bước trầm trọng. Hai bóng đen khác sử kiếm, tản ra hai bên tả hữu, xem chừng muốn vây Thạch Đạt Lang vào giữa.
Vừa lúc ấy từ hốc đá, Hạo Nhiên thình lình chạy vụt ra, theo sau là một bóng đen khác đuổi rất gấp. Thấy đồ đệ lâm nguy, Thạch Đạt Lang thét một tiếng long trời lở đất, đạp chân vào gốc cây mượn đà nhảy tới như chim cắt bắt mồi. Kiếm quang lóe sáng, chân chưa chạm đất, thủ cấp tên kia đã lăn lông lốc trên đám loạn thạch.
Nhìn địch thủ ra tay quá nhanh và dũng mãnh, bọn mặc tăng bào sợ hãi khựng lại.
Nhưng chỉ trong thời gian ngắn, chúng lại hăng hái cầm thương phóng tới. Sự đụng độ mãnh liệt tựa hai ngọn cuồng phong nhưng ở đây không có lá rơi cành gãy mà chỉ có máu bắn tung tóe. Thạch Đạt Lang xuất chiêu thần tốc, trở ngược lưỡi kiếm, tiện đứt phăng ba đầu ngọn thương chĩa về phía hắn, rồi song kiếm phối hợp, liên tiếp đâm chém nhanh, gọn như người chặt chuối. Cả ba gục ngã không kịp kêu một tiếng, đứa mất nửa đầu, đứa thủng bụng.
Hai tên còn lại kinh hãi tột độ, chém bậy vài chiêu rồi hè nhau tháo chạy. Vừa say máu, vừa cho tụi này là quân cường đạo đón đường cướp người lương thiện, Thạch Đạt Lang quyết ra tay trừ khử. Hắn đuổi theo. Chỉ chớp mắt, cả hai đã hồn lìa khỏi xác. Máu phun loang đỏ mặt đường, bắn vào mặt Thạch Đạt Lang lấm tấm. Hắn đưa tay gạt.
Thình lình tiếng kim khí chạm nhau lách cách, rồi một quả cầu sắt tung ra quấn ngay lấy thanh trường kiếm của hắn. Phản ứng tự nhiên khiến Thạch Đạt Lang giữ chặt chuôi kiếm. Quay lại, bộ mặt rỗ hoa của một kẻ lùn và vạm vỡ hiện ra cách hắn chừng hơn một trượng. Tay trái gã cầm cây gậy ngắn buộc sợi xích sắt có quả cầu đang quấn lấy kiếm Thạch Đạt Lang; tay phải:
một thứ võ khí kỳ dị hình lưỡi liềm. Gã cười gằn:
– Súc sinh họ Thạch ! Phen này ta móc bụng ngươi để trả thù cho em ta !
Dứt lời, cây liềm nhằm cổ Thạch Đạt Lang phóng tới.
Trong nháy mắt, Thạch Đạt Lang ý thức ngay được sự lợi hại của món võ khí cổ quái thiết liêm cầu. Thì ra tên này là Chu Kế Phong Tất Đạt ! May sao, tay trái hắn còn thanh đoản kiếm. Bèn trầm mình xuống, đưa mũi kiếm thẳng vào bụng địch thủ. Kinh hoảng, gã thợ rèn thu liềm về, cố sức giật trường kiếm của Thạch Đạt Lang chứ không dám đến gần hắn nữa.
Thạch Đạt Lang nghĩ thầm, nếu không dùng song kiếm thì lúc này chắc hắn đã mất mạng rồi ! Hai địch thủ vờn nhau, kẻ liềm người kiếm đâm bên tả, móc bên hữu chỉ bằng một tay, tìm nhược điểm của nhau mà tiêu diệt. Trong khi đó cả hai đều vận dụng hết công lực giật võ khí của nhau, nhất là Tất Đạt. Cổ gã bạnh ra, gân nổi phồng to như chiếc đũa, gã kéo mạnh dây xích nhưng giật được võ khí khỏi tay Thạch Đạt Lang chẳng phải dễ dàng gì.
Cuộc giao tranh dã man một cách khác thường. Võ khí đã cổ quái mà những chiêu thức cũng kỳ lạ không ra lề lối gì, dù người có kinh nghiệm về võ học cũng khó mà đoán được kết quả ra sao, ai thắng ai bại.
Thạch Đạt Lang đã phạm vào hai lầm lỗi:
Thứ nhất, chiến đấu ở chỗ trống khi không biết rõ số địch quân là bao nhiêu, thành ra có thể bị tập hậu dễ dàng trong lúc bận giáo tranh ở mặt trước. Thứ hai, sơ suất để bị tấn công bất ngờ, vì vậy thanh trường kiếm, món võ khí sinh tử của hắn, trở thành vô dụng.
Bỗng âm thanh trầm của một giọng đàn ông cất lên, thân mật:
– Thạch đại hiệp ! Có tại hạ Ở phía này !
Không biết ai nói, nhưng bất luận là ai, người nói câu ấy phải là bằng hữu. Thạch Đạt Lang cảm thấy như cất được gánh nặng. Nhìn nụ cười ác độc trên khuôn mặt đẫm mồ hôi của Chu Kế Phong Tất Đạt, hắn thấy ngay lối thoát:
hy sinh thanh trường kiếm để đoạt lại thế công chớp nhoáng hắn vẫn thường áp dụng. Thạch Đạt Lang mỉm cười.
Hắn chờ cơ hội.
Phía bên kia, nụ cười trên môi Tất Đạt cũng không tắt. Lão biết khóa được kiếm của Thạch Đạt Lang là đã thắng được nửa phần, làm vô hiệu sự di động thần tốc của hắn. Nhưng lão còn muốn hơn thế nữa:
đoạt kiếm của địch thủ. Lão vận toàn công lực kéo sợi dây xích, xích thẳng căng như sắp đứt.
Bỗng “phựt” một cái, Thạch Đạt Lang thình lình buông tay, cả quả cầu và sựoi dây xích không gì kềm giữ, quật ngược lại quấn vào mình Tất Đạt. Lão mất đà ngã ngửa.
Thạch Đạt Lang chỉ đợi có thế ! Nhanh như cắt, hắn chồm tới, dẫm chân lên tay cầm liềm của lão, mũi đoản kiếm thọc sâu vào cổ họng đưa ngược lên đến óc. Tất cả chỉ trong chớp mắt. Mắt Chu Kế Phong mở lòi tròng, máu ở mũi và miệng ứa ra. Lão giẫy vài cái, đoạn nằm ngay đơ như khúc gỗ.
Thạch Đạt Lang lùi lại, tay còn cầm đoản kiếm vấy máu đến tận chuôi. Sau hắn, Lâm Bằng đã đứng đó tự bao giờ. Thạch Đạt Lang trố mắt nhìn chàng hiệp sĩ đất Kiso, người ba năm trước đã để lại một kỷ niệm khó quên bằng trúc côn trên ngực hắn.
Vóc dáng thô kệch của anh chàng này đối với Thạch Đạt Lang bấy giờ thật không gì đẹp hơn. Cây trúc côn vẫn nằm trong tay Lâm Bằng, đầu côn vấy máu. Hắn mừng rỡ:
– Thì ra tiếng nói lúc này là tiếng của các hạ đấy ! Xin vạn tạ !
– Có gì mà đại hiệp phải bận tâm !
Đoạn cúi xuống bên xác Chu Kế Phong Tất Đạt, Lâm Bằng cầm cây thiết liêm cầu lên xem, nói lảng:
– Thật là thứ võ khí quái dị ! Nếu tại hạ bị tấn công bằng thứ này, chắc chết rồi !
Thạch Đạt Lang gật đầu:
– Nguy hiểm thật ! Trước đây, tại hạ đã có dịp được coi vợ tên này biểu diễn.
Nhưng coi là một việc mà chống lại nó lại là việc khác.
Đoạn chùi kiếm tra vào bao, Thạch Đạt Lang hỏi:
– Sao các hạ biết tại hạ Ở đây mà tiếp cứu ?
– Cũng là ngẫu nhiên. Nhân qua địa phương này, nghe nói đền Mitsumine mở hội, tại hạ đến nghỉ chân ở lữ quán Thanh Sơn, tình cờ nghe được chuyện ám muội của vợ chồng chủ quán toa rập với mấy kẻ khác mai phục ám sát một khách hành hương, bèn theo dõi. Không ngờ nạn nhân lại chính là đại hiệp.
Lâm Bằng nói đến đấy, lắc đầu:
– Thời buổi nhiễu nhương, giặc cướp lộng hành quá !
– Các hạ biết vợ chồng chủ quán là ai không ?
– Không. Nhưng người chồng chính là tên bắn súng hỏa mai. Tại hạ đã đập chết ngay sau khi tên đó bắn phát súng đầu tiên.
Thạch Đạt Lang cùng Lâm Bằng ra lật xác tên cầm súng. Thì ra là Hồ Định !
Thạch Đạt Lang bấy giờ mới vỡ lẽ, không ngờ Hồ Định chưa chết sau vụ hỏa thiêu đồi Hòa Đa. Lần này tuy không trực tiếp giết gã, hắn linh cảm mối thù của Hoa Sơn phái đối với hắn vẫn chưa dứt.
– Các hạ biết chúng bao nhiêu đứa không ?
– Không biết có đứa nào chạy thoát chăng, riêng tại hạ đã giết năm đứa, kể cả tên chủ quán.
Sực nhớ đến Hạo Nhiên, Thạch Đạt Lang hỏi:
– Tại hạ có một tiểu đồ đi theo, không biết giờ này nó trốn đâu ?
– À, có một thằng bé chừng mười bốn, mười lăm trốn trong hốc đá. Tại hạ bảo nó trèo lên cây cho được an toàn hơn. Phải nó chăng ?
– Chắc nó đấy.
Bèn bắc loa gọi. Lát sau Hạo Nhiên chạy tới, tuy không còn sợ hãi nhưng nét mặt vẫn đượm vẻ lo âu. Thấy sư phụ bình yên, nó mừng rỡ hỏi han tíu tít.
Cả ba theo chân nhau xuống suối gột hết vết máu bắn vào quần áo. Thạch Đạt Lang thu hồi được thanh trường kiếm bị văng mất lúc nãy. Thấy lưỡi kiếm vẫn còn nguyên không sứt mẻ, hắn gật gù:
– Kiếm tốt thật ! Vương Chính quả có mắt tinh đời. Thật là bảo kiếm !
Lại hỏi thăm gia cảnh Lâm Bằng, mới rõ Lâm lão bá đã quy tiên, Lâm Bằng cũng bỏ nghề nông, bán trang trại đi giang hồ hành hiệp.
Chuyện chưa vãn, bỗng nghe tiếng ngựa hí vang. Một đoàn tuần cảnh giáo dài, giáp sắt, có cả hỏa mai và cung nỏ, rần rần đổ dốc vây chặt lấy ba người.
– Ba tên này, tên nào là Thạch Đạt Lang ?
– Chính ta !
– Bắt trói nó lại.
Cả ba sửng sốt. Mặc dầu phản đối, Thạch Đạt Lang cũng bị trói gô như bó củi vất lên lưng ngựa tải đi, song kiếm bị đoạt mất.
Chương 77: Bạn đồng môn
Đoàn tuần cảnh điệu Thạch Đạt Lang đi khỏi triền núi, Hạo Nhiên mới ý thức được tai họa bất ngờ. Nó dậm chân khóc nức nở. Lâm Bằng cầm tay Hạo Nhiên dìu xuống vệ cỏ rồi ôm nó vào lòng an ủi.
– Đừng khóc ! Vô ích. Phải bình tĩnh mới cứu được sư phụ chứ !
Nhưng Hạo Nhiên càng khóc già.
– Sư phụ cháu có tội gì đâu ? Ông bị vây đánh nên phải tự vệ, tại sao người ta lại bắt ông đi ?
Lâm Bằng lắc đầu:
– Ta cũng không rõ nữa. Chính ta cũng tham dự vào cuộc chiến, sao chúng chỉ bắt có một mình ông ? Chắc phải có uẩn khúc gì đây !
Hạo Nhiên kéo vạt áo chùi mắt.
– Ngươi theo sư phụ lâu chưa ?
– Được ba năm. Trước ở Hotengahara làm ruộng, sau dời đến Musashino này.
Nhân gặp ngày hội đền, đến xem, không ngờ gặp quân cường đạo …
Có tiếng sột soạt trong bụi. Lâm Bằng nắm chặt cây trúc côn. Một con chó đen to lớn chạy ra sủa ầm ĩ, nhe nanh gầm gừ chực nhảy vào cắn. Hạo Nhiên nhặt hòn đá. Mắt con chó tròn xoe, đỏ rực tựa than hồng, rãi rớt sùi trắng hai bên mép. Con vật chạy vòng quanh, vừa chạy vừa sủa dữ tợn.
Lâm Bằng một tay đẩy Hạo Nhiên ra phía sau, một tay cầm côn lừ đừ theo dõi sự di chuyển của con vật. Gã vung côn đánh dứ. Chó lùi ra xa. Hạo Nhiên ném đá. Hòn đá không trúng nhưng con chó như bị khích động, chồm lên nhảy tới, định cắn cổ kẻ vừa tấn công nó.
Một tiếng chát ! Cây côn tre hạ xuống nhanh như lằn chớp. Chỉ nghe “ẳng” một tiếng, con vật ngã ngay trước mặt Hạo Nhiên, bốn chân giật liên hồi, máu pha lẫn rãi rớt chảy loang đỏ cả đám cỏ nhàu nát.
Hạo Nhiên xanh mặt, ôm chặt lấy Lâm Bằng. Gã bảo nó trèo lên lưng cho gã cõng, đoạn tay lăm lăm cây trúc côn, lùi dần về phía đường mòn còn rải rác xác người, cái thì gục bên gốc cây, cái thì co quắp sau tảng đá. Ngồi trên lưng Lâm Bằng, hai tay quàng quanh đôi vai lực lưỡng của gã, Hạo Nhiên bớt sợ. Nhưng nhìn những xác chết của cả người và vật, nó không khỏi rùng mình.
Qua khỏi khúc quanh triền núi, Hạo Nhiên mới hoàn hồn, bảo:
– Tráng sĩ ! Tráng sĩ là ai vậy ? Quen gì với sư phụ cháu mà đến cứu ?
Lâm Bằng cười:
– Không quen, nhưng ta có giao đấu với ông hai trận.
– Thật à ? Vậy không phải là bạn rồi !
– Ừ, chẳng phải là bạn, nhưng ta chịu ơn ông và phục ông như thầy. Tên ta là Bằng, họ Lâm, ở Kiso. Còn ngươi, hồi nãy thấy sư phụ gọi ngươi là Hạo Nhiên, phải không ?
– Dạ phải, tên Hạo Nhiên do sư phụ đặt.
– Tên hay lắm. Ngươi là đồ đệ của Thạch đại hiệp thì cứ gọi ta bằng đại huynh cũng được.
– Cháu không dám.
– Sao lại không dám ? Ta chưa phải đồ đệ của sư phụ ngươi nhưng có ý tìm ông để theo học đã lâu. Ngẫu nhiên mà gặp, chưa bày tỏ được sở nguyện thì ông đã ngộ nạn.
Thật không may quá !
Mải chuyện trò, Hạo Nhiên quên phứt mình đang ngồi trên lưng Lâm Bằng. Nó thầm cảm ơn vị hiệp sĩ đã cứu nó, trong lòng dậy lên niềm yêu kính, nhưng ngại không dám gọi bằng đại huynh vì thấy Lâm Bằng tuổi tác cao hơn nó mà võ nghệ cũng hơn nó nhiều.
Hạo Nhiên tuột xuống, đi song song bên cạnh ân nhân và cũng là người bạn mới.
Sự thành thực cởi mở dễ đưa đến niềm thông cảm. Mối giao tình giữa hai người bạn vong niên mới chớm nở mà dường như hứa hẹn nhiều bền vững.
Cả hai vừa đi vừa bàn cách cứu Thạch Đạt Lang, phân vân mãi không biết làm thế nào. Lâm Bằng dự đoán có lẽ chúng mang Thạch Đạt Lang đến giam ở đồn gần núi Chichibu. Thời bấy giờ, nội chiến mới dứt, đồn ải xây rất kiên cố, nhất là những chỗ giam tù nhân, ba bốn lần rào cao hào sâu, đơn độc một người khó xông vào đánh phá.
Gã lại chẳng quen ai có thế lực để nhờ điều tra hay lo lót. Cách duy nhất có lẽ là cứ quanh quẩn ở vùng này ít lâu, dò hỏi dân địa phương xem thực hư ra sao rồi sau sẽ liệu.
Đến sân đền, sàn gỗ trống trơn. Buổi lễ mãn từ lâu, khách hành hương đã về hết.
Những cây đình liệu tối qua sáng là thế, bây giờ đứng trơ trụi, đầu cháy xám đen lạc lõng dưới ánh nắng chênh chếch. Gió thổi nhẹ, kéo theo lá tre, giấy vụn lăn nhanh trên con đường sỏi vắng lặng. Qua lữ điếm Thanh Sơn, Lâm Bằng liếc nhìn vào. Hạo Nhiên bỗng kêu lớn:
– Kìa ! Người đàn bà kia lúc nãy dẫn con chó !
Ôkô giật mình quay ra. Bắt gặp tia mắt Lâm Bằng và nhìn dáng đi của gã, mụ sực nhớ:
– À, tên này hôm qua trọ Ở đây mà !
Lâm Bằng bước vào quán. Mụ ngưng tay xếp dọn, nói buông sõng:
– Lữ điếm hôm nay đóng cửa !
– Không, ta không ở trọ. Chỉ muốn hỏi một câu.
Giọng Ôkô càng gay gắt:
– Muốn gì ? Hay trở lại định do thám đấy ?
– Ta không hiểu sao mụ không bị bắt. Vợ chồng mụ âm mưu giết người cướp của, phải vậy không ?
Ôkô há hốc mồm, muốn cãi mà không ra tiếng. Mụ lùi về phía quầy bếp, thình lình rút con dao nhọn vẫn dùng để thái thịt cắm trên giá, chỉ về phía Lâm Bằng:
– Đúng thằng này sát hại chồng ta. Có bước ra ngay không ta đâm chết.
Lâm Bằng cười nhạt:
– Phải ! Vì chồng mụ toa rập với đạo tặc mưu ám toán người lương thiện nên phải ra tay trừ khử.
– A !
Tiếng kêu chưa dứt, mụ nhảy ngay tới trước mặt Lâm Bằng vung dao đâm loạn.
Nhưng Ôkô đâu phải là đối thủ của hiệp sĩ đất Kiso. Chỉ một cái gạt nhẹ, Lâm Bằng đã hất mụ sang bên, bẻ quặt tay lại khiến con dao nhọn rơi xuống đất. Ôkô la như trời sập:
– Ăn cướp ! Ối hàng xóm ơi, ăn cướp ! …
Lâm Bằng đẩy mạnh một cái. Mụ văng ra ngoài cửa, miệng không ngớt la chói lói:
– Ối hàng xóm ơi ! Tụi cướp đồ bảo vật trong đền đến phá quán tôi đây này ! Cứu tôi với !
Hạo Nhiên tái mặt, lẩm bẩm:
– Mụ này ghê quá, còn vu cho mình ăn cướp đồ bảo vật nữa.
Nó kéo áo Lâm Bằng định bỏ chạy nhưng Lâm Bằng đã nhặt con dao nhọn phóng một phát về phía trước. Mũi dao phóng vừa nhanh vừa mạnh trúng Ôkô, đâm suốt từ lưng ra đến ngực. Mụ ngã sấp. Tiếng la hét của mụ lịm dần rồi tắt hẳn trong những âm thanh ằng ặc, khò khè của máu bắt đầu trào vào cổ họng và mũi, miệng.
Hàng xóm có vài người chạy đến. Lâm Bằng kéo Hạo Nhiên lùi ra cửa sau, nhảy xuống cái rãnh khô tháo chạy rồi nương theo những lùm bụi rậm rạp trên sườn đồi mà lẩn trốn.
Ngoài cửa lữ điếm, dân xóm tụ tập mỗi lúc một đông, người xẻng cuốc, kẻ gậy gộc, ồn ào như chợ vỡ. Họ bao vây lữ điếm, cắt người đổ thuốc cấp cứu chủ nhân. Nhưng trễ mất rồi. Mắt Ôkô đã lạc thần, mà kẻ gây ra tai họa cũng không để lại dấu vết.
Đến đèo Shomaru, Lâm Bằng cùng với Hạo Nhiên ngồi nghỉ trên phiến đá. Trước mặt là khu rừng thưa, xa hơn nữa, đồng cỏ Musashino trải dài dưới chân, con suối với khúc cầu gỗ nhỏ đổ nát chơ vơ giữa dòng gợi lại trong trí Hạo Nhiên cảnh nó và Thạch Đạt Lang đứng tưởng niệm bên nấm mồ chôn những lóng xương nó đã gom lại dưới ánh chiều tà hôm nào. Bất giác nó bật lên khóc. Lâm Bằng hỏi, Hạo Nhiên thực thà kể lại hết những lời dạy dỗ của thầy, khiến gã không ngăn được tiếng thở dài. Trong lớp vỏ liều lĩnh đến tàn nhẫn của Thạch Đạt Lang, quả có một hiệp sĩ với lòng nhân chân chính.
Gã không tin Thạch Đạt Lang có thể làm điều gì phi pháp.
– Ông bị nghi oan rồi. Ta nghĩ Thạch Đạt Lang không bao giờ có ý tưởng muốn xâm phạm những đồ báu vật của đền chứ đừng nói ăn cướp những báu vật ấy nữa. Ông bị bắt lầm.
Hạo Nhiên chùi mắt:
– Vậy làm sao cứu ông ?
– Bây giờ chưa có cách gì, nhưng thế nào cũng phải tìm cách. Ta sẽ trở lại Chichibu xem xét tình hình, nếu biết ông bị giam ở chỗ nào thì vạn bất đắc dĩ cần phá ngục cũng phải phá để cứu ông ra.
– Cháu đi theo với !
Lâm Bằng ngồi lặng, suy nghĩ. Lát sau mới nói:
– Không được. Ngươi còn nhỏ quá, một mình ta dễ xoay trở hơn. Ngươi hãy về chỗ cũ đợi ta, chừng một hai tháng ta sẽ cho mang tin đến. Đằng kia là đồng cỏ Musashino rồi, từ đây ngươi tìm được lối về chứ ?
Hạo Nhiên gật.
– Tốt ! Như thế mới xứng đáng là hảo đồ đệ của sư phụ chứ !
Nói đoạn, cầm tay Hạo Nhiên nắm chặt. Trong cái nắm tay ấy như gửi gấm bao nhiêu thương yêu, tin cậy của người huynh trưởng đồng môn.
Hạo Nhiên nhìn Lâm Bằng trở lại đường cũ đến khi khuất dạng mới bước ra khỏi khu rừng thưa. Bây giờ nó thấy tự tin hơn và không sợ hãi. Định hướng xong, xuống đồi theo phía mặt trời lặn mà đi. Được một quãng khá xa thì gặp rừng tranh dày đặc, lau từng bụi mọc cao quá đầu. Quanh quẩn một hồi không tìm được lối ra mà mặt trời cũng không biết ở hướng nào nữa. Thỉnh thoảng, một con chim bay vụt ra như mũi tên vút lên cao, buông tiếng kêu sắc nhọn. Mệt và khát, nhìn xa xa thấy một tảng đá lớn, Hạo Nhiên vạch cỏ đi lại phía ấy. Đến gần thì ra một ông phỗng ai đặt ở đó từ bao giờ, mưa nắng đã soi mòn các góc cạnh, chỉ còn lờ mờ nét vẽ trên mặt. Nó ngồi nghỉ sau lưng ông phỗng đá, khuất trong bụi lau, ngủ quên lúc nào không biết.
Khi trời đã chạng vạng, bỗng nghe phía trước có tiếng thì thầm của hai người đang nói chuyện. Hai người qua đây có lẽ cũng dừng lại nghỉ chân như nó, nhưng ngồi trước mặt ông phỗng. Gần đấy, một con lừa tải cái rương nhỏ sơn then phủ tấm nhiễu đề hàng chữ lớn:
“Đồ mỹ nghệ sơn mài dâng quan trấn thủ”.
Hai người một già một trẻ trò chuyện có vẻ tương đắc, thỉnh thoảng cười nho nhỏ.
– Ngươi thấy đấy ! Chở đồ trong rương đi thế kia có mà thánh biết !
– Kế của phụ thân hay thật. Giá có ai nghi ngờ cũng không dám chặn lại đòi mở ra xét.
– Ừ. Theo ta thì phải mở mắt ra mà học. Giang ! Ngươi là đứa trẻ thông minh lại còn trẻ, sau này chắc sẽ hơn ta.
– Dạ, con xin cố gắng.
Giọng ông già cười hắc hắc:
– Tốt ! Tốt lắm ! Ngươi tuy là nghĩa tử nhưng ta coi như con ruột. Nếu thành công, ngươi sẽ giàu sang quyền quý không ai bằng !
Nghe lỏm những lời trò chuyện của hai cha con. Hạo Nhiên giật mình. Nó đoán ngay được trong rương kia đựng những gì và hai cha con lão này, không lầm được, chính là thủ phạm vụ ăn cắp bảo vật ở nội điện đền Mitsumine, chở trên lưng lừa qua đây đem đi cất giấu.
Hạo Nhiên nín thở, không dám cử động, sợ lộ hình tích. Lại chú ý lắng tai thì biết được người cha tên là Đại Cổ và người con là Giang, ngoài ra không rõ thêm gì nữa.
Chẳng hiểu hai cha con nhà này tải chiếc rương kia đi đâu.
Một lúc im lặng. Hạo Nhiên ngửi thấy mùi khói thơm ngai ngái phảng phất trong không khí. Thì ra lão kia hút thuốc.
Đêm xuống dần. Trên trời, chim xào xạc bay về tổ. Xung quanh nó, lá lau sậy bắt đầu đổi màu thành đen sẫm. Cha con Đại Cổ bấy giờ mới đứng dậy vạch cỏ dẫn lừa đi.
Một mình ngồi suy nghĩ, Hạo Nhiên muốn biết lão kia giấu cái rương ở chỗ nào.
Nó có ý định dẫn quan quân đến lấy lại, để chứng minh rằng thầy nó bị bắt oan. Trong bộ Óc non nớt của nó, sự việc đơn giản và sáng tỏ như ban ngày, Hạo Nhiên chẳng mảy may lo lắng gì về nguy hiểm có thể xảy ra cho nó trong lúc theo dõi.
Nghĩ là làm. Quên nhọc mệt, nó đứng dậy, lần dấu cỏ bị giạt mà tiến. Được một lúc ra khỏi rừng cỏ gianh. Lờ mờ dưới ánh sao, trông thấy bóng hai người dẫn lừa phía xa xa trên con đường mòn bằng phẳng. Hạo Nhiên rảo bước theo. Bóng cha con Đại Cổ khi ẩn khi hiện, đôi lúc tưởng tan biến trong những lùm bụi ven đường hoặc qua các tảng quái thạch.
Bụng Hạo Nhiên sôi lục ục. Nó cảm thấy đói, nhưng không có cách gì kiếm được thức ăn, đành bấm bụng chịu. Đi mãi, đi mãi, có lẽ đã quá nửa đêm. Phía xa, rặng Chichibu hiện đen ngòm ở chân trời dưới ánh trăng hạ tuần mới mọc mỏng và cong như lưỡi liềm cũ. Đến chân một ngọn đồi thấp, cha con Đại Cổ dừng lại, cúi xem vật gì dưới đất rồi bỏ đường mòn trèo lên đồi. Hạo Nhiên rùng mình phần vì lạnh, phần vì đói, phần vì lo lắng trước một hoàn cảnh bất định, nhưng trí tò mò thôi thúc, lại thêm tính bướng bỉnh cố hữu, nó nhất quyết theo đến cùng.
Lẩn trong bóng tối những bụi rậm, nó bò tới chân đồi. Ngay chỗ con đường mòn rẽ hai ngả, có cái bia đá đổ nghiêng, khắc ba chữ “Thủ cấp lũng”. Nấp dưới chân đồi, Hạo Nhiên nhìn lên. Đại Cổ buộc lừa vào gốc cây tùng lớn giữa đỉnh đồi, tháo rương xuống trong khi đứa con trai hì hục đào đất. Khi đã được một cái hố sâu chừng ngang bụng, hai cha con khiêng rương đặt xuống hố rồi lấp đất lại. Dưới đồi, Hạo Nhiên nhìn không bỏ sót một cử chỉ. Nó quan sát vị trí và hình dạng cây tùng, lại nhớ cả chỗ rẽ có đường trèo lên với tấm bia đổ nghiêng. Đoạn bò ra xa, ẩn vào hốc đá tránh đi, phòng cha con Đại Cổ khi làm xong việc có thể phát giác.
Đợi hồi lầu mới thấy Giang xuống, đi ngược lại đường mòn lúc trước, nhưng không thấy lão Đại Cổ đâu. Xa xa, tiếng gà rừng văng vẳng báo hiệu đêm đã tàn và trời sắp sáng. Đồ chừng lão theo hướng khác, Hạo Nhiên đi ngược lại để tránh gặp lão và hy vọng đường ấy dẫn nó trở về nhà cũ ở đồng cỏ Musashino.
Bấy giờ nó mới thấy đói và khát dữ dội. Ruột cồn cào, miệng khô mà toàn thân thì mệt mỏi vô kể, chỉ muốn nằm xuống ngủ một giấc. Nó tạt vào bụi rậm, thè lưỡi liếm những giọt sương đọng trên lá. Không đã khát nhưng cũng đỡ khô miệng, rồi mệt quá, nằm lăn trong bụi ngủ thiếp đi mất.
Tỉnh dậy, trời sáng rõ từ lâu. Về phương đông, mặt trời đã lên cao bằng con sào, nhưng con đường mòn trước mặt vắng hoe, không bóng người qua lại. Trong bụi, chim ríu rít tranh nhau mổ ăn những trái cây chín đỏ mọng to bằng đầu ngón tay. Chẳng biết là loại trái cây gì, nhưng Hạo Nhiên trông thèm quá. Nó bứt một trái, bỏ vào mồm nhai thử thấy ngon ngọt vô cùng. Ngồi dậy lắng nghe trong mình, không thấy có phản ứng gì lạ, lại ăn thêm vài trái nữa. Đợi lúc lâu không sao, bèn bứt cả chùm, ăn lấy ăn để.
Nhờ có những trái cây ấy mà Hạo Nhiên đỡ đói và khát, trong người khỏe hẳn ra.
Đến khi mặt trời sắp đứng bóng, nó mới lên đường tiếp tục cuộc hành trình bỏ dở. Qua một xóm lèo tèo vài căn nhà thấp, mái lợp tranh và vách làm bằng những thân cây ghép vào nhau còn nguyên cả vỏ, Hạo Nhiên tạt vào, định hỏi thăm đường nhưng gõ cửa mấy lần, thấy không ai đáp, đành thôi.
Lại đi. Trước mặt nó, núi Chichibu gần thêm. Dưới bầu trời trong xanh của một ngày thu đẹp, nó thấy trong lòng sảng khoái và cảnh vật cũng thân mật hơn. “Chắc gần về đến nhà !” Hạo Nhiên nghĩ.
Bỗng xa xa, ngay phía trước, trên con đường mòn, hiện ra bóng Giang, con trai lão Đại Cổ. Hạo Nhiên ngạc nhiên nghĩ thầm:
“Không hiểu sao nó đi chậm thế. Hay cũng nghỉ chân ở chỗ nào như mình !”. Nó chậm chân lại, có ý muốn xem thằng đó đi đâu, làm gì ! Đối với Hạo Nhiên, cha con Đại Cổ rõ ràng là những tên gian phi cần bị theo dõi và tố cáo.
Có lẽ linh tính báo cho Giang biết nó đang bị dò xét nên thỉnh thoảng nó quay đầu nhìn lại phía sau và rảo bước nhanh hơn. Giang bây giờ không còn là đứa trẻ như trước. Nó vẫn đen đủi, nhưng trong những năm ở với Đại Cổ làm con nuôi lão, Giang đã lớn và đẫy đà hơn nhiều. Mười tám tuổi rồi, Giang trở thành trang thanh niên nhanh nhẹn, khôn ngoan, rất vừa lòng nghĩa phụ.
Thấy thằng bé cứ lẽo đẽo theo mình, Giang muốn thử xem có phải thật nó dò xét mình không, bèn đang đi, thình lình tạt ngang đến nấp sau một tảng đá lớn, hé mắt quan sát.
Quả nhiên Hạo Nhiên mắc bẫy. Không thấy Giang đâu, nó nhớn nhác nhìn quanh. Đến gần tảng đá, Giang nhảy xổ ra quát lớn:
– Thằng kia ! Mày theo dõi ta phải không ?
Giật mình, Hạo Nhiên đứng sững:
– Đâu có !
– Đừng chối ! Đúng mày theo ta !
Hạo Nhiên bỏ chạy, nhưng Giang nắm ngay được lưng áo nó:
– Tiểu nghiệt súc ! Ai sai mày dò xét ta ?
Hạo Nhiên vùng vẫy. Bị kẻ đồng trang lứa gọi là tiểu nghiệt súc, một tiếng chửi nặng nề, nó tức giận mắng lại:
– Ngươi mới là nghiệt súc. Ăn cắp bảo vật rồi đem chôn giấu, ngươi tưởng không ai biết hả ?
Câu nói bất ngờ khiến Giang sửng sốt. Thừa cơ, Hạo Nhiên vùng mạnh một cái, giật ra chạy, vừa chạy vừa la chói lói:
– Ăn cắp ! Thằng ăn cắp ! Bắt nó !
Thấy xa xa lẩn trong những hàng cây xanh rì, có vài căn nhà dựng liền nhau, Hạo Nhiên đoán là xóm có người ở. Nó hướng về phía ấy chạy thục mạng. Giang đuổi theo, chậm hơn. Hai đứa cách nhau một quãng xa. Đến giữa xóm, Hạo Nhiên la càng lớn:
– Thằng ăn cắp nó đuổi tôi ! Bớ làng xóm, cứu tôi với ! Nó chôn đồ ăn cắp ở gò Thủ cấp lũng.
Nghe thấy vậy Giang sợ quá. Không ngờ thằng bé này theo dõi việc làm của nó từ đêm qua, không khéo hỏng hết cả. Nhanh trí, Giang không đuổi nữa. Nó chậm bước lại, kéo quần áo ngay ngắn rồi làm bộ tự nhiên đi thong dong như khách qua đường.
Vài phụ nữ tò mò chạy ra, có người lưng đeo con nhỏ, lại thêm cả một lão ông.
Hạo Nhiên vừa chạy vừa la vừa chỉ trỏ về phía sau. Chẳng ai hiểu chuyện gì, nhìn nhau rồi lại nhìn hai thiếu niên, thấy anh chàng lững thững đi sau chẳng có vẻ gì là gian phi cả. Gã lại còn mỉm cười chào mọi người nữa chứ ! Hỏi gã, gã bảo không biết, chẳng nhìn thấy ai đuổi ai. Thằng bé đó kêu la chắc có ý tinh nghịch muốn trêu trọc dân xóm.
Mọi người lắc đầu, cho là chuyện trẻ con không lý đến.
Chạy được quãng xa, ra khỏi xóm, Hạo Nhiên dừng lại. Tuy không thấy ai đuổi theo nữa nhưng dân xóm dường như cũng chẳng quan tâm gì đến lời nó kêu cứu. Ngạc nhiên không hiểu tại sao người lớn lại lãnh đạm đến thế trước tội ác của thằng ăn cắp, nó phân vân chẳng biết xử trí cách nào. Đành cứ cắm cúi đi, đợi về đến nhà đem chuyện thuật lại cho dân xóm Musashino rõ. “Chắc họ sẽ giúp ta lấy lại đồ bảo vật và cứu sư phụ”, Hạo Nhiên nghĩ.
Thấm thoắt thế mà đã xế chiều. Những lùm trắc và những cây dẻ gai trên đồng cỏ quen thuộc đã hiện ra, chỗ thì vài cây rải rác, chỗ thì mọc thành bụi rậm bên đường mòn, khiến Hạo Nhiên vui mừng như gặp được người quen sau bao năm xa cách. Nó vừa định chúm môi thổi sáo, nhưng nghĩ đến sư phụ lại thôi, lòng bồi hồi lo lắng.
Thình lình, một bóng người nhảy ra, giơ tay cản đường. Hạo Nhiên lùi lại rút mộc kiếm. Thì ra lại thằng Giang. Không biết nó đi đường tắt nào mà đến đây trước được.
Nhớ lời sư phụ dạy, Hạo Nhiên tập trung ý chí vào đôi mắt, phóng mục quang quắc nhìn địch thủ. Nhưng Giang chỉ liếc sơ nó, cười gằn:
– Á à gan nhỉ ! Bé con cũng biết đánh kiếm cơ đấy !
Nói đoạn cũng rút gươm ra thủ thế.
– Trông đây ! Chuột nhắt !
Dứt lời phạt chéo một chiêu chênh chếch từ trên xuống dưới. Hạo Nhiên thấy Giang xuất chiêu đã chậm mà lại để hở cả sườn bên phải, bèn nghiêng mình tránh rồi cả hai tay nắm kiếm gỗ phạt ngang hông nó. Kiếm gỗ đập cái “chát” vào đùi Giang.
May là kiếm gỗ và công lực của Hạo Nhiên chưa có gì nên Giang chỉ đau chứ không bị thương. Nó hét lên:
– Ta giết mày !
Hạo Nhiên chạy quanh gốc cây. Giang phóng kiếm chém loạn, nhát bên phải, nhát bên trái, cành lá rơi lả tả. Hạo Nhiên kinh hãi toát mồ hôi, bỏ chạy.
Lợi dụng bóng tối giữa những thân trắc đen sì, cao lừng lững, nó quanh co hồi lâu rồi thoăn thoắt trèo lên một thân cây cao, ngồi lẩn trong vòm lá rậm rạp nhìn xuống.
Phía dưới, Giang xách kiếm lò dò tìm địch thủ, chân bước chậm chạp, mắt láo liên, đầu lúc nghiêng bên này lúc quay bên kia, chẳng khác gì con gà trống tìm mồi, hai tay khuỳnh ra như hai cái cánh. Không nhịn được, Hạo Nhiên bật cười thành tiếng. Thế là bị phát giác.
– Có giỏi xuống đây giao đấu ! Ở trên đó hèn lắm !
– …
– Chịu thua ta, hàng đi, ta sẽ tha mạng !
– Không đời nào ! Ta không bao giờ hàng một thằng ăn cắp.
Tức giận, Giang ôm thân cây trèo lên, nhưng vì thân hình đẫy đà, trèo không nhanh bằng Hạo Nhiên. Đến cái chạc chỗ Hạo Nhiên ngồi thì Hạo Nhiên đã trèo lên cành khác cao hơn mất rồi.
Giang hổn hển bò theo:
– Hàng đi ! Nếu không, ta bắt được đừng trách.
– Không đời nào ! Ta không bao giờ hàng ngươi để làm nhục sư phụ !
– A, khá lắm ! Ngươi có sư phụ đấy ! Sư phụ ngươi là ai vậy ?
– Nghe đại danh, ngươi sẽ sợ hãi chết khiếp mà rớt từ trên cây xuống !
Giang cười ranh mãnh:
– Không sao, ta ôm chặt cành này rồi. Ai vậy ?
– Thạch Điền Đạt Lang.
Giang không tin ở tai mình. Nó hỏi lại:
– Ai ? Nói lại nghe coi !
– Sư phụ ta là đại hiệp sĩ Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto. Ta là đồ đệ độc nhất của người.
– Láo ! Nói láo ! Ta mới là đồ đệ người !
– Ngươi nói láo thì có. Sư phụ ta có bao giờ lại nhận một thằng ăn cắp làm đồ đệ.
Nếu cứ bình tĩnh bày tỏ, có lẽ Giang cũng sẽ dò hỏi thêm cho biết ngọn ngành và giải tỏa được sự hiểu lầm, nhưng Hạo Nhiên luôn mắng nhiếc nó là thằng ăn cắp. Lời sỉ nhục chẳng khác gì muối sát vào vết thương. Nó nổi giận phóng gươm về phía Hạo Nhiên. Hạo Nhiên đưa mộc kiếm ra đỡ. Gươm của Giang văng mất. Hạo Nhiên cười thỏa mãn:
– Ha ha ! Thua rồi nhé ! Ngươi thua rồi nhé !
Giang vươn mình, đánh đu lên cành cây phía trên đầu, quơ tay định nắm chân địch thủ thì bỗng “rắc rắc”, cả hai cành đều gẫy. Giang và Hạo Nhiên mất thăng bằng cùng rơi xuống đất như trái thông rụng, nằm bất tỉnh trên đám loạn thạch dưới dốc.
Sau buổi hội đàm tại tư thất Hà Chu Cát Tỉnh cùng với Trúc Mộ, Đại Quán có ý muốn tìm gặp riêng Thạch Đạt Lang. Ông đến đồng Musashino. Tiếc thay, Thạch Đạt Lang đã cùng đồ đệ đi xem hội chưa về.
Một nông dân dẫn ông tới căn lều hắn ở. Căn lều vẫn lệch nghiêng sau trận bão, nhưng đã được ghìm lại bằng nhiều dây chão lớn nên cũng chưa đổ. Đại Quán bước vào.
Đồ đạc nghèo nàn chứng tỏ một nếp sống đạm bạc đến mức thiếu thốn. Chủ tâm đợi Thạch Đạt Lang về, ông trải bồ đoàn ngồi nghỉ rồi nhóm lửa pha trà.
Chợt nghe tiếng gõ ở liếp ngoài, Đại Quán bước ra. Một ông già mù mặc áo vải gai, chống gậy, hông đeo lỉnh kỉnh đủ thứ đồ lặt vặt như nồi, chén, chăn chiếu cuộn tròn lẫn với những túi vải đựng gì không biết, đứng đấy tự bao giờ. Trên lưng lại còn giắt ống sáo. Trông dáng dấp rõ là một đạo sĩ.
Lão đen, gầy nhưng nét mặt có nhiều nét quen khiến Đại Quán ngờ ngợ đã gặp ở đâu rồi. Lão xin chủ nhân chút nước nóng. May sao ấm nước cũng vừa sôi, Đại Quán mời vào pha trà cùng uống.
Nghe giọng nói của nhà sư, lão đạo sĩ đột nhiên ngẩng mặt:
– Phải chăng chủ nhân đây là Đại Quán thiền sư ở chủa Tiểu Sơn ?
Bấy giờ Đại Quán mới sực nhớ:
– Phải, nhưng bần tăng không phải là chủ nhân. Thế còn lão, phải chăng là cựu đội trưởng Hoa Kính tại lâu đài Himeiji ngày trước ?
Đạo sĩ cúi đầu không đáp. Lát sau ngẩng mặt lên, hai giọt lệ lăn trên gò má, đôi mắt trắng đục chớp nhanh.
Đại Quán cầm tay dẫn vào. Hỏi ra mới rõ sau khi bị mất chức đội trưởng, lão lang bạt mấy năm, rồi vào ở ẩn tại một ngôi đền bỏ hoang ngoại thành Kyoto như một đạo sĩ cho đến khi lòa cả hai mắt. Ngôi đền chẳng may bị thiêu rụi trong một cuộc cháy rừng lau nên lão lại nay đây mai đó, không có chỗ trú nhất định.
– Bần đạo sở dĩ còn cố bám lấy cuộc sống đến ngày nay cũng chỉ vì đứa con trai …
– Nó đâu ? Sao không cùng đi với lão ?
– Chưa gặp. Bần đạo đã để ý dò hỏi nhiều người, nghe nói hình như nó theo hầu một kiếm sĩ.
– Tên gì ? Lão đạo sĩ có thể cho biết được không ?
– Hoa Kính Lương Giang, nhưng người ta vẫn thường gọi nó là Giang.
– Ồ ! Phải đứa bé chừng mười hai mười ba tuổi, da ngăm ngăm đen, dáng người mảnh khảnh không ?
– Chắc phải. Lúc đó bần đạo mới rời khỏi quân ngũ nên gửi nó cho người thân nuôi dưỡng lúc lên mười. Bây giờ hẳn nó đã lớn lắm !
Đại Quán gật đầu:
– Ai chứ thằng Giang thì bần tăng biết. Quả nó có theo học một kiếm sĩ.
Mừng rỡ, lão đạo sĩ hỏi dồn:
– Vậy ư ? Vậy ư ? Bây giờ nó đâu, đại sư có biết không ?
– Thật đáng tiếc. Đã mấy năm nay không gặp nhưng để thong thả, bần tăng sẽ có cách giúp lão đạo sĩ tìm lại được nó.
– A di đà Phật ! Đa tạ đại sư.
Uống cạn tuần trà, lão đạo sĩ đứng lên cáo thoái. Đại Quán nhắc:
– Lão chưa cho bần tăng biết chỗ ở. Tìm được tung tích Giang, làm sao bần tăng thông báo ?
Hoa Kính bấy giờ mới sực nhớ. Nhưng lão ngần ngừ. Bốn bể không nơi nương tựa, biết rồi sẽ giạt về đâu mà báo trước ! Lắc đầu, lão nói:
– Thôi ! Đại sư bất tất phải nhọc lòng. Nếu gặp con lão, cứ cho nó biết tiện danh cũng đủ. Nếu nó còn chút tình quyến luyến thì sẽ tìm, bằng không …
Bỏ lửng câu nói, lão đạo sĩ cúi đầu lẳng lặng, khua gậy bước ra cửa. Đại Quán nhìn theo, ái ngại. Gần tám năm mặc áo vải gai, sống đời cô lậu mà lòng trần chưa dứt, vẫn còn nhiều hư vọng. Cầu đức vô lượng từ bi giải thoát cho lão.
Ông lấy giấy bút ra, viết vài chữ giới thiệu đến một ngôi thiền tự gần Tân đô rồi chạy theo đưa cho lão đạo sĩ, căn dặn ở đấy tới khi gặp Giang.
Trở vào bên khay trà, Đại Quán ngồi trầm ngâm cho đến tối. Trong nhà, bóng đêm sập xuống nhanh. Ngọn đèn dầu thông leo lét không soi sáng hết gian nhà cỏ.
Chợt có hai nông dân hớt hải khiêng một đứa trẻ đến đặt trước thềm. Thằng bé trạc mười bốn mười lăm, nằm thiêm thiếp. Đại Quán ngạc nhiên chạy ra:
– Thằng bé này là ai ?
– Nó ở đây với một hiệp sĩ chúng tôi vẫn thường gọi là Thạch đại hiệp. Không hiểu sao lại nằm bất tỉnh trong miễu trắc với một đứa nữa.
– Thế đứa ấy đâu ?
– Còn ngoài miễu.
– A di đà Phật ! Vậy phiền các bác lại ra đó khiêng nó về đây ta coi thế nào. May ra còn cứu được !
Hai nông dân hối hả chạy đi. Đại Quán bế xốc Hạo Nhiên vào nhà đặt nằm trên chiếu. Sờ thân thể còn nóng và mạch vẫn đều hòa, ông lấy nước lã vã lên mặt. Lát sau nó tỉnh. Vừa khi ấy, hai nông dân kia cùng dìu được Giang đến cửa. Giang khỏe hơn nên không đến nỗi ngất lâu như Hạo Nhiên, nhưng nhất thời chẳng khác gì người mất trí. Nó ngơ ngác nhìn Đại Quán.
Nhà sư hỏi:
– Thằng Giang phải không ? Làm sao đến nỗi này ?
Giang ngơ ngác một hồi, chỉ tay vào Hạo Nhiên. Hạo Nhiên lắp bắp:
– Ăn … cắp … Thằng … ăn … cắp …
Chẳng ai hiểu gì. Đại Quán bắt Giang nằm xuống góc lều, đoạn lục trong đẫy ra một lọ thuốc, lấy một viên mài với nước đổ cho cả hai uống. Lúc sau, Giang và Hạo Nhiên cùng thiếp đi, tiếng thở đều hòa và sắc diện đã hồng hơn trước.
Cảm ơn hai nông dân xong, Đại Quán cũng trải chiếu nằm nghỉ.
Sáng hôm sau, bình minh vừa rạng, Đại Quán ra khỏi lều, bách bộ vài vòng. Trở về, Giang đã chờ sẵn ngoài cửa. Thấy Đại Quán, nó quỳ xuống kính cẩn:
– Con xin cảm ơn thầy.
Nhà sư gật đầu mỉm cười:
– Lâu không gặp con, không ngờ lớn thế này rồi đấy ! Sao không nghe thầy con nói gì tới con cả ?
– Dạ, mấy năm nay con cũng không biết sư phụ Ở đâu.
– Vậy hả ? Thế trong thời gian đó con làm gì ?
– Con được một nhà hảo tâm nhận làm nghĩa tử và nuôi dưỡng. Ông ấy tên Đại Cổ, ở đất Nara.
Trong nhà, Hạo Nhiên cũng đã ngồi dậy. Thấy Giang trò chuyện với một nhà sư, nó ngạc nhiên hết sức, lắng tai nghe. Thấy nhắc đến Đại Cổ, nó bèn xen vào:
– Đại sư đừng nghe nó ! Nó với Đại Cổ ăn cắp đồ bảo vật của đền.
Đại Quán không hiểu, nhìn Hạo Nhiên rồi lại nhìn Giang ra ý hỏi. Giang cúi đầu không đáp. Ông bèn kéo nó ra hẳn bên ngoài:
– Chuyện gì thế con ? Nói hết ta nghe, đừng giấu giếm.
Giang bèn đem tất cả sự việc, từ khi ở thác Phu Phụ ra đi, bị lạc Oa Tử và thầy như thế nào, rồi gặp Đại Cổ thấy ông này mang vàng chôn ra sao, hứa với ông ấy những gì khi ông cưỡng bách nó phải làm nghĩa tử, lại âm mưu đoạt bảo vật của đền Mitsumine đem đi giấu ở đâu, nhất nhất thuật lại hết. Đại Quán chú ý nghe, trán cau lại, nét mặt đăm chiêu không giấu được vẻ suy tư.
– Giang ! Con đang làm một việc nguy hiểm tày trời con có biết không ?
– Dạ.
– Đại Cổ là người thế nào ?
– Ông ấy rất tốt. Ông có ăn cắp thật nhưng là lấy tiền của những nhà giàu để làm việc thiện. Ông chỉ bắt con không được tiết lộ cho ai biễt những việc ông làm mà thôi.
Nhà sư cười khẩy:
– Ăn cắp là ăn cắp. Ta chưa hề nghe nói hành động ăn cắp nào là tốt, hành động ăn cắp nào là xấu. Nhưng ta không nghĩ Đại Cổ ăn cắp chỉ vì mục đích xã hội, muốn làm việc thiện. Ông ta nhắm một mục đích khác, ghê gớm hơn nhiều.
– Mục đích gì ?
– Theo ý con thì ngoại mục đích dâng cúng vào chùa chiền, ông còn mục đích gì khác không ?
– Chắc không.
– Lầm ! Theo chỗ ta biết, Đại Cổ có liên hệ đến họ Hòa ở Osaka và có ý định tạo phản.
Giang giật mình, mơ hồ cảm thấy lo sợ. Đại Quán bảo nó theo vào nhà rồi hỏi chuyện Hạo Nhiên. Thằng bé lúc đầu ngại ngùng chỉ trả lời gióng một những câu hỏi của nhà sư nhưng sau thấy ông trấn an và tỏ ra quen biết rất nhiều với sư phụ nó nên vững tâm hơn, kể vanh vách những chuyện xảy ra.
Thấy Hạo Nhiên quả là đồ đệ của Thạch Đạt Lang và được Đại Quán cho biết Giang cũng là đồ đệ nhưng đã được thu nhận trước, cả hai nhìn nhau không còn hằn học nữa.
Đại Quán quay nhìn Giang, nghiêm nghị:
– Con thấy không, hành động của Đại Cổ và của con chắc đã khiến sư phụ con bị bắt oan.
Giang chùi nước mắt:
– Con muốn gặp sư phụ.
– Bây giờ chưa được.
Giang nức nở. Hạo Nhiên cũng khóc theo.
– Con muốn gặp sư phụ. Con sẽ thú hết tội lỗi.
Đại Quán nhìn nó thương hại. Ông quát:
– Đồ ngu ! Làm như thế ích gì ? Mày sẽ rục xương trong ngục hoặc bị xử trảm. Mày không rõ tội phản loạn to lớn đến đâu ư ? Có thể làm lụy đến sư phụ mày nữa chứ đừng nói cứu ông.
– Thưa thầy, thế phải làm thế nào ?
– Việc ấy mặc ta lo liệu. Sáng nay ta mới gặp thân phụ mày. Chắc ông đang trên đường tới chùa Vân Lĩnh ở Tân đô, hãy tạm đến đó ở với ông.
Đại Quán mở đẫy lấy ra hai đồng tiền vàng, đưa cho Giang:
– Đi ngay đi. Kiếm mua một cái nón nan và bộ tăng bào để trá hình làm khất sĩ.
Cầm hai đồng tiền, Giang tần ngần hỏi:
– Sao Tôn gia lật đổ dòng họ Toyotami, tiêu diệt các sứ quân lại không bị coi là phản bội, mà người khác lật đổ Tôn gia lại bị ghép tội ấy ?
Đại Quán nghiêm nghị nói:
– Đừng bắt ta trả lời câu hỏi đó. Lịch sử sẽ trả lời cho ngươi biết. Đối với ta, bất cứ ai nhân danh bất cứ điều gì, dù cao đẹp đến đâu mà phản bội dân tộc cũng bị coi là phản bội.
Chương 78: Ngưỡng cửa vinh quang
Ngay ngày hôm sau, Đại Quán dời đồng cỏ Misashino, để Hạo Nhiên ở lại lều một mình.
Lo buồn dần lắng, nhường chỗ cho những suy nghĩ chín chắn hơn trong lòng Hạo Nhiên. Nó không thể bỏ nơi này để đi tìm sư phụ, phần không biết thầy bị giam giữ chỗ nào, phần đã hứa chờ Lâm Bằng trở lại.
Ngày nào, Hạo Nhiên cũng ra xóm tiều hỏi thăm tin tức. Nhưng cũng như nó, những người dân quê chất phác chẳng biết gì hơn. Việc quân quan là những việc xa vời, thuộc về một thế giới khác không liên hệ gì đến họ. Nếu có người nào chẳng may bị Oan ức thì ráng chịu. Họ chỉ biết việc trước mắt. Thương Hạo Nhiên côi cút, họ cho nó kê, đậu, đôi khi thóc gạo và giúp nó sửa lại căn lều. Đổi lại, Hạo Nhiên phụ dân xóm làm những việc vặt như xới cỏ, trồng rau, kiếm củi.
Ngày lại ngày trôi đi, Lâm Bằng không trở lại, Đại Quán cũng chẳng tin tức gì, Hạo Nhiên thấy sốt ruột. Buổi chiều, tựa cửa nhìn về hướng núi Chichibu, tưởng đến nơi sư phụ bị giam giữ, nó hình dung ra một Thạch Đạt Lang tiều tuỵ gầy yếu, thương cảm tràn ngập, nước mắt lại chan hòa, không sao cầm được. Trời thu nhạt, cỏ cháy dần.
Những cánh chim tựa mũi kim theo nhau thành hàng bay về phía chân trời xa tắp. Đối với Hạo Nhiên, những con chim đàn ấy sao mà sung sướng quá và nó mong được như chúng.
Một bữa kia không chịu nổi sự khắc khoải dằn vặt, Hạo Nhiên quyết định ra đi tìm sư phụ.
Bản tính cẩn thận và lo xa, nó chuẩn bị kỹ càng đủ mọi thứ:
nón nan, dép cỏ, ống nước đeo vai, nấu cơm nắm thành gói vào lá tre để ăn bữa một, lại mang trong bọc ít cá khô, thịt muối dành riêng cho sư phụ.
Trước khi đi, Hạo Nhiên không quên tạt qua xóm tiều, từ biệt những người đã làm ơn cho nó và dặn dò trông nom hộ căn lều rồi mới nhắm hướng núi Chichibu thẳng tiến.
Sau những năm theo Thạch Đạt Lang, nhất là từ ngày sư phụ bị bắt, tính tình Hạo Nhiên đổi khác. Nét mặt nó đăm chiêu, cử chỉ cũng dè dặt và ít cười nói. Tuy vẫn tháo vát như xưa nhưng làm việc gì bây giờ cũng đắn đo, chứng tỏ nó đã có ít nhiều từng trải.
Đi gần cả ngày thấm mệt, Hạo Nhiên ngồi giở cơm nắm ra ăn. Trời chiều, gió thổi mạnh, trông ra xung quanh chỉ thấy lùm nọ tiếp bụi kia, lá rừng rơi lả tả ngập gốc cây.
Cảnh hoang vu càng như gợi trong lòng nó nỗi cô độc. Hạo Nhiên ăn mau cho xong bữa để tiếp tục cuộc hành trình, hy vọng đi thêm chút nữa may ra trước khi trời tối gặp được căn lều bỏ hoang của người kiếm củi hay đốt than nào đó cũng có thể tạm trú qua đêm.
Nhưng càng đi càng vắng. Con đường mòn trước mặt mờ mờ rồi khuất dần trong màu lam nhạt của những vạt sương chiều lãng đãng. Tuy thế Hạo Nhiên không ngại. Ngay cả từ khi còn nhỏ, nó đã gặp cảnh hoang vắng nhiều lần nên rất vững tâm. Cùng lắm thì tìm một hốc đá nào đó chui vào đánh một giấc đợi hôm sau trời sáng sẽ đi tiếp chứ gì !
Bỗng nó lắng tai chú ý. Có tiếng chân đều đặn đạp lá khô và tiếng ngựa hí nho nhỏ. Hạo Nhiên nấp vội vào gốc cây giương mắt nhìn về phía tiếng động quan sát.
Đợi không lâu, quả thấy có bóng người dẫn ngựa đi tới. Trên lưng ngựa, một tráng sĩ cao lớn ngồi, hai chân buông thõng.
Ngựa xem chừng đã mệt, đi chầm chậm. Còn người thì chẳng ai nói với ai lời nào.
Trong bóng đêm chập choạng, Hạo Nhiên không phân biệt được diện mạo cùng y phục nhưng khi họ đến gần, nó sửng sốt. Hai người ấy chính là Thạch Đạt Lang, sư phụ nó, và Lâm Bằng, hiệp sĩ đất Kiso !
Hạo Nhiên mừng nhảy cẫng. Nó hét lớn:
– Thầy ! Thầy ! Con đây !
Rồi ùa ra nắm lấy cương ngựa. Con vật sợ hãi co cẳng hí một tiếng dài. Nếu không nhờ Lâm Bằng nhanh nhẹn ghìm lại thì nó đã lồng lên chạy mất rồi.
– Hạo Nhiên hả ?
Từ lưng ngựa, Thạch Đạt Lang nhảy xuống ôm vai đồ đệ:
– Con ra đây làm gì thế ?
Lâm Bằng cũng hỏi:
– Sao biết chúng ta về mà ra đón ?
– Ừ. Sao con biết chúng ta về ?
Hạo Nhiên đáp, giọng đứt quãng vì xúc động:
– Con … con … đi tìm thầy !
Thạch Đạt Lang nhấc bổng thằng bé lên nhìn kỹ. Thấy lỉnh kỉnh hành trang, nào nón nan, túi cơm, ống nước, dép cỏ đeo lủng lẳng, hắn cười lớn, đặt nó lên ngựa:
– Ta biết con là đứa trẻ tốt, nhưng bận sau chớ làm thế ! Con rõ ta ở đâu mà tìm !
May mà gặp hôm nay chứ nếu không, ta với con đã lạc nhau rồi !
Lâm Bằng cũng nói:
– Phải đó ! Ngươi không nhớ trước kia ta đã dặn cứ ở nhà đợi ta à !
Hạo Nhiên gật:
– Nhưng lâu quá chẳng thấy tráng sĩ về.
Rồi như sực nhớ điều gì, nó tiếp:
– Lúc thầy đi vắng, có thiền sư Đại Quán đến tìm.
– Vậy ư ? Ông nhắn gì không ?
– Dạ không. Nhưng cũng có cả một người tên Giang tự xưng là đồ đệ của thầy nữa.
– Ồ !
Thạch Đạt Lang mừng, hỏi kỹ hơn. Hạo Nhiên bèn đem chuyện gặp Giang và Đại Quán ra kể cho hắn nghe rõ hết. Thạch Đạt Lang lộ vẻ đăm chiêu, đoạn nói:
– Không ngờ Đại Cổ dẫn dắt thằng Giang làm những chuyện tày trời như thế. Bây giờ ta mới hiểu vì sao bị bắt và vì sao tự nhiên lại được thả ra. Ta chắc chín phần mười Đại Quán có can thiệp.
Đoạn như muốn chấm dứt câu chuyện và dành những suy tư về hậu quả việc ấy cho riêng mình, hắn nói lảng, bảo đồ đệ:
– Con biết Lâm tráng sĩ chứ ?
– Dạ biết.
– Nhưng chưa rõ liên hệ với ta ra sao đâu nhỉ ! Tráng sĩ là ân nhân của ta, nhất là khi ta còn trong vòng lao lý. Tráng sĩ với ta đã kết nghĩa huynh đệ, vậy từ nay con gọi ông bằng sư thúc.
Hạo Nhiên định tuột xuống thi lễ, nhưng Lâm Bằng vội gạt đi, cho rằng những hình thức ấy lúc này không cần thiết. Vỗ nhẹ lưng nó, gã nói:
– Hay lắm. Chưa lập gia đình mà ta đã có cháu. Giá mẫu thân ta còn, chắc người hài lòng lắm.
Cả ba về đến nhà, đêm đã khuya, sương xuống lạnh buốt. Hạo Nhiên ôm củi ra nhóm lửa ở giữa nhà sưởi, lại mang cơm nắm cá khô thịt muối ra mời sư phụ và sư thúc cùng ăn.
Bữa cơm đạm bạc, nhưng đối với nó, trong không khí ấm cúng của gian nhà cỏ, bên ngọn lửa nhảy múa reo vui, quả là bữa tiệc mừng mọi người bình an đoàn tụ.
Thấy sư phụ hơi xanh và ở tay, ở cổ có nhiều vết thương chưa lành, nó hỏi tại sao.
Thạch Đạt Lang cười, nói lảng:
– Chẳng có gì đáng ngại. Hôm nay gặp con, lại có thêm Lâm hiền đệ, thật là điều may mắn không ngờ ta được hưởng. Hãy cứ vui như thế đã, chẳng nên quan tâm đến những việc khác.
Ba hôm sau, trong khi Lâm Bằng và Thạch Đạt Lang đang xới đất ở sau nhà, gây một vườn rau mới thì có khách đến thăm. Ấy là Kỳ Sâm. Gã mang một phong thư của Tôn phủ triệu Thạch Đạt Lang đến để sát hạch. Nếu được chấp thuận, Tôn đầu lãnh sẽ đích thân mời hắn vào yết kiến và có thể dùng hắn trong một chức giảng huấn viên của Tôn phủ.
Thư gửi qua tay vị hào trưởng vùng Akagi là Hà Chu Cát Tỉnh và cũng là thân phụ của Kỳ Sâm. Vâng lệnh thân phụ, gã mang bản triệu dụng chuyển cho Thạch Đạt Lang, kèm với thư của Đại Quán và thiếp mời của thân phụ gã cùng một con ngựa, giục Thạch Đạt Lang đi ngay. Đạt Lang ngần ngại:
– Tại hạ mới được phóng thích, đi ngay có điều bất tiện.
– Tại sao bất tiện ?
– Hình dung, y phục thế này e thất lễ chăng ?
Kỳ Sâm vội gạt đi:
– Không sao, gia nghiêm đã nghĩ đến chuyện ấy. Xin cứ theo tại hạ, mọi việc chu toàn cả rồi !
Không thể từ chối, Thạch Đạt Lang giã biệt Lâm Bằng, báo tin hắn được triệu vào Tôn phủ khảo hạch để thu dụng vào giảng huấn bộ. Nghe tin, Hạo Nhiên mừng hết sức.
Thế là từ nay, thầy nó không phải lang bạt nữa mà nó cũng yên tâm chẳng lo không trở thành một kiếm sĩ có tương lai như lòng hằng mong ước.
Đến lâu đài, chủ nhân Hà Chu Cát Tỉnh đích thân ra cửa nghênh tiếp. Thi lễ xong, thay áo nhẹ, gia nhân dẫn vào nhập tiệc, cũng vẫn ở gian phòng xưa, trước đây hắn đã gặp Đại Quán và Trúc Mộ.
Gặp lại Đại Quán, Thạch Đạt Lang vui mừng khôn xiết. Hắn phục xuống tạ Ơn nhà sư đã can thiệp cứu hắn khỏi ngục thất. Đại Quán đỡ dậy, nói:
– Bất tất ! Ta chỉ chứng minh nỗi oan con phải chịu và đòi sự công bằng mà thôi.
Gặp bất cứ trường hợp nào như thế ta cũng can thiệp, chẳng cứ gì riêng gì trường hợp của con.
Bữa tiệc thịnh soạn. Tuy chỉ có ba người, sau thêm Kỳ Sâm nữa, nhưng thật vui vẻ.
Đề cập cuộc khảo hạch ngày hôm sau, Đại Quán có vài lời khuyên. Ông thực tâm tin tưởng Tôn Điền Tùng Cương là người đủ tài đức trị nước nên mong Thạch Đạt Lang phục thị Tôn phủ.
– Tôn Điền Tùng Cương là một chính trị gia khôn khéo, nhìn xa trông rộng và thực tế. Con nên lựa lời đối đáp, ta mong con thành công.
Thật ra, những ý kiến của Đại Quán không hợp với ý Thạch Đạt Lang. Trong thâm tâm, hắn chẳng muốn bị ràng buộc. Sau thời kỳ canh tác ở Hotengahara, hắn quả có ý tìm minh chủ, đem lưỡi gươm của mình phục vụ lãnh tụ nào đó có tài năng và đức độ, nhưng xét tình hình ngày nay, khó mà thực hiện ý định ấy.
Họ Tôn Điền ở Edo cũng như Hòa Giả ở Osaka đều chỉ lo củng cố quyền lực của phe phái. Dân chúng vẫn lầm than, chịu đựng nhiều bất công, tại nhiều nới đã phát sinh mầm mống nổi loạn. Sứ quân chẳng có sách lược an dân kiến quốc gì, nên Thạch Đạt Lang thất vọng không muốn phí năng lực vào những cuộc tranh chấp đảng tộc, bè phái như thế.
Tuy vậy, hắn không tiện từ chối, sợ làm mất lòng và nhất là sau vụ bắt bớ vừa rồi, sợ làm liên lụy đến những người đã để hết tin tưởng bảo trợ hắn.
Hôm sau, một ngày trọng đông nắng đẹp, Thạch Đạt Lang mặc lễ phục, cưỡi ngựa tía xuống núi. Dưới mắt khách bàng quan, rõ ràng tương lai đời hắn đầy rực rỡ, mỗi bước đi của hắn về phía Tôn phủ là một bước đến gần ngưỡng cửa vinh quang.
Cách cổng Wadakura chừng mươi trượng, thấy bảng đề “hạ mã“, Thạch Đạt Lang xuống ngựa, trao cương cho mã phu rồi thong thả đi vào. Thông báo danh tính xong, hắn được mời vào phòng chính trong nghênh khách đường ngồi đợi.
Phòng rộng thênh thang, tiếp được tới hàng trăm khách chứ không ít và được mệnh danh là “lan sảnh” vì ngay chính giữa có treo bức họa lan điểu thật lớn.
Thị nữ mang trà bánh tới, nhưng ngoài những kẻ nô tài này ra, đợi mãi chẳng thấy ai đến tiếp xúc. Lại là người khách độc nhất trong phòng, ngồi lâu phát chán, hắn đứng dậy đi quanh. Gần chiều, mới thấy một lão ông bệ vệ bước ra. Tuổi chừng tám chục, tóc bạc như cước nhưng sắc diện hồng hào trông còn tráng kiện lắm. Ông tự xưng là Vạn Mẫn Chương thuộc hội đồng trưởng lão được cử đến để nghênh tiếp khách quý.
Thạch Đạt Lang cũng tự khai danh tính, trình sơ qua về dòng họ và tổ phụ. Nghe xong mỗi câu, ông lại gật đầu, chiếc cằm phì nộn khẽ rung động.
– Tiểu nhân đến đây theo lời triệu của Tôn phủ. Vậy xin kính cẩn nghe lời chỉ giáo.
– Đa tạ đại hiệp.
Đoạn, dường bối rối phải lựa lời diễn tả một điều khó nói, ông tiếp:
– Mấy hôm trước đây, hội đồng trưởng lão đã xét lời thiền sư Đại Quán đề cử đại hiệp vào một chức vụ thuộc giảng huấn bộ. Đề nghị của hội đồng đã đệ trình lên Tôn đại gia, tiếc thay ngài không thuận. Sáng nay chúng ta lại tái trình việc ấy, nhưng vẫn không lay chuyển được ý ngài.
Thạch Đạt Lang cúi đầu nghe, im lặng.
– Tôn gia nói đã một lần tiếp xúc với đại hiệp. Ngài rất có hảo cảm nhưng vì lý do riêng, không tiện để đại hiệp giữ chức vụ gì trong Tôn phủ lúc này …
Thấy Thạch Đạt Lang vẫn cúi đầu, giọng ông trầm xuống, nặng vẻ an ủi:
– Trong cuộc sống vô thường, chuyện xảy ra như vậy không phải là hãn hữu, đại hiệp chẳng nên quan tâm. Được hay mất, nhiều khi cũng nhờ may rủi.
Thạch Đạt Lang kính cẩn:
– Đa tạ lão tiền bối, tiểu nhân hiểu.
Vạn Mẫn Chương thì tỏ ý quan hoài. Thạch Đạt Lang, trái lại, mừng vô tả. Hắn cảm thấy như có một quyền lực gì cao hơn quyền lực của Tôn đầu lãnh đã an bài mọi sự để hắn được tự do lựa chọn đường đi, dẫn đến và trao cho hắn một chức vụ vinh hiển, ích lợi cho dân tộc hơn chức vụ của Tôn gia nhiều.
Nhìn Thạch Đạt Lang điềm tĩnh, không lộ vẻ xúc động, Vạn Mẫn Chương nghĩ thầm:
“Thật là con người biết tự chu”.
– Được biết ngoài sở trường về kiếm pháp, đại hiệp còn có tài về mỹ thuật. Giá đại hiệp cho lão phu được chiêm ngưỡng đôi chút tài năng hiếm có ấy thì hay biết mấy.
Xem nét bút, đánh giá được con người. Nếu có dịp trình lên Tôn đại gia, lão phu chắc ngài có con mắt tinh tế, sẽ thẩm định tác phẩm của đại hiệp không nhầm lẫn. Mong đại hiệp hiểu ý và đừng cho là lão phu ngạo mạn.
Dứt lời, ông đứng dậy nhìn Thạch Đạt Lang lần cuối, nói mấy lời cáo biệt và bước khỏi khách sảnh.
Hiểu rõ thâm ý của Vạn Mẫn Chương, Thạch Đạt Lang mỉm cười. Ông muốn hắn biểu lộ chí hướng trong một tác phẩm, đặc biệt ở trường hợp này, một tác phẩm nghệ thuật. Được lắm ! Hắn sẽ làm, nhưng không phải nhằm mục đích được thu dụng như Vạn Mẫn Chương đã gợi ý mà chỉ để bày tỏ ý kiến mình.
Khi còn nhỏ, Thạch Đạt Lang đã yêu thích nghệ thuật. Cái đẹp bao giờ cũng làm hắn xúc động. Từ vẻ huy hoàng của buổi bình minh rực rỡ ánh dương quang đến những bông hoa dại nhỏ li ti cạnh tảng đá rêu phong, mỗi cảnh mỗi vật đều gây cho hắn nhiều cảm xúc. Chỉ tiếc hắn đã không có được kỹ thuật điêu luyện để diễn tả những xúc động ấy trên giấy như trong bức tranh “hạt giẻ” của Tống Lương Khải hắn đã xem ở thư phòng Cổ Huy Đạo năm nào.
Rồi vì lang bạt khắp nơi, không tiện và không có thì giờ vẽ tranh, hắn chẳng mấy khi tập luyện. Đôi khi nhàn rỗi, không có hứng tạc tượng, Thạch Đạt Lang lại mang bút mực ra vẽ theo trí nhớ những cảnh hoặc vật đã gặp. Những nét vẽ ấy thường gò bó, chẳng được tự nhiên và không mạnh mẽ tung hoành như những đường gươm sắc bén của hắn nên hắn chẳng muốn ai xem và cũng chẳng muốn giữ làm gì.
Hôm nay, bỗng nhiên bị khích động vì lời yêu cầu của Vạn Mẫn Chương mà hắn coi như một thách thức, Thạch Đạt Lang thấy hứng khởi bừng bừng. Bèn gọi con hầu mang bút mực và màu vẽ đến. Tiện có bức hình phong ở góc phòng còn trắng, hắn mang đặt cạnh chỗ ngồi. Trầm ngâm một lát, Thạch Đạt Lang phóng bút vẽ lên đó những hình ảnh ào ào từ trong đầu tuôn ra như thác lũ. Hắn làm việc nhanh và liên tục, mắt đổ lửa, trong một cơn sốt cảm hứng tưởng không bao giờ dứt.
Đến khi bình phong không còn chỗ trống và lòng nhiệt thành cũng giảm, Thạch Đạt Lang rút giấy lụa lau mồ hôi trên mặt rồi thả bút vào bình nước, đứng lên, không nhìn lại bức họa mà cũng không sửa một nét nào.
Xốc lại quần áo, hắn bước ra cửa. Quay nhìn cánh cổng Wadakura, một câu hỏi bỗng thoáng qua trong trí:
Vinh quang ở đâu ? Bên này hay bên kia cánh cổng ? Thạch Đạt Lang bước nhanh, tự cho mình đã gặp may mắn.
Vạn Mẫn Chương trở lại khách sảnh. Ông nhìn bức họa hãy còn ướt mực. Bức họa vẽ cảnh đồng Musashino, cỏ cháy vàng chiếm nửa bình phong. Chính giữa là vầng thái dương đỏ thắm, và thủy mặc được dùng để diễn tả bầu trời mây vần vũ của một ngày dông bão.
Vạn Mẫn Chương lẩm bẩm:
“Con hổ đã được Tôn gia thả về rừng mất rồi !”.
Hôm sau, Thạch Đạt Lang trở lại lều, bộ lễ phục vẫn còn cứng bột hồ nhưng bụi đất đã làm lem nhem những chỗ lụa trắng. Lâm Bằng mừng rỡ:
– Mừng đại huynh ! Đệ chờ từ sớm. Đại huynh đi rửa mặt rồi thay áo. Có phải nhận việc ngay không ?
Thạch Đạt Lang cười:
– Không. Đề nghị bị bác.
– Bị bác ? Đại huynh không giỡn đấy chứ ?
– Ai giỡn làm gì !
– Tiếc quá nhỉ ! Khó có cơ hội như thế nữa.
– Hiền đệ mà cũng nghĩ vậy à ? Hiền đệ cho là vinh quang chỉ ở trong Tôn phủ hay sao ?
Lâm Bằng không đáp. Thạch Đạt Lang lại tiếp:
– Một thời, ngu huynh cũng có ý muốn đem sở học và kiếm thuật đặt dưới chân minh chủ mình chọn lựa, mơ tưởng kiếm đạo đi đôi với chế độ để xây dựng một quốc gia cường thịnh.
– Phải vậy chứ. Tiểu đệ cũng nghĩ thế.
Thạch Đạt Lang lại cười:
– Vậy là chúng ta đồng ý kiến. Nhưng giấc mơ ấy tan rồi ! Đó chỉ là giấc mơ không sát thực tế. Có bao giờ hiền đệ tự hỏi nếu gặp một chế độ không chủ trương xây dựng quốc gia thì những người cầm kiếm phục vụ cho chế độ ấy phải xử sự thế nào ? Bị cuốn vào cơn lốc, người cầm kiếm không có lối thoát, sẽ bị dùng như một món đồ cho đến chết và nhiều khi không biết rằng mình chỉ là một món đồ …
Lâm Bằng cau mặt:
– Vậy đại huynh đứng ngoài xã hội hay sao ?
– Không. Hiền đệ chớ nghĩ thế. Chừng nào còn dân tộc Nhật, còn quốc gia Nhật thì kiếm đạo vẫn còn là ngọn đèn sáng chỉ đường và giữ vững tinh thần cho huynh.
Nói rồi lảng sang chuyện khác, Thạch Đạt Lang hỏi:
– Hạo Nhiên đâu ?
– Nó vào rừng kiếm củi.
Thạch Đạt Lang lấy giấy bút ra thảo một bức thư đưa cho Lâm Bằng và nói:
– Nhờ hiền đệ mang trả ngựa và giao thư này cho vị hào trưởng vùng Akagi là Hà Chu Cát Tỉnh. Nếu gặp thiền sư Đại Quán ở đó, cũng xin chuyển lời cảm ơn nồng nhiệt của ngu huynh đến các vị. Chắc các vị đó đã biết ngu huynh không được thu nhận vào chức vụ đề nghị rồi.
– Đại huynh có nghi là vì bị gièm pha chăng ?
Thạch Đạt Lang gật đầu:
– Cũng có thể ! Nhưng bị gièm pha hay không, ngu huynh chẳng bao giờ để ý. Tuy nhiên, xin hiền đệ nói thêm để các vị ấy biết ngu huynh không đích thân đến cám ơn được vì ngại sự liên lạc quá mật thiết có thể khiến các vị bị liên lụy và xin miễn chấp cho.
– Tiểu đệ hiểu, xin đi ngay bây giờ.
– À, còn việc này nữa …
Thạch Đạt Lang vừa nói vừa rút ra một túi gấm đưa cho Lâm Bằng:
– Cái này là của Hạo Nhiên. Phiền hiền đệ giao lại cho nó, bảo nó phải gìn giữ cẩn thận vì là di sản độc nhất cha nó để lại.
Lâm Bằng trố mắt nhìn Thạch Đạt Lang:
– Sao vậy ? Đại huynh đi đâu ?
– Ngu huynh lên núi.
– Đi đâu cũng cho tiểu đệ đi theo. Cả Hạo Nhiên nữa.
Nhưng Thạch Đạt Lang nghiêm nghị:
– Ngu huynh không ra đi vĩnh viễn. Trong lúc vắng mặt, nhờ hiền đệ dạy dỗ Hạo Nhiên cho và coi nó như đồ đệ.
– Đại huynh lên núi ở ẩn chăng ?
Thạch Đạt Lang cười rộ, ngả người chống tay lên chiếu rồi lập nghiêm:
– Chẳng phải thế. Ngu huynh còn trẻ, cũng muốn có sự nghiệp chứ. Biệt hiền đệ, không vui gì. Nhớ mấy câu thơ của một thi sĩ Trung Hoa đời Đường, xin đọc để tặng:
Tịch tịch cách hà đãi Triêu triêu không tư quy Dục tầm phương thảo khứ Tích dữ cố nhân vi (Đợi gì không hưởng trọn yên tĩnh. Sớm nào cũng trở về không. Muốn tìm nơi cỏ thơm mà tới. Chỉ tiếc phải xa cố nhân).
Lâm Bằng nghe, lòng buồn vời vợi, cầm tay Thạch Đạt Lang nghẹn ngào. Lúc sau lên ngựa từ biệt.
Đến lâu đài Akagi, Đại Quán vẫn còn đó, đang cùng chủ nhân đàm đạo. Cả hai đã được thông báo quyết định của Tôn đầu lãnh. Lâm Bằng đưa thư, đọc xong mới biết ý định của Thạch Đạt Lang muốn xa Edo một thời gian. Lại nghe Lâm Bằng nói Thạch Đạt Lang không đích thân đến giã biệt được vì sợ liên lụy đến ân nhân, ai cũng cho hắn quá cẩn thận.
Hà Chu Cát Tỉnh đề nghị:
– Hắn đã không đến ta được thì ta đến hắn, ngại gì !
Đại Quán gật đầu đồng ý. Bèn cùng nhau lên ngựa tới đồng cỏ.
Đến nơi, căn lều vắng lặng. Trên trời cao, chỉ thấy một đám mây trôi lờ lững.
Chương 79: Màu xanh hồ thủy
Trải tấm lụa vừa nhuộm xong lên cỏ, Oa Tử giở nón ngồi nghỉ. Nước hồ xanh trong gợn sóng lăn tăn và tấm lụa nàng vừa nhuộm cũng một màu xanh mát, duy lòng nàng sao bồn chồn như lửa đốt.
Hai tháng trước, khi còn ở cốc Trúc Lâm, nghe tin Thạch Đạt Lang được vời vào Tôn phủ, Oa Tử vui mừng hết sức. Thôi thế là từ nay hết lo sợ phập phồng và sự sum họp với người yêu không còn là một ảo tưởng. Thấp thỏm mừng thầm, nàng chỉ chờ dịp thuận tiện dời khỏi cốc. Nhân cốc chủ là Trúc Mộ lão nhân mới quy tiên, tuần bách nhật vừa mãn, Oa Tử mượn cớ không tiện ở thêm, vào gặp Mẫn Đức là cháu của Trúc Mộ hiện giữ chức quản trị gia nhân, xin cáo biệt đi Edo. Mẫn Đức lưu lại thế nào cũng không được, vả sau khi tổ phụ mất, không còn lý do gì để giữ nàng nữa, đành gọi gia nhân mang tặng vật ra tiễn.
Đến Edo, Oa Tử dò hỏi nhiều nơi mới biết Thạch Đạt Lang không được tuyển vào phủ, đã bỏ vùng Musashino đi đâu không rõ. Cánh hồng ngàn dặm tung bay. Căn lều hoang vắng, di tích còn lại chỉ có một cái bếp, than tro vung vãi. Oa Tử lặng nhìn gian nhà cỏ xiêu vẹo trong cảnh đìu hiu, thương cho ai quạnh quẽ mà lại xót xa cho thân thế mình long đong. Vừa buồn, vừa sợ, nàng trở lại Edo, vào tạm trú tại một ngôi chùa. Nhân gặp người mộ đạo chỉ dẫn, Oa Tử mới đến xin việc ở xưởng nhuộm vùng ngoại ô này.
Xưởng nhuộm là một xưởng thuộc loại tiểu công nghệ. Gia đình gồm hai vợ chồng và một người con gái, chuyên phiếu lụa rồi nhuộm màu hồ thủy, một màu xanh đặc biệt rút từ lá chàm ra pha chế với vài thứ màu thực vật khác. Cách pha chế làm theo bí quyết riêng truyền từ mấy đời trong dòng họ, màu đã đẹp lại bền nên rất được ưa chuộng. Làm việc ở xưởng nhuộm tuy khó nhọc nhưng Oa Tử chẳng nề, còn cho là may mắn tự kiếm được việc mưu sinh không phải nhờ vả ai. Thấy gia đình người thợ nhuộm hiền lành, nàng xin tá túc luôn ở đó.
– Cô Oa Tử !
Nghe tiếng gọi, Oa Tử giật mình quay lại.
– À bác Tống Nhị ! Đến giao hàng hả ?
Tống Nhị là lái buôn cung cấp lá chàm cho xưởng. Tuy chẳng phải người địa phương nhưng vì qua lại vùng này luôn nên được tín nhiệm. Tống Nhị cười bả lả:
– Không, kỳ này không mua được lá nhưng có tin cho cô.
Oa Tử ngạc nhiên:
– Tin cho tôi ? Tin gì thế ?
– Phải cô sinh quán ở Miyamoto vùng Mimasaka không ?
– Phải, sao bác biết ?
– Tháng trước qua đấy, có người nói đến cô và hỏi thăm.
– Ồ ! Ai vậy ?
– Một người tên Ô Nhiên. Bà ta lấy chồng ở Mikuzaki. Bà bảo có biết cô, lại có người em trai tên Thạch Kinh Tử cũng biết cô rõ lắm.
Mặt Oa Tử đỏ bừng, e thẹn. Tống Nhị cười hềnh hệch ra ý thông cảm, vén áo đến ngồi xổm cạnh Oa Tử.
– Vậy cô có quen biết gì với bà ta không ?
Oa Tử gật:
– Bác có nói cho chị Ô Nhiên biết tôi ở đây không ?
– Dĩ nhiên là có. Tôi nghĩ tình đồng hương cả, nói ra chẳng hại gì.
– Phải. Thế chồng Ô Nhiên là ai ?
– Hình như là một kiếm sĩ đã đứng tuổi. Bà ấy nói nhớ cô lắm, muốn gặp cô ôn lại chuyện xưa …
Oa Tử lơ đãng nhìn ra xa, lúc sau kéo áo lau mắt đỏ hoe:
– Cám ơn bác.
– Ô Nhiên không đích thân tới được nên nhờ tôi dẫn cô đến chỗ bà ở. Nghe đâu có tin tức gì của em bà là Thạch Kinh Tử ấy mà …
Nghe nhắc đến tên Thạch Kinh Tử, lòng Oa Tử bỗng rộn lên niềm vui sướng.
– Ồ thế à ?
– Cô có muốn cùng đi với tôi đến gặp bà Ô Nhiên không ?
Oa Tử ngần ngừ. Người lái buôn vội tiếp:
– Nếu bằng lòng thì cô phải cho biết trước kẻo lỡ.
– Thì cũng phải để tôi xin phép nghỉ mấy hôm đã chứ ! Hay thế này. Bác cứ về đi, sáng mai qua đây nếu thấy ngoài cổng có treo chiếc khăn thì gọi. Tôi sẵn sàng đi cùng với bác.
Tống Nhị vui vẻ:
– Vậy cũng được. Dịp may cô chớ nên bỏ lỡ. Nếu lần này mà không được thì còn lâu tôi mới trở lại đấy !
Người lái buôn đi rồi, Oa Tử tần ngần nhìn theo rồi đứng dậy quay ra tiếp tục công việc bỏ dở. Nàng gấp tấm lụa đã se, nhúng vào thuốc nhuộm và lấy vồ ra đập. Nhưng những tiếng vồ của nàng không đều đặn như mọi khi, lúc nhanh lúc chậm, xem ra hỗn loạn chẳng khác nào tâm trạng rối bời của nàng lúc ấy.
“Đã lâu không gặp chị Ô Nhiên, chắc bây giờ chị ấy khác trước nhiều. Không biết gia đình ra sao ? Và Thạch Đạt Lang ! Thạch Đạt Lang ! Chàng nhớ thiếp không ? Chàng nhắn chị Ô Nhiên nói với thiếp điều gì thế ? Hay là chàng đã đổi ý … Hay là … Trời ơi!….”.
Oa Tử bồi hồi, chiếc vồ cầm tay cơ hồ muốn rớt. Trước mặt nàng chỗ nào cũng thấy hiện ra hình ảnh người yêu. Hy vọng và lo sợ lại bắt đầu nhen nhúm trong lòng người thiếu nữ đa cảm.
Oa Tử hoa mắt. Màu xanh hồ thủy của tấm lụa nàng vừa nhuộm ùa vào choáng ngợp cả hồn nàng rồi vỡ từng mảnh, tan nát.
Oa Tử bỏ vồ đứng lặng một lúc, đoạn thu xếp dụng cụ cất vào kho, tuy mặt trời bấy giờ mới hơi ngả bóng.
Sáng hôm sau, vừa nghe tiếng Tống Nhị gọi, Oa Tử đã khoác hành trang đội nón ra cửa. Phương đông, trời đỏ hồng hứa hẹn một ngày tươi đẹp. Rặng núi xa xanh đen đổi màu sáng dần cùng với ánh mặt trời mỗi lúc một rõ.
– Tôi làm phiền bác quá !
– Có gì mà phiền ! Đằng nào tôi cũng phải cất hàng về phía đó. Chỉ sợ cô không đủ sức đi nổi thôi.
– Từ đây đến chỗ Ô Nhiên ở bao xa ?
– Phải đi hết một ngày.
– Thế thì tôi đi được.
– Vậy hả ? Tôi cũng nghe nói cô đã một mình đi từ Trúc Lâm đến Edo. Con gái như thế là khoẻ rồi !
Dứt lời, gã lái buôn cười ha hả. Oa Tử cũng cười:
– Ai nói bác biết vậy ?
– Người ta nói.
– Người ta là ai ?
– Thì mọi người. Ở xưởng nhuộm cũng như ở Miyamoto. Người ta bảo cô phải lòng anh chàng Thạch Kinh Tử nào đó …
Mặt Oa Tử đỏ nhừ:
– Người ta hay kháo chuyện người khác quá nhỉ.
Tống Nhị cãi:
– Có sao đâu ? Đi tìm người cô yêu thì có gì đáng trách ! Phải cái anh chàng Thạch Kinh Tử đó có lẽ không để ý đến cô. Anh ta có vẻ lạnh nhạt.
Oa Tử vội chữa:
– Không … không phải thế.
– Cô không giận anh ta sao ?
– Không ! Lỗi tại tôi ! Chàng là kiếm sĩ, cần phải có thì giờ tập luyện. Kiếm đạo là lẽ sống của đời chàng. Tôi đã hứa không làm gì để luỵ đến chàng. Tôi không trách chàng điều gì cả.
Tống Nhị quay nhìn Oa Tử. Gã định nói câu gì song lại thôi, lẳng lặng đi. Qua một cái quán, gã đề nghị:
– Ta vào đây nghỉ chút đã để lấy sức đi đến chiều. Đường còn dài mà.
Cả hai bước vào quán, gọi nước trà và bánh đậu, rồi giở cơm nắm mang theo từ nhà ra ăn. Lúc ra khỏi quán, một toán chừng bốn năm người toàn mã phu và lao công khuân vác ngẫu nhiên vừa tới, trông thấy Tống Nhị, đến cạnh gã vỗ vai níu áo:
– Tống Nhị ! Ngươi đi đâu, mấy ngày nay sao chẳng thấy mặt ? Định ăn non hả, cho anh em gỡ với chứ !
Tống Nhị bối rối, bảo Oa Tử cứ đi trước, đoạn ghé tai bọn kia thì thầm điều gì. Lúc sau, cả bọn cười như phá.
– Coi chừng chúng ta mách con mụ già nhà ngươi đó !
Nói đoạn kéo nhau ồn ào vào quán.
Tống Nhị rảo bước theo Oa Tử, quay lại giơ tay xua xua làm hiệu, nói lớn:
– Thôi hôm nay ta không thuê ngựa nữa. Khi nào cần sẽ gọi.
Đến gần Oa Tử, gã cười dả lả:
– Mấy thằng thật không biết lễ độ gì ! Thuê chở hàng, lâu dần thành quen, chúng lờn mặt.
Oa Tử nhìn gã, ngờ vực. Từ đó trở đi, nàng giữ kẽ, không hỏi han gì nữa nếu không thực cần thiết, mà Tống Nhị cũng có vẻ bẽ bàng, ít cười nói. Hai người cứ đi mãi cho đến khi trời bắt đầu nhạt nắng. Thấy Tống Nhị chẳng nói năng gì mà đường dài vẫn còn hun hút, Oa Tử băn khoăn hỏi:
– Makazuki ở bên này hay phải sang bên kia núi ?
– Bên này. Phía bên kia thuộc làng Miyamoto rồi. Thượng nguồn sông Aida trong đám cây xanh trên cao đó ! Cô không nhận ra à ?
– Tôi ít khi sang bên này núi nên không rõ.
Xung quanh chỉ toàn bụi gai và đá tảng. Con đường mòn hai người đang đi hẹp và quanh co, nhiều chỗ cỏ mọc phủ gần kín. Cảnh vật tiêu sơ hoang vắng đến não lòng khiến Oa Tử lo ngại chậm bước.
– Cô mệt rồi à ?
– Không, nhưng ngài ngại thế nào ! Ở đây hoang vu quá, từ nãy đến giờ đi chẳng gặp ai. Bác có lạc đường không đấy ?
Tống Nhị cười xoà:
– Ngại gì chứ ? Mùa này đường này ít người đi. Tôi thuộc đường này lắm mà, cô cứ yên tâm.
– Nhà chị Ô Nhiên ở đâu ?
– Xóm đằng kia. Vừa nói, Tống Nhị vừa chỉ về phía trước. Cố gắng đi thêm một quãng nữa thôi.
Cả hai rảo bước. Quả nhiên đến đỉnh đồi, trông xuống có vài căn nhà gỗ, cái lợp tranh cái lợp ngói, khuất trong những tàn cây rậm rạp.
Tống Nhị lại nói:
– Trông thế mà đường vòng vèo còn xa. Chút nữa tới cái miếu, cô hãy ngồi nghỉ tạm để tôi vào xóm gọi bà Ô Nhiên ra.
– Ủa, tại sao phải làm vậy ?
– Chồng bà ấy dữ lắm, không muốn vợ giao thiệp với những người quen ở làng cũ nên bà phải trốn chồng đến gặp cô.
Oa Tử thở dài, lúc cúc theo Tống Nhị. Tới cửa miếu, gã bảo Oa Tử vào, nhưng thấy trong miếu tối và ẩm, nàng chỉ vén áo ngồi ngoài cửa, trông theo bóng gã khuất dần sau những bụi gai và lau cao quá đầu người.
Chẳng bao lâu, bóng chiều sập xuống. Lá khô theo gió bay tản mác khắp nơi, rơi trên tóc, trên áo Oa Tử. Nhặt một chiếc lá mân mê, lá vỡ vụn trong tay, bất giác nàng nghĩ tới tuổi già, đâm lo sợ.
– Đúng rồi ! Nó đấy !
Tiếng quát thình lình khiến Oa Tử giật nẩy người. Nàng đứng phắt dậy, chưa kịp hành động gì đã bị hai bóng đen từ sau miếu nhảy ra bịt chặt lấy miệng và giữ chắc tay chân. Oa Tử ú ớ. Lẫn với tiếng gió ù ù, giọng bà Hồ Điểu vang lên the thé:
– Đúng rồi ! Đúng con tiện tì này đây ! Trói nó lại cho ta !
Oa Tử khiếp sợ, nhắm nghiền mắt lại. Giữa cơn thảng thốt, nàng tưởng vừa rơi xuống âm ti, quái thạch lố nhố hiện thành hình quỷ sứ đến bắt nàng, đứng đầu là một nữ quỷ tàn ác xõa tóc, tròng mắt trắng dã ghé sát vào mặt nàng soi mói. Oa Tử thở hắt ra không biết gì nữa.
– Cô ấy ngất đi rồi !
Tiếng bà Hồ Điểu lạnh tanh:
– Càng tốt. Khiêng nó đến chân đèo, ngã ba Shimonosho đợi ta. Chỗ có cái suối theo đường tắt đi cho chóng.
Hai tên kia đi khỏi, bà Hồ Điểu vòng ra sau miếu. Tống Nhị đã chờ sẵn.
– Bác Tống Nhị hả ?
– Phải. Bà thấy tôi được việc không ?
– Được. Ta cứ sợ nó không đi.
Tống Nhị nhe răng cười hì hì:
– Dễ quá mà ! Kế của bà hay thật ! Cô ấy tin ngay, nhưng nửa đường gặp mấy thằng bạn mắc dịch phá, tưởng hỏng việc rồi chứ !
Gã đem chuyện gặp bọn mã phu trước đó dọa dẫm ra sao kể lại. Bà Hồ Điểu gật đầu, suýt xoa:
– May lắm, may lắm.
Đoạn rút trong bọc ra một số tiền chẳng biết là bao nhiêu dúi cả vào tay Tống Nhị.
– Chớ đem chuyện này nói cho ai biết nghe không ?
– Khỏi ! Bà khỏi cần nhắc !
– Khi nào có việc gì, ta lại nhờ đến bác.
– Dạ được.
Vừa định quay gót về phía cửa miếu, bà Hồ Điểu bỗng nghe đánh “huỵch” một cái. Tiếp theo là những tiếng òng ọc tựa tiếng con vật đang bị chọc tiết. Hoảng sợ, bà la lớn:
– Tống Nhị ! Tống Nhị !
Không nghe Tống Nhị trả lời. Phân vân một lúc rồi rón rén bước thêm vài bước nữa đến gần bụi sim sau miếu, bà Hồ Điểu lại cất tiếng gọi:
– Tống Nhị !
Vẫn không nghe ai đáp. Bỗng nhiên bà giật mình đánh thót. Sừng sững bên bụi gai là một bóng đen, lăm lẳm trong tay thanh kiếm.
– Ai đó ?
– Ta !
– Ta là ai ? Ăn cướp hả ?
– Ta là người vừa giết tên Tống Nhị.
Hoảng hồn, bà Hồ Điểu giật lùi lắp bắp:
– Giết … giết người ! Ăn cướp ! Người theo ta để ăn cướp phải không ?
Bóng đen cười gằn:
– Ai thèm ăn cướp của bà ? Bà có được bao nhiêu tiền mà ăn cướp ?
– Vậy theo ta làm gì ? Ta là Hồ Điểu Anh gia trưởng một tộc lớn ở Miyamoto, ngươi phải hiểu rõ điều ấy.
Tên Hồ Điểu Anh như khơi dậy nỗi căm giận trong lòng bóng đen cầm kiếm. Gã gằn giọng:
– Ừ ! Hồ Điểu Anh ! Đồ gian ác ! Mụ quên ta rồi chăng ? Ta là Giang đây !
– Ủa, thằng Giang !
– Phải rồi, chính ta. Nhưng ta không còn là thằng con nít như trước. Mụ là cái cây già, mỗi ngày một cằn cỗi, còn ta mỗi ngày một lớn mạnh. Mụ không coi thường ta được.
Tiếc thay, bà Hồ Điểu không bao giờ ý thức được điều ấy. Bà vẫn coi Giang như đứa con nít và tức giận, xông đến giơ tay định vả cho nó mấy cái.
Dĩ nhiên Giang tránh khỏi một cách dễ dàng. Nhưng cử chỉ của bà Hồ Điểu làm Giang nổi nóng. Nó đẩy mạnh bà ngã lăn ra đất. Lồm cồm bò dậy, bà rút thanh kiếm ngắn gia bảo, nhắm hướng Giang đâm tới. Trời tối, mắt lại kém, mong gì trúng đích. Chỉ khẽ xoay người một cái nhẹ, Giang đã nắm được cổ tay bà vặn mạnh. Bà rú lên đau đớn, để rớt thanhk, thở hổn hển:
– Láo ! A thằng này láo.
– Cô Oa Tử đâu ?
– Làm sao ta biết.
Thái độ ngoan cố của bà Hồ Điểu khiến Giang càng thêm giận. Nó bẻ quặt tay bà ra sau lưng, dẫn đến bên xác Tống Nhị. Bà Hồ Điểu run bần bật.
– Nếu mụ không nói rõ, ta sẽ giết mụ như thế này. Tại sao mụ cho người theo ám hại cô Oa Tử ? Ta đến trễ nhưng còn kịp nghe rõ mụ thuê thằng súc sinh này lừa cô Oa Tử đến đây. Mụ để cô ta đâu ?
Bà Hồ Điểu lặng thinh, chỉ rên khe khẽ.
Giang vặn mạnh tay thêm chút nữa. Bà hét lên:
– Ối đau ! Buông ra, để ta nói.
– Ở đâu ?
Bà Hồ Điểu hổn hển đáp đứt quãng:
– Chân … chân đèo ….Shimonosho.
Nới lỏng tay, Giang định thả bà lão. Nhưng nghĩ sao nó lại thôi, sợ với bản tính bướng bỉnh như thế, bà sẽ còn theo đuổi mãi không bao giờ để cho sư phụ nó và cô Oa Tử được yên ổn.
Ý tưởng giết bà Hồ Điểu thoáng qua trong trí. Giết thì dễ lắm nhưng không nỡ. Vả chẳng biết thầy nó và cô Oa Tử có cho như thế là phải không. Nó phân vân quá.
Suy đi tính lại, Giang thấy trong lúc này, việc cứu Oa Tử là cấp thiết. Cứ để bà già ở đây đã rồi sau sẽ hay.
Giang trói tay bà Hồ Điểu lại, lấy vải bịt miệng rồi nắm áo đẩy bà đi tìm một chỗ giấu.
Trong miếu thì không được rồi. Chỗ ấy lộ liễu quá, vì sát đường mòn, thường có khách bộ hành lui tới nghỉ chân, dễ bị phát giác. Loanh quanh mãi, vào sâu trong núi thấy có kẽ hở giữa hai tảng đá, bên ngoài chỉ một người chui lọt nhưng bên trong rộng như cái hang, hai ba người ngồi được, Giang dẫn bà Hồ Điểu đem giấu về đấy. Lại lấy đá lớn và cành khô bít lối để mọi người không để ý.
Đoạn xuống đèo, tất tả đi về phía ngã ba Shimonosho.
Con suốt bắt nguồn từ trên núi, lúc đầu còn nhỏ, đến ngã ba Shimonosho, chân đèo Mikazuki, thì chảy tràn ra rộng đến mấy chục trượng. Lòng suối cạn, nhiều cát, dễ đi, khách từ bờ này sang bờ kia xắn quần lội qua, chỗ nước sâu nhất cũng chưa đến đầ u gối. Gia nhân bà Hồ Điểu khiêng Oa Tử tới ven suối, đặt nàng xuống, ngồi nghỉ.
Gió đêm lạnh thốc vào mặt khiến Oa Tử tỉnh từ lâu, nhưng tay chân nàng bị trói, khăn bịt miệng quàng ra sau gáy buộc chặt cứng hai tai làm nàng khó chịu, có muốn kêu cứu cũng chỉ phát ra những tiếng ú ớ. Đêm khuya, bốn bề vắng lặng. Chẳng biết chỗ này là chỗ nào, Oa Tử nằm ngửa nhìn trời. Qua khoảng trống của những tàn cây xao động, vài ngôi sao nhỏ li ti nhấp nháy lúc ẩn lúc hiện. Hai tay khiêng nàng ngồi trên phiến đá, cách chỗ Oa Tử nằm chừng chục thước. Chúng chuyện vãn những gì nàng nghe không rõ phần vì gió thổi ù ù, phần vì khăn buộc quá chặt.
Đột nhiên một đứa chồm dậy:
– Bà già tới ! Ta nghe hình như có tiếng gọi !
Đứa kia lắng tai rồi nói:
– Đâu ! Có gì đâu !
Cả hai im lặng chú ý:
– Ừ ! Chẳng thấy gì. Quái, sao bà già lâu thế nhỉ ! Có lẽ đã sang giờ tí. Bỗng văng vẳng từ xa, lẫn trong gió, nghe quả như có tiếng gọi vọng đến thật:
– Oa Tử … ư? … ư? … Oa Tử ư? … ư? …
– Phải tiếng bà già không ?
– Không phải. Nếu bà già gọi thì phải gọi tên chúng ta chứ !
Nhưng tiếng gọi mỗi lúc một gần, nghe như tiếng hú. Trong đêm tịch mịch, giọng kéo dài tựa giọng hú hồn người đã khuất. Một nỗi sợ bâng quơ luồn vào xương tủy, chạy dài trên sống lưng khiến hai đứa rùng mình.
– Hay bà già làm sao rồi ?
Chúng đưa mắt nhìn nhau, đoạn đến bên Oa Tử khiêng nàng sang bên kia suối.
– Đợi bà già mãi không thấy đến. Hay ta cứ khiêng nó về làng ? Ở đây rờn rợn thế nào ấy !
Thình lình từ trong bụi, một bóng đen nhảy xổ ra, kiếm tuốt trần chỉ mặt hai đứa.
– Muốn sống để cô Oa Tử đấy !
– Ngươi là ai ?
– Hoa Kính Lương Giang ! Bà Hồ Điểu bảo các ngươi giao cô Oa Tử lại cho ta !
– Nói láo !
– Có gì làm chứng !
– Không cần chứng cớ gì hết. Có giao hay không thì bảo ?
– Không. Bà Hồ Điểu đâu ?
– Ta bắt rồi !
– Á ! Thằng này gớm thật ! Ngươi bắt bà già hả ? Đem đi đâu ?
Giang cười đắc thắng:
– Cứ giao cô Oa Tử cho ta, ta chỉ chỗ cho mà tìm.
Nhưng tên kia không đáp, lập tức cầm gậy tre nhảy tới. Giang phóng kiếm lên chênh chếch. Tên kia nghiêng người tránh được rồi quay gậy vù vù tiến sát đến bên Giang.
Gậy, kiếm quấn vào nhau. Gia nhân bà Hồ Điểu ý chừng cũng biết võ nghệ nên sử dụng cây gậy khá thành thạo. Y tả xung hữu đột, những đường gậy tung ra vững vàng, uy mãnh nhưng xem ra không mấy chính xác và so với những chiêu kiếm của Giang, kém phần nhanh nhẹn. Tên đồng lõa đứng ngoài reo hò, cổ võ, chẳng chú ý gì đến Oa Tử, bị trói như bó giò nằm một chỗ.
Thấy Giang đến, Oa Tử mừng vô kể. Giang không còn là thằng bé như ngày xưa nữa. Ban đêm, không nhìn rõ mặt, nhưng giờ đây nó quả là một thanh niên hào hùng, có đảm lược khiến nàng phấn chấn hẳn lên. Tuy nhiên, hình như Giang không được tự tin lắm, có lẽ vì thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Oa Tử thầm nghĩ nếu không nhân cơ hội này mà tự cứu lấy mình để tiếp tay với Giang thì không biết rốt cuộc ra sao. Nếu thất bại, không những nó phải bỏ mạng nơi đây mà chính nàng cũng nguy khốn.
Trong bóng tối, Oa Tử trườn mình đến gần tảng đá. Tìm một cạnh sắc, nàng kề dây trói vào, cà đi cà lại nhiều lần, lòng khấn thầm Trời Phật phù hộ cho Giang cầm cự thêm chút nữa.
May thay, dây trói bện bằng cỏ tranh, chẳng mấy lúc đã đứt tung. Cởi trói được tay chân xong, giật khăn bịt miệng ra, Oa Tử vùng lên hét lớn:
– Cô đây, Giang ! Cố lên ! Đừng để thất bại !
Tên đứng ngoài sực nhận ra đã sơ xuất bèn chạy vội tới. Oa Tử nhanh chân, trốn ngay vào sau đám loạn thạch, nhặt cuội, đá ném ra như mưa bấc.
Thấy Oa Tử tự cởi được trói, Giang phấn khởi tinh thần. Nó đem hết sức bình sinh ra chống đỡ. Lời khích lệ của Oa Tử đã biến Giang thành con cọp dữ. Nó vung kiếm phản công dữ dội, nhiều khi không cần biết đến chiêu thức gì nữa. Rõ ràng đây là một cuộc tranh sống một còn, một mất.
Giang chỉ được huấn luyện sơ sài về kiếm pháp, nhưng nhờ còn trẻ tuổi, nó nhanh hơn địch thủ nhiều. Gã kia xem chừng đã thấm mệt, những đường gậy đánh ra đôi lúc lúng túng. Nhưng cả hai, bên nào cũng nóng lòng thủ thắng nên không bên nào bình tĩnh nữa.
Phía ven suối, Oa Tử trốn sau tảng đá vẫn ném những viên cuội lớn ra ngăn cho kẻ đuổi theo mình không dám đến gần. Đột nhiên, “bộp” một tiếng, một viên trúng ngay vào đùi địch thủ của Giang. Y giật mình, quay lại. Trong nháy mắt phân tâm ấy, y không để ý đến Giang như con báo, xông đến. Hai tay giữ chắc chuôi kiếm, Giang đâm một nhát trúng ngực kẻ địch, lưỡi kiếm xuyên suốt từ đằng trước ra đằng sau, đốc kiếm sát vào tận áo.
Rút kiếm ra, máu phun xối xả, Giang phải né sang bên. Xác địch đổ xuống, mồm còn há hốc và mắt trợn ngược trong cơn ngạc nhiên tột độ. Đột biến khiến cục diện thay đổi chớp nhoáng. Thấy đồng bọn gục ngã, tên kia hoảng hốt co giò chạy, Giang phóng cước đuổi theo, vung gươm toan kết liễu đời tên cường bạo.
– Giang ! Giang ! Tha cho nó.
Giọng Oa Tử gọi lạc đi, khẩn thiết làm Giang khựng lại, vừa mừng vừa sợ. Oa Tử chạy đến ôm Giang:
– Tha cho nó em ạ ! Nó thua rồi, giết làm gì !
– Nó đi báo người khác đến bắt mình thì sao ?
– Thì mình bỏ đi, đừng nên giết nó, tội nghiệp !
Rồi nắm tay Giang, Oa Tử giục nó đi ngay. Thế là cả hai theo nhau rảo bước trở ngược lại đường cũ.
Qua ngôi miếu, nàng chỉ cho Giang biết chỗ ấy hồi chiều nàng bị gia nhân bà Hồ Điểu bắt cóc. Giang gật đầu. Nó chẳng đả động gì đến chuyện đã ám sát Tống Nhị và giam bà Hồ Điểu vào hốc đá.
Gà gáy sang canh, có lẽ quá nửa đêm rồi, sương xuống lạnh. Oa Tử có vẻ mệt, Giang phải dìu nàng đi chậm bước. Cánh tay Oa Tử vịn vào Giang mỗi lúc một nặng thêm. Thấy có túp lều bỏ hoang, nó dìu Oa Tử lại đó, nhặt những cành gãy và lá khô, nhóm lên một ngọn lửa nhỏ.
Oa Tử không còn hành trang gì, Giang mở đẫy lấy mảnh chiếu trải ra, bảo Oa Tử đi nghỉ và cởi áo ngoài đắp cho nàng.
Ngồi dựa lưng vào góc lều, Giang đăm đăm nhìn ngọn lửa, nghĩ ngợi mông lung.
Lát sau thiếp đi trong những tiếng côn trùng rỉ ra xung quanh và mùi thơm hơi khét của những lá khô chưa cháy hết.
Chương 80: Tâm bồ tát
Đêm sắp tàn. Hơi lạnh thấm vào người khiến Oa Tử tỉnh giấc. Lửa tắt từ lâu, chỉ còn chút ánh sáng yếu ớt của những mẩu than đang cháy dở chiếu lờ mờ một khoảng hẹp giữa căn lều nhỏ. Oa Tử trở dậy, cời than gây lửa mới. Giang cũng đã tỉnh, thổi lửa cháy to thêm rồi ngồi bó gối, đem những chuyện xảy ra sau khi dời thác Phu Phụ, gặp Đại Cổ và trở thành con nuôi của ông ra sao, thuật lại hết cho nàng rõ. Oa Tử hỏi:
– Thế em có nghe tin tức gì của sư phụ không ?
– Không. Sau này gặp thầy Đại Quán ở đồng cỏ Musashino, em mới biết sư phụ bị bắt giam vì tình nghi trộm đồ bảo vật của đồn Mitsumine.
– Trộm bảo vật ?
– Vâng. Nhưng người trộm bảo vật không phải là sư phụ mà chính là em và Đại Cổ.
– Ồ !
Giang hạ thấp giọng:
– Đại Cổ chôn giấu bảo vật và vàng bạc lấy được ở một chỗ để làm việc ghê gớm lắm. Thầy Đại Quán bảo ông ta phản loạn. Bây giờ ông ta bị bắt rồi, sớm muộn gì chắc cũng phải đền tội.
– Còn thầy em ?
– Em không rõ.
– Sao cô nghe nói ông được vời vào Tôn phủ trao cho chức vụ gì kia mà.
– Em không rõ. Từ ngày ấy, em chưa bao giờ gặp lại sư phụ.
Rồi chuyện nọ lan man sang chuyện kia, Oa Tử lại biết Thạch Đạt Lang thu thêm một đồ đệ nữa tên Hạo Nhiên, và cũng nhờ Đại Quán mà Giang gặp được thân phụ.
Ông tên Hoa Kính Áo Đại Môn, trước là đội trưởng phục thị tại lâu đài Himeiji. Nhắc đến tên Áo Đại Môn, Oa Tử ngạc nhiên hết sức. Hồi tưởng lại buổi đối chất giữa đội trưởng Áo Đại Môn và thiền sư Đại Quán tại chùa Tiểu Sơn, nàng không khỏi thở dài.
Con tạo đa đoan thật ! Nếu không do cơ duyên tiền định thì sao mọi việc kết thúc êm đẹp như thế:
Áo Đại Môn vào tu ở thiền viện còn Giang trưởng thành như ngày nay.
Rồi như sực nhớ ra, nàng hỏi đến bà Hồ Điểu:
– Em giấu bà Hồ Điểu đi phải không ?
– Dạ phải.
– Nghĩ đến thật kinh hãi. Lúc ấy cô sợ quá ngất đi, sau chẳng nhớ chuyện gì xảy ra nữa. Sao em biết mà đến cứu ?
– Dạ, tình cờ. Thầy Đại Quán bảo em đến Vân Lĩnh tự tìm thân phụ. Nấn ná ở đó ít lâu, thấy sự ruồng xét những người theo Đại Cổ có phần êm và nếp sống thiền viện không hợp nên em bỏ đi. Em muốn tìm sư phụ, sống cuộc đời ngang tàng không câu thúc. Nhân qua địa phận thôn Makazuki, thế nào lại gặp bà Hồ Điểu cùng đi với hai gia nhân. Bà không nhận ra em, em đi sau nghe lỏm chuyện họ trao đổi với nhau, biết bà đang lập kế bắt người. Khả nghi họ định bắt cô vì đã lâu không nhận được tin tức gì của cô cả, em theo dõi. Quả nhiên đúng.
– Rồi em giấu bà Hồ Điểu ở đâu ?
– Trong hốc đá gần ngôi miếu cô bị bắt hôm qua.
Nhìn ngọn lửa, Oa Tử thấy lòng mềm hẳn lại. Bà Hồ Điểu tuổi đã cao, lại mắc chứng phong thấp, chắc bà vừa lạnh vừa đói. Dù bà đối xử với nàng ra sao, nàng cũng không thể nhẫn tâm để bà trơ trọi trong hốc đá ẩm ướt như thế được. Lòng thương xót kẻ thế cô, yếu đuối khiến nàng quên hết thù hận.
– Sao hôm qua lúc đi ngang miếu, em không thả bà ấy ra để bà về làng ?
– Không được. Bà sẽ làm phiền cô mãi.
Oa Tử lắc đầu:
– Tội nghiệp ! Đêm lạnh thế này … Cô không đành lòng. Em nhẫn tâm quá !
Bên ngoài, vừng đông vừa rạng. Oa Tử sửa lại mái tóc và y phục rồi hỏi Giang:
– Quanh đây có dòng suối nào không em ? Cô muốn kiếm chút nước uống.
– Có con suối nhỏ nhưng khá xa. Cô cứ ngồi đây, em đi lấy nước, nếu tiện sẽ tạt vào xóm mua chút gì ăn đỡ dạ.
Oa Tử gật đầu. Tuy vậy nàng không nghe lời Giang. Nàng đã có chủ ý. Chờ Giang đi khuất hẳn, Oa Tử dập tắt lửa. Thấy manh chiếu Giang để lại, Oa Tử cuốn mang theo phòng khi cần đến, hối hả bước ra khỏi lều.
Sáng đã lâu mà trời còn u ám. Phương đông mây xám giăng đầy, cảnh vật im lìm, ảm đạm như được phủ lên một màu mực loãng. “Có lẽ trời sắp mưa lớn“, Oa Tử nghĩ thầm, và hơn lúc nào hết, thấy việc đi cứu bà Hồ Điểu thật là cấp thiết.
Đến gần ngôi cổ miếu, quả nhiên trời nổi gió to. Bốn bề tối sầm lại tưởng sắp có bão. Cỏ cây nghiêgn ngả. Một ánh chớp lóe lên sáng rực, tiếp theo là tiếng sét nổ chát chúa. Oa Tử giật mình sợ hãi, chạy nhanh vào miếu.
Trong miếu tối om, mùi ẩm mốc xông nồng nặc. Ngại không dám vào sâu, nàng ngồi gần cửa, co ro. Sấm sét ầm ầm xung quanh, lâu lâu lại có lằn chớp nhoáng lên, in trên tường miếu những bóng đen hình thù cổ quái.
Rồi mưa đổ xuống như trút, ào ào, xối xả trên mái ngói. Ngoài cửa miếu, trên những bậc đá phủ rêu đen, nước mưa bắt đầu chảy nhanh, làm thành dòng thác ba tầng cuốn phăng phăng lá khô và cành gẫy.
Oa Tử nửa sợ nửa mừng vì vừa kịp tìm được chỗ trú. Nhưng miếu trống trải, gió thổi ào ào thốc qua chỗ nàng ngồi, hắt vào mặt nàng những giọt nước lạnh buốt. Cực chẳng đã, nàng phải lùi vào sâu phía trong, nhưng cũng chẳng hơn gì. Trong miếu chỗ nào cũng dột. Oa Tử buộc manh chiếu lên đầu, dùng tạm như một cái nón. Ngồi bó gối trong góc, giữa cơn thịnh nộ của trời đất, nghe những giọt mưa rơi lộp bộp trên chiếc nón bất đắc dĩ ấy, nàng bỗng cảm thấy hạnh phúc, một hạnh phúc nhỏ bé và đơn sơ nhưng cũng làm nàng thỏa mãn.
Lâu lắm mưa mới ngớt hột và trời hửng sáng tuy gió còn mạnh. Qua tiếng gió ù ù, nghe như có lời cầu khẩn tuyệt vọng của bà Hồ Điểu đâu đây. Oa Tử đứng dậy rồi không ngần ngại, sửa lại nón, vén áo bước vội ra cửa.
Bên ngoài, cành gãy ngổn ngang. Nước mưa róc rách len qua khe đá chảy xuống chỗ trũng đọng thành vũng đục ngầu. Ghềnh đá rêu phủ trơn trượt. Oa Tử đi mỗi quãng mỗi dừng, hốc đá nào cũng ghé mắt nhòm vào, hy vọng tìm được chỗ giấu bà Hồ Điểu.
Vừa đi nàng vừa gọi:
– Bà Hồ Điểu ! Bà ở đâu, con đến cứu bà đây !
Đôi lúc, tiếng nàng lạc đi trong gió và trong tiếng sấm ầm ì đằng xa. Nhưng đi đã lâu, gọi khản cổ mà không nghe đáp. Dường như tạo hóa vô tình, dửng dưng trước những cố gắng phi thường của người thiếu nữ nhiều lòng trắc ẩn.
Lạnh, đói, mệt khiến Oa Tử bước không vững. Đến một khe núi, nàng ngồi dựa lưng vào một tảng đá khuất gió để nghỉ, lấy tay vắt những chỗ quần áo sũng nước cho đỡ ướt. Nghĩ đến một tách trà nóng có đường, thật nhiều đường, Oa Tử thèm chảy nước dãi.
Bỗng một khe hở trong núi làm Oa Tử chú ý. Khe hở này không tự nhiên, dường như được ai bít lại bởi một tảng đá lớn, xung quanh lại lấy nhiều cành lá xếp che khuất đi cho người ngoài không để ý.
Tò mò, nàng đến gần gạt cành lá ra, nhìn vào. Bên trong tối như hũ nút. Định thần một lát, Oa Tử thấy lờ mờ có bóng người nằm và lắng nghe, hình như lại có tiếng rên nho nhỏ nữa. Đúng rồi ! Chắc bà Hồ Điểu bị nhốt trong này chứ không ai khác.
Mừng vô hạn, nàng hét lớn:
– Bà Hồ Điểu ! Bà Hồ Điểu ! Con đây, con đến cứu bà đây !
Tiếng rên ngưng bặt. Không hiểu sao, Oa Tử lo sợ, gọi rối rít và cố lách mình qua khe đá. Nhưng khe đá quá hẹp không thể nào làm gì được. Nàng đẩy mạnh tảng đá, một lần, hai lần. Vô hiệu. Nàng vận toàn lực, tảng đá vẫn trơ trơ không nhúc nhích.
Tóc Oa Tử xổ tung. Vừa giận vừa tức, nàng thở hổn hển, trong lòng thầm trách Giang tàn ác. Mưa lại bắt đầu rơi lộp bộp. Mặc. Mặc cho nước lạnh đổ xuống ướt cả hai vai, chui cả vào cổ vào gáy, lòng bồn chồn, da nàng nóng ran như lửa đốt. Oa Tử dùng hết sức đẩy tảng đá ra một cách tuyệt vọng nhưng chẳng ích gì. Nàng ngồi phệt xuống bùn, nước mắt bi phẫn chảy dài trên má. Nàng tự hỏi không biết Giang đã làm cách nào vần tảng đá lớn này đến bít cửa hang được.
Đột nhiên Oa Tử sực nghĩ ra. Nàng lập tức đứng dậy, lựa cành cây dài và lớn nhất thò vào khe đá ra sức bẩy. Tảng đá hơi nhúc nhích, rồi bỗng “ùm” một tiếng, nó lăn kềnh ra, văng bùn đất lên tung toé.
Vất cành cây sang bên, Oa Tử chạy vội vào trong hốc đá, quên cả lau mặt.
Trong góc, bà Hồ Điểu nằm ngay đơ, tay vẫn bị trói và miệng bịt vải. Nước mưa long tong rỏ từ những khe đá xuống quanh chỗ bà nằm ướt sũng. Oa Tử tháo vải bịt miệng và cởi trói cho bà. Tay chân bà lạnh tanh tựa xác cá, nhưng áp mặt vào gần miệng còn thấy hơi thở nhẹ. Nàng lay mạnh và gọi tên bà liên hồi:
– Bà Hồ Điểu ! Bà Hồ Điểu !
Không nghe trả lời mà cũng chẳng thấy động tĩnh, Oa Tử giật tóc mai, vuốt ngực, hà hơi vào mũi để truyền hơi ấm. Vô hiệu. Bà Hồ Điểu vẫn nằm im thiêm thiếp.
Ngoài kia trời bắt đầu hửng nắng. Ánh sáng chiếu vào, hốc đá trông rộng hơn. Oa Tử thấy đối diện chỗ nàng ngồi một hình người vẽ trên vách đá. Nét vẽ tuy thô sơ, rêu bám từng mảng loang lổ nhưng ai cũng nhận được đấy là chân dung đức Bồ tát Quán Thế Âm. Bên dưới viết nhiều hàng chữ đã hoen ố, nhòe nhoẹt vì thời tiết và năm tháng.
Oa Tử tò mò đọc. Hàng chữ thuật chuyện người đi tìm con mất tích trong cuộc chiến năm Tý, thời Ashikaga, qua đây ngồi nghỉ trong hốc đá này đã cầu xin đức Bồ tát phù hộ. Ngài hiện lên chỉ lối cho, nhờ đó mà tìm được. Lúc trở về, vẽ chân dung này tạ Ơn và khuyên kẻ đi sau nếu gặp khó khăn gì, qua đây, cứ cầu ngài sẽ được ứng nghiệm.
Oa Tử nhẩm tính. “Năm Tý, thời Ashikaga, lâu lắm rồi, dễ có đến bảy tám chục năm”. Bấy giờ nàng chưa ra đời nhưng tưởng tượng đến những đau thương mà chúng sinh phải chịu trong cuộc chiến, nàng bồi hồi xúc động. Bản tính đa cảm và nặng lòng trắc ẩn, Oa Tử phủ phục xuống dưới chân đức Bồ tát, lâm râm khấn nguyện, xin ngài phù hộ cho bà Hồ Điểu tai qua nạn khỏi và độ cho bà qua cơn u mê của lòng thù hận.
– Tâm vô sở trụ, hành ư bố thí, bồ tát ư pháp. Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (Phép bố thí của bồ tát không vướng mắc, không phân biệt mình và người. Chẳng mong trả ơn và chẳng cầu phúc báo – kinh Kim Cương).
Tụng xong đoạn kinh và niệm chú, Oa Tử thành tâm lạy ba lạy, kéo áo chấm nước mắt, đoạn lết đến bên bà Hồ Điểu gọi nhiều lần nữa. Bà vẫn nằm trơ trơ, mắt nhắm nghiền, hơi thở thoi thóp.
Bên ngoài, nắng chan hòa đổ lên cây cỏ, phản chiếu long lang những giọt nước mưa vừa tạnh. Oa Tử bước khỏi hốc đá, rẽ cỏ tìm lối ra, hy vọng gặp người qua lại giúp một tay cứu bà Hồ Điểu. Nhưng cảnh vật vắng hoe, gió lau xào xạc, trước nỗi xót xa của Oa Tử, thiên nhiên chẳng mảy may xúc động.
Mệt lả, nàng muốn khuỵu xuống. Trong ánh nắng chói chang, mắt hoa tai ù, nàng không trông mà cũng chẳng nghe tiếng gọi lo âu của Giang vừa mới tới:
– Cô Oa Tử ! Cô Oa Tử ! Cô sao thế ?
Đón Giang bằng đôi mắt vô hồn, Oa Tử chỉ tay về phía hốc đá. Giang dìu nàng vào. Nàng thều thào:[Audio] Yêu Long Cổ Đế (dịch)
– Lạnh quá ! Em nhóm giùm cô ngọn lửa.
Giang nhặt cành khô. Một ngọn lửa nhỏ được nhóm lên, khói nghi ngút, nhưng cũng xua đuổi được đôi phần không khí lạnh lẽo trong hốc đá.
Nhìn bà Hồ Điểu nằm dài trong hốc rồi lại nhìn Oa Tử, Giang đã hiểu. Nó lấy cái bát sành đặt lên đống củi, đun nước pha chút trà đưa cho nàng rồi thấm nước trà lên miệng bà Hồ Điểu. Có lẽ nhờ hơi ấm của ngọn lửa và lòng kiên nhẫn của nó mà bà già dần tỉnh. Bà rên khe khẽ, đôi lúc đứt quãng, hơi thở khò khè.
Cơn nguy cấp đã qua, Oa Tử bấy giờ mới thấm mệt. Đôi mắt nàng díu lại, dựa đầu vào vách đá, nàng lả người đi, bên tai văng vẳng nghe xa xôi tiếng Giang kể căn lều đã bị gió thổi sập và giữa tiếng củi nổ lách tách cùng những đợt khói bốc cao, nàng tưởng như nhìn thấy nét mặt từ bi của đức Bồ tát Quán Thế Âm hiện rõ.
– Nam mô a lị gia bà lô kiết đế, bồ đề tát đỏa bà da …
Tiếng niệm chú của bà Hồ Điểu kéo Oa Tử ra khỏi giấc mộng. Nhìn quanh, không thấy Giang đâu, Oa Tử bò đến bà, lay dậy:
– Bà Hồ Điểu ! Bà Hồ Điểu ! Bà tỉnh chưa ?
Bà Hồ Điểu lép nhép miệng rồi lại nằm yên. Oa Tử ra cửa hang. Giang đang lúi húi nấu bếp.
– Cô xem hình như bà Hồ Điểu đã tỉnh và nói được rồi …
– Vâng. Lúc cô ngủ, thỉnh thoảng bà lại niệm chú. Cứ để mặc bà ấy.
– Em nấu gì thế ?
– Nấu cháo. Bà và cô chắc cũng cần ăn chút gì cho đỡ đói chứ.
Gia nhân bà Hồ Điểu đến nơi hốc đá thì trời đã xế chiều. Tuy đã tỉnh và cử động được tay chân nhưng bà vẫn chưa nhận ra ai với ai cả. Họ chặt cây và lấy áo làm tạm một cái cáng khiêng và về làng. Oa Tử cũng theo về. Nàng bảo Giang:
– Cô muốn trở lại chùa Tiểu Sơn đợi tin tức của thầy em.
Giang nhìn nàng nghi ngại, nhưng cũng gật.