[Audio] Bích Huyết Kiếm
Tập 4: Nằm Ngủ Trong Trận Ngũ Hành (c9-c11)
❮ sautiếp ❯Chương 9: Nằm Ngủ Trong Trận Ngũ Hành
Mọi người đều chăm chú nhìn vào đùi Thừa Chí, Hoàng Chân đổi tay trái cầm bàn tính chỉ chờ đợi Lã Nhị điểm ngã sư đệ là lập tức ra tay trợ cứu và tấn công kẻ địch liền. Thấy chân Thừa Chí sắp đá tới, Lã Nhị tiên sinh chìa điếu cày ra, nhanh như chớp nhoáng, điểm thẳng vào đùi kẻ địch. Ngờ đâu, cái đá đó là cái đá hờ, thấy vai Lã Nhị vừa cử động, Thừa Chí đã rút ngay chân lại. Lã Nhị tiên sinh điểm hụt, liền đưa luôn cái túi đựng thuốc đeo trên ống điếu, định điểm vào chỗ huyệt khác của kẻ địch. Chân phải của Thừa Chí quay nửa vòng nhỏ, vừa vặn tránh khỏi cái túi thuốc và tiện thể khẽ khều một cái, thoi vàng bị hất tung ra ngoài. Chân chàng vẫn chưa ngừng, tiếp tục quét ngang cái nữa. Lã Nhị tiên sinh cũng rất lợi hại, hất luôn túi thuốc đánh mạnh vào sau lưng chàng. Vội cúi mình cong lưng, Thừa Chí tựa như cái tên bắn chếch sang bên phải, tay trái vỗ thoi vàng mà chàng vừa hất tung lên, cho bay tréo sang bên phải. Đồng thời chàng dùng chân trái đá hai thỏi vàng dưới chân Lã Nhị, cả hai thoi vàng đều tung lên cao cùng một lúc, chỉ thấy chàng giơ tay phải ba lần, cả ba thoi vàng cùng rơi cả vào trong tay áo. Rồi chàng ung dung đứng yên, hỏi bâng quơ:
– Thế là tất cả các thoi vàng ở đây thuộc về tôi hết đấy nhé? Chẳng hay lời nói của Lã lão tiền bối có đủ thẩm quyền hay không?
Mấy cử động vừa rồi của Thừa Chí nhanh nhẹn quá, mọi người chỉ thấy hoa mắt rối rít. Chờ tới lúc hai người chia rẽ sang hai bên thì Thừa Chí đã hứng trọn ba thoi vàng vào trong tay áo rồi. Hết thảy mọi người, cả phái Thạch Lương lẫn bang Long Du đều phải khen ngợi chàng. Mặt đỏ bừng như son, không nói năng nửa lời, Lã Nhị giơ bàn tay trái bổ luôn vào đầu Thừa Chí. Đồng thời chân phải y quay nửa vòng dùng gót chân đá hậu và đạp luôn vào cổ chân của đối phương.
Đây là miếng quái chiêu trong thế võ Hạc Hình quyền. Hai bàn tay tượng trưng đôi cánh hạc dùng để bổ và đập đối phương. Còn hai chân một thẳng một co lại, bỗng dài bỗng ngắn, tựa như bạch hạch lúc tranh đấu đá và đạp vậy. Chưa từng thấy qua miếng quái quyền đó, Thừa Chí không dám tới gần, chỉ lượn quanh bên ngoài Lã Nhị thôi. Chàng càng chạy càng nhanh. Thấy không dám tới gần, Lã Nhị tưởng chàng chỉ nhanh nhẹn thôi, chớ võ nghệ rất kém.
Y liền tỏ vẻ khinh địch, cười ha hả, ngậm điếu cày hút một hơi thuốc, rồi thở khói trắng ra. Chạy quanh mấy vòng, Thừa Chí đã hơi hiểu biết đường lối chưởng pháp của y ra sao rồi. Thấy y hút thuốc thở khói tỏ vẻ kiêu ngạo, rất hợp ý mình. Thừa Chí bỗng nhảy vọt lên giơ quyền nhằm sống mũi Lã Nhị đấm luôn. Giựt mình kinh hãi, Lã Nhị không ngờ chàng lại táo gan đến thế! Y sấn lại, giơ điếu cày ra đỡ, Thừa Chí đổi quyền ra chưởng, bắt lấy điếu cày, rồi dùng hai tay giựt mạnh, Lã Nhị cũng dùng sức kéo trở lại. Đoán trước y sẽ phải hành động như vậy, Thừa Chí nhân lúc y đang mải miết kéo, để hở mạng mỡ bên phải, liền đâm ngón tay vào huyệt Thiên Phủ của y, Lã Nhị cảm thấy nửa người bên phải như tê liệt hẳn, đành phải buông rơi chiếc điếu cày.
Thừa Chí liếc mắt thấy Thanh Thanh đang hân hoan nhìn mình tỏ vẻ mừng rỡ, liền nghĩ thầm: “Đã vậy, ta làm cách này cho nàng càng thấy thích thú hơn nữa!”
Nghĩ đoạn, chàng quay điếu cày lại, dí luôn chỗ thuốc đang cháy vào râu Lã Nhị. Vì Lã Nhị vừa hút thêm một hơi nên chỗ tàn thuốc vẫn còn đỏ bỏng. Chàng vừa dí vào là râu kẻ địch đã cháy xèo xèo ngay, khói xanh bốc lên khét lèn lẹt. Hoàng Chân lên tiếng gọi:
– Sư đệ chớ nên đùa giỡn như thế!
Thừa Chí để miệng vào đầu điếu cày, thổi mạnh một cái thế là tàn thuốc, sợi thuốc như sao lửa bay ra, dính vào đầy mặt Lã Nhị. Hoàng Chân vừa tức vừa buồn cười, nhảy lại giải huyệt cho Lã Nhị tiên sinh và tiện tay giật lấy ống điếu nhét trả vào tay Lã Nhị. Đang đứng ngẩn người, Lã Nhị thấy mọi người đều nhịn cười nhìn thẳng vào mặt mình, liền vứt ngay ống điếu xuống đất, quay mình bỏ chạy.
Vinh Thái đuổi theo, kéo tay áo y lại bị y hất mạnh một cái, loạng choạng suýt ngã. Chỉ trong chớp mắt, Lã Nhị đã chạy mất dạng. Các người trong phái Thạch Lương đã được thấy qua tài nghệ của Thừa Chí, nên không đến nổi ngạc nhiên lắm. Riêng có bọn của bang Long Du xưa nay vẫn phục Lã Nhị tiên sinh như vị thiên thần, bây giờ bỗng thấy một thằng nhỏ tuổi như vậy, chỉ dùng có một hai miếng võ đã đánh ông ta bỏ chạy tơi bời. Vì vậy, cả bọn của bang Long Du đều sợ đến toát mồ hôi lạnh. Tất cả mọi người có mặt tái đây đều ngạc nhiên, nhứt là Hoàng Chân lại ngạc nhiên hơn ai hết. Chàng thấy Thừa Chí “Nhứt Chỉ Thiền” món tuyệt kỹ của phái Hoa Sơn để điểm huyệt Lã Nhị thì không lấy gì làm lạ, riêng có thế võ chạy vòng quanh và giơ tay áo đón tiếp các thỏi vàng thì khác hẳn những thế võ mà trước kia chàng đã luyện tập, vậy những thế võ đó chắc không phải của phái Hoa Sơn!
Còn Thôi Hy Mẫn thì quả thật chưa trông thấy rõ Thừa Chí đã làm cách nào mà thắng kẻ địch, chỉ thấy hai người chạy loanh quanh mấy vòng, rồi thấy Lã Nhị bị thua bỏ chạy.
Thanh Thanh và Tiểu Tuệ không nhịn được cười, ôm bụng cười đến nỗi bò lăn ra đất. Dùng ngón tay gạt bàn tính một cái, Hoàng Chân nói:
– Vừa rồi ông già có tuyên bố lấy ra được ba thoi vàng dưới chân ông ta thì các ngài sẽ trả lại số vàng cho chúng tôi. Tôi xin thay mặt anh em chúng tôi cảm ơn quý vị.
Vừa nói, chàng vừa chắp tay vái chào xung quanh đủ một vòng, rồi quay lại bảo Hy Mẫn:
– Con lại nhặt những thỏi vàng đi!
Thôi Hy Mẫn vâng lời, cúi xuống định nhặt các thoi vàng, Vinh Thái trông thấy bao nhiêu thoi vàng đỏ ối sắp lọt vào tay người khác, tức không thể nhịn được liền tiến lên giơ cánh tay trái ra cản. Hy Mẫn bị đẩy lui mấy bước, tức giận quá, hét lên:
– Thế nào? Ông còn muốn thi thố tài nghệ nữa chăng?
Thấy thân pháp của Vinh Thái già dặn, Hoàng Chân biết đồ đệ mình địch không nổi, liền hét lớn:
– Hy Mẫn con lui ra!
Chàng chắp tay, tươi cười nói:
– Cống hỷ phát tài! Bảo hiệu của ông chú là gì? Ông chú xưa nay buôn bán nghề gì?
Chúc quý tiệm sinh ý hưng long khắp bốn bể. Tài nguyên mậu thịnh tới ba sông!
Thì ra Hoàng Chân xuất thân là nhà buôn, tánh rất hoạt kê. Lúc sáp chiến, thể nào chàng cũng nói những câu trong nghề nhà buôn, nhưng rất hoạt kê tức cười.
Vinh Thái nổi giận, trả lời:
– Ai nói đùa với nhà ngươi? Ta đây họ Vinh tên Thái, đảm nhiệm Bang chủ bang Long Du, hiện chưa được lãnh giáo quý tánh đại danh là gì?
Hoàng Chân cười nói:
– Tiểu sinh họ Hoàng, thảo tự đơn danh một chữ Chân. Chân là chân thật, hàng thật, giá cả có một không hai, lấy nghĩa là thế! Những hàng đáng giá một lượng, bản hiệu không dám bán một lượng linh một phân. Bất cứ lão ấu, phụ nữa, bản hiệu đều không lừa dối. Chẳng hay ông chủ định tới chiếu cố loại hàng gì của bản hiệu thế?
Chưa nghe hết lời nói của chàng, Vinh Thái đã nổi giận quát tháo:
– Ai hơi đâu đùa giỡn với mi nếu đánh nhau thì ta đâu có sợ đưa vũ khí cho ta.
Anh em trong bang liền đưa ngay một cây thương lớn tới, Vinh Thái cầm lấy cây thương, rung rung một cái, thành một thương hoa lớn bằng cái bát, và đâm thẳng vào mặt Hoàng Chân liền. Lùi lại một bước, Hoàng Chân bỗng nhảy sang bên trái, ung dung nói rằng:
– Chao ôi! Chúng ta buôn bán cứ việc buôn bán, còn những số vàng này không thể nào không lấy!
Nói xong, chàng cất bàn tính, và bút đồng vào trong lòng, rồi cúi xuống nhặt những thoi vàng.
Biết rõ võ nghệ của Hoàng Chân cao siêu hơn Vinh Thái nhiều, lẽ tất nhiên Vinh Thái phải bị thua, Ôn Minh Nghĩa, Ôn Minh Ngô, hai người đồng thời xông lên, la lớn:
– Muốn lấy số vàng này không phải là dễ đâu!
Thấy hai anh em họ Ôn mạnh mẽ xông tới, Hoàng Chân ngồi xuống né mình về bên phải tay trái bổ xuống luôn. Minh Ngô và Minh Nghĩa vừa tiến lên, đi theo thế trận Ngũ Hành thấy tay của Hoàng Chân đánh tới, đều lùi ngay lại. Ôn Minh Đạt và Ôn Minh Sơn cùng tiến lên, Minh Sơn giơ tay ra cản thế công của Hoàng Chân, còn Ôn Minh Thi ở phía sau nhắm lưng chàng đánh luôn, chàng bỗng sàng sang bên cạnh, anh em họ Ôn, mới nhanh nhẹn bao vây chàng luôn bằng trận Ngũ Hành. lúc này Hoàng Chân chỉ thấy bên địch không phải chỉ có năm người mà hằng hà sa số những tay chân vũ khí nhắm chàng đánh tới, chàng vội nhanh nhẹn dùng bút và bàn tính múa lên kín mít để giữ thế thủ mà thôi, thấy miếng thì giở miếng, thấy đòn thì gạt đòn, chớ không thể nào tấn công như trước được nữa. Thấy Hoàng Chân bị bao vây, chỉ có cố gắng gạt đỡ chớ không sao đánh lại được, Vinh Thái mừng rỡ vô cùng, y tưởng là có cơ hội cho mình được hưởng lợi, liền giở ngay thương pháp của Dương Gia, đâm luôn vào sau lưng Hoàng Chân, Tiểu Tuệ thấy vậy sợ quá, lớn tiếng kêu lên:
– Hoàng sư bá cẩn thận!
Ngờ đâu, Hoàng Chân là đệ tử đầu tiên của phái Hoa Sơn, đã học hết võ công chân truyền của phái Hoa Sơn rồi, nếu anh em họ Ôn không có trận pháp kỳ lạ này, thì dù cho cả năm người cùng xông lên một lúc, cũng không thể địch nổi chàng.
Cây thương của Vinh Thái vừa đâm tới, Hoàng Chân vòng tay về phía sau vói một cái, nắm chặt lấy ngọn cây thương. Thủ pháp này là “tay không cướp khí giới” nhanh nhẹn và hiệu quả vô cùng.
Nhờ có kinh nghiệm luyện tập mấy chục năm, Hoàng Chân còn nhanh nhẹn và lợi hại hơn nhiều. Ông ta nắm được khí giới của đối phương, thừa thế dùng sức kéo mạnh một cái, lôi cả Vinh Thái đến gần, đồng thời giơ tay trái gạt quyền của Minh Sơn, bước chân phải lên nửa bước tránh cái đá của Minh Nghĩa. Cái đá đó trúng ngay Vinh Thái thế là cả người lẫn cây thương đều bay qua đầu sáu người ra ngoài rơi xuống đất. Nhưng sự thật lúc Vinh Thái bị Hoàng Chân lôi lại gần, mạng mỡ ông ta bị vai phải Hoàng Chân va mạnh một cái, đau tận xương tủy, ông ta chỉ kêu được một tiếng, đã lơ lửng bay ra phía ngoài rồi ngã lăn xuống đất, chớ không phải ông ta đã bị Minh Nghĩa đá trúng.
Bọn đàn em bang Long Du vội chạy lại đỡ ông ta dậy, phó Bang chủ Văn Hoa và nhị đệ tử Khấu Giáp Niên, đại đệ tử của Vinh Thái là Văn Hoa và Nhị đệ Tưởng Thông Tổ thấy Vinh Thái thất thủ đều xấu hổ vô cùng. Rồi cả ba đều xông vào đánh bừa đi, nhưng chưa được vài hiệp đã lần lượt bị Hoàng Chân đá tung ra ngoài. Văn Hoa còn bị gãy cánh tay phải mang vết thương rất nặng. Vì thế người của bang Long Du không còn ai dám nhảy vào chiến đấu nữa.
Hoàng Chân một mình đấu với năm anh em họ Ôn. Đánh tới lúc thật kịch liệt, chỉ thấy sáu cái bóng người bay đi lượn lại, hoa cả mắt. Có lúc Hoàng Chân đột nhiên xông ra khỏi vòng vây nhưng năm anh em họ Ôn như bóng với hình lập tức vây chặt lại, Hoàng Chân trong lòng lo ngại vô cùng. Còn năm anh em họ Ôn cũng ngạc nhiên quá, nghĩ thầm: “Không ngời tên già quê mùa cục mịch như vậy mà lối thủ lại kín đáo đến thế!”
Thấy họ càng đánh càng nhanh, năm người như bươm bướm, lượn quanh khóm hoa, Hoàng Chân có lúc thấy mọi người muốn đá mình, vừa nhảy sang bên để tránh, phía sau đã có người đấm một quyền tới rồi. Có khi vừa thấy một người giơ hai tay định ôm mình vật lộn, ông ta định lùi lại để tránh, sau lưng đã có một ngọn cước đá tới. Các miếng võ của anh em họ Ôn hình như ăn khớp với nhau vô cùng. Thấy anh em họ càng đánh càng thêm biến hóa, và nhận rõ mình đang lâm vào tình trạng nguy hiểm, ông ta thét to một tiếng, rút bàng tính và bút đồng ở trong người ra, tự bảo thầm:
“Các người cậy có năm người địch một mình ta, dù ta có sử dụng khí giới cũng vẫn chưa phải là hèn mà!”
Nghĩ đoạn, chàng biến công ra thủ, dùng bàn tính đỡ những miếng đánh xéo cạnh của địch và dùng bút đồng quét ngang điểm chéo, chuyên nhằm các yếu huyệt của mấy anh em bên địch mà điểm loạn xạ.
Nhận thấy thế công đó lợi hại vô cùng, Ôn Minh Đạt liền huýt một tiếng còi. Ôn Nam Dương vứt ngay khí giới cho năm anh em họ Ôn, tranh đấu bằng khí giới còn nguy hiểm dữ dội hơn đánh bằng tay chân nhiều. Ai nấy đều há mồm trố mắt xem đến nổi gan, tim đều rung động kinh hãi.
Thấy tình thế của sư phụ bị nguy cấp đến nơi, Hy Mẫn tự biết bản lãnh kém cỏi, nhưng tình thầy trò rất nặng, không thể làm thinh được. Chàng hét lên một tiếng như hổ gầm, rút đơn đao ra nhảy xổ vào trong trận Ngũ Hành. Nhưng chàng mới tiến được ba bước, bỗng thấy một bóng người thoáng qua mặt, rồi thấy bàn tay người ấy để vào vai mình, Hy Mẫn giựt mình giơ đao chém ngang một nhát, nhưng người nọ khỏe quá, đè chàng chịu hẳn xuống. Chàng phải vội thu đao lại, sợ chém người không được lại chém phải bản thân mình.
Người nọ khẽ rỉ tai chàng:
– Thôi đại ca! Đừng có nhảy vào trong trận đó! Bằng không sẽ chết oan chết uổng ngay tức khắc!
Nhìn kỹ mặt người nọ, Hy Mẫn mới biết là Thừa Chí. Vừa rồi, thấy Thừa Chí điểm ngã Lã Nhị, chàng không phục tài cho lắm. Vì cho rằng Thừa Chí nhờ có sự maymắn, nên người mới thắng chớ không phải bởi thật tài! Nhưng bây giờ bị Thừa Chí khẽ để tay lai vai, nửa thân chàng đã mềm nhũn, không thể dùng sức được.
– Sư phụ của anh không thua đâu đừng lo ngại.
Nói xong, Thừa Chí chăm chú nhìn sáu người chiến đấu. Có lúc chàng ngửng đầu nhìn lên trần nhà, hình như đang nghĩ ngợi một vấn đề gì khó khăn thì phải. Tiểu Tuệ bước tới cạnh chàng khẽ nói:
– Thừa Chí đại ca, mau vào giúp Hoàng sư bá đi! Họ năm người đánh một không biết xấu hổ là gì?
Thừa Chí không trả lời, chỉ xua tay bảo nàng đứng ra xa, Tiểu Tuệ bị hất hủi, ngượng quá, bĩu môi đi ra chỗ khác. Thấy vậy Thanh Thanh mừng thầm trong bụng.
Sáu người càng đánh càng nhanh, tuy đánh rất kịch liệt, nhưng không ai nghe thấy tiếng khí giới va chạm, chỉ có tiếng kêu “vù vù” của các khí giới múa máy và tà áo bay lượn thôi.
Thừa Chí bỗng nhảy tới trước mặt Tiểu Tuệ nói:
– Em Tiểu Tuệ, đừng vội trách tôi vô lễ. Vừa rồi, tôi đang mãi nghĩ một vấn đề nan giải, mê mẩn cả tâm hồn. Nhưng bây giờ tôi đã nghĩ thông điều đó rồi.
Tiểu Tuệ vội nói:
– Trong trường hợp này, hà tất anh phải xin lỗi anh mau nghĩ cách giúp sư bá đi.
Thấy Thừa Chí vẫn đứng im Tiểu Tuệ lại thúc giục:
– Anh này hay thật! Không biết phân biệt việc khinh việc trọng! Có điều gì khó khăn nghĩ chưa ra, để lát nữa đánh xong, rồi hãy nghĩ với ngợi có hơn không?
Thừa Chí cười nói:
– Vấn đề tôi đang suy nghĩ đó là cách phá trận Ngũ Hành, em không thấy hay sao, họ có bao giờ va chạm khí giới đâu?
– Vâng, em cũng lấy làm lạ!
Hy Mẫn đã có chút kính phục tài Thừa Chí liền hỏi:
– Thế là nghĩa gì chứ Tiểu sư thúc!
Thừa Chí trả lời:
– Điểm cốt yếu của trận thế này là “nhanh” để đôi bên khí giới va chạm nhau, tình thế tất phải chậm chạp đi. Bởi vậy cách phá trận này phải dùng “nhanh đánh lại nhanh.” Nghĩa là phải đánh nhanh hơn bọn họ, thì phá được trận Ngũ Hành này ngay.
Hy Mẫn lắc đầu nói:
– Xưa nay họ đã luyện tập thuần thục lắm rồi, mình làm sao đánh nhanh hơn họ được?
Thừa Chí mỉm cười nói:
– Tôi đánh thử xem!
Chàng quay đầu bảo Tiểu Tuệ:
– Em Tiểu Tuệ, cho tôi mượn chiếc trâm cài tóc.
Tiểu Tuệ đưa ngay chiếc trâm cài đầu cho Thừa Chí. Thấy chiếc ngọc trâm đó trong trẻo đẹp đẽ vô cùng, Thừa Chí nói:
– Tôi sẽ dùng chiếc trâm bằng ngọc thạch này để đối địch với anh em họ Ôn.
Hy Mẫn và Tiểu Tuệ tưởng chàng nói bông đùa, vì chiếc trâm ấy chỉ khẽ bẻ là gãy đôi rồi thì dùng làm võ khí sao được?
Hai người đang nghi ngờ, bỗng nghe thấy Thừa Chí lớn tiếng bảo Hoàng Chân:
– Đại sư huynh! Mậu Thổ sinh ất mộc, đạp Càn Cung tẩu Khảm vị.
Hoàng Chân chưa hiểu gì cả, ngẩn người ra. Ông già Ngũ lão đều sợ hãi và ngạc nhiên thầm. Họ tự hỏi: “Tại sao chỉ trong chốc lát, thằng nhỏ này đã biết rõ bí mật Ngũ Hành trận của chúng ta rồi?”
Thừa Chí lại kêu lên:
– Đinh hòa khắc Canh kim tẩu, Trấn Cung xuất Ly vị!
Từ nãy tới giờ Hoàng Chân bất luận dùng cương công hay là lừa đảo một cách khôn khéo vẫn không sao thoát khỏi được sự bao vây của năm anh em họ Ôn. Ông ta đã nghĩ tới sự anh em họ Ôn căn cứ vào Ngũ hành sanh khách biến hóa và dùng phương vị Bát Quái để bao vây mình. Nhưng mấy lần tấn công đột nhiên ông ta đều bị anh em Ngũ tổ cản trở lại một cách khéo léo. Nay bỗng nghe thấy Thừa Chí mách bảo, Hoàng Chân nghĩ thầm: “Ta cứ theo ý kiến của chú ấy đánh thử xem may ra phá nổi cũng nên!”
Theo lời dặn của Thừa Chí, ông ta tiến thẳng Trấn Cung, thoát ra Ly vị, quả nhiên thấy có chỗ trống liền nhắm chỗ trống đó xuyên ra.
Bỗng nghe thấy Thừa Chí lại lớn tiếng gọi:
– Chạy Càn vị! Chạy Càn vị!
Tuy rõ ràng thấy Càn vị đang có Ôn Minh Sơn, Ôn Minh Thi hai người cản trở, nhưng biết thời cơ không thể bỏ lỡ, Hoàng Chân không suy nghĩ gì cả, xông luôn vào chỗ hai kẻ địch. Ông ta vừa tới nơi, hai người kia liền rẽ sang hai bên để bao vây, còn chỗ trống đó Minh Đạt và Minh Ngô chưa kịp tới thay phiên.
Thân pháp của họ Hoàng nhanh nhẹn vô cùng, do bút đồng ra điểm bên phải và dùng bàn tính bổ xuống bên trái, ông ta đã nhảy ra ngoài vòng vây, đứng ngay bên cạnh Thừa Chí.
Năm anh em họ Ôn thấy Hoàng Chân đã ra khỏi trận Ngũ Hành đều kinh ngạc vô cùng, vì từ khi lập thành trận này tới giờ chưa có ai có thể thoát ra.
Ôn Minh bèn hắng giọng nói:
– Ngài đã ra khỏi Ngũ Hành trận của chúng tôi thân thủ đã phi thường lắm rồi! Các hạ là người của phái Hoa Sơn phải không? Với lão tiền bối Mộc Nhân Thanh, ngài xưng hô ra sao?
Ra khỏi vòng vây, Hoàng Chân lại tươi tỉnh và pha trò ngay. Ông ta trả lời:
– Mục lão tiền bối là ân sư của tôi. Thế nào? Tôi, tên đồ đệ tầm thường này đã làm mất sĩ diện của cụ ta phải không?
Ôn Minh Đạt nói:
– Thảo nào! Võ nghệ của ngài, chúng tôi nhận thấy quả thật là đích truyền của phái Hoa Sơn!
– Đánh nhau, chúng ta cũng đã choảng nhau rồi! Các ngài những năm người vây đánh mình tôi! Tuy kẻ hèn này không đủ tài quật ngã năm ông chủ lớn, nhưng các vị cũng chẳng hạ nổi đứa bán hàng rong này! Buôn bán như vậy cũng công bằng đấy nhỉ? Nửa cân tám lạng! Thế còn số vàng này các ngài tính sao?
Nói xong, Hoàng Chân quay đầu lại bảo Vinh Thái:
– Còn ông trưởng quầy này, chuyến buôn này có chủ rồi. Số vàng này không có phần của ông đâu!
Xấu hổ quá, Vinh Thái tự biết võ nghệ của mình còn kém người ta xa lắm, liền miễn cưỡng trả lời cho đỡ ngượng:
– Anh chàng họ Hoàng kia đừng có ngông cuồng như thế! Sẽ có một ngày anh lọt vào tay ta!
Hoàng Chân cười mỉa:
– Quý tiệm có hàng gì buôn bán được, định chiếu cố tới tiểu hiệu, dù lỗ hay lãi cũng không sao, chúng ta cùng nghề với nhau cả, giá cả có thể đặc biệt thương lượng được.
Đánh thì không đủ sức hạ người ta, mà đấu khẩu thì Vinh Thái cũng kém nốt, y tức giận vô cùng dẫn luôn đồ đệ và đàn em trong bang rút lui ngay tức thì.
Mặc kệ bọn Long Du tới hay lui, Minh Đạt chỉ nói với Hoàng Chân thôi:
– Xét võ nghệ của ngài, cũng có thể gọi là hào kiệt đương thời. Thôi, thế này vậy! Nể mặt ngài, số vàng này chúng tôi xin hoàn lại một nửa.
Sợ cái danh của phái Hoa Sơn, Minh Đạt không muốn gây thêm kẻ thù, nên có ý dàn xếp cho xong chuyện.
Hoàng Chân cười nói:
– Nếu số vàng này là của riêng của tiểu đệ thì dù bây giờ làm ăn khó khăn vì thiên hạ loạn lạc, đệ cũng xin biếu cả, quý hồ các bạn cần tiền xài tới. Nhưng lão huynh cũng nên rõ hộ cho, số vàng này là quân lương của Sấm Vương, do tên đồ đệ bất tài của đệ phụ trách áp tải, đã bị người thủ hạ của lão huynh lượm được! Như vậy, đệ biết làm sao bây giờ?
Ôn Minh Nghĩa nổi giận:
– Bạn muốn lấy cả số vàng này cũng được! Nhưng phải có hai điều kiện!
Vẫn một giọng hài hước, Hoàng Chân ung dung đáp:
– Cứ việc cho giá cả đi! Điều đó dễ thương lượng lắm! Muốn nói thách tới đâu, đệ cũng có thể trả giá được. Cứ việc nói đi, để chúng đệ thong thả bàn tính sau!
Ôn Minh Nghĩa nói:
– Không phải bàn tính gì cả. Điều thứ nhất là: Ngài phải đem lễ vật đến để trao đổi các thoi vàng. Lễ vật ấy không bắt buộc là bao nhiêu. Đó là lệ luật của phái chúng tôi, một khi tài vật đã đến tay, quyết không trả lại cho thất chủ một cách quá dễ dàng.
Biết rõ họ cho điều kiện đó cốt để lấy lại chút sĩ diện thôi, Hoàng Chân nhận thấy phái Thạch Lương đã ưng thuận trả lại số vàng đó rồi. Ông ta nghĩ thầm: “Nếu vậy ta cũng không nên gây thù oán với họ làm gì!”
Nghĩ đoạn, Hoàng Chân nghiêm ngay nét mặt lại, trả lời bằng một giọng rất đứng đắn:
– Năm vị Ôn gia đã nói như vậy, đệ xin tuân lệnh. Sáng sớm mai, đệ vào thành Từ Châu sửa soạn một phần trọng lễ rồi sẽ thân hành đem tới. Đệ cũng sẽ cho đặt mấy mâm rượu, mời vài người bạn ở địa phương này đến hầu rượu quý vị.
Thấy ông ta nói hợp tình hợp lý quá, Minh Nghĩa liền trả lời:
– Như thế cũng được. Còn điều kiện thứ hai là: Phải để anh bạnh trẻ họ Viên này lại cho chúng tôi.
Hoàng Chân ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Vì các người chịu trả lại số vàng, ta mới quá nể, để cho mọi người được bảo toàn thể diện rồi, hà tất còn phải đòi hỏi thêm chi tiết nữa?”
Ông ta đâu biết việc rất quan hệ và rất phức tạp, như việc Thừa Chí biết rõ hết chuyện bí ẩn giữa Ôn Nghi và Kim Xà Lang Quân. Như vậy Ngũ lão thể nào cũng phải giết cho kỳ được Thừa Chí họ mới can tâm. Còn tờ “bản đồ” của Kim Xà Lang Quân, họ yên trí là Thừa Chí đã thấy được, nên họ phải cố giữ Thừa Chí lại để đòi cho kỳ được bức bản đồ ấy. Họ vẫn biết võ nghệ của Thừa Chí rất cao cường, nhưng họ tin tượng rằng với trận Ngũ Hành này thì làm gì mà không thắng được chàng.
Hoàng Chân nói:
– Đáng lẽ tôi hoan nghênh lắm nhưng chỉ sợ chú ấy ở độ một năm hay sáu tháng thì quý vị lỗ vốn nhiều lắm, chịu không nổi đâu.
Hy Mẫn biết rõ tánh nết sư phụ của chàng, hễ lúc nào nói bông đùa là ông ta đã nổi cơn tức giận rồi. Đoán chắc hai bên lại sắp đánh nhau, chàng liền cầm khí giới chăm chú nhìn vào kẻ địch.
Minh Đạt cười nhạt một tiếng rồi nói:
– Chú em họ Viên này sẵn vừa rồi đã mách nước cho ngài thoát ra khỏi trận Ngũ Hành của chúng tôi. Như vậy chắc chú ấy đã hiểu hết bí quyết của trận đó, nên chúng tôi muốn mời chú ấy phá thử xem!
Thì ra trận Ngũ Hành của họ có những năm trận pháp. Vừa rồi, đối với Hoàng Chân, anh em họ Ôn sử dụng trận pháp thứ hai là ất Mộc trận pháp, nhưng còn rất nhiều võ thuật biến hóa kỳ lạ họ chưa sử dụng tới, nên họ mới thi tài thách thức Thừa Chí phá trận là thế!
Đã được nếm mùi trận pháp đó rồi, Hoàng Chân nghĩ thầm: “Ta có mấy chục năm công lực mà không thoát ra được, tuy chú Thừa Chí đã chỉ cho ta thoát ra khỏi trận, nhưng người đứng ngoài bao giờ cũng sáng suốt hơn là người trong trận, chỉ sợ chú ấy đối phó không nổi.”
Nghĩ xong, ông ta liền nói:
– Trận pháp của quý vị lợi hại lắm! Vừa rồi tôi đã được lãnh giáo rồi. Còn tiểu đệ, tuổi chỉ bằng con cháu của quý Ngài, quý Ngài hà tất phải xử khó dễ với hắn làm gì? Nếu quý Ngài thấy hắn chướng tai gai mắt, thì chỉ một vị trong quý huynh đệ ra dạy bảo qua loa là được rồi.
Lời nói của Hoàng Chân bề ngoài hình như có vẻ sợ sệt, nhưng sự thật thì dồn Ngũ lão vào chỗ bí phải “một chọi một.” Vì ông ta nghĩ rằng nếu Thừa Chí đấu với từng người một, vị tất đã thua anh em họ. Ôn Minh Sơn cười nhạt:
– Phái Hoa Sơn đã lừng tên tuổi khắp chốn giang hồ từ bao lâu nay, không lẽ vừa mới thấy cái trận Ngũ Hành nho nhỏ này lại sợ đến nỗi phải rụt đầu rụt cổ lại! Nếu vậy, từ nay xin quý phái đừng có xưng tên hiệu trên chốn giang hồ nữa nhé.
Thôi Hy Mẫn cả giận, ở phía sau Hoàng Chân xông ra, la lớn:
– Ai bảo phái Hoa Sơn chúng ta sợ các ngươi?
Ôn Minh Sơn cười nói:
– Vậy thì ra đây thử coi nào!
Không biết nặng nhẹ sống chết là gì cả, Hy Mẫn nhảy ra định đánh, Thừa Chí kéo hắn lại và khẽ nói:
– Thôi đại ca! Để tôi ra trước! Khi nào sắp thua, đại ca hãy ra giúp tôi!
Hy Mẫn gật đầu nói:
– Hay lắm, khi nào chú cần tôi giúp, cứ gọi ngay “Hy Mẫn” là tôi xông vào liền. Xin chú đừng có gọi “Thôi đại ca, Thôi đại ca” lôi thôi phiền phức như thế nữa!
Thừa Chí gật đầu. Tiểu Tuệ đứng bên cạnh nghe thấy bật phì cười. Hy Mẫn trợn mắt nhìn rồi hỏi:
– Cô cười cái gì?
Tiểu Tuệ vẫn không nín cười:
– Tôi có cười gì anh đâu? Bỗng tự dưng buồng cười thì tôi cười chơi đấy chớ!
Hy Mẫn định hỏi vặn thêm thì Thừa Chí đã nhảy ra rồi. Tay vẫn cầm ngọc trâm, chàng nói:
– Ngũ Hành trận của phái Thạch Lương lợi lại lắm! Quả thật tiểu bối chưa hề thấy bao giờ!
Minh Nghĩa quát lớn:
– Ngươi chưa sạch hơi sữa, có nhiều cái vật tầm thường nhà ngươi còn chưa thấy qua, huống hồ trận Ngũ Hành anh em mỗ gia thì làm sao ngươi thấy được!
Thừa Chí vẫn điềm tĩnh trả lời:
– Nếu các cụ định giữ tôi ở lại, thì thật quả đúng với ước mong của tôi quá, vì tôi cũng muốn nhân dịp này lãnh giáo những bí quyết huyền ảo về trận Ngũ Hành của mình.
Hy Mẫn không nhịn được vội nói:
– Tiểu sư thúc! Họ giữ chú ở lại định hãm hại chú đấy!
Tiểu Tuệ lại bật phì cười. Thừa Chí quay đầu lại nhìn Hy Mẫn vừa cười vừa nói:
– Các cụ ấy là người có tuổi, không bao giờ bắt nạt những tiểu đầu! Thôi đại ca cứ yên tâm.
Xong chàng quay lại nói với Ngũ lão:
– Tôi ra hầu các cụ. Xin các cụ nhẹ tay cho!
Nghe lời nói của chàng rất khiêm tốn, rõ ràng là khiếp sợ, đến khi thấy chàng bước ra, ung dung thư thả, không có vẻ núng cả, ai nấy đều không hiểu ý định của chàng ra sao.
Năm anh em họ Ôn đều thử qua tài chàng rồi, nên không nào dám khinh thường chàng cả. Họ cùng giơ tay ra hiệu, Minh Nghĩa và Minh Sơn nhảy sang bên phải, Minh Thi và Minh đại vòng sang phía trái. Chỉ trong nháy mắt, anh em họ đã bố kín đáo rồi. Thừa Chí làm như vẫn không hay biết gì cả, tay chào rồi hỏi:
– Chúng ta đấu ngay ở chỗ đất bằng này ư?
– Ừ không cần phải bày Mai Hoa Thung chi cho mệt
– Các cụ là tiền bối của chú thanh, tôi không dám vô lễ mà động tới đao thương. Tôi chỉ dùng cái trâm ngọc này để xin lãnh giáo các cụ vài miếng.
Chàng vừa nói xong, ai nấy đều giựt mình kinh ngạc vì lẽ nhận thấy chàng nói như thế thật là ngông cuồng quá lẽ. Chiếc trâm bằng ngọc chưa chắc đã giết nổi con cánh cam (tức con quít), chỉ khẽ đụng vào là gãy, thì va chạm sao được với đao kiếm bằng thép của Ngũ lão.
Hoàng Chân biết lúc bấy giờ có nói cũng vô dụng, đành phải cầm sẵn bàn tính và bút, chờ khi nào sư đệ lâm nguy là nhảy ngay vào cứu giúp. Tiến lại gần Hy Mẫn và Tiểu Tuệ, Hoàng Chân khẽ căn dặn:
– Bên địch mạnh và nhiều người hơn ta. Lát nữa, khi nào ta bảo các con chạy, là cứ việc nhảy lên trên mái nhà tẩu luôn. Đã có ta và Viên sư đệ đoạn hậu, dù hai ta có bị lâm vào tình thế nguy hiểm nguy đến đâu, các con cũng đừng có quay trở lại giúp đỡ chúng ta.
Hy Mẫn và Tiểu Tuệ đều xin vâng lời. Hoàng Chân tự tin sức mình và Thừa Chí có thể kiếm cách thoát thân được, chỉ cần Hy Mẫn và Tiểu Tuệ thoát được thì sau đó chàng kéo thêm mấy người nữa đến phá trận thì thế nào cũng phá vỡ trận đó ngay. Mấy người mà Hoàng Chân tính mời tới phá trận là: vợ chồng Nhị sư đệ Nông Quy Thân ở núi Bàn Thạch, Phổ Thiện đại sư ở chùa Hoa Nghiêm tỉnh Hà Bắc, và thêm sư phụ ông ta là Mộc Nhân Thanh hoặc Mộc Tang đạo nhân cũng được. Bốn người nói trên và ông ta là năm, mỗi người phụ trách đánh một trong Ngũ lão, khiến anh em họ bị tản mác, không thể cứu giúp được nhau, Ngũ Hành trận tất nhiên phải tan vỡ. Nếu một chọi một thì năm anh em họ Ôn không phải là địch thủ của những người nói trên.
Là người có tánh hay pha trò nói bông, Hoàng Chân lại còn là con người mưu tính rất giỏi. Trong số năm người ông ta định mời đến đánh anh em họ Ôn không thấy có tên Thừa Chí là vì chàng cho tiểu sư đệ còn thiếu kinh nghiệm để làm hư việc lớn. Như vậy đủ thấy chàng tính toán cẩn thận biết bao!
Thừa Chí lại lên tiếng:
– Các cụ đã thành tâm chỉ giáo cho, sao lại rút bớt đi một thế trận, khiến tiểu bối không học được đủ toàn bộ!
Minh Đạt ngạc nhiên hỏi:
– Cái gì là toàn bộ hay không toàn bộ?
Thừa Chí trả lời:
– Ngoài trận Ngũ Hành này, các cụ còn Bát Quái trận để phò tá. Sao các cụ không bày cả ra, để tiểu bối được thêm sáng mắt?
Minh Nghĩa quát lớn:
– Đó là nhà ngươi tự đòi lấy cái chết, chớ đừng có oán hận gì nữa đấy nhé?
Nói xong, Minh Nghĩa quay lại bảo Ôn Nam Dương:
– Nam Dương! Gọi các em lại đây!
Nam Dương là lãnh tụ đời thứ hai của phái Thạch Lương. Chàng phẩy tay một cái, mười lăm người đều nhảy ra, Hoàng Chân thấy bọn người đó, có nam có nữ, lại có cả hai vị hòa thượng nữa. Sau khi thấy hiệu lịnh của Nam Dương, mười sáu người chạy quanh Ngũ lão, trông thật đẹp mắt. Thừa Chí đứng ở giữa, Ngũ lão vây xung quanh như bàn thạch, bên ngoài lại có thêm 16 người chạy đi chạy lại. Có một điều lạ nhứt là không hề nghe thấy tiếng chân của bọn họ. Dù là người giàu kiến thức, Hoàng Chân thấy tình thế này cũng phải sợ hãi.
Hoàng Chân nghĩ thầm: “Viên sư đệ rõ thật còn trẻ người non dại thật! Nếu y chỉ đấu riêng với Ngũ lão thôi, để lúc gặp nguy hiểm ta còn có thể xông vào cứu y được. Bây giờ lại có thêm mười sáu người cản trở, mọi chỗ hổng đều bị họ bịt kín hết cả thế này, đến con ruồi con muỗi cũng không thể bay lọt vào được, huống chi là con người!”
Thừa Chí dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái bên phải cầm chiếc ngọc trâm, còn tay trái phẩy một cái, co chân phải lên, lấy chân trái làm trục, người chàng bỗng quay đi bốn năm vòng. Thấy chàng cử động, Ngũ lão họ Ôn lập tức thúc đẩy trận thế, và cũng chăm nhìn xem chàng cử động ra sao. Nhưng Thừa Chí chỉ chuyển động ở chỗ cũ thôi chớ không ra tay đánh.
Thì ra, trước kia Kim Xà Lang Quân đánh với Ngũ lão không may thất thủ bị bắt.
Sau khi trốn được về ở trong hang động trên đỉnh núi Hoa Sơn, chàng khổ công nghĩ ngợi rút cuộc đã khám phá được mọi bí quyết huyền ảo của trận Ngũ Hành và nghiên cứu ra những chỗ kỳ diệu của trận đó là: Bất cứ kẻ địch xông xáo hay tấn công thế nào, năm anh em họ Ôn đều dùng những miếng võ rất lợi hại phản kích lại. Một người ra tay đánh, bốn người kia liên tiếp đánh theo, cho tới khi nào kẻ địch bị bắt mới thôi.
Tuy đã tìm kiếm ra mọi sự bí mật nhưng làm cách nào mà phá nổi trận thế? Hạ Tuyết Nghi vẫn chưa tìm được cách giải quyết. Suốt mấy năm liền, ông ta đã nghĩ nát óc, nhưng kết quả chẳng tìm ra phương pháp nào có hiệu quả, trong một lần đi dạo núi ông bỗng gặp một con cạp nong (một loại rắn rất độc) đang bò ở trong đám cỏ. Trông thấy bóng người, nó quấn tròn lại, ngửng đầu lên không hề cử động.
Sở dĩ Hạ Tuyết Nghi được người ta đặt cho biệt hiệu là Kim Xà Lang Quân cố nhiên bởi ngoài những hành động lanh lẹ, hiểm độc, hung ác, ông ta thích nuôi rắn độc, để lấy nọc độc làm thuốc bôi trên đầu những ám khí. Năm nọ, vợ Ôn Minh Lộc, em dâu của anh em họ Ôn bị trúng phải tên độc chết ngay tại chỗ. Thuốc độc trên đầu những mũi tên đó đều là nọc rắn độc cả. Ông ta rất thạo thuộc tánh nết của các loại rắn, biết rằng khi rắn quay tròn ngửng đầu lên, là nó chờ đợi kẻ địch ra tay trước. Khi kẻ địch tấn công, rắn nọ lập tức thực hư mà cản lại. Nếu địch đứng yên, nó ít khi tấn công trước. Vì chưa biết rõ thực hư của địch ra sao, nếu tấn công trước, thường thường hay bị thiệt thòi. Xúc động linh cơ, Hạ Tuyết Nghi nhìn qua, vừa nhảy vừa kêu la, lộn mấy vòng trên bãi cỏ. Chiến lược phá Ngũ Hành trận được hết định ngay từ đấy. Nghĩa là căn cứ bốn chữ: “Hậu phát chế nhân” (đánh sau nhưng lại kìm chế địch trước). Trong võ thuật, người ta chú trọng vào sức mạnh và sự nhanh nhẹn. Chánh sách “Hậu phát chế nhân” của ông lại trái ngược hẳn.
Đã có thủ đoạn để giải quyết vấn đề nên mọi việc đều thông suốt ngay. Không đầy một tháng, ông ta đã sáng tạo xong toàn bộ phương pháp phá trận Ngũ Hành. Rồi ông ta ghi chép ngay vào trong cuốn “Kim Xà bí kíp.” Ông ta còn hoài nghi, chưa chắc cuốn Bí Kíp đó đã có người tìm thấy! Ví dụ có người kiếm được, chỉ sợ lúc đó đã qua hàng nghìn, hàng trăm năm sau và khi ấy, xác của anh em họ Ôn đã hóa ra cát bụi lâu rồi! Tuy vậy, thù oán bị anh em họ Ôn cắt đứt mất gân chân, trở thành một phế nhân, ông ta đời nào chịu để yên. Vả lại, ông ta nghĩ rằng: “Dù anh em họ Ôn đã chết rồi, nhưng Ngũ Hành trận của họ vẫn lưu truyền lại cho con cháu. Sau này, nếu không phá nổi trận đó, có phải Thạch Lương được xưng hùng xưng bá ở thiên hạ không?” Cho nên, ông cất công viết hết cách phá trận vào trong Bí Kíp để nhờ người nhặt được cuốn Bí Kíp báo thù hộ cho. Mặc dù chuyện đó viễn vông thật, nhưng ông ta vẫn yên trí thế nào cũng sẽ được toại nguyện.
Thừa Chí đang sử dụng chánh sách “Hậu phát chế nhân” mới quay được vài vòng, đã thúc đẩy Ngũ Hành Bát Quái trận phát động toàn bộ rồi.
Ngũ lão phải chờ cho chàng ra tay rồi mới thừa thế nhảy xô vào, nhưng thấy chàng quay càng chậm, không có vẻ gì là muốn tấn công cả. Sau cùng, chàng lại ngồi xuống, hai tay để lên trên đầu gối, mặt tươi tỉnh mỉm cười.
Nhưng ngưòi đứng xem đều ngơ ngác không hiểu và nghĩ thầm rằng: “Trước mặt kẻ địch sao chàng lại đùa giỡn như thế?” Nhưng họ có biết đâu đó là kế “mạn quân” của Thừa Chí, một mặt dụ địch tấn công, còn một mặt nữa là làm cho địch nóng lòng sốt ruột, không thể nào giữ sự trầm tĩnh được nữa. Thấy chàng ngồi xuống, quả nhiên Ôn Minh Nghĩa không sao nhịn được liền vỗ tay một cái, định tấn công phía sau lưng chàng. Ôn Minh Ngô vội cản lại:
– Nhị ca đừng làm loạn trận pháp!
Ôn Minh Nghĩa đành phải ngừng lại. Ngũ lão càng chạy càng nhanh cứ tiếp tục quay vòng quanh như trước, chỉ chờ chàng ra tay là họ cũng ùa vào ngay. Vì khi tấn công, mục đích của mình chỉ chăm chú vào công việc kích đối phương, toàn thân sẽ có vô số chỗ để hở ngay. Ngũ Hành trận cần dùng một người hấp dẫn đối phương tấn công, bốn người kia thì nhằm chỗ hở của địch mà tập kích. Lý thuyết “tương sinh tương khắc” sự thật có ý nghĩa ấy. Bây giờ Thừa Chí không động đậy gì cả, như vậy toàn thân chàng chỗ nào cũng phòng bị chu đáo, Ngũ lão đành chịu bó tay không làm gì nổi chàng.
Lại qua một lát nữa, Thừa Chí bỗng ngáp ngủ, nằm ngửa xuống đất, lấy hai tay làm gối kê dưới đầu, dáng nằm trông rất khoan thai. Mười sáu đệ tử giàn trận Bát Quái bên ngoài, chạy vòng quanh đã nửa ngày, mà càng chạy càng phải nhanh hơn, nên tên nào hơi kém công lực một chút đã thấy mồ hôi đầy đầu đầy trán, hơi thở hồng hộc, Ngũ lão vẫn còn chịu đựng được, nên vẫn chưa muốn ra tay trước, Thừa Chí nghĩ thầm: “Mấy tên già này kể cũng có tài nhẫn nại thật đấy!”
Chàng bỗng quay lưng lên trời, úp mặt vào trong lòng hai bàn tay, miệng ngáy khò khò. Từ xưa có thế võ như chàng, nằm úp mình như vậy, có khác gì để cho người ta ta hồ tùng xẻo mình hay không.
Hy Mẫn, Tiểu Tuệ, Thanh Thanh và Ôn Nghi đều tức cười, nhưng lại lo ngại hộ cho chàng. Hoàng Chân thấy chàng hết ngồi lại nằm như vậy đã hiểu ngay chánh sách đối địch của chàng. Ông ta chịu phục chàng thông minh và táo bạo. Nhưng đến khi thấy chàng nằm úp, không phòng bị như vậy, ông ta phải kêu thầm: “Nguy to!” Vì ông ta nhận thấy, lúc này, trong Ngũ lão, bất cứ người nào ra tay, đột kích sau lưng chàng thì dù chàng là thần tiên trên trời cũng không sao tránh kịp. Không chịu bỏ lỡ thời cơ, Ôn Minh Đạt liền ra hiệu, tay trái phẩy sang bên phải một cái, rồi lại chỉ xuống đất một cái. Thế là bốn chiếc phi đao của Minh Thi nhắm giữa lưng Thừa Chí phóng xuống, đi nhanh như chớp. Sự đột kích bất ngờ ngay giữa lưng Thừa Chí làm mọi người anh em đều khiếp sợ kêu lớn lên vì thấy bốn con phi đao đều cắm trúng vào lưng Thừa Chí. Đau lòng và sợ hãi quá, Ôn Nghi quay đầu ôm mặt, không dám trông thấy thảm cảnh ấy nữa.
Các người bên phái Thạch Lương đều hoan hỉ reo mừng, ồn ào như tiếng sấm vang động. Trong số mười sáu người dàn trận Bát Quái, đã có bảy, tám người ngừng bước. Giữa lúc ấy, Thừa Chí bỗng nhỏm dậy, bốn con dao trên lưng chàng đều bị rũ rơi xuống đất, người chàng tựa như mũi tên bắn vọt lên. Chỉ nghe thấy “bộp” một tiếng, Ôn Nam Dương đã bị chàng nện một quyền vào lưng, mồm phun máu tươi, còn người y thì bị chàng nhấc bổng lên, ném ra khỏi trận Ngũ Hành.
Mọi người không thấy rõ Thừa Chí làm cách nào mà luồn ra khỏi trận Ngũ Hành, chỉ thấy mười sáu tên đệ tử bên ngoài bị chàng lần lượt đấm đá, điểm huyệt, và tung vào trận Ngũ Hành. Trong bọn đó, ông Câm giỏi võ hơn cả cũng chỉ chịu nổi được hai ba miếng của chàng là bị đánh ngã liền. Thế là Ngũ Hành Bát Quái trận đại loạn, trong trận không thấy kẻ địch đâu, mà kẻ ra người vào toàn là người nhà cả. Mọi người không ai ngờ Thừa Chí mặc chiếc áo cánh sợi vàng của Mộc Tang tặng cho, nên phi đao sao đâm thủng lưng chàng được.
– lợi dụng sự bất ngờ đó chàng đã phá tan trận Bát Quái rồi.
Năm anh em họ Ôn kêu rú luôn mồm và hai tay bận tíu tít tiếp đỡ các đệ tử do Thừa Chí ném vào. Không để cho họ có thì giờ bố trí lại trận Ngũ Hành, Thừa Chí tiến lê ba bước dùng ngay ngón tay trái điểm thẳng vào huyệt đạo của Minh Thi. Thấy phi đao không làm gì được chàng. Minh Thi vốn đã sợ hãi, nay lại thấy chàng tấn công tới, cuống lên ông ta cầm cả bốn chiếc phi đao ném vào ngực chàng. Không tránh không đỡ, Thừa Chí cứ nhằm “Hoàn Cơ huyệt” ở dưới yết hầu của ông ta mà điểm. Chỉ nghe thấy “Coong, coong” mấy tiếng, phi đao vừa đụng tới ngực chàng là rơi xuống liền.
Chính lúc đó, ba ngón tay của chàng vừa điểm trúng huyệt đạo của Minh Thi. Ở phía sau, thấy em Tư bị lâm nguy, Minh Sơn vụt luôn một trượng vào đùi bên phải của Thừa Chí. Chàng vừa cười vừa nói:
– Cây quài trượng bữu bối này, hôm nọ đã bị vứt lên khỏi nóc nhà, bây giờ cụ lại nhặt nó về đấy à?
Miệng nói, tay không ngừng, chàng nhấc bổng một tên đệ tử của trận Bát Quái giơ lên đỡ chiếc quài trượng đó. Minh Sơn sợ quá. Vụ trượng đó, tuy không mong đánh trúng người Thừa Chí, nhưng ông ta suy tính, lúc ấy Thừa Chí không thể nào tránh trước né sau được, bắt buộc chàng ta phải dùng khí giới để chống đỡ, mà khí giới của chàng lại là một chiếc trâm bằng ngọc, chỉ khẽ chạm vào chiếc quài trượng bằng théplà vỡ tan tành ngay. Không ngờ chàng lại kéo luôn một tên đệ tử của phái Thạch Lương để chống đỡ. Nếu cây quài trượng này mà đánh trúng thì tên đệ tử ấy sẽ bị gãy xương đứt gân tức thì. Cũng may võ nghệ của Minh Sơn đã tới chỗ tuyệt mức, trong lúc nguy cấp này, ông ta phải nhảy lên, dùng tay trái đè đầu cây trượng xuống, một mặt kêu gọi Minh Đạt đề phòng:
– Đại ca, cẩn thận!
Ông ta vừa nói dứt lời, cây quài trượng theo đà, đã đánh thẳng xuống người Minh Đạt. Ông ta tin tưởng rằng người anh cả của ông ta có thể tránh được cây quài trượng đó. Quả nhiên Minh Đạt giơ ngang song kích lên đỡ. Chỉ nghe thấy “coong” một tiếng thật lớn, sao lửa bắn tứ tung, quài trượng và đoản kích đều bay trở lại. Thừa cơ đó, Thừa Chí tấn công luôn Minh Ngô. Chàng dùng bàn tay trái bổ mạnh xuống và tay phải câm ngọc trâm cứ nhằm mắt địch mà đâm. Minh Ngô vừa tránh vừa lui, múa roi da để phong tỏa khắp người. Nhưng thế công của Thừa Chí mạnh và nhanh lắm, ông ta phong tỏa làm sao nổi. Trong giây lát, ông ta đã bị Thừa Chí liên tiếp tấn công sáu, bảy đợt. Thấy chiếc ngọc trâm cứ lập lờ theo sát đôi mắt ông ta, và đã bị hai chiếc đó chạm tới mí mắt rồi, Minh Ngô sợ hãi mất cả hồn vía, lúc đó mới nhận biết cây trâm ấy lợi hại là ngần nào.
Lần sau cùng, thấy tránh không nổi, ông ta phải vứt roi da đi, hai tay bịt lấy đôi mắt, nằm xuống đất lăn lộn mấy vòng, mới thoát khỏi thế tấn công của Thừa Chí.
Nhưng dù sao, lưng ông ta cũng bị Thừa Chí đá theo một cái.
Hồi xưa, Minh Ngô đã từng dùng roi da để đánh bại một lúc mười hai hảo hán trên lôi đài Triết Nam, oai phong lừng lẫy, nổi tiếng mấy chục năm liền. Ngờ đâu, ngày nay, ông ta lại phải bại dưới tay một thiếu niên vô danh. Không riêng gì ông ta xấu hổ chịu không nổi, mà cả những người đứng xem hai bêncũng phải ngạc nhiên kinh hãi vô cùng.
Hoàng Chân thấy tiểu sư đệ lợi hại vô cùng, đã trổ tài kỳ lạ, bình sanh ông ta chưa từng thấy qua. Ngay như sư phục hồi còn tráng niên, lúc võ nghệ đã cao tột bực, cũng chưa chắc đã có công lực mạnh như thế! Vậy thì võ công tuyệt tác ấy y đã học hỏi ở đâu? Thật không thể tưởng tượng được! Thôi Hy Mẫn đứng bên cạnh cứ hò reo khen ngợi om sòm. Tiểu Tuệ nhích mép cười. Ôn Nghi và Thanh Thanh đều mừng thầm nhưng vì hai mẹ con từng sống dưới cửa độc ác của họ Ôn đã lâu, lúc nào cũng sợ hãi lo âu, nên cả hai đều không dám tỏ vẻ vui mừng ra mặt.
Càng đánh tinh thần càng thấy phấn khởi thêm, Thừa Chí không còn lo ngại gì nữa.
Tay trái sử dụng “Phục Hổ chưởng” của phái Hoa Sơn, tay phải câm trâm ngọc dùng thế Kim Xà trảm pháp trong trận Kim Xà bí kíp. Võ thuật đó dù là Bát Thủ Tiên Viên Mộc Nhân Thanh thân hành tới nơi, Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi phục sanh, mỗi người cũng chỉ biết được một nửa. Như vậy anh em họ Ôn làm sao hiểu nổi? Hạ xong Minh Ngô, Thừa Chí lại quay sang tấn công Minh Nghĩa. Luôn luôn bị miếng hiểm tập kích, Minh Nghĩa cuống cả chân tay. Thấy tình thế bất lợi, Minh Đạt bỗng huýt lên một tiếng còi, rồi đột nhiên dùng tay đẩy lui một tên đệ tử. Còn Minh Sơn thì sử dụng cả chân lẫn tay, hoặc đá hoặc ném, quét sạch tất cả các đệ tử ra ngoài.
Nhân số trong Luyện Võ sảnh ít đi, họ tính bày ngay trận Ngũ Hành lại, nhưng Thừa Chí cứ kềm chặt Minh Nghĩa, khiến anh em họ Ôn không thể nào áp dụng thế liên hoàn được. Minh Nghĩa bị tay của Thừa Chí đánh trúng vào vai trái, Minh Sơn vội nhằm phía sau lưng chàng đánh luôn một quài trượng xuống. Đồng thời, Minh Đạt ở bên trái cũng múa song kích tấn công tới. Vai trái tuy bị đau, Minh Nghĩa vẫn cố chịu để thi hành trận pháp.
Lúc ấy nhân số của phái Thạch Lương đã bị ném hết ra ngoài nên họ càng cố bày lại được trận thế và hết sức chống cự. Dưới sự bao vây tấn công của tám lão, Thừa Chí vẫn đi lại như bay như múa. Đang đấu kịch liệt, chàng bỗng nhảy lên cao, tay phải cầm chiếc trâm ngọc vào đầu, rồi giơ tay níu lấy cái dầm trên nóc nhà.
Đánh đang hăng, tám lão bỗng nhiên thấy biến mất kẻ địch đều ngơ ngác nhìn nhau. Sau thấy trên đầu có tiếng gió, họ biết nguy đến nơi, đang định trốn tránh thì Minh Sơn và Minh Nghĩa đã bị quân cờ ném trúng huyệt đạo, ngã lăn ra đất. Minh Đạt vừa cúi xuống định cứu chữa thì Thừa Chí lại ném luôn một nắm quân cờ xuống. Nhờ ở võ nghệ cao siêu hơn các em, Minh Đạt giơ song kích lên múa, những quân cờ của Thừa Chí đều lác đác rơi xuống. Sợ Thừa Chí lại ném ám khí nữa, Minh Đạt vẫn tiếp tục múa song kích để tự bảo vệ từ đầu đến chân. Bỗng nghe thấy người đứng xem kêu rú lên, ông ta thấy tay rung động một cái, song kích hình như bị một sức mạnh gì cản lại, không sao múa được nữa. Giựt mình sợ hãi, Minh Đạt dùng sức kéo mạnh một cái, ngờ đâu song kích đã rời khỏi tay ông ta bay đi mất. Không kịp nghĩ ngợi, ông ta vội tránh sang bên ba bước, hai bàn tay che lấy đầu, mắt. Lúc ấy ông ta mới hay song kích đã lọt vào tay Thừa Chí rồi. Mỗi tay cầm một kích, Thừa Chí thét lớn:
– Coi này!
Song kích bay xuống, cắm chặt vào hai cái cột lớn ở giữa Luyện Võ sảnh, ngập sâu vào cột đến nửa chiếc kích. Hai cái cột bị rung chuyển, mái ngói đều kêu “rắc, rắc” hình như sắp đổ sập xuống.
Những người đứng cạnh cửa đều hoảng kinh rảo cẳng chạy luôn ra ngoài sảnh.
Năm xưa, khi Mộc Nhân Thanh dạy võ Thừa Chí, đã từng phóng một thanh kiếm cắm phập vào thân cây, Mộc Tang đạo nhân khen là kiếm pháp thiên hạ vô song. Nay Thừa Chí lao hai cái kích cũng căn cứ ở miếng kiếm pháp đó biến hóa ra. Lúc này, Hoàng Chân hớn hở và phục tài tiểu sư đệ, vì ông ta thấy chàng dùng thủ pháp của bổn môn lao kích đến nổi xuyên thủng cột và chấn động cả nhà cửa. Ông ta mừng quá reo lên:
– Viên sư đệ! Chú sử dụng miếng “Thần Long Hiện Vĩ” tài lắm!
Thừa Chí quay đầu lại cười và nói:
– Đệ không dám quên ơn sư phụ đã dạy bảo nhưng vẫn còn mong sư huynh chỉ giáo cho!
Ôn Minh Đạt ngơ ngác nhìn xung quanh thấy bốn người anh em nằm lăn cả dưới đất.
Thừa Chí từ từ đi tới cạnh Hoàng Chân, rút chiếc ngọc trâm cắm trên đầu xuống, trao trả cho Tiểu Tuệ rồi đứng cạnh Hy Mẫn không nói nửa lời. Ôn Minh Đạt nghĩ đến trận thế Ngũ hành Bát Quái của phái Thạch Lương mình từng mang danh thiên hạ vô địch mà nay chỉ trong chốc lát đã bị một thằng nhỏ phá tran quét sạch, đến nỗi toàn quân phải tiêu diệt hết! Nghĩ tới đó, ông ta đau lòng sốt ruột quá, định đâm đầu vào cột trụ tự tử cho xong. Nhưng vốn tánh ác độc xưa nay, ông ta nghĩ thầm rằng: “Tuổi ta sắp mạt kiếp đến nơi, mối thù này tất nhiên ta không thể trả được. Nhưng còn sống sót được ngày nào, thể nào ta cũng không để nó được yên thân!”
Nghĩ xong, ông ta chìa hai tay nói với Hoàng Chân:
– Vàng ở cả đây, các người cứ việc đem đi!
Không chờ cho Minh Đạt nói đến lời thứ hai, Hy Mẫn vội chạy lại nhặt hết các thoi vàng bỏ vào túi da. Phái Thạch Lương tuy có mấy chục người đứng đó, nhưng chỉ trố mắt nhìn người lấy của đi chớ không dám ra tay ngăn cản. Trận đánh vừa rồi, Thừa Chí làm cho họ thất đảm kinh hồn, mất hết cả chí khí đấu tranh.
Thấy bốn người anh em đều bị Thừa Chí ném quân cờ điểm huyệt nằm lăn cả ra đất, Minh Đạt liền bước tới cạnh Minh Nghĩa trước, đệ nhị lão lúc này mắt vẫn nhìn được, nhưng thân thể và chân tay thì cứng đờ.
Minh Đạt cũng là tay điểm huyệt giỏi, liền cúi xuống xoa bóp “Vân Đài huyệt” cho người em để cho huyết mạch được chạy đều. Nhưng ông ta xoa bóp hằng giờ mà Minh Nghĩa vẫn cứ nằm cứng đờ như cũ. Ông ta lại đến giải huyệt cho ba người em kia, nhưng cũng không thấy hiệu nghiệm gì cả. Vì không muốn tự hạ mình cầu cứu kẻ địch, ông ta chỉ quay lại nhìn Thanh Thanh hất hàm ra hiệu. Thanh Thanh tuy biết ý ông Cả muốn nhờ mình cầu cứu Thừa Chí, nhưng nàng giả vờ không hiểu:
– Ông Cả sai bảo gì cháu thế?
Minh Đạt chửi thầm: “Con nhãi này đáo để thật! Lúc này mầy còn làm khó dễ ông! Chờ xong việc ở đây, ông sẽ trị tội mẹ con mày cho mà xem!”
Nghĩ đoạn, ông ta đay nghiến nói khẽ:
– Mày bảo nó giải huyệt cho bốn ông mày đi!
Thanh Thanh tới trước mặt Thừa Chí vái chào, rồi lớn tiếng nói:
– Ông Cả tôi nói nhờ anh giải huyệt dùm bốn ông tôi đấy!
Thừa Chí trả lời:
– Vâng.
Chàng tiến lên đang định cúi xuống giải huyệt cho bốn anh em họ Ôn, bỗng nghe thấy Hoàng Chân gạt bàn tính một cái, chàng vội ngừng tay ngay, Hoàng Chân lớn tiếng nói:
– Viên sư đệ! Chú không biết buôn bán tí nào cả! Hiện giờ món hàng lạ đang hiếm, sao chú không nhân lúc này mà lên giá. Chú cứ mặc rao giá đi, nói thách đến đâu, cũng có người cũng chịu trả kia mà!
Thừa Chí biết ngay sư huynh chàng có ác cảm với phái Thạch Lương, muốn thừa dịp này để báo thù. Dù chàng là người trung hậu thật, nhưng nghĩ tới có sư huynh ở đây thì nên để cho ông ta chủ trì mọi lẽ mới phải, chàng liền ôn tồn đáp:
– Xin đại sư huynh chỉ bảo giúp cho!
Hoàng Chân nói:
– Món hàng thuộc loại trân châu, bảo ngọc đâu thể quà biếu vô cớ cho ai được, tức nhiên phải trao đổi bằng một thứ gì tương xứng với món hàng đó theo sự công bằng của sự mua bán có qua có lại.
Thừa Chí vốn đã hiểu rõ, nhưng vẫn vờ hỏi:
– Đại sư huynh hãy nói rõ hơn, tiểu đệ chưa hiểu gì cả.
Hoàng Chân đáp:
– Có gì lạ đâu. Nếu chư liệt vị kia muốn Viên sư đệ giải huyệt đạo cho các người kia tất nhiên phải bù lại một cái gì giá trị ngang nhau không có bên nào thiệt thòi cả.
Nghe Hoàng Chân và Thừa Chí nói chuyện dài dòng cố kéo thời gian, Minh Đạt nóng nảy:
– Bây giờ các vị muốn trao đổi cái gì cứ nói toạch ra, cần gì phải dùng thứ văn hoa bóng bẩy cho phí mất thời giờ.
Hoàng Chân nhẩm tính rồi nhìn Minh Đạt:
– Chẳng có gì rắc rối cả, giờ chư vị muốn Viên sư đệ giải huyệt cho mấy người nằm kia thì cái giá trị của nó tính thế nào cho tương xứng vậy thôi.
Minh Đạt hỏi mau:
– Tương xứng là bao nhiêu vàng, bao nhiêu bạc cứ nói thẳng ra?
– Bạc vàng thì Viên sư đệ chắc không nhận đâu, giờ chỉ có thể nhận một món khác.
– Món gì?
– Lối chừng một ngàn sáu trăm tạ gạo theo luật mua bán xưa nay.
Minh Đạt giận lắm nhưng vì sinh mạng của bốn anh em họ Ôn nên cố dằn xuống:
– Một ngàn sáu trăm tạ gạo đâu phải là khó mua, nhưng với số gạo nặng nề như thế chuyên chở cách nào?
Hoàng Chân lắc đầu:
– Khỏi phải chuyên đi đâu cả.
– Thế phải làm cách nào?
– Tôi đã có cách rồi, rất dễ dàng, chỉ giải quyết trong vài giờ là đâu đấy yên xong.
– Cách nào?
– Chở một ngàn sáu trăm tạ gạo tới quý gia trang, cho người loan truyền số dân chúng đang đói trong vùng này cùng quy tụ lại. Các hạ có thể làm chuyện này được chăng?
Minh Đạt gật đầu:
– Được, chẳng có gì khó khăn cả, nhưng các hạ định quy tụ số dân chúng nay để làm gì?
Hoàng Chân buông thõng:
– Phát cho họ!
Minh Đạt khẽ sửng sốt đưa mắt nhìn Hoàng Chân:
– Như thế cũng hay, nhưng chừng nào là chuyện này?
– Chuyện muốn chậm hay mau tùy nơi các tại hạ, chúng tôi vô sự bình yên.
– Mặt trời xế qua giải quyết được không?
– Tốt đấy. Tính sớm như vậy rất ổn, chuyện mua bán cần phải sòng phẳng và nhanh lẹ để còn phải tiếp khách hàng khác.
Từ nãy Hoàng Chân nói ra toàn là những câu bông đùa, khinh khỉnh rất là khó chịu nhưng Minh Đạt không biết phải làm sao vì cần phải cứu bốn anh em bị Thừa Chí điểm huyệt nằm kia.
Hoàng Chân nói:
– Vậy mặt trời xế qua chúng tôi sẽ trở lại giao lãnh hàng hóa, chư vị hãy chuẩn bi đâu đó cho thật chu đáo để khỏi phải bị trễ giao hàng nhé.
Hoàng chân phất tay:
– Viên sư đệ, chúng ta về thôi.
Bọn bốn người của Hoàng Chân trở ra ngoài đi thẳng về hướng khách điếm
Phần Minh Đạt trở vào nhà lấy một số bạc ra thị trấn mua đủ một ngàn sáu trăm tạ gạo thuê xe chở về gia trang.
Hắn sai mười mấy tên gia nhân đi khắp nẻo đường trong vùng loan tin về vụ chẩn bần trong chiều nay.
* * *
Mặt trời vừa nghiêng bóng, Hoàng Chân, Thừa Chí, Thôi Hy Mẫn, và Tiểu Tuệ cùng tới gia trang năm anh em họ Ôn.
Bốn người đi tới nhà họ Ôn đã thấy dân quê tụ họp rất đông đảo. Rồi từng tạ gạo một từ trong thành được gánh tới. Thì ra Ôn Minh Đạt đã sai người vào thành Từ Châu mua gạo từ lúc đêm khuya rồi. Từ Châu là một thành phố lớn ở miền Đông tỉnh Triết Giang sầm uất vô cùng. Nhưng đột nhiên đi mua một nghìn sáu trăm tạ gạo không phải chuyện dễ. Và cũng vì sự nhu cầu đột ngột đó mà giá gạo vọt lên khiến Minh Đạt phải tổn phí thêm mấy trăm lạng bạc nữa.
Mời Hoàng Chân ra kiểm điểm đủ số gạo rồi, Minh Đạt mới bảo người nhà phát chẩn từng đấu một cho các nông dân. Dân chúng các làng bàn tán nghị luận, họ không hiểu tại sao nhà họ Ôn đột nhiên lại cải ác lương thiện như thế? Thấy Minh Đạt làm việc rất cẩn thận, tuy là sự bất đắc dĩ, nhưng cũng vì vậy mà Hoàng Chân không còn nói kháy và chế diễu nữa. Chờ phát hết bốn trăm tạ gạo, Thừa Chí giải huyệt ngay cho Ôn Minh Nghĩa. Tuy đã tỉnh hẳn, nhưng vì chịu đựng ngót một ngày đêm, Minh Nghĩa như người ốm mới khỏi, không còn đủ hơi sức như lúc thường.
Nhộn nhịp đến chiều tối mới chẩn xong 1600 tạ gạo, và bốn anh em họ Ôn cũng đều được giải thoát cả. Thừa Chí vái chào Ngũ lão một cái và nói:
– Có nhiều điều thất lễ, tiểu bối thật áy náy vô cùng.
Hoàng Chân vừa cười vừa nói:
– Các ông đã cho tặng cho nông dân gạo, tuy hơi đau lòng xót ruột một chút, nhưng đã gỡ lại cho Thạch Lương Ôn gia rất nhiều tiếng tăm. Các ông nên rõ, làm việc thiện này rất có lợi cho các ông, chớ không phải cho chúng tôi. Các ông nên nhớ kỹ điều đó!
Bốn người đang định quay trở ra, bỗng từ trong nội đường có hai người đàn bà chạy ra. Người đi trước là Ôn Nghi, người theo sau là Thanh Thanh, con gái bà ta. Khi chạy tới trước mặt Thừa Chí, Ôn Nghi liền hỏi:
– Viên tướng công đi về đấy ư?
Thừa Chí gật đầu trả lời:
– Vâng, cháu đang định vào chào bác đấy ạ.
Ôn Nghi, giọng run run, hỏi:
– Mộ anh ta ở đâu? Tướng công có thể đưa tôi đi thăm viếng được không?
Chưa kịp trả lời, chợt nghe thấy tiếng gió kêu “vù, vù” Thừa Chí biết ngay là có chuyện gì rồi, vội nhảy ra phía trước giơ tay ra với, đã nắm luôn được bốn con phi đao.
Đột nhiên Ôn Nghi rú lên: “Trời ơi!” rồi gục mình nằm phục xuống đất. Một chiếc phi đao cắm trúng giữa lưng bà ta, ngập gần hết chuôi đao. Ôn Nghi ngã xuống bất tỉnh nhân sự ngay.
Tai biến xảy ra quá đột ngột, Thanh Thanh ôm lấy mẹ đỡ dậy và giơ tay định rút phi đao ra. Hoàng Chân vội cản lại:
– Không rút được! Rút ra là chết ngay!
Biết rõ những phi đao đó cho Minh Thi phóng ra, Thừa Chí quay tay ném trở lại, bốn chiếc phi đao đều nhằm thẳng người Minh Thi mà bay tới. Vội nằm xuống đất lăn đi mấy vòng tránh bốn con phi đao, Minh Thi vừa định đứng dậy đã thấy lưng và đùi bên phải bị tê liệt, lại ngã gục xuống đất. Ông ta là tay thiện ném phi đao, Thừa Chí biết rõ bốn con phi đao vừa ném ra, thế nào ông ta cũng tránh được cho nên chàng lại ném tiếp hai con cờ. Vì ghét ông ta quá độc ác, hai con cờ này chàng đều dùng sức nặng ném vào yếu huyệt nên Minh Thi chết giất liền.
Quay đầu lại, Thừa Chí thấy Thanh Thanh ngồi dưới đất ôm lấy mẹ, khóc không ra tiếng. Nhìn kỹ con dao cắm trên lưng Ôn Nghi, Thừa Chí biết không thể cứu được nữa, vội bóp hai bên sườn, bế huyệt đạo nơi đó, để bà ta đỡ bị đau khổ, đồng thời khiến cho máu tạm chạy chậm một chút. Ôn Nghi mỉm cười, nhìn Thanh Thanh nói:
– Thanh, con đừng khóc nữa! Thế là má được đi gặp ba con. Ở cạnh ba con, không ai dám bắt nạt má nữa.
Thanh Thanh vừa khóc vừa gật đầu lia lịa. Ôn Nghi nói với Thừa Chí:
– Viên tướng công, có một việc này, thế nào tướng công phải nói thật cho tôi hay. Đừng có giấu diếm tôi!
Thừa Chí ứa nước mắt trả lời:
– Chẳng hay bác muốn biết chuyện gì ạ?
– Nhà tôi có để lại di chúc không? Có nhắc nhở đến tôi không?
– Thưa bác, Hạ lão tiền bối có lưu lại một tí đồ hình dạy võ công. Hôm qua, sở dĩ cháu phá nổi Ngũ Hành trận là nhờ sử dụng phương pháp di truyền của Hạ lão tiền bối đấy! Như vậy cũng có thể gọi là cháu đã báo thù hộ ông ta, và chắc ông ta ở dưới chín suối cũng được nguôi giận một phần nào.
Ôn Nghi lại nói:
– Nhà tôi có viết thơ để lại cho tôi không?
Thừa Chí lắc đầu, Ôn Nghi thất vọng nói tiếp:
– Vì chàng ta ăn phải bát chè sen có pha thuốc mê nên mới bị mất hơi sức. Mà bát chè đó lại do chính tay tôi đưa cho chàng ăn. Nhưng quả thật, tôi không hề biết một tí gì cả.
Thừa Chí an ủi:
– Hạ lão tiền bối thể nào cũng biết rõ chuyện đó. Chắc ông ta không trách cứ bác đâu.
– Chắc chàng vì đau lòng quá nổi. Thể nào cũng trách tôi hãm hại ngầm chàng.
Bây giờ, tuy đã biết rõ nhưng cũng muộn mất rồi!
Thấy bà ta sắp chết đến nơi mà vẫn còn ân hận chuyện cũ, Thừa Chí định nói thêm vài câu an ủi, nhưng thấy bà ta yếu ớt dần hai tay đã từ từ buông xuôi, Thừa Chí sực nhớ tới tờ bản đồ ghi chỗ chôn của báu ở trong cuốn Bí kíp, trong đó có nhắc tới tên Ôn Nghi, vội móc túi lấy ra và nói:
– Mời bác xem tờ giấy này!
Lúc ấy mắt Ôn Nghi đã nhắm dần, lại từ từ mở to, tinh thần phấn chấn, rú lên:
– Phải chữ của chàng ta đấy! Tôi vẫn nhận được nét chữ của chàng mà.
Thấy bà ta bỗng nhiên hớn hở như đứa con nít, Thừa Chí phải động lòng thương xót. Ôn Nghi khẽ đọc mấy hàng chữ ghi bên cạnh bức bản đồ: “Người được bản đồ này thể nào cũng xin tới làng Thạch Lương, phủ Từ Châu, tỉnh Triết Giang tìm kiếm cho được Ôn Nghi tìm kiếm cho được Ôn Nghi Phải, Ôn Nghi là tôi đây! tặng cho nàng mười vạn lạng vàng hộ tôi.”
Nét mặt bỗng tươi tỉnh hơn trước, bà ta nắm lấy tay Thừa Chí, rồi nói tiếp:
– Chàng không trách cứ tôi! Tôi không cần lấy vàng, chỉ cần biết lòng chàng vẫn còn thương nhớ tới tôi thôi! Chàng nhớ tôi! Bây giờ tôi phải đi đây! Đi gặp chàng đây!
Biết rằng hơi sức của bà ta đã đến lúc tận kiệt, Thừa Chí đang nói mấy lời an ủi Thanh Thanh, Ôn Nghi bỗng mở trừng đôi mắt, và nói:
– Viên tướng công! Có hai việc này tôi muốn nhờ tướng công giúp cho Thể nào tướng công cũng phải nhận lời nhé?
Thừa Chí trả lời:
– Xin bác cứ nói, việc gì sức cháu có thể làm được không bao giờ cháu dám từ chối.
– Việc thứ nhứt là: Tướng công chôn tôi ở cạnh chàng. Việc thứ hai việc thứ hai
Chương 10: Yêu Nhau Lắm Cắn Nhau Đau
Thừa Chí vội hỏi:
– Việc thứ hai là gì? Xin bác nói luôn đi!
Ôn Nghi nói:
– Tướng công, hai người hai người
Lấy tay chỉ vào Thanh Thanh, Ôn Nghi đã hết hơi không nói tiếp được nữa, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống, chết liền. Thừa Chí để tay lại gần mũi bà ta thì không thấy thở nữa. Thanh Thanh nằm phục bên cạnh xác mẹ, khóc lóc, rồi vì đau đớn và bị cảm xúc quá nhiều, nàng chết giấc liền. Sợ hãi vô cùng, Thừa Chí vội kêu:
– Chú Thanh, chú Thanh!
Hoàng Chân nói:
– Nàng đau đớn quá nên ngất đi đấy thôi. Không sao đâu!
Rồi phun khói vào mũi Thanh Thanh. Chỉ thấy hắt hơi mấy cái nàng tỉnh lại dần dần, hai mắt lơ láo như người mất hồn vía.
Thừa Chí liền hỏi:
– Chú Thanh, chú đã đỡ chưa?
Nàng không trả lời. Hoàng Chân và Tiểu Tuệ không biết rõ sự quan hệ giữa Thừa Chí và mẹ con nàng ra sao, đều cảm thấy lạ lùng. Mọi người đều nghĩ thầm: “Mẹ con nàng hình như là người của phái Thạch Lương nhưng tại sao họ lại bị người nhà mưu hại như thế?”
Vì không hiểu rõ nông nổi, nên không ai dám thêm ý kiến. Thừa Chí ứa lệ nói:
– Chú Thanh! Chú phải đi với chúng tôi! Không thể ở đây được đâu!
Thanh Thanh vẫn ngơ ngác, chỉ gật đầu chớ không nói năng gì cả. ẵm xác Ôn Nghi lên, Thừa Chí dẫn đầu đi ra, còn Hoàng Chân, Thanh Thanh, Tiểu Tuệ, Hy Mẫn thì theo sau.
Bọn Minh Đạt thấy anh em Thừa Chí tự do thao túng, xử trí mọi việc và tự tiện đem cháu gái mình đi, đều tức giận vô cùng. Nhưng trận đấu hôm qua, đã khiến ai nấy đều kinh hồn, không dám bước ra ngăn cản nữa.
Hoàng Chân dặn bảo Hy Mẫn:
– Một trăm lạng bạc này, con đem tặng người chủ nhà đã cho bọn ta ngủ trọ, và bảo họ phải dọn nhà đi ngay tức thì.
Hy Mẫn không hiểu tại sao liền hỏi:
– Tại sao lại bắt người ta phải dọn nhà đi?
– Với chúng ta, phái Thạch Lương bất đắc dĩ phải chịu nhịn. Tất nhiên họ sẽ “giận cá chém thớt.” Thế nào cũng đi kiếm người cho chúng ta ở trọ để hành hạ cho đỡ tức.
Hy Mẫn gật đầu:
– Sư phụ nghĩ chu đáo lắm!
Nói xong, chàng chạy như bay đi liền.
Bốn người chờ tới khi Hy Mẫn quay trở lại mới vòng theo con đường nhỏ, rời khỏi Thạch Lương. Đi được ba mươi dặm, thấy trên sườn núi có một ngôi miếu đã đổ nát, trên đầu cổng có ba chữ lớn “Linh Quan Miếu” nhưng trông rất lờ mờ không rõ.
Hoàng Chân lên tiếng:
– Hãy vào trong miếu nghỉ ngơi đã!
Bước vào căn miếu đó, thấy mạng nhện và cát bụi phủ đầy, đồ đạc mục nát gần hết, cả năm người vào giữa điện ngồi nghỉ. Hoàng Chân nói:
– Di thể của bà này bây giờ tính toán sao? Chôn cất ngay đây, hay là vào thành kiếm phu đòn để khâm liệm?
Thừa Chí cau mày, không nói năng gì cả. Hoàng Chân lại nói tiếp:
– Hay là vào thành mua chiếc quan tài khâm liệm cho bà ta? Quan phủ sẽ tra hỏi tại sao bà ta mất? Chúng ta tuy không sợ, nhưng dù sao cũng vẫn thấy phiền phức lắm.
Ý nghĩa lời nói của ông ta là nên chôn cất ngay tại đó. Thanh Thanh khóc lóc, rồi nói:
– Không được! Má em đã nói muốn được chôn cạnh mộ ba em kia mà!
Hoàng Chân hỏi:
– Di thể của lịnh tôn chôn cất ở đâu?
Thanh Thanh không trả lời được liền đưa mắt nhìn Thừa Chí. Thừa Chí hiểu ý đáp ngay:
– Chôn ở trên núi Hoa Sơn của chúng ta!
Nghe thấy chàng nói, bốn người đều ngạc nhiên, Thừa Chí lại nói tiếp:
– Phụ thân của nàng là Hạ lão tiền bối, xưa kia vẫn lừng danh là giang hồ quái kiệt Kim Xà Lang Quân đấy!
Tuổi Hoàng Chân cũng xấp xỉ tuổi Hạ Tuyết Nghi. Lúc ông bước chân vào giang hồ, oai danh của Kim Xà Lang Quân đã chấn động khắp chốn võ lâm rồi, nên khi nghe thấy Thừa Chí nhắc đến tên Kim Xà Lang Quân, Hoàng Chân ngồi trầm ngâm giây lát, rồi nói:
– Tôi có một ý kiến, cô nương nghe rồi đừng trách cứ tôi nhé?
Thấy Hoàng Chân là người có tuổi, Thanh Thanh đáp:
– Xin bác cứ dạy!
Hoàng Chân chỉ vào Thừa Chí:
– Chú ấy là sư đệ của tôi. Cô gọi tôi là bác, tôi đâu dám nhận. Thôi từ nay cô cứ gọi là đại ca đi!
Hy Mẫn trợn mắt nhìn Thanh Thanh trong bụng nghĩ thầm: “Như vậy ta phải gọi con nhãi ranh này là cô kia à?”
Thanh Thanh đưa mắt nhìn Thừa Chí như thầm hỏi ý kiến, rồi đổi luôn giọng xưng hô ngay:
– Hoàng đại ca đã dạy bảo, tiểu muội xin nghe theo!
Hy Mẫn giựt mình, tự bảo thầm: “Nguy to! Nguy to! Con nhỏ này thật thà quá đổi, đã gọi ngay thầy ta là Hoàng đại ca rồi!”
Thật quả lúc đó Hoàng Chân đâu có ngờ rằng trong đầu óc tên học trò ngốc ấy lại nghĩ lắm chuyện quá tự ái như thế? Ông ta liền nói với Thanh Thanh:
– Nếu ý định lệnh đường truyền lại, muốn được hợp táng với lệnh tôn, thì chúng ta cũng phải hoàn thành đúng như tâm nguyện của bà mới được. Nhưng ta tạm gác bỏ vấn đề khó khăn về sự chuyển vận linh cữu, từ đây tới Hoa Sơn xa xôi hàng nghìn dặm, không nói tới vội. Hãy nói tới vấn đề, dù linh cữu đã tới chân núi Hoa Sơn rồi, cũng không sao khiêng nổi lên trên đỉnh núi kia mà!
Thanh Thanh hỏi:
– Vậy biết làm sao được bây giờ?
Thừa Chí nói:
– Núi Hoa Sơn hiểm trở khó lên lắm, người nào hơi kém võ công là không thể lên được tới đỉnh. Còn vấn đề chuyển vận linh cữu thì không có cách gì làm nổi.
Hoàng Chân nói:
– Ngoài ra, còn có một cách là đem hài cốt của lệnh tôn xuống dưới hợp táng với lệnh đường. Nhưng di hài của lệnh tôn đã an táng bao nhiêu lâu rồi, nay bỗng dưng lại động chạm tới tôi e không tiện.
Thấy lời nói đó hợp tình hợp lý lắm, Thanh Thanh lo quá khóc lóc và hỏi:
– Vậy biết làm thế nào bây giờ?
Hoàng Chân nói:
– Theo ý tôi thì bây giờ chỉ có cách hỏa thiêu di thể của lệnh đường, rồi đưa đống tro hài cốt lên trên đỉnh núi an táng, là thuận tiện và hoàn hảo hơn cả.
Tuy không muốn làm như thế, nhưng Thanh Thanh cũng không nghĩ ra được cách nào khác tốt hơn, đàng phải ngậm lệ gật đầu. Thế là mọi người đi nhặt củi và cỏ khô, hỏa thiêu di hài của Ôn Nghi. Từ thuở lọt lòng mẹ, rồi từ bé đến lớn, Thanh Thanh hoàn toàn sống trong một đại gia đình luôn chỉ độc có những tình cảm lạnh lùng và vô tình bao vây xung quanh. Ngoài người mẹ ra không có một người nào thật tâm thương yêu nàng cả. Suốt ngày, chỉ bị người ta nhạo báng, chế diễu, và khinh khi, vì vậy nàng mới có những tánh nết quái dị như thế. Bây giờ trông thấy người mà nàng yêu mến nhứt đời dần dần tiêu tan trong đống lửa hồng, nàng mới quá thương cảm mà phục xuống đất khóc lóc thảm thiết. Mọi người biết không thể nào khuyên can và an ủi nổi, đành để cho nàng khóc lóc cho thật đã đời, như thế mới có thể làm tan hoặc vơi bớt đi một phần nào những sự tấm tức, nhớ thương trong lòng.
Vào trong miếu đổ nát, kiếm được một cái hũ sành, chờ cho đống lửa tắt hẳn, Thừa Chí nhặt hài cốt bỏ vào, đoạn vái hai vái, miệng lẩm nhẩm khấn:
– Xin bác cứ yên tâm, thế nào cháu cũng đưa tro hài cốt này lên trên đỉnh núi Hoa Sơn an táng, cháu quyết không phụ lời phó thác của bác!
Thấy mọi việc đã xong xuôi, Hoàng Châu bảo Thừa Chí rằng:
– Chúng ta phải đem số vàng này đến trấn Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Sấm Vương đã phái rất nhiều anh em liên lạc khắp các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, Giang Tây, Hà Nam, để chờ đợi lúc Trung Nguyên khởi sự là phía Nam cũng khởi nghĩa hưởng ứng. Viên sư đệ cướp lại được số vàng này, thật là công của sư đệ lớn lắm!
Thanh Thanh nói:
– Quả thật tiểu muội không biết số vàng này lại quan trọng như vậy! Nếu không có hai vị đại ca ra cướp lại, có phải đã làm lỡ hết đại sự Sấm Vương rồi không?
Thôi Hy Mẫn nói:
– Quý hồ cô biết được là may mắn lắm rồi!
Không bao giờ chịu thua ai bằng lời nói nào cả, Thanh Thanh trả đũa ngay:
– Nếu Hoàng đại ca không thân chinh hộ tống số vàng này em e rằng dọc đường còn xảy ra nhiều chuyện nữa đấy!
Lời nói đó ám chỉ Hy Mẫn và Tiểu Tuệ đã bất lực, hộ tống không nổi số vàng này, nên mới để cho nàng cướp được. Hy Mẫn định trả lời chỉ trích lại, nhưng Hoàng Chân đã ra lệnh ngầm bằng mắt, cấm không cho hắn được nói nữa. Một lát sau, Hoàng Chân nói với Thừa Chí và Thanh Thanh:
– Viên sư đệ và Ôn cô nương không bận việc gì, cùng đi cả với chúng tôi tới Cửu Giang cho vui?
Thừa Chí đáp:
– Tiểu đệ muốn lên Nam Kinh chào sư phụ, xem sư phụ có sai bảo gì không? Và cũng nhân tiện đi thăm Thôi thúc thúc một thể.
– Sư phụ và chú Thôi Sơn đã trở về Thiểm Tây rồi. Lúc này quân vụ khẩn cấp lắm.
Việc Sấm Vương đại tấn công, chỉ nội nay mai là phát động rồi.
Thừa Chí giựt mình nghĩ thầm: “Đó là thời cơ thuận tiện để trả thù cho cha ta đây!”
Mắt đỏ ngầu, chàng nói:
– Nếu vậy, tiểu đệ phải về ngay Thiểm Tây yết kiến sư phụ, không đi Cửu Giang nữa. Đại ca nghĩ sao?
Chàng rất tôn trọng sư huynh nên việc gì cũng phải hỏi qua ý kiến sư huynh trước.
Hoàng Chân nói:
– Sấm Vương đại cử tấn công, cần dùng rất nhiều nhân tài. Tài ba lỗi lạc như sư đệ, nếu ra phò tá Sấm Vương thì còn gì tốt bằng. Sau này, vì dân diệt trừ gian tặc, chú sẽ phải vất vả nhiều!
– Xin đại sư huynh dạy bảo cho!
– Chú lễ phép quá. Thôi chúng ta hãy tạm biệt nhau tại nơi đây!
Hoàng Chân nói xong, quay đầu đi luôn, Hy Mẫn cũng chào bái biệt sư thúc. Tiểu Tuệ nói với Thừa Chí:
– Thừa Chí đại ca! Chúc anh lên đường mạnh giỏi!
Thừa Chí gật đầu, nói:
– Tôi xin gửi lời hỏi thăm thím An. Chúc cô thượng lộ bình an!
– Má em vẫn nhắc nhở tới anh luôn. Nếu biết anh trở nên vạm vỡ và tài hoa thế này, má em thế nào cũng vui sướng khôn xiết tả. Thôi, em đi đây!
Vái chào Thừa Chí xong, Tiểu Tuệ vội vàng đuổi theo Hoàng Chân và Hy Mẫn, cùng đi về phía Nam. Vừa đi, nàng vừa quay đầu lại vẫy tay chào, Thừa Chí cũng giơ tay chào lại, cho tới khi khuất bóng ba người mới thôi.
Thanh Thanh “hừ” một tiếng rồi nói:
– Sao anh không đuổi theo vẫy tay chào nữa đi?
Thừa Chí đứng ngẩn người giây lát, không hiểu ý nghĩa lời nói móc của nàng.
Thanh Thanh lại nói:
– Sao anh không theo cô ta đi? Mà cứ vẩn vơ luyến tiếc mãi không dứt thế này?
Thừa Chí lúc này mới hay, vì lẽ đó mà nàng tức giận, liền vừa cười vừa nói:
– Hồi nhỏ tôi ngộ nạn, được má cô ta cứu giúp. Tôi và cô ta quen biết nhau từ hồi còn nhỏ và cũng vui chơi một nơi, vẫn quý mến nhau như anh em một nhà.
Thanh Thanh càng tức giận thêm, cầm một hòn đá, cứ đập bừa vào thềm đá, đom đóm lửa bật tung lên. Một lát sau, nàng liền nói kháy rằng:
– Thế mới gọi là “Thanh mai trúc mã”, quen biết nhau từ tuổi còn thơ chứ gì?
Cảm thấy tính nết cô nọ bướng bỉnh, không thể dùng lý lẽ khuyên can nổi, Thừa Chí chỉ có cách làm thinh.
Thanh Thanh giận dữ nói:
– Tại sao anh với cô ta chuyện trò tươi cười như thế? Mà với em thì cứ lỳ lỳ chẳng nói chẳng rằng!
– Tôi vẫn vui vẻ trò chuyện đấy chớ!
– Phải, má người ta tốt lắm, lúc anh còn nhỏ đã cứu anh, thương anh. Còn tôi thì không có má như người ta!
Nói tới đó, Thanh Thanh lại để cho giọt lệ tuôn rơi. Thừa Chí vội khuyên giải rằng:
– Thôi, cô đừng nên giở cái tánh tiểu thơ ra nữa. Chúng ta cần phải bàn định xem sau này chúng ta phải làm những gì.
Mặt đang nhợt nhạt, bỗng dưng đỏ liền, Thanh Thanh nói:
– Còn bàn định cái gì nữa? Anh thì đuổi theo em Tiểu Tuệ. Còn tôi, kẻ đau khổ này, sẽ đi phiêu bạt nơi chân trời góc biển.
Thừa Chí không biết trả lời ra sao, trong lòng suy tính, bây giờ làm thế nào mà xếp đặt cho cô bé trẻ tuổi này được yên ổn? Quả thật là nan giải! Thấy chàng khôngnói năng gì cả, Thanh Thanh đứng dậy, bưng luôn cái chĩn đựng tro hài cốt của mẹ, quay đầu đi thẳng. Thừa Chí vội hỏi:
– Em đi đâu thế?
Thanh Thanh nói:
– Anh để mặc tôi!
Nàng cứ theo phương Bắc mà đi. Bất đắc dĩ, Thừa Chí đành phải theo sau. Suốt dọc đường, nàng không nói năng nửa lời, Thừa Chí có ý gợi chuyện, nàng vẫn làm thinh như thường.
Khi tới trấn Kim Hoa, Thanh Thanh mua mũ và quần áo, cải trang đàn ông. Biết nàng ra đi vội vàng, bên người tất không sẵn tiền, nhân lúc nàng đi phố, Thừa Chí nhét hai thoi vàng vào trong bọc áo của nàng. Khi trở về, nàng lại đem vàng sang trả chớ không chịu lấy. Đêm hôm đó, nàng làm đạo chích trộm được năm trăm lạng bạc tại một nhà phú hộ nọ. Sáng hôm sau, vụ án đó đã đồn khắp thành Kim Hoa.
Thừa Chí biết nàng đã ra tay hành động, chỉ có chau mày lắc đầu, chớ không dám trách móc nàng nửa lời. Dù là người có võ công thượng thặng thật, nhưng đối phó với một cô gái khó tánh như vậy, Thừa Chí cũng phải bó tay chịu hàng.
Muốn dùng lời lẽ êm dịu để van lơn nàng, thì chàng không muốn mất sĩ diện như thế! Còn bỏ mặc nàng, không đếm xỉa tới nữa, Thừa Chí không đành nhẫn tâm để cho một thiếu nữ cô đơn phải đi lang bạt giang hồ. Nghĩ lui nghĩ tới, chàng không biết làm thế nào cho phải.
Hôm đó, hai người rời khỏi thành Kim Hoa, đang đi về Thành Nghĩa. Ôn Thanh Thanh hậm hực đi trước, Thừa Chí vẫn lẽo đẽo theo sau. Bỗng mây đen kéo tới, hai người đều biết trời sắp mưa to, vội rảo cẳng đi cho mau. Nhưng mới đi được năm dặm, mưa đổ xuống như thác nước. Thừa Chí tánh cẩn thận, lúc nào cũng đem theo chiếc dù.
Còn Thanh Thanh ngại cầm dù phiền phức, nên không đem theo đành phải giở khinh công ra chạy. Bực nhứt hai bên đường không có đình miếu gì cả. Thấy nàng dùng khinh công phóng chạy, Thừa Chí cũng phải rảo cẳng đuổi theo. Khi tới cạnh nàng, liền đưa dù cho nàng dùng nhưng nàng đẩy dù ra không cầm.
Thừa Chí nói:
– Chú Thanh, chúng ta là anh em kết nghĩa, đã thề sống chết có nhau, họa phúc cùng chịu, tại sao bây giờ chú lại giận anh như thế?
Thấy chàng nói như vậy, Thanh Thanh bớt giận trả lời:
– Anh muốn tôi không giận, phải nghe theo tôi một điều này.
– Chú cứ nói đi, mười điều anh cũng xin theo.
– Từ nay trở đi, anh không được gặp mặt An cô nương và má cô ta nữa. Nếu anh nhận lời, em xin lỗi anh ngay.
Nói xong, nàng nhếch mép cười liền. Thừa Chí khó xử quá, chàng nghĩ thầm: “Mẹ con nàng Tiểu Tuệ có ơn với mình, sau này thế nào ta cũng kiếm cách báo đền. Nay vô duyên, vô cớ tránh mặt không gặp người ta, như thế sao được.”
Chàng là người thật thà trung thành, không thể lừa dối nàng mà cứ nhận bừa đi cho được êm chuyện. Vì vậy, chàng phân vân không biết trả lời thế nào cho phải. Thấy thế, Thanh Thanh giở mặt liền:
– Tôi biết mà, có khi nào anh nỡ bỏ em Tiểu Tuệ của anh!
Nói xong, nàng lại quay đầu chạy thẳng. Thừa Chí vội gọi:
– Chú Thanh, chú Thanh!
Thanh Thanh cứ cắm đầu chạy, không chịu đứng lại. Chạy được một quãng, thấy bên đường có cái đình nghỉ mát, nàng chạy thẳng vào. Thừa Chí cũng chạy theo vào.
Trời nóng nực, nàng lại mặc áo đơn rất mỏng, nay bị nước mưa ướt đẫm, áo quần dính sát vào người, trông rất khó coi, nàng xấu hổ quá, gục đầu xuống lan can đình vừa khóc vừa kêu gào:
– Anh cứ bắt nạt tôi! Anh cứ bắt nạt tôi!
Thừa Chí nghĩ: “Lạ thật! Mình có bắt nạt nàng hồi nào đâu?”
Tuy vậy, chàng vẫn chịu đựng không cãi lại, cởi áo dài ra, phủ lên trên người nàng. Nhờ chiếc dù, áo chàng không bị ướt. Nghĩ đến cái chết bi đát của mẹ nàng, nàng lại càng khóc lớn hơn trước. Thừa Chí cuống quít cả lên, không biết làm thế nào cho phải. Một lát sau, mưa tạnh dần, Thanh Thanh vẫn khóc không dứt. Nàng đưa mắt nhìn trộm thì Thừa Chí đang nhìn mình, vội quay đầu tiếp tục khóc như trước. Thừa Chí đành liều không nói gì nữa, và nghĩ thầm: “Thử xem cô có bao nhiêu nước mắt nào?”
Hai người đang cầm cự không ai chịu đấu dịu trước, bỗng có tiếng chân ở phía Bắc đi tới. Một thanh niên nhà nông đỡ một thiếu phụ đi vào trong đình. Thiếu phụ đó đang đau ốm, rên rỉ luôn mồm.
Nông dân nọ hình như là chồng nàng, ra vẻ rất thương vợ, cứ an ủi luôn mồm. Thấy có người lạ vào, Thanh Thanh vội nín ngay.
Thừa Chí sực nghĩ ra một kế: “Ta thử cách này xem.”
Một lát sau, đôi vợ chồng nhà nông đỡ nhau đi ra khỏi đình. Thanh Thanh thấy mưa đã tạnh hẳn, đang định sửa soạn đi, Thừa Chí bỗng kêu:
– Ối chà! ối chà!
Thanh Thanh giựt mình sợ hãi, quay đầu lại, trông thấy chàng đang ôm bụng ngồi xụm xuống, vộ chạy lại xem. Nhờ nội công tinh xảo, Thừa Chí chỉ vận hơi một cái là đầu trán mồ hôi chảy ra như tắm. Thanh Thanh sợ quá, vội hỏi:
– Làm sao thế? Anh đau bụng đấy à?
Thừa Chí nghĩ thầm: “Đã giả bộ thì phải giả bộ tới cùng.”
Nghĩ đoạn, chàng vận lại hơi làm bế tắc các yếu huyệt lại, Thanh Thanh sờ tay chàng thấy lạnh như sắt đá càng hoảng sợ thêm.
Thấy Thừa Chí bỗng đau nặng, Thanh Thanh sợ hãi quá, vội hỏi:
– Anh làm sao thế? Đau ở đâu?
Thừa Chí chỉ rên ầm ĩ chớ không chịu trả lời nàng. Lo sợ quá, Thanh Thanh lại khóc.
Thừa Chí nói:
– Chú Thanh ơi! Bịnh của tôi không khỏi được đâu. Chú để mặc tôi. Chú cứ lên đường một mình đi!
– Sao bỗng tự dưng anh lại đau thế này!
Thừa Chí làm ra bộ yếu hơi yếu sức trả lời:
– Từ thuở nhỏ, tôi có chứng bịnh là không thể nào chịu nổi sự tức tối được nếu ai làm tôi bực mình, lo nghĩ một cái, là đau tim đau bụng liền ối trời ơi! Đau quá!
chết mất thôi!
Lúc này, không còn để ý tới “nam nữ thọ thọ bất thân” nữa, Thanh Thanh ôm choàng lấy chàng, xoa ngực xoa bụng luôn tay. Bị nàng ôm như vậy, Thừa Chí ngượng quá, đành phải để yên, chớ không dám kháng cự, Thanh Thanh vừa khóc vừa nói:
– Thừa Chí đại ca ơi! Do em mà nên cả. Xin anh đừng giận em nữa!
Thừa Chí nghĩ: “Nếu ta không tiếp tục giả bộ, nàng sẽ cho ta là người không đứng đắn, mượn thế cầu lợi.”
Đã cỡi trên lưng hổ, chàng đàng phải cúi đầu rên rỉ:
– Có lẽ tôi chết mất! Chú chôn cất tôi xong, làm ơn báo tin cho đại sư huynh tôi hay!
Càng giả dạng, càng làm như thật, chàng cứ phải cố nhịn cho khỏi phì cười.
Thanh Thanh vẫn khóc:
– Anh không thể chết được! Anh có biết đâu, em giả bộ hờn giận để chọc tức anh đấy chớ! Sự thật, lòng em lòng em vẫn yêu anh. Nếu anh chết, em cũng không thể nào sống được nữa!
Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Thế ra, nàng đã yêu ta!”
Đây là lần đầu tiên mà chàng được hiểu thế nào là hương vị của ái tình, nên trong lòng chàng có một cảm giác lạ lùng là vui mừng và cũng là xấu hổ. Vì vậy, chàng cứ ngây người ra, không nói nửa lời. Tưởng chàng sắp chết đến nơi thật, nàng càng ôm chặt lấy chàng, miệng thì kêu gọi:
– Đại ca! Đại ca đừng chết!
Ngửi thấy hơi thở của nàng thơm của hoa lan, chàng buông nhũn người tựa vào lòng nàng, ngây ngất như kẻ mất hết hồn vía. Nhưng chàng giựt mình tỉnh ngộ ngay, tự bảo thầm: “Thù cha chưa trả, không thể nào nghĩ tới tình yêu được. Vả lạ, ta là đại trượng phu quanh minh chánh đại, không nên lừa gạt một thiếu nữa yếu đuối như thế!”
Lúc ấy, Thanh Thanh lại gọi:
– Em tức giận giả dối đấy, anh đừng có cho là thật.
Thừa Chí cả cười rồi nói:
– Tôi cũng ốm đau giả dối đấy, em đừng có cho là thật!
Thanh Thanh ngẩn người giây lát bỗng đứng dậy, tát luôn một cái. Bị đánh mạnh quá, mắt Thừa Chí hoa lên, chỉ trông thấy những tia lửa. Thanh Thanh ôm mặt, cúi đầu đi liền. Thừa Chí ngơ ngác không hiểu tại sao, nghĩ thầm: “Vừa rồi, nàng nói yêu ta lắm, nếu ta chết nàng cũng không thể sống! Sao bỗng dưng nàng giở mặt đánh ta như vậy?”
Chàng không hiểu thấu tâm sự của nàng, cứ đi theo sau. Tát chàng một cái, cơn giận đã dịu bớt hẳn, nàng cảm thấy khoái vô cùng. Trông thấy má bên trái của chàng đỏ gay và hiện rõ vết năm ngón tay của mình, Thanh Thanh rất ân hận nhưng cũng khoái chí nữa. Nghĩ tới đã vô ý thổ lộ hết tâm sự với chàng, nàng cảm thấy vừa xấu hổvừa khó chịu. Chiều tối hôm đó, đi tới Nghĩa Ô, nàng vào trọ một khách điếm, rồi ra ăn cơm. Thừa Chí cũng ngồi vào bàn ăn đó, Thanh Thanh mỉm cười:
– Cứ mặc đây đi, theo sát người ta thế này thật đáng ghét quá!
Thừa Chí sờ má rồi nói:
– Bụng tôi đau là đau giả hiệu, còn cái má này mới đau thật sự.
Thanh Thanh khoái chí cười ồ, thế là hai người lại hòa hảo như trước. Cơm xong, trò chuyện phiếm một lúc, rồi ai về phòng người nấy ngủ. Thấy chàng đối xử với mình hòa nhã và có lễ độ như vậy, Thanh Thanh mừng thầm.
Sáng ngày hôm sau, vừa ngủ dậy, Thừa Chí nói:
– Chú Thanh, việc thứ nhứt chúng ta phải làm là đưa hài cốt bác gái lên núi Hoa Sơn an táng.
– Vâng, nhưng tại sao anh tìm ra được di cốt của ba em thế?
– Chuyện này để khi đi đường, tôi nói cho mà nghe.
Hai người đi về phía Bắc, Thừa Chí đem chuyện con đười ươi (khỉ đột) làm thế nào tìm thấy hang núi, rồi chàng vào trong hang, trông thấy xương cốt, đào thấy hộp sắt và họa đồ, vân vân, kể cả cho nàng nghe.
Thừa Chí vừa kể tiếp tới chuyện Trương Xuân Cửu và tên hòa thượng, Thanh Thanh liền rùn mình sợ hãi nói:
– Tên Trương Xuân Cửu là đồ đệ của ông Tư em, tánh rất gian ác. Còn tên hòa thượng đó có phải giữa mặt có cái thẹo không?
– Phải chính y đấy.
– Tên y là Ngộ Ân, đồ đệ của ông Hai em. Từ khi ba em mất tích, các ông em phái mười mấy đệ tử đắc lực đi tìm kiếm khắp mọi nơi. Cứ cách ba năm, chúng phải về báo cáo một lần. Hai tên ấy độc ác, gian xảo khôn tả. Chúng chết như vậy thật là đáng lắm! Ba em mất rồi mà còn dùng kế giết được kẻ địch, thật là tài ba quá!
– Sau khi họ biết tôi có chút liên quan với bác trai, thế nào chúng cũng sẽ lùng kiếm tôi thật ráo riết.
– Nhưng họ có đủ tài hạ nổi anh đâu mà anh phải lo ngại? Nếu ba em còn sống, trông thấy anh đánh họ tơi bời như vậy, thế nào cũng mừng lắm Ừ, phải đấy, má em đã trông thấy, thể nào cũng kể lại cho ba em hay anh đưa cho em xem bút tích của ba em!
Thừa Chí đưa bức họa đồ cho nàng xem, rồi nói:
– Đây là vật của ba chú để lại, tôi trao trả cho chú mới phải.
Trông thấy bút tích của Kim Xà Lang Quân, Thanh Thanh vừa đau lòng, vừa vui mừng. Từ đó, hễ đến nơi nào nghỉ chân là nàng lấy bức họa đồ ra xem và vuốt ve. Một hôm, đi tới Tùng Giang, Thanh Thanh bỗng hỏi:
– Đến Nam Kinh, chúng ta hãy đi đào bảo vật trước nhé?
Thừa Chí ngạc nhiên:
– Bảo vật nào?
Thanh Thanh nói:
– Bức họa đồ của ba em chẳng nói rõ: “Trọng bảo chi đồ” là gì? Ba em còn dặn, người nào tìm kiếm được vật báu phải tặng lại cho má em mười vạn lạng vàng. Như vậy, những bảo vật chôn giấu kia tất phải quý giá lắm?
Ngẫm nghĩ giây lát, Thừa Chí đáp:
– Tuy vậy nhưng chúng ta hãy nên làm việc chánh đáng của ta trước đã!
Lúc này, trong lòng chàng chỉ muốn gặp sư phụ xong là đi báo thù cho cha ngay.
Thanh Thanh nói:
– Bây giờ đã có sẵn họa đồ, chúng ta đi kiếm ngay số châu báu kia, em thiết tưởng chả mất bao nhiêu thời giờ của chúng ta đâu!
– Chúng ta lấy được châu báu, vàng bạc bây giờ để làm gì? Chú Thanh, tôi khuyên chú nên thay đổi hẳn tâm tính, đừng nên tham vọng vào những của báu ấy!
Tiếp theo đó, chàng còn khuyên Thanh Thanh một hồi nữa. Nàng bực mình, bĩu môi, phồng mồm, hờn giận và không ăn cơm chiều.
Thanh Thanh nói:
– Đại ca! Em mới lấy có hai nghìn lạng vàng của Sấm Vương mà họ đã lo sợ đến nỗi phải nhờ đại sư huynh của anh thân chinh đi lấy lại! Tại sao Sấm Vương lại keo kiệt đến thế?
– Sấm Vương có phải là người keo kiệt như chú tưởng đâu! Anh đã được gặp ông ta rồi. Là người rất khinh tài trọng nghĩa, ông ta chỉ lo giải trừ đau khổ cho dân chúng.
Còn riêng ông ta thì rất tiết kiệm. Đó mới thật là đại anh hùng, đại hào kiệt. Số vàng hai nghìn lạng đó, ông ta đang cần dùng tới, tất nhiên không khi nào chịu để cho mất đi một cách dễ dãi như thế!
Thanh Thanh nói:
– Anh nói rất phải. Nếu chúng ta dưng cho ông ta hai vạn lạng vàng, hoặc là hai trăm vạn lạng vàng, hai nghìn vạn lạng vàng. Anh bảo như thế có nên không?
Một lời cảnh tỉnh Thừa Chí, chàng mừng quá, quên cả phép tắc, nắm chặt lấy hai tay Thanh Thanh:
– Chú Thanh, tôi thật u mê quá. May là có chú nhắc nhở cho, thật cám ơn chú quá!
Thanh Thanh rút tay lại, trả lời:
– Em không dám! Sau này chỉ mong anh ít chửi bới là em được mãn nguyện lắm rồi!
Thừa Chí vội cười nịnh:
– Nếu chúng ta đào được số vàng bạc châu báu đó, đem đến cho Sấm Vương thì không khác gì chúng ta đã ban ân huệ cho dân chúng.
Hai người ngồi bên bờ đường, giở họa đồ ra xem cho kỹ, thấy trong họa đồ có vẻ một khuyên đỏ, bên cạnh có chú thích: “Ngụy Quốc Công Phủ” bốn chữ.
Thừa Chí nói:
– Bảo tàng ở dưới đất một căn phòng hoang trong phủ Ngụy Quốc Công, đào xuống khá sâu, mở tấm phản bằng sắt lên, thấy mười chiếc hòm bằng sắt rất lớn. Đó là những hòm vàng bạc châu báu đấy
– Bây giờ, chúng ta tới Nam Kinh, kiếm được Ngụy Quốc Đồng phủ là lấy được kho tàng đó ngay.
– Ngụy Quốc Công là phong hiệu của Đại tướng quân Từ sử. Ông ta là vị đại thần có công nhứt với bổn triều. Vậy thì phủ của ông ta phải to lớn lắm. Dù vào được trong phủ, chúng ta đào lấy kho tàng kếch sù ấy, cũng không phải là chuyện dễ.
– Bây giờ chúng ta cứ đoán suông, tính hão mãi cũng vô cùng. Chi bằng hãy tới Nam Kinh trước, rồi tùy cơ ứng biến sau.
Mấy ngày sau, hai người đã đi tới thành Nam Kinh. Nơi đây thành phố lớn nhứt nước Trung Hoa, và cũng là chỗ khai cốt kiến lập thủ đô của Minh Thái Tổ. Ngoài thành lại có các lăng tẩm của các vua chúa triều nhà Minh. Lúc này, tuy gặp thời loạn, Nam Kinh vẫn phồn hoa vô cùng. Hai người giả dạng nhân đến Nam Kinh thăm bạn, vào nghỉ chân trong một khách điếm.
Thừa Chí gọi phổ ky vào, hỏi thăm đường lối đi Ngụy Quốc Công phủ. Phổ ky ngơ ngác trả lời là, Nam Kinh không có phủ Ngụy Quốc Công.
Thanh Thanh nổi giận, mắng chửi liền:
– Ngụy Quốc Công là đệ nhất đại công thần của bốn triều, sao lại không có Quốc Công phủ?
Phổ ky trả lời:
– Nếu là có thì mời tướng công cứ đi tìm kiếm, tiểu nhân quả thật không hay biết.
Thấy phổ ky cãi bướng, Thanh Thanh giơ tay định đánh. Thừa Chí vội cản lại.
Phổ ky lẩm bẩm đi ra liền.
Tìm kiếm bảy, tám ngày liền, hai người vẫn chưa tìm thấy Quốc Công phủ. Nóng lòng báo thù, Thừa Chí định tạm gác sang một bên không tìm kiếm nữa. Nhưng Thanh Thanh cứ cương quyết không chịu. Hai người lại dò hỏi thêm năm, sáu ngày, ai ai cũng nói con cháu của Tứ đại tướng quân hiện được lập phong Vương tước, giữ binh quyền thành Nam Kinh, Vương phủ của Vương tước đang ở mới xây dựng mấy năm, chớ không ai biết Ngụy Quốc Công là gì cả, Thanh Thanh liền đề nghị nên vào Vương phủ dò thám xem.
Thừa Chí cực lực phản đối và giải thích rằng: Vương phủ đó mới xây, bảo rằng nhứt định không có ở trong đó. Mà dù kho tàng có ở trong đó đi nữa, sức hai người làm sao lấy nổi số châu báu lớn lao ấy? Lỡ để cho Vương tước biết tin, cho người đào lấy, có phải là mất chỗ kho tàng ấy không? Thấy chàng nói có lý, Thanh Thanh đành phải nghe theo.
Hôm đó, hai người mướn chiếc thuyền đi chơi sông Tần Hoài cho đỡ buồn.
Thừa Chí nói:
– Chúng ta tìm kiếm thêm một ngày nữa. Nếu không thấy là chúng ta phải bỏ đi đấy nhé!
– Không! Phải kiếm thêm ba ngày nữa cơ!
Lúc ấy, trên mặt sông tiếng đàn ca hát nổi lên khắp nơi, Thanh Thanh cao hứng uống vài chén rượu, hai má đỏ bừng, dưới ánh sáng đèn trông nàng càng xinh đẹp thêm.
Thừa Chí cười nói:
– Thôi được, tôi bằng lòng ba ngày vậy!
Thấy thuyền bên cạnh đang có tiếng ca hát véo von, Thanh Thanh cao hứng vì hơi rượu đã bốc, vừa cười vừa nói với Thừa Chí:
– Đại ca, chúng ta cũng gọi hai cô đào đến ca hát cho vui nhé?
Là người quân tử, thấy Thanh Thanh đề nghị gọi kỹ nữ hầu rượu, Thừa Chí mặt đỏ bừng, trả lời:
– Chú uống say rồi phải không? Sao bỗng dưng lại muốn bậy bạ như thế?
Các phu thuyền chỉ mong khách du ngoạn gọi kỹ nữ hầu rượu và ca hát để được kiếm thêm tiền hoa hồng, liền lên tiếng:
– Các tướng công đến sông Tần Hoài chơi đều kêu gọi các cô hầu rượu. Nếu tướng công quen biết cô nào, xin cho biết để cháu đi mời?
Thừa Chí vội xua tay lia lịa:
– Không, không gọi đâu!
Thanh Thanh hỏi:
– Trên sông này có những cô nào nổi tiếng nhứt?
Phu thuyền đáp:
– Thưa tướng công, ở sông Tần Hoài này có bốn cô là: Điền Ngọc Kính, Liễu Như Thị, Đổng Tiểu Uyển và Lý Hương Quân là nổi danh nhứt. Cô nào cũng giỏi thơ phú, viết chữ đẹp, đều được nổi tiếng là nữ tú tài!
Thanh Thanh nghĩ ngợi giây phút rồi mới nói:
– Bác mời hộ tôi hai cô Liễu Như Thị và Đổng Tiểu Uyển.
Phu thuyền rụt đầu, thè lưỡi đáp:
– Có lẽ tướng công lần đầu tiên đến thành Kim Linh này chắc?
Thanh Thanh hỏi:
– Mới đến thì sao?
– Những cô nổi danh ấy chỉ kết giao với vương tôn công tử và nho sĩ thôi, chớ những nhà buôn muốn gặp mặt các cô ấy dù có cho người gánh núi vàng núi bạc đi thỉnh, chưa chắc đã mời được các cô ấy tới.
Thanh Thanh nổi giận:
– Thân làm kỹ nữ mà họ cũng làm bộ làm phách đến thế à?
Phu thuyền lại nói:
– Sông Tần Hoài này còn nhiều cô khác cũng đẹp, cũng tài ba, để cháu mời hai cô tới hầu hai vị tướng công nhé?
Thừa Chí nói:
– Hôm nay chúng tôi có việc bận sắp phải đi ngay. Mai mốt chúng tôi trở lại du ngoạn, sẽ nhờ bác thỉnh giúp hộ các cô ấy.
Thanh Thanh cười nói:
– Em còn muốn ở lại chơi thêm lát nữa.
Nói đoạn, nàng quay lại dặn bảo phu thuyền rằng:
– Bác cứ đi thỉnh hộ tôi!
Người phu thuyền chỉ mong được khách dặn bảo như vậy. Y liền cất cao giọng gọi vài tiếng. Một lát sau, một chiết thuyền hoa ở bên bờ chèo tới. Hai kỹ nữ vào hạnh có nhan sắc bắc cầu bước sang cúi đầu vái chào Thừa Chí và Thanh Thanh. Tỏ vẻ ngượng ngịu, Thừa Chí vội đứng dậy đáp lễ lại. Thấy chàng có vẻ quê mùa cục mịch như vậy, Thanh Thanh buồn cười quá, nhưng cứ phải cố nhịn. Hai kỹ nữ đó chỉ là hạng tầm thường, một nàng thổi sáo và một nàng ca một bản tiểu khúc, có thế thôi.
Cảm thấy khó nghe, Thanh Thanh cứ cau mày lắc đầu. Thừa Chí khẽ oán trách:
– Chú càng quấy rầy, càng không ra cái thể thống gì?
Thanh Thanh vừa cười vừa khẩn khoản:
– Mắng chửi như thế đã đủ chưa? Để em thổi một bản tiêu anh nghe nhé?
Nói xong, nàng mượn chiếc sáo của nàng kỹ nữ, lấy khăn tay thấm rượu, lau chùi sạch sẽ miệng ống sáo, rồi mới kề miệng thổi. Quả thật âm điệu khác hẳn với nàng kia.
Khi còn ở Thạch Lương, Thừa Chí đã được thưởng thức tiếng thổi ấy rồi. Còn hai nàng kỹ nữ kia, nghe thấy nàng thổi hay quá, đều ngẩn người ra nghe.
Trong lúc mọi người đang nghe Thanh Thanh thổi sáo, không để ý tới một chiếc hoa thuyền lớn vừa chèo đến sát bên, rồi bên có tiếng cười ha hả và tiếng nói thật lớn vọng sang:
– Thổi hay quá! Hay quá!
Vừa dứt lời khen, đã có ba người nhảy sang. Thấy có người đến quấy nhiễu, Thanh Thanh liền nổi giận, để ống tiêu xuống, liếc mắt nhìn thấy người đi đầu cầm quạt phe phẩy, mặc tơ gấm vóc, trạc độ ba mươi tuổi, mày rậm mắt nâu, mặt ngang phè phè. Hai người theo sau là gia đinh, tay cầm đèn lồng, trên đề ba chữ: “Tổng Đốc phủ”
Thừa Chí vội đứng dậy chắp tay chào nghênh đón. Hai nàng kỹ nữ đã quỳ xuống và lạy. Thanh Thanh vẫn cứ ngồi yên như trước. Vừa cười vừa bước vào trong khoang thuyền, người đi đầu lên tiếng nói:
– Tôi sang quấy phá thế này thật không phải!
Nói xong, y bệ vệ ngồi xuống, Thừa Chí hỏi:
– Xin Ngài cho biết quý tánh đại danh?
Người nọ chưa trả lời, một kỹ nữ đã vội vã giới thiệu:
– Thưa tướng công, Mã công tử là công tử Tổng Đốc phủ Phụng Dương đấy ạ!
Mã công tử không thèm hỏi lại tên họ của Thừa Chí, chỉ lim dim đôi mắt, nhìn tròng trọc vào mặt Thanh Thanh, rồi vừa cười vừa nói:
– Cậu ở đâu vào thế? Thổi tiêu hay đến thế là cùng! Sao không lại đây hầu hạ đại gia! Hà! Hà! Hà!
Thấy y cho mình là hạng dọn bát, Thanh Thanh cau mày định giở mặt thì Thừa Chí đưa mắt ra hiệu, bảo nàng hãy nên chịu đựng, rồi nói:
– Chú ấy là em tôi. Chúng tôi đến Nam Kinh này thăm bạn.
Mã công tử hỏi:
– Thăm bạn nào? Hôm nay gặp gỡ nơi đây làm bạn với tôi, cam đoan hai người khỏi phải lo ăn lo mặc.
Tuy trong lòng căm giận vô cùng, nhưng Thừa Chí vẫn cố nén không để lộ ra mặt, liền hỏi:
– Mã Sĩ Anh đại nhân với các hạ là thế nào?
Mã công tử đắc chí đáp:
– Ông ta là chú tôi.
Lúc ấy bên thuyền lại có một người nữa bước sang. Người đó, đầu chồn mắt chuột, để hai cái ria nhỏ, cúi đầu chào xong, liền cười nói với Mã công tử:
– Thưa công tử, chú em này thổi tiêu hay lắm phải không?
Nhìn thấy dáng điệu của y, Thừa Chí đoán ngay người đó là quân sư của họ Mã.
Mã công tử nói:
– Cảnh Đình, anh lại đây nói cho họ hiểu đi.
Người đó, họ Dương tên Cảnh Đình, liền nói với Thừa Chí và Thanh Thanh rằng:
– Mã công tử chúng tôi đây là cháu ruột của Phụng Dương, Tổng đốc Mã đại nhân, là người rất hào phóng, hay kết bạn bè! Mã đại nhân thương yêu công tử, coi như con đẻ vậy. Chú em nên đến Phủ ở với Mã công tử, tôi cam đoan, chú muốn gì được nấy.
Thấy họ ăn nói một cách vô lễ như vậy, Thừa Chí sợ Thanh Thanh nổi giận. Ngờ đau, Thanh Thanh lại hớn hở tươi cười đáp:
– Còn gì tốt hơn thế nữa? Vậy chúng ta lên bờ đi ngay đi.
Như là được vật báu tự trên trời rơi xuống, Mã công tử liền giơ tay ra kéo, Thanh Thanh rụt tay lại, vừa cười vừa đẩy một kỹ nữ vào lòng y. Thừa Chí ngạc nhiên quá, chỉ làm thinh chứ không dám nói năng gì. Thanh Thanh đứng dậy nói với Mã công tử rằng:
– Còn hai cô nàng và phu thuyền đây, đệ muốn tặng cho mỗi người năm lạng bạc
Mã công tử đáp:
– Vấn đề này để tôi phụ trách. Các người, ngày mai đến phòng chi thu trong Phủ lãnh tiền nhé?
Thanh Thanh nhếch mép cười nói:
– Thưởng cho họ ngay bây giờ có hơn không?
Mã công tử gật đầu, ra lịnh cho gia đinh lấy mười lăm lạng bạc để lên trên mặt bàn. Phu thuyền và hai kỹ nữ chắp tay vái cảm tạ. Mã công tủ cứ đăm đăm nhìn thẳng vào mặt Thanh Thanh. Một lát sau, thuyền đã ghé vào bờ.
Dương Cảnh Đình nói:
– Để tôi đi gọi người đem kiệu tới.
Thanh Thanh bỗng la lớn:
– Ối chà! Tôi còng một thứ rất cần còn để quên ở nơi trọ, phải đi lấy ngay!
Mã công tử nói:
– Chú trọ ở đâu? Để tôi cho gia đinh đi lấy cho?
Thanh Thanh nói:
– Tôi ở nhờ chùa Pháp Hoa, tận ngoài cửa thành Kim Xuyên. Thứ đó không thể nhờ ai đi lấy được.
Dương Cảnh Đình rỉ tai Mã công tử:
– Phải theo dõi nó! Công tử đừng để cho thằng nhỏ này lẻn trốn mất.
Mã công tử gật đầu:
– Phải đấy!
Y quay lại nói với Thanh Thanh rằng:
– Để tôi cùng đi với chú em cho vui nhé!
Nói đoạn, y giơ tay ra quàng vai. Thanh Thanh tránh sang một bên, nàng vẫn tươi cười nói:
– Không, tôi không cần công tử đi với!
Thấy nàng õng ẹo làm nũng, Mã công tử mất cả hồn vía, liền nói với Cảnh Đình rằng:
– Cảnh Đình này, nếu để cho chú em mặc quần áo đàn bà, có lẽ các thiếu nữ thành Kim Xuyên này không ai đẹp bằng.
Thanh Thanh gọi Thừa Chí:
– Thôi chúng ta đi thôi.
Nói đoạn, nàng khoác tay Thừa Chí đi thẳng về phía đằng trước. Công tử đưa mắt ra hiệu và cả bốn người đi theo sau. Y rảo bước đi lên ngang hàng với Thanh Thanh để trò chuyện. Những câu được câu chăng, Thanh Thanh chỉ trả lời lấy lệ để y khỏi bực mình.
Mục đích của Thanh Thanh và Thừa Chí tìm Quốc Công phủ. Mười mấy ngày qua, hai người đã đi khắp nội ngoại thành của thành Nam Kinh này rồi, nên cả haicũng thuộc hết các đường lối phố xá. Thấy Thanh Thanh cứ đi về phía đất hoang vắng người, Thừa Chí biết rằng nàng cố ý hạ sát mấy tên đi theo kia, liền nghĩ: “Tuy tên Mã công tử vô hạnh thật, nhưng tội chưa đến nỗi phải chết. Sư phụ thường nói rằng: ⬘Người học võ, không nên lạm sát những kẻ vô tội!⬙ Điều đó cũng là luật cấm của môn phái Hoa Sơn ta. Như vậy, sao lại không ngăn cản,” nghĩ đoạn chàng ngừng bước nói:
– Chú Thanh, chúng ta đi về đi!
Thanh Thanh cười nói:
– Muốn về thì anh cứ về trước!
Mã công tử cả mừng vội lên tiếng rằng:
– Phải đấy. Anh về trước đi!
Thừa Chí lắc đầu thở dài, miệng lẩm bẩm nói:
– Tên này chết đến nơi mà không tỉnh ngộ!
Vừa đi vừa nói chuyện phím, đi tới một bãi tha ma, Mã công tử đã mệt thở hổn hển, hai chân mỏi nhừ, vội hỏi:
– Sắp đến chưa?
Thanh Thanh cười một tiếng thật dài, rồi đáp:
– Tới nơi rồi!
Mã công tử ngơ ngác bụng nghĩ thầm: “Đến bãi tha ma này để làm gì?”
Thấy khác ý, tên Cảnh Đình tỉnh ngộ ngay.
Nhưng y tin vào bọn y có những bốn người và hai tên gia đinh đi theo đó lại vạm vỡ, giỏi võ, thì dù hai thư sinh yếu ớt kia có giở trò gì cũng không sợ, vừa nghĩ vừa nói:
– Chú em đừng đi đâu xa nữa. Chúng ta trở về Phủ của công tử ăn nhậu có hơn không?
Thanh Thanh cười khinh hai tiếng, Thừa Chí vội đáp:
– Đi về ngay đi! Các ông đừng có nói nhiều nữa!
Ý của chàng là, chỉ con đường sáng cho họ đi nhưng bốn tên túi áo cá cơm ấy làm sao hiểu nổi? Mã công tử còn giả vờ để cầu lợi, mà nói rằng:
– Tôi mỏi mệt quá, chú em làm ơn lại đây đỡ tôi một tí!
Vừa nói y vừa đi tới sát cạnh, đưa tay quàng lên vai Thanh Thanh. Thấy ánh sáng lập lòe một cái, Thừa Chí kêu to thầm: “Nguy to,” rồi tiến lên ngăn cản, nhưng đã muộn rồi! Đầu của Mã công tử đã lăn lóc dưới mặt đất, máu tươi ở cổ phun ra như vòi nước. Dương Cảnh Đình và hai tên gai đinh sợ quá, đều ngẩn người như pho tượng gỗ.
Thanh Thanh lại tiến lên cho mỗi tên một kiếm, thế là cả ba tên cùng chết một lúc.
Thấy nàng đã trót giết một tên rồi, không giết nốt mấy tên kia chắc có hậu họa, Thừa Chí đành để yên cho nàng hành động không cản trở nữa. Lau chùi máu dính trên lưỡi kiếm xong, Thanh Thanh khoái trí cười ha hả.
Thừa Chí nói:
– Những quân vô lại này, chú chỉ nên cho chúng một bài học thôi! Hà tất phải giết như thế! Kể chú cũng tàn nhẫn thật!
Thanh Thanh trợn tròn đôi mắt rồi đáp:
– Em không chịu nổi những hành vi bẩn thỉu ấy.
Thừa Chí nghĩ: “Mã công tử vẫn ỷ thế hoành hành. Chắc y cũng hãm hại nhiều người lương thiện rồi. Y có bị giết chết như vậy cũng không oan uổng gì!”
Nghĩ xong, chàng nghiêm mặt nói:
– Những quân khốn nạn này, chú có giết cũng không sao. Nhưng từ nay chú đừng giết bừa như thế này, mà lỡ giết phải một người lương thiện, tình giao hảo của chúng ta sẽ đoạn tuyệt ngay lúc đó.
Thanh Thanh thè lưỡi, lắc đầu, rồi nói:
– Vâng, từ nay em không dám thế nữa!
Hai người đá mấy các xác vào trong bụi lau xong, đang định trở về khách điếm. Thừa Chí bỗng lôi tay áo Thanh Thanh một cái. Cả hai người vội lui vào phía sau một ngôi mộ ẩn núp. Tiếng động của chân người ở xa đưa đến, rồi phía Đông và phía Tây đều có người đi tới. Thừa Chí và Thanh Thanh trông thấy mỗi bên đều có mười mấy người, tay xách đèn lồng. Khi đến gần nhau, người bên phía Đông vỗ tay ba cái, còn người bên phía Tây chỉ có hai cái thôi. Cả hai bên đều im hơi lặng tiếng, rồi ngồi quây tròn trước ngôi mộ, cách chỗ ẩn núp của Thanh Thanh và Thừa Chí độ mười mấy trượng. Vì vậy bọn họ nói những gì, Thừa Chí và Thanh Thanh không sao nghe được.
Lòng hiếu kỳ xúi giục, Thanh Thanh định bò lại gần bọn người ấy, Thừa Chí vội kéo tay nàng và khẽ nói:
– Hãy chờ một lát đã.
– Sao vậy?
Thừa Chí xua tay ra hiệu, bảo nàng đừng lên tiếng.
Thanh Thanh chờ đợi lâu quá, nóng lòng. Lại trải qua một thời gian khá lâu, một trận gió lạnh thổi tới, bốn bề cỏ khô kêu rào rào, những cành cây rụng ở cạnh ngôi mộ đều bay múa. Thừa Chí nâng cánh tay phải của Thanh Thanh giở khinh công ra, không cần nhún nhảy, hai chân tựa như không chạm mặt đất, chỉ một hơi đã chạy được mười mấy trượng, đến phục ở sau một ngôi mộ lớn gần bọn người kia.
Hành động của chàng rất nhẹ nhàng nên bọn kia không hay biết gì cả. Thấy Thừa Chí khom lưng, tay phải nâng cả người mình lên mà chân đi vẫn nhẹ nhàng không có tiếng động, khinh công của chàng đã tới chốn tuyệt bực, Thanh Thanh trong lòng mến phục vô cùng. Hai người vừa phục xuống, Thừa Chí đã vội rụt tay lại, tựa như xa lánh rắn độc, rít độc vậy.
Thanh Thanh nghĩ thầm: “Chàng quả thật là quân tử nhưng phải cái hơi hủ lậu một chút!”
Lúc ấy, chỉ nghe tiếng khàn khàn của một người nói:
– Các vị đại ca bên quý phái không quản ngại đường sá xa xôi tới đây ra tay trợ giúp, chúng tôi thật cảm ơn vô cùng!
Lại nghe một người khác nói:
– Sư phụ chúng tôi mang bịnh đã hơn tháng nay không đi lại được, nên phải nhờ sư thúc chúng tôi là Truy Phong Kiếm Vạn Phương dẫn chúng tôi, mười hai đệ tử tới đây để Mẫn lão sư sai khiến.
Tiếng người nói giọng khàn khàn đáp:
– Lần này được sư Long gia Từ giúp đao tương trợ, anh em chúng tôi thật cảm ơn vô cùng. Vạn sư huynh Truy Phong Kiếm tiếng tăm lừng lẫy khắp trời Nam, bây giờ ông ta thân hành đến đất Nam Kinh này, tất phải mã đáo thành công. Chúng tôi vừa thấy Vạn sư huynh giá lâm, trong lòng đã yên trí ngay.
Một người giọng thỏ thẻ lên tiếng rằng:
– Các bạn quá khen như vậy, tôi chỉ sợ phái Điểm Thương chúng tôi không giúp được gì cho họ Mẫn lão sư thôi!
Thừa Chí giựt mình, sực nghĩ: “Lúc nhàn rỗi, sư phục chàng đàm luận thiên hạ kiếm pháp, có nói bốn đường kiếm phái lớn của thời bấy giờ là: Võ Đang, Côn Lôn, Hoa Sơn, và Điểm Thương, phái nào cũng có đường kiếm bí hiểm lạ thường, và có nhân tài xuất chúng. Tên họ Vạn, biệt hiệu là Truy Phong Kiếm đây, lại là tay cao thủ của phái Điểm Thương. Nay y không quản đường sá xa xôi đến tận Nam Kinh này, không biết mưu đồ đại sự gì? Ta phải nghe rõ biết bí mật của y mới được.”
Sau lại nghe hai người khen ngợi lẫn nhau, khách sáo vài câu. Đằng xa lại có tiếng vỗ tay, bên này có người cũng vỗ tay hưởng ứng. Một lát sau, trước sau có thêm ba nhóm người tới. Nghe họ hàn huyên, Thừa Chí mới hay những nhóm người đó là:
Nhóm thứ nhứt là các sư Thiếu Lâm Tự tỉnh Phúc Kiến do Thập Lực đại sư hướng dẫn; nhóm thứ hai là giặc bể ở ven bờ tỉnh Triết Giang và tỉnh Phúc Kiến, do bẩy mươi hai đảo Liên Minh, có ba anh em kết nghĩa, nổi danh là Trường Bạch tam anh: anh cả Sử Bình Quang, anh hai Sử Bính Vân, và em ba Lý Cương Càng. Càng nghe Thừa Chí càng ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Những người tới tụ họp thế? Sao lại nghe người họ Mẫn cảm ơn luôn miệng, và cũng hiển nhiên các người kia là do y mời tới.”
Thanh Thanh cũng cảm thấy hành tung của bọn người này rất lừng danh, định lên tiếng hỏi Thừa Chí. Nhưng những người đó đều là võ lâm cao thủ, chỉ hơi có chút tiếng động là họ nghe nay, nên Thanh Thanh đành phải im hơi lặng tiếng.
Lúc ấy lại nghe người họ Mẫn cất cao giọng nói:
– Tôi Mẫn Tử Hoa đây
Thừa Chí lại ngẩn người ra nghĩ thầm: “Cái tên Mẫn Từ Hoa này nghe quen lắm. Chắc là sư phụ đã nói cho ta nghe nhưng không nhớ ra y là hạng người gì.”
Người họ Mẫn nói tiếp:
– Hôm nay được quý vị sư huynh sư đệ không quản ngại nghìn non muôn nước tới đây tương trợ, xin nhận một vái của đệ!
Mọi người đồng thanh đáp:
– Mẫn nhị ca chớ nên vái quỳ như thế! Chúng tôi đâu dám nhận!
ồn ào một lúc, Mẫn Tử Hoa lại nói:
– Trong mấy ngày nay, Trương Tâm Nhứt sư huynh phái Côn Lôn, mấy vị đạo trưởng phái Nga Mi và mấy vị sư huynh phái Hoa Sơn cũng sẽ tới cả.
Có người lên tiếng hỏi:
– Phái Hoa Sơn cũng có người tới ư? Thế thì hay lắm! Chẳng hay là môn hạ của ai thế?
Thừa Chí nghĩ thầm: “Ngươi hỏi vừa lúc quá! Ta cũng muốn hỏi vài câu về tin này!”
Mẫn Tử Hoa đáp rằng:
– Mấy vị sư huynh ấy là môn hạ của Bàn Thạch Sơ Nông.
Thừa Chí nghĩ: “Đó là môn hạ của nhị sư huynh.”
Người nọ lại hỏi:
– Mẫn nhị ca quen biết vợ chồng Quy Thân Thụ thì may mắn lắm rồi. Có vợ chồng ông ta đỡ đầu cho, chúng ta không còn sợ tên gian tặc họ Tiêu nữa?
Mẫn Tử Hoa nói:
– Đệ đâu có hân hạnh được kết bạn với vợ chồng ông ta! Đệ chỉ quen thân với đại đồ đệ của ông ta là Mai Kiếm Hoa thôi.
Lại một người khác nói:
ra là đại đệ tử của thần quyền vô địch Quy tân Thọ .
Mẫn Tử Hoa đáp:
– Vâng, chính anh ta đó!
Nghe tới đây, Thừa Chí nhẹ hẳn người, nghĩ thầm: “Nếu có người đồng môn mình tham gia thì việc này tất phải là chánh đáng. Ta hãy tạm giấu mặt chờ có dịp thích đáng, hãy ra tay giúp họ đôi chút.”
Lại nghe Mẫn Tử Hoa nói:
– Năm nọ gia huynh bị người ta giết hại một cách bi đát. Đệ đã điều tra mười mấy năm liền mà không biết ai là kẻ thù. Bây giờ, nay nhờ có các anh em họ Sử phái Trường Bạch đây cho hay đệ mới rõ kẻ giết gia huynh là tên gian tặc họ Tiêu. Thù này không trả được, đến thề không làm người!
Bỗng nghe “keng” một tiếng, chắc là tiếng động của y dùng khí giới chém bia đá lập thề. Lại có một người khác nói:
– Thiết bối Kim Ngao Tiêu Công Lễ cũng là một tay hảo hán hữu danh ở giang hồ không ngờ y lại có hành vi hèn hạ đến thế? Không hiểu các anh họ Sử hay tin đó từ đâu?
Lời nói của người đó có vẻ hoài nghi. Không chờ anh em họ Sử giải thích, Mẫn Tử Hoa đã vội đỡ lời:
– Các anh em họ Sử đây đã kể rõ tình hình gia huynh bị gian tặc giết ở tỉnh Sơn Đông, sau đệ được hay. Có đủ bằng cớ hẳn hoi xin Thập Lực đại sư đừng có đa nghi.
Một người khác nói:
– Tiêu Công Lễ lập cơ sở ở Kim Linh đã mấy chục năm rồi. Thế lực của y rất hùng mạnh. Phen này anh em mình ra tay, cần phải cẩn thận lắm mới được?
Mẫn Tử Hoa nói:
– Cũng vì lẽ đó đệ tự biết mình thế cô sức yếu, cho nên mới dám táo gan thỉnh quý vị bạn hữu giáng lâm. Ngày mai đúng giờ dậu, đệ sửa soạn vài mâm rượu nhạt, cơm rau tại tệ xá ở hẻm Tạ Gia phía Nam Thành để tẩy trần và tiết phong quý vị. Mời quý vị thế nào cũng giáng lâm cho.
Mọi người đều lên tiếng cảm tạ và nói:
– Chúng tôi với huynh cũng như anh em trong nhà, hạ tất huynh phải làm khách như vậy!
Mẫn Tử Hoa nói:
– Được các bạn quá độ đến rất nhiều thế nào kẻ địch cũng phải biết chuyện. Vậy ngày mai quý vị tới, lúc vào cửa gặp các chú em tiếp đãi, xin giơ ba ngón tay làm hiệu và khẽ nói câu: “Giang hồ nghĩa khí, rút dao tương trợ!” Làm như vậy để tránh kẻ địch trà trộn lẻn vào phá rối.
Mọi người đều tán thành ý kiến đó, và còn đề nghị lúc giao chiến cũng dùng ba ngón tay làm hiệu, để phân biệt mình và địch. Trước khi giải tán, họ còn bàn tới chuyện phái người đến nhà tên Tiêu Công Lễ dọ thám. Xong đâu đấy, họ mới rút lui dần.
Chờ các người đi xa rồi, Thừa Chí và Thanh Thanh mới nằm lăn ra bãi cỏ nghĩ ngợi.
Vì ngồi xổm lâu quá, Thanh Thanh tê cả hai chân. Giây lát sau, nàng nói:
– Đại ca, ngày mai chúng ta đến nhà người họ Mẫn xem đi!
Thừa Chí đáp:
– Chỉ xem không thì được, nhưng thể nào chú cũng phải nghe lời tôi, cấm không được phá quấy.
– Em có phá quấy bao giờ đâu?
Buổi trưa ngày hôm sau, Mã công tử bị ám sát đã làm sôi nổi cả thành phố Nam Kinh. Suốt ngày ẩn núp ở trong khách điếm, cho tới chiều tối, Thừa Chí và Thanh Thanh mới thay quần áo lững thững đi tới hẻm Tạ Gia. Thấy một tòa nhà lớn, cửa sơn son trên treo đôi đèn lồng, khách đang vào tấp nập. Đi tới cửa, Thừa Chí và Thanh Thanh đều giơ ba ngón tay phải ra, miệng cũng nói:
– Giang hồ nghĩa khí rút dao tương trợ.
Một người mặc áo dài chắp tay vái chào và bảo một tên đạ hán đứng đó, dẫn hai người vào trong phòng khách. Rót nước mời hai người uống, đại hán nọ hỏi tên tuổi, Thừa Chí và Thanh Thanh liền bịa đặt, một người họ Trinh và một người họ Văn.
Đại hán nọ nói:
– Chúng tôi được nghe đại danh ở giang hồ đã lâu, chúng tôi rất lấy làm hâm mộ!
Thanh Thanh bụng cười thầm, và nghĩ thầm rằng: “Đại danh này, ngay chúng ta mới nghe lần đầu mà ngươi dám nói là nghe lâu rồi!”
Khách càng đông, đại hán nọ thấy hai người trẻ tuổi như vậy, chắc là đệ tử của phái nào theo sư phụ đến cũng nên.
Vì vậy, y cũng không trọng vọng lắm, chỉ nói câu “xin lỗi,” rồi đi tiếp người khác liền.
Một lát sau, chủ nhân mời khách vào bàn. Thừa Chí và Thanh Thanh được đặt ngồi ở bàn bên cạnh. Khách bàn này đều đệ tử của các môn phái nên người đại diện cũng là đồ đệ thứ năm của Mẫn Tử Hoa. Vì vậy không ai để ý đến hai người.
Sau ba tuần rượu, Mẫn Tử Hoa đến các mâm mời rượu. Khi y mới tới bàn Thừa Chí, để ý nhìn kỹ, chàng thấy Mẫn Tử Hoa trạc độ bốn mươi tám, chín tuổi, tay nổi gân xanh.
Cử chỉ và bước đi của y đều tỏ ra là người võ nghệ khá cao, hai mắt y sưng húp, chắc y thương xót người anh, ngày đêm khóc lóc nhiều quá mà nên. Thừa Chí nghĩ thầm: “Người này trọng tình thủ túc đến thế kể cũng đáng kính thật! Chắc kẻ thù thế lực mạnh lắm, y mới phải mời đến nhiều hảo thủ thế này!”
Mẫn Tử Hoa vái chào mọi người ba lạy và cảm ơn luôn miệng trước, rồi mới mời rượu sau.
Khách cùng bàn Thừa Chí đều là hậu bối, nên ai nấy đứng cả dậy đáp lễ.
Lúc ấy, bỗng có một tên đệ tử hấp tấp chạy tới cạnh Tử Hoa, rỉ vào tai nói vài lời.
Tử Hoa hớn hở, đưa ly rượu cho người đệ đó, rồi vội vàng bước ra ngoài cửa.
Giây phút sau, Mẫn Tử Hoa tỏ vẻ rất lễ phép dẫn ba người đi vào, và mời họ ngồi lên mâm trên nhứt. Thấy ba người đó khệnh khạng ra vẻ ta đây, Thừa Chí chắc họ không phải là những người tầm thường. Người đi trước ăn mặc lối nho sinh, lưng đeo thanh trường kiếm, hai mắt hơi nhìn ngược lên, ngạo nghễ vô cùng. Người thứ hai là một tráng hán trạc độ ba mươi tuổi. Người thứ ba là một thiếu nữa hai mươi hai, ba tuổi, mặt rất xinh đẹp, nhưng có vẻ lạnh lùng.
Mẫn Tử Hoa lớn tiếng đáp:
– Mai đại ca kịp thời đến giúp cho, đệ thật cảm tạ vô cùng!
Người nho sinh cười nói:
– Việc của Mẫn nhị ca, lẽ nào chúng tôi không đến giúp?
Thừa Chí nghĩ: “Thế ra người này là Mai Kiếm Hòa, đệ tử của nhị sư huynh Quy Thân Thụ đây! Sao y lại ngạo nghễ đến thế?”
Lại nghe Mai Kiếm Hòa nói:
– Việc giang hồ này, sư phụ tôi, cụ ta không khi nào chịu nhúng tay vào đâu. Nhưng đệ đã nhiễu sự, mời thêm hộ Nhị ca, hai người giúp sức. Đây là tam sư đệ tôi Lưu Bội Sinh và cô này là Ngũ sư muội tôi, Tôn Trọng Quân.
Mẫn Tử Hoa đáp:
– Đệ ngưỡng một oai danh của Thần Quyền Thái Bảo và Tôn nữ hiệp đã lâu. Ngày hôm nay được hai phái đến giúp, đệ hân hạnh vô cùng.
Sở dĩ Tử Hoa không dám nhắc tới biệt hiệu của Tôn Trọng Quân, vì biệt hiệu đó người ta tặng cho dùng, Phi Thiên Ma Nữ. Nàng được sư mẫu cưng, võ nghệ cao cường mà ta rất độc ác, nên ai nấy đều e sợ nàng.
Tử Hoa giới thiệu ba người với Thập Lực đại sư, Trường Bạch tam anh, Bích Hải Trường Kinh và Truy Phong Kiếm Vạn Phương và các người xong, y mới mời sư huynh muột vào bàn ăn uống.
Mọi người đang cao hứng chén tạc chén thù thì một tên đệ tử của Tử Hoa cầm hai cái thiếp đại hồng bước vào, đưa cho sư phụ coi. Biến sắc mặt, cười gằn mấy tiếng, Tử Hoa nói:
– Lão già họ Tiêu thần thông quảng đại thật! Chúng ta chưa kiếm, mà y đã đến thăm anh em mình trước. Mai đại ca, các anh chị vừa tới mà y đã hay tin rồi.
Cầm hai tấm thiếp lên xem, Mai Kiếm Hòa thấy tấm trên viết “Hậu học giáo đệ Tiêu Công Lễ bách bái”, một tấm nữa đề: “Giữa ngọ ngày mai, xin mời chư huynh: Mẫn Tử Hoa, Thập Lực đại sư, Trường Bạch tam anh, tới tệ xá Tiêu trạch xơi chén rượu nhạt.” Trong đó có cả tên ba anh em Mai Kiếm Hòa nữa.
Mai Kiếm Hòa nói:
– Thế này thì lão già họ Tiêu kể cũng cứng đấy. Nhưng cũng phải cho y biết chúng ta không phải là tay vừa!
Tử Hoa nói:
– Mời người bạn đưa thiếp tới vào đây!
Đệ tử nọ vâng lời đi liền. Mọi người đều ngừng chén, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa.
Một phút sau, đệ tử nọ dẫn một người trạc độ ba mươi tuổi, mặc áo dài, thủng thẳng bước vào. Tới trước mặt Tử Hoa, vái chào, người nọ nói:
– Sư phụ cháu hay tin các vị tiền bối đến cả Nam Kinh nên cho cháu tới mời quý vị trưa mai sang xơi chén rượu nhạt.
Mai Kiếm Hòa cười nhạt nói:
– Lão già họ Tiêu đã thiết yến Hồng Môn đấy!
Nói xong, chàng quay lại nói với người tới mời kia rằng:
– Nầy! Tên anh là gì?
Lời nói của chàng rất vô lễ nhưng người nọ vẫn cung kính đáp:
– Tên họ đệ tử là La Lập Như.
Kiếm Hòa quát lớn:
– Tiêu Công Lễ mời chúng ta sang, định giở mưu kế gì? Anh có biết không?
La Lập Như đáp:
– Dạ gia sư hay tin quý vị tiền bối đều giá lâm thành Nam Kinh này, trong lòng rất ngưỡng mộ, nên mới viết thiếp này sau cháu sang mời chớ không có mưu kế gì khác.
– Anh khéo ăn nói lắm! Ta hãy hỏi anh điều này, năm nọ khi Tiêu Công Lễ giết hại đại huynh của Mẫn lão sư đây, anh có mặt tại đó không?
– Câu chuyện này có nhiều uẩn khúc lắm. Cũng vì vậy, gia sư cháu mới mời quý vị ngày mai sang xơi chén rượu nhạt. Trước là tỏ tình ngưỡng mộ quý vị của gia sư và chúng cháu. Sau là giải thích và tạ tội cùng Mẫn nhị gia đây.
Mai Kiếm Hòa lại quát lớn:
– Giết chết người rồi giải thích và tạ tội là xong hay sao?
La Lập Như đáp:
– Lúc bấy giờ, hoàn cảnh bắt buộc gia sư phải ra tay đánh. Sau khi đã lỡ tay giết chết Mẫn đại lão sư, gia sư cứ ăn năn hối hận mãi cho tới bây giờ!
Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân bỗng thét lên một tiếng, rồi quát hỏi:
– Nếu vậy, lúc ấy anh có mặt tại đó phải không?
La Lập Như đáp:
– Cháu tuy không có mặt đó, nhưng gia sư là người chánh phái, quyết không bao giờ giết bừa bãi những người vô tội
Tôn Trọng Quân lại quát lớn:
– Giỏi lắm, anh còn muốn cãi bướng phải không?
Tiếng nói chưa dứt, đã có một người nhảy ra nhanh như chim bay, tay cầm thanh kiếm sáng quắc, tay trái túm lấy ngực Lập Nhu. Sợ hãi quá, Lập Như giơ cánh tay phải ra gạt ngang để hất tay túm ngực của người nọ.
Thừa Chí khẽ nói với Thanh Thanh rằng:
– Nguy to! Cánh tay phải của y thể nào cũng bị gãy!
Thanh Thanh hỏi:
– Tại sao
Thừa Chí chưa kịp trả lời, đã thấy Lập Như thét lên một tiếng thật lớn. Cánh tay phải của y đã bị thanh kiếm của người nọ chém đứt. Mọi người đang ngồi ăn uống đều hoảng sợ đứng cả dậy xem.
Mặt nhợt nhạt như hết máu, Lập Như vẫn cố gượng đứng, không chịu gục xuống.
Rồi dùng tay trái xé vạt áo, y tự quấn lấy bả vai phải, xong xuôi cúi xuống nhặt cánh tay gãy, ung dung đi ra. Thấy y can đảm như vậy, ai nấy đền ngẩn người ra nhìn nhau.
Tôn Trọng Quân lau chùi vết máu dính trên lưỡi kiếm xong, ung dung trở về bàn uống rượu.
Mai Kiếm Hòa nói:
– Người này dữ tợn như thế, chắc sư phụ y còn tàn ác và ngoan cố hơn! Vậy, ngày mai chúng ta có nên đi phó hội bữa tiệc đó không?
Truy Phong Kiếm Vạn Phương nói:
– Thể nào cũng phải đi! Chớ không đi họ sẽ khinh rẽ chúng ta!
Bích Hải Trương Kinh Trịnh Khởi Văn nói:
– Tối hôm nay chúng ta nên phái người đi dò thật hư ra sao trước. Và cũng để biết Tiêu Công Lễ đã mời những ai tới giúp và có lập mưu kế gì hại ngầm chúng ta không?
Mẫn Tử Hoa nói:
– Ý kiến của Trịnh đảo chủ rất phải. Đệ chắc bên chúng thể nào cũng phòng vệ cẩn thận lắm. Nếu đi dò thám, thế nào cũng phải nhờ vả đến mấy vị huynh trưởng mới được.
Vạn Phương nói:
– Tiểu đệ xin đi!
Tử Hoa đứng dậy rót một chén rượu, bưng đến trước mặt Vạn Phương nói:
– Mời Vạn đại ca xơi chén này!
Vạn Phương uống một hơi cạn chén rượu đó.
Tiệc xong, mọi người lần lượt cáo từ ra về. Thừa Chí ra hiệu rồi cùng Thanh Thanh đi theo sau Vạn Phương.
Lúc đó đã canh hai, Vạn Phương trở về khách sạn, thay quần áo xong, ra đi về phía đông. Thừa Chí và Thanh Thanh vẫn cứ đi theo sau. Đến sau một tòa nhà lớn, Vạn Phương nhảy qua tường rào. Thấy thân pháp của Vạn Phương rất nhanh, Thừa Chí nghĩ: “Nhanh như thế mới không phụ cái tên “Truy Phong Kiếm” mà người ta ban cho.”
Nghĩ đoạn chàng cùng Thanh Thanh cùng nhảy vào theo. Tới một căn phòng có ánh đèn lóe, hai người rón rén tới trước cửa sổ, nhìn vào thấy bên trong có ba người đang ngồi trò chuyện. Người ngồi hướng mặt ra phía cửa sổ trạc độ năm mươi tuổi, cau mày lắc đầu, vẻ mặt lo âu. Người đó thở dài một cái, rồi hỏi:
– Lập Như đã đỡ chưa?
Người ngồi phía dưới đáp:
– La sư huynh ngất đi tỉnh lại mấy lần. Bây giờ vết thương mới chảy máu.
Nghe nói, Thừa Chí đoán ra ngay ba người ngồi trong phòng là thầy trò Tiêu Công Lễ. Họ đang nói chuyện về vết thương của La Lập Như.
Lại nghe người thứ ba nói:
– Sư phụ, chắc thế nào bên đối phương cũng cho người đến đây thám thính. Chúng ta có nên phái mấy người đi tuần tiễu khắp nơi xem xét không?
Tiêu công tử thở dài rồi nói:
– Xem xét hay không cũng vậy thôi! Thầy cho đó là số trời cả! Điều cần nhứt là sáng mai các con đưa sư mẫu, sư muội, và tiểu sư đệ tới nhà họ Ngô ở Hồ Châu tị nạn.
Người đồ đệ đó nói:
– Xin sư phụ chớ có nản lòng vội. Chúng ta có những hơn hai nghìn huynh đệ ở thành Nam Kinh này. Sư phụ cho triệu tập tất cả anh em lại, quyết sống mái với chúng một phen, đã chắc đâu bên ta thua chúng nào?
– Vô ích, kẻ địch mới toàn những hảo thủ lừng tiếng giang hồ. Những anh em của bên ta địch sao nổi họ? Chỉ toi mạng thôi! Sau khi ta có mệnh hệ nào, các con chịu khó phụng dưỡng sư mẫu, dạy bảo sư muội và sư đệ cho tới khi thành người.
Nói xong, hai hàng lệ chảy xuống má. Một tên đồ đệ nói:
– Xin thấy chớ nên nản lòng vội. Võ nghệ của thầy lừng lẫy khắp Giang Nam, dù thầy không thắng được, nhưng con thiết nghĩ chúng chưa chắc đánh bại được thầy một cách dễ như vậy đâu! Hai mươi lăm sư huynh đệ chúng con, trừ La Sư huynh bị thương ra, còn lại hai mươi bốn người. Hợp sức chúng con lại mà còn không địch nổi chúng thì thầy, giao du khắp thiên hạ, thiếu gì bè bạn, mời vài người tới tái đấu với chúng
Công Lễ vội ngắt lời:
– Năm xưa, ta còn trẻ, cũng chỉ vì nóng nảy như các con, bây giờ mới gây nên vụ thảm họa này. Nên ta đã quyết định để cho họ giết chết trả lại món nợ máu này cho nó xong đi.
Thừa Chí và Thanh Thanh ở ngoài cửa sổ nghe thầy trò họ nói bi đát quá, nghĩ thầm: “Hình như Tiêu Công Lễ không phải là hung ác. Dù năm xưa y có làm nhầm việc này, nhưng bây giờ y thành tâm hối cải rồi.”
Lại nghe một người đồ đệ nói:
– Nếu sư phụ không muốn đối địch với chúng, nhân lúc đêm khuya này, lánh mặt đi nơi khác cũng được chớ sao?
Một người khác vội nói:
– Làm như thế không được. Sư phụ một đời oai danh chẳng lẽ lại sợ chúng hay sao?
Tiêu Công Lễ nói:
– Anh danh hay không, điều đó ta không cần. Nhưng lánh mặt cũng không xong đâu! Sáng sớm mai, các con đi hết đi, để mình thấy ở lại đối phó với họ.
Hai người đồ đệ lo sợ quá, cùng nói:
– Xin phép thầy cho chúng con được hầu cạnh thầy.
Công Lễ nổi giận:
– Cái gì? Họa lớn tới nơi, các con còn không nghe lời ta ư?
Hai người đồ đệ không dám nói nữa. Tiêu Công Lễ nói tiếp:
– Các con hãy đi thu xếp hộ sư mẫu đi. Xem chiếc xe ngựa đã đóng xong chưa?
Cả hai cùng vâng lời, nhưng vẫn chưa chịu đi.
Tiêu Công Lễ lại nói:
– Thôi được, các con ra gọi tất cả sư huynh đệ vào đây!
Hai đồ đệ mở cửa đi ra, Thừa Chí và Thanh Thanh vội lùi vào xó tường. Thoáng tấy xó tường bên Tây có hai người phục ở đó. Một người là Vạn Phương, còn người kia mặc quần áo màu đỏ là Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân.
Giận nàng vừa rồi ra tay quá tàn ác, Thừa Chí định trừng phạt ngầm để cảnh cáo, liền khẽ dặn Thanh Thanh rằng:
– Chú ở yên đây. Đừng động đậy nhé!
Thanh Thanh lắc lư khẽ cười nói:
– Em cứ thích động đậy đấy!
Thừa Chí cười phục mình xuống, thấy Vạn Lương và Trọng Quân đang chăm chú nhìn vào trong phòng, chưa phát giác có người ở cạnh đó. Nhẹ nhàng lướt qua bên ngoài Trọng Quân, Thừa Chí thuận tay rút luôn thanh kiếm mà nàng đang đeo trên lưng ra. Nàng không hay biết tí gì.
Thừa Chí trở lại cạnh Thanh Thanh. Nàng thấy chàng lấy trộm thanh kiếm của một thiếu nữ, tỏ vẻ không vui. Chàng đưa kiếm cho nàng nói:
– Chú hãy giữ lấy!
Lúc này nàng mới tươi cười trở lại. Hai người lại tiếp tục ngó vào trong phòng.
Hơn hai mươi người lần lượt bước vào, người lớn tuổi nhứt đã trên dưới bốn mươi, còn người trẻ tuổi nhứt chỉ độ mười mấy. Hai mươi mấy người đó đều là đồ đệ của Công Lễ. Họ chào xong rồi đứng dậy xếp hàng nghe lời chỉ bảo của thầy. Vẻ mặt ủ rũ sầu não, Công Lễ nói:
– Tới lúc này, ta cũng không còn giấu diếm các con. Hồi còn trẻ ta xuất thân là lục lâm.
Những người đồ đệ đều tỏ vẻ ngạc nhiên, Công Lễ nói tiếp:
– Hiện giờ kẻ thù đã tìm tới nơi, ta cần phải nói rõ nguyên nhân kết thù của ta cho các con nghe.
Chương 11: Trượng Kiếm Giải Thù Hận-cướp Thơ Thấy Gian Mưu
Thở dài một tiếng, Tiêu Công Lễ kể hết đầu đuôi câu chuyện kết thù xưa kia cho các đồ đệ nghe.
Công Lễ nói:
– Năm đó, ta đang làm tướng cướp ở Song Long Cương. Nghe các em báo cáo: Có quan Đạo Đài rất giàu có về hưu, đưa gia quyến đi qua chân núi Song Long Cương này.
Nghề của giới lục lâm là cướp bóc, và nhứt là gặp những tham quan ô lại càng hay. Vì tham quan bóc lột của dân chúng nhiều. Cướp tiền bạc của một tên tham quan còn hơn cướp của cả trăm khách thương. Hơn nữa tiền bạc của tham quan là bất nghĩa chí tài.
Cướp được tiền bạc đó yên trí và không tổn hại âm đức. Các em ta đã thám thính rõ ràng, tên Đạo Đài đó họ Khấu. Nhưng có điều đáng ngại là tên tham quan đó mướn Tế Nam phủ Hội Hữu tiêu cục, Tổng tiêu đầu Mẫn Tử Diệp bảo tiêu. Người đó tức là anh cả của Mẫn Tử Hoa
Nghe tới đây, Thừa Chí và Thanh Thanh đã biết rõ nguyên nhân của câu chuyện rồi, nghĩ thầm: “Thì ra mối thù của họ do thế mà nên. Tiêu Công Lễ định cướp của, Mẫn Tử Diệp là Tiêu Đầu tất phải bảo vệ. Hai bên vì thế mà đánh nhau, Mẫn Tử Diệp địch không nổi bị giết.”
Tai nghe Công Lễ nói, mắt Thừa Chí vẫn để ý hành động của Vạn Phương và Trọng Quân. Lúc ấy Trọng Quân giơ tay về phía sau, bỗng nhảy phắt lên, phát giác bảo kiếm bị rút mất, sợ quá, vội rủ Vạn Phương vượt tường chạy luôn.
Thừa Chí bấm bụng cười thầm, rồi lại để ý nghe Công Lễ kể. Công Lễ nói:
– Mẫn Tử Diệp ở giang hồ cũng có chút danh vọng, là cao thủ của phái Võ Đang
Thừa Chí gật đầu nghĩ thầm: “Phải rồi, anh em Mẫu Tử Hoa thuộc phái Võ Đang. Sư phụ ta nói phái Võ Đang là phái Chánh Tông của thiên hạ, người trưởng môn phái đó vẫn liên lạc với các môn các phái luôn. Cho nên Mẫn Tử Hoa mới mời được nhiều người giỏi đến giúp như vậy.”
Tiêu Công Lễ nói tiếp:
– Hay tin ấy, ta không dám ra lịnh hành đồng ngay. Đêm hôm đó, ta thân hành xuống núi dò xét, đến chỗ họ ngủ trọ là khách điếm nọ. Ta trông thấy một chuyện có thể tức vỡ bụng ngay được. Có ai ngờ, Mẫn Tử Diệp là kẻ tham hoa hiếu sắc, thấy nhị Tiểu thơ của quan Khấu Đạo Đài xinh đẹp liền lập ngay mưu kế, y hẹn Trương trại chủ ở Phi Hổ trại. Chờ khi đi qua chân núi trại đó, Trương trại chủ xuống cướp, y giả vờ kháng cự, giả vờ thua chạy, để Trương trại chủ cướp hết của cải, giết hết gia đình Khấu Đạo Đài, và bắt sống Nhị tiểu thơ thoát hiểm. Lúc ấy Nhị tiểu thơ trơ trọi một mình, lại có người cứu thoát khỏi tay giặc, tất phải bằng lòng lấy y. Tham được của cải lớn, và lấy được lòng Tử Diệp, Trương trại chủ vui lòng nhận lời ngay. Hai người đang bàn tán ở trong phòng ngủ, không ngờ bị ta nghe hết. Giận quá ta trở về sơn trại đem hết lâu la đến cạnh Phi Hổ trại mai phục. Tới giờ hẹn ước, quả nhiên nhóm người Khấu Đạo Đài đi tới
Nghe tới đây, Thừa Chí và Thanh Thanh mới biết vừa rồi đã đoán sai câu chuyện. Công Lễ lại nói tiếp: “Ta nén không nổi lòng tức giận, trong lòng nghĩ rằng: “Chúng ta người trong võ lâm, vì đói rách quá mới phải lập sơn trại để làm nghề không vốn liếng này. Nhưng nói tới chữ sắc thì thể nào cũng phải đường đường chánh chánh, mới khỏi mất tư cách con người hảo hán. Ngờ đâu, Mẫn Tử Diệp lại vô liêm sỉ đến thế? Là một tiêu đầu, y lại có hành vi hèn mạt như vậy?”
Lúc ấy, ta giận quá không nhịn được, nhảy ra đánh luôn.
Kiếm pháp của y cũng lợi hại. Chính thật ra, ta không địch nổi y đâu. Nhưng vì ta nói toạc mưu kế của y ra khiến y tối cả mặt mày, mới thất cơ bị ta chém chết.”
Một tên đồ đệ nói:
– Thưa sư phụ, con người như thế đáng giết lắm rồi. Chúng ta hà tất phải sợ chúng? Chờ ngày mai chúng tới nơi, sư phụ nói rõ đầu đuôi câu chuyện, thì dù em y có muốn trả thù những người khác chưa chắc đã chịu a dua, không phân biệt thị phi, mà ra tay giúp em y.
Thừa Chí nghĩ: “Phải đấy. Nếu vì bất bình mà tên họ Tiêu này giết chết Mẫn Tử Diệp, võ lâm phải có công luận. Nhưng chỉ sợ còn có ẩn tình khác thì trong đó, chưa chừng?”
Lại nghe Công Lễ thở dài, và tiếp tục nói: “Sau khi giết chết Mẫn Tử Diệp, ta biết đã mang họa lớn vào thân rồi. Vì y là người có địa vị ở phái Võ Đang, thầy y là Hoàng Mộc đạo nhân và các sư huynh đệ y kiếm ta trả thù, ta địch sao nổi. Cũng may đàn em của ta chận giữ Trương trại chủ lại.
Rồi ta bắt y viết hết gian mưu của Mẫn Tử Diệp vào một tờ giấy, và còn bắt hai tiêu đầu có mặt tại đó ký vào làm chứng cho ta. Quan Khấu Đạo cũng viết giấy cảm ơn và có nhắc cả mưu mô của Tử Diệp vào trong đó, tặng ta. Hai tiêu đầu biết rõ chuyện Tổng tiêu đầu của họ làm bậy mà bị giết, không những không thù ta mà còn cảm ơn và xin làm bạn với ta. Sau vụ đó, ta biết không thể sống ở trong lục lâm được nữa, liền giải tán đàn em. Rồi ta cầm hai tờ giấy nói trên lên núi Võ Đang kiếm Hoàng Mộc đạo nhân để tường trần mọi lẽ. Nhưng các môn hạ phái Võ Đang đã hay tin, rủ nhau xuống núi đón đường giết ta. May có một vị giang hồ phái hiệp cứu giúp, bảo vệ ta lên tận núi Võ Đang và được gặp Hoàng Mộc đạo nhân nữa.
Hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện rồi, Hoàng Mộc đạo nhân liền ra lịnh cho các đồ đệ không được gây thù gây hấn với ta. Nhưng vì thanh danh của phái họ, Hoàng Mộc đạo nhân bảo ta không được đem chuyện này ra phô trương bên ngoài. Ta cũng nhận lời ngay. Từ đó trở đi, ta không hề nói tới chuyện đó nữa nên trên giang hồ rất ít người biết tới. Lúc ấy, Mẫn Tử Hoa hãy còn nhỏ, nên không biết anh y tại sao mà chết.”
Một môn đồ hỏi:
– Thưa sư phụ chẳng hay hai lá thư đó sư phụ có còn giữ được không?
Tiêu Công Lễ trả lời:
– Điều này chỉ trách ta “có mắt không ngươi”, không biết phân biệt người tốt kẻ xấu. Mùa thu năm ngoái, có người bạn của ta cho hay, em ruột Mẫn Tử Diệp đã khổ công luyện tập võ nghệ, và nay đã thành tài, và biết ta là người giết chết anh y, nên định kiếm ta để báo thù. Sau ta dò la biết Trường Bạch tam anh, bạn cũ của ta, có quen biết Mẫn Tử Hoa, ta liền đi kiếm anh em họ Sử trong nhóm Tam anh
Một môn đồ nói xen vào:
– Thảo nào! Cuối năm ngoái sư phụ đi Liêu Đông, qua Tết năm nay mới về, chuyến đó sư phụ chỉ vì việc này mà đi chắc?
– “Phải, ta đi Liêu Đông thăm anh em họ Sử, yên trí năm hết Tết đến, thế nào anh em y cũng có nhà. Ngờ đâu, anh em y được Cửu vương gia ở Kiến Châu Vệ triệu đi. Ở đó, chờ đợi ngót tháng trời, ta mới thấy anh em y trở về. Ta liền đem câu chuyện này nói cho anh em y hay, Sử lão đại vỗ ngực bảo đảm với ta là chuyện này thế nào cũng xong. Ta nhờ y đưa hai lá thơ đó cho Mẫn Tử Hoa xem qua. Y bảo làm như thế Tử Hoa không mặt nào dám kiếm ta báo thù nữa. Chưa chừng, Tử Hoa còn nhờ người đến xin lỗi ta và yêu cầu ta đừng đem chuyện xấu đó tuyên dương ra ngoài là khác.
Thấy anh em tiếp đã tử tế quá, ta lại dễ dãi, Sử lão đại bỗng nói với ta rằng: “Vận nước của Triều đình nhà Minh sắp tận đến nơi. Anh em ta đều là người có tài. Tại sao chúng ta không nhân cơ hội này bầu Minh chủ, để mong được phong thê án tử, làm một vị khai quốc công thần?”
Ta ngẩn người giây lát, mới hỏi y có phải định đi đầu quân Sấm Vương đấy không? Y cười ha hả một hồi mới nói: “Sấm Vương là giặc cỏ, trở nên vua chúa sao được? Bây giờ chỉ có quân Thanh, binh tinh nhuệ, lương đầy đủ, sắp đánh vào trong Quan ải. Nếu Tiêu huynh bằng lòng phò chúa Thanh, anh em tôi xin bảo đảm với Cửu vương gia là xong ngay.”
Nghe y nói như vậy, ta nổi giận, bảo y là người vong quốc vong bản, sẽ đắc lợi muôn thuở với nòi giống!”
Thấy Tiêu Công Lễ có khí tiết như vậy, Thừa Chí cũng phải tấm tắc ngợi khen thầm.
Tiếp theo đó, Tiêu Công Lễ lại nói: “Sau đó ta cãi nhau với anh em y một trận thật kịch liệt.
Nhưng sáng ngày hôm sau, anh em y vẫn ân cần tiếp đãi như trước. Và Sử lão đại còn xin lỗi ta, vì hôm trước y quá say lỡ lời nói bậy bạ. Tình bạn hữu quen biết lâu năm, ta cũng vui lòng bỏ qua chuyện đó. Ngờ đâu, sau khi ta về tới đây, anh em họ Sử thật chó má quá, không giải thích cho Mẫn Tử Hoa hiểu thì thôi, anh em y còn đặt điều xúi giục, mời người ra tay giúp sức, chuẩn bị ngót nửa năm trời. Ta không hay biết một tí gì. Đột nhiên, thấy rất nhiều hảo thủ giang hồ đến cả Nam Kinh, ta ngạc nhiên quá.
Ta hỏi ra mới hay, hai anh em tên chó má kia đã thiêu hủy hai lá thơ nọ, để cho ta mất hết chứng cớ biện bạch. Xét hiện tình, hình như anh em họ Sử vì vụ cãi lộn nọ, định dồn ta vào con đường diệt vong cũng nên?”
Các đệ tử nghe Công Lễ nói rõ đầu đuôi sự thể, đều chủ trương thí mạng với anh em họ Sử.
Tiêu Công Lễ xua tay nói:
– Các con cả ngoài kia, Câu chuyện ta vừa nói, cấm các con tiết lộ ra ngoài. Đành rằng, chúng vô nghĩa, chớ ta không chịu mang tiếng là đã nói rồi mà bất tín.
Nói tới đó, y thở dài một tiếng rồi bảo các môn đồ gọi con gái và con trai vào.
Các môn đồ hậm hực đi ra. Chúng vừa đi khỏi, một thiếu nữ 16, 17 tuổi và một em nhỏ 8, 9 tuổi vén màn cửa bước vào. Thiếu nữ mắt còn ngấn lệ, cất tiếng gọi “cha,” rồi gụcđầu xuống dưới chân Tiêu Công Lễ. Em nhỏ nọ trố mắt nhìn cha nức nở khóc. Công Lễ hỏi thiếu nữ:
– Má con đã sửa soạn xong chưa?
Thiếu nữ gật đầu, Công Lễ nói tiếp:
– Ra khỏi nơi đây, con phải lãnh trách nhiệm nuôi nấng, dạy bảo em con. Con bắt nó học sách, cày cấy. Nhưng con đừng cho nó đi thi cử, và cũng không được học võ nữa.
Thiếu nữ nọ nói:
– Thưa cha, phải để cho em nó học võ. Sau này nó mới báo thù cho cha được.
Tiêu Công Lễ nổi giận quát lớn:
– Mầy muốn chọc tức tao trước phải không?
Một lát lâu, ông ta lại ôn tồn nói:
– Trong làng võ, oan oan tương báo, bao giờ mới kết liễu? Thà làm một người dân lương thiện, ta sống yên ổn cho tới ngày mãn kiếp có hơn không? Sức vóc của em con kém lắm. Có cho võ giỏi lắm nó chỉ bằng nửa ta thôi. Dù nó giỏi bằng ta đi chăng nữa cũng vô ích. Như ngày hôm nay đây, con không thấy người đến hà hiếp ta hay sao? Rốt cuộc, ta cũng không tránh khỏi hà! Duy có điều ta không được trông thấy con thành gia thất là ta ân hận mà thôi Con ra dặn bảo các sư huynh đệ rằng: Khi ta chết, tất cả anh em phải tuân theo mạng lịnh của Phó bang chủ Cao thúc thúc, vì ta đã giao phó tất cả công việc của Kim Long bang này cho chú Cao rồi.
Thừa Chí giật mình nghĩ thầm: “Chuyến này ta xuống miền Nam, đã được nghe khách giang hồ đồn đại, Kim Long bang là một Bang Hội lớn. Không ngờ, Tiêu Công Lễ lại là Bang chủ của bang đó. Họ người nhiều thế mạnh như thế, lại chịu lép vế như vậy?”
Chàng lại nghe thiếu nữ nọ nói:
– Vâng, con xin đi mời Cao thúc thúc ngay.
Công Lễ quát lớn:
– Tại sao con còn chưa biết ý nghĩ của ta? Con mời chú Cao đến làm gì? Tánh nóng như lửa, khi nào chú ấy chịu để yên cho người khác huy động anh em để đối phó. Như vậy, ít ra cũng sẽ phải chết không biết bao nhiêu nhân mạng mới kết liễu nổi vụ này. Dù ta thoát được chết đi chăng nữa mà để cho mấy chục hay mấy trăm anh em thiệt mạng vì ta, thì ta phải nhẫn tâm sao được? Thôi, con đi mau lên!
Thiếu nữ rọ ủ rũ dắt em đi ra.
Thừa Chí ra hiệu bảo Thanh Thanh đi theo mình. Cả hai cùng đi tới vườn hoa lớn.
Thấy không có người, Thừa Chí bỗng phi thân tiến lên và nói:
– Tiêu cô nương, cô không nghĩ cách cứu cha cô hay sao?
Thiếu nữ nọ ngẩn người giây lát, đột nhiên rút kiếm ra quát hỏi:
– Ngươi là ai?
Thừa Chí đáp:
– Cô muốn cứu cha cô, thì phải theo tôi!
Nói xong, chàng nháy mắt ra ngoài tường. Thanh Thanh nhảy liền ba cái mới qua được bờ tường. Không ngờ khinh công của chàng giỏi đến thế, thiếu nữ nọ ngẩn người ra rồi cũng xách kiếm phi theo.
Được một quãng đường, thiếu nữ nọ thấy Thừa Chí đi nhanh quá, trong lòng sanh nghi, định quay trở về. Ngờ đâu, nàng vừa quay mình, bỗng có một luồng gió lướt qua, vải áo bay lên, cổ tay tê liệt, và thanh kiếm của nàng lọt vào tay Thừa Chí rồi. Khí giới bị tước, đường rút lui bị cản trở, thiếu nữ nọ sợ hãi quá. Thừa Chí liền nói:
– Cô nương đừng sợ. Tôi muốn giết cô, thật dễ như trở bàn tay. Như thế, cô đã đủ hiểu tôi là bạn chớ không phải thù. Vậy, cô phải nghe theo những lời của tôi sau đây.
Thiếu nữ gật đầu. Thấy nàng vẫn còn bán tín bán nghi, Thừa Chí liền nói:
– Cha cô hiện đang có nạn lớn. Chẳng hay cô có chịu mạo hiểm để chứ cha cô không?
Thiếu nữ họ Tiêu mắt đỏ ngầu đáp:
– Cứu cha tôi thoát nạn, dù phải thịt nát xương tan tôi cũng vui lòng!
Thừa Chí nói:
– Cha cô tốt bụng lắm! Đành hy sinh tính mạng của mình chớ cha cô không muốn giao tranh chết chóc nhiều. Người như cha cô thật hiếm có, tôi đã quyết định giúp một tay.
Trong lúc vô kế khả thi, bỗng thấy có người chịu ra tay cứu cha mình, thiếu nữ khi nào lại bỏ lỡ dịp may mắn ấy, liền quỳ ngay xuống van lạy. Thừa Chí nói:
– Xin cô nương bình thân và chớ ngại. Sự thể thành công hay không, tôi chưa dám chắc.
Thấy cánh tay phải bị người ta khẽ đỡ, tựa như một sức mạnh nâng mình lên, nàng không thể quỳ được nữa. Nên nàng mới tin tưởng chàng nọ có thể giúp cha mình.
Thừa Chí lại nói:
– Cô làm ơn dẫn chúng tôi đến thư phòng để tôi viết mấy chữ cho cha cô.
– Hai vị đã biết đại danh? Hai vị đích thân vào khuyên cha tôi có hơn không?
– Cô cứ yên trí. Thấy thơ của tôi, cha cô không tự tử nữa đâu. Thôi, cô đưa chúng tôi đi ngay. Việc này chậm trễ một tí là hỏng hết.
Không hiểu tại sao, Tiêu cô nương lại chịu nghe lời Thừa Chí đến thế! Thấy Thừa Chí nói vậy, nàng liền đáp:
– Mời hai vị đi theo tôi!
Thừa Chí lại dặn bảo:
– Việc này phải giữ bí mật, cô đừng để cho ai trông thấy!
Tiêu cô nương gật đầu. Ba người lại vượt qua tường vào bên trong. Nàng dẫn hai người vào một thư phòng nhỏ, lấy giấy, bút, mực ra, rồi ngồi một bên xem. Chỉ trong giây phút, Thừa Chí đã viết xong rồi. Thanh Thanh đứng cạnh tỏ vẻ kinh ngạc. Bỏ lá thơ vào phong bì, dán kín, Thừa Chí đưa lá thơ đó cho nàng và nói:
– Cô đưa ngay lá thơ này cho cha cô, và cô phải y theo lời tôi sau đây.
– Xin nhị vị cứ dạy.
– Bất cứ cha cô hỏi thế nào, cô cũng đừng tả hình dạng của tôi cho cha cô hay.
Tiêu cô nương ngơ ngác hỏi:
– Tại sao thế?
– Nếu cô nói ra, tôi không giúp cô nữa.
– Vâng, tôi xin vâng lời.
Thừa Chí kéo tay Thanh Thanh nói:
– Thôi chúng ta đi về.
Thấy hai người nhảy ra ngoài tường, nhanh như chim cắt, Tiêu cô nương trong lòng phân vân, không biết cát hung ra sao, vội chạy tới phòng của cha. Thấy cửa phòng đóng kín, nàng gõ mấy tiếng không thấy Tiêu Công Lễ trả lời, sợ quá nàng vòng ra ngoài cửa sổ, đập vỡ cửa kính, nhảy vào trong phòng.
Thấy cha nàng chén rượu để vào tới môi, nàng hãi sợ vô cùng, la lớn:
– Cha! Cha hãy coi lá thơ này trước đã!
Thấy Tiêu Công Lễ ngẩn người không nói năng gì cả, Tiêu cô nương vội bóc lá thơ chìa vào mặt cho cha coi. Thấy trên thơ vẽ một thanh bảo kiếm, Công Lễ mừng quá đánh rơi chén rượu bể tan tành, Tiêu cô nương giật mình hoảng sợ nhưng thấy cha vui vẻ, hai tay hơi run, liền hỏi:
– Gì thế hở cha?
Tiêu Công Lễ hớn hở quay lại hỏi con:
– Cái thơ này ở đâu tới? Ai đưa cho con? Ông ta lại tới đấy ư? Có thật không?
Tiêu cô nương đến cạnh cha xem, thấy lá thơ đó không có chữ, chỉ vẽ một cây kiếm đầu rắn. Nàng không biết cây kiếm ở trên tờ giấy có ý nghĩa gì khiến cha nàng mừng rỡ như vậy liền hỏi lớn:
– Cái gì thế cha?
Tiêu Công Lễ đáp:
– Ông ta tới, cha sẽ khỏi chết. Con đã gặp ông ta đấy à?
– Ai hở cha?
– Kim Xà Lang Quân!
– Nhưng cha đã nghe Kim Xà Lang Quân chết rồi, sao bây giờ lại còn sống là thế nào?
Tiêu cô nương nhớ lại lá thư Thừa Chí trao cho nàng, trong lòng cảm thấy lo ngại không yên, vì trong thư chỉ vẽ một con rắn ngoài ra không một dòng chữ nào cả.
Nhưng nhớ lời dặn của Thừa Chí nên thiếu nữ đứng yên không nói năng gì nữa cả.
* * *
Thừa Chí sang phòng Thanh Thanh cất tiếng gọi:
– Chú Thanh! Chú đi với tôi.
Thanh Thanh đang nằm nghe gọi nhỏm người lên:
– Đi đâu thế anh?
– Chúng ta đến nhà Tiêu Công Lễ.
Thanh Thanh hỏi:
– Để thăm Tiêu cô nương à?
– Chú Thanh lạ thật. Chúng ta đã hứa giúp đỡ cho Tiêu Công Lễ rồi đâu thể nuốt lời.
– Nhưng đại huynh đi giờ này để làm gì?
– Tôi muốn biết lời của lão Tiêu Công Lễ nói có thật hay không?
– Vậy đại huynh tới đó bàn bạc với Tiêu cô nương đủ rồi, cần chi đến tiểu muội.
– Tiêu cô nương là người ngoài, còn tôi với chú là tình bằng hữu chi giao, không có chú tôi không hăng hái gì cả.
– Anh nói có thật không?
– Tôi dối chú làm gì.
– Thôi cũng được, tiểu muội đi với đại huynh đây.
Hai người ra khỏi khách điếm thẳng tới tòa bảo trang của Tiêu Công Lễ. Trong nhà còn thức nên thấy ánh sáng đèn lọt qua cánh cửa sổ.
– Chúng ta đi ngả này!
Thừa Chí nắm tay Thanh Thanh cho nàng nương sức rồi cùng phóng qua tường lọt vào trong.
Thừa Chí và Thanh Thanh tiến ngay lại cánh cửa sổ khép hờ, phóng mình vào trong.
Chợt nghe phía bên trong có tiếng nói của Tiêu Công Lễ:
– Không hiểu Kim Xà Lang Quân có còn sống thật không sao, cha nghi quá con ạ!
Giọng nói của Tiêu cô nương nổi lên:
– Thật mà, cũng chắc chắn Kim Xà Lang Quân sẽ tới đây can thiệp, không thất hứa đâu.
Thì ra Tiêu Công Lễ vẫn còn hoài nghi trong lá thư Thừa Chí đã gửi.
Mãi sau không thấy nói gì thêm, Thanh Thanh bảo:
– Chúng ta đi thôi!
Thừa Chí giật lại:
– Hãy khoan đã!
Nói xong, chàng dùng ngón tay trỏ viết lên bàn sáu chữ: “Đệ Tiêu Công Lễ bách bái.” Những chữ sâu lõm vào mặt bàn chừng hai, ba phân. Viết xong, hai người nhảy ra ngoài cửa sổ. Thấy có làn gió đưa tới, một thanh kiếm đã đâm đến trước ngực, Thừa Chí giơ cánh tay ra bắt luôn cổ tay kẻ địch. Kiếm pháp địch cũng nhanh. Lúc ấy mũi kiếm đã đâm trúng ngực chàng rồi. Nhờ có áo lót sợi vàng của Mộc Tang đạo nhân mà chàng mặc bên trong, nên không bị mảy may.
Thấy kiếm đã đâm trúng ngực đối phương rồi, nhưng không sao xuyên được vào da thịt, kẻ địch sợ hãi vô cùng, cổ tay bị nắm như kềm sắt kẹp. Đồng thời, thấy chưởng phong nổi lên, một chưởng đã đánh tới mặt, y vội bỏ kiếm giằng co. Đối phương không muốn giết y, rút chưởng cướp luôn thanh kiếm, vượt tường nhảy ra ngoài.
Thì ra người ở ngoài cửa sổ phục kích Thừa Chí và Thanh Thanh, là Truy Phong Kiếm Vạn Phương. Y được Tử Hoa nhờ vả đến nhà Tiêu Công Lễ thám thính. Không ngờ Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân hiếu thắng vô cùng, cũng lén lút theo tới. Hai người mới nghe trộm được vài câu, kiếm của Trọng Quân bị người lấy trộm lúc nào không biết. Cả hai cùng hoảng sợ liền bỏ về ngay. Vừa mới ra tay đã bị thất thế, cả hai cùng xấu hổ và tức giận. Nhứt là Vạn Phương, suốt đêm không ngủ được, ra ngoài vườn bách bộ, thấy trong phòng anh em họ Sử có ánh sáng, biết có kẻ địch tới, liền đến trước cửa sổ đợi chờ phục kích. Khi thấy kẻ địch nhảy ra, y tưởng một kiếm tất phải thành công, ngờ đâu bảo kiếm lại bị đối phương cướp đi. Y là đệ nhất cao thủ của phái Điểm Tang. Sáu mươi tư miếng Truy Phong Kiếm đã xuất thần nhập hoá, oai trấn trời Nam, võ công của y giỏi hơn cả trưởng môn phái Điểm Tang Long Trực, là đại sư huynh của y. Ngờ đâu tối hôm nay, y liên tiếp bị thất thế, trong lòng nghĩ thầm: “Chẳng lẽ người đó là quỷ quái hay sao mà đao kiếm đâm không lọt.”
Nghĩ đoạn, y vội vỗ tay báo cho các người biết.
Hãy nói Thừa Chí và Thanh Thanh vượt tường nhảy ra bên ngoài nghe tiếng vỗ tay nổi lên tứ phía, biết kẻ địch bố trí khá cẩn mật, liền nằm yên dưới chân tường ẩn núp, chỉ nghe trên mái nhà có tiếng chân người đi lại tuần tiễu.
Thanh Thanh bỗng nói:
– Anh thử rờ xem cái này là cái gì?
Nói đoạn, nàng kéo tay Thừa Chí đến chỗ chân tường mà nàng đang phục. Thừa Chí rờ thấy chân tường bằng đá có khắc chữ. Chữ đầu là chữ Đệ, chữ thứ hai là Tứ, thứ ba là Công, thứ tư là Quốc, thứ năm là Ngụy. Đọc ngược trở lại là “Ngụy Quốc Công Tứ Đệ.” Ngờ đâu tìm kiếm mười mấy ngày không sao kiếm thấy nơi Ngụy Quốc Công Phủ, mà bây giờ tình cờ lại kiếm ra được, hai người hớn hở vô cùng. Thanh Thanh vui mừng múa chân múa tay, Thừa Chí vội kéo nàng xuống khẽ bảo:
– Hãy yên lặng! Kẻ địch đã đến kìa!
Vừa dứt lời, đã thấy bóng ba người vượt tường nhảy vào trong nhà, Thừa Chí vội nói:
– Đi thôi!
Hai người giở khinh công chạy thẳng một mạch về khách điếm, lúc ấy đã canh tư, trong khách điếm, ai nấy đều yên ngủ cả. Thanh Thanh thắp nến lên, Thừa Chí lấy giấy tờ ra xem. Trước hết, chàng lấy hai lá thơ cũ nhứt ra xem, quả nhiên một tờ là giấy nhận lỗi của Trương trại chủ và một lá thơ cảm ơn của Khấu Đạo Đài.
Thanh Thanh vừa cười vừa nói:
– Phen này anh cứu cha nàng thoát chết, không biết nàng lấy gì tạ ơn anh nhỉ?
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
– Nàng nào cơ chớ?
– Đại tiểu thơ của Tiêu Công Lễ ấy mà!
Biết nàng nói chơi, Thừa Chí không trả lời, cúi đầu đọc kỹ hai lá thơ, rồi nói:
– Lời nói của Tiêu Công Lễ là sự thật cả. Nếu ông ta có chút nào bịa đặt là anh khoanh tay không cứu giúp nữa, khỏi phải gây thù gây hận với các tiền bối trong giang hồ. Huống hồ trong bọn họ lại còn các đệ tử của nhị sư ca.
Thanh Thanh nửa đùa nửa thật nói:
– Cái cô tên là Phi Thiên Ma Nữ gì đó đẹp đấy nhỉ?
Thừa Chí đáp:
– Người đó có thủ đoạn độc ác, làm việc không suy nghĩ, bỗng dưng chặt đứt một cánh tay người ta. Nếu không nể vị sư, anh đã ra tay trừng trị nó rồi. Cũng vị sợ mất lòng sư huynh mà anh phải hẹn Tiêu cô nương đến đây kiếm anh để khỏi lộ tông tích của chúng ta.
Thấy chàng nói rất hợp tình hợp lý, Thanh Thanh không đùa nữa. Lại mở tiếp mấy thơ khác ra coi, không nén nổi tức giận, Thừa Chí lớn tiếng nói:
– Chú xem coi!
Chưa thấy chàng tức giận như thế này bao giơ, Thanh Thanh kinh ngạc, vội chạy lại giở những lá thơ đó ra xem. Thì ra những thơ đó là mật thơ của Cửu Vương Đa Nhĩ Cổn nước Mãn Châu gởi cho anh em họ Sử. Trong thơ dặn anh em y giết Tiêu Công Lễ xong, thừa cơ đoạt lấy bang Kim Long, để làm nội ứng cho Mãn Thanh. Công việc đầu tiên là anh em y phải dò thám tin tức, liên lạc giang hồ hảo hán, rồi chờ quân Thanh đánh vào Quan ải, là khởi binh nổi loạn liền. Thấy vậy Thanh Thanh cũng ngẩn người ra, không nói được nửa lời. Tuy nàng còn ít tuổi hay tinh nghịch, nhưng dù sao nàng vẫn là con người biết yêu nước, yêu nòi. Nên khi xem xong, cơn giận nổi lên, nàng định xé nát các giấy tờ đó.
Thừa Chí vội cản lại và nói rằng:
– Sao chú lại hồ đồ đến thế?
Thanh Thanh tỉnh ngộ ngay liền đáp:
– Phải đấy, ta phải để lại làm bằng cớ chớ!
– Chú có biết anh em y không hủy bỏ ngay hai lá thơ là tại sao không?
– Em biết rồi. Chúng giữ lại để uy hiếp Mẫn Tử Hoa phải không?
– Phải! Không ngờ bên trong lại có thêm một chuyện lớn nữa. Bây giờ tôi tha hồ ra tay cứu giúp mọi người không sợ mất lòng nhị sư huynh nữa!
– Anh nói rất phải. Nếu sư phụ có biết chuyện này cũng trách nhị sư huynh anh nữa là khác. À, đại sư ca này, em đã lầm, xin lỗi anh đó!
– Sao tự dưng chú lại xin lỗi tôi?
Thanh Thanh cúi đầu, khẽ đáp:
– Tại em cứ nói bậy nói bậy hoài
Thừa Chí cười nói:
– Thôi chú đừng nghĩ vẩn vơ nữa, đi ngủ ngay đi! Tôi còn phải nghĩ cách đối phó với bè lũ gian tặc này.
Sáng ngày hôm sau, tỉnh dậy ngồi trên giường luyện nội công, Thừa Chí cảm thấy công lực tiến hơn trước nhiều, trong lòng hớn hở mừng thầm. Vừa luyện xong, Thanh Thanh đem hai bộ quần áo màu lam vào và nói:
– Chúng ta đã giết Mã công tử, nên thay quần áo khác màu này ra ngoài tiện hơn.
Thừa Chí nói:
– Chú nghĩ cũng chu đáo đấy.
Hai người ăn điểm tâm xong, thấy phổ ky dẫn Tiêu cô nương vào. Chờ phổ ky ra khỏi phòng, Tiêu cô nương liền quỳ xuống vái lạy. Thấy người thanh niên đẹp trai nắm tay mình, Tiêu cô nương e thẹn, mặt đỏ bừng nhưng người ta có ơn cứu cha mình, nàng không tiện co tay lại. Thanh Thanh hỏi:
– Quý danh cô là gì?
– Tên em là Uyển Nhi. Còn đại danh hai vị là gì?
Thanh Thanh chỉ Thừa Chí vừa cười vừa nói:
– Anh ấy dữ lắm, không cho tôi nói. Cô thử hỏi anh xem.
Biết Thanh Thanh nói đùa, Uyển Nhi mỉm cười nói:
– Hai vị cứu cha tôi khỏi chết. Â¥n đức này tôi không biết lấy gì báo đền!
Thừa Chí nói:
– Cha cô là giang hồ tiền bối chẳng may gặp chuyện bất bình, chúng tôi là hậu bối bổn phận phải ra tay cứu giúp. Cô hà tất phải nói đến hai chữ ơn nghĩa làm gì! Cô về thưa với cha cô rằng: “Trưa hôm nay, cho cô cứ thiết tiệc như thường.” Còn hai gói giấy này, cô đưa cho cha cô, và dặn tới lúc khẩn cấp, ông ta mở ra cho mọi người xem, sẽ có công hiệu kỳ lạ. Hai gói này quan trọng lắm, cô phải đề phòng kẻo giữa đường có thể bị người ta cướp mất.
Chờ Uyển Nhi đi rồi, hai người khóa cửa ra đi. Vừa tới bên ngoài, thấy Uyển Nhi đang ngồi ở phòng khách, hai người vội lùi lại, xem nàng ngồi đó chờ ai. Thấy Uyển Nhi nói với phổ ky rằng:
– Gọi ông Quản lấy ra đây cho tôi. “Kim Long thám trảo, ô vân mãn thiên!”
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
– Nàng nói gì thế?
Thanh Thanh tuy ít tuổi hơn, nhưng trên bước giang hồ lại biết nhiều hơn, nàng khẽ nói:
– Có lẽ cô ta nói tiếng riêng của bang Kim Long đấy.
Phổ ky đi ra một lát, người quản lý vào cúi chào rất lễ phép, và hỏi:
– Có việc gì dặn bảo, xin cô cho biết ạ!
Uyển Nhi nói:
– Tôi là Tiêu đại cô nương. Ông làm ơn đến nhà tôi, bảo tôi có việc cần, mời các sư huynh tôi lại đây ngay.
Nghe Uyển Nhi tự xung là Tiêu đại cô nương, ông quản lý giựt mình, vội vâng dạ đi liền. Vài phút sau, đã thấy hơn hai mươi võ sĩ tay cầm khí giới tới nơi. Rồi họ bảo vệ Uyển Nhi ra về.
Thừa Chí nói:
– Không ngờ thanh thế của bang Kim Long ở đây lại lớn đến thế! Bây giờ, chúng ta không phải đi theo nàng nữa. Chờ lát nữa, chúng ta sẽ đến nhà nàng dự tiệc.
Thừa Chí và Thanh Thanh thủng thẳng đi tới Tiêu phủ, thấy khách đã đến tấp nập.
Hai người theo mọi người đi vào. Tiêu Công Lễ tưởng hai người là môn đồ của kẻ địch, chỉ chắp tay chào qua thôi, chớ không để ý coi trọng. Chờ khách tới đông đảo rồi, Tiêu Công Lễ ra lịnh cho bày bàn. Vì Tiêu Công Lễ là Bang chủ ban Kim Long, nên thức ăn và rượu quý giá và ngon lành hơn tiệc của Mẫn Tử Hoa nhiều.
Khách được mời ngồi mâm trên nhứt là: Mẫn Tử Hoa, Thập Lực đại sư, anh em Trường Bạch tam anh, Mai Kiếm Hòa, và Tôn Trọng Quân, do Tiêu Công Lễ ngồi tiếp. Mới uống xong tuần rượu đầu, Mẫn Tử Hoa đã đánh rơi chén rượu xuống đất vỡ tan tành, rồi quát lớn:
– Họ Tiêu kia, hôm nay các bạn hữu võ lâm đều nể ngươi tới dự tiệc đông đủ. Còn mối thù giết chết anh ta, ngươi định tính toán sao?
Thấy Tử Hoa nói trắng ngay ra như vậy, Tiêu Công Lễ không biết trả lời thế nào phải. Đại đệ tử của ông ta là Ngô Bình đứng dậy đáp:
– Họ Mẫn kia, ngươi có biết anh ngươi thấy nữ sắc, nảy ác ý, làm xấu cả anh em võ lâm không? Sư phụ ta
Chàng chưa nói hết lời, đã thấy một luồng gió mạnh tạt tới, vội cúi đầu xuống tránh. Chỉ nghe “cọc” một tiếng, một cây đinh thép ba cạnh dài năm tấc cắm sâu xuống mặt bàn. Chàng rút dao ra, gọi:
– Giỏi thật! Mi hại ngầm La sư đệ của ta, và còn chặt đứt cánh tay y. Nay mi còn ném trộm đinh thép định hại ta, con mụ kia!
Nói xong, chàng sấn lại định giao chiến với Trọng Quân, Tiêu Công Lễ vội quát lớn cản lại, rồi vừa cười vừa nói:
– Tôn cô nương là cao thủ trong phái Hoa Sơn, chấp nhứt tiểu đồ làm gì?
Mẫn Tử Hoa mắt đỏ ngầu, nắm luôn đôi đũa trên bàn, nhắm mắt Công Lễ lao tới, miệng quát lớn:
– Ngày hôm nay, ta phải thí mạng với tên lão tặc này.
Tiêu Công Lễ cũng cầm đũa giơ lên, khẽ gắp đôi đũa của địch lao tới, rồi để xuống bàn và nói:
– Sao Mẫn huynh nóng nảy thế. Có chuyện gì cứ thong thả mà nói. Bây đâu! Lấy đôi đũa khác cho Mẫn nhị gia.
Thấy võ công của Công Lễ cao siêu như vậy, Tử Hoa cũng phải giựt mình sợ hãi, trong lòng nghĩ thầm: “Thảo nào anh ta bị giết chết là phải.”
Thấy Mẫn Tử Hoa thua một miếng, Mạt Ảnh Tử Mai Kiếm Hòa giơ tay phải ra định nắm lấy bả vai Công Lễ và nói:
– Tiêu đại gia bản lãnh cao cường lắm. Anh em của ta hãy thân thiện nào!
Thấy y vừa nói vừa nhanh nhẹn giơ cánh tay ra, Công Lễ liền né mình đứng dậy tránh luôn. Mai Kiếm Hòa nắm hụt vớ phải thành ghế. Chỉ nghe “cắc, cắc” hai tiếng, thành ghế bằng gỗ nọ bị gãy ngay làm hai.
Thấy đối phương càng áp bức càng mạnh, và tên nào tên nấy đều sửa soạn ra tranh đấu, Tiêu Công Lễ nhìn lại người bên mình cũng đã thấy chuẩn bị cả. Không khí rất căng thẳng, Kim Xà Lang Quân chưa thấy tới giải vây, ông ta chỉ sợ chiến tranh bộc phát, không biết bao nhiêu người sẽ bị thương hay chết, đưa mắt nhìn con gái ra hiệu.
Lúc ấy Uyển Nhi đang bưng hai gói đồ, nóng ruột vô cùng, thấy đưa mắt ra hiệu, lập tức mở ngay cái gói đồ hình dài ra, thì là hai thanh kiếm, bèn đem tới để trước mặt cha. Thấy con đưa hai kiếm tới, không hiểu dùng để làm gì. Công Lễ đang nghi ngờ nghĩ ngợi. Truy Phong Kiếm Vạn Phương và Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân đều nhận ngay ra hai thanh kiếm đó, khí giới của mình mất trộm và bị cướp ngay đêm hôm qua. Vạn Phương mặt đỏ bừng, hùng hổ đến lấy hai thanh kiếm nọ, giao trả một thanh kiếm cho Tôn Trọng Quân.
Mở lấy thanh kiếm, Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân cất tiếng chửi đổng rằng:
– Có giỏi thì ra đây đấu dao đấu kiếm. Chớ ăn cắp ăn trộm vặt như vậy, không phải là hảo hán!
Công Lễ ngạc nhiên, không hiểu gì cả, chỉ thấy Tôn Trọng Quân tiến lên hai bước, cầm kiếm đâm thẳng vào ngực mình, liền lùi lại hai bước tránh. Đồng thời, nhị đệ tử đưa ngay thanh đao cho ông ta. Cầm lấy thanh đao, ông ta vẫn chưa trả miếng.
Thấy thế kiếm “Hành Vân Lưu Thủy” đâm không trúng kẻ địch, Trọng Quân tiếp luôn miếng nữa đâm vào vai trái đối phương. Bất đắc dĩ, Công Lễ phải giở thế “Trường Không Lạc Nhạn” dùng đao bổ xuống thanh kiếm của địch. Nếu để cho đao của đối phương bổ trúng kiếm của mình tất phải rời khỏi tay. Trọng Quân thấy thế đao rất độc, trầm khí giới xuống, hình như để tránh đao kia. Ngờ đâu, khi đao trấn tới hạ bộ, đột nhiên nàng hất nhanh thanh kiếm lên và đâm thẳng vào bụng dưới của địch. Thế kiếm này vừa nhanh vừa đúng. Dù Công Lễ có mấy mươi năm kinh nghiệm võ công, cũng không kịp thu đao để đỡ. Đành phải nhún một cái, ông ta nhảy quay đầu các người, tránh ra bên ngoài.
Tuy vậy, ống quần của ông ta đã bị mũi kiếm móc toạt một mảnh rồi. Ông ta nghĩ thầm: “Hiểm thật!”
Quay đầu nhìn xem Trọng Quân có đuổi theo hay không? Ông ta thoáng thấy con gái mình tay cầm gói đồ còn lại là hai lá thơ của mình, mà bị Trường Bạch tam anh giấu đi.
Lúc ấy, hai người đồ đệ cản Tôn Trọng Quân lại. Gọi con đưa hai lá thơ đó cho mình xong, Công Lễ vội lớn tiếng kêu gọi:
– Các ngươi hãy ngừng tay! Tôi có vài lời thưa cùng tất cả các vị có mặt tại đây!
Thấy sư phụ kêu gọi, hai người đồ đệ vội thu đao lui xuống. Một người lui hơi chậm bị Trọng Quân đá bổ một đá trúng ngực, hộc ngay một đống máu tươi, mặt tái mét như gà cắt tiết. Vì mất bảo kiếm, Trọng Quân cho là bị sỉ nhục vô cùng, nên lần này ra tay, miếng nào cũng chí mạng.
Tiêu Công Lễ cố nén tức giận, lớn tiếng nói:
– Thưa các bạn, Mẫn Tử Hoa trách tôi đã giết chết anh ruột y. Tôi xin công nhận là đúng. Anh bạn ấy là Mẫn Tử Diệp chết trong tay tôi thật!
Mẫn Tử Hoa nức nở nói:
– Vay nợ phải trả tiền, giết người phải đền mạng, luật trời đã định!
Bạn của y đều đồng thanh lên tiếng:
– Phải, giết người phải đền mạng.
Tiêu Công Lễ đáp:
– Đây tôi có hai lá thơ. Xin mời mấy vị tiền bối đầy đủ đức vọng ra đây xem lá thơ này. Nếu các vị tiền bối quyết định phải đền mạng, tôi Tiêu Công Lễ xin tự vận ngay trước mặt quý vị. Tôi mà hơi cau mày cũng không phải là hảo hán.
Mấy lời đó gợi lòng hiếu kỳ của mọi người, ai nấy đều muốn tiến lại xem.
Tiêu Công Lễ nói:
– Hãy khoan! Xin Mẫn nhị gia giới thiệu ba vị tiền bối ra đọc trước.
Mẫn Tử Hoa không biết trong thơ nói là gì nhưng cũng vui lòng cử: Thập Lực đại sư, Trịnh Khởi Văn, và Mai Kiếm Hòa ba người ra. Cả ba cầm lấy lá thơ lên khẽ đọc.
Anh em Trường Bạch tam anh mặt xám lại đứng một bên thủ thỉ bàn thầm. Thập Lực đại sư đọc xong lá thơ liền nói:
– Theo ý bần tăng, Mẫn nhị gia nên dĩ hòa vi quý xóa mối thù đi, hóa địch làm bạn!
Thập Lực đại sư là giám viện, viện Đạt Ma chùa Thiếu Lâm, ngoại công đã luyện đến mức xuất thần nhập hóa. Thấy ông ta nói như vậy, ai nấy đều ngạc nhiên. Mẫn Tử Hoa bán tín bán nghi, giằng lấy hai lá thơ xem mới được một nửa, đã xấu hổ vô cùng, lịm đi không nói được nửa lời.
Bỗng thấy Mai Kiếm Hòa nói:
– Thơ này giả tạo không thể lừa ta được!
Vừa nói chàng vừa giằng lấy lá thơ xé làm muôn mảnh.
Không ngờ trước mặt mọi người, Mai Kiếm Hòa lại dám hủy mất lá bùa hộ thân của mình, Tiêu Công Lễ tức giận đến nỗi mặt đỏ tai tía, không thể giữ nổi sự trầm tĩnh nữa, múa đao quát lớn:
– Họ Mai kia! Ngươi có biết xấu hổ không?
Mai Kiếm Hòa lạnh lùng đáp:
– Không biết ai mới xấu hổ, giết anh ngưòi ta còn làm thơ giả để đổ oan cho người đã khuất. Loại thơ này một ngày ta có thể viết hằng trăm lá.
Thập Lực đại sư và Trịnh Khởi Văn cũng đâm ra bán tín bán nghi, không biết ai thật ai giả. Lúc bấy giờ trong phòng khách yên lặng như tờ.
Đại đệ tử của Tiêu Công Lễ là Ngô Bình thấy sư phụ bị khi thị như vậy, tức quá nhảy ra múa đao chém Kiếm Hòa. Vội né mình rút kiếm ra đỡ, chỉ có một thế, Kiếm Hòa đã gạt rơi đơn đao và dí mũi kiếm vào yết hầu Ngô Bình, quát lớn:
– Ngươi quỳ xuống. May đại gia sẽ tha chết cho tánh mạnh nhỏ xíu của mi khỏi chết!
Các sư đệ khác khi nào chịu để Ngô Bình bị nhục như vậy. Ai nấy đều rút khí giới xông cả vào trong phòng khách. Các bạn của Mẫn Tử Hoa cũng rút giở khí giới ra đối địch. Thế là tiếng va chạm khí giới “loảng xoảng” náo nhiệt vô cùng. Ngô Bình liền lùi ba bước, mà mũi kiếm của kẻ địch vẫn đi liền cổ họng. Mai Kiếm Hòa lại quát hỏi:
– Mi không quỳ ta đâm chết ngay?
Ngô Bình cứng cỏi đáp:
– Đành chết chớ ta không chịu nhục! Ngươi cứ đâm ta đi!
Tiêu Công Lễ nhảy lên trên ghế lớn tiếng nói:
– Mọi người hãy ngừng tay, coi ta đây!
Ông ta kề lưỡi đao vào cổ nói tiếp:
– Oan hữu đầu, trái hữu chủ! Ngày hôm nay vui lòng đền mạng cho Mẫn Tử Diệp cho xong chuyện. Tất cả đồ đệ của ta hãy mau lui xuống.
Các môn đồ nghe lời lui ra tới cửa. Ai nấy đều buồn rầu, đăm đăm nhìn sư phụ.
Tiêu Công Lễ đang ra tay tự vận, Uyển Nhi bỗng kêu lớn:
– Cha, cái thơ nó đâu? Ông ta bảo thể nào cũng đến cứu cơ mà?
Tiêu Công Lễ lấy thơ ra xem, chỉ thấy vẽ cây thanh kiếm Kim Xà thôi, giơ lên cho mọi người coi. Ai nấy đều không hiểu tờ giấy đó có dụng ý gì.
Lại nghe Tiêu Công Lễ nói lớn:
– Kim Xà đại hiệp, ông ta đến chậm một bước rồi!
Nói đoạn, ông ta liền giơ đao lên cứa cổ.
Ngờ đâu, nghe “keng” một tiếng, con đao của ông ta bị cái quái gì đụng mạnh rơi xuống đất, bên cạnh ông ta bỗng có thêm một người. Người đó mi thanh mục tú, là một thiếu niên trạc độ hai mươi. Chàng tới bằng cách nào không một ai hay. Thì ra người đó là Viên Thừa Chí. Chàng khoanh tay đứng cạnh xem, thoạt tiên tưởng hai láthơ nọ có thể giải vây cho Tiêu Công Lễ được, thì mình khỏi phải lộ diện, có thể miễn xung đột với môn đồ của nhị sư huynh. Ngờ đâu Mai Kiếm Hòa lại giở thủ đoạn đê hèn đến thế, bất đắc dĩ chàng phải lộ mặt dùng quân cờ đánh rơi con dao của Công Lễ, và tung mình nhảy tới lớn tiếng nói với mọi người rằng:
– Khi chúng tôi lên đường tới đây, Kim Xà đại hiệp có nói qua loa nội dung hai lá thư đó cho chúng tôi nghe. Còn hai lá thơ bị xé nát đây, hai vị đại sư và đại gia đây đã đọc qua rồi.
Vừa nói chàng vừa chắp tay vái chào Thập Lực đại sư và Trịnh Khởi Văn rồi nói:
– Bây giờ tôi xin đọc qua nội dung của hai lá thơ đó, là thật là giả, sẽ thấy rõ ngay.
Thập Lực đại sư và Trịnh Khởi Văn đều đáp:
– Phải đấy. Cậu cứ đọc đi!
Nhìn Mẫn Tử Hoa, Thừa Chí nói:
– Nếu tôi đọc ra, e mất sĩ diện của lịnh tiên huynh. Chẳng hay có nên đọc không?
Mẫn Tử Hoa đầu lộ hết gân xanh, la lớn:
– Anh tôi không phải là hạng người tồi bại như thế? Hai cái thơ này nhứt định là giả.
Thừa Chí liền nói với Thanh Thanh rằng:
– Chú Thanh, chú đọc nội dung hai lá thơ đó ra xem.
Đằng hắng một tiếng, Thanh Thanh dõng dạc đọc.
Nàng thông minh khác thường, ở khách sạn đọc qua hai lá thơ một lần mà bây giờ, nàng đọc lại không sót một chữ nào. Mới nghe hết cái thơ đầu, mọi người rỉ tai thì thầm bàn tán. Mẫn Tử Hoa không thể nhịn được nữa, lớn tiếng quát tháo:
– Im mồm, thằng nhỏ kia, mi là ai?
Thanh Thanh chưa kịp trả lời, Mai Kiếm Hòa đã lên tiếng nói trước:
– Có lẽ thằng nhỏ này là thủ hạ của tên họ Tiêu kia cũng nên? Bằng không, nó cũng là người được mời đến đánh giúp. Ai dám chắc chúng không xếp đặt trước để làm ra như vậy?
Mẫn Tử Hoa tỉnh ngộ, kêu la:
– Mi bảo mi là người của Kim Xà Lang Quân phái đến. Thật hay giả ai biết đâu chỗ đó.
Thừa Chí hỏi:
– Phải thế nào các người mới tin?
Mẫn Tử Hoa rút kiếm ra rồi đáp:
– Trên giang hồ người ta đồn đãi võ công của Kim Xà Lang Quân tài giỏi kinh người nhưng chưa ai thấy qua. Nếu mi là hậu bối của Kim Xà Lang Quân võ nghệ tất phải hơn người. Vậy mi địch nổi thanh kiếm này của ta thì ta mới tin được.
Thấy Thừa Chí ít tuổi, Mẫn Tử Hoa khinh thường mới thách chàng như vậy và yên trí thế nào cũng thắng một cách dễ dàng. Như vậy, mọi người sẽ không tin hai lá thơ kia là thật nữa.
Thừa Chí ngồi xuống bưng chén rượu uống, và gắp một miếng thịt ăn, vừa cười nói:
– Muốn thắng kiếm của ngươi hà tất ta phải dùng tới võ nghệ chân truyền của Kim Xà Lang Quân. Ngươi bị người ta lợi dụng mà không hay biết tí gì! Tội nghiệp thật!
Mẫn Tử Hoa nổi giận nói:
– Ta bị ai lợi dụng? Thằng nhỏ kia, mi dám đấu thì ra đây, không dám thì cút ngay đi!
Thừa Chí lại uống một hớp rượu, rồi nói:
– Nghe kiếm pháp phái Võ Đang nổi tiếng giang hồ đã lâu, vậy hôm nay âu là ta thử một chút xem. Nhưng ta phải nói trước, nếu ta thắng, ngươi không được nhắc nhở đến mối thù với Tiêu võ sư. Nhược bằng ngươi vẫn khăng khăng không chịu thì đã có các vị tiền bối võ lâm ở đây giàn xếp cho.
Mẫn Tử Hoa tức giận nói:
– Cái đó lẽ tự nhiên rồi, ở đây có Thập Lực đại sư và Trịnh đảo chủ các người làm chứng. Còn mi thua ta thì sao?
– Ta sẽ quỳ lạy xin lỗi. Việc ở đây ta sẽ bỏ không dám dính vào nữa.
– Ta tưởng bang Kim Long có tổ chức quy mô như thế, tất phải có những hảo thủ xuất sắc. Không ngờ toàn là những tên mảnh khảnh như đàn bà con nít cả.
Tiêu Uyển Nhi la lớn:
– Đàn bà con nít đã sao? Ta đánh cuộc với mi đây!
Tôn Trọng Quân nói:
– Hay lắm. Trịnh đảo chủ làm nhân chứng hộ em nhé?
Lúc ấy có mấy sư huynh đệ của Uyển Nhi cũng đòi cá theo, nhưng gạt đi không cho cá.
Trịnh Khởi Văn tuy là hải tặc giết người không chớp mắt nhưng với cuộc thử thách này y cũng phải nhật thấy là rùng rợn, là ghê sợ, liền khuyên rằng:
– Hai cô sao không đánh cuộc son phấn lại thử thách giết chóc nhau tàn nhẫn như vậy làm gì?
Uyển Nhi đáp:
– Y đã chặt gãy một cánh tay của La sư ca cháu thì cháu phải khoét được hai mắt của y mới hả dạ.
Trịnh Khởi Văn không tiện khuyên nữa. Với giọng lạnh lùng, Mai Kiếm Hòa nói:
– Kể ra thì Tiêu cô nương cũng si tình với môn nhân của Kim Xà Lang Quân đấy? Chẳng thế sao cô lại chịu đem tánh mạnh ra hy sinh cùng y như vậy?
Uyển Nhi mặt đỏ bừng đáp:
– Còn ông, ông có muốn đánh cuộc gì không?
Thanh Thanh nghe Mai Kiếm Hòa nói như vậy tức giận vô cùng, la lớn:
– Tôi vui lòng đánh cuộc với tên Mạt Ảnh Tử này?
Mai Kiếm Hòa nói:
– Mi muốn cuộc gì?
Thanh Thanh trả lời:
– Ta cùng cuộc với ngươi, ba chấp một, nếu bạn ta thua, ta sẽ gọi ngươi ba tiếng “Cha.” Trái lại ngươi phải gọi ta một tiếng “Cha” như vậy!
Mọi người không nhịn được cười, đều cảm thấy lời lẽ thanh niên này thật khôi hài.
Mai Kiếm Hòa nói:
– Ai thèm đùa giỡn với mi, ta chờ đợi ở đây nếu y có thắng ta sẽ lãnh giáo với mi vài hiệp.
Thanh Thanh trả lời:
– Ngươi nói như vậy, khúc kiếm cụt này lại còn lợi hại hơn “Lưỡng Nghi kiếm pháp” của phái Võ Đang hay sao?
Mai Kiếm Hòa nói:
– Ta là phái Hoa Sơn, hai bạn kia là phái Võ Đang, phái nào cũng thế kiếm trác tuyệt riêng, ngươi khá câm mồm chớ khiêu khích như thế.
Thấy mấy người cãi lý luôn miệng, Đồng Huyền đạo nhân nóng ruột kêu lên:
– Đừng nói nữa. Nầy thằng nhỏ kia, coi kiếm.
Vừa dứt lời, y múa kiếm đâm Thừa Chí, bên này Mẫn Tử Hoa cũng múa kiếm xông vào. Một người, tay trái cầm kiếm, một người, tay phải cầm kiếm, cả hai đều theo bát quái, tám tám sáu mươi tư quẻ, sinh sinh diệt diệt, tiêu tiêu chương chương, thế nào cũng có ẩn gió sấm trong đó.
Trước kia, Kim Xà Lang Quân luận kiếm với Hoàng Mộc đạo nhân đã biết Lưỡng Nghi kiếm pháp có nhiều chỗ sơ hở, và đã đề nghị với Đạo nhân rồi. Nhưng Chưởng môn của phái Võ Đang có tánh kiêu ngạo, không chịu mới trả lời rằng:
– Kiếm pháp của tôi, dù có sơ hở đi chăng nữa, nhưng tôi dám chắc, trong thiên hạ không ai phá nổi.
Vì thế Kim Xà Lang Quân không tiện nói thêm. Sau Ôn thị Ngũ lão mời hảo thủ các phái đến địch với Kim Xà Lang Quân, trong đó cũng có kiếm khách phái Võ Đang.
Lúc đối địch, Kim Xà Lang Quân đã nhằm những chỗ sơ hở mà chỉ mấy hiệp đã phá tan được kiếm pháp Lưỡng Nghi. Trong Kim Xà bí kíp, ông ta cũng viết rõ cách phá kiếm pháp đó, nên Thừa Chí không sợ hãi gì cả. Trông bóng kiếm của hai kẻ địch, chàng xuyên đi xuyên lại, ung dung vô cùng.
Đồng Huyền và Mẫn Tử Hoa hết sức đánh thật nhanh mà không sao đụng được vào người Thừa Chí. Những người đứng cạnh càng xem càng lạ. Trịnh Khởi Văn nói với Thập Lực đại sư rằng:
– Kinh công của thiếu niên này đẹp tuyệt, có lẽ là đệ tử của Kim Xà Lang Quân thật cũng nên?
Thập Lực đại sư gật đầu đáp:
– Trong phái hậu sinh, người tài ba như y kể cũng hiếm có lắm.
Đánh đến nổi khùng, Mẫn Tử Hoa tiến vào trong cung, cầm kiếm đâm thẳng vào ngực Thừa Chí. Đồng thời, Đồng Huyền cũng sử dụng một thế “Tả Hữ Khai Cung”, tả đâm một kiếm, hữu đâm một kiếm. Hai người hợp sức tấn công khiến Thừa Chí không còn chỗ tránh. Chàng bỗng phi thân tiến thẳng vào chui qua đáy kiếm, đầu húc vào bụng Mẫn Tử Hoa. Chàng mới dùng có ba phần sức mà Mẫn Tử Hoa đã loạng choạng suýt ngã. Đồng Huyền sợ quá, liên hoàn đâm liền ba kiếm, hết sức cản trở. Mẫn Tử Hoa nhờ vậy mới đứng vững liền lên tiếng chửi:
– Quân mất dạy này, mầy dám húc đầu vào bụng ông mầy à?
Lần này ra tay, Thừa Chí muốn giải hòa, chớ không muốn mất lòng các nhân vật trên chốn giang hồ, và cũng không muốn gây thù chuốc oán với họ. Nhưng lúc này Mẫn Tử Hoa đã lên tiếng chửi như vậy, nhục đến người trên, Thừa Chí nổi giận, trong lòng tính toán hôm nay không dỡ chút võ công để khuất phục họ, thì việc này khó kết liễu được. Vì lát nữa xử trí hai tên giặc mãi quốc Trường Bạch tam anh, chỉ sợ người khác không phục. Nghĩ đoạn, chàng nhảy đến cạnh bàn, cầm chén rượu ngửng đầu uống cạn, rồi la lớn:
– Đánh mau lên, ta còn chưa ăn no đâu.
Thấy khinh mình quá đáng như vậy, Mẫn Tử Hoa càng tức giận, múa kiếm càng nhanh, xong lại gần Thừa Chí. Đồng Huyền vội khẽ nói:
– Mẫn sư đệ chớ quá nóng nảy, đừng trúng kế khiêu khích của y.
Mẫn Tử Hoa tỉnh ngộ ngay. Hai người lại chia làm tả hữu vây Thừa Chí ở giữa.
Gỡ được mấy thế, Thừa Chí bỗng nhảy ra ngoài vòng để chén xuống bàn la lớn:
– Chú Thanh rót rượu cho tôi!
Thanh Thanh nói:
– Vâng!
Thừa Chí cầm cái ghế, đứng cạnh bàn, cả hai mũi kiếm của địch đánh tới, chờ rượu rót xong, để ghế xuống, cầm chén rượu lại nhảy vào giữa. Ngoạm đùi gà, vừa nhai vừa nói:
– Lưỡng Nghi kiếm pháp đã có nhiều chỗ sơ hở, hai người lại không khéo sử dụng thì đánh ta bị thương sao nổi?
Chàng uống một hớp rượu lại nói tiếp:
– Hồi nhỏ sư phụ ta bắt ta làm văn. Bây giờ hứng văn của ta nổi lên, ta phải làm văn đây.
Đồng Huyền quát lớn:
– Thằng nhãi, coi kiếm!
Thừa Chí lớn tiếng nói:
– Đầu đề bài văn hôm nay của ta là Sứ giả Kim Xà cười đấu hai ngốc tử ký.
Thanh Thanh cười nói:
– Đại ca, thế là nghĩa gì?
Thừa Chí đáp:
– Đó là đầu đề của bài văn.
Thanh Thanh lại nói:
– Hay đấy, anh làm mau lên, chỉ nhớ cho, lát nữa sẽ chép ra tờ giấy.
Thừa Chí nói:
– Ô hô! Bảo kiếm gia, là lợi khí giết người. Ngốc tử gia là biệt hiệu của kẻ ngu, một ngốc tử để giải buồn cho người, hai ngốc tử làm cho người ta ôm bụng cười bò, mà nay hai ngốc tử tay cầm bảo kiếm muốn mưu sát người, khiến ta phải phun rượu cười chảy nước mắt!
Thanh Thanh lớn tiếng nói:
– Phun rượu cười chảy nước mắt, câu này đáng khuyên.
Thừa Chí tránh liền ba miếng hiểm, lại nói tiếp:
– Ngã là Sứ giả Kim Xà, vui lòng làm Lễ Trọng, mà chư quân cứ chấp nê. Không quấy nhiễu luôn luôn: bốn phương quân tử, ngừng chén coi chiến, ba tên gian tặc lòng lo ngay ngáy có cách gì mà giải được mối nguy này! Duy chỉ có đánh ngã nó!
Vừa dứt lời, chàng đột nhiên quay mình, đùi gà ở trong tay ném thẳng vào mặt Mẫn Tử Hoa, và tiện tay gắp luôn mũi kiếm của Đồng Huyền vận sức vào đầu đũa, quát lớn:
– Buông kiếm!
Quả nhiên thanh kiếm của Đồng Huyền bị giựt rơi xuống đất. Võ công tinh cường giơ tay phải, chân trái quét tới, Đồng Huyền muốn cầu thắng trong khi bại. Thừa Chí nhún mình nhảy lên tránh cái đá của địch, chén rượu trong tay bay ra tức thì. Chén rượu đó ném trúng huyệt “Khúc Xích” của Mẫn Tử Hoa. Cảm thấy tay tê liệt, Mẫn Tử Hoa không cầm vững thanh kiếm bỏ rơi xuống đất. Dùng thế “Hàn Nhà Phó Thủy”, Thừa Chí nhảy xổ xuống nhặt lấy song kiếm và nói lớn:
– Các ngươi chưa được thấy một người sử dụng “Lưỡng Nghi kiếm pháp” thì đây lưu ý mà xem.
Chàng múa song kiếm, tả công hữu thủ, hữu tiến tả lui, một thế một thức, quả nhiên không sai Lưỡng Nghi kiếm pháp tí nào, chàng hai tay sử dụng kiếm thuật phức tạp như vậy, mà kiếm nào công lực cũng rất mạnh, các người đứng xem xung quanh những bọn trẻ không nói làm gì, còn Thập Lực đại sư, Truy Phong Kiếm Vạn Phương, Trịnh Khởi Văn, Côn Lôn phái Chương Tâm Nhứt, và Hoa Sơn phái Mai Kiếm Hòa vân vân, đều ngơ ngác nhìn.
Chàng sử dụng xong 64 miếng Lưỡng Nghi kiếm pháp, thét lên một tiếng, hai kiếm thoát khỏi tay bay ra cắm lên xà nhà ngập sâu đến tận cán.
Thế võ đó là tuyệt chiêu của Mục Nhân Thanh phái Hoa Sơn sáng chế ra. Vừa giở tuyệt kỹ xong, Thừa Chí buông tay, lùi ra một bên. Lúc bây giờ, tiếng vỗ tay nổ lên như pháo ran.
Trong khi mọi người đang khen ngợi, Thanh Thanh lớn tiếng nói:
– Ha, ha có người sắp phải gọi ta “cha” đây.
Mai Kiếm Hòa mặt sầm lại, đưa mắt nhìn Thanh Thanh, tay để lên cán kiếm.
Trịnh Khởi Văn cười nói:
– Tiêu cô nương, cô đã được cuộc rồi. Cô đến đây nhận số tiền này đi!
Nói đoạn, y đẩy mấy thoi vàng lại đầu bàn đằng này. Tiêu Uyển Nhi nhận lấy số vàng, cúi chào cảm ơn, và nói:
– Cám ơn bác, tôi lấy số vàng này thưởng người nhà hộ bác!
Nói tới đây, nàng nói với các người nhà của Trịnh đảo chủ rằng:
– Số tiền chín ngàn lạng bạc này đây là tiền được giữa tôi với Trịnh đảo chủ đánh đố với nhau. Các vị ở xa tới, bang Kim Long chúng tôi tiếp đãi thiếu chu đáo. Tôi rất lấy làm hổ thẹn. Hiện giờ, tôi mượn hoa hiến Phật. Ở đây có rất nhiều anh em theo hầu các chú bác, huynh tỷ tới dự tiệc. Vậy tôi lấy số tiền này chia ra, tặng mỗi anh em một trăm lạng. Ngày mai, tôi xin sai người đưa đến tận chỗ ở.
Các người thấy trận oán cừu đã vô hình giải tán. Bang Kim Long xử trí rất khéo léo, ai nấy đều vui vẻ. Chỉ có Mẫn Tử Hoa và Đồng Huyền bại trận mất hết sĩ diện.
Tiêu Công Lễ nói:
– Năm xưa, tánh đệ quá nóng, làm việc lỗ mãng, để đến nỗi lỡ tay giết chết huynh trưởng của Mẫn nhị ca. Đệ ăn năn vô cùng. Bây giờ trước mặt các vị anh hùng, đệ xin tạ lỗi Mẫn nhị ca. Uyển Nhi con đến chào Mẫn thúc thúc đi.
Vừa nói ông ta vừa cúi đầu chào Tử Hoa. Uyển Nhi cũng tiến đến quỳ xuống vái lạy. Đã có lời nói trước, và lại đọc qua hai lá thơ, Tử Hoa biết lỗi ở mình, muốn tiếp tục báo thù, sức mình làm không nổi, thì nhân lúc này xử hòa cho xong. Nghĩ xong, y liền đáp lễ lại, nhưng nghĩ đến anh mình, nước mắt lại chảy quanh. Tiêu Công Lễ nói:
– Mẫn nhị ca đã xóa bỏ hiềm thù cũ, đệ cảm ơn vô cùng. Còn câu chuyện đánh cuộc cái nhà, chỉ là một câu chuyện nói đùa, xin đại gia này đừng nhắc nhở đến nữa. Ngày mai tôi sẽ cất một căn nhà khác biếu hai vị nhé?
Thanh Thanh lắc đầu nói:
– Điều đó không được. Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy. Lời đã nói ra không thể hồi được.
Mọi người đều ngạc nhiên và nghĩ thầm: “Tiêu Công Lễ đã nhận lời cất cho căn nhà khác, nhà đó tất phải lớn rộng gấp mười lần nhà của Mẫn Tử Hoa mà tại sao thanh niên nọ lại cứ khăng khăng bắt buộc như vậy?”
Tiêu Công Lễ cúi chào Thanh Thanh và nói:
– Thưa chú em, ân tình của hai vị, tôi biết không sao đền bù xuể. Bây giờ, tôi lại xin lão đệ giúp đỡ một lần nữa. Ở cửa Nam thành, tôi có một biệt thự lớn, có cả vườn hoa. Nếu hai vị vui lòng nhận cho, tôi cam đoan hai vị phải hài lòng.
Thanh Thanh đáp:
– Vị Mẫn gia này vừa rồi muốn giết ông báo thù. Nếu ông nói đừng giết tôi nữa, tôi kiếm người khác thay thế để cho bạn giết, cam đoan bạn phải hài lòng. Ông thử nghĩ xem, liệu Mẫn gia có chịu không?
Bị nàng hỏi lại, Tiêu Công Lễ không sao trả lời được, quay đầu nói với Uyển Nhi rằng:
– Đại gia này đã thích căn nhà ấy thì lát nữa con sai người nhà đem so tính, giá mua căn nhà đó là tám nghìn ba trăm lạng bạc, sang gởi trả Mẫn nhị thúc.
Mẫn Tử Hoa nói:
– Thôi thôi, tôi lấy tiền làm quái gì! Đại trượng phu, nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Thù oán giữa tôi với Tiêu gia từ đây là xong. Ngày mai tôi sẽ về quê ở, và cũng không còn mặt mũi nào ở giang hồ làm ăn nữa. Cái nhà đớ cứ để hai vị này lấy đi mà ở.
Nói xong, y quay chào mọi người một vòng, và nói tiếp:
– Quý bạn hữu không quản ngại đường sá xa xôi đến đây ra tay trợ giúp. Ngờ đâu, đệ không ra gì, võ nghệ lại kém người, không thể trả thù cho người anh đã khuất. Và còn làm quý vị mất công đi một chuyến, đệ xin báo đền một ngày sau này.
Thấy y nhanh nhẩu và trực tánh như vậy, Thừa Chí liền kêu gọi:
– Mẫn nhị gia tuy bại trong tay tôi. Nhưng sự thật võ nghệ của tôi còn kém hai vị xa. Xin hai vị chớ có quan tâm đến điều đó. Tôi là hậu bối, xin cung cẩn tạ lỗi cùng hai vị.
Mọi người đều ngạc nhiên, rõ ràng chàng đã thắng một cách vinh dự, tuy không đánh bại hai người, sao chàng lại bảo là võ nghệ kém người?
Thừa Chí lại nói:
– Hai vị thua, là thua Kim Xà Lang Quân, chớ không phải thua tôi bởi ông ta đã đoán đúng những thế võ của hai vị, cho nên mới bảo tôi phải cố ý làm ra vẻ ung dung kiêu ngạo, để chọc tức hai vị rồi thừa cơ mà chiến. Kim Xà Lang Quân là đệ nhứt cao thủ trong võ lâm hiện nay. Võ công của ông ta cao siêu không thể nào đo lường được. Hậu bối không phải là môn đồ của ông ta, chỉ vì một trường hợp gặp nhau ngẫu nhiên, tôi may mắn được ông ta dạy bảo cho ít thế, để đến đây giải vây mà thôi. Hai vị bại trong tay ông ta, như thế chưa phải là gì nhục cho lắm. Hậu bối nói mấy lời đây, tuy hơi sỗ sàng, nhưng đó là sự thật! Dù tôn sư Hoàng Mộc đạo trưởng còn sống, cũng không địch nổi ông ta, thì hai vị làm sao mà thắng nổi.
Lời nói của Thừa Chí khiến Mẫn Tử Hoa và Đồng Huyền đạo nhân bán tín bán nghi. Nhưng cả hai người đã nguôi cơn giận rồi. Đồng Huyền vái chào Thừa Chí rồi nói:
– Thí chủ đã khiến sư huynh đệ của bần đạo khỏi mất sĩ diện, bần đạo rất cảm ơn. Xin thí chủ cho biết cao tánh đại danh?
Thừa Chí chỉ Thanh Thanh nói:
– Vị này là triết tự của Kim Xà đại hiệp, họ Hạ, còn hậu bối đây họ Viên.
Mẫn Tử Hoa vái chào Tiêu Công Lễ nói:
– Đệ quấy nhiễu đại gia nhiều quá. Chúng ta từ nay xa biệt.
Tiêu Công Lễ nói:
– Ngày mai, đệ sẽ đến quý phủ thỉnh tội!
Mẫn Tử Hoa vội nói:
– Đệ không dám.
Mọi người đang định cáo lui, Thanh Thanh liền lớn tiếng hỏi:
– Còn việc đánh cuộc khúc kiếm gãy thì sao?
Thấy cha đã thoát khỏi tai nạn, Uyển Nhi không muốn có gì lôi thôi nữa, vội nói:
– Hạ gia, xin đừng nói tới câu chuyện nhỏ mọn ấy nữa. Mời Hạ gia vào xơi nước.
Thanh Thanh nói:
– Xin cô hãy để cho tôi chờ một thằng nhỏ gọi tôi là cha đã.
Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân không thể chịu đựng nữa cùng nhảy ra giữa sảnh. Mai Kiếm Hòa chỉ Thừa Chí nói:
– Người là môn đồ phái nào? Vừa rồi, thế võ lao song kiếm cắm lên xà nhà là thế võ của phái Hoa Sơn chúng ta. Chẳng hay ngươi học lóm ở đâu thế?
Lúc đó đứng sau sư huynh, Lưu Bội Sinh cũng bước ra, lớn tiếng hỏi:
– Tại sao vừa rồi ngươi lại dám sử dụng Phục Hổ chưởng của chúng ta? Ngươi học trộm ở đâu? Nói mau?
Thừa Chí cười nói:truyen audio cv
– Việc gì ta phải học trộm?
Tôn Trọng Quân hỏi:
– Hừ! Tiểu tặc, học trộm còn không nhận phải không?
Mai Kiếm Hòa nghiêm nét mặt nói:
– Vậy ngươi học những thế võ ấy ở đâu?
Thừa Chí đáp:
– Ta là môn hạ của phái Hoa Sơn.
Tôn Trọng Quân tiến lên một bước, chỉ vào mặt chàng mắng chửi:
– Vừa rồi, ngươi đem nhãn hiệu cái Kim Xà Lang Quân ra khoe khoang giỏi lắm! Bây giờ ngươi lại giở phái Hoa Sơn ra dọa người! Người có biết bà cô người là môn phái nào không? Hà, hà! Bây giờ thật là Lý Quỳ giả hiệu gặp Lý Quỳ chánh tông nhé? Nói thật cho ngươi biết, ba anh em chúng ta mới chánh là môn phái Hoa Sơn.
Thừa Chí điềm tĩnh trả lời:
– Tôi đã nói ngay lúc đầu rồi. Tôi với Kim Xà đại hiệp không có liên can gì, chỉ là bạn hữu của hiền lang ông ta thôi. Còn ba vị là môn đồ của phái Hoa Sơn, tôi đã biết từ trước kia rồi. Chúng ta cùng người nhà cả.
Trong ba sư huynh đệ nọ, Lưu Bội Sinh là người thận trọng hơn cả, liền nói:
– Các môn đồ Đồng Bút Thiết Toán Bàn Hoàng sư bá, ta đều biết mặt cả. Nhưng không có anh bạn đó. Tôn sư muội có nghe thấy Hoàng sư bá gần đây thu nhận người đồ đệ nào không?
Tôn Trọng Quân đáp:
– Người cẩn thận và tự trọng như Hoàng sư bá có bao giờ thèm nhận những quân bịp bợm làm đồ đệ đâu.
Viên Thừa Chí vì đánh gãy thanh kiếm của nàng, nên nàng căm giận vô cùng, hơn nữa tánh đàn bà hẹp lượng, mới ăn nói sỗ sàng như vậy.
Thừa Chí vẫn điềm tĩnh nói:
– Phải, Hoàng sư huynh Hoàng Chân rất tự trọng. Không bao giờ anh ta lại thâu nhận đồ đệ bậy bạ.
Thấy chàng gọi Hoàng Chân là sư huynh, mọi người đều kinh ngạc. Lưu Bội Sinh quát hỏi:
– Sự thật ngươi học võ của phái Hoa Sơn ở đâu? Phải nói mau?
Thừa Chí đáp:
– Sư phụ ta họ Mộc! Tên ông ta chữ trên là “Nhân”, chữ dưới là “Thanh.” Các người trên giang hồ đều tôn ông ta là “Bát Thủ Tiên Viên.”
Thấy Thừa Chí võ nghệ xuất chúng lại tự xưng là môn hạ phái Hoa Sơn, Mai Kiếm Hòa bán tín bán nghi. Thoạt tiên, y tưởng chàng là môn đồ của phái khác, gần đây mới chuyển sang học võ của Hoàng Chân. Bây giờ y lại nghe chàng nói là đồ đệ của sư tổ, tất nhiên là nói láo. Y nghĩ: “Hành tung của sư tổ rất phiêu phất, chính ta đây cũng chỉ được gặp mắt một, hai lần thôi. Sư phụ ta Quy Tân Thụ năm nay đã năm mươi tuổi rồi, tên thiếu niên này tuổi trẻ như thế, mà dám mạo nhận là sư thúc. Y không biết cái chết là gì!”
Nghĩ xong, y khinh khỉnh nói:
– Theo lời ngươi nói, thì người là sư thúc chúng ta đấy?