- Home
- Truyện Kiếm Hiệp
- [Audio] Bích Huyết Kiếm
- Tập 3: Đem Trả Vàng Thừa Chí Vào Đất Lạ -Chiến Ngũ Lão (c6-c8)
[Audio] Bích Huyết Kiếm
Tập 3: Đem Trả Vàng Thừa Chí Vào Đất Lạ -Chiến Ngũ Lão (c6-c8)
❮ sautiếp ❯Chương 6: Đem Trả Vàng Thừa Chí Vào Đất Lạ
Thừa Chí thấy võ công của Ôn Thanh như vậy có thể liệt vào hạng nhất hào kiệt giang hồ, nhưng sao hành vi của chàng lại điêu đứng kỳ lạ đến thế, nên chàng vừa bực mình vừa tức cười lắc đầu mấy cái mới quay trở lại thuyền, gói số vàng đó lại rồi chắp tay chào Đức Lân mà lên đường.
Vào trong thành Từ Châu chàng đến phố lớn kiếm một khách sạn lớn rộng để ở.
Sau khi vào buồng rửa mặt xong, chàng nghĩ thầm: “Nếu không trả được nghìn lạng vàn này cho chàng nọ, lòng ta yên sao đành. Vì thấy chàng ta tội nghiệp như vậy ta mới ra tay trợ giúp chứ ta có định lấy thù lao gì đâu. Nếu ta nhận số tiền này sẽ mất tên tuổi của ta liền, cũng may y là người của phái Thạch Lương, phái đó lại ở ngay nơi đây ta đỡ phải đi đâu tìm kiếm nữa. Ta đem số vàng này đến tận nhà y trả dù y không nhận ta cũng bỏ đấy đi luôn. Như vậy có phải tiện không?”
Sáng ngày hôm sau chàng hỏi đường lối đi Thạch Lương rồi liền về khách điếm đem gói vàng đi trả.
Thạch Lương cách Từ Châu hơn hai mươi dặm, Thừa Chí đi tắt rất nhanh nửa tiếng đồng hồ sau đã tới liền. Thạch Lương là một thị trấn nho nhỏ ở gần núi Lan Kha, theo lời đồn thì núi đó xưa kia có một tiều phu lên hái củi. Khi người tiều phu ấy đi sâu vào trong núi liền gặp hai ông tiên ngồi đánh cờ với nhau, chàng tiều phu đứng cạnh đó xem. Xem xong ván cờ của hai ông tiên, chàng quay đầu lại nhìn thấy cán búa đã mục nát và khi chàng ta về đến nhà, người nhà và lối xóm đều khác hẳn, thì ra chàng ta vào núi xem có một ván cờ mà đã qua được mấy chục năm. Núi Lan Kha là hai ngọn núi liên kết thành hai bên đỉnh núi cách nhau mấy chục trượng, ở giữa có một cây cầu đá như là sà ngang của một căn nhà vậy. Cầu này tựa như mọc liền với đỉnh núi, sức người không thể nào mà xây được một cái cầu như vậy, cho nên các bô lão ở địa phương vẫn đồn đại cầu đó là do thần tiên dùng pháp thuật bắt lên, trông nó như một cái sà nhà nên mới có cái tên Thạch Lương như vậy. Thừa Chí đi tới đó thấy một nông phu ở đằng xa đi tới, chàng vội tiến lên hỏi thăm:
– Thưa đại ca, xin hỏi nhờ đại ca nhà họ Ôn ở đâu thế?
Nông phu đợi nghe chàng hỏi xong liền giật mình kinh hãi đáp:
– Tôi không biết, tôi không biết!
Vẻ mặt người ấy trông rất khó coi, hình như khinh bỉ Thừa Chí vậy rồi người đó quay người đi sang phía khác ngay.
Thừa Chí đi tới một tiệm bán chạp phô liền vào hỏi thăm người chưởng quầy, ngờ đầu người chưởng quầy đó lại lạnh lùng đáp:
– Lão huynh tìm nhà họ Ôn làm chi?
– Tôi muốn trao trả cho họ một vật này.
– Nếu vậy lão huynh là bạn của nhà họ Ôn rồi hà tất phải hỏi thăm mỗ làm chi.
Thừa Chí lại bị hắt hủi một lần nữa liền nghĩ thầm: “Sao dân chúng ở đây lại vô lễ đến như thế?”
Chàng lại thấy hai thằng nhỏ đang đùa giỡn ở giữa đường liền móc túi lấy mười mấy đồng tiền ra nhét vào tay một thằng nhỏ và hỏi:
– Cậu em đưa anh đến nhà họ Ôn đi.
Thằng nhỏ bỗng dưng được tiền mừng rỡ vô cùng, nhưng khi nó nghe thấy Thừa Chí nói xong liền trả lại tiền cho chàng và đáp:
– Thúc thúc muốn đến nhà họ Ôn ư? Căn nhà lớn đó chả lạ nhà của chúng là gì, chúng em không thích đi đến chỗ ma quỷ ấy.
Tới lúc đó Thừa Chí mới vỡ lẽ thì ra họ Ôn rất thất nhân tâm nên người lối xóm không ai thèm liên lạc với gia đình họ cả, chứ không phải là dân ở đây vô lễ như chàng tưởng tượng đâu.
Chàng đi đến căn nhà đồ sộ mà thằng nhỏ vừa chỉ cho, xa xa đã nghe thấy tiếng người nói ồn ào, chàng vội ráo cẳng bước lên, khi tới gần thấy mấy trăm nông dân, người cầm bừa kẻ cầm thuổng, vây chặt chiếc cửa lớn tiếng quát tháo:
– Các người đánh chết ba mạng như vậy mà không thèm nói nửa lời hay giải quyết ra sao bỏ đi về luôn. Họ Ôn kia có mau ra thường mạng không?
Trong đám nông dân có bảy tám người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi dưới đất khóc bù lu bù loa.
Thừa Chí tới gần hỏi thăm một người nông dân rằng:
– Đại ca, các vị ở đây làm gì thế?
Người nông dân ấy đáp:
– Chắc tướng công là người qua đường nên không biết chuyện, người nhà họ Ôn này hung ác bá đạo lắm, hôm qua người của chúng về làng thâu tiền tô, ông cụ nhà họ Trinh yêu cầu y cho thư thả vài ngày để thu xếp trả, thế là người nhà y đẩy mạnh ông cụ ấy té ngã, đầu đập vào tảng đá lớn chết ngay tại chỗ, con trai và cháu ông cụ ra bắt thường mạng đều bịn người của chúng đánh đến bị thương nặng. Đấy tướng công xem người nhà này thị giàu có và biết võ đánh chết người bỏ đi không thèm nói năng nửa lời, tướng công bảo chúng tôi nhịn sao nổi
Trong khi hai người nói chuyện với nhau thì những người kia càng la rầm rộ thêm, có người lại đập cửa, có người ném đá vào bên trong như muốn phá cửa nhà họ Ôn vậy.
Đang lúc ấy cánh cửa lớn bỗng mở toang, một bóng người ở bên trong phi ra, mọi người chưa trông thấy rõ thì đã có bảy tám người nông dân bị người đó ném ra ngoài xa hai ba trượng vỡ đầu, sứt tai, máu chảy lai láng liền.
Thừa Chí thấy vậy nghĩ thầm: “Võ công của người này cũng khá cao siêu đấy.”
Chàng vừa nghĩ vừa đưa mắt nhìn thấy người đó vừa gầy vừa cao, mặt vàng khè hai mắt xếch ngược, hai bên thái dương huyệt gồ cao, chỉ trông bề ngoài cũng đủ biết người đó là một tay có nội gia rất cao siêu rồi.
Người gầy gò ấy liền quát lớn:
– Các ngươi heo chó kia, còn đến đây ăn vạ phải không?
Bọn nông dân chưa kịp trả lời lại bị y tiến lên túm mấy người ném đi nữa.
Thừa Chí thấy người đó túm người ném đi như vậy không khác gì ném người rơm hay người giấy vậy, không tốn một chút hơi sức nào hết, chàng lại nghĩ tiếp: “Không biết người này có liên can với Ôn Thanh không, nếu bữa nọ y đi cùng với Ôn Thanh thì bọn Vinh Thái đã chịu không nổi rồi, chả cần ta phải ra tay giúp sức nữa.”
Bỗng có một người trung niên và một người thanh niên ở trong bọn nông dân vội tiến lên nói:
– Các ngươi đánh chết người rồi bỏ đi luôn, coi mạng người như mạng gà vậy, chúng ta tuy nghèo nhưng chúng ta cũng là người chứ có phải súc vật đâu.
Người gầy gò và cao kia nghe thấy người nông dân nói như thế liền cười nhạt:
– Nếu không đánh cho mấy tên chết ngay tại chỗ thì các ngươi chưa biết thân.
Nói xong, y lại túm lưng người trung niên nọ thuận tay ném luôn vào góc tường ở bên kia Đông, hai thanh niên thấy vậy vừa kinh hãi vừa tức giận song song giơ cuốc lên nhắm đầu y chém luôn. Chỉ thấy y giơ tay trái lên gạt một cái, hai cái cuốc của hai thanh niên kia bị hất bắn ra xa đồng thời y lại chộp lưng của hai thanh niên đó mà ném luôn vào tảng đá lớn ở trước cửa để cắm cột cờ.
Thừa Chí thấy người nọ hà hiếp đám nông dân và đả thương người một cách vô lý như vậy trong lòng đã tức giận, nhưng chàng là người thận trọng không muốn can thiệp việc của người, chỉ muốn đợi cho việc của họ lo dàn xếp xong xuôi là mình tiến lên yêu cầu Ôn Thanh để trao trả số vàng rồi lên đường đi ngay. Ngờ đâu, người gầy gò và cao kia đã ra tay hạ sát thủ, muốn ném chết ba người nọ liền. Chàng động lòng công phẫn và hiệp nghĩa không còn suy nghĩ gì nữa liền phi thân tới giơ tay trái ra chộp vào đùi phải của người nông dây trung niên lôi trở lại và thuận tay đặt người đó đứng xuống đất. Rồi chàng lại phi thân tới nhanh như điện chớp chộp luôn lưng của hai thanh niên nông dân và khẽ đặt họ xuống dưới đất, sở dĩ chàng nhảy tới kịp để cứu hai người thanh niên này là nhờ ở nhu môn khinh công Nhạc vương Thần Tiên của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ cho, môn khinh công này có thể nói là nhanh nhất thiên hạ.
Đáng lẽ chàng không giở môn khinh công này ra để khoe khoang hay làm cho người khác kinh ngạc đâu, nhưng vì thấy tình thế cấp bách như vậy mới phải sử dụng tới môn khinh công này để cứu hai thanh niên kia thoát nạn. Chàng cũng biết ra tay cứu ba người này như vậy, người gầy gò và cao kia thế nào cũng hận mình nhưng chàng đã biết địa điểm của nhà họ Ôn rồi, nếu người gầy gò và cao này giận mình không cho gặp Ôn Thanh thì chàng sẽ chờ đến đêm khuya đem đến trả lại số vàng. Chàng đặt hai thanh niên nọ đứng xuống xong liền quay mình định đi. Ba người nông dân thoát chết cứ đứng đờ người ra không nói được nửa lời vậy.
Người gầy gò và cao kia thấy võ công của Thừa Chí cao siêu như vậy kinh ngạc vô cùng liền nghĩ thầm: “Ta ném ba người kia thủ pháp rất nhanh và lại ném đi hai phương hướng khác nhau, người này ra tay sau mà lại tới trước nhất cứu được người nọ, không biết y là người của môn phái nào? Sao lại có võ công lợi hại đến thế?”
Nghĩ đoạn, y vội chạy tới gần giơ tay lên định vỗ vai Thừa Chí và nói:
– Bạn kia hãy khoan đã.
Y dùng Đại Lực Thiên Cân, một nội gia rất mạnh vỗ vào vài của Thừa Chí, ngờ đâu Thừa Chí không tránh né gì hết chỉ hơi trầm vai xuống thôi đã hóa giải được sức lực của đối phương liền. Nhưng chàng không vận sức phản công lại và làm như không hay biết gì hết. Người gầy gò và cao kia thấy vậy càng kinh hãi thêm vội hỏi tiếp:
– Có phải bọn người kia mời các hạ đến đây làm khó dễ chúng tôi phải không?
Thừa Chí chắp tay chào và đáp:
– Xin lỗi bạn bởi vì tôi không muốn có án mạng phiền phức lắm cho nên mới dám đường đột ra tay đỡ họ như thế, lão huynh tài như vậy, chấp nhất bọn người nhà quê để làm gì.
Người nọ thấy Thừa Chí ăn nói khiêm tốn như vậy và còn khen ngợi y ở trước mặt mọi người như thế, nên y nguôi cơn giận liền và hỏi tiếp:
– Các hạ quý tính danh là gì? Đến tệ xá có việc gì thế?
– Tại hạ họ Viên có một người bạn họ Ôn không biết có phải ở trong quý phủ không?
– Đệ cũng họ Ôn không biết các hạ kiếm ai thế?
– Người bạn của tại hạ tuổi chừng mười tám, mười chín, mặt rất đẹp trai, mặc áo thư sinh.
Người nọ gật đầu mấy cái rồi quay lại quát bảo mấy chục nông dân hãy còn đứng đó rằng:
– Các ngươi còn đứng đấy làm chi không mau cút đi
Bọn nông dân thấy Thừa Chí lại làm quen với kẻ thù mà võ công của hai người lại rất lợi hại, nên bọn chúng không dám ở lại nữa, liền giải tán ngay.
Chờ bọn nông dân đi khỏi, người nọ liền mời Thừa Chí vào trong nhà uống nước.
Thừa Chí theo y đi vào bên trong tới một đại sảnh rộng ba gian ở giữa có treo một tấm bảng lớn trên đề “Thế Trạch Niên Trưởng.”
Đại sảnh này trưng bầy rất lịch sự trông như khách sảnh của một đại thân hào vậy. Người gầy gò mời Thừa Chí ngồi và bảo người nhà bưng nước ra mời chàng uống.
Người đó hỏi thăm sự thế và xuất thân của Thừa Chí ra sao, thái độ của y tuy rất lễ phép nhưng Thừa Chí vẫn nhận thấy mặt y có vẻ hằn học, chàng vội nói sang chuyện khác và hỏi người nọ rằng:
– Lão huynh làm ơn mời hộ Ôn Thanh tướng công ra đây, đệ có một vật này cần phải trao trả cho Ôn tướng công ngay.
– Ôn Thanh là xá đệ, đệ là Ôn Chính. Xá đệ vừa đi vắng, mời Viên huynh hãy ngồi chơi trong chốc lát, y sắp về liền.
Thừa Chí không muốn kết giao với những kẻ có hành vi bất chính và hà hiếp người làng này, nhưng vì đợi chờ Ôn Thanh về nên bắt buộc chàng phải ngồi ở lại.
Chờ đến giữa trưa vẫn chưa thấy Ôn Thanh về, Thừa Chí lại không muốn trao số vàng lớn như thế này cho người khác, nên cứ phải ở lại chờ thêm.
Ôn Chính sai người nhà dọn cơm ra mời Thừa Chí ăn, thức ăn rất phong phú và ngon miệng lắm.
Chờ đến chiều mặt trời đã bắt đầu lặn, Thừa Chí nóng lòng sốt ruột nghĩ thầm: “Đằng nào nơi đây cũng là nhà của Ôn Thanh rồi, ta cứ gửi lại số vàng này cho Ôn Chính để chuyển giao hộ cũng được, việc gì mà phải đợi chờ Ôn Thanh nữa.”
Nghĩ đoạn, chàng liền cởi bọc vàng đeo ở trên vai xuống để lên trên mặt bàn rồi nói với Ôn Chính rằng:
– Bọc đồ này của lệnh đệ nhất phiền Ôn huynh trao trả hộ, muộn lắm rồi đệ phải cáo từ đây.
Đang lúc ấy bên ngoài có tiếng cười khúc khích vọng tra, tiếng cười đó là tiếng cười của mấy thiếu nữ. Tiếp theo đó cửa ngoài đã hé mở, Thừa Chí đã nghe thấy có tiếng cười, tiếng nói của Ôn Thanh, trong lòng mừng thầm.
Ôn Chính liền nói:
– Xá đệ đã về đấy.
Nói xong, y liền đi ra luôn. Thừa Chí cũng vội theo ra, y cản chàng lại và nói tiếp:
– Mời Viên huynh ngồi đây đợi chờ giây lát.
Thấy hành động của Ôn Thanh có vẻ huyền bí, chàng đành phải ngừng bước, lạ thật chàng chờ mãi không thấy Ôn Thanh vào mà chỉ thấy Ôn Chính quay trở vào nói:
– Các hạ ngồi chờ thêm một lát nữa, xá đệ thay áo xong ra liền.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Ôn Thanh ỏn a ỏn ẻn, không khác gì một người đàn bà vậy, tiếp khách thôi mà cũng phải thay áo.”
Một lát sau, Ôn Thanh đã thủng thẳng bước ra, vẻ mặt tươi cười và nói:
– Viên huynh đại gia giáng lâm thực hân hạnh cho đệ vô cùng.
Thừa Chí đáp:
– Ôn huynh bỏ quên gói đồ đó, đệ đem đến hộ.
Ôn Thanh vẻ hờn giận hỏi lại:
– Có phải Viên huynh khinh thường không?
– Đệ đâu dám, thôi đệ xin cáo lui đây.
Thừa Chí nói xong, đứng dậy chào Ôn Chính và Ôn Thanh định đi. Ôn Thanh đã nắm tay áo chàng và nói:
– Không cho anh đi.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, và mặt chàng hơi biến sắc, Ôn Thanh lại tiếp:
– Đệ có một việc rất cần muốn hỏi Viên đại ca hôm nay, mời đại ca ở lại đây nghỉ ngơi một hôm đã.
Thừa Chí đáp:
– Đệ ở Từ Châu đang có việc đợi chờ đệ về ở đó giải quyết, cảm ơn Ôn huynh đã có lòng tốt như vậy.
Ôn Thanh nhất định không nghe. Ôn Chính liền xen lời nói:
– Viên đại ca đã mắc bận, hiền đệ không nên giữ Viên đại ca ở lại như vậy.
Ôn Thanh nói giọng hờn giận đáp:
– Được, Viên huynh muốn đi cứ việc đi đi nhưng gói đồ này Viên huynh cũng làm ơn đem cả đi. Huynh không chịu ở lại nhà đệ thì đệ biết huynh khinh thường đệ.
Thừa Chí ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:
– Nếu Ôn huynh có hậu ý như vậy thì không dám từ chối nữa.
Ôn Thanh cả mừng liền bảo người nhà làm điểm tâm. Ôn Chính có vẻ không vui nhưng vẫn ở đấy tiếp chứ không chịu rút lui. Thừa Chí không hợp chuyện với y, chàng chỉ nói với Ôn Thanh thôi, vì thế y chỉ thỉnh thoảng đá gạ một câu thôi. Như vậy mà y vẫn chưa chịu rút lui đi vào trong nhà.
Ôn Thanh nói đến thi thơ, với môn này Thừa Chí không thạo lắm, sau nói đến binh pháp, chàng thuộc làu như cháo. Biết tánh chàng rồi, Ôn Thanh cứ đem những trận đấu xưa kia ra để đàm luận hoài. Thừa Chí rất kính phục và nghĩ thầm: “Tính nết của người này tuy kỳ lạ thực nhưng về học vấn y lại biết rộng lắm”
Ôn Chính chỉ giỏi về võ công thôi, chứ văn học thì y không biết một tí gì nên càng nghe tỏ vẻ chán nản, nhưng vẫn ngồi lì ra đó. Thừa Chí thấy vậy ngượng vô cùng, lại phải đem võ học ra đàm luận với y vài câu. Ôn Chính đang định đáp thì Ôn Thanh đã xen lời vào nói sang chuyện khác liền. Thừa Chí thấy vậy cũng lấy làm ngạc nhiên vô cùng, Ôn Chính tuy là anh nhưng có vẻ kiêng nể Ôn Thanh lắm, thỉnh thoảng bị người em trách mắng một vài câu, y chỉ cười thôi chứ không dám giận dữ gì cả, khi nào y thấy Ôn Thanh tươi cười thì y lại tỏ vẻ khoái chí và cười theo.
Mâm rượu nhà họ Ôn khoản đãi Thừa Chí tối hôm đó rất thịnh soạn. Cơm nước xong, Thừa Chí liền nói:
– Ngày hôm nay đi đường hơi mệt mỏi một chút, đệ muốn được nghỉ ngơi sớm.
Ôn Thanh đáp:
– Tệ xá ở chốn quê nay được Viên huynh đại gia giáng lâm đang muốn chuyện trò một đêm với huynh để được học hỏi thêm, nếu huynh thấy mệt thì để ngày mai hãy nói vậy.
Thấy người em vừa nói dứt, Ôn Chính đã lên tiếng nói ngay:
– Đêm nay mời Viên huynh sang phòng để ngủ với đệ.
Ôn Thanh vội đỡ lời:
– Thôi không cần đại ca tiếp khách của đệ, tối nay Viên huynh ngủ phòng đệ thì hơn.
Ôn Chính bực mình không chào cáo từ gì hết hậm hực đứng dậy đi thẳng vào nội thất ngay. Ôn Thanh cũng nổi giận nói thêm:
– Hừ, chả biết lễ phép gì hết không sợ người ta chê cười.
Thừa Chí thấy hai anh em chàng ta cãi vã nhau như vậy trong lòng không yên liền nói:
– Đệ ở quen chốn thôn dã rồi, Ôn huynh khỏi phải bận tâm cho đệ vấn đề ăn nằm đó.
Ôn Thanh mỉm cười đáp:
– Thôi được, đệ không bận tâm nữa.
Nói xong, chàng cầm cây nến đưa Thừa Chí đi vào nội thất, đi qua hai cái sân vào tới lớp thứ ba liền lên lầu đến trước một căn phòng, Ôn Thanh vừa mở cửa phòng ra, Thừa Chí đã ngửi thấy mùi thơm xông ra và chàng thấy trong phòng đang thắp một ngọn nến dở, phòng này bày biện lịch sự lắm, màn the trướng gấm có thêu một con phượng hoàng. Trên vách có treo một bức tranh mỹ nữ đó, trên mặt bàn bày nghiên bút, ống bút có sáu bảy cây đủ các cỡ. Kỷ chè ở bên phía tây có bày một chậu thủy tiên. Trước cửa sổ có treo một cái giá, trên giá có đậu một con anh vũ trắng. Từ khi hạ sơn đến giờ, Thừa Chí chưa hề thấy một căn phòng nào lịch sự như thế này, nên chàng cứ đứng đờ người ra ngắm nghía, Ôn Thanh thấy vậy vừa cười vừa nói:
– Đây là phòng ngủ của tiểu đệ, chật hẹp và sơ sài lắm, mời huynh hãy khuất giá một đêm.
Không đợi chờ Thừa Chí có bằng lòng hay không, chàng đã quay người đi ra luôn.
Thừa Chí ở trong phòng nhìn bốn xung quanh một lượt thấy không có điều gì khác lạ mới yên tâm, chàng đang định cởi áo đi nghỉ thì bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa rất khẽ, chàng liền hỏi:
– Ai đó?
Một con sen tuổi trạc mười năm, mười sáu mặt mũi thanh tú và khôn ngoan lanh lợi, tay bưng một cái mâm bước vào nói:
– Mời Viên thiếu gia xơi một chút điểm tâm.
Nói xong, nàng ta để cái mâm xuống bàn. Thừa Chí thấy trong mâm để một bát tần yến. Tuy chàng là con của một Đề đốc và Thống soái, nhưng chàng ở quê trưởng thành, ở trong thôn quê chưa hề thấy bao giờ nên không biết là vật gì.
Đồng thời lần đầu tiên chàng nói chuyện với một thiếu nữa nên hổ thẹn vô cùng, hai má đỏ bừng, con tiểu hoàn ấy thấy vậy vừa cười vừa nói tiếp:
– Tên cháu là Nguyệt Hoa, thiếu gia cháu bảo cháu đến đây hầu hạ Viên thiếu gia. Viên thiếu gia có việc gì sai bảo cứ việc gọi tên cháu là được rồi.
Thừa Chí đáp:
– Không có việc gì hết.
Tiểu hoàn vái chào đi ra nhưng khi ra tới cửa nàng lại quay đầu nhìn Thừa Chí tủm tỉm cười và nói tiếp:
– Chính tay thiếu gia tôi xuống bếp làm bát yến này để Viên thiếu gia xơi.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng không biết trả lời như thế nào cho phải. Nguyệt Hoa thấy vậy lại cười một tiếng nữa rồi mới đi hẳn. Thừa Chí cởi quần áo ngoài ra trèo lên giường đi ngủ, thấy chăn màn thơm tho vô cùng khiến chàng như say như mê nên chỉ trong giây lát, chàng đã ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Ngủ đến giữa đêm, ngoài cửa sổ bỗng có tiếng cười khì, chàng giật mình thức tỉnh, rồi chàng lại nghe thấy có người khẽ gõ vào cánh cửa sổ hai tiếng và có tiếng người khẽ cười:
– Gió mát trăng thanh như thế này, Viên huynh là người tao nhã không ra thưởng thức thì thực uổng một phong cảnh đẹp như tranh vẽ này.
Thừa Chí đã nhận ra đó là tiếng nói của Ôn Thanh, chàng thấy ánh sáng trăng sáng rực và ngoài cửa có một người đang đu ngược, đầu dưới, chân trên treo lơ lửng ở trước cửa sổ và ngó vào trong phòng, thấy vậy Thừa Chí vội nói:
– Vâng, để tôi mặc quần áo sẽ ra ngay.
Nói xong, chàng vội vàng mặc quần áo vào và giấu con dao găm ở trong người phòng bị. Chàng vừa đẩy cánh cửa sổ ra thì có một luồng gió đưa mùi hoa thơm vào.
Bây giờ chàng mới hay bên ngoài là một cái vườn hoa.
Ôn Thanh khẽ nhảy xuống đất và rỉ tai chàng nói:
– Viên huynh theo tôi đến đằng này.
Thừa Chí thấy chàng ta tay cầm một cái rổ không hiểu chàng ta mang theo cái đó để làm gì, nhưng không dám nói. Hai người cùng vượt tường đi ra bên ngoài cùng giở khinh công tiếng thẳng về phía hậu sơn, khi sắp tới đỉnh núi lại vòng hai con đường cong quẹo liền tới một chỗ bốn xung quanh trồng hoa đang long lanh dưới ánh sáng trăng, Thừa Chí thì trông thấy rõ một bên trồng hoa mai quế màu trắng và một bên trồng hoa mai quế màu vàng, liền khen ngợi rằng:
– Nơi đây là tiên cảnh chắc?
Ôn Thanh đáp:
– Những hoa này là do tay đệ trồng hết, nơi đây chỉ có má của tiểu đệ với con tiểu hoàn là được lui tới thôi.
Nói xong, chàng cầm cái rổ từ từ đi đến gần những luống hoa. Thừa Chí đi theo sau cũng cảm thấy thích thú vô cùng.
Ôn Thanh đưa Thừa Chí tới một cái đình nhỏ, chàng ta liền mời Thừa Chí ngồi ở trên tảng đá rồi mở cái rổ ra lấy một ấm rượu và hai cái chén bầy lên trên mặt đá và rót đầy hai chén rượu đó mới nói:
– Xin lỗi Viên huynh nơi đây không được ăn mặn.
Chàng lại lấy ba món ăn ở trong rổ ra rồi hai người uống rượu dưới trăng hoa.
Thừa Chí gắp những món ăn đó ăn thử mới hay ba món đó đều là món ăn chay thực, ăn nhậu một hồi, Ôn Thanh lại lấy một ống tiêu ra và nói:
– Để đệ thổi tiêu cho Viên huynh nghe nhé!
Thừa Chí gật đầu, Ôn Thanh liền thổi tiêu cho chàng nghe, chàng không biết âm luật gì cả nhưng chỉ cảm thấy mình đang sống trong cảnh tiên, chứ dưới trần tục làm gì có tình cảnh này.
Ôn Thanh thổi xong khúc tiêu rồi mới cười và hỏi:
– Viên huynh thích nghe khúc nào xin cho hay để đệ thổi cho huynh nghe.
Thừa Chí thở dài một tiếng rồi đáp:
– Ôn huynh thông minh thực và cũng biết nhiều thứ quá.
Ôn Thanh khoái chí hỏi lại:
– Có thực không?
Nói xong, chàng lại cầm ống tiêu lên thổi tiếp một khúc tiêu càng nhu mì và uyển chuyển hơn khúc tiêu trước. Khi thổi xong, Ôn Thanh đặt ống tiêu xuống và khẽ hỏi:
– Thế nào, Viên huynh có nghe được không?
– Trên thế gian này không còn ai có thể thổi được khúc tiêu hay như vậy. Trước kia đệ có nằm mơ và giấc mơ ấy cũng không thể nào bằng được cảnh thực này được.
Thấy Thừa Chí khen ngợi mình như vậy, Ôn Thanh càng khoái chí cười khúc khích. Lúc ấy hai người ngồi gần nhau, Thừa Chí ngửi thấy ngoài mùi thơm của hoa ra lại còn có cả mùi thơm của phấn son nữa, chàng liền nghĩ thầm: “Người này không có ý chí đàn ông gì cả, cũng may ta không phải là con người lẳng lơ, bằng không có phải là bị y chê cười rồi không?”
Ôn Thanh lại nói tiếp:
– Viên huynh có thích đệ thổi tiêu không?
Thừa Chí gật đầu, Ôn Thanh lại đưa tiêu lên thổi tiếp. Thừa Chí đang ngẩn người ra nghe thì đột nhiên thấy thiếng tiêu ngưng hẳn rồi Ôn Thanh bẻ luôn ống tiêu ra làm đôi. Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng vội hỏi:
– Sao thế, huynh đang thổi nhanh như vậy sao bỗng dưng lại bẻ ống tiêu đi?
Ôn Thanh cúi đầu xuống khẽ đáp:
– Từ xưa tới nay đệ không hề thổi tiêu cho ai nghe hết vì họ có biết nghe đâu, họ chỉ thích múa đao múa kiếm thôi.
– Tôi không nói dối Ôn huynh đâu, tôi thích nghe khúc tiêu của Ôn huynh thổi thực đấy mà.
– Ngày mai Viên huynh đã từ giã ra đi rồi, đệ chắc huynh đi khỏi không bao giờ quay trở lại nữa. Thử hỏi tôi biết thổi cho ai nghe?
Ngừng giây lát, chàng lại nói tiếp:
– Tính nết của đệ rất xấu, đệ tự biết lắm nhưng khốn nỗi đệ không sao tự kìm chế nổi. Đệ biết huynh ghét đệ lắm và còn khinh khi đệ là khác.
Thừa Chí không biết trả lời như thế nào cho phải cứ ngẩn người ra nhìn chàng ta.
Một lát sau, Ôn Thanh lại nói tiếp:
– Vì vậy mà đệ chắc huynh không giờ quay trở lại nữa.
– Chắc huynh đã nhận định thấy rồi, sự thực đệ không biết gì cả, đệ là người mới ra đời và cũng không biết nói dối ai hết. Huynh bảo đệ khinh huynh, ghét huynh, nói thực lúc mới gặp đệ có cảm tưởng như thế đấy nhưng bây giờ thì khác hẳn.
– Huynh nói có thực không?
– Theo sự nhận xét của đệ thì hình như huynh có việc gì rất đau lòng cho nên mặt mày không vui mặc dù tư phong đặc biệt hơn người. Việc gì thế, huynh có thể nói cho đệ nghe không?
Ngẫm nghĩ giây lát, Ôn Thanh mới trả lời:
– Đệ có thể kể cho huynh nghe được nhưng chỉ sợ huynh khinh đệ thôi.
– Không.
– Thôi được, đệ xin kể cho huynh nghe. Hồi má đệ còn làm con gái bị một người xấu bụng hà hiếp mới sanh ra đệ, ông ngoại của đệ địch không nổi người xấu bụng đó, sau đi rủ mấy tay hảo thủ đến mới đắc thắng và đuổi người xấu bụng ấy ra khỏi nhà này. Cho nên đệ là một kẻ không cha cũng là một đứa con hoang
Nói tới đó chàng ứa nước mắt ra. Thừa Chí vội an ủi:
– Việc này không thể trách cứ huynh và cũng không thể trách cứ bá mẫu được, chỉ tại người xấu bụng nọ.
– Nhưng người khác lại không có ý nghĩ như huynh, trước nhất đệ họ không dám nói gì nhưng cứ ở sau lưng chửi rủa với bà mẹ.
– Ai dám nói huynh như thế bảo cho đệ biết, đệ sẽ giúp huynh đánh cho tên đó một trận. Bây giờ đệ không ghét huynh đâu, nếu huynh bằng lòng kết bạn với đệ thì đệ sẽ tới đây thăm huynh luôn luôn.
Nghe thấy Thừa Chí nói như vậy, Ôn Thanh mừng rỡ nhảy bắn người lên. Thừa Chí thấy chàng ta mừng như thế liền vừa cười vừa hỏi lại:
– Đệ đến thăm huynh luôn luôn như vậy huynh có bằng lòng không?
– Bằng lòng lắm, và huynh đã hứa tới thì thế nào cũng phải tới nhé?
– Tôi không nói dối huynh đâu.
Bỗng nghe thấy phía sau có tiếng động rất khẽ. Thừa Chí biết có người tới nơi, chàng vội đứng dậy quay người lại liền nghe thấy người đó với giọng lạnh lùng hỏi:
– Đêm khuya canh vắng, hai người lén lút tới đây làm chi?
Người ấy vừa cao vừa gầy chính Ôn Chính, y vừa bước ra, mặt giận dữ hai tay chống nạnh, hỏi một cách rất thiếu lễ phép.
Ôn Thanh giật mình kinh hãi nhưng khi chàng biết người đó là Ôn Chính rồi liền nổi giận quát hỏi:
– Anh đến đây làm chi?
Ôn Chính đáp:
– Hiền đệ hãy tự hỏi mình trước.
Ôn Thanh ra vẻ rất oai nghi nói tiếp:
– Thì với Viên huynh ở đây thưởng nguyệt xem hoa, việc gì tới anh mà anh tới nào? Chốn này ngoài má tôi ra, không ai được tới cả. Ông hai đã tuyên bổ cho cả nhà rồi, chẳng lẽ đại ca đã quên lời rồi hay sao?
Ôn Chính chỉ thẳng vào mặt Thừa Chí và đáp:
– Thế sao y tới được?
– Tôi mời anh ấy tới, việc này không việc gì đến anh, anh không có quyền can thiệp vào.
Thừa Chí thấy hai anh em họ Ôn cãi nhau như vậy trong lòng không yên vội xen lời nói:
– Cuộc thưởng nguyệt hôm nay của chúng ta đã đầy đủ lắm rồi, chúng ta sẽ quay trở ra về phòng nghỉ ngơi đi.
– Tôi cứ không đi, Viên huynh cứ ngồi xuống đây.
Bất đắc dĩ Thừa Chí lại ngồi xuống. Ôn Chính đứng ngẩn người ra không nói nửa lời. Ôn Thanh thấy vậy lại càng tức giận thêm và nói tiếp:
– Những hoa này do tôi trồng, tôi cấm anh ngắm nhìn nó.
Ôn Chính đáp:
– Tôi đã nhìn rồi, cấm sao nổi tôi, tôi còn muốn nó nữa.
Nói xong, y cúi đầu xuống dí mũi vào hít mấy cái, Ôn Thanh cả giận xông lại hai tay vừa nhổ vừa vò những khóm hoa đó, chỉ trong thoáng cái chàng đã nhổ hết hai mươi mấy cụm hoa hồng và vứt bừa bãi rồi khóc lớn nói tiếp:
– Được, anh bắt nạt tôi, tôi nhổ hết những khóm hoa này đi như vậy không ai được ngắm nữa, anh đã bằng lòng thích thú chưa?
Ôn Chính tức giận vô cùng không nói nửa lời liền hậm hực đi luôn, nhưng đi vài bước lại quay đầu lại đáp:
– Người ta đối đãi với mình như vậy, trái lại mình lại đối xử với người ta như thê? Đệ thử nghe xem đệ làm như thế thì còn có lương tâm hay không?
Ôn Thanh vừa khóc vừa trả lời:
– Ai khiến anh tử tế với tôi, nếu cho tôi là cái đại chướng mắt thì anh đi nói với các ông đuổi tôi ra khỏi nơi đây đi, và anh mách cả ông tôi với Viên huynh ở đây thưởng trăng đây. Tôi không sợ gì hết.
Ôn Chính thở dài một tiếng rầu rĩ quay mình đi luôn.
Ôn Thanh quay trở vào trong đình ngồi, Thừa Chí liền hỏi:
– Y không phải anh thực của tôi, mẹ tôi họ Ôn, đây là nhà ông ngoại tôi, y là con trai người anh họ của mẹ tôi, sự thực y chỉ là người anh họ xa thôi, nếu tôi có cha và tôi có nhà khỏi phải đi ở nhờ ai hết và cũng không phải bực mình như thế này.
Nói xong chàng lại ứa nước mắt ra. Thừa Chí liền đỡ lời:
– Tôi thấy y đối với huynh tử tế lắm! Trái lại huynh đối xử với y rất hung ác.
Ôn Thanh bỗng phì cười và nói tiếp:
– Nếu tôi đối xử với y không hung ác như vậy thì y còn hỏng hơn thế này nữa.
Thừa Chí thấy chàng ta vừa khóc vừa cười, trông rất tức cười và cũng ngây thơ vô cùng. Chàng liền nghĩ đến thân thế của mình, bỗng động lòng đồng bệnh tương liên mà nói tiếp:
– Cha tôi bị người ta giết chết, lúc ấy tôi lên bẩy, ông tôi cũng mất vào năm đó.
Ôn Thanh vội hỏi:
– Thế Viên huynh đã báo thù được chưa?
– Nói ra thì hổ thẹn vô cùng, tôi thật không may.
– Khi nào Viên huynh báo thù, đệ thế nào cũng giúp huynh một tay. Bất cứ kẻ thù lợi hại đến đâu đệ cũng không sợ.
Thừa Chí nghe thấy chàng ta nói như vậy cảm động vô cùng, liền nắm lấy tay Ôn Thanh, Ôn Thanh vội rút tay lại nhưng không hiểu tại sao chàng lại để yên cho Thừa Chí nắm như trước, rồi chàng khẽ nói:
– Bản lãnh của Viên huynh giỏi gấp đệ mười lần, nhưng về kinh nghiệm giang hồ thì hình như huynh rất bỡ ngỡ nhưng huynh đừng lo vì sau này có đệ sẽ giúp huynh những vấn đề đó.
– Ôn huynh tử tế thật, tôi chưa hề có một người bạn nào tuổi xấp xỉ như tôi, bây giờ mới gặp huynh
Ôn Thanh nghe thấy chàng ta nói như vậy, vội cúi đầu xuống đáp:
– Nhưng phải nói, tôi rất xấu tính, thế nào cũng có một ngày tôi làm cho huynh bực mình.
– Tôi đã coi huynh là bạn, biết tính nết của bạnh ra sao rồi, thì dù bạn có làm mất lòng tôi cũng không sao.
Ôn Thanh cả mừng thở dài một tiếng và nói tiếp:
– Đệ chỉ ngại có điều này thôi, bây giờ huynh đã thông cảm được như vậy, đệ thật sung sướng lắm.
Thừa Chí thấy Ôn Thanh đổi hẳn tính nết, ôn nhu hòa nhã chứ không như lúc cãi vã tranh chấp với Sa lão đại trên thuyền, nên chàng đáp:
– Đệ có câu này không biết Ôn huynh có nghe không?
– Trên đời này chỉ có lời nói của ba người mà đệ nghe thôi, một là ông ngoại tôi, hai là mẹ tôi, ba là Viên huynh.
Thừa Chí nghe nói rùng mình một cái và đáp:
– Không ngờ huynh lại coi trọng đệ đến thế, sự thật thì lời nói của người khác quí hồ hợp lý là chúng ta phải nghe hết.
– Hừ, tôi không như Viên huynh, tôi không chịu nghe lời của người khác, dù đối với tôi tử tế, tôi tôi sẽ ưa người đó và bất cứ người ấy nói như thế nào, tôi cũng nghe hết, còn người mà đã bị tôi ghét thì dù người đó có nói phải lý đến đâu, tôi cũng không thích nghe.
– Ôn huynh vẫn còn tính trẻ con thật, năm nay huynh mấy tuổi?
– Mười tám? Còn Viên huynh?
– Tôi lớn hơn huynh hai tuổi.
Ôn Thanh cúi đầu mặt đỏ bừng khẽ hỏi tiếp:
– Tôi không có anh ruột, chúng ta kết nghĩa làm anh em nhé? Chẳng hay huynh có bằng lòng không?
Thừa Chí là người rất cẩn thận, chưa biết lai lịch của Ôn Thanh ra sau, tuy chàng đã thấy Ôn Thanh rất hợp ý, nhưng nói đến kết nghĩa thì chàng không dám, nên chàng chần chừ không dám trả lời ngay.
Ôn Thanh thấy Thừa Chí không trả lời liền đứng dậy chạy thẳng về phía trước.
Thừa Chí giật mình kinh hãi vội đuổi theo ngay. Chàng thấy Ôn Thanh chạy thẳng lên trên đỉnh núi liền nghĩ thầm: “Người này tính nết nóng nảy như thế, nếu ta không nhận lời chàng ta, chưa biết chừng chàng ta cũng sẽ tự tử cũng nên.”
Nghĩ đoạn, chàng liền giở khinh công của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ cho đuổi theo, chỉ trong nháy mắt đã qua mặt Ôn Thanh rồi chàng quay mặt lại hỏi:
– Ôn hiền đệ giận tôi đấy à?
Ôn Thanh nghe thấy Thừa Chí gọi mình là hiền đệ cả mừng, liền ngừng chân lại, ngồi xuống đất và nói:
– Huynh đã khinh đệ, sao còn gọi đệ là hiền đệ như thế?
– Có bao giờ tôi dám khinh hiền đệ đâu, thôi lại đây, chúng ta cùng kết bạn đi!
Thế rồi hai người liền quỳ xuống vái trăng và thề rằng: “Có phúc cùng hưởng, bị nạn cùng chịu” Thề xong, cả hai cùng đứng dây.
Ôn Thanh vái chào Thừa Chí một cái:
– Đại ca!
Thừa Chí cũng đáp lễ và trả lời:
– Tôi gọi hiền đệ là nhị đệ nhé! Thôi muộn lắm rồi, chúng ta cùng xuống núi nghỉ đi.
Hai người dắt tay nhau xuống núi trở về phòng.
Thừa Chí bảo Ôn Thanh rằng:
– Khuya lắm rồi, nhị đệ đừng về phòng của bá mẫu ngủ nữa, nếu nhị đệ về ngủ thì bá mẫu cũng thức tỉnh, chi bằng hiền đệ ở lại đây ngủ chung giường với ngu huynh nhé.
Ôn Thanh mặt đỏ bừng, giằng tay ra hờn giận đáp:
– Anh anh
Nhưng chàng lại cười ngay và chào rằng:
– Thôi ngày mai chúng ta gặp lại nhé.
Nói xong, chàng chạy ra cửa phòng luôn. Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng.
Ngày hôm sau, Thừa Chí đang ngồi trên giường luyện công thì tiểu hoàn Nguyệt Hoa đem điểm tâm tới. Thừa Chí nhảy xuống giường cám ơn Nguyệt Hoa rồi ngồi vào bàn ăn điểm tâm.
Lúc ấy, Ôn Thanh cũng bước vào trong phòng vừa cười vừa nói:
– Đại ca, bên ngoài có một người đàn bà tới, đòi lấy số vàng đó, chúng ta ra bên ngoài xem sao.
Thừa Chí đáp:
– Được lắm!
Hai người đi ra đại sảnh, đã thấy Ôn Chính đang đấu với một thiếu nữ.
Hai ông già ngồi cạnh đó xem, một ông già tay cầm quảy trượng, một ông tay không. Ôn Thanh đi đến cạnh ông cụ cầm quảy trượng, rỉ tai nói mấy câu.
Ông già ấy quay lại nhìn Thừa Chí một hồi, rồi gật đầu mấy cái. Thừa Chí trông thấy thiếu nữ nọ tuổi trạc mười chín, hai má đỏ hồng, trông rất đẹp, võ công khá cao siêu. Nàng đấu với Ôn Chính mười mấy hiệp mà vẫn chưa phân thắng bại. Chàng rùng mình một cái vì càng xem chàng càng nghi.
Thiếu nữ nọ tiến lên một bước, múa kiếm nhắm vai của Ôn Chính đâm tới. Ôn Chính đưa trái tay lại chém võ khí của đối phương. Y thấy đơn đao của y sắp chém trúng bảo kiếm của thiếu nữ kia rồi. Ngờ đâu, Ôn Chính ra tay đã nhanh mà thiếu nữ kia còn nhanh hơn, chỉ thấy nàng quay trường kiếm một vòng, rồi xoay mũi kiếm đâm luôn vào cổ của Ôn Chính.
Ôn Chính kinh hãi vô cùng, vội nhảy lùi về phía sau ba bước tránh né. Thiếu nữ lại thừa thế xông lên tấn công mấy kiếm nữa, thế kiếm nào của nàng cũng nhanh vô cùng. Thừa Chí đã nhận ra võ công của nàng này quả thật là võ công của phái Hoa Sơn rồi và chàng đoán chắc nàng ta còn được các anh của bổn môn chỉ điểm cho, bằng không với công lực của nàng yếu hơn đối thủ nàng đã thua từ lâu rồi. Sở dĩ nàng đánh ngang tay với Ôn Chính như vậy là nhờ ở Kiếm thuật tinh kỳ. Tuy thế công của nàng ta vừa nhanh vừa lợi hạ, nhưng cũng chả sao bằng Ôn Chính. Ôn Thanh cũng nhận thấy thiếu nữ kia địch không nổi Ôn Chính liền nói:
– Với tài ba non kém thế này mà cũng định đến cửa đòi lại đồ được.
Hai người lại đấu thêm mấy chục hiệp nữa, quả nhiên thế công thiếu nữ đã chậm dần. Trái lại Ôn Chính càng đấu càng hăng, Thừa Chí thấy tình thế nguy cấp, vội nhảy vào giữa hai người. Hai người đang đấu hăng như vậy, làm sao mà thâu khí giới được, nên một đao một kiếm đều nhằm người Thừa Chí mà ném tới. Ôn Thanh thấy vậy, kinh hãi thất thanh la lớn một tiếng và cả hai ông già cùng đứng dậy một lúc, vì Thừa Chí nhảy ra một cách đột ngột, nên hai ông già với Ôn Thanh cũng không kịp ra tay cứu viện nữa. Ngờ đâu, Thừa Chí giơ tay phải lên khẽ đẩy cổ tay của Ôn Chính một cái, còn tay trái thì giơ ra phía sau gạt tay của thiếu nữ rồi.
Thế là khí giới của hai người đều bị chàng gạt bắn sang bên, nên chàng muốn cướp khí giới của hai người đi thì thật là dễ như trở bàn tay, nhưng chàng không muốn khoe khoang võ công của mình và lại sợ Ôn Chính xấu hổ. Cho nên, chàng chỉ đẩy tay của hai người ra thôi, hai người đó đều biết võ công của chàng cao siêu hơn họ nhiều, nên họ vừa tức giận, vừa nhảy ra phía sau.
Ôn Chính lại tưởng Thừa Chí lại nghĩ đến mối hận đêm hôm trước, nên mới ra tay đẩy khí giới của mình như vậy. Còn thiếu nữ nọ thấy chàng đi cùng Ôn Thanh ra, tất nhiên biết người của địch rồi, nàng thấy địch không nổi Thừa Chí định bỏ chạy. Thừa Chí vội kêu gọi:
– Cô nương kia, hãy khoan đã, tôi có mấy lời muốn nói với cô.
Thiếu nữ nọ giận dữ đáp:
– Tôi địch không nổi các người, sẽ có người tài ba hơn tôi đến đây đòi số vàng này.
Thừa Chí tiến lên vái chào và nói tiếp:
– Xin cô nương chớ trách cứ như vậy, xin hỏi cô nương quý tính danh là gì, lịnh sư là ai?
Thiếu nữ kia giận dữ đáp:
– Ai có thì giờ nói chuyện lôi thôi với ngươi.
Nói xong, nàng phi thân đi luôn.
Thừa Chí tung mình nhảy theo, khi hạ chân xuống đã ở phía trước thiếu nữ kia, đồng thời chàng khẽ bảo nàng nọ rằng:
– Đừng đi vội, để tôi giúp cô nương một tay.
Thiếu nữ nọ, ngạc nhiên vô cùng vội hỏi lại:
– Tướng công là ai?
Thừa Chí đáp:
– Tôi họ Viên.
Thiếu nữ nọ ngắm nhìn chàng một hồi, bỗng lên tiếng hỏi:
– Tướng công có biết An đại nương không?
Thừa Chí rùng mình vội hỏi lại:
– Tôi là Viên Thừa Chí, cô nương có phải là Tiểu Tuệ không?
Thiếu nữ nọ mừng rỡ vô cùng, quên cả lễ nghi, vội nắm hai tay chàng và nói tiếp:
– Phải rồi! Phải rồi, anh là Thừa Chí đại ca phải không?
Nhưng nàng nói xong, mới biết là mình đã thất lễ, hổ thẹn đến mặt đỏ bừng, vội buông tay Thừa Chí ra. Ôn Thanh đứng cạnh đó tỏ vẻ không vui, Ôn Chính lại lớn tiếng:
– Ta tưởng Viên huynh là ai, không ngờ là người của Lý Tự Thành sai tới đây làm gian tế.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, vội hỏi lại:
– Tôi với Sấm Vương có quen nhau một lần thật, nhưng bảo tôi là gian tế thì thật là vô lý, tôi với cô nương này là bạn với nhau từ nhỏ.
Nói xong bèn quay qua Tiểu Tuệ hỏi khẽ:
– Chuyện như thế nào vậy?
Tiểu Tuệ hậm hực trả lời:
– Em với thôi đại ca chịu trách nhiệm vận chuyển số vàng này cho Sấm Vương, ngày hôm qua đi ngang qua một tiểu trấn thì ngờ đâu người kia xấu bụng lắm, chận đường cướp luôn số vàng của chúng tôi.
Nàng vừa nói, vừa giơ tay chỉ mặt Ôn Thanh.
Thừa Chí mới vỡ lẽ, thì ra số vàng mà Ôn Thanh cướp được lại là quân phí của Sấm Vương, không những Sấm Vương đối với mình tử tế như vậy, cả sư phụ cũng vui lòng giúp Sấm Vương nữa, huống hồ, còn Thôi Thu Sơn, An đại nương, và Tiểu Tuệ ba người, chỉ riêng ba người này ta cũng nể mặt mà lấy lại cho họ rồi, huống hồ Sấm Vương không quản ngại ngàn dặm xa xôi gửi số vàng từ Thiểm Tây đến Giang Nam chắc thế nào số vàng này cũng quan trọng lắm, bộ đội của Sấm Vương là bộ đội nhân nghĩa cứu dân cứu nước, ta không ra tay giúp sao được.
Chàng nghĩ như vậy, liền nói với Ôn Thanh rằng:
– Nhị đệ nể mặt ngu huynh mà trả cho cô nương này số vàng đi!
Ôn Thanh cười nhạt đáp:
– Đại ca hãy lên gặp hai ông của tiểu đệ đã, rồi hãy nói chuyện đó sau.
Nghe nói hai ông già kia là ông ngoại của Ôn Thanh, Thừa Chí nghĩ thầm: “Ta đã kết nghĩa với Ôn Thanh, hai ông già nọ tức là trưởng bối của ta”
Nghĩ đoạn, chàng liền tiến lên vái chào hai ông già nọ. Ông già cầm quải trượng vội nói:
– Úi chà, lão không dám, mời Viên huynh đứng dậy.
Nói xong, ông ta để quài trượng vào ghế, rồi hai tay đỡ khuỷu tay Thừa Chí lên.
Thừa Chí bỗng thấy có một luồng sức mạnh đỡ mình dậy, nếu chàng cứ để yên thì thế nào cũng bị hất bắn lên trời nên chàng vội lấy sức trầm hai cánh tay xuống và vẫn tiếp tục chào đủ bốn lạy mới đứng dậy.
Ông già nọ thấy vậy, kinh hãi thầm nghĩ: “Nội công của thiếu niên này thâm hậu thật, ta đã luyện mấy chục năm nội công mà cũng không sao nâng y lên được.”
Nghĩ đoạn, ông ta cười ha hả và nói tiếp:
– Nghe Thanh nhi nói, võ công của Viên huynh cao siêu lắm, bây giờ lão mới được gặp, quả thật không sai.
Ôn Thanh vội giới thiệu:
– Đại ca đây là ông ba của đệ đấy.
Chàng lại chỉ ông già tay không giới thiệu tiếp:
– Còn ông này là ông năm của đệ.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Có lẽ hai ông già này là người trong Ngũ tổ của phái Thạch Lương đây.”
Nghĩ đoạn, chàng liền chào hỏi một câu:
– Gia gia.
Thừa Chí thấy hai ông già có vẻ không vui ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm: “Cha ta là danh tướng kháng địch, làm Đốc soái ở Liêu Đông, ta kết nghĩa với cháu các ngươi như vậy chẳng lẽ các ngươi còn cho là nhục mặt hay sao?”
Nói tới đó, chàng quay đầu lại nhìn Ôn Thanh nói tiếp:
– Nhị đệ làm ơn trả số vàng cho cô bé này.
Ôn Thanh hờn giận đáp:
– Đại ca chỉ biết nói cô nương này cô nương nọ, chứ không thèm coi người ta ra gì hết.
– Nhị đệ, chúng ta con nhà võ phải nên trọng nghĩa khí trên hết, số bạc đó đã là tiền bạc của Sấm Vương rồi. Khi nhị đệ cướp không biết vàng đó là của ai nên mới taycướp như vậy, nhưng bây giờ đã biết là của ai rồi thì tiền đệ trả cho cô ta đi, còn lấy làm chi nữa.
Minh Sơn và Minh Nghĩa hai ông già đều không biết số vàng ấy liên can lớn như vậy, chỉ tưởng là của một phú thương thôi. Bây giờ nghe thấy An Tiểu Tuệ nói vàng đó là của Sấm Vương trong lòng không yên. Vì hai người biết thế lực của Sấm Vương rất lớn, các hào kiệt trên giang hồ đều ngưỡng mộ và phò trợ ông ta là khác. Nếu bây giờ không trả món vàng này cho Sấm Vương ngay thì người của ông ta sẽ đến tới tấp thì làm sao mà đối phó được?
Cho nên Minh Sơn mỉm cười trả lời Thừa Chí rằng:
– Thôi được, nể mặt Viên huynh chúng tôi xin trả hết số vàng đó.
Ôn Thanh vội xen lời nói:
– Sao Tam gia gia lại nhận lời như thế?
Thừa Chí cũng đỡ lời ngay:
– Nửa số vàng mà hiền đệ đã chia cho tôi rồi thì hiền đệ hãy đưa cho tôi số vàng đó để tôi trả cho cô nương kia trước.
– Nếu đại ca muốn lấy thì đệ xin tặng hết số vàng đó cho đại ca ngay, chứ đệ có phải là những hạng người coi tiền bạc rất to đâu, nhưng còn đại ca bảo tiểu đệ trả cho cô kia thì đệ nhất định không chịu, dù chỉ đưa có nửa phần thôi.
Tiểu Tuệ tiến liên một bước giận dữ hỏi:
– Chẳng hay bạn muốn như thế nào mới chịu trả, xin cứ nói điều kiện ra đi.
Ôn Thanh lại hỏi Thừa Chí tiếp:
– Thế nào, đại ca định giúp nàng ta hay là giúp tiểu đệ đây?
Thừa Chí chần chừ giây lát rồi đáp:
– Tôi không giúp ai cả, tôi chỉ nghe lời dạy bảo của sư phụ tôi.
– Sư phụ của anh là ai?
– Sư phụ của tôi hiện ở trong bộ đội của Sấm Vương.
– Hừa, nói đi nói lại, rốt cuộc anh vẫn giúp người chứ không giúp đệ, thôi được tất cả số vàng hiện đang ở nơi đây, tôi tốn rất nhiều mưu trí và khó nhọc mới lấy trộm được, thì bây giờ cô ta cũng phải nghĩ cách mà lấy trộm lại, tôi hẹn cho trong ba ngày nếu cô ta có đủ tài ba lấy trộm được thì cứ việc đem số vàng đó đi, nhược bằng trong ba ngày mà không lấy nổi thì đừng có trách tôi. Lúc ấy tôi sẽ có cách khác để đối phó.
Thừa Chí giật tay áo chàng ta và khẽ nói:
– Nhị đệ, hãy theo tôi lại đàng này tôi có chuyện riêng muốn nói với hiền đệ.
Hai người liền đi ra chỗ góc tường, Thừa Chí liền nói với chàng ta tiếp:
– Tối hôm qua, hiền đệ còn nói chỉ nghe lời của ngu huynh thôi chứ không nghe lời của ai cả, sao ngày hôm nay em lại giở giọng một cách đột nhiên như thế?
Ôn Thanh nói tiếp:
– Đại ca đối xử với đệ tử tế như thế tất nhiên đệ phải nghe lời của đại ca chứ?
– Nhị đệ nói rất phải, nhưng nhị đệ có thấy tôi đối xử với nhị đệ như thế nào không? Vả lại số vàng này có phải là tiền bạc cá nhân của cô ta đâu, như vậy nhị đệ còn giữ làm chi nữa.
– Nhị huynh mới gặp người bạn cũ một cái đã khinh rẻ đệ ngay rồi, dù đệ có xài hết số vàng của Sấm Vương rồi, nhiều lắm chỉ bị Sấm Vương cho người đến giết chết cả nhà đệ là cùng. Nhưng đệ có sợ bị giết chết như thế đâu? Vì đệ không còn một người nào thực lòng tử tể và thương mình nữa thì đệ cũng chả muốn sống ở trên thế gian này làm chi.
Thấy Ôn Thanh cứ khăng khăng không chịu trả, Thừa Chí tỏ vẻ không vui hỏi tiếp:
– Nhị đệ là người em kết nghĩa của ngu huynh, còn cô kia là con gái của ân nhân. Tôi coi hai người cũng như một thôi chứ không ai khinh ai trọng cả.
– Đại ca đừng nói nhiều nữa, đại ca cứ việc giúp cô ta đến đây mà lấy trộm lại số vàng đó đi, nếu đại ca lấy được đệ không còn dị nghị gì hết.
Thừa Chí còn muốn kéo tay chàng ta nói tiếp, nhưng chàng ta đã hất tay Thừa Chí chạy luôn vào trong nội thất rồi.
Thừa Chí thấy Ôn Thanh bướng bỉnh như vậy đành phải cùng Tiểu Tuệ cáo lui đi luông đến ở trọ nhà một người làm, sang đó để bàn tính với nhau.
Tiểu Tuệ hỏi:
– Đại ca tính thế nào về số vàng kia?
Thừa Chí đáp:
– Chúng ta đi lấy lại số vàng đó.
– Nhưng vị hiền đệ của đại ca không bằng lòng chúng ta phải làm thế nào đây?
Thừa Chí đáp:
– Tôi đã nhất định rồi, phải lấy số vàng kia trao trả lại cho hiền mụi, còn chuyện nhị đệ sẽ tính sau.
– Chừng nào chúng ta hành động?
– Tối nay chúng ta sẽ tới đó thu số vàng kia
Cơm dọn ra, Thừa Chí và Tiểu Tuệ ăn xong, mỗi người vào phòng nằm nghĩ ngợi
* * *
Trời tối hẳn, Thừa Chí trong phòng đã trông thấy Tiểu Tuệ đã mặt bộ võ phục gọn gàng.
Giờ Tiểu Tuệ đã là một thiếu nữ xinh đẹp như đóa hoa xuân vừa hé nhụy, nhất là đôi mắt nàng hút hồn.
Thừa Chí chưa quan tâm tới điều đó vì chàng rất nóng nảy về chuyện số vàng của Tiểu Tuệ mà Ôn Thanh không chịu trả.
Thấy Thừa Chí tới trước cửa phòng, Tiểu Tuệ đứng lên:
– Đại ca, chúng ta đi chứ?
Thừa Chí gật đầu:
– Vâng. Chúng ta đi mau hiền mụi.
Hai người cùng bước ra ngoài nhắm ngôi nhà thẳng tới.
Chẳng bao lâu Thừa Chí và Tiểu Tuệ đã đến nơi, dừng lại ở xa xa.
Thừa Chí trỏ tay qua phía ngôi nhà nóc ngói bảo:
– Ngôi nhà đấy hiền mụi.
Tiểu Tuệ nhìn theo ngón tay của Thừa Chí:
– Ngôi nhà không thấy có đèn anh ạ!
Giọng của Thừa Chí trầm hẳn xuống:
– Đương nhiên là họ đã có chuẩn bị sẵn sàng rồi nên họ không tắt đèn để dẫn dụ một kẻ địch.
Chàng bảo:
– Chúng ta tới trước xem sao.
Hai người cùng bước tới gần ngôi nhà âm thầm dừng lại quan sát bốn phía.
Thừa Chí nhủ thầm: “Tình hình ngôi nhà như thế”
Chàng liền khẽ dặn Tiểu Tuệ rằng:
– Thế nào họ cũng có cao thủ ẩn núp ở bóng tối, cô phải cẩn thận mới được.
Tiểu Tuệ gật đầu cau mặt lại suy nghĩ, chỉ thoáng cái nàng đã nghĩ ra được một kế liền nhảy ngay xuống bên dưới, Thừa Chí thấy nàng nhảy một mình nguy hiểm cũng vội xuống theo. Chàng thấy nàng bay chạy thẳng xuống dưới bếp lấy một ngọn lửa đem đến căn phòng chứa rơm rạ đốt luôn, không bao lâu lửa bốc lên chọc trời.
Người nhà của họ Ôn thấy ngọn lửa bốc lên đều kêu la om sòm, các tráng đinh vội lấy nước tới để dập tắt ngọn lửa. Thừa Chí với Tiểu Tuệ quay trở ra đại sảnh đèn nến ở nơi đây vẫn sáng như thường, còn bốn người nọ thì mất tích. Tiểu Tuệ cả mừng nói:
– Bọn họ đã đi cứu lửa rồi.
Nói xong, nàng chạy luôn vào trong khách sảnh. Thừa Chí cũng đi theo vào.
Hai người tới cạnh cái bàn đó đang định giơ tay ra lấy hai đống vàng thì bỗng thấy dưới chân mềm nhũn. Thừa Chí biết là mắc hỡm rồi vội tung mình nhảy lên giơ tay phải ra định túm lấy tay của Tiểu Tuệ nhưng túm không kịp. Thì ra tấm ván ở dưới chân là cái nắp cạm bẫy, chàng tung mình nhảy lên tay trái ôm lấy cột đá của khách sảnh ở đó rồi mối đang từ từ tuột chân xống biên dưới, chân chàng đứng ở trên nên đá vào cột trụ kia, nhờ vậy mới thoát khỏi nguy hiểm, lúc ấy nắp hầm đã đậy liền. Tiểu Tuệ bị giam ở bên dưới rồi, chàng cả kinh vội nhảy ra ngoài cửa sổ để tìm kiếm then chốt của máy móc của cái hầm đó mong cứu Tiểu Tuệ thoát nạn. Nhưng chàng vừa ra tới bên ngoài đã thấy có một luồng gió mạnh lấn át tới biết ngay đã có người tấn công lén. Chàng vội giơ hữu chưởng lên phản công chưởng lực của người nọ, trong khi tay của hai người va chạm nhau, chàng đã mượn sức của đối phương mà tung mình nhảy lên trên mái nhà còn người nọ thì bị chàng đẩy xuống dưới đất, nhưng thân hình của người đó rất nhanh, chân vừa đụng mặt đất y đã nhún vai một cái nhảy luôn lên trên mái nhà theo.
Vừa lên tới mái nhà và đứng yên xong, Thừa Chí đưa mắt nhìn bốn xung quanh liền toát mồ hôi lạnh tức thì. Thì ra lúc ấy bốn chung quanh lố nhố toàn là những người cao có, lùn có, béo có, gầy có, bao vây chặt lấy chàng. Tất cả những người đó đang bao chặt lấy mình, còn người mà chàng đẩy rớt xuống bên dưới lại nhảy lên chính là Ôn Chính.
Thừa Chí biết mình đã sa chân vào chốn nguy hiểm vì không biết đối phương sẽ đối xử mình ra sao, nhưng chàng vẫn đứng yên ở đó xem kẻ địch ra tay với mình như thế nào trước rồi mới nghĩ cách đối xử lại sau, nên chàng chỉ đứng yên chẳng nói chẳng rằng. Bỗng thấy trong đám đông, có năm ông già bước ra, chàng đã gặp mặt hai người rồi, còn ba người tuy chưa được gặp bao giờ nhưng chàng cũng biết ba người kia cũng là nhóm Ngũ tổ của phái Thạch Lương. Hai người mà chàng đã được gặp là Đệ tam tổ của Ôn Thanh, Ôn Minh Sơn và Đệ ngũ tổ Ôn Minh Ngô, còn ba người kia người đứng giữa rất cao lớn, cao hơn mọi người một cái đầu. Người đó bước ra cả cười ha hả, tiếng cười kêu như tiếng chuông vậy, cười xong, y mới lên tiếng nói:
– Năm anh em lão là ở chống thôn quê hoang vu này mà cũng có cao nhân của Sấm Vương giáng lâm, thật là nhà cửa rạng rỡ và tam sinh hữu hạnh, hà hà
Thừa Chí tiến lên vái chào và đáp:
– Tiểu bối tham kiến lão tiền bối.
Chàng thấy bốn xung quanh đều là kẻ địch chỉ sợ lúc mình cúi đầu vái chào sẽ bị đối phương ném ám khí lén. Nhưng lễ phép vẫn không sao thiếu được, nên chàng vừa bái chào vừa để ý bốn xung quanh. Ôn Thanh cũng vội tiến lên lớn tiếng giới thiệu:
– Đây là đại gia gia của tiểu đệ, còn hai vị nữa là nhị gia gia với tứ gia gia.
Thừa Chí liền chắp tay cúi đầu vái chào hai người kia.
Trong nhóm Ngũ tổ chỉ có đại ca Ôn Minh Đạt, nhị ca Ôn Minh Nghĩa và tứ ca Ôn Minh Thi là chắp tay đáp lễ thôi. Đồng thời cả ba người ngắm nhìn Thừa Chí một hồi. Minh Nghĩa là người nóng tính nhất trong bọn nên y vội lên tiếng nói trước:
– Ngươi tuổi nhỏ như thế này mà gan ngươi lại lớn đến thế dám phóng hỏa đốt nhà chúng ta.
Thừa Chí đáp:
– Đó là bạn của tiểu bối nhất thời lỗ mãng, tiểu bối cũng biết ra tay như thế thực không nên không phải nhưng cũng may chưa gây nên tai hại lớn. Ngày mai tiểu bối sẽ trở lại nơi đây xin lỗi quý vị
Lúc ấy ngọn lửa bốc cháy căn phòng đựng rơm rạ đã bị dập tắt chưa cháy lan qua căn nhà khác. Minh Thi là người vừa gầy vừa cao và cũng chính là ông nội của Ôn Chính mặt mũi của hai ông cháu giống hệt như nhau. Y thấy Thừa Chí nói xong vội đỡ lời ngay:
– Chúng ta định cư ở nơi đây mấy chục năm chỉ có người khác tới đây vái lạy cầu thân thôi chớ không hề thấy một đứa nhỏ nào dám đến quấy nhiễu cả, sư phụ của ngươi là ai, sao ngươi lại vô lễ phép đến thế?
Thừa Chí đáp:
– Gia sư hiện ở trong quân đội của Sấm Vương, chỉ mong quý vị trao trả cho số vàng của Sấm Vương thì tiểu bối thế nào cũng về thưa gia sư rõ thì thế nào gia sư cũng sẽ viết thư tạ tội gởi tới.
Ôn Minh Đạt xen lời hỏi:
– Sư phụ của ngươi là ai?
Thừa Chí đáp:
– Sư phụ của tiểu bối không hay lộ diện ở trong giang hồ nên tiểu bối không dám nhắc nhở đến tên tuổi của ông ta.
Ôn Minh Nghĩa dùng giọng mũi kêu lên một tiếng rồi cũng xen lời nói:
– Ngươi không nói chẳng lẽ chúng ta cũng không biết người là môn hạ của ai sao?
Nói tới đó ông ta ra hiệu cho một người đứng gần đó:
– Ngươi ra tiếp anh bạn này mấy hiệp.
Một người ở trong đám bước ra trông khôi vĩ oai nghi, y là đệ tử thứ hai của Minh Nghĩa, là hảo thủ số một trong bọn người đời thứ hai của phái Thạch Lương. Y liền nhảy ra múa quyền tấn công luôn. Thừa Chí né đầu tránh và giơ tay trái ra phản công và bụng thì nghĩ thầm: “Kẻ địch nhiều người như vậy đấu từng người một với chúng như thế dù mình có đắc thắng cũng chết mệt, ta phải giải quyết cho thực nhanh chóng thì mới mong thoát thân được.”
Nghĩ như vậy, chàng đợi quyền bên trái của đối phương đánh tới liền giơ hữu chưởng lên chống đỡ chưởng đó và xoay tay nắm luôn quyền của địch thủ thuận thế lôi luôn về phía sau một cái. Nam Dương không kịp đề phòng đâm bổ đầu về phía trước té ngã, chân đã dậm vỡ mấy hòn ngói, nếu không được ngũ thúc của y là Minh Ngô ra tay kéo lên lại thì y đã đâm bổ xuống dưới nhà té ngã.
Nam Dương hổ thẹn vô cùng mặt càng đỏ thêm quay người nhảy xô lại tấn công tiếp. Thừa Chí vẫn đứng yên đợi chờ đối phương nhảy xô tới bỗng xoay người một vòng nằm ngả người về phía sau giơ chân trái lên khẽ móc một cái, Nam Dương lại bị đâm bổ về phía trước té ngã luôn.
Thừa Chí dùng chân trá móc đồng thời lại giơ hữu chưởng ra. Chàng cũng biết đối phương thế nào cũng ngã sấp về phía trước nên mới giơ tay ra để chộp lưng địch thủ.
Nam Dương bị chân của đối phương móc làm cho ngã sấp, mũi sắp đụng vào mặt ngói thì bỗng bị người xách bổng lên và để đứng thẳng người xuống. Hai lần bị đánh té như vậy y đâu dám đấu với Thừa Chí nữa, nên chỉ hậm hực lườm chàng ta một cái rồi rút lui ngay.
Ôn Minh Nghĩa thấy vậy quát lớn:
– Tiểu tử này võ công cũng khá cao siêu đấy, để lão gia tiếp tay với để tử của cao nhân vài chiêu
Nói xong, y múa song chưởng và tiến lên. Ôn Thanh đột nhiên nhảy tới cạnh ông già đó rỉ tai khẽ nói: “Nhị gia gia, y là anh em kết nghĩa với cháu, xin gia gia đừng đả thương y nhé.”
Minh Nghĩa quay đầu lại mắng chửi:
– Con nhãi này lắm chuyện thực.
Ôn Thanh lại kéo tay Nhị tổ và nói:
– Thế nào? Ông có nhận lời giúp cháu không?
Ôn Minh Nghĩa nói:
– Để ông xem đã!
Nói đoạn, ông cụ hất mạnh một cái, Ôn Thanh bị đẩy lui mấy bước. Minh Nghĩa chững chạc tiến lên hai bước. rồi nói:
– Cậu kia, ra tay đi!
Thừa Chí chắp tay lạy:
– Cháu không dám, xin mời cụ ra tay trước!
– Cậu không chịu nói sư phục cậu là ai, thì cậu đánh luôn ba miếng, xem ta có biết hay không?
Thấy ông cụ làm phách, Thừa Chí hơi bực mình liền nói:
– Nếu vậy, cháu xin thất lễ trước. Tài nghệ của cháu còn non nớt lắm xin cụ thương cho đừng đánh quá mạnh.
Thừa Chí hất tay áo dài lên mái ngói, đánh mạnh vào đầu Minh Nghĩa. Minh Nghĩa ngẩn người ra, cúi đầu giơ tay ra định bắt tay áo của Thừa Chí. Ngờ đâu, chưa đánh tới đích, tay áo nọ đã phất phới bay lên, và tay áo trái của Thừa Chí đã đánh tới mặt ông cụ rồi. Tay áo sau nhanh và mạnh quá, Minh Nghĩa tránh không nổi. Nhưng dù sao ông ta cũng đã có mấy chục năm công lực và bao phen vào sanh ra tử giữa chốn núi đao rừng kiếm, nên kinh nghiệm rất phong phú. Biết tránh không được, ông ta đành phải ngửa người ra phía sau để tay áo của địch khỏi đánh trúng vào mình. Thấy đối phương đã tránh được một miếng, Thừa Chí không để cho Minh Nghĩa có thì giờ trả đũa, bỗng quay lưng lại trước mặt địch thủ. Ông cụ ngạc nhiên, tưởng Thừa Chí bỏ chạy, định chìa tay phải ra bắt lại. Bỗng thấy một làn gió mạnh đẩy tới, ông cụ không ngờ hai tay của Thừa Chí đưa về phía sau, và đôi tay áo ở dưới hất lên, như hai con rắn độc chui thẳng vào nách mình. Thấy kẻ địch đánh miếng võ lạ lùng như vậy, Minh Nghĩa giơ hai tay nắm lấy tay áo của Thừa Chí nhưng đã quá muộn, lưng của ông cụ đã bị đánh trúng. Đồng thời Thừa Chí đã nhân dịp đó nhảy ra xa rồi.
Vừa tức vừa xấu hổ, Minh Nghĩa vẫn không sao biết được môn võ tay áo của phái nào. Thì ra miếng võ thứ nhất, Thừa Chí sử dụng thế “Phục Hổ chưởng” của Mục Nhân Thanh. Miếng thứ nhì chàng căn cứ ở môn khinh công của Mộc Tang mà biến hóa ra. Miếng thứ ba “Song Sư Nhập Động” là chàng tập luyện theo cuốn “Kim Xà bí kíp” của Kim Xà Lang Quân. Sợ đối thủ nhận ra miếng sau cùng, chàng phải thay đổi đôi chút, lại thêm song chưởng giấu trong tay áo, Ôn Minh Nghĩa làm sao biết được.
Bốn anh em Ôn Minh Đạt ngơ ngác nhìn nhau đều cảm thấy lạ lùng.
Xấu hổ quá mức, Minh Nghĩa mặt đỏ bừng, râu tóc dựng ngược đánh luôn một chưởng đến “vù” một cái. Dưới ánh sáng trăng, Thừa Chí trông thấy đầu Minh Nghĩa bốc hơi nóng lên chân đi chậm chạp và loạng choạng, tỏ ra nội công rất cao siêu, nên chàng không dám đùa giỡn, vội né mình tránh luôn hai miếng. Vén tay áo lên, chàng giở hết những món tuyệt kỹ trong “Phục Hổ chưởng pháp” để đối địch. Thấy một tay đánh phía mặt đưa tới, Thừa Chí nhìn rõ gan bàn tay của đối thủ đỏ như máu, trong lòng chàng cũng hơi chấn động. Dưới bóng trăng, thủ chưởng đó nom càng rùng rợn hơn nữa. Thừa Chí nghĩ thầm: “Không ngờ ông già này đã luyện được ⬘Chu Sa chưởng⬙ hay ⬘Hồng Sa chưởng,⬙ sư phụ ta có nói, chưởng lực đó lợi hại vô cùng, không nên để cho nó đánh trúng vào người.”
Liền đoạn chàng liền áp dụng chưởng phong của mình một cách kín đáo hơn, song chưởng cứ liên miên bất tuyệt đánh cổ tay phải hơi đen, vội nhảy ngay ra.
Cúi đầu xem kỹ, ông ta thấy cổ tay có một vết đỏ và hơi sưng lên. Thì ra ông cụ đã bị Thừa Chí dùng ngón tay rạch một cái. Tuy tức giận thật nhưng Minh Nghĩa không dám tiếp tục thử tài với Thừa Chí nữa.
Tiến lên một bước, Ôn Minh Sơn nói:
– Viên huynh đây tuổi tuy còn nhỏ nhưng chưởng pháp đã tới mức tinh diệu vô cùng. Lão huynh đây muốn lãnh giáo thử xem công phu khí giới của huynh ra sao?
Thừa Chí trả lời:
– Tiểu bối không dám mang theo khí giới vào quý trang.
Minh Sơn cười kha khả nói:
– Viên huynh giữ lễ phép kể cũng chu toàn đấy. Đó cũng có thể nói là: Người tài nghệ cao bao giờ cũng can đảm hơn người. Thôi được chúng ta tới Luyện Võ sảnh vậy.
Vẫy tay một cái, Minh Sơn nhảy phắt xuống đất, mọi người lần lượt theo sau nhảy xuống. Thừa Chí cũng đành phải theo họ vào trong nhà, Ôn Thanh vừa dịp đó lại gần chàng và khẽ rỉ tai: “Trong chiếc gậy của ông em có ám khí đấy!”
Chàng định hỏi han vài lời, thì Ôn Thanh đã quay lại nói với Ôn Chính:
– Thế nào? Thấy bản lĩnh của người ta giỏi như thế, anh đã chịu phục chưa?
Ôn Chính trả lời:
– Ông Hai cưng em nên mới nhường cho nói một vài miếng như thế có gì là lạ?
Ôn Thanh cười nhạt, không thèm nói chuyện với Ôn Chính nữa.
Mọi người vào cả trong Luyện Võ sảnh. ánh sáng chói lọi như ban ngày. Tất cả người nhà họ Ôn, từ già chí trẻ, ai ai cũng đều biết võ cả. Lúc đó, họ nghe nói cụ Ba định đấu võ với người khách, nên rủ nhau đến cả Võ Sảnh để xem, trong đó có cả đứa trẻ độ bảy, tám tuổi. Sau cùng, Thừa Chí lại trông thấy một người đàn bà rất đẹp, trạc độ bốn mươi tuổi cùng Nguyệt Hoa bước ra. Ôn Thanh chạy lại gọi: “Má!” Người đàn bà đẹp đó nét mặt ủ rũ, đưa mắt lườm Ôn Thanh có vẻ không vui.
Ôn Minh Sơn chỉ vào những giá cắm khí giới bày xung quanh rồi nói:
– Viên huynh muốn sử dụng khí giới gì cứ việc ra mà chọn lấy!
Thừa Chí tính thầm trong bụng: “Câu chuyện ngày hôm nay không thể nào kết thúc một cách êm thấm được. Tuy nhiên ta cũng không nên đánh ai bị thương để tránh sự gây thù kết oán. Vừa mới ra đời mà ta đã gặp phải vấn đề nan giải này rồi. Bây giờ không biết ứng phó thế nào cho phải đây?”
Thấy Thừa Chí cau mày có vẻ tư lự và không thấy chàng nói năng gì cả, Ôn Thanh tưởng chàng e ngại liền bảo:
– Ông ba em rất thương những người kẻ dưới. Anh cứ yên trí, ông Cụ không đánh anh bị thương đâu!
Má Ôn Thanh bực mình mắng ngay:
– Ôn Thanh! Con không được nói nhiều.
Ôn Minh Sơn đưa mắt nhìn Ôn Thanh rồi nói:
– Điều đó còn phải chờ xem tài nghệ của người ấy ra sao. Viên huynh thích dùng đao hay kiếm?
Thừa Chí đưa mắt nhìn xung quanh bỗng thấy Nguyệt Hoa dắt một đứa trẻ độ sáu, bảy tuổi đứng cạnh đó. Chàng đoán có lẽ thằng nhỏ đó là cháu của Ôn Thanh. Thấy tay nó đang cầm một thanh kiếm bằng gỗ, sơn màu lòe loẹt, loại đồ chơi trẻ con, Thừa Chí liền đi tới cạnh thằng bé và bảo nó rằng:
– Cậu em, cho anh mượn thanh kiếm này nhé!
Thằng nhỏ nhoẻn miệng cười đưa ngay thanh kiếm gỗ cho chàng. Cầm thanh kiếm lên, chàng nói với Minh Sơn:
– Tiểu bối không dám động tới đao kiếm thật với lão tiền bối, chỉ xin dùng tạm thanh kiếm gỗ này để thọ giáo vài hiệp.
Chương 7: Chiến Ngũ Lão, Trượng Nghĩa Đoạt Ngàn Vàng
Nghe mấy lời của Thừa Chí có vẻ khinh thị, Ôn Minh Sơn giận đến nỗi giở mặt ngay, nhưng nghĩ sao, ông ta ngửng mặt lên trời cười ha hả, rồi nói:
– Lão phu lăn lộn ở chốn giang hồ đã mấy chục năm trời, chưa từng gặp ai dám coi thường cây gậy thép đầu rồng của ta. Thôi được, cậu có tài thì cứ việc dùng kiếm gỗ kia mà chém gẫy cây thép này của ta đi!
Nói đoạn, ông ta quay ngang, rồi “vù” một tiếng, quạt luôn vào ngang lưng Thừa Chí. Lúc ấy chiếc gậy vụt mạnh và nhanh khiến ai ai cũng tưởng Thừa Chí đã bị đập ngãy lưng, nhưng ngay khi đó thấy chàng bắn vọt lên trên. Nhanh như chớp, Thừa Chí chưa xuống tới đất đã đâm thẳng kiếm gỗ vào mặt đối phương rồi. Quay ngược quài trượng, Ôn Minh Sơn liền dùng đầu gậy điểm huyệt trọng yếu phía sau lưng Thừa Chí. Thừa Chí nghĩ thầm: “Không ngờ quài trượng của y lại còn dùng để điểm huyệt nữa! Nếu vậy ta cần phải thận trọng mới được.”
Vừa suy nghĩ, vừa né mình để tránh, rồi đột nhiên đưa kiếm gỗ vuốt dọc theo chiếc gậy thép chém ngược lên. Nếu cây kiếm đó thuộc loại kim khí thì mấy ngón tay kẻ địch tất nhiên phải bị chém đứt ngay. Thế kiếm ấy của chàng rất lợi hại. Minh Sơn tuy biết kiếm đó bằng gỗ thật nhưng nếu để cho chàng chém trúng thì tay mình thế nào cũng bị trọng thương, nên ông phải buông gậy ra cho nó rơi xuống đất để tránh khỏi tình trạng nguy ngập đó. Nhưng tay trái ông ta lại bắt luôn đuôi một cách chớp nhoáng, đồng thời hất mạnh một cái, ông đã đưa bổng chiếc gậy nặng mấy chục cân lên trời. Thấy ông lão mắt nhanh, tay nhanh và thế võ lại quá ư lợi hại, Thừa Chí cũng phải phục thầm.
Hai người càng chiến càng hăng. Quài trượng của Minh Sơn múa kêu “vù vù.” Một đôi khi chiếc gậy đánh hụt trúng mặt đất, khiến gạch lát vỡ vụn ra như cám. Lẩn tránh, len lỏi giữa khe gậy, Thừa Chí tựa như con bươm bướm bay đi lượn lại. Kiếm gỗ của chàng nhẹ nhàng linh độn lúc nào cũng nhè những nơi hiểm yếu của địch mà tấn công.
Chớp mắt đã đánh được bảy, tám mươi hiệp. Trượng pháp của ông ta đột nhiên biến đổi, quét ngang điểm ngược, vây kín xung quanh kẻ địch khiếng người đứng xem chỉ thấy gió ở cây trượng phát ra càng ngày càng mạnh. Dưới ánh nến chỉ thấy bóng sáng vòng tròn của quài trượng quay tới và làm lóe mắt mọi người.
Từ khi học võ tới giờ, lần đầu tiên Thừa Chí gặp phải tay kình địch. Sức mạnh chiếc gậy thép của địch quá lớn, nên chàng không sao tới sát cạnh đối phương được, còn cây kiếm gỗ thì lại không dám va chạm với quài trượng bằng thép kia. Chàng nghĩ thầm: “Ta phải dùng tới tuyệt chiêu của sư phụ thì mới có thể thẳng nổi.”
Nghĩ đoạn, chàng bỗng đứng sững người ra trong giây lát, Minh Sơn mừng quá, quét ngay một gậy tới, Thừa Chí dùng tay trái nắm luôn đầu gậy, bẻ sang một bên, còn tay phải đưa kiếm đâm thẳng vào người kẻ địch.
Giựt mình sợ hãi, Minh Sơn cảm thấy hổ khẩu tê buốt đồng thời chiếc gậy thép đã bị Thừa Chí cướp giật mất. Vì Minh Sơn là người bề trên nhà họ Ôn, nên Thừa Chí phải giữ lễ độ và không dám làm đối phưong phải mất sĩ diện. Chàng thu kiếm lại và đồng thời trả lại cây gậy thép tận tay Minh Sơn.
Vừa sợ vừa giận, Minh Sơn lại giáng luôn một gậy nữa. Thừa Chí nghĩ thầm: “Ông già này buồn cười thật! Đã thua rồi mà vẫn chưa chịu!”
Gậy thép của đối phương đã đánh tới người, không còn thời giờ để suy nghĩ nữa chàng bèn vung tay dùng một thế khéo léo hất mạnh một cái, thế là cây gậy thép to lớn đã văng tuốt lên cao chẳng qua Minh sơn chỉ muốn chữa thẹn ra oai, nhưng không ngờ chỉ nhục thêm chứ có ích lợi gì đâu?
Năm anh em Ngũ tổ trong phái Thạch Lương có Ôn Minh Thi người thứ tư là giỏi về môn ám khí nhứt. Ông ta sử dụng 24 chiếc phi đao, bách phát bách trúng. Phi đao của ông ta cũng khác hẳn những ám khí cùng loại, mỗi cái nặng nửa cân. Khi đối địch, ông ta cắm những phi đao đó vào trong bao da đeo ở sau lưng. ám khí dùng để tấn công khi kẻ địch không phòng bị, đại khái chơi trụ tiền giấu trong tay áo, tật lê giấu trong túi áo nhưng ám khí của Minh Thi lại đeo ra ngoài áo, cán đao thì khoét lỗ, lúc phóng ra không khí luồn qua kêu o o, ông ta tự hào là đao của mình thiên hạ vô song. Tiếng kêu của cán đao báo hiệu cho đối phương. Nhưng sự thật tiếng kêu đó làm loạn tinh thần chiến đấu của địch thì đúng hơn.
Minh Thi thấy anh ba mình đột nhiên bắn ám khí ra mà đều bị Thừa Chí dùng thủ pháp khác lạ bắt mất thì nói.
– Tài đỡ ám khí của Viên huynh giỏi lắm! Bây giờ xin mời Viên huynh tiếp thử phi đao của tôi xem sao?
Nói đoạn, chàng trao kiếm gỗ trả lại cho thằng nhỏ. Người nhà họ Ôn ai cũng biết phi đao của Minh Thi lợi hại lắm. Nếu Thừa Chí bắt được cả số phi đao đó thì không sao, bằng không chàng chỉ bắt hụt một con là người đứng xem phía sau sẽ bị tai vạ liền. Bởi vậy, trừ bốn anh em trong Ngũ tổ ra, ai nấy đều phải rút lui phía ngoài cửa đứng xem để khỏi bị chết oan chết uổng.
Ôn Minh Thi gọi to:
– Coi chừng phi đao!
Vừa dứt lời, hắn chỉ phẩy tay một cái, giữa một đạo ánh sáng lạnh lập lờ, một con đao đã vù vù bay tới.
Thấy phi đao có vẻ không hiểm độc lắm, Thừa Chí nghĩ thầm: “Nếu dùng tay bắt lấy con đao này thì họ không hiểu tài ba của ta. Ta phải trổ tài thế nào để cho họ chịu phục thì họ mới chịu thả Tiểu Tuệ và trả lại số vàng.”
Chàng vội móc túi lấy ra hai quân cờ, mỗi tay cầm một quân nhằm đúng phi đao mà ném. Quân cờ bên tay trái tới trước. Chỉ nghe “keng” một tiếng, phi đao đã mất tiếng vù vù như trước vì quân cờ đã đánh gãy chuôi đao rỗng ruột và có tiếng kêu như sáo diều kia. Còn quân cờ bên tay phải thì chàng ném trúng lưỡi, rồi cả hai cùng rơi xuống đất. Phi đao nặng hơn nửa cân, còn quân cờ thì bé nhỏ và nhẹ, mà khi hai thứ va chạm nhau rồi thì rơi xuống cùng một lúc.
Như vậy đủ thấy rõ tay của chàng khỏe hơn Minh Thi gấp mấy lần.
Bỗng đổi sắc mặt, Minh Thi phóng luôn hai đao một lúc, Thừa Chí cũng đồng thời tung ra bốn quân cờ đánh hai phi đao rơi xuống đất tức thì. Minh Thi “hừ” một tiếng rồi nói:
– Võ nghệ khá lắm!
Miệng nói, tay không ngừng, ông ta lại phóng ra sáu con đao cùng một lúc. Lúc này muốn ném trúng kẻ đối thủ rất khó, nên Minh Thi mới cố ý ném sáu phi đao ra làm bốn bề tám hướng và nghĩ thầm: “Chẳng lẽ ngươi còn đủ tài đánh rơi bấy nhiêu con đao của ta?”
Mọi người chỉ thấy “vù, keng, vù, keng” sáu tiếng liền. Quả nhiên sáucon đao đó bị mười hai quân cờ của Thừa Chí đánh rơi hết cả. Ôn Minh Thi tức quá, hét lên:
– Giỏi lắm!
Hai tay ông ta lại ném ra sáu phi đao một lúc và đao nào cũng nhắm chỗ yếu huyệt của Thừa Chí mà bay tới. Sáu đao vừa ném xong, ông ta lại phóng tiếp luôn sáu đao nữa. Đó là món tuyệt kỹ bình sinh của ông ta, dù đối thủ có giỏi tới đâu cũng chỉ tránh được sáu con đầu. Minh Đạt là người lão thành biết cân nhắc, ông ta hiểu rõ Thừa Chí là đệ tử của một cao nhân, nên võ công mới tuyệt tác như vậy, nay thấy em Tư mình lại dùng tới đao pháp quá lợi hại như thế, trong lòng hãi kinh, liền kêu lên rằng:
– Tứ đệ, chớ có đả thương tới tính mạnh của y.
Chưa nói dứt lời, ông ta đã thấy Thừa Chí giơ hai tay lên trên không quơ loạn xạ một hồi. Mỗi tay chàng đã bắt được sáu con dao, rồi nhằm giá khí giới ném liên tục, mọi người mới thấy rõ tất cả đao, thương, mâu, khích, cắm trên đó đã bị phi đao chém cụt mất ngọn rồi.
Ngũ lão, bỗng mắt lộ hung quang, đồng thanh hét lớn:
– Ngươi có phải là người của gian tặc Kim Xà phái đến đây không?
Thì ra miếng võ bắt đao vừa rồi của Thừa Chí đã tự học trong cuốn “Kim Xà bí kíp.” Năm xưa, Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi đại chiến phái Thạch Lương, Ôn Minh Sơn đã sử dụng “Liên hoàn thập nhị phi đao” định giết đối thủ nhưng Kim Xà Lang Quân giơ hai tay lên bắt cũng sử dụng thủ pháp đó. Thừa Chí tuy không biết phái Thạch Lương có căm thù với Kim Xà Lang Quân, nhưng chàng vẫn không dám sử dụng võ công trong Kim Xà bí kíp. Nay đột nhiên gặp phải trường hợp nguy hiểm nên trong lúc nguy cấp, chàng không kịp suy tính thuận tay dùng luôn miếng “Thiên Thủ Quan Âm Thâu Vạn Báu” tuyệt kỹ ra bắt đao. Thấy thủ pháp của chàng giống hệt Hạ Tuyết Nghi, Ngũ lão đều nhảy xổ lại và đồng thanh quát tháo.
Đang định trả lời, Thừa Chí thoáng thấy phòng khách bên ngoài có ba người đi qua. Trong đó có một người là Tiểu Tuệ đang bị trói chặt khuỷu tay, do hai tên đại hán dẫn lên đây. Có lẽ nàng bị rơi xuống dưới hầm bị bắt dẫn đến đây. Thừa Chí liền dùng ngay khinh công “Nhứt Hạc Xung Thiên” nhảy thẳng ra phòng khách. Minh Đạt và Minh Nghĩa liền rút khí giới ra đuổi theo.
Không thèm để ý tới địch đuổi mình, Thừa Chí nhảy thẳng tới chỗ Tiểu Tuệ. Hai tên đại hán tay đao tay kiếm vung loạn lên chém thẳng vào người chàng.
Chỉ nghe thấy hai tiếng “coong coong” khí giới của hai tên đại hán đã rời khỏi tay bay ra. Cả hai cùng ngạc nhiên, sợ hãi, vì kẻ hạ khí giới của chúng là cụ chủ Cả và cụ chủ Hai. Đồng thời Minh Đạt và Minh Nghĩa cất tiếng mắng:
– Chúng bây đụt quá! Rõ đồ ăn hại!
Quở trách xong, nhị lão xông lại đánh Thừa Chí và Tiểu Tuệ.
Nhắc lại, vừa rồi Thừa Chí nhanh quá không thèm gạt đỡ đao kiếm của hai tên đại hán, mà luồn qua phía dưới, tới cạnh Tiểu Tuệ, giựt đứt dây thừng đang trói chặt khuỷu tay nàng. Giữa lúc ấy thì hai ông già đuổi tới nơi và bật đỡ trở ra những đao kiếm sắp chém lầm phải mình.
Tiểu Tuệ được cởi trói, mừng quá, liền reo lên:
– Thừa Chí đại ca!
Trong lúc đao kiếm của hai tên đại hán đang bị Nhị lão hất tung lên. Thừa Chí liền cầm quăng dây thừng chàng vừa cởi trói cho Tiểu Tuệ cuốn luôn vào cán thanh kiếm kéo về phía mình, rồi ném luôn cho Tiểu Tuệ và bảo:
– Cầm lấy kiếm!
Chàng buông thõng quãng dây thừng, cây kiếm bay sang phía Tiểu Tuệ nàng giơ tay bắt lấy.
Câu chuyện vừa xảy ra nhanh như chớp nhoáng, Thừa Chí vừa tung cây kiếm cho Tiểu Tuệ xong, thì hai cây kích của Minh Đạt đã đâm tới mặt chàng. Giữa lúc ấy mọi người đều nghe thấy hai tiếng kêu “ối chà!” Thì ra thấy hai tên đại hán đứng đó làm vướng chân vướng cẳng mình, Minh Nghĩa tức quá liền đá cho chúng mấy cái. Cả hai tên đại hán đều ngã bắn kêu oái. Còn Thừa Chí chàng vẫn đứng yên, chỉ ngửa người về phía sau là hai cây kích của Minh Đạt đã đâm hụt. Minh Đạt đang định tiến lên để đưa thẳng song kích vào người kẻ địch nhưng chưa kịp lấy sức để bồi thêm miếng nữa thì ông ta đã thấy song kích của mình đã bị quãng dây của Thừa Chí cuốn chặt và lôi đi.
Chợt nảy ra ý kiến định mượn sức địch để đánh lại địch, Minh Đạt liền nương sức đâm thẳng song kích vào người Thừa Chí. Né mình sang một bên để tránh, Thừa Chí liền giựt một cái, rồi buông thõng quãng dây ngay. Trong lúc xuất kỳ bất ý, Minh Đạt không kịp thu lại thế tiến loạng choạng vài bước suýt ngã về phía trước. Lợi dụng lúc ấy Thừa Chí đã kéo tay Tiểu Tuệ nhảy vào trong Luyện Võ sảnh đứng yên. Minh Đạt giận quá, mặt đầy sát khí, lấy tay dằng mạnh một cái đã giựt đứt quãng dây cuốn chặt song kích, rồi nhảy vào trong Luyện Võ sảnh và đứng sau lưng Ngũ lão.
Ôn Minh Đạt tay trái cầm song kích, tay phải chỉ vào mặt Thừa Chí, quát hỏi:
– Tên Kim Xà gian tặc hiện nay ở đâu? Nói mau!
Thừa Chí bình tĩnh trả lời:
– Xin lão tiền bối hãy khoan nổi giận, muốn hỏi chuyện gì, cháu cũng xin thưa.
Ôn Minh Nghĩa giận dữ hỏi:
– Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi là người thế nào với cậu? Hiện giờ y ở đâu? Có phải hắn sai cậu tới đây không?
– Thưa lão tiền bối. Cháu chưa hề gặp mặt ông ta bao giờ vậy làm sao mà sai cháu tới đây được.
Ôn Minh Sơn hỏi:
– Cậu nói thật không?
– Cháu nói dối các cụ làm gì? Trong khi đi thuyền, tình cờ cháu gặp được chú Ôn Thanh. Vì hợp tánh, hợp tình nên chúng cháu mới kết giao làm bạn. Quả thật, cháu có biết Kim Xà, Ngân Xà là ai đâu?
Tuy Ngũ lão hơi nguôi cơn giận nhưng vẫn còn hoài nghi, Minh Đạt lại hỏi:
– Nếu cậu không nói rõ chỗ ẩn núp của Kim Xà gian tặc thì ngày hôm nay cậu đừng có hòng ra khỏi đất Thạch Lương này.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Cậy có chút võ nghệ như các ông thì giữ sao nổi được tôi cơ chứ!”
Tuy trong bụng nghĩ như vậy, bề ngoài chàng vẫn cung kính trả lời:
– Cháu với Kim Xà Lang Quân, vô cố vô thân, thậm chí chưa hề gặp nhau bao giờ. Nhưng cháu biết chỗ ở của ông ta. Chỉ sợ ở đây không có người nào dám tới gặp ông ta thôi!
Lửa giận lại bốc lên, Ngũ lão cũng nói:
– Ai bảo không dám nào? Trong mười mấy năm nay, lúc nào chúng tôi cũng để tâm tìm kiếm hắn. Năm anh em chúng tôi dù có phải chết vì tay hắn, dù phải đi tớn tận chân trời, góc biển nào cũng mặc, nhưng quyết tâm tìm cho được hắn mới thôi. Vậy hắn ở đâu?
Thừa Chí tủm tỉm cười, trả lời:
– Các cụ muốn tìm gặp ông ta thật ư?
Minh Đạt tiến lên một bước nói:
– Phải.
Thừa Chí cười hóm hỉnh:
– Gặp ông ta chả có ích lợi gì đâu!
Ôn Minh Đại nói:
– Nầy cậu bạn nhỏ kia, ai nói đùa với cậu làm gì? Cậu nói mau đi?
– Các cụ còn tráng kiện thế này ít ra cũng phải sống thêm vài năm nữa mới gặp ông ta được. Ông ta chết rồi!
Thừa Chí vừa dứt lời, mọi người đều ngẩn người ra, Ôn Thanh, Ôn Minh Sơn nổi giận mắng liền:
– Thật là tiền oan nghiệp chướng!
Minh Nghĩa nói với Ôn Thanh:
– Thanh Thanh, cháu đỡ má vào trong kia đi! Đừng có ở đây bêu xấu, để người ta cười cho.
Ôn Thanh khóc òa lên, trả lời:
– Bêu xấu cái gì? Má cháu nghe cha cháu đã mất, tất nhiên phải đau đớn chứ!
Thừa Chí giật mình kinh ngạc nghĩ thầm: “Người đàn bà đẹp ấy là vợ của Kim Xà Lang Quân! Vậy Ôn Thanh là con ông ta chắc?”
Minh Nghĩa thấy Ôn Thanh cãi lại mình trước mặt mọi người còn gì nhục nhã bằng, nghiến răng cồm cộp, nói với Minh Đạt:
– Đại ca, nếu anh còn nuông chìu con nhãi ranh này, em sẽ dạy bảo nó đấy!
Minh Đạt quát mắng Ôn Thanh:
– Ai là cha mầy? Có đi vào nhà trong ngay không?
Ôn Thanh đỡ mẹ, từ từ đi vào nhà trong. Lúc đó người đàn bà đã tỉnh lại dần, khẽ bảo Ôn Thanh:
– Con mời Viên tướng công tối mai đến chơi. Má muốn hỏi chuyện cậu ta.
Ôn Thanh gật đầu nói với Thừa Chí:
– Còn một ngày nữa. Tối mai anh hãy trở lại, xem anh có thể lấy trộm được số vàng đó không?
Nói xong, Ôn Thanh lườm Tiểu Tuệ với một vẻ tức tối, rồi đỡ mẹ vào nhà trong.
Thừa Chí bảo Tiểu Tuệ rằng:
– Ta đi thôi!
Hai người quay trở ra. Ôn Minh Ngô đứng giữa cửa giơ tay ra cản lại:
– Hãy khoan đã! Chúng tôi muốn hỏi cậu.
Thừa Chí chắp tay vái chào:
– Thưa cụ hôm nay muộn lắm rồi. Cụ cho phép tối mai cháu sẽ trở lại thăm các cụ.
– Tên gian tặc Kim Xà Lang Quân chết ở đâu? Có ai trông thấy hắn chết không?
Nghĩ tới cái chết thảm thương của vị hòa thượng bị Trương Xuân Cửu đâm trộm, Thừa Chí nghĩ thầm: “Chắc họ cũng muốn được hưởng các di vật của Kim Xà Lang Quân, vậy ta không thể nói rõ cho họ biết được.”
Chàng liền trả lời:
– Thưa cụ, tin này do các bạn nói cho cháu biết. Hình như Kim Xà Lang Quân chết trên một hòn đảo ở tận ngoài khơi tỉnh Quảng Đông.
Năm anh em họ Ôn nhìn nhau một lúc tỏ vẻ ngạc nhiên. Thừa Chí lại bảo thầm: “Các ngươi cứ việc ra ngoài khơi tỉnh Quảng Đông tìm kiếm đi!”
Nghĩ xong, chàng chào mọi người:
– Cháu xin thất lễ.
Ôn Minh Ngô vội cản lại:
– Khoan! Vội vàng làm gì?
Minh Ngô muốn hỏi cho thật rõ mới thôi liền giơ tay ra cản nhưng Thừa Chí đã đẩy lui hai cánh tay của ông già. Minh Ngô vội vã dùng cổ tay móc lại định bắt Thừa Chí. Nhưng ý chàng không muốn đánh nữa, chỉ chờ cho Minh Ngô buông tay xuống, có chỗ trống là kéo Tiểu Tuệ đi liền.
Đột nhiên, thấy “vù” một tiếng, chàng nhảy vụt đi thẳng, không đụng chạm đến quần áo kẻ địch. Nổi giận, Minh Ngô rút luôn roi da bò ra, nhắm sau lưng Thừa Chí đánh tới. Thấy phía sau có tiếng gió, Thừa Chí vội xách Tiểu Tuệ, nhảy về phía trước tránh được ngọn roi đó. Chẳng cần quay đầu lại, cố nhảy lên bờ tường chạy thẳng. Minh Ngô luyện chiếc roi đó đã mấy chục năm trời, khi nào lại chịu để Thừa Chí đi thoát một cách dễ dãi như thế, liền vụt chiếc roi lên quấn lấy chân Tiểu Tuệ. Vì biết rõ Tiểu Tuệ võ nghệ kém hơn, tất nhiên không thể nào tránh khỏi, nên Minh Ngô định lôi cho được Tiểu Tuệ ngã xuống như vậy cũng gỡ lại được chút sĩ diện, Minh Ngô mới thi hành chính sách “tỵ thực tựu hư” (tránh kẻ mạnh, đánh kẻ yếu) là thế. Đang ở trên không, Thừa Chí nghe thấy tiếng gió, liền giơ tay trái bắt luôn ngọn roi, và dùng sức kéo mạnh một cái, thế là Minh Ngô cũng bị lôi lên trên cao. Mục kích rõ ràng khi còn đang lơ lửng trên không, chẳng nhờ đâu mượn sức được, thế mà Thừa Chí cũng kéo nổi Minh Ngô lên, các người nhà họ Ôn đều giựt mình sợ hãi và thầm phục tài chàng.
Minh Thi vội vàng ném hai chiếc phi đao lên, nhằm đúng giữa lưng Thừa Chí, mục đích cứu em Năm, chớ không định giết đối thủ. Thừa Chí phải buông roi ra, rồi kéo Tiểu Tuệ ra ngoài bờ tường, đồng thời lấy chân khẽ gạt phi đao. Bị gạt, hai chiếc phi đao quay trở lạ, rơi xuống đầu Minh Ngô lúc đó vừa bị ngã ngồi, biết không thể đứng dậy tránh kịp, liền quất luôn roi da vào hai chiếc phi đao ấy. Ngờ đâu, roi da đã bị Thừa Chí dùng nội lực dứt nhưng chưa đứt hẳn, nay đụng vào phi đao roi da đứt ra từng đoạn một, còn phi đao vẫn rơi xuống. Sợ quá Minh Ngô phải lăn sang một bên để tránh. Nhưng vì hơi chậm một chút, ông ta chỉ tránh được một con thôi, còn một con đã đâm thủng vạt áo. Khi đứng dậy, người ông ta toát đẫm mồ hôi lạnh, sợ đến nỗi không nói được nửa lời. Minh Đạt cứ lắt đầu thở dài, còn mọi người khác đều lo sợ thầm.
Minh Nghĩa nói:
– Coi thằng nhỏ tuổi chỉ độ 20 là cùng. Dù nó bắt đầu luyện từ trong bụng mẹ nó đi chăng nữa, thì nó cũng chỉ có 20 năm công lực thôi. Nhưng không hiểu sao võ nghệ và nội công của nó lại lợi hại đến thế được?
Minh Sơn nói:
– Lợi hại như Kim Xà gian tặc, mà còn thua anh em mình! Tối mai, thằng nhãi con thế nào cũng trở lại, anh em ta phải cẩn thận lắm mới được.
Thừa Chí và Tiểu Tuệ về tới nhà trọ, Tiểu Tuệ cứ khen lấy khen để tài ba xuất chúng của Thừa Chí. Nàng nói:
– Thôi sư huynh cứ khen ngợi mãi sư phụ anh ta giỏi lắm. Nhưng em dám chắc sư phụ anh ấy cũng không thể nào giỏi bằng anh được.
Thừa Chí hỏi:
– Thôi sư huynh tên là gì? Ai là sư phục của anh ta?
– Tên anh ấy là Thôi Hy Kính, biệt hiệu là Ngọc Diện Kim Cương. Sư phục anh ta là môn đồ của phái Hoa Sơn, đồ đệ của Mộc lão tổ sư. Tên là gì em không hỏi, chỉ biết hiệu của ông ta là “Đồng Bút Thiết Toán Bàn” Anh coi biệt hiệu ấy có ngộ nghĩnh buồn cười không?
Thừa Chí gật đầu, nghĩ thầm: “Không ngờ y lại là đồ đệ của đại sư huynh ta. Như vậy, y phải gọi ta là sư thúc mới phải.”
Tuy nghĩ thế nhưng chàng không nói rõ cho Tiểu Tuệ biết. Sau đó, người nào trở về giường người ấy yên nghỉ.
Tối hôm đó, Thừa Chí dặn Tiểu Tuệ ở lại nhà trọ chờ đợi, Tiểu Tuệ tự biết võ nghệ của mình kém quá, có đi thì cũng chỉ thêm vướng chân vướng tay, và còn làm bận lòng Thừa Chí phải để ý đến mình luôn. Tuy không bằng lòng, nhưng nàng vẫn phải nghe lời. Chờ tới canh hai, Thừa Chí đi theo lối cũ tới thẳng nhà họ Ôn. Thấy bốn bề đen như mực, không có một chút ánh sáng đèn nến nào cả, chàng đang định phi thân vào bên trong bỗng nghe thấy ở đằng xa có ba tiếng tiêu. Một lát sau, chàng lại nghe thấy ba tiếng như thế nữa. Chàng hiểu ngay đó là ám hiệu của Ôn Thanh gọi mình. Chàng liền quay sang phía núi, nơi trồng hoa hồng mà bữa nọ Ôn Thanh đã thổi tiêu cho chàng nghe. Lên tới sườn núi, chàng đã trông thấy từ đằng xa có hai bóng người ngồi trong đình. Khi tới gần, chàng mới thấy rõ hai người ấy đều là đàn bà cả.
Một người thổi tiêu, đang khẽ thổi khúc điệu mà bữa nọ Ôn Thanh đã thổi cho chàng nghe. Ngạc nhiên vô cùng, chàng liền từ từ đi tới. Người nọ để ống tiêu xuống, chạy ra đón. Nhìn kỹ bộ mặt, chàng mới hay người thiếu nữa đó chính là Ôn Thanh, ngẩn người trong giây phút, chàng mới ú ớ nói:
– Em em là
Ôn Thanh mỉm cười trả lời:
– Vâng, thân em chính phận gái. Cứ giấu đại ca mãi, xin đại ca thứ lỗi cho nhé?
Nói xong, nàng chắp tay vái chào. Thừa Chí cúi đầu trả lễ. Bao nhiêu vấn đề, chàng hồ nghi trước kia đến bây giờ thấy Ôn Thanh ăn mặc nữ trang chàng mới khỏi thắc mắc. Chàng nghĩ thầm: “Trước kia ta cứ trách nàng, tánh nết và cử chỉ như con gái chẳng có chí khí trượng phu gì cả. Thì ra nàng là con gái thật sự.”
Ôn Thanh nói:
– Tên thật của em là Ôn Thanh Thanh đấy ạ.
Nói xong nàng cầm khăn che miệng cười. Thấy nàng ăn mặc nữ trang sắc đẹp vô song, chàng trách mình quá hồ đồ và quá thật thà, nên mới bị nàng đánh lừa được. Vào địa vị người khác, nếu chung đụng bấy lâu tất nhiên nhận ngay ra nàng là một thiếu nữ.
Ôn Thanh Thanh lại nói:
– Má em ngồi trong đình kia, có mấy lời muốn hỏi anh đấy.
Bước vào trong đình, chàng cúi đầu chào má Thanh Thanh:
– Chào bác, cháu là Viên Thừa Chí xin bái kiến.
Người đàn bà đứng tuổi vội đứng lên đáp lễ:
– không dám mời công tử ngồi
Thấy sắc mặt sầu thảm của người đàn bà chắc trong lòng bà ta đau đớn lắm. Chàng lẳng lặng ngồi xuống, trong óc suy nghĩ: “Theo lời Thanh Thanh nói với bà ta bữa nọ thì má nàng đã bị một kẻ bất lương hãm hiếp rồi sinh ra nàng. Người bị gọi là kẻ bất lương tất nhiên chính là Kim Xà Lang Quân rồi. Xem sắc mặt của Ngũ lão thì họ có vẻ ghét Kim Xà Lang Quân thậm tệ, cho nên Thanh Thanh vừa nhắc tới chuyện cha nàng, đã bị ngay ông già Hai mắng cho một trận. Còn má nàng, nghe tin Kim Xà Lang Quân đã tạ thế liền ngã ra chết giấc. Xét bề ngoài như vậy, tất nhiên trong lòng bà ta phải yêu chồng một cách thiết tha. Vậy bên trong chắc có ẩn tình gì đây. Ta phải nghĩ cách an ủi bà ta mới được.”
Má Thanh Thanh ngồi yên lặng giây lát rồi khẽ hỏi:
– Hắn Hắn đã chết thật ư? Viên tướng công có được mục kích không?
Thấy Thừa Chí gật đầu, bà ta lại nói:
– Viên tướng công rất quý cháu Thanh Thanh, tôi biết lắm. Tôi không như các ông ngoại hoặc chú bác nó, coi cậu là kẻ thù đâu. Xin cậu hãy kể lại tình hình lúc cha cháu sắp chết cho tôi nghe.
Sau khi đọc được võ nghệ trong cuốn Kim Xà bí kíp, Thừa Chí coi Kim Xà Lang Quân như một trong các thầy dạy mình, và không còn xem thường ông ta như lúc đầu mà sư phụ chàng và Mộc Tang đạo nhân là Kim Xà Lang Quân là người đứng giữa haiphe chánh và tà. Vì thế hôm trước khi nghe thấy Ngũ lão gọi Kim Xà Lang Quân là gian tặc, chàng tức giận vô cùng. Nay thấy má Thanh Thanh hỏi, chàng nhanh nhẩu đáp:
– Cháu chưa hề được gặp Kim Xà Lang Quân, nhưng nói cho đúng ra, thì cháu cũng là đồ đệ của ông ta, vì cháu đã học được ông ấy rất nhiều miếng võ. Còn tình hình sau khi ông ta chết như thế nào, xin lỗi bác, cháu không thể cho bác biết được vì cháu sợ có kẻ manh tâm nghe lỏm được, sẽ cho đào mả ông ta.
Chưa nghe hết lời của Thừa Chí, má Thanh Thanh đã loạng choạng ngã ngửa người ra phía sau, Thanh Thanh vội ôm lấy mẹ và kêu gọi:
– Má ơi! Má tỉnh lại đi!
Một lát lâu, má Thanh Thanh dần dần hồi tỉnh, vừa khóc vừa nói:
– Tôi chịu khổ chịu nhục cũng chỉ mong chờ cha cháu về đón mẹ con tôi rời khỏi chốn này. Chờ đợi suốt mười tám năm liền nhưng vẫn tuyệt vô âm tích, đến nay mới hay tin là cha cháu đã quy tiên trước tôi rồi. Còn Thanh Thanh chưa từng được trông thấy mặt cha nó bao giờ!
Thừa Chí nói:
– Xin bác chớ nên nghĩ ngợi làm gì cho thêm đau lòng. Hiện giờ Hạ lão tiền bối đã nằm nghỉ yên dưới chín suối rồi. Chính tay cháu đã cải táng xương cốt cho lão tiền bối.
Má Thanh Thanh nói:
– Ơn đức này chúng tôi không biết lấy gì để đền đáp tướng công!
Vừa dứt lời, bà ta liền đứng dậy, chắp tai vái chào Thừa Chí và nói tiếp:
– Thanh Thanh, con mau mau quỳ xuống lạy tạ Viên đại ca đi!
Thấy Thanh Thanh quỳ, Thừa Chí cũng lật đật quỳ xuống đáp lễ. Má Thanh Thanh lại hỏi:
– Chẳng hay nhà tôi có để lại di thư cho chúng tôi không?
Nghe nói, chàng mới sực nhớ tới bức địa đồ mà chàng đã tìm thấy ở phía trong tờ bìa cuốn Bí Kíp bên góc bản đồ đã có ghi chú rõ ràng mấy câu đây: “Người được hưởng kho báu, xin đến tỉnh Triết Giang, phủ Từ Châu, làng Thạch Lương, tìm nàng Ôn Nghi rồi trao tặng nàng 100 nghìn lạng vàng kia hộ tôi.” Vì Thừa Chí không có tính tham của nên khi xem xong, chàng tiện tay nhét vào hành trang chớ không để ý tới nữa. Lúc ấy trong bụng chàng nghĩ rằng: “Tài ba như Kim Xà Lang Quân mà vẫn phải chết tại núi hoang và suýt nữa thì không một ai chôn cất giùm. Rất có thể ông ta bị mang họa cũng tại số vàng kếch sù ấy cũng nên!” Vì thế, chàng không thèm để ý gì tới bức bản đồ ấy nữa.
Bây giờ, thấy mẹ Thanh Thanh hỏi tới, chàng mới nhớ ra, liền hỏi:
– Cháu hỏi thế này hơi vô lễ một chút nhưng xin bác hãy thứ lỗi cho. Chẳng hay tên bác có phải là Nghi không?
Mẹ Thanh Thanh giựt mình, trả lời:
– Phải! Sao cậu lại biết? Trong di thư có nói đến tôi phải không? Cậu có mang theo đấy chớ?
Đang định trả lời, bỗng nhiên chàng nhảy vượt qua lan can ra bên ngoài. Thanh Thanh và mẹ nàng đều hoảng sợ. Hai người vừa nghe có tiếng kêu “ối trời!” đã thấy Thừa Chí từ trong bụi cây bước ra, tay túm cổ một người. Người đó đã bị chàng điểm huyệt nên tứ chi không cử động được. Đi tới phía trước đình, Thừa Chí ném tên nọ xuống đất. Thanh Thanh vừa trông thấy hắn liền la lên:
– Ô kìa, bác Bảy!
Ôn Nghi thở dài một tiếng, nói với Thừa Chí:
– Viên tướng công, hãy tha cho hắn! Trong gia đình họ Ôn này, không một ai coi mẹ con chúng tôi là người nhà cả!
Nghe thấy lời nói của bà ta bi đát quá, Thừa Chí liền giơ tay ra và xoa những huyệt của người kia. Lúc người ấy tỉnh dậy, chàng mới nhận ra hắn là Ôn Nam Dương mà hôm qua đã giao chiến với mình. Y là đứa con của Minh Nghĩa, xếp hạng bảy trong các anh em cùng một vai vế. Thanh Thanh nổi giận nói:
– Bác Bảy, sao bác lại tới đây nghe trộm chúng tôi nói chuyện? Như thế còn ra cái thể thống gì nữa!
Hắn định giở mặt, nhưng trông Thừa Chí đứng đó, y hậm hực nói to lên:
– Mẹ nào con nấy có khác. Mình chim trai đã hư hỏng rồi lại còn dạy cả con gái chim trai nữa!
Bị những câu nói mỉa, Ôn Nghi xấu hổ và đau lòng quá, hai hàng lệ tuôn rơi lả chả. Thanh Thanh không thể nhịn được liền rút kiếm ra đuổi theo và quát lớn:
– Nầy bác Bảy, đứng lại, sao bác lại nói tầm bậy tầm bạ như vậy?
Nam Dương ngừng bước quay lại mắng:
– Con khốn nạn này muốn phản chăng? Các ông bảo tao tới đây, mày làm gì tao nào?
– Bác muốn bảo gì thì cứ việc đường hoàng mà nói. Tại sao lại lén lút nghe trộm chúng tôi nói chuyện như thế?
Nam Dương cười nhạt:
– Chúng tôi? Không biết ở đâu lòi ra cái thằng đàn ông mọi rợ này mà mầy dám tự xưng chúng tôi, chúng nó như thế? Thật là sĩ diện và danh giá của 18 đời nhà họ Ôn này đã bị mẹ con mầy làm mất hết cả.
Giận đến nỗi hai con mắt đỏ ngầu, Thanh Thanh quay lại nói với Ôn Nghi:
– Má, má đã nghe thấy bác ấy nói chưa?
Ôn Nghi khẽ nói:
– Anh bảy, anh hãy lên đây, em có chuyện muốn nói với anh.
Ngẫm nghĩ giây phút, Nam Dương ngang nhiên đi thẳng vào trong đình. Ôn Nghi nói tiếp:
– Đời của em và cháu nó rất đáng tội nghiệp. Cũng may, được năm vị chú bác và các anh em thương hại, cho nên em với cháu nó mới được ở lại nhà họ Ôn này mười mấy năm. Câu chuyện của em với người họ Hạ, cháu Thanh Thanh không hay biết một tí gì. Nay người đó đã khuất mà câu chuyện đó anh lại hiểu rất rõ. Vậy tiện đây, xin anh làm ơn kể hộ cho Thanh Thanh và Viên tướng công nghe.
Nam Dương bực tức nói:
– Tôi không được rảnh, việc của cô thì cô phải kế lấy, quý hồ cô nương không sợ xấu hổ là được rồi.
Ôn Nghi thở dài rồi nói:
– Thôi được, để em kể cũng không sao! Vì chú đã được người ta cứu cho khỏi chết tưởng rằng anh còn có chút lòng nhớ tới ơn ấy nên em mới nhờ anh kể chuyện lại hộ. Không ngờ người nhà họ Ôn hầu hết đều vong ơn bội nghĩa.
Nam Dương nổi giận:
– Phải, y có cứu tôi khỏi chết thật. Nhưng tại sao y lại chịu cứu tôi? Thôi được, để tôi nói rõ đầu đuôi câu chuyện cho mọi người được hay, khỏi phải để cô kể lại thêm đuôi thêm cánh vào lại sai hết cả câu chuyện. Người họ Viên kia và cả cháu Thanh Thanh nữa, bây giờ tôi xin kể hết tại sao lại quen biết Kim Xà gian tặc cho mà nghe.
Các người sẽ thấy lòng của gian tặc hiểm độc như thế nào!
Thanh Thanh nói:
– Bác nói xấu cha cháu, cháu không nghe đâu!
Nói xong, nàng lấy hai tay bịt tai, Ôn Nghi nói:
– Thanh Thanh, con cứ nghe đi. Cha con tuy không tốt thiệt nhưng còn khá hơn người nhà họ Ôn trăm nghìn lần.
Ôn Nam Dương cười nhạt nói:
– Chắc cô đã quên rằng cô cũng họ Ôn phải không? Năm tôi hai mươi mốt tuổi nghĩa là cách đây 20 năm, cha tôi sai tôi đi Dương Châu giúp chú Sáu.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Thì ra anh em nhà họ Ôn tất cả những sáu người cơ đấy!”
Ôn Nam Dương lại tiếp tục nói:
– Khi tới Nam Dươong, tôi không gặp chú Sáu. Một đêm, tôi nhúng tay vào một vụ án rồi không may bị bắt.
Ôn Nghi hỏi kháy:
– Sao anh không nói rõ đã nhúng tay vào vụ án gì?
– Nam nhi đại trượng phu dám làm chẳng lẽ không dám nói ư? Một hôm, tôi trông thấy một người con gái đẹp lắm. Đêm đến, tôi nhảy qua bờ rào định hái hoa. Vì nàng ta không chịu nên tôi giết chết nàng. Trước khi tắt thở, nàng còn lên tiếng kêu cứu. Ngờ đâu tiếng kêu cứu đó lọt đến tai mấy tên võ sư. Họ bổ tới bao vây. Vì địch không nổi bấy nhiêu người nên tôi bị bắt tức thì.
Thấy y kể lại thủ đoạn đi hái hoa thật đê hèn xấu xa như vậy mà y không có vẻ gì xấu hổ cả, Thừa Chí phải rùng mình kinh hãi. Nam Dương lại nói:
– Chúng điệu tôi nộp lên quan. Bị giam trong tù lao, tôi không biết sợ là gì cả vì tôi nghĩ rằng chú Sáu ở đất Dương Châu vô địch cả hai bên bờ Giang Nam và Giang Bắc nếu chú ấy biết tôi bị bắt, thế nào cũng đến cứu, nhưng đợi mãi mà vẫn không thấy chú Sáu đến cứu. Rồi công văn ở tỉnh gởi xuống phán trảm huyết tôi ngay tại chỗ. Thấy ngục tốt cho hay tin đó, tôi mới sợ hãi vô cùng.
Thanh Thanh xen vào:
– Cháu tưởng bác không biết sợ là gì?
– Ba hôm sau thấy ngục tốt bưng vô một mâm thịt và một bát rượu lớn, tôi biết ngay ngày mai phải bị xử huyết rồi. Tôi không sợ chết, chỉ tiếc thân mình còn trẻ là đã phải lìa bỏ cõi trần thôi. Ăn uống xong no say, tôi nằm lăn ra ngủ. Nửa đêm, bỗng có người khẽ vỗ vai tôi, tôi ngồi nhổm dậy và nghe thấy người đó rỉ tai tôi: “Yên lặng tôi sẽ cứu cho!” Y có cầm một con dao thật bén, chặt đứt xiềng xích ở chân tay tôi rồi cõng tôi vượt ngục đến một cái miếu cổ ở ngoại thành. Người đó khinh công giỏi, sức lại khoẻ, nên cứu tôi một cách dễ dàng mà không một ai hay biết cả. Tới khi y thắp sáng ngọn nến trên bàn thờ tôi mới biết y trẻ hơn tôi và đẹp trai lắm! Hừ!
Nói tới đây, Nam Dương ngừng lại đưa mắt lườm Ôn Nghi và Thanh Thanh rồi mới nói tiếp:
– Tôi cúi chào cám ơn nhưng y kiêu ngạo lắm, không thèm trả lễ tôi và chỉ nói rằng: “Tôi họ Hạ. Anh là người họ Ôn, phái Thạch Lương phải không?” Tôi gật đầu. Lúc ấy tôi mới thấy võ khí của hắn là một thanh kiếm chứ không phải con đao, nhưng hình dáng thanh kiếm đó kỳ lạ lắm.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Chắc là thanh kiếm Kim Xà mà ta tìm được.”
Nam Dương lại kể tiếp:
– Tôi hỏi y tên là gì? Thì y trả lời: “Anh không cần biết tới. Thế nào sau này thì anh cũng không cảm ơn tôi đâu!” Thấy y nói, tôi ngạc nhiên quá. Trong bụng tôi nghĩ: “Y đã cứu ta tất nhiên ta phải chịu ơn y suốt đời chớ?” Y lại nói: “Tôi vì chú Sáu anh nên mới cứu anh ra. Vậy anh hãy theo tôi.” Tôi theo y đi tới một con sông đào cùng lên một chiếc thuyền, rồi y bảo người lái đò cho thuyền xuôi xuống miền Nam. Khi đi khỏi Dương Châu được mười mấy dặm, tôi mới yên tâm. Một lát sau thấy người đó cầm chiếc dục Nga Mi giống y hệt của chú Sáu tôi, tôi nghĩ thầm:”Cái đó là ám khí để phòng thân của chú Sáu. Tại sao người này lại có?” Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, y nói: “Chú Sáu anh là bạn của tôi, hà, hà, hà!” Nghe thấy tiếng cười ghê rợn của y, tôi run mình sờn gáy. Y lại nói: “Đây có một cái hòm, anh làm ơn đem về nhà anh hộ tôi. Còn lá thơ này, anh đưa hộ cho các bác, các chú anh đọc.” Nói xong, y lấy tay chỉ vào trong khoang thuyền. Tôi thấy một cái hòm thật lớn, xung quanh có đóng nẹp sắt rất kỹ lưỡng bên ngoài còn buộc thêm dây thừng. Y nói: “Anh phải về nhà ngay. Giữa đường đừng có dừng lại và đưa ngay cái hòm này cho các bác, các chú anh ngay. Và phải bảo các ông ấy mở, chớ đừng để cho người ngoài đụng tới!” Tôi nhận lời ngay. Y lại nói: “Trong vòng một tháng, tôi sẽ tới thăm vậy anh báo cho các người bề trên anh biết để họ chờ đợi đón tiếp tôi.” Nghe lời nói nửa úp nửa mở của y, tôi không hiểu biết gì cả nhưng vẫn cứ gật đầu nhận lời. Vừa dặn bảo tôi xong, y liền cầm cái mỏ neo lên, hai tay bẻ mạnh một cái, bốn cá móc đất của chiếc mỏ neo gãy ngay tám đoạn.
Nghe tới đây, Ôn Thanh Thanh bỗng reo một tiếng:
– Hay!
Nam Dương nhổ luôn đống nước miếng xuống đất. Thanh Thanh rất ưa vệ sinh, thấy Nam Dương nhổ bậy làm dơ bẩn như vậy, vẻ không vui hiện ngay lên trên nét mặt. Biết ý nàng, Thừa Chí dùng chân chùi ngay đống đàm ấy đi, Thanh Thanh khẽ gật đầu tỏ vẻ khen ngợi và bằng lòng. Ôn Nam Dương tiếp tục nói:
– Y tỏ sức khỏe tôi xem, tôi không biết có dụng ý gì. Chỉ thấy y ném cái neo gãy vào trong khoang thuyền, rồi y nói: “Nếu anh không làm theo lời dặn của tôi, thì anh sẽ bị như cái neo này đấy!” Y lại móc túi lấy ra một nén bạc, vứt xuống ván thuyền và nói rằng: “Đây là tiền lộ phí của anh.” Nói xong, y nhổ hai cái sào bên tay trái vừa cắm xuống nước người y đã nhảy cao lên, rồi lại cắm chiếc sào bên tay phải xuống đáy sông, đồng thời y rút chiếc sào bên tay trái lên và lại cắm luôn về phía trước. Chỉ có mấy động tác như thế, y tựa như đi trên không, chống bằng hai cái sào mà sang tới bên kia sông. Lúc tới bờ, y gọi: “Đỡ lấy!” Vừa dứt lời, y đã lao hai chiếc sào tới chỗ trước mặt tôi. Tự lượng sức mình kém quá, tôi không dám bắt hai chiếc sào đó. Chỉ nghe thấy “bộp, bộp” hai tiếng, hai chiếc sào đã lần lượt cắm vào mũi thuyền. Sợ quá tôi đành nín lặng. Nghe thấy tiếng cười dài như tràng pháo nổ, tôi nhìn lên bờ thì hình bóng y đã khuất trong bóng tối rồi.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Kim Xà Lang Quân sử xự cũng khí khái hào hiệp thật!”
Còn Thanh Thanh thì lên tiếng khen ngay:
– Người đó thật là một vị anh hùng hào kiệt!
Ôn Nam Dương đáp:
– Hừ! Anh hùng cái quái gì? Lúc ấy tôi vẫn coi y là người ân nhân đã cứu tôi khỏi chết nhưng mỗi khi nhìn thấy đôi mắt lộ hung quang của y thì tôi có cảm tưởng là y rất ghét tôi. Tôi lại nghĩ đó chỉ là một tánh nết kỳ lạ của y thôi, cho nên tôi không để ý tới. Từ đó về tới nhà, tôi phải sang một lần đò nữa. Dọc đường, các phu khiêng gánh chiếc hòm ấy đều kêu nặng lắm. Tôi đoán chắc trong hòm phải chứa đựng nhiều trân châu báu vật mà chú Sáu đã cướp bóc được của người ta nên mới nặng nề như thế. Ta vất vả vận tải về, thế nào các bác, các chú chả chia thêm cho một phần. Càng nghĩ tôi càng khoái trí. Về tới nhà, các bác các chú đều khen tôi tài giỏi và bảo lần đầu tiên đi kiếm ăn mà tôi đã làm được một việc lớn như thế thật khá lắm.
Thanh Thanh nói xen vào:
– Phải khá lắm! Cho một thiếu nữ đem về những một hòm lớn châu báu cơ mà!
Ôn Nghi mắng liền:
– Thanh Thanh, im mồm, để nghe bác kể chuyện!
Nam Dương lại kể:
– Tối hôm đó, trong khách sảnh đèn đuốc sáng choang, bốn tên gia đinh khiêng cái hòm ra. Cha tôi và bốn vị chú bác ngồi ở giữa, tôi ra tay cởi dây thừng và nhổ từng chiếc đinh ra. Lúc ấy, tôi nhớ lắm, bác cả vừa cười vừa nói: “Chắc chú Sáu mê con nhỏ nào chưa chịu bỏ nên mới sai cháu Dương áp tải hòm đồ này về đấy! Nào, tất cả lại đây xem trong hòm đựng những châu báu gì?” Tôi mở nắ hòm ra, thấy trên có phủ một tờ giấy, mặt tờ giấy có một lá thơ đề rằng: “Năm anh em họ Ôn hãy cùng bóc raxem.” Mấy chữ đó đẹp lắm nhưng không phải bút tích của chú Sáu. Tôi đưa ngay phong thơ cho bác cả nhưng bác không bóc xem, chỉ nói: “Xem bên dưới là cái gì đã?” Tôi bóc lượt giấy trên ra, thấy bên dưới có một gói vuông vắn, khâu kỹ lưỡng lắm. Bác cả nói: “Thím Sáu, thím cầm kéo lại đây cắt gói đồ ra xem. Sao lần này chú Sáu lại khâu kỹ lưỡng và cẩn thận đến thế?” Thím Sáu cắt đứt các đường chỉ xong vừa mở gói đồ ra bỗng có bảy, tám mũi tên độc bắn ra.
Thanh Thanh sợ hãi rú lên một tiếng.
Thừa Chí nghĩ: “Đó là thói quen của Kim Xà Lang Quân.”
Ôn Nam Dương nói:
– Bây giờ nghĩ ra, thật là cám ơn ông Trời có mắt. Nếu tôi nóng nảy mà tranh mở gói đồ ra thì tánh mạng của tôi có còn nữa không? Mấy mũi tên độc đó đều xuyên cả vào mình mẩy thím Sáu. Thứ thuốc bôi trên mũi tên độc lắm, thấy máu là phong hầu tức thì. Người của thím Sáu cứ tím dần đi. Và không thấy thím ấy rên rỉ nửa lời. Thím ấy ngã lăn ra chết liền.
Nói tới đây, y quay lại đay nghiến Thanh Thanh:
– Đó là thành tích tốt mà cha mày tạo ra đấy. Thấy thím Sáu chết một cách bất ngờ như vậy, mọi người hoảng sợ. Chú Năm nghi tôi lập mưu nên bắt buộc tôi phải mở gói đồ, tôi sợ quá nhưng không biết làm sao đành phải đứng thật xa, cầm cái cây thật dài để mở gói đồ. Nhưng lần này không có gì bắn ra nữa. Trong đó đựng những bửu bối gì? Tôi đố các người đoán được đấy?
Thanh Thanh nói:
– Ai mà đoán được! Có những gì thế?
Ôn Nam Dương cất giọng thảm não nói:
– Là xác của ông Sáu đó!
Thanh Thanh sợ hãi đến nỗi mặt tái mét. Thấy thế, Ôn Nghi vội ôm chặt lấy nàng.
Bốn người yên lặng trong giây lát, rồi Nam Dương lại nói:
– Các người bảo như thế y có độc địa không? Đã giết chết chú Sáu thì thôi, y lại còn cho đưa xác về tới nhà.
Ôn Nghi đỡ lời:
– Có tử tế thì người ta mới làm như thế như thế?
– Hừ! Tất nhiên cô cho hành động của y là phải chớ gì?
Ngửng đầu nhìn sao trên trời, Ôn Nghi từ từ nói:
– Thanh Thanh, lúc ấy tuổi má lớn hơn con bây giờ một năm nhưng lại ngây thơ hơn con nhiều, chả biết gì cả. Các chú bác hay làm việc ác nên má ghét các chú bác lắm. Thấy chú Sáu bị giết chết, má không thương xót chút nào. Má chỉ lấy làm lạ là vì chú ấy võ nghệ cao cường lắm, tại sao lại bị người ta giết được? Má núp sau lưng và không dám nói nửa lời. Sau đó, bác Cả mới lớn tiếng đọc lá thơ cho mọi người nghe: “Cùng bảy anh em họ Ôn phái Thạch Lương, nay gởi về một cái thi thể, xin vui lòng nhận cho. Người này đã phạm lỗi làm ô nhục chị tôi rồi đang tâm giết chết liền, chẳng những thế lại còn hạ sát nốt cha mẹ và các anh em tôi tất cả năm người, số ta không chết mới là lạ. Nghĩa là ta phải giết chết 50 mạng người nhà các ngươi và làm nhơ bẩn mười phụ nữ. Không đủ con số đó, ta thề chẳng làm người. Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi kính bạch.” Vừa đọc xong bức thơ, mặt bác Cả bỗng nhợt nhạt dần, hai tay run lẩy bẩy, và lời nói không còn mạch lạc như lúc đầu.
Ôn Nghi liền hỏi Nam Dương rằng:
– Anh Nam Dương, có thật chú Sáu đã giết chết toàn gia người ta không?
Nam Dương trả lời một cách hãnh diện:
– Chúng ta “nam nhi đại trượng phu” đã bước chân vào hắc đạo (con đường tối, nghĩa là làm giặc) thì những việc hiếp dâm, cướp của, giết người, phóng hỏa, đều coi rất nhẹ nhàng và tầm thường. Thấy chị y còn nhan sắc, chú Sáu cưỡng ép không được mới rút dao ra giết luôn. Chuyện đó chắc là có.
Ôn Nghi thở dài:
– Các người đàn ông khi ra ngoài chỉ tạo nên những việc tiền oan nghiệp chướng, những việc tày trời như thế?
Nam Dương lại kể tiếp:
– Bác Cả đọc xong thơ, giây lát sau, bỗng cười ha hả và nói rằng: “Nếu nó đến tận cửa nhà ta thì càng tốt. Bằng không chúng ta biết nó ở đâu mà đi kiếm chớ?” Tuy nói cứng như thế, nhưng bác ấy vẫn phải cẩn thận đề phòng. Đêm hôm đó, sau khi ra lịnh giới nghiêm, bác Cả còn cho người đi Kim Hoa và Nghiêm Châu mời đón chú Bảy và chú Tám về.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Sao họ nhiều anh em thế nhỉ?”
Thanh Thanh hỏi mẹ:
– Nhà ta còn ông Bảy và ông Tám, sao con lại không được biết?
Ôn Nghi trả lời:
– Hai ông ấy là em họ các ông nhà. Xưa nay, hai ông vẫn ở riêng nơi khác.
Ôn Nam Dung đỡ lời luôn:
– Xưa nay chú Bảy vẫn ở Kim Hoa, và chú Tám ở Nghiêm Châu. Tuy là anh em trong họ nhưng ít ai biết tới hai chú ấy. Không hiểu tại sao gian tặc Kim Xà lại được tin chóng thế? Hai chú vừa về tới nửa đường đã bị y đón giết liền. Tên gian tặc ấy như là thần xuất quỷ mật vậy. Không biết y lấy trộm được từ hồi nào 50 chiếc thẻ tre mà nhà ta vẫn thường dùng để lúc thâu thuế gạo tính cho khỏi quên? Hễ cứ giết một người nhà ta là y cắm luôn một chiếc thẻ tre trên tử thi. Xem ra, không cắm đủ 50 chiếc thẻ y không chịu buông tha.
Thanh Thanh hỏi:
– Nhà ta, trên dướic có hơn trăm người, sao địch không nổi người ta? Bên phía người đó có bao nhiêu người hở bác?
– Y chỉ có việc một thân một mình nhưng y không dám công nhiên lộ diện. Lúc thường, không biết y ẩn núp ở đâu. Hễ thấy người nhà ta đi lẻ loi một mình là y hiện ra giết luôn. Tức giận quá, cha tôi phải mời rất nhiều cao thủ hắc đạo tới Thạch Lương để trợ giúp. Suốt ngày, các người tụ họp ở đại sảnh và cùng chuyện trò để chờ đợi y tới. Ngoài cửa dán một tờ báo cáo lớn, hẹn y phải chánh địa quang minh tới đây quyết đấu. Y cứ làm thinh.
Thấy chúng ta đông người, y tuyệt tích không tới. Nửa năm sau, các giang hồ hảo thủ giải tán dần. Anh Ba tôi và em Chín con chú Năm, bỗng thấy chết đuối ở cái ao trong vườn và trên ngực hai người đều có cắm thẻ tre. Chẳng ai ngờ tên gian tặc lại nhẫn nại đến thế! Chịu khó đợi chờ nửa năm trời, nhắm đúng khi trong nhà không có cao thủ thì ra tay sát hại liền, từ đó tháng nào trong nhà ta cũng có người chết. Các tiệm bán quan tài ở làng Thạch này làm không kịp hòm sẵn để bán cho nhà ta. Bác Cả phải cho người ra tận Từ Châu mua để chôn cất người nhà. Với người ngoài, nhà ta không dám cho hay sự thật, chỉ bảo là bị bịnh dịch tả, nên mới chết nhiều người đến thế. Cô Nghi, chắc cô còn nhớ những ngày giờ sợ hãi đó chớ gì?
Ôn Nghi nói:
– Vâng lúc ấy, tất cả thị trấn này ai nấy đều bàng hoàng sợ hãi. Nhà chúng ta suốt ngày đêm đều có gia đinh đi tuần tiễu. Cha em và các bác, các chú, thay phiên nhau canh gác. Đàn bà và trẻ con phải ở cả vào căn nhà giữa, không dám bước chân ra khỏi cửa.
Nam Dương nghiến răng nói:
– Canh phòng cẩn thận đến thế, mà hai người con dâu của chú Tư đều bị y bắt cóc đi mất. Ai cũng tưởng hai thím ấy đã bị giết chết rồi. Ngờ đâu hơn tháng sau, lại thấy ở Dương Châu gửi thư về nói rằng: “Bị y bán làm gái điếm, xin cho người đem tiền đến chuộc.” Sau hỏi ra, cả hai đã phải tiếp khách trên một tháng rồi. Tức quá, chú Tư suýt chết ngất.
Nghe tới đây, Thừa Chí rởn tóc gáy nghĩ thầm: “Báo thù cho cha mẹ và anh, y đã giết chết nguyên thủ phạm cũng đủ rồi, hà tất Kim Xà Lang Quân phải tàn sát và hiếp tróc như thế thì quá đáng thật!”
Vừa nghĩ, chàng vừa lắc đầu tỏ vẻ bất mãn vì hành động vô nhân đạo đó.
Nam Dương lại nói:
– Có điều này đáng hận nữa, là hễ đến ba ngày Tết: Đoan Ngọ, Trung Thu, và Nguyên Đán, y lại gởi một lá thơ tới, trong đó kê khai các người đã bị giết và nhắc lại còn thiếu của y mấy mạng người và mấy người đàn bà. Phái Thạch Lương chúng ta ở Giang Nam tung hoành mấy chục năm mà nay bị tên gian tặc đó làm lụy, đến nỗi chịu cảnh tang thương đến thế! Ai nấy đều suy tính phải báo lại mối thù này. Nhưng thủ đoạn y cao cường quá, cha tôi bàn đi tính lại thật vô kế khả thi. Chúng ta đề phòng cẩn thận hơn trước thì mấy tháng liền không thấy y tới. Nhưng hễ canh phòng hơ chểnh mảng một chút là có sự không lành xảy đến ngay. Trong hai năm người nhà họ Ôn ta, già trẻ lớn bé, tất cả bị giết mất 38 người. Đấy cháu Thanh Thanh thử nghĩ xem, chúng ta có đáng hận y không?
Thanh Thanh hỏi:
– Sau rồi sao nữa?
Nam Dương nói:
– Đoạn sau này xin nhường để má cháu kể nốt.
Đưa mắt nhìn Thừa Chí, Ôn Nghi rầu rĩ nói:
– Có thật chính Viên tướng công đã chôn cất hài cốt của anh ta phải không? Nếu vậy tôi chả cần phải giấu diếm tướng công nữa. Chúng tôi chỉ mong lát nữa tướng công cho mẹ con chúng tôi biết tình hình lúc chết của anh ta như thế nào? vậy
Nói tới đây, giọng nói của nàng nghẹn ngào, nghe không ra tiếng. Một lát sau, nàng mới nói tiếp được:
– Lúc đó, tôi không hiểu tại sao anh ta lại nhẫn tâm đến thế? Sự thật, tôi cũng không muốn biết. Cha tôi cấm tôi không được bước ra tới ngưỡng cửa lớn. Buồn bực quá, mỗi ngày tôi có thể ra vườn chơi cũng phải có các anh, các chị đi theo, tôi mới được ra, dù là ban ngày cũng vậy. Hồi đó, đang lúc tiếc tháng ba, mùi hương của hoa thơm cỏ lạ theo gió thổi vào, ngào ngạt khắp nhà, tôi muốn lên sườn núi xem hoa nở và hóng gió mát. Nhưng chỉ vì Kim Xà Lang Quân giết người và lịnh cấm nghiêm ngật của cha tôi mà tôi phải bị nhốt trong nhà, bỏ uổng mất cảnh đẹp, không người thưởng thức. Chiều hôm đó, tôi, chị Ba con bác Hai, con dâu chú Năm, anh Nam Dương, và anh Niệm Từ, tất cả năm anh em ra chơi ngoài vườn. Tôi đánh đu, mỗi khi nhún lên thật cao, trông thấy cây cảnh bên ngoài, hớn hỡ biết bao. Bỗng anh Niệm Từ thét lên một tiếng, rồi ngã người ra phía sau, tôi sợ hãi quá. Sau mới biết anh ta bị người nọ phóng Kim Xà chùy trúng giữa ngực, chết ngay tại chỗ. Tôi còn nhớ, lúc ấy anh Nam Dương sợ chạy trốn vào trong nhà, bỏ mặc ba người đàn bà chúng tôi ở ngoài vườn.
Mặt đỏ bừng, Nam Dương cãi rằng:
– Một mình tôi địch sao nổi? ở lại đó phải mất mạng tôi không? Tôi phải đi gọi người cứu viện chớ?
Ôn Nghi nói tiếp:
– Tôi đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra, bỗng đâu một cái bóng đen ở trên tường nhảy xuống đúng ngay tấm ván của chiếc đu mà tôi đang đứng trên đó.
Người đó nhún mạnh một cái, chiếc đu bay bổng lên trời. Y ôm chặt lấy lưng tôi, rồi y ôm lấy tôi nhún mạnh người tôi chỉ thấy vù vù như đằng vân giá vũ, cả hai đều bay ra khỏi chiếc đu. Những tưởng phen này tôi và y sẽ bị rơi xuống không chết thì cũng tan xương, ngờ đâu tay trái y ôm lấy tôi, tay phải y víu ngay được cành cây cổ thụ. Lại bật mạnh một cái, y và tôi đã bắn ra xa mười mấy trượng, rồi nhẹ nhàng đứng xuống mặt đất. Sợ hãi đến nỗi mơ mơ hồ hồ, tôi cứ đấm bừa vào mặt hắn. Y dùng ngón tay điểm bả vai tôi. Thế là người tôi mềm nhũn như bún, chân tay không cựa quậy được, tai tôi chỉ nghe thấy tiếng hò hét đuổi theo của rất nhiều người, nhưng tiếng hò hét đó càng ngày càng xa dần. Y cắp tôi vào nách, một mạch chạy thẳng lên một cái hang ở trên sườn núi cao chót vót. Giải huyệt cho tôi xong, y ngồi nhìn tôi miệng tủm tỉm cười. Nghĩ đến hai người chị dâu đã bị y hãm hiếp hồi nọ, tôi định chết trong sạch còn hơn sống nhục. Tôi đập đầu vào vách đá. Y sợ quá vột túm lấy cổ áo tôi, nhưng trán của tôi đã bị thương một tí rồi, nên mới có cái sẹo này đây.
Thấy cái sẹo đó khá lớn, Thừa Chí đoán chắc vết thương không nhỏ. Ôn Nghi thở dài một tiếng đoạn nói tiếp:
– Nếu lúc bấy giờ y không kéo tôi lại để cho tôi chết lại đỡ khổ cho y. Khi tôi tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên một cái thảm lông chiên ở trong hang núi. Sợ hãi quá, tôi suýt chết lần nữa, sau nhìn thấy quần áo vẫn còn nguyên vẹn trong lòng mới được yên đôi chút. Có lẽ thấy tôi định tự tử, tà tâm của cường đạo bỗng đổi ra lòng thiện, nên y mới không đang tâm hãm hại tôi chăng?
Chương 8: Lòng Nhu Mì Dẹp Tan Chí Tàn Sát
Ôn Nghi tiếp tục kể: “Có lẽ vì sợ tôi tự tử nữa, nên hai ngày đầu, y cứ lẩn quẩn ở trong hang canh gác tôi, và thổi nấu cho tôi ăn uống. Nhưng tôi cứ khóc lóc, không ăn uống và cũng không nói năng với y nửa lời. Đến ngày thứ tư, có lẽ thấy tôi gầy còm ốm yếu quá nên y nấu một bát canh thịt rồi nhẹ nhàng khuyên tôi uống. Tôi vẫn cứ mặc kệ chẳng nói chẳng rằng. Y bỗng ôm chặt lấy tôi, bóp mũi đổ nước thịt cho tôi uống. Như vậy, y đã cưỡng bách tôi uống được nửa bát. Khi y vừa buông tôi ra, tôi cố ý phun nước thịt vào mặt y để chọc cho y tức giận mà chém tôi một nhát chết đi cho rảnh, khỏi bị y hãm hiếp rồi bị bán làm đĩ điếm như hai chị dâu hồi nào.
Ngờ đâu y không tức giận, chỉ tươi cười lấy tay áo lau mặt và ngẩn người nhìn tôi miệng cứ thở dài. Đêm hôm đó, y nằm ngủ ngoài cửa hàng và nói với tôi rằng: “Tôi ca một bài để cô nghe nhé?”
– “Tôi không nghe!”
Thấy tôi trả lời, y sung sướng nhảy nhót và nói: “Tôi cứ tưởng cô câm, nay thấy cô nói, tôi mới yên tâm.”
Tôi bật cười, rồi lại nghiêm nét mặt mắng y ngay: “Ai làm người câm nào? Thấy ngươi bất lương nên tôi không thèm nói đấy chớ!”
Không nói gì nữa, y cất tiếng hát, cho tới nửa đêm, y vẫn còn ca. Từ bé đến giờ, tôi chỉ sống trong đại gia đình, nào có bao giờ được nghe những bài ca tình tứ như thế đâu?”
Nam Dương bỗng quát lớn:
– Cô sợ nghe nhưng lại thích nghe nó hát, phải thế không? Ai mà thèm nghe kể lại những chuyện xấu xa ấy cơ chớ!
Nói xong, Nam Dương rảo bước đi thẳng. Thanh Thanh nói:
– Thế nào bác ấy cũng đi ton hót cho các ông biết đấy!
Ôn Nghi nói:
– Các ông biết sao? Má không sợ!
– Má kể nốt cho con nghe đi!
– “Sau đó, tôi ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, tôi không thấy y nữa. Tôi định bỏ trốn về nhà. Ngờ đâu, hang đó ở trên đỉnh núi cao chót vót, bốn bề không có đường lối nào đi xuống cả, phải có khinh công giỏi như y mới có thể lên xuống được.
Đến giữa trưa, y lại trở về, đem rất nhiều đồ trang sức và phấn sáp cho tôi. Tôi vứt cả xuống thung lũng. Y vẫn không tức giận, vẫn tươi cười như thường. Tối đến, y lại hát cho tôi nghe. Một hôm, y đêm rất nhiều đồi chơi về, nào là gà con, mèo con, rùa con v vv. Y biết tôi không dám nhẫn tâm vứt những con vật sống ấy đi. Thế là suốt ngày, y rủ tôi đùa giỡn với mèo con, gà con để giải buồn, tối đến lại ca cho tôi nghe. Thấy không xâm phạm đến người tôi, tôi mới yên trí và chịu ăn uống. Tuy vậy, hơn một tháng trời, tôi không nói chuyện với y nửa lời. Đối với tôi, lúc nào y cũng hòa nhã. Y thương và quý tôi còn hơn cả người nhà. Có một hôm y bỗng vênh váo, giận dữ nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi sợ quá, khóa òa lên. Y thở dài một tiếng, rồi lại vỗ về tôi, bảo tôi đừng khóc nữa. Đêm hôm ấy, y vẫn núp ngoài cửa hang, khóc lóc thảm thương vô cùng. Lát lâu trời mưa to, thấy y vẫn đứng nguyên chỗ cũ, tôi không đành tâm, liền ra gọi y vào tránh cho khỏi ướt nhưng y không chịu vào. Tôi hỏi tại sao? Y trả lời: “Ngày mai là ngày kỵ của cha mẹ, anh chị tôi đã bị người nhà cô hạ sát. Vậy ngày mai, ít nhứt tôi phải giết chết một người trong gia đình cô. Hiện giờ nhà cô phòng vệ nghiêm cẩn lắm. Ngoài ra lại còn mời Lý Triết đạo nhân phái Nga Mi và Thanh Minh thiền sư phái Thiếu Lam đến bảo vệ. Nói thật, tôi không sợ hai người đó”
Nói tới đây, y bỏ đi liền. Chiều ngày hôm sau, vẫn chưa thấy y về. Tôi có vẻ nhớ nhung, ngấm ngầm cầu khẩn cho y được bình yên vô sự.”
Ôn Nghi nói tới đây, Thanh Thanh đưa mắt nhìn trộm Thừa Chí, xem chàng có tỏ vẻ gì khinh khi không? Thấy y vẫn cung kính ngồi yên lặng lắng tai nghe, nàng mừng thầm.
Ôn Nghi lại kể tiếp: “Trời sắp tối hẳn, tôi ra cửa hang ngóng trông mấy lần. Đến lần thứ tư, thấy trên đỉnh ngọn núi trước mặt có bốn cái bóng người đuổi nhau, thân pháp nhanh nhẹn vô cùng, tôi nhìn kỹ mới nhận ra người đi đầu chính là y. Theo sau y một đạo sĩ, một hòa thượng, và người đuổi sau cùng là cha tôi. Y cầm Kim Xà kiếm, một mình địch ba người, tình thế có vẻ nguy cấp lắm. Một lát sau, thấy vị hòa thượng quật ngang cây thiền trượng, tưởng y không sao thắng nổi chiếc đòn đó, tôi sợ quá la lên một tiếng.
Ngờ đâu, y dùng Kim Xà kiếm gạt mạnh, thế là cây thiền trượng bị chặt đứt ngay một khúc. Nghe thấy tiếng kêu la, cha tôi quay lại, trông thấy tôi, liền chạy sang bên đỉnh núi chỗ tôi ở. Thấy thế, y nóng lòng. Chỉ hai miếng kiếm, y đã đẩy lui hòa thượng và đạo nhân, rồi đuổi theo cha tôi. Không bao lâu, cha tôi chạy trước, y theo sau, sau nữa là đạo nhân và hòa thượng, cả bốn người đã sang tới thung lũng phía núi bên này, y phóng lên trước, quay lại cản cha tôi. Đấu được vài hiệp, đạo nhân và hòa thượng chạy tới, nhảy vào vây đánh. Nhờ vậy, cha tôi liền phóng thẳng lên núi. Y lại bỏ hai người kia, đuổi theo để ngăn cản cha tôi. Vừa đánh, vừa chạy, vừa đuổi như thế, không bao lâu, cả bốn người đã lên tới đỉnh núi. Tôi mừng quá, gọi ầm lên: “Cha ơi! Mau tới đây!”
Nghe thấy tôi kêu gọi cha tôi, y nhảy xổ lại như điên như cuồng “soạt, soạt, soạt” đâm liền ba kiếm, đẩy lùi cha tôi về phía sau. Trong lúc nguy cấp, thấy cha tôi địch không nổi y, tôi định chạy ra cứu. Nhưng đạo sĩ và hòa thượng đã đuổi tới nơi rồi. Cha tôi lên tiếng gọi: “Nghi! Con có sao không?”
Tôi trả lời: “Cha cứ yên tâm, con vẫn được mạnh như thường.”
– “Hay lắm, để chúng ta giải quyết xong tên gian tặc này rồi sẽ cứu con sau.”
Thế là ba người lại vây đánh y. Đạo nhân nọ nói: “Kim Xà Lang Quân! Phái Nga Mi chúng ta không có thù oán gì với ngươi cả, nhưng thấy ngươi làm nhiều điều quá đáng, nên ta mới tới đây. Ta không giúp bên nào hết. Nếu ngươi bằng lòng từ nay không đến nhà họ Ôn quấy nhiễu nữa thì câu chuyện ngày hôm nay coi như được giải quyết một cách hòa bình.”
Y nghiến răng trả lời: “Cấm ta không đến nhà họ Ôn nữa? Vậy cha, mẹ, anh, chị ta bị chúng giết thì ai sẽ trả thù thay ta?”
Vị hòa thượng nói: “Ngươi đã giết chết bấy nhiêu người cũng đủ rồi chứ? Khuyên ngươi nên nể mặt đạo trưởng và sãi gia đây, từ nay hãy ngừng tay đừng nên giết chóc nữa!”
Y bỗng nổi đóa, đâm luôn hòa thượng một kiếm. Thế là bốn người lại bắt đầu ác chiến. Khí giới của đạo nhân rất lạ lùng, và võ nghệ cũng rất cao cường. Hòa thượng múa thiền trượng kín đáo vô cùng, chỉ nghe thấy tiếng gió vù vù bên tai. Càng đánh, tôi thấy trán y vã mồ hôi. Bỗng loạn choạng một cái, y suýt bị ngã. Cây trượng của hòa thượng đánh xuống, y né mình tránh được. Nhờ cái né mình đó, y trông thấy mặt tôi. Y liền bảo cho tôi biết rằng y đã mỏi mệt nhừ cả xương cốt. Nhưng từ lúc trông thấy vẻ mặt lo lắng của tôi, sức khỏe y bỗng dồi dào hẳn lên, kiếm pháp của y càng lợi hại hơn trước nhiều. Sau khi thấy tôi tỏ vẻ lo sợ cho y, y liền nói: “Ôn cô nương đừng sợ, coi đây này!”
Tôi không trông thấy tay y động đậy gì cả mà hòa thượng nọ bỗng hét lên một tiếng ngã lăn xuống núi.
Trước khi lăn xuống sườn núi, tôi trông thấy giữa đỉnh đầu trọc lông lốc của hòa thượng có một mũi Kim Xà chủy chắm ngập cán. Cha tôi và đạo nhân đều giựt mình sợ hãi. Trong lúc y đâm cha tôi, đạo nhân liền thừa cơ tấn công phía sau lưng y. Ngờ đâu, y quát lớn một tiếng dùng hai ngón tay trái nhanh như điện chớp đâm vào mắt đạo nhân. Vì cúi đầu tránh miếng móc mắt của y, nên đạo nhân đã để hở cả nửa mình. Nhanh như cắt, y quay kiếm lại phạt ngang lưng thế là đạo nhân bị chém đứt làm hai khúc, té xuống mặt đất.”
Nghe tới đây, Thanh Thanh bỗng kêu lên: “Ối chà!”
Ôn Nghi lại nói tiếp: “Rồi y lại quay kiếm trở lại đâm cha tôi một nhát. Thấy hai tay giúp mình, võ nghệ cao cường đến thế mà còn bị y hạ sát cả, cha tôi sợ đến nổi mặt tái mét, chiếc gậy bằng gang đã múa loạn xạ, không thành thế võ gì nữa. Tôi vội chạy ra ngoài cửa hang, lớn tiếng gọi: “Hãy khoan tay! Hãy khoan tay!”
Nghe thấy tiếng gọi của tôi, y liền ngừng tay lại. Tôi nói luôn: “Cha tôi đấy!”
Y hậm hực lườm cha tôi rồi nói: “Ông đi ngay đi! Tha cho ông khỏi chết!”
Ngạc nhiên vô cùng, cha tôi quay mình định đi. Vì suốt ngày chưa được ăn tí gì nên tôi đói quá, sợ hãi vì những trận đánh kinh người, may thấy y tha chết cho cha tôi, tôi mừng quá, bỗng ngã lăn ra đất. Lúc nào, y cũng chú ý đến tôi, nên vừa thấy tôi ngã,y vội vàng chạy lại đỡ tôi dậy. Đầu tựa trên vai y, tôi trông thấy mắt cha tôi chứa đầy vẻ căm hờn, hung ác.
Cha tôi bỗng giơ cao gậy gang đập mạnh xuống lưng y. Vì chỉ nhứt tâm lo sợ tôi có bị thương hay không, y không ngờ cha tôi lại đánh trộm như vậy. Không thể chịu được nữa, tôi vội kêu lên: “Cẩn thận!”
Giựt mình, y muốn tránh nhưng không kịp, y đàng phải né đầu sang một bên, lấy vai chịu đựng chiếc gậy gang của cha tôi. Và thuận tay, y cướp luôn chiếc gậy, quăng xuống thung lũng. Rồi y dùng song chưởng đánh cha tôi. Biết không thể địch nổi, cha tôi đành nhắm mắt chờ chết. Nhưng y quay đầu lại, trông thấy vẻ mặt lo lắng của tôi liền thở dài một tiếng rồi bảo cha tôi rằng: “Ông nên đi ngay đi! Bằng không tôi tức tối hồi tâm chuyển ý sẽ không tha thứ cho ông nữa đâu!”
Không dám nói nửa lời, cha tôi chạy thẳng xuống chân núi. Vai y chịu một đòn của cha tôi, vết thương đó khá nặng, nên khi cha tôi vừa đi khỏi, y phun ngay ra một đống máu tươi bắn cả vào ngực tôi.”
Thanh Thanh “hừ” một tiếng rồi nói:
– Thật ông Ba không biết xấu hổ là gì! Trước mặt không đủ tài đánh người ta, lại giở cái trò hèn đánh trộm như thế!
Ôn Nghi thở dài nói: “Theo đúng lý mà nói, thì y là kẻ thù lớn của nhà ta, liên tiếp giết chết người nhà ta, già trẻ lớn bé, tất cả mấy chục người. Nhưng thấy y bị người vây đánh, và còn bị đánh lén đánh trộm, lòng tôi mới đổi ra binh vực y. Đó cũng là oan nghiệp từ kiếp trước cũng nên. Y đi loạng choạng vào trong hang, móc túi lấy thuốc đả thương ra nuốt, rồi lại loạng choạng phun máu rơi cả thuốc ra ngoài, tôi sợ quá òa khóc. Tuy bị thương nhưng vẻ mặt vẫn hớn hở, y hỏi tôi: “Tại sao em lại khóc?”
Tôi vừa mếu máo vừa trả lời: “Thấy anh bị thương nặng quá.”
Y cười, hỏi: “Thế ra vì anh mà em khóc đấy?”
Chỉ cảm thấy lòng đau vô cùng, chớ tôi không làm sao trả lời được. Lát lâu sau y lại nói: “Từ khi cả nhà tôi bị chú Sáu em hạ sát đến giờ, chưa có người nào quan tâm đến tôi. Ngày hôm nay, tôi giết chết một người anh họ của em. Như vậy, trước sau, anh đã giết tất cả 40 người rồi. Chính ra, tôi còn định giết thêm mười người nữa. Nhưng vì nể những giọt nước mắt chảy trên mặt em, tôi quyết ngừng tay, không giết thêm nữa.”
Tôi vẫn cứ khóc, không nói nửa lời. Y lại nói: “Tôi cũng không hãm hại những người đàn bà trong gia đình của em nữa. Chờ khi nào vết thương này được lành mạnh rồi, anh sẽ đưa em về nhà.”
Trong lòng tôi lúc bấy giờ, không phân biệt vui mừng hay đau khổ, chỉ thấy y nhận lời không giết người nữa là tôi khoan khoái lắm rồi.
Từ đó, mấy ngày liền, tôi nấu nước thổi cơm, tận tâm hầu hạ y. Có một hôm, y năm mê man suốt cả ngày. Tới chiều tối, bịnh y trở nên trầm trọng quá, sắp chết đến nơi. Tôi khóc sưng húp cả hai mắt. Bỗng mở mắt ra nhìn tôi, y cười gượng, rồi bảo: “Không sao, ta không chết đâu mà em sợ!”
Qua hai ngày sau, quả nhiên bịnh y đã có phần giảm bớt. Một đêm nọ, y nói với tôi rằng, y bị trúng đòn của cha ta lẽ ra không thể nào sống được. Nhưng nghĩ đến sau khi y chết đi, tôi ở trên đỉnh núi này một mình lên xuống không được còn người nhà tôi thì sợ y, không dám tới kiếm, như vậy thế nào tôi cũng bị chết đói mất. Bởi lẽ ấy, y phải cố gắng tranh đấu với tử thần để được sống bên cạnh tôi.”
Thanh Thanh nói xen vào:
– Má! Ông ta tử tế với má quá! Kể ra ông ta cũng là người có lương tâm lắm đấy chớ?
Nói xong, nàng đưa mắt nhìn Thừa Chí với một vẻ mặt giận dữ. Thừa Chí mặt đỏ bừng, quay đầu nhìn sang phía khác.
Ôn Nghi lại kể tiếp: “Bịnh y thuyên giảm dần. Một hôm, y kể cho tôi nghe hồi y còn nhỏ được cha mẹ nuông chiều lắm, cả anh chị cũng thương yêu y vô cùng. Có một lần, y bị bịnh, mẹ y trông nom săn sóc liền ba ngày đêm không ngủ. Ngờ đâu, đến hôm thứ ba, chú Sáu tới giết chết cả nhà y. Lúc bấy giờ, tôi nhận thấy bề ngoài thì y có vẻ rất ác độc, nhưng mỗi khi nhắc tới chuyện người nhà thì y lại nhu mì hiền lành lắm. Y lấy ra cái yếm vải che ngực màu đỏ có thêu hoa, đưa cho tôi xem. Y bảo cái yếm đó tự tay mẹ y thêu và tặng cho y ngày ăn mừng đầy năm.”
Nói tới đây, Ôn Nghi móc túi lấy cái yếm đỏ ra, để lên trên bàn. Thừa Chí trông thấy cái yếm đó bằng đoan màu đỏ, trên có thêu một đứa bé trần truồng năm trên tầu lá chuối. Nét thêu rất khéo, rất đẹp, đủ biết lúc thêu yếm này, người mẹ thương yêu con xiết bao. Mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, nay trông thấy cái yếm vải nọ, Thừa Chí chợt nghĩ tới thân thế của mình, chàng không sao cầm được giọt lệ. Ôn Nghi tiếp tục nói: “Y vẫn ca hát những bài dân ca cho tôi nghe, và còn lấy gỗ chuốt rất nhiều đồ chơi cho tôi giải buồn. Y bảo tôi là một cô gái ngây thơ. Sau đó ít ngày, vết thương của y đã lành mạnh hẳn, nhưng càng ngày tôi thấy y càng thêm rầu rĩ. Tôi hỏi tại sao? Y trả lời là không nỡ rời khỏi tôi. Tôi nói: “Nếu vậy, em cứ ở đây với anh nhé?”
Thấy tôi nói thế, y mừng quá leo lên trên đỉnh núi, trèo lên hai cây cao rồi lại nhảy xuống, không khác gì một con vượn vậy. Y nói với tôi rằng: Y tình cờ nhặt được một bản đồ kho tàng, trong đó có rất nhiều vàng bạc châu báu. Nghe nói số vàng bạc châu báu ấy là vua Kiến Văn, khi bị chú là Yến Vương cưới ngôi, liền bỏ chạy, rồi đem của cải chôn giấu ở nơi đó.
Đến lúc Yến Vương vào chiếm đóng thành Nam Kinh, vội cho người đi tìm kiếm số của cải đó, nhưng lục soát cả thành phố mà vẫn không sao tìm thấy. Yến Vương đã mấy lần sai Thái giám Tam bảo xuống các tiêu quốc ở Nam Vương cho người đi tìm kiếm Kiến Văn để làm gì mà gấp thế? Đề nghị trả lại ngai vàng cho cháu chăng?
Không phải, mục đích là bắt Kiến Văn phải chỉ tra nơi đã chôn giấu kho tàng mà thôi.”
Thừa Chí ngấm ngầm gật đầu, trong lòng nghĩ thầm: “Thì ra tờ bản đồ đó ta tìm thấy trong Kim Xà bí kíp lại là bản đồ ghi rõ nơi chôn cất những của cải kếch sù đó.”
Ôn Nghi lại nói:
– Y nói, suốt đời Vua Thành Tổ tức Yến Vương, không sao kiếm cho ra tờ bản đồ đó. Không ngờ, mấy trăm năm sau, vô tình y lại lượm được. Bây giờ, thù lớn đã báo được rồi, y sắp sửa đi tìm kiếm số của cải đó. Chờ khi nào y tìm thấy kho châu báu ấy rồi, sẽ về đây đón tôi. Bây giờ y hãy đưa tôi về nhà trước.
Nói tới đây, Ôn Nghi đổi sang giọng hậm hực:
– Sau khi trở về nhà, ai nấy đều khi thị tôi làm tôi tức giận vô cùng. Họ đã bất tài không sao bảo vệ nổi con cháu đáng lẽ phải an ủi tôi khi trở về còn giữ được tấm thân trinh bạch. Trái lại mọi người còn bêu xấu bêu hổ tôi. Mặc kệ họ nói gì thì nói, tôi cứ lẳng lặng làm thinh.
Thanh Thanh vội đỡ lời:
– Má xử sự như thế rất phải.
Ôn Nghi nói:
– Tôi ở nhà chờ đợi được ba tháng. Một đêm, bỗng có tiếng ca nổi lên ở phía ngoài cửa sổ. Nghe tiếng ca, tôi biết y đã tới liền ra mở cửa sổ cho y vào. Chúng tôi gặp nhau đều vui mừng quá. Ngay hôm đó, tôi giao hợp với y, vì thế mới sanh ra con bé này (vừa nói, vừa chỉ vào Thanh Thanh). Đó là tự ý tôi muốn vì tôi đã yêu hắn thật lòng. Và đến tận bây giờ, tôi cũng không thấy ân hận chút nào cả. Người ta đồn bậy là y cưỡng hiếp tôi, có phải thế đâu? Thanh Thanh, cha con thương má lắm, và má cũng yêu cha con. Lúc nào cha con cũng tôn trọng má, chớ không bao giờ cưỡng bách má cả.
Thừa Chí phục thầm lòng dũng cảm của Ôn Nghi. Nghe thấy nàng nói tới mối tình một cách tha thiết, Thừa Chí phải động lòng thương cảm.
Thanh Thanh, bỗng cúi đầu khẽ hát câu: “Đàn Nhạn từ phía Nam bay tới. Có những con bay cặp đôi, cũng có con bay lẻ loi một mình. Đôi Nhạn bay trước vui vẻ kêu hót, con sau lẻ loi cúi đầu, bay không nổi. Mặc những con cặp đôi, ta chỉ để ý con lẻ loi kia thôi! Vì tấm lòng đau thương của mi, cũng y như ta đang cô đơn rầu rĩ vậy”
Ôn Nghi với giọng nghẹn ngào nói:
– Con nhỏ này mồ côi cha từ thuở còn thơ. Bài ca vừa rồi tôi vẫn thường hát để ru nó ngủ. Bởi nghe quen tai nên nó thuộc lòng!
Thừa Chí nói:
– Chắc lần sau, Hạ lão tiền bối đến thăm bà, ông ta đã tìm thấy kho tàng của báu rồi?
Ôn Nghi gật đầu: “Anh ta nói, tuy chưa tìm thấy, nhưng đã có chút manh mối có thể kiếm ra được. Chúng tôi bàn định, sáng sớm ngày hôm sau sẽ cùng nhau lén trốn ra đi. Ngờ đâu, lời nói của chúng tôi đã có người nghe trộm được. Sáng sớm hôm sau, tôi thu xếp quần áo xong, viết một lá thơ để lại cho cha tôi, đang định lên đường thì bỗng có người gõ cửa.
Tôi sợ hãi quá, nhưng anh ta khuyên tôi nên bình tĩnh, dù có thiên quân vạn mã đến vây bắt, anh ta cũng có thể đánh thoát ra khỏi vòng vây được. Anh ta mở cửa, thấy cha tôi, bác Cả và bác Hai, ba người. Cả ba cùng mặc lễ phục và không mang khí giới.
Chúng tôi ngạc nhiên quá! Cha tôi nói: “Việc của hai người, chúng ta biết hết cả rồi. Điều đó cũng là do oan trái từ kiếp trước đã định. Từ nay, chúng ta đã trở nên thân gia, không ai còn được giở đao thương ra đối xử với nhau nữa.”
Anh ta tưởng cha tôi sợ anh ta lại đến để giết người liền vội vã phân trần: “Cụ cứ yên trí, tôi đã nhận lời với em Nghi là không giết người nhà các cụ nữa!”
Cha tôi lại nói: “Hai người lén lút với nhau như thế này không được. Thế nào cũng phải có cưới xin hẳn hòi.”
Nghe thấy cha tôi nói thế anh ta mừng quá. Nhưng có biết đâu vì thế mà anh ta bị mắc lừa cha.”
Thừa Chí nói:
– Chắc cụ ông đánh lừa ông ta, chớ không thật tâm bằng lòng gả bà cho ông ta phải không?
Ôn Nghi gật đầu, rồi nói: “Rồi cha tôi để cho anh ta ở căn phòng bên và cho sửa soạn lễ cưới. Anh ta cũng khôn lắm, những thức ăn uống rượu chè mà người nhà bưng lên, anh ta đều cho chó thử trước. Tuy vậy, anh ta vẫn không dám ăn uống một tí gì. Đêm đến anh ta đem những thức mua ăn riêng. Có một đêm, mẹ tôi bưng một bát chè hạt sen vào và nói với tôi rằng: “Con đưa cho nhà con ăn đi!”
Tôi chả biết một tí gì, tưởng mẹ tôi thương anh ta thật. Tôi hớn hở bưng bát chè vào trong phòng. Thấy tự tay tôi đem vào, anh ta không ngờ vực gì cả, cầm lấy ăn luôn mấy thìa. Đang vừa ăn vừa trò chuyện với tôi, bỗng thấy sắc mặt anh ta thay đổi hẳn rồi anh ta đứng dậy kêu lên: “Em Nghi, sao lòng em độc địa như thế?”
Tôi sợ hãi quá vội hỏi: “Sao thế anh?”
– “Sao em lại đầu độc anh?”
Nghe tới đây, cả Thừa Chí lẫn Thanh Thanh đều giựt mình kinh hãi. Trong bóng tối bốn bề đều yên lặng như tờ chỉ thỉnh thoảng nghe thấy gần ngôi đình có tiếng cú kêu tựa như tiếng cười làm sờn lòng những kẻ nhát gan. Quay đầu lại, Thừa Chí trông thấy năm anh em họ Ôn đã đứng vây quanh bên ngoài ngôi đình.
Ôn Minh Sơn quát mắng:
– Nghi! Sao con lại kể hết chuyện xấu xa của nhà mình cho người ngoài nghe thế? Con có biết xấu hổ không?
Mặt đỏ bừng, Ôn Nghi muốn cãi nhưng lại cố nhịn, rồi quay đầu nói với Thừa Chí:
– Mười chín năm nay, tôi không nói chuyện với cha tôi một câu nào, và từ giờ cho tới ngày chết cũng thế. Tôi không sợ ai cả. Cậu có sợ không?
Thanh Thanh vội đỡ lời:
– Thưa má, Thừa Chí đại ca không bao giờ biết sợ đâu!
Ôn Nghi nói:
– Hay lắm! Vậy tôi xin tiếp tục nói nốt cho cậu nghe.
Cất cao giọng, Ôn Nghi nói tiếp:
– Lo quá, tôi khóc òa lên, không biết nói thế nào và làm thế nào cho phải. Bỗng cửa phòng bị người đạp phanh ra. Rất nhiều người tay cầm khí giới xông vào.
Nói tới đây, Ôn Nghi chỉ ra bên ngoài, rồi nói tiếp: “Lúc này ngoài cửa phòng đã đứng đầy những người này đây, nhưng tay họ đều có ám khí. Tạm gọi là còn có chút lương tâm, cha tôi gọi tôi ra ngoài phòng. Tôi biết khi tôi ra khỏi là bọn họ bắn và ném ám khí ngay. Căn phòng nhỏ tí, anh ta hết chỗ trốn tránh. Thấy vậy, tôi trả lời ngay: “Con không ra. Cứ giết cả chúng con đi!”
Trước tưởng tôi thông đồng với người nhà để hãm hại anh ta, nghe thấy tôi cãi lại cha tôi, anh ta bỗng nhảy phắt lên, hớn hở hỏi: “Em có biết bát chè sen này có độc dược không?”
Tôi cầm bát chè lên xem, thấy còn một chút nước, liền uống luôn và nói rằng: “Nếu có độc, em xin chết theo anh!”
Anh ta vội hắt bát chè đi, nhưng tôi đã uống mất một hụm rồi. Anh ta cười nói: “Hay lắm, chết thì cùng chết một thể!”
Rồi anh ta quay mặt ra ngoài chửi rủa: “Các người dùng thủ đoạn ty tiện đê hèn thế này, không sợ xấu hổ ư?”
Bác Cả liền nổi giận: “Ai thèm dùng thuốc độc hãm hại nào? Mi tự phụ có bản lãnh vậy hãy ra ngay ngoài này đấu với chúng ta!”
Anh ta trả lời: “Được lắm!”
Nói xong anh ta dắt tay tôi ra ngoài. Không ngờ bên ngoài đã bày sẵn trận Mai Hoa Trang rồi. Một mình anh ta chống với năm anh em, cha tôi và các chú bác. Trong bát chè sen tuy không có thuốc độc nhưng có cho “Túy Tiên Mật” vào. Thứ mật này là bí chế của nhà họ Ôn. Hễ uống phải sẽ mất sức dần, rồi ngủ thiếp đi như chết vậy, phải qua một ngày một đêm mới tỉnh. Sở dĩ các người không muốn đầu độc anh ta chết là muốn anh ta say mềm, rồi từ từ hành hạ.”
Nói tới đây giọng nói của Ôn Nghi chứa đầy nỗi căm hờn.
Lúc ấy Ôn Minh Đạt lại quát tháo:
– Này họ Viên kia, mi có dám đấu với năm anh em ta cùng một lúc không?
Hai hôm trước, vì thấy anh em họ Ôn là bề trên của Thanh Thanh, Thừa Chí mới đối xử một cách lễ phép như vậy.
Bây giờ, nghe thấy Ôn Nghi moi hết thủ đoạn thâm độc của họ ra, Thừa Chí không còn nể nang như trước nữa. Chàng giận dữ trả lời:
– Hừ, dù các ngươi có mười anh em, ta cũng bất chấp!
Chàng vừa nói xong, có một bóng người nhảy xổ vào trong đình, thét lớn:
– Nhãi con, chớ có vô lễ, có giỏi bước ngay ra đây xem nào!
Thấy người nọ thân hình vạm vỡ, búi tóc cột bằng một cái vòng đồng bóng nhoáng, mình mặc áo cà sa màu đỏ. Thừa Chí mới hay y là một tên đầu đà chưa cạo tóc, và hai đêm trước từng thấy ở nhà ôn thanh.
Hôm đó y đến thăm mấy anh em họ Ôn muốn hợp tác với phái Thạch Lương để đánh cướp một vụ lớn. Nay thấy anh em họ Ôn danh lừng suốt dọc hai bờ sông Dương Tử, mà có vẻ nể sợ một tên hậu sanh trẻ tuổi nọ, Đặng Thắng nhịn không được liền nhảy xổ vào trong đình, định lôi Thừa Chí ra đánh cho một trận mê tơi.
Thấy thân pháp của Đặng Thắng khá lợi hại, Thừa Chí né mình tránh và thuận tay túm lấy tóc y, mượn sức quăng luôn ra ngoài. Cả một thân hình béo như con bê, Đặng Thắng bị Thừa Chí ném ngã lăn ra ngoài bụi cây Mai Quế. Những gai mọc đầy cành Mai Quế móc toạt mặt mũi, da thịt tên tướng giặc, máu chảy lênh láng.
Ôn Nghi cười nhạt một tiếng, rồi nói:
– Đêm hôm đó năm anh em đi đánh một mình anh ta. Đáng lẽ anh ta địch nổi, nhưng vì “Túy Tiên Mật” làm cho tay chân bủn rủn. Và anh em họ Ôn lại mới luyện thành “Ôn thị Ngũ Hành trận” liên hoàn vây đánh, khiến anh ta không lúc nào ngừng được chân tay
Ôn Minh Sơn giận dữ quát mắng:
– Nghi, mấy muốn tiết lộ cho người ngoài biết rõ những sự bí mật của nhà ta ư?
Ôn Nghi mặc cha quát mắng, vẫn tiếp tục nói với Thừa Chí:
– Anh ta nghĩ nếu đánh ngã được một trong năm anh em thì có thể phá được trận Ngũ Hành đó. Nhưng sức lực yếu ớt dần, anh ta loạng choạng sắp ngã. Tôi liền gọi: “Anh chạy ngay đi! Không bao giờ em phụ anh đâu!”
Giọng nói thê thảm và cảm động, hình như nàng đang sống trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Thanh Thanh sợ quá vội gọi:
– Má ơi!
Thấy mắt Ôn Nghi ngơ ngác, hơi thở dồn dập, Thừa Chí biết nàng bị kích thích quá, không thể nói tiếp được nữa, Thừa Chí liền nói:
– Mời bác hãy về phòng nghỉ ngơi đã. Cháu sẽ nói chuyện với các cụ. Ngày mai cháu đến thăm bác.
Ôn Nghi nắm lấy tay áo Thừa Chí:
– Không, không. Tôi vẫn giữ trong lòng mười chín năm nay rồi! Hôm nay tôi phải thốt hết ra mới được! Viên tướng công này nói nốt đã!
Thấy giọng nói của nàng xen lẫn tiếng khóc, Thừa Chí liền gật đầu:
– Vâng, cháu xin nghe!
Ôn Nghi vẫn nắm chặt tay áo Thừa Chí, và nói:
– Họ muốn lấy tánh mạng của anh ta, nhưng họ cũng muốn có cả kho tàng kia nữa. Đánh thêm một trận nữa, người anh ta bị thương, chịu đựng không nổi, anh ta ngã xuống dưới Trang. Biết rõ anh ta có tờ bản đồ kho tàng, họ bắt anh ta phải nộp ra. Anh ta nói: “Bản đồ không giấu ở trong người ta. Ai có can đảm thì theo ta đi mà lấy! Hà! Hà!” Thế là bọn họ khó xử quá. Tha anh ta, khi thuốc mê tan rồi, ai là người đủ tài kềm chế nổi? Giết anh ta, không bao giờ họ lấy được bản đồ kho tàng đó. Sau cùng, ý kiến của cha tôi tài lắm! Hà! Hà! Thông minh lắm! Có phải thế không? Lúc ấy, anh ta mê man bất tỉnh, và tôi cũng chết ngất không hay biết gì cả. Tới khi tôi tỉnh lại họ đã khám xét kỹ lưỡng người anh ta rồi, quả nhiên không có tờ bản đồ trong đó thật. Họ liền cắt đứt gân chân và gân tay của anh ta, khiến sau nay anh ta không còn dùng được sức khỏe nữa, rồi họ mới tha anh ta đi, và bắt ép phải đưa nộp tờ bản đồ. Thông minh thật! Có phải không? Hà! Hà! Hà!
Thấy tâm trí của Ôn Nghi thất thường, Thừa Chí liền khuyên giải:
– Mời bác hãy về phòng nghỉ ngơi đi!
– Tôi không đi! Nếu cậu đi rồi thì các người sẽ giết tôi ngay, nên tôi phải nói hết cả ra mới được hả dạ mát lòng Rồi họ áp giải anh ta đi. Trong năm anh em không ai tin cậy ai cả, lại có thêm hai tay hảo thủ phái Nga Mi cùng đi nữa. Ai ai cũng muốn được hưởng món hoạnh tài đó. Không hiểu tại sao, bọn họ lại để cho anh ta tẩu thoát. Có lẽ khi anh ta nộp bản đồ kho tàng cho họ, vì sung sướng quá họ không đề phòng gì cả, nên anh ta mới chạy thoát được. Bọn họ thông minh lắm, nhưng chàng Kim Xà Lang Quân của tôi cũng không dại dột gì. Bọn họ bảy người cướp được bản đồ đó, tranh giành lẫn nhau. Năm anh em liền mưu mô diệt trừ hai hảo thủ phái Nga Mi trước nhứt.
Ôn Minh Nghĩa đứng bên ngoài quát tháo:
– Ôn Nghi, mầy còn nói lếu nói láo thì liệu hồn mầy đấy!
Ôn Nghi cười:
– Tôi đã không sợ chết thì ai muốn làm gì thì làm!
Nàng quay đầu lại nói với Thừa Chí:
– Ngờ đâu bản đồ đó lại là bản đồ giả. Năm anh em ở Nam Kinh loay hoay nửa năm trời, tiền tiêu tốn trên vạn lạng mà chả kiếm ra xu nhỏ nào cả. Hà! Hà! Tôi khoái trí quá! Thật là không còn gì sung sướng bằng.
Năm anh em họ Ôn ở bên ngoài cứ nghiến răng. Vì nể sợ Thừa Chí, nên không ai dám xông vào trong đình nghỉ mát đó. Nói tới đây, Ôn Nghi ngẩn người giây lát rồi tiếp tục nói khẽ và chậm chạp:
– Từ đó không được tin tức gì về anh ta. Gân tay và chân đã bị họ cắt đứt cả, nên anh ta tựa như một phế nhân vậy. Vốn xưa nay vẫn có tánh kiêu ngạo và tự cao, anh ta không chết vì đau khổ thì cũng sẽ uất ức mà chết
Ôn Minh Đạt lên tiếng gọi:
– Họ Viên kia, mi đã nghe thấy nó nói về Ngũ Hành trận của chúng ta rồi. Vậy mi có dám ra đấu thử với chúng ta không?
Ôn Nghi khẽ nói:
– Cậu đi đi thôi! Đừng đấu với họ làm gì.
Thừa Chí đã thử tài với năm anh em họ Ôn rồi, một chọi một chưa có người nào địch nổi chàng. Nhưng nay phải đấu với cả năm anh em cùng một lúc, lại thêm Ngũ Hành trận họ thao luyện đã thuần thục lắm, Thừa Chí chưa dám quả quyết có thể thắng nổi hay không. Xét theo lời Ôn Nghi thì trận đó căn cứ vào Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngũ Hành tương sinh tương khắc, khó lòng mà phá nổi. Hơn nữa, buổi đầu giao đấu, cả hai bên đối với nhau đều không có thù oán gì cả nên ai nấy ra tay đều có chừng mức thôi. Bây giờ, hai bên đã trở nên thù địch, và bên anh em họ Ôn hiểm độc lắm, vì vậy Thừa Chí còn trù trừ chưa quyết định hẳn nên đánh hay không?
Ôn Minh Nghĩa liền khiêu khích:
– Nếu không dám đánh thì cứ quỳ lạy chúng ông ba lạy, chúng ông sẽ tha cho mi đi!
Ôn Minh Thi với giọng nham hiểm:
– Bây giờ có chịu van lạy cũng muộn mất rồi!
Thừa Chí dõng dạc trả lời:
– Nghe nói Ngũ Hành trận của họ Ôn lợi hại vô cùng vậy tiểu bối cũng muốn được kiến thức đôi chút. Nhưng hiện giờ tiểu bối đang mệt mỏi, vậy cho phép tiểu bối được nghỉ ngơi độ một giờ có được không?
Ôn Minh Nghĩa trả lời:
– Mi muốn nghỉ một giờ cũng được. Mà dù mi nghỉ thêm năm, mười ngày cũng không chạy thoát được đâu!
Ôn Minh Sơn nói khẽ với các anh em:
– Chưa biết thằng nhãi con này định giở trò quỷ kế gì đây? Chúng ta phải đánh ngay nó đi!
Ôn Minh Đạt cản lại:
– Chú Hai đã nhận lời rồi, thì cho nó sống sót thêm một giờ nữa, để nó chết khỏi oán hận. Quý hồ chúng ta canh gác cẩn thận đừng để cho nó tẩu thoát.
Ôn Minh Ngô nói:
– Nếu vậy bảo nó vô trong Luyện Võ sảnh nghỉ ngơi, rồi chúng ta vây xung quanh nó.
Ôn Minh Đạt gật đầu, cất cao giọng nói:
– Họ Viên kia, mi vào trong Luyện Võ sảnh nghỉ ngơi đi. Chớ ở đây, nhỡ mi đào tẩu thì sao?
Thừa Chí trả lời:
– Cũng được!
Nói xong, chàng đứng dậy đi. Mẹ con Ôn Nghi lo ngại hộ chàng, muốn ngăn cản nhưng vô kế khả thi đành phải đi theo chàng vào trong nhà.
Tới Luyện Võ sảnh, Ôn Minh Đạt sai người thắp mấy chục cây nến lớn rồi.
– Khi cháy hết những cây nến này, đã đủ thì giờ cho mi nghỉ ngơi chưa?
Thừa Chí gật đầu, rồi ngồi xuống chiếc ghế bày giữa sảnh. Năm anh em họ Ôn bày ghế ngồi xung quanh, vây thành vòng tròn vây Thừa Chí ở giữa. Năm người đều nhắm mắt lại tĩnh dưỡng. Ngoài ra còn Ôn Nam Dương, Ôn Chính và các hảo thủ của phái Thạch Lương, tổng cộng mười sáu người ngồi trên mười sáu chiếc ghế nhỏ vây vòng ngoài. Thừa Chí thấy bọn đó ngồi theo phương vị Bát Quái, để phù trờ phù trợ cho trận Ngũ Hành liền nghĩ thầm rằng: “Nếu ta muốn xông ra khỏi thế trận ngoài, chắc sự khó khăn không kém gì thế trận trong.”
Nghĩ đoạn, chàng ngồi xếp bằng tròn trên ghế, hai tay buông xuôi xuống, nhắm mắt để hồi nhớ lại những võ công mà sư phụ đã dạy bảo chàng. “Suy đi tính lại bị hai mươi mốt tay hảo thủ vây đánh như thế này, mình chỉ có thể giữ thế thủ mà thôi, còn muốn xông ra khỏi thế trận để thoát thân thì khó lắm! Nhưng nếu bảo thủ quá lâu, hơi sức sẽ kém sút dần, rốt cuột mình vẫn bị thất bại. Võ nghệ cao cường như Kim Xà Lang Quân mà còn không phá nổi Ngũ Hành trận, đủ thấy trận thế này lợi hại như thế nào?”
Đang lo nghĩ, chàng bỗng “linh cơ nhứt động”, nghĩ tới mấy trang sau cùng trong cuốn Kim Xà bí kíp. Lần đầu tiên, khi đọc tới mấy trang đó, chàng không hiểu tí gì. Đến lần thứ hai xuống hang động trông thấy những bức hình vẽ trên vách đá và tham chiếu với các lời chú thích trong Bí kíp, chàng mới lãnh hội được những thế võ đó. Tuy vậy, lúc bấy giờ chàng vẫn không hiểu tại sao Kim Xà Lang Quân lại sáng tạo ra những miếng võ phức tạp như thế để làm gì.
– “Trong lúc đối chiếu, dù kẻ địch võ nghệ cao cường đến mức nào cũng không thể một lúc tấn công cả bốn bề tám phương. Như vậy, những thế võ này rõ ràng để đối phó các mặt đồng thời tấn công.”
Nghĩ tới đây, Thừa Chí liền tỉnh ngộ và bảo thầm: “Có lẽ sau khi thất bại và tẩu thoát, Kim Xà Lang Quân mới cố công nghĩ ra những thế võ này, mục đích để đối phó với Ngũ Hành trận. Ông ta sáng chế ra những thế võ này tất nhiên là muốn tới Thạch Lương để báo thù. Nhưng tiếc thay, gân tay gân chân của ông đã đều bị cắt đứt rồi, không thể nào dùng sức được nữa. Ông ta ghi chép kỹ lưỡng như thế, nhưng lại làm thêm Bí kíp giả, và hộp sắt giả, và còn đặt thêm cơ quan cùng tên độc nữa. Sở dĩ ông ta làm như thế để đề phòng trường hợp phái Thạch Lương trộm cắp được cuốn Bí kíp này cũng nên. Do sự tình cờ mà ta học được những thế võ đó ngày nay mới có thể thoát nạn, và đồng thời cũng báo thù giải oán cho vị ân sư mà ta chưa hề gặp mặt bao giờ. Chắc ông ta ở dưới chín suối cũng được vui lòng hả dạ lắm. Như vậy, thật không uổng công ông ta đã tạo hết tâm trí trước khi lìa khỏi cõi trần.”
Càng nghĩ, Thừa Chí càng hớn hở mừng thầm, mở mắt nhìn xung quanh, thấy các cây nến đang cháy chỉ còn độ một tấc nữa là hết. Năm anh em họ Ôn nhìn nét mặt chàng, thấy lúc lo sợ, lúc vui mừng, chẳng hiểu chàng định giở trò gì? Nhưng họ ỷ có Ngũ Hành, Bát Quái trận thần diệu vô cùng nên rất khinh thường, không coi Thừa Chí vào đâu cả. Họ chỉ trợn tròn mười con mắt, cẩn mật đề phòng sợ chàng thừa cơ tẩu thoát thôi.
Thừa Chí nhắm mắt định thần ôn lại các thế võ ghi trong “Kim Xà bí kíp” một lần nữa. Khi nghĩ tới thế “Khoái đao trảm loạn nia” (dao sắc chém gạt rồi). Chàng giựt mình toát mồ hôi lạnh miệng kêu thầm “Nguy to rồi!”
Chàng lại thầm nghĩ: “Mấy chục miếng võ sau đều nhờ vào bảo đao bảo kiếm khiến kẻ địch không dám đến gần, rồi thừa cơ loạn đả trận thể của họ. Nhưng hiện giờ Kim Xà kiếm không mang theo bên mình, vậy biết làm sao bây giờ?”
Thanh Thanh đứng một bên cứ chăm chú nhìn chàng. Lúc ấy, thấy chàng bỗng tỏ vẻ lo sợ, trên trán toát mồ hôi lạnh, nàng nghĩ thầm: “Chưa giao chiến mà chàng đã uể oải thế kia, thì làm sao hạ nổi cường địch cơ chớ”
Trông thấy các ngọn nến sắp tàn cả rồi, mà cách phá trận vẫn chưa nghĩ ra, chàng càng lo ngại. Lúc ấy một con A Hoàn bưng bát nước trà đến trước mặt chàng:
– Mời Viên tướng công dùng trà!
Đang ngẩn người và trong lúc xuất thần, Thừa Chí không nghĩ ngợi gì cả, thuận tay cầm bát nước trà đưa lên miệng định uống. Bát đã dính môi rồi chỉ nghe thấy “keng” một tiếng, tay chàng hơi run động và bát trà đó đã bị ám khí đánh rơi, vỡ làm muôn mảnh. Thừa Chí đưa mắt nhìn thấy Thanh Thanh vừa rút tay lại, biết ngay nàng vừa lao mũi tên đó, liền giựt mình nghĩ thầm: “Nguy hiểm thật! Sao ta lại hồ đồ đến thế? Không nghĩ tới bọn họ cho ta uống cái thứ thuốc mê gì gọi là Túy Tiên Mật ấy!”
Thấy mưu kế không thành, Ôn Minh Ngô tức quá, quát tháo mắng chửi liền:
– Thật là nòi nào giống nấy có khác! Tổ tiên nhà họ Ôn ta không tích đức nên mới sanh ra những đứa khốn nạn phản thần như thế?
Thanh Thanh không chịu lép vế, trả đũa ngay:
– Chỉ vì tổ tiên nhà họ Ôn tích đức nhiều quá, nào là tu kiều chỉnh lộ, nào là cứu giúp người nghèo, bất cứ việc thiện gì cũng làm cả!
Mấy câu đó châm biếm anh em họ Ôn chỉ chuyên môn làm những điều bạc ác bất nhân. Ôn Minh Ngô giận quá, nhảy lên định đánh, Minh Đạt vội cản lại:
– Chú Năm nên bình tĩnh một chút và cẩn thận trông coi thằng nhỏ.
Lúc này, vẻ mặt Thừa Chí bỗng tươi tỉnh vui vẻ hẳn, thì ra hành động của Thanh Thanh vừa rồi khiến chàng sực nghĩ tới việc sử dụng ám khí. Chàng nghĩ thầm: “Sao ta không dùng ám khí? Tài ném ám khí của ta còn giỏi hơn Kim Xà Lang Quân. Hơn nữa trong người ta còn có chiếc áo cánh của Mộc Tang đạo trưởng tặng. Đến lúc khẩn yếu, ta cứ việc giơ lưng ra chịu và đòn rồi thừa cơ đánh phá địch trận.”
Không chờ tới lúc các ngọn nến cháy hết, chàng đã đứng dậy nói:
– Xong rồi! Xin quý vị chỉ giáo cho!
Minh Đạt sai người đốt lên những cây nến mới.
Thừa Chí lại nói:
– Lần này, sau khi đã phân thắng bại rồi thì sao?
Minh Đạt nói:
– Mi thắng cứ việc đem số vàng đó đi. Nếu mi thua, khỏi phải nói chuyện nữa!
Chàng biết nếu bại trận sẽ mất toi mạng, nhưng nếu thắng, chàng lại sợ họ tráo trở không chịu thú nhận là bại liền nói:
– Nếu vậy, quý vị hãy đem cả số vàng ra đây, nếu thắng, tôi xin phép đem đi liền.
Thấy sắp chết đến nơi mà chàng còn làm cứng, năm anh em họ Ôn đều nghĩ thầm: “Tài như Kim Xà Lang Quân mà còn bị toi mạng trong trận Ngũ Hành của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta đã trải qua mười mấy năm nghiên cứu kỹ lưỡng và còn sáng tạo thêm Bát Quái trận bao vây bên ngoài thì mi tẩu thoát làm sao nổi?
Thế trận này dù có đối phó với ba bốn chục hảo thủ hãy còn dư sức. Có thể nói đó là ⬘Trấn Sơn chi bảo⬙ của phái Thạch Lương, nhưng ít khi họ đem ra sử dụng vì sợ người ta đồ thám trộm được sự thực hư của nó. Lần này, vì võ nghệ của Thừa Chí quá mạnh, những nhân vật từng nổi tiếng khắp giang hồ như năm anh em họ Ôn mà chỉ đấu được vài hiệp là người nào người nấy đều bị chàng đánh bại cả nên năm anh em bàn tán mãi đành phải đem thế trận riêng biệt của họ Ôn ra, dù sau này giới giang hồ có chê họ ⬘Cậy nhiều thắng ít, thị lớn bắt nạt bé,⬙ họ cũng bất chấp. Ôn Minh Đạt liền bảo Thanh Thanh đem số vàng đó cho chàng trước đó phải là hơn không?”
Nghĩ đoạn, nàng vào nhà trong bưng gói vàng ra, để trên mặt bàn. Minh Sơn nói:
– Không cần phải đóng cọc làm trang nữa. Chính! Con lấy những thoi vàng ra dựng ngược lên bày theo trận đồ đi!
Ôn Chính vâng lời, lấy vàng thoi dựng ngược lên trên mặt đất, ở giữa quây thành Thái Cực đồ, bên ngoài bày thành hình Bát Quái. Năm anh em họ Ôn đồng thanh nói:
– Lên đi!
Cả năm người đều cầm khí giới trong tay. Mỗi người nhảy lên đứng trên một thoi vàng.
Thừa Chí đang định nhảy vào ứng chiến bỗng trên nóc nhà có tiếng người cười ha hả và nói:
– Các ông già họ Ôn kia! Ta Vinh Thái đến tận cửa xin chịu lỗi đây!
Năm anh em họ Ôn đều sợ hãi, rồi lên tiếng gọi:
– Xin mời xuống đây!
Lúc ấy trên nóc nhà thấy lố nhố độ mười mấy người, cao có lùn có. Họ bảo nhau nhảy cả xuống. Người dẫn đầu là Vinh Thái, Bang chủ bang Long Du. Thừa Chí đưa mắt nhìn Thanh Thanh thấy nàng tuy muốn giữ vẻ điềm tĩnh nhưng thần sắc của nàng chứng tỏ sự băn khoăn lo ngại.
Minh Đạt nói:
– Lão Vinh! Nửa đêm canh ba bạn giáng lâm nơi tệ xá chẳng hay có việc gì muốn chỉ giáo thế? Ô kìa! Cả Lã Nhị tiên sinh phái Phương Nam cũng tới nữa!
Vừa nói y vừa chắp tay vái chào người nho sĩ đứng đàng sau Vinh Thái. Vinh Thái nói:
– Ông già họ Ôn tốt phước quá! Có cô cháu võ nghệ cao cường mưu kế lại giỏi dang, không những đã giết chết Sa lão đại lại còn đánh bại mười mấy đứa đàn em.
Ngay như lão đây cũng phải chịu kém cô ta nốt.
Anh em họ Ôn không hay biết gì về chuyện xích mích đã xảy ra giữa Thanh Thanh với bang Long Du. Từ trước tới giờ, hai phái vẫn giao hảo thân thiện với nhau.
Nay đứng trước mặt cường địch, anh em họ Ôn không muốn sanh sự lôi thôi thêm.
Minh Đạt liền nói:
– Lão Vinh! Nếu cháu gái tôi làm điều gì không nên không phải, chúng tôi quyết không bênh vực. Cháu nó giết người thì phải thường mạng, còn nợ nần thì trả tiền, như thế lão đã bằng lòng chưa?
Vinh Thái ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Lão già này vốn tánh xưa nay rất kiêu ngạo, sao hôm nay lại ăn nói dịu dàng đến thế? Hay là y sợ Lã Nhị Tiên sinh quá mà nên chăng?”
Y đưa mắt nhìn khắp nơi trong Võ Sảnh bỗng trông thấy đứng ở đó, y ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Không ngờ, họ đã có một tay sừng sỏ tới đây giúp đỡ, vậy chưa chắc Lã Nhị Tiên sinh đã thắng nổi. Chi bằng, nhân lúc họ nể sợ, ta hãy tạm ngừng tay xem sao đã!”
Nghĩ xong, y nói:
– Bang Long Du chúng tôi cùng với quý phái xưa nay đôi bên vẫn giao hảo với nhau. Nay chúng tôi nể mặt các quý vị lão gia, nên không nói tới cái chết của Sa lão đại nữa. Chúng tôi chả dám oán trách bởi tài nghệ của y kém cỏi nên mới bị thiệt thòi đến thân thôi! Nhưng còn số vàng này
Nói tới đây, y đưa mắt nhìn các thoi vàng bày la liệt dưới đất, rồi nói tiếp:
– Chúng tôi theo dõi số vàng này từ lâu rồi đã đi theo mấy trăm dặm đường, tốn rất nhiều tâm huyết, và còn có người mất mạng vì nó nữa. Chúng ta cùng ở trên giang hồ kiếm ăn
Thấy Vinh Thái nói tới đây không nói tiếp nữa, Minh Đạt biết ngay họ tới đây vì tiền tài chớ không phải vù thù hằn chi nên nói:
– Đó, số vàng còn cả đây! Vinh lão huynh muốn lấy thì cứ việc đem cả đi!
Bỗng thấy Nhứt Tổ nói một cách khí khái như vậy, Vinh Thái lại tưởng lầm rằng Minh Đạt muốn nói bông đùa để diễu cợt cho nhưng xem kỹ sắc mặt thì Minh Đạt không có một ác ý gì cả. Vinh Thái liền hỏi:
– Nếu Ôn đại gia vui lòng ban cho đệ phân nửa số vàng để chữa chạy cho mấy anh em bị thương và làm tiền tử tuất cho mấy chú em bị thiệt mạng thì anh em chúng cũng cảm ơn vô cùng rồi
Ôn Minh Sơn nói:
– Mời lão huynh cứ tự tiện lấy đem đi!
Vinh Thái chắp tay vái lạy rồi nói:
– Như vậy chúng tôi xin cảm ơn vô cùng.
Nói xong, y ra hiệu cho hai tên đại hán đứng sau cúi xuống nhặt những thoi vàng.
Hai tên đó tay vừa mó tới thoi vàng, bỗng có người khẽ đẩy vai một cái, cảm thấy một sức mạnh đẩy lùi lại. Rồi cả hai cùng bị bắn ra phía sau mấy bước. Chúng ngẩng đầu lên đã thấy Thừa Chí đứng sững trước mặt.
Thừa Chí nói:
– Vinh lão gia! Số vàng này là lương bổng của quân đội Sấm Vương. Lão gia lấy đi không được đâu
Danh tiếng của Sấm Vương chỉ trấn át nổi Võ lâm miền Bắc thôi chớ anh em giang hồ ở vùng Giang Nam chưa từng biết tiếng mấy. Vinh Thái quay lại vừa cười vừa nói với Lã Nhị:
– Y đem tiếng tăm của Sấm Vương ra dọa nạt chúng ta đấy!
Lã Nhị tiên sinh tay cầm ống điếu đồng, hít mạnh một hơi thuốc, ung dung thở khói ra, rồi thong thả đưa mắt lên ngắm nhìn Thừa Chí. Thấy vẻ kiêu ngạo và ra cái điều đây người già cả của Lã Nhị, Thừa Chí đã nổi giận rồi. Nhưng thấy Lã Nhị đôi mắt có thần và sắc mặt hồng hào, Thừa Chí đoán y cũng là một hảo thủ tên tuổi ở Võ lâm nên chàng không dám khinh thường, liền cúi chào và nói:
– Tiền bối có phải họ Lã không? Hãy tha thứ cho tiểu bối, vì mới tới Giang Nam nên chưa được biết quý đại danh!
Lã Nhị không thèm trả lời, phun hơi khói vào mặt chàng. Y lại hút thêm một hơi thuốc, nhưng lần này y dùng mũi phun khói vào mặt chàng phen nữa. Thấy Thừa Chí chưa tỏ vẻ gì, Thanh Thanh không nhịn được định lên tiếng nhưng Ôn Nghi đã nắm cánh tay nàng bóp khẽ một cái. Quay đầu lại, thấy mẹ lắc đầu ra hiệu, Thanh Thanh đành chịu làm thinh. Lã Nhị gõ đầu ống điếu xuống mặt gạch để đổ tàn thuốc ra. Tiếng kêu “tốc tốc” một hồi. Đổ hết tàn ra, y lại nhồi thuốc vào điếu. Lúc ấy, chính anh em họ Ôn cũng không thể nhịn được, nhưng họ nể Lã Nhị đã lừng danh khắp chốn giang hồ mấy chục năm trời nay. Nghe nói năm xưa, y chỉ cậy có thế võ “Hạc Hình quyền” mà khắp Giang Nam và Giang Bắc không ai địch nổi. Vả lại ống điếu đồng của y là món khí giới lạ, có thể điểm huyệt, hoặc đoạt được võ khí của địch. Nhưng sự thật, tài nghệ của y giỏi tới mức nào, chưa ai được trông thấy.
Bởi thế, anh em họ Ôn chỉ mong y giao chiến với Thừa Chí. Nếu y chiến thắng thì càng hay, bằng không, ít ra cũng có thể làm giảm mất phần nào hơi sức của Thừa Chí.
Trong khi Lã Nhị lấy đá lửa và bật ra đánh lửa để châm thuốc hút, thì bỗng trên đỉnh nóc nhà có tiếng người thét lên rằng:
– Mau trả lại số vàng cho chúng ta!
Rồi một thiếu nữ và một thiếu niên tráng kiện nhảy xuống, theo sau hai người ấy còn có một người trạc độ năm mươi tuổi, ăn mặc như một nhà buôn, tay trái cầm bàn toán, tay phải cầm cây bút, trông rất ngộ nghĩnh.
Thấy thiếu nữ đó là Tiểu Tuệ, Thừa Chí vừa mừng vừa lo. Chàng mừng vì có người tới giúp đỡ. Nhưng còn hai người kia võ nghệ ra sao, chàng không rõ? Bây giờ, kẻ địch ngoài phái Thạch Lương lại còn thêm bọn Long Du và Lã Nhị tiên sinh. Hơn nữa, mẹ con Thanh Thanh đang ở trong hoàn cảnh rất nguy hiểm, thế nào cũng phải cứu họ tẩu thoát khỏi nơi này mới được. Nếu hai người mới tới kia võ nghệ chỉ ngang với Tiểu Tuệ thôi thì mình còn phải mất công bảo vệ họ, như vậy có phải nguy tai không? Lúc bấy giờ, trong đệ tử của anh em họ Ôn đã có người chạy ra ngăn cản và quát hỏi mấy người kia. Người thiếu niên nọ lớn tiếng nói:
– Mau trả lại số vàng kia cho chúng ta!
Thấy vàng để lăn lóc dưới đất, y nói xong cúi xuống nhặt liền. Thừa Chí cau mày nghĩ thầm: “Người này lỗ mãng như thế, không thể nào làm nổi việc lớn.”
Ôn Nam Dương thấy thiếu niên nọ đang cắm cúi nhặt vàng, liền phi chân nhắm cánh tay hắn mà đá. Tiểu Tuệ vội gọi:
– Thôi sư huynh hãy đề phòng!
Tuy tánh nết thô lỗ nhưng võ nghệ của y cũng khá. Nghe thấy Tiểu Tuệ gọi, y né mình tránh cái đá ấy rồi thuận chân sấn lại gần Nam Dương, dùng song chưởng bổ xuống luôn. Không kịp lùi để tránh, Nam Dương phải giơ song chưởng đỡ. Tứ chưởngvừa va chạm, cả hai đều lùi lại vài bước. Thiếu niên nọ định tiến lên nhưng người ăn mặc lối nhà buôn vội gọi ngay:
– Hãy khoan Hy Mẫn!
Thừa Chí sực nhớ đến bữa nọ Tiểu Tuệ có nói rằng: “Nàng cùng một người họ Thôi đi hộ tống số vàng. Vì có sự xích mích, nên hai người cãi lộn, rồi giữa đường chia tay. Bởi vậy số vàng mới bị Thanh Thanh xuất kỳ bất ý cướp mất. Như vậy, người thiếu niên này tất là cháu của Thôi Thu Sơn tức là Ngọc Diện Kim Cương Thôi Hy Mẫn không sai rồi. Còn người thương gia này có lẽ là Đại sư huynh của mình tên là Đồng Bút Thiết Toán Bàn Hoàng Chân chắc?”
Chàng nhìn kỹ lại, thấy tay phải người thương gia ấy cầm cái bút lập lòe chói lọi, quả nhiên lúc đó bằng đồng rồi. Mừng quá, chàng nhảy tới trước mặt người nọ, quỳ xuống lạy và nói:
– Tiểu đệ Viên Thừa Chí xin kính chào đại sư huynh.
Hoàng Chân vội đỡ chàng dậy, ngắm nhìn giây phút, rồi hớn hở nói:
– sư đệ, không ngờ chú còn trẻ tuổi thế này! May mắn làm sao anh em mình lại gặp gỡ nhau ở nơi đây!
Tiểu Tuệ tới gần nói:
– Thừa Chí đại ca! Em xin giới thiệu Thôi sư huynh của em.
Thừa Chí gật đầu chào Thôi Hy Mẫn. Thấy trên lưng Thừa Chí có ít cỏ khô, Tiểu Tuệ khẽ phủi đi cho chàng. Thừa Chí mỉm cười tỏ vẻ cám ơn. Thấy vậy, Hy Mẫn cau mày ngụ ý không bằng lòng. Hoàng Chân trông thấy mắng liền:
– Hy Mẫn, sao con vô lễ đến thế? Có mau mau quỳ xuống lạy sư thúc đi không?
Nhận thấy Thừa Chí còn kém mình mấy tuổi, Hy Mẫn trong lòng không phục, liền từ từ đi tới, làm điệu sắp quỳ. Thừa Chí vội cản lại:
– Tôi không dám!
Chàng giơ hai tay ra đỡ, Hy Mẫn liền đứng dậy ngay. Y chỉ gật đầu chào một cái rồi nói:
– Tiểu sư thúc!
Hoàng Chân mắng ngay:
– Cái gì là tiểu sư thúc, đại sư thúc? Dù tuổi mày lớn hơn chú ấy thật, nhưng chú ấy vẫn là bề trên của mầy!
Thừa Chí vừa cười vừa hỏi Hy Mẫn:
– Chú anh có mạnh không? Đã lâu tôi không nhận được tin của ông ấy, tôi nhớ lắm.
– Cám ơn sư thúc. Chú tôi nhờ trời vẫn được mạnh khỏe.
Lã Nhị tiên sinh thấy họ chào hỏi nhau sư huynh, sư đệ, sư thúc, sư điệt tíu tít cả lên, chẳng coi ai ra gì, nên không nén nổi tức giận, liền xách ngược, ngẩng đầu nhìn lên trên trần nhà, rồi hỏi:
– Hai người mới tới là những tên nào?
Y vừa lên tiếng, ai nấy đều giựt mình thất kinh. Vì tiếng nói của y giống hệt tiếng chim cú kêu nghe rất ghê tai, và còn pha thêm giọng khàn khàn như thanh la bể, nên không ai nghe thấy y nói gì cả. Bước lên một bước, Hy Mẫn nói:
– Số vàng này của chúng ta đã bị các người lấy trộm mà. Hiện giờ thầy trò tay đến đây lấy lại số vàng này!
Lã Nhị tiên sinh vẫn nhìn ngược lên trần nhà, miệng phun khói thuốc, đột nhiên “khà, khà” cười nhạt hai tiếng.
Thấy y cứ giở mãi cái điệu già cả, tỏ vẻ khinh thường hết thảy mọi người, Hy Mẫn nổi xung, hất hàm hỏi:
– Chẳng hay đây người có chịu trả lại số vàng này không? Ông cứ việc nói thẳng ra đi! Nếu ông không có quyền giải quyết vấn đề này thì mời người nào có thể chủ chốt hãy ra đây nói chuyện.
Lã Nhị tiên sinh lại cười gằn hai tiếng, rồi quay lại nói với Vinh Thái:
– Anh nói lại cho tụi nhãi con này biết, tôi là hạng người thế nào!
Vinh Thái quát lớn:
– Vị này là Lã Nhị tiên sinh tiếng tăm lừng lẫy xưa nay. Các ngươi chớ có run sợ thất kính vội, hãy cho ta biết: Tại sao tuổi trẻ như thế lại dám vô lễ với bực tiền bối như vậy?
Thật tình Hy Mẫn không biết Lã Nhị tiên sinh là ai, chàng cũng lớn tiếng trả lời:
– Mặc các ngươi là cái gì tiên sinh, ta không cần biết! Ta chỉ biết đến đây lấy lại số vàng thôi!
Ôn Nam Dương vừa giao chiến với chàng chưa phân thắng bại, đang nóng lòng sốt ruột, liền nhảy ra trả lời:
– Lấy lại số vàng, có phải là chuyện dễ đâu? Ngươi có tài, hãy thắng nổi ta đã rồi mới được nói tới chuyện những thoi vàng này!
Vừa nói xong, y không chờ đối phương trả lời, đã nhảy xổ lại đấm luôn một quyền. Không kịp đề phòng, bị một đấm vào vai, Hy Mẫn nổi giận, múa ta trái nhanh như gió, trả đũa luôn một quyền vào bụng Ôn Nam Dương nghe đánh “bục” một tiếng.
Hai người cùng bị đau đều nhảy lùi lại, trợn mắt nhìn nhau.
Rồi lại cùng xông vào đánh luôn. Cả hai đều tấn công rất mạnh và phòng hờ lại rất sơ hở nên chưa đầy một hiệp, đánh đấm “bình bình, bộp bộp” làm điếc tai mọi người. Cả hai cùng bị đánh trúng đầu, vai ngực bụng đến mấy chục lần.
Thừa Chí thở dài và nghĩ thầm: “Tại sao sư huynh ta lại dạy thứ đồ đệ bất tài thế kia? Nếu gặp phải một hảo thủ, y chịu sao nổi một hai quyền của người ta? Tại sao Thôi thúc thúc không chỉ dẫn cho y một vài miếng?”
Thì ra Hy Mẫn tuy rất chính trực nhưng tánh lại nóng nảy. Lúc học võ, y rất lười biếng. Đã gia nhập môn trong bao lâu y vẫn chưa học được nổi một phần tài nghệ của Hoàng Chân. Nhờ được thân hình vạm vỡ và có đôi chút sức khỏe, y có thể chịu đựng nổi một vài đòn.
Trong lúc hỗn chiến, y dùng tay phải đấm hở một cái, Ôn Nam Dương tránh sang bên phải, y giơ tay trái đón sẵn, đấm luôn một quyền cước, trúng ngay cằm của NamDương nghe đánh “bộp” một cái. Cả một thân hình to lớn như trái núi nhỏ của Nam Dương ngã lăn xuống đất rồi chết giấc liền. Tỏ vẻ khoái trí, Hy Mẫn đưa mắt nhìn sư phụ, tin tưởng thế nào cũng được ban khen. Ngờ đâu, thấy sư phụ có vẻ giận dữ, chàng không hiểu tại sao? Chàng nghĩ thầm: “Ta đã đánh thắng, sư phục không khen thì chớ, trái lại còn tỏ vẻ trách mắng ta như vậy?”
Thấy môi và mồm chàng bị đánh sưng lên, tai bên phải máu tươi nhỏ giọt xuống. Tiểu Tuệ lấy khăn tay khẽ lau chùi cho chàng và nói nhỏ:
– Tại sao anh không tránh những miếng đấm của y mà cứ đánh loạn xạ như thế làm gì?
– Tránh cái gì? Nếu tránh, tôi đánh trúng y sao được?
Lã Nhị tiên sinh lại lên tiếng quái dị nói:
– Ngươi tưởng đánh ngã một người như thế đã tự cho là đắc chí lắm sao? Ngươi có muốn lấy lại số vàng không?
Vừa nói dứt lời, y nhảy lên đứng trên hai thoi vàng. Tay phải giơ cái điếu cày điểm một thoi vàng khác nói:
– Tha hồ ngươi dùng đấm hay đá, quý hồ lấy được ba thoi vàng này ra, ta sẽ trả tất cả số vàng ở đây cho ngươi.
Ai nấy nghe thấy Lã Nhị tiên sinh nói vậy đều cho y tự phụ và ngông cuồng quá.
Dù võ nghệ của Hy Mẫn có kém y đi nữa nhưng y chỉ dùng điếu cày điểm thoi vàng như vậy, mà dám coi thường Hy Mẫn không lấy ra được! Thôi Hy Mẫn nổi giận: “Quân tử nhất ngôn” ngươi không được hối hận và nuốt lời nhé?
Lã Nhị tiên sinh ngẩng mặt lên trời cả cười, rồi nói với Vinh Thái:
– Anh nghe thấy chưa? Nó sợ tôi hối hận đấy!
Vinh Thái đành phải gượng gạo cười theo. Hy Mẫn lại nói:
– Hay lắm! Coi tài của ta!
Tiến lên ba bước ngắm đúng thoi vàng nằm dưới điếu cày, chàng vận sức bên chân phải, dùng miếng “Tảo Đường cước” đá tạt ngang một cái.
Thừa Chí đứng cạnh trông thấy rõ ràng, ước lượng cái đá đó ít ra có hai ba trăm cân hơi sức, công lực của Lã Nhị tiên sinh có giỏi hơn Hy Mẫn thật nhưng cũng không thể nào dùng đầu cái điếu cày để giữ nổi thoi vàng kia, trừ phi y có pháp thuật quái dị thì khó nói.
Chân của Hy Mẫn sắp đụng tới điếu cày và thoi vàng. Lã Nhị bỗng hất cái điếu cày lên, điểm vào huyệt đầu gối của chàng. Cả cái chân của Hy Mẫn bị tê liệt tức thì, đầu gối bên phải khịu xuống và quỳ ngay tại chỗ. Lã Nhị chắp tay vái lia lịa, cả cười một hồi rồi nói:
– Tôi không dám.
Sợ hãi quá, Tiểu Tuệ vội chạy tới đỡ Hy Mẫn dậy, đến trước mặt Hoàng Chân rồi nói:truyện ma audio
– Hoàng sư bá, y gian trá, sư bá dạy ngay cho y một bài học.
Hy Mẫn lớn tiếng chửi rủa:
– Ngươi giở thủ đoạn đê hèn như vậy, còn tự xưng là anh hùng hảo hán cái thế gì?
Hoàng Chân chì tay xoa bóp lưng Hy Mẫn đoạn dùng ngón tay đâm vào đùi chàng ta một cái, giải ngay chỗ huyệt bị bế tắc rồi khẽ nói:
– Sau này mầy có lỗ mãng như thế nữa không?
Hoàng Chân thấy Lã Nhị điểm huyệt nhanh nhẹn như vậy cũng phải kinh ngạc thầm và nghĩ rằng: “Tại sao nơi hẻo lánh này lại có tay đả huyệt lợi đến thế?”
Khí giới bên tay trái của Hoàng Chân là cái bàn toán. Còn bên tay phải của chàng là cái bút đồng. Tất nhiên chàng cũng là một danh thủ đả huyệt. Giơ bàn tính lên, lấy tay gạt một cái, chàng nói:
– Món nợ này ta đã ghi vào sổ rồi.
Giơ thẳng bút đồng, chàng định bước lên lấy lại sĩ diện cho đệ tử. Thừa Chí nghĩ thầm: “Sư huynh là đại đệ tử phái Hoa Sơn, ta là sư đệ nên xuất trận trước mới phải lẽ!”
Nghĩ đoạn, chàng lên tiếng ngay:
– Đại sư huynh cho phép tiểu đệ lên trước. Nếu tiểu đệ thất bại lúc đó sư huynh hãy tiếp tay.
Thấy chàng còn ít tuổi quá, Hoàng Chân nghĩ thầm: “Dù sư phụ có truyền hết võ nghệ cho y, nhưng vẫn còn thiếu kinh nghiệm. Chỉ sợ địch không nổi Lã Nhị lỡ y có gì suy xuyển, có phải là đau lòng sư phụ không?”
Còn Hoàng Chân sở dĩ để cho Hy Mẫn đánh trận đầu là vì chàng biết tên đồ đệ ấy lỗ mãng tự đại quá, cần phải cho y chịu chút đau khổ, mới giảm bớt được tánh nết kiêu ngạo của y. Như vậy, sau này y mới biết thân mà khiêm tốn học hỏi. Nghĩ xong, chàng khẽ bảo Thừa Chí:
– Sư đệ, để anh đối phó cho!
Thừa Chí cũng hạ thấp giọng trả lời:
– Đại sư huynh, bên họ còn nhiều hảo thủ và còn có trận Ngũ Hành rất lợi hại. Lát nữa, còn một phen ác chiến, anh là chủ trương của chúng tôi, anh không nên ra trận vội!
Tuy thấy Thừa Chí cố chấp đòi đánh trước nhưng Hoàng Chân nhận biết chàng ta muốn tôn trọng mình liền nói:
– Nếu vậy, sư đệ nên cẩn thận một chút nhé!
Thừa Chí gật đầu, tiến một bước nói với Lã Nhị rằng:
– Chẳng hay ông có bằng lòng cho tôi đá thử một cái không?
Lã Nhị, phái Thạch Lương và bang Long Du tất cả mọi người đều ngạc nhiên và nghĩ thầm: “Vừa rồi tên thiếu niên vạm vỡ hùng dũng thế kia còn bị thiệt thòi đau khổ! Tại sao y còn không biết sống chết, dám xin thử thách như vậy!”
Thấy chàng còn trẻ hơn Hy Mẫn, Lã Nhị càng coi thường, vừa cười vừa nói:
– Cũng được! Nhưng ta cần phải dặn trước, nếu cậu cũng tái diễn cái trò quỳ lạy, tôi không dám nhận đâu nhé?
Vừa nói, y vừa gác điếu cày lên trên thoi vàng. Thừa Chí cũng bắt chước Hy Mẫn, tiến lên ba bước, giơ chân phải, phạt ngang một cái. Đứng cạnh trông, thấy chàng sắp bị như mình, Hy Mẫn lo quá kêu lên:
– Tiểu sư thúc, đừng đá như thế, nó sẽ điểm huyệt đấy!
Năm anh em họ Ôn đã giao chiến với Thừa Chí, biết chàng tuy tuổi còn trẻ nhưng võ nghệ cao siêu khôn lường. Bây giờ thấy chàng lại sa vào hố của Hy Mẫn, cả năm anh em đều lấy làm lạ. Họ nghĩ thầm: “Chẳng lẽ chàng biết tự bế huyệt đạo, không sợ người ta điểm huyệt nữa chăng? Như vậy thật buồn cười quá, không ai có thể tin được.”