Tam Điểm Chỉ
Tập 1: Tam Phong Ấn (c1-c10)
❮tiếp ❯Chương 1: Tam Phong Ấn
Truyền thuyết kể lại rằng, tại một ngôi làng nọ ven bìa rừng có một người đàn ông lớn tuổi chuyên đi bè đánh ca trên dòng sông cạnh mé rừng đó. Vào thời đó, hổ dữ hoành hành, chuyện mà người dân đi rừng, đi núi bị hổ vồ xé xác là chuyện như cơm bữa. Ông lão đánh cá đó ngày ngày đi bè trên sông, thấy cảnh tượng hổ vồ người đi rừng nhiều vô kể, và cũng đã không ít lần ông hét lớn ra hiểu cho người bị hại có thể thoát thân. Có lẽ ông lão này cũng đồng cảm với họ khi mà chính cha ông cũng là một nận nhân của hổ vồ. Nhờ có tiếng hô hoán lớn của ông lão báo hiệu hiểm nguy mà không ít người đã thoát khỏi bộ móng vuốt, hàm răng sắc nhọn của hổ. Người sống sót thì biết ơn ông rất nhiều, còn những con hổ kia thì như có lanh tánh, chúng nó nhận ra rằng chính ông lão là người đã ngăn chặn miếng mồi của chúng và cũng bắt đầu căm ghét ông lão. Vào một ngày nọ, ông lão lại đi bè dọc mé sông để đánh cá, nhưng ông nào có ngờ được rằng có một con hổ xám đang đứng trên vách đá dõi theo ông, con hổ xám này chính là con hổ đã bị ông cướp đi miếng mồi ngon bao lần. Con hổ xám này đứng từ trên cao, nó đưa cái đôi mắt giận dữ, thù hằn mà nhìn theo chiếc bè của ông lão. Đợi cho tới khi bè của ông lão trôi vào sát vách đá, bất ngờ con hổ xám này phi xuống nhẩy thẳng lên chiếc bè đó của ông. Chiếc bè được bện bởi nhiều thân tre lớn khi không bị vật nặng nhẩy lên thì khúc giữa bè, các thân tre bỗng bị tõe ra. Con hổ xám nhanh như chớp với chi trước tính vả chết ông lão.
Ông lão đã nhanh nhẹn bước lùi lại về phía đầu bè khiên cho con hổ xám không chỉ vồ chượt mà chi sau của nó bị thụt xuống giữa kẽ của hai thân tre. Con hổ này tính chồm người lên để vồ ông lão, thế nhưng mà khi nó vừa nhấc hai chi trước lên thì ngay lập tức 2 thân tre ở dưới kẹp chặt lại khiến con hổ xám này gầm lên đau đớn. Ông lão cứ đứng đó mà nhìn con hồ xám này cố vùng vẫy để rút chân khỏi hai thân tre đang kẹp chặt mà không được. Ông lão run rẩy rút con dao đi rừng bên hông ra và nhìn con hổ chằm chằm, con hổ này như linh tính được ý đồ của ông lão, nó càng vùng vẫy giữ tợn hơn nữa và nhe răng gầm gừ về phía ông lão. Cứ ngỡ rằng ông lão này sẽ cầm dao mà đâm chết con hổ, thế nhưng không, trong lòng ông bắt đầu xuất liện lòng trắc ẩn. Dẫu biết rằng con hổ xám này đã vồ chết rất nhiều người, và rất có thể trong đó có cả cha ông lão. Ông lão này cầm ngược lại con dao, thế rồi ông run rẩy từ từ tiến lại gần con hổ xám hơn mà nói:
– Ta nể tình ông trời có đức háo sanh. Hôm nay ta sẽ tha mạng cho ngươi, nhưng ta chỉ muốn người hãy đi nơi khác kiếm ăn, không được hại người nữa nghe chưa?
Con hổ xám này quả nhiên như có lanh tánh, ông lão vừa nói dứt câu tức thì nó im bặt hẳn, không còn gầm rú và vùng vẫy nữa mà đứng im như đợi ông lão. Ông lão này cũng như nhận ra con hổ này hiểu ý mình, ông cầm dao cúi xuống và cắt mấy đoạn dây bện thân tre phía chân con hổ xám. Dậy bện vừa cắt đứt thì ngay lập tức con hổ này rút được chi sau ra, nó phóng thẳng ngay lên mỏm đá. Thế nhưng trước khi chạy vô rừng, con hổ xám này quay đầu lại về phía ông lão, hai chi trước của nó co lại, hai chi sau thì thẳng tưng như thể ở tư thế cúi đầu để cảm tạ ơn cứu mạng của ông lão. Cũng kể từ đó mà ông lão không còn thấy bóng con hổ xám lai vãng quanh mé rừng này nữa.
Nhưng có lẽ số trời đã định, trong một lần quá đói ăn mà con hổ xám đã lần về mé rừng năm nào, và cái nạn nhân tiếp theo bị vồ lại chính là ông lão đáng thương trong một lần lên rừng kiếm củi. Chỉ khi vồ chết nạn nhân, hổ xám tính tha xác đi thì bất ngờ nó nhận ra cái gương mặt của ân nhân mình, con hổ xám hai mắt bỗng tuôn rơi hai hàng lệ, nó gầm lên một tiếng gầm ai oán rung chuyển cả núi rừng. Con hổ xám này tha xác của ông lão tới trước một ngôi chùa trên núi, nó cố xếp cho ông lão nằm ngay ngắn một bên, còn nó thì lại ở tư thế quỳ lạy bên cạnh trước cổng chùa. Lúc đầu sự trụ trì và các đệ tử không ai dám ra vì sợ hổ vồ, nhưng qua hai ba hôm con hổ vẫn đứng ở tư thế đó bên cạnh xác ông lão thì họ như hiểu ra được ý đồ của nó. Sau khi phải các đệ tử mang xác ông lão vào làm lễ cầu xiêu và chôn cất cẩn thận, vị sư trụ trì run rẩy tiến tới trước mặt con hổ xám vẫn đang quỳ lạy mà nói:
– Ta tin ngươi là con mãnh thú có linh tính, nay ta đã mang xác của bạn ngươi đi chôn cất tử tế. Ngươi có thể đi được rồi.
Vị sư này nói dứt câu thì ông ta ngỡ rằng con hổ xám sẽ đứng dậy bỏ đi, nhưng không, nó vẫn quỳ ở tư thế đó. Vị sự cúi người nhìn kĩ khuôn mặt con hổ, hai bên mắt nó vẫn tuôn rơi hai hàng lệ, vị sư trụ trì như hiểu ra, ông ta chấp tay lại nói:
– Mô phật, người chết không thể sống lại được. Ta hy vọng nhà ngươi không quá đau lòng.
Nói rồi vị sư trụ trì bước lại vào trong chùa. Cứ ngỡ rằng con hổ xám sớm muộn gì cũng bỏ đi, thế nhưng mà không, bao lâu sau mọi người vẫn thấy con hổ xám quỳ ở đó. Chỉ đên khi mà vị sư trụ trì đích thân mang nước ra cho nó thì ông ta mới nhận ra con hổ xám đã chết từ lâu rồi. Nó chết ở tư thế quỳ gối, chết mà hai mắt vẫn đẫm lệ. Quá cảm kích trước cái hình ảnh con hổ xám trọng tình nghĩa, vị sư trụ trì đã cùng đổ đệ làm lễ cầu siêu và đem chôn cất con hổ xám này như người. Bên cạnh đó sư trụ trì còn kể lại câu chuyện cảm kích cho người dân nghe, để họ góp công góp sức đúc một bức tượng hổ bước xuống các bậc cầu thang và đặt trong chùa, tựa như hình ảnh con hổ này đang đi xuống Âm Tào Địa Phủ để tìm lại ân nhân của nó mà tạ lỗi vậy.
Nếu nói rằng truyền thuyết trên là lời giải thích vì sao mà trước cổng chùa có những bức tượng khắc nổi vào tường hình ảnh một con hổ bước từ trên bậc thang đi xuống chính là hình ảnh con mãnh thú ngày nào đang xuống địa phủ tìm lại ân nhân mà ca ngợϊ ȶìиᏂ nghĩa của con mãnh thú. Nhưng có lẽ truyền thuyết đó chỉ giải thích một phần nào cái hình ảnh và ý nghĩa của bức điêu khắc nổi, vậy khái niệm Quan Mãnh Dần, một vị quan dưới Âm Tào Địa Phủ chuyên cân công đếm nghiệp dưới chướng của Diêm Vương thì từ đâu mà ra? Khái niệm thờ hổ có lẽ các bạn cũng đã hiểu phần nào nhờ vào truyền thuyết ở trên. Nếu nói rằng phương tây ca ngợi hình ảnh con sư tử là chúa tể của muôn loài, nằm quyền sinh sát trong tay thì phương đông chúng ta, hay như là Chấu Á lại ca ngợi hổ, hoặc cọp là chúa tể của muôn loài. Chẳng trách vì thế mà có lẽ các bạn vẫn thường nghe tới cụm từ “ông cọp”. Không chỉ dừng lại ở đó, tại một số nước như Thái Lan, Indonesia, Malay và thậm chí là cả Việt Nam còn có tập tục thờ hổ. Nếu bạn nào mà đam mê tìm hiểu về phong tục tập quán của Việt Nam ta sẽ không lạ gì việc thờ ngũ hổ. Ngũ hổ là năm ông hổ đại diện cho năm phương bao gồm: hoàng hổ ở giữa gọi là trung phương, xích hổ là phương nam, lục hổ là phương đông, bạch hổ là phương tây và hắc hổ là phương bắc. Tương truyền Việt Nam ta có tất thể là ba ông mãnh hổ trị vì, một là hắc hổ, hoàng hổ, và xích hổ. Còn có một khái niệm nữa mà không ít người biết đến đó là mệnh lưỡng long, tam dần. Người mang mệnh tam dần là người được sinh ra vào ngày dần, tháng dần, và năm dần. Những người mang mệnh tam dần được dân gian truyền rằng là hiện thân của quan mãnh dần, là người được ba ông hổ trị vì ở Việt Nam ban sức mạnh. Nhưng cái gì cũng có cái giá của nó, nếu như những người mang mệnh tam dần này có thể phát huy được tiềm năng, hay như là cái oai của mình thì họ sẽ không bao giờ sợ việc bị ma quỷ quấy rối, không bao giờ phải lo lắng việc bị bỏ bùa hay như thả ngải cả. Nhưng đổi lại, những người mang mệnh tam dần sẽ không bao giờ tham gia vào được cái buổi lễ như trấn trạch, gọi hồn, hay cầu siêu. Đơn giản là vì cái oai cúa họ quá lớn có thể lấn át và đẩy lùi bất kì một thế lực tâm linh nào. Ngoài ra, với những người khi đã phát huy hết được tiềm năng của bản thân, họ còn cần phải giấu mặt, giấu mặt ở đây là giấu mặt dưới âm để cho Diêm Vương không phát giác ra. Nếu như lộ mặt dưới âm, thì những người mang mệnh tam dần sẽ bị Diêm Vương phái quỷ sai lên đưa về Âm Tào Địa Phủ để giúp cho việc phán quyết.
… Ngày mà Hà ra viện …
Sau cái hôm ra viện vì bị nhiễm lạnh, thầy Trà có đưa cho Hà một chiếc mũ lưỡi chai đen để đội. Hà cầm mũ hỏi:
– Cái mũ này con phải đội liên tục hả thầy?
Thầy Trà gật đầu đáp:
– Không hẳn, mỗi khi mà mặt trời tắt thì con phải đội vào.
Hà như hiểu phần nào nên cũng không hỏi gì thêm, cậu ta cầm chiếc mũ lên xem thật kĩ lưỡng, thầy Trà tiếp lời:
– Ta đã nhét một lá bùa vào phần lưỡi chai của mũ và khâu lại kĩ lưỡng. Môi khi tối trời con đội vào sẽ giấu được mặt, hay như là danh tính của mình với cõi âm. Chỉ có làm như vậy thì con mới có thể thoát khỏi sự chuy tìm của quỷ sai, nhưng đó chí là cách tạm thời mà thôi.
Hà đội thử cái mũ lên đầu, cậu kéo cái phần lưỡi chai xuống để nó che gần hết mặt, cậu hỏi:
– Thầy thầy con đội vào nhìn có “nguy hiểm” không?
Thầy Trà lắc đầu vẻ mặt ngao ngán:
– Giờ này mà vẫn còn đùa được à?
Hà hỏi:
– Giờ chúng ta bắt đầu từ đâu hả thầy?
Thầy Trà nói:
– Bắt đầu từ nhà của con đi.
Hai thầy trò cùng về lại nhà của Hà để coi cho kĩ lưỡng. Nhà của Hà gồm có 3 tầng, nếu tính thêm cả cái sân thượng để phơi quần áo nữa là 4. Nhà có một khoảng sân nhỏ để cậu tha hồ cái thú chồng cây và chơi chim, chỉ có điều là Hà chơi cây chứ không chơi chim. Căn nhà này nằm trong một con ngõ không quá hẹp. Điều còn đáng chú ý hơn đó là cái con ngõ này thông thẳng từ ngã ba vào thẳng cửa vườn nhà của Hà. Chưa hết, hơi chếch chếch về phía một bên ngõ là hai cột điện to lừng lững. Thầy Trà đứng đó nhìn thật lâu, thầy bấm độn ngón tay lắc đầu nói:
– Không được rồi.
Hà nhìn thầy Trà lạ lẫm hỏi:
– Ý thầy là sao ạ?
Thầy Trà hết nhìn từ ngã ba đường, hai cột điện, rồi nhìn vô cửa vườn nhà Hà và nói:
– Ngã ba chiếu thẳng vào nhà, chưa kể trước cửa còn có 2 cột điện, chẳng phải rơi vào thế trụ sát, lôi ấn hay sao?
Hà có hơi ngớ người ra, cậu ta nói:
– Thầy ơi biết là rơi vào thế trụ sát nhưng mà còn chẳng phải đã hóa giải rồi hay sao?
Vừa nói Hà vừa chỉ tay giải thích thêm:
– Thầy để ý nhé, ngã ba soi thẳng vào nhà thì lại có 2 cái cột điện chắn hẳn một nửa, đồng thời cửa nhà cũng như cửa vườn còn hơi chếch chếch khỏi cái cột điện và ngã ba. Ngoài ra, còn chỉ mở đúng 1 cánh cửa vườn và cửa nhà, cánh cửa gần như đối diện với cột điện luôn được đóng chặt và thêm vào đó vườn còn rất nhiều cây cối, như vậy chẳng phải đã hóa giải Trụ sát rồi hay sao?
Thầy Trà vẫn lắc đầu đáp:
– Mày quả là thuộc bài con ạ, nhưng mày rất tốt và thầy cũng rất tiếc.
Hà đần mặt hỏi:
– Tiếc?
Thầy Trà khoanh tay trước ngực quay qua nhìn Hà nói:
– Thế trụ sát đã được hóa giải phần nào khi mà mày là người của Diêm Vương, thêm vào đó là các cách mày đã làm thì khỏi phải lo. Cái đáng lo ở đây là lôi ấn con nhé.
Hà mặt càng lạ lẫm và tẽn tò hơn nữa:
– Lôi ấn là cái gì ạ? Sao giờ con mới nghe?
Thầy Trà giảng giải thêm:
– Bây giờ mày mới nghe vì bây giờ mày mới lộ mặt. Đối với một số người có căn duyên như mày chẳng hạn thì những “dị vật” chắn trước cửa nhà nó không chỉ đơn thuần là ảnh hưởng tới cái luồng khí ra vào tại “minh đường”, nó không chỉ đơn thuần là ảnh hưởng tới phong thủy của gia đình, mà nó còn là một đặc điểm đánh giấu để nhận dạng.
Hà hỏi:
– Ai đánh giấu hả thầy?
Thầy Trà cười khểnh nói:
– Theo mày thì lúc này ai là người muốn bắt mày đi nhất hả con?
Hà câm nín không nói gì thêm, thầy Trà tiếp lời:
– Hai cột điện này theo thầy hiểu thì là tượng trưng cho sự đánh dấu hay như chỉ điểm của Thiên Lôi trên trời. Thầy không bao giờ nghĩ rằng mày dám trái lời thầy, ai ngờ bây giờ mày lộ mặt ra rồi, thầy sợ không cần đợi Diêm Vương lên rước đi đâu mà Thiên Lôi cũng sẽ tiễn mày đi trước đó.
Hà nghe thầy Trà nhắc lại vụ việc triệu hồi đầu trầu mặt ngựa lên để giúp cho y tá Trúc thì cậu ta lại cúi mặt. Thầy Trà nói tiếp:
– Bây giờ cột điện không thể rời đi, ngõ thì của chung không bẻ cho nó oặt ẹo được. Cách duy nhất và cũng là cách cuối cùng đó là đập mẹ nó cửa vườn đi làm chéch hẳn ra thôi, cho nó không còn đối diện với cột điện vầ thông thẳng ra mặt đường nữa.
Hà nhìn thầy Trà:
– Đập cổng vườn đi xây lại ý ạ?
Thầy Trà vỗ vai cậu nói:
– Đúng rồi, lúc đó mày muốn mở bung hết các cửa ra cũng được.
Tiếp đến thầy Trà và Hà lại bước vào hẳn trong nhà của Hà, sau khi đã nhìn quanh tầng 1 một lúc, thầy Trà chỉ tay vào phía tường trong cùng đối diện thẳng cửa ra vào mà nói:
– Dọn chỗ trong này đi, và bàn thờ đang để tầng 3 đúng không?
Hà gật đầu nói:
– Vâng, bàn thờ phải để thượng thiên chứ ạ.
Thầy Trà nói:
– Mày là người của âm giới nên không cần để bàn thờ thượng thiên đâu con ạ, mang xuống dưới này và để ngay chỗ tường trong hướng mặt thẳng ra cửa nhé.
Hà lúc đầu nghe thầy Trà biểu mang bàn thờ xuống để ở tầng 1, hướng thẳng mặt ra cửa, thêm đó là để bộ bàn ghế uống nước ngay trước, cái bàn thẳng trước bàn thờ và 4 cái ghế thành hai hàng hai bên thì cậu vô cùng ngỡ ngàng, thế nhưng khi mà nghe thầy Trà giải thích cặn kẽ thì cậu cũng ngộ ra được phần nào.
Như đã biết, Hà là hiện thân của Quan Mãnh Dần và nếu như cậu ta chưa từng lộ mặt dưới âm thì có lẽ mọi việc không trở nên phức tạp như hiện giờ. Vốn là quan cao dưới âm, khi đã lộ mặt thì việc của Hà là phải chứng minh mình thực sự xứng đáng được tồn tại trên dương gian, và việc đầu tiên cậu phải làm đó là mở điện. Tương tự như những người có căn cao, hầu đồng hầu thánh sẽ phải mở phủ ở nhà để ăn bổng lộc của quan trên cho thì Hà cũng vậy nhưng có điều hơi khác một chút. Khác ở chỗ điện mà cậu mở ở nhà tương tự như công đường vậy. Để có thể lập được công đường cho Hà ngay tại nhà.Tầng 1 phải sắp xếp cho chiếc bàn thờ hướng thẳng ra cửa đó có để thêm nghiên mực, bút lông, giấy tầu, và một hộp lệnh bài tựa như là đồ của quan phán xét. Đối với bốn cái ghế giả cổ để hai hàng trước mặt bàn thờ, thầy Trà thuê thợ vẽ lên mỗi bên hàng ghế là hình của 2 con linh miêu một sừng và 2 con linh cẩu có đốm trắng trên chán. Với cái bàn gỗ ở chính giữa, đích thân thầy Trà đã vẽ giấy hình “Tam Phong Ấn” và thuê một thợ điêu khắc bậc nhất về để khắc lên mặt bàn gỗ đó.Tam Phong Ấn này chính là con dấu tượng trưng cho sức mạng vô xong và quyền lực mãnh mẽ của người được coi là quan mãnh dần. Tam phong ấn là điểm chỉ của ba hình tròn nhỏ xếp thành một mình tam giác đều, bọc bên ngoài là một hình vuông tượng trưng cho đất và một hình tròng bao bọc lấy tất cả ngoài cùng tượng trưng cho trời. Ba cái hình tròn nhỏ xếp thành hình tam giác kia thì bên trong mỗi vòng tròn là một chữ hán cổ ghi: thiên, trần, và âm. Bên cạnh đó, thầy Trà đã để cho phong ấn có ghi “trần” hướng thẳng về phía bàn thờ. Xung quanh 3 cái phong ấn tròn này là những chữ nhỏ li ti tự như bùa chú quấn quanh lấy tạo thành nhiều lớp. Một số lớp chữ ngoài cùng thì chạy thẳng sang các phong ấn khác và bọc lấy tọa nên một hình tam giác đều cụt ngủn không có mũi nhọn. Ngoài ra, phía đằng sau của mỗi cái ghế, thầy Trà còn cho đặt tất cả là 4 cái ngà voi to dài, phần mũi nhọn của ngà voi thì vươn lên hẳn trên đầu mỗi chiếc ghế mà nếu tưởng tượng thì nghĩ rằng đó là cột để cheo lọng che nắng ngày xưa vậy. Ngày mà 4 chiếc ngà voi dài tầm nửa mét với đường kính tầm 20 cm thì Hà há hốc mồm. Cậu ta tiền lại sờ vào những cặp ngà voi sáng bóng trắng tinh, trên mỗi cặp lại được khắc các hoa văn chữ hán việt bằng mực đen và đỏ nhìn rất lạ mắt, cứ như thể mỗi chiếc ngà voi được khắc một thứ bùa yểm riêng biệt vậy. Cái ngày mà 4 chiếc ngà voi được đưa tới, Hà tiến tới sờ vào mấy chiếc ngà voi, miệng suýt xoa:
– Ui chu cha, ngà voi gì mà to dữ vậy thầy? lại còn trắng bóc như trứng gà luộc nữa?
Biết cái câu hỏi đó của Hà là đùa nên thầy Trà không thèm đáp lời, mà đứng đó chỉ huy cho thợ mang mấy cái đế vào để sẵn đằng sau lưng mỗi chiếc ghế. Hà với thầy Trà đứng nhìn đám thợ lễ mễ bê từng chiếc ngà voi đặt lên cái kệ ở sau ghế, Hà tặc lưỡi nói:
– Thầy ơi, coi bộ đôi cặp ngà này chắc đắt lắm nhỉ, có gì thầy cho con ghi sổ nợ nhé?
Thầy Trà đưa ánh mắt lườm nhìn Hà, thầy Trà nói:
– Mày vẫn còn đùa được hả con? Coi bộ mày sau này mày có ra đi cũng thanh thản đấy.
Nghe đến đây thì Hà bật phá lên cười, khiến cho thầy Trà cũng cười theo. Nói vậy chứ 4 chiếc ngà voi to dài lừ lừ này là đồ giả ngà voi khá tinh sảo.
Việc bầy biện đồ đạc theo đúng lối công đường đã xong, thầy Trà lại đi tiếp một vòng quanh tầng 1, thầy đặc biệt lưu ý đến bốn góc tường nhà. Thầy trà sau một hồi nghĩ ngợi, thầy nói:
– Có gì cuối tuần làm lễ sẽ phải đập ngay bốn góc tường này ra và chét lại.
Hà nghe thì không hiểu gì, thầy Trà tiếp lời:
– Cần có 4 thứ để chét vào cùng, đó là tro vàng mã, nước thánh, muối, và gạo.
Hà lúc này mới thốt lên:
– Con tưởng 4 thứ đó chỉ để chuyên làm lễ thôi chứ ạ? Chứ sao lại yểm bằng những thứ đó hả thầy?
Thầy Trà đáp:
– Tro vàng mã tượng chưng cho giầu sang phú quý, ban phát bổng lộc cho các vong linh. Nước tượng chưng cho dòng chảy của thời gian, sự luân chuyển của các khí. Gạo tượng chưng cho sự no đủ, và ban phát sự ấm no. Cuối cùng là muối, tượng trưng cho sức mạnh bất diệt, quyền uy của quan lớn. Nếu như 4 thứ này dung để làm lễ thì chỉ có thể phát huy được sức mạnh tại thời điểm đó. Con nên nhớ đây là công đường của quan mãnh dần, cần phải chét 4 thứ đó vào bốn góc tường để trấn yểm công đường và duy trì sự hiện thân của con vĩnh viễn ở trên trần thế này, hiểu chưa?
Hà nghe đến đây thì chỉ còn khẽ gật gù cái đầu.
Tới hôm làm lễ, thầy trà đã chuẩn bị mọi thứ bầy biện ở sân nhà của Hà. Một chiếc bàn cao được đặt giữa sân, một bát hương lớn đặt chính giữa. Mỗi bên là 1 lư hương to và 1 bát hóa mã. Xung quanh là vô vàn hoa quả, xôi, thịt bầy cùng với tiền vàng mã. Ngoài ra còn có 2 chiếc ghế đẩu ở 2 đầu bàn, trên mỗi chiếc ghế là một cái mâm có để đầu trâu và đầu ngựa mỗi bên. Xung quanh cái đầu trâu đen và đầu ngữa trắng được bầy vô số tiền vàng xếp quanh mâm. Hà thì mặc một bộ quần áo dài chỉnh tề ngồi ngay tại cái bàn nước và quay lưng vào bàn thờ nhà mình, trên mặt bàn nước là bốn chiếc bát để tro, nước, gạo, muối trước chỗ bốn cái ghế. Để chuẩn bị cho buổi lễ ngày hôm nay, thầy Trà đã dặn vợ con Hà tạm về bên ngoại ngủ một hôm để tránh phiền toái. Ngoài thầy Trà và Hà ra thì còn có hai sư huynh của Hà, nhưng mà hai người này từ đầu tới chân mặc đồ đen, thậm chí còn đeo cả găng tay đen và đội mũ lên chùm kín mặt chỉ hở có đúng hai con mắt. Khi mà kim đồng hồ chỉ đúng 12 giờ đêm thì thầy Trà quay qua nhìn Hà nói:
– Chúng ta bắt đầu thôi, giờ con hãy nhắm mắt lại và ngồi thiền cho ta, tuyệt đối không nhúc nhích hay mở mắt ra khi chưa có lệnh của ta. Nghe rõ chưa?
Hà nhìn thầy Trà đáp:
– Dạ vâng.
Thầy Trà như nghi ngờ về Hà, nên thầy nói giọng nghiêm nghị:
– Cái này là không có đùa được đâu nghe chưa?
Hà khẽ nuốt nước bọt cái ực, cậu ta đáp:
– Dạ vâng thưa thầy.
Thầy Trà bảo Hà bắt đầu nhắm mắt lại và ngồi thiền, thầy đi ra hai chỗ sư huynh của Hà và nói:
– Để tiện cho việc giấu danh tính, hai con sẽ là “tả” và “hữu” của ta. Các con trong lúc đứng đợi ta sai khiến thì phải luôn để mắt tới thằng Hà nghe chưa. Và nếu như có bất kì một ai kéo nó đi, bằng mọi giá không cho nó bước ra khỏi công đường nghe chưa?
Hai sư huynh của Hà khẽ gật đầu, thầy Trà mặt lúc này mới bắt đầu tỏ vẻ lo lắng, thầy nói:
– Các con nhớ phải bằng mọi giá không cho thằng Hà bước ra vườn, nếu nó bước qua cửa nhà là chết đó.
Hai sư huynh của Hà đồng thanh hô lớn:
– Vâng.
Thầy Trà tiến lại phía trước bàn làm lễ, ông ta cầm mấy tờ giấy lên và nói:
– Hữu Tả, dâng hương.
Tức thì hai sư huynh của Hà tiến tới, kẻ châm hương, người cắm, chỉ trong nháy mắt là trên bát hương đã cắm 3 nén hương đại. Thầy Trà tiếp lời:
– Hữu lên Hương, Tả hóa mã.
Tức thì một sư huynh thì bắt đầu vứt hương trầm vào lư và lên lửa, một làn khói bắt đầu tỏa ra. Vị sư huynh này cầm một ống nhỏ dài cứ thế thổi vào lư hương để khói tỏa ra ngày một lan rộng. Vị sư huynh khác thì bắt đầu hóa vàng mã, vàng mã cháy đến đâu thì ngay lập tức anh ta vứt thêm vào tới đó. Thầy Trà đứng giữa cầm tờ giấy a4 lên và bắt đầu đọc:
– Thiên, trần, âm ba cõi tách biệt. âm dương hòa hợp cân bằng vạn vật. Hôm này là ngày… tháng… năm… con tên Trà có chút lễ mọn dâng lên các ngài. Trước là để thưa với Diêm Vương Gia, sau là kính cẩn cúi xin Địa Tạng Hoàng cho con có đôi lời. Đệ tử út của con tên là Mai Việt Hà, là người mang mệnh tam dần, là hiện thân của quan mãnh dần dưới Âm Tào Địa Phủ. Nay đệ tử của con được ban bổng lộc, có được sự oai nghiêm của quan lớn. Nhưng số chưa tận, và tai kiếp chưa trải qua đủ, nay làm lễ mọn xin Diêm Vương Gia soi xét, xin Địa Tạng Hoàng rủ long thương. Xin được dâng lên các ngài chút lễ mọn. Xin Phán Quan đại nhân tậm gác bút đóng sổ, nhận lấy đầu trâu mặt ngựa này mà bỏ qua Mai Việt Hà…
Hà ngồi trong nhà nhắm mắt ngồi thiền nhưng tai thì vểnh lên để lắng nghe cái bài sớ dài đằng đẵng của thầy Trà:
– …Dẫu biết vạn vật luân hồi, và sống chết đã được định đoạt. Chỉ xin các ngài tạm hoãn và cho Mai Việt Hà, đệ tử của con một cơ hội để chứng minh bản thân…
Hà khi không bỗng nhiên hai bên tai của cậu như bị ù đi, cái đầu thì bắt đầu quay cuồng, toàn cơ thể như oải dần. Cái cảm giác khó chịu như bám lấy cơ thể của Hà khiến cậu không còn nghe được thấy gì nữa. Như bị ai đó banh mắt mình ra, Hà từ từ mở to mắt, cậu ta kinh hãi giật thột người, dà gà dựng đứng. Hà không tin vào mắt mình nữa khi mà ngồi tại 4 cái ghế này, ngay trước mặt cậu là 4 người mặc quần áo mũ mão của quan lại ngay xưa, bóng bốn người họ mờ ảo, mỗi người họ trên mình mặc một mầu đen, đỏ, xanh dương, và vàng. Điều còn khiến Hà phải thất kinh nhất đó là cả 4 vị này đều quay mặt nghiêm nghị nhìn thẳng vào mặt Hà.
Chương 2: Hắc Hổ Quan
Buổi lễ vẫn diễn ra trong xuôn sẻ, khói từ lư hương để trên bàn cúng tỏa khỏi nghi ngút tạo thành một lớp sương mù dày đặc như bảm lấy mặt đất và trôi cả vào nhà tạo nên hình ảnh bông lai dị cảnh giữa trần thế. Thầy Trà vẫn đứng đó lẩm rẩm đứng đó cầm tờ sớ mà đọc đi đọc lại, họa chăng thầy Trà đang hy vọng rằng nếu như mọi chuyện diễn ra êm đẹp, và quả thật nếu như Diêm Vương Gia thực sự bỏ qua cho Hà thì cho đến lúc Âm Tào Địa Phủ đóng cửa sẽ không có biến. Thế nhưng mà thầy Trà hay như là hai đại để tử không hề biết được rằng đang có biến sảy ra và chỉ có Hà là nhận ra mọi việc. Hà vẫn ngồi đó hai mắt mở tháo láo không chớp, bốn bóng người mặc bộ đồ quan cao cực phẩm 4 mầu ngày xưa vẫn ngồi đó tại cái bàn chỉ cách Hà có mấy gang tay. Cả bốn vị quan lớn này cùng một lúc đưa cánh tay phải ra, họ đồng loạt vốc tay vào cái bát trước mặt. Thế rồi cả 4 người họ mỗi người cầm một vốc tro, gạo, muối, và nước cùng đập xuống chính giữa bàn, chính giữa tam phong ấn. Bốn người họ đặt tay lên tay nhau, đầu tiên là tay cầm tro, sau đó tay cầm gạo, tay vốc nước, và trên cùng là tay cầm muối. Bốn vị quan lớn vẫn ngồi đó tay đặt lên nhau, miệng họ bắt đầu mấp máy, một thứ ngôn ngữ gì đó mà Hà không thể đọc được miệng. Bốn vị quan đó miệng vẫn lẩm rẩm, Hà hết nhìn vào mặt từng vị quan một, thế rồi Hà nhìn vào phía bốn bàn tay đang để chồng lên nhau ngay chính giữa bàn. Ngay đến khi mà Hà vừa hướng mắt nhìn về phía bốn bán tay đó, cậu như dần dần há hốc mồm ra khi mà không biết do gì mà máu từ bốn bàn tay bắt đầu tứa ra. Máu của 4 vị quan này bắt đầu quện vào nhau và chảy ra theo các đường nét điêu khắc. Chỉ trong có chưa đầy một phút mà toàn bộ hình điêu khắc tam phong ấn đã nhuộm máu đỏ lòm. Họa chăng đến cái giờ phút này đây thì ngay cả thầy Trà và hai sư huynh của Hà vẫn không hề biết được rằng Diêm Vương đang đến đón người. Hình điêu khắc tam phong ấn trên mặt bàn bắt đầu sáng rực lên cái thứ mầu đỏ ma quái.
Chợt Hà bỗng cảm thấy trên mặt mình có nước chảy ra ướŧ áŧ, cậu lấy tay dụi mắt, quệt mũi, và hai bên lỗ tai. Thế nhưng quệt mãi, dụi mãi mà không hết, Hà run rẩy đưa hai tay lên nhìn, cậu ta thất kinh khi mà mắt, mũi, và tai mình đang rỉ máu, hai tay của cậu là bê bết máu. Chưa dừng lại ở đó, Hà bắt đầu có cái cảm giác, hay đúng hơn là nếm được cái mùi vị tanh nồng ở miệng, Hà như chết lặng người đi hơn nữa khi cậu nhận ra đó chính là mùi tanh tưởi của máu. Hà như quên mất lời căn dặn của thầy Trà, cậu ta đứng bật lại hét lớn:
– Thầy ơi!
Chính cái tiếng hét vang tựa như tiếng sấm nổ ngang tai thầy Trà khiến thầy ta bất chợt rùng mình lạnh gáy. Hai sư huynh của Hà nghe thấy tiếng hét vội quay lại, họ thất kinh hét lớn khi thấy trên mặt cậu là đầm đìa máu chảy ra từ mắt, mũi, tai và miệng. Thầy Trà quay đầu mắt trợn lên trong sợ hãi hét:
– Thằng ngu kia!!! Mau ngồi …
Còn chưa kịp dứt câu thì cái tờ sớ A4 trong tay thầy Trà khi không bùng lửa cháy rực lên khiến thầy Trà phải quăng nó đi. Mọi việc càng trở nên tồi tệ hơn khi mà tiếng nhạc đám ma ngày một rõ dần và cả 4 thầy trò đều nghe thấy. Hương trầm trong lu khi không thì ngày một bốc khói dữ tợn hơn nữa tạo thành một lớp sương mù dày đặc, lửa ở bát hóa mã khi không cháy phừng lên dữ tợn. Thầy Trà còn đàng tự cố chấn tĩnh bản thân và nghĩ cách khắc phục tình hình thì thầy như chết điếng người, toàn thân cứng đờ, ngay trước mặt thầy Trà, phía bên kia bàn thờ, chính là Diêm Vương Gia, ngài đã hiển linh. Đây có lẽ là cái dấu hiệu xấu nhất, không, đúng hơn là trường hợp xấu nhất có thể xảy ra đối với Hà. Không phải là phán quan, không phải là quỷ sai, mà là Diêm Vương Gia lên bắt người. Chỉ trong phút chốc, thầy Trà như nhận ra rằng tất cả đồ lẽ, tất cả lời khấn cầu, tất cả đều vô dụng, Diêm Vương Gia đã đứng ngay đây rồi.
Diêm Vương Gia đứng đó giáng nghiêm nghị, hai con mắt ngài nhìn chằm chằm vào thầy Trà với đốm lửa đỏ lóe sáng trên chán. Như nhận ra điều chẳng lành sắp tới, Thầy Trà quay phắt người lại hét lớn:
– Mau vào cứu thằng Hà!!!
Thế nhưng mà máu từ hai hốc mắt của đầu trâu và đầu ngựa cạnh bàn tế đã ứa ra, cái thứ máu mầu đen. Hai vị sư huynh nhanh như cắt tính lao vào nhà cứu Hà thì bất ngờ hai người họ đều bị đầu trâu mặt ngựa dùng xích quấn cổ kéo lại ngã ngửa ra nền sân. Chưa dừng lại ở đó, đầu trâu mặt ngựa còn dùng cây côn răng chó ghè cổ họ và kéo xích đè hai sư huynh của Hà trên nền sân. Nhìn thấy đồ đệ của mình dãy dụa trong đau đớn thầy Trà vội quay lại quỳ xuống mà nói:
– Xin Diêm Vương Gia soi xét! Xin Diêm Vương Gia! Tất cả là do tôi, đồ đệ tôi không có tội!
Nhưng có lẽ nhừng lời khấn đó là quá muộn khi mà bên tai thầy Trà ngoài tiếng nhạc đám ma mà còn có tiếng gầm rú của một con thú dữ, đó chính là tiếng gầm của cọp. Thầy Trà khẽ ngửng đầu lên nhìn, chỉ thấy Diêm Vương Gia đưa tay ra hiệu, tức thì một con vật to lớn toàn thân đen xì nhẩy qua khỏi cả bàn cúng mà lao thẳng vào nhà. Ngay khi mà con vật này vừa nhẩy bổ vào trong nhà tức thì cả 2 cánh cửa gỗ như bị ai đó đóng mạnh lại cái “rầm”. Thầy Trà lúc này toàn thân run lên bần bật vì sợ hãi, thầy Trá vái rập đầu lia lịa hét lớn trong nước mắt:
– Xin Diêm Vương Gia soi xét! Xin Địa Tạng Hoàng thương sót!
Hai cánh cửa nhà đóng “rầm” lại, Hà còn đang chưa định thần được là chuyện gì, hay như nên làm gì thì trước mặt cậu kia là một con vật to lớn với mầu long đen tuyền, con vật này hai mắt đỏ rực sáng quắc như hai đốm lửa, hàm răng nanh trắng nhe ra gầm gừ, đó chính là hắc hổ, con hổ canh gác phương Bắc, một trong ngũ dần. Có lẽ ngay lúc này đây, trong cái giây phút sống chết chỉ còn ngàn cân cheo sợi tóc, Hà như quên mất rằng đây là hắc hổ chứ không phải con cọp bình thường. Hà cố gắng đứng im bất động, mặc cho tay chân cứ run lên từng hồi, và quả tim thì đang đập loạn xạ trong l*иg ngực. Cậu cố hít vào thở ra thật nhẹ, trong đầu liên tục suy nghĩ “Phải đứng im … đứng im không hổ vồ”. Thế nhưng chỉ đến khi mà hắc hổ bước từng bước chậm rãi lại về phía mình thì Hà mới như nhận ra trong đầu “Đ*o ổn rồi”. Cứ ngỡ rằng bản thân mình là con của thần gió, hay nghĩ rằng mình là flash trong phim anh hùng mẽo. Hà quay người tính tốc biến thẳng lên cầu thang tầng 2. Nào ngờ cậu vừa mới xoay người thì hắc hổ đã chồm thẳng lên chiếc bàn có yểm tam phong ấn. Hà quay người còn chưa kịp nhấc chân thì hắc hổ rướn người vờn chi trước vả mạnh vào lưng khiến Hà mất đà mà ngã đập vào tường. Tiếp đó, hắc hổ lấy đà nhún người nhẩy thẳng lên cao, móng ở 2 chi sau găm vào mặt bàn gỗ và đẩy ra phía cửa. Hắc hổ tiếp đất, nó chồm tới cắn vào chân Hà lôi cậu rời xa khỏi phía cầu thang về lại giữa phòng khách, trước bàn thờ. Hà ăn cái vả vào lưng thì đau quặn người, cậu như cảm nhận được móng vuốt của hắc hổ xé nát lưng mình. Lôi được Hà ra chính giữa nhà rồi thì hắc hồ bắt đầu đi lòng vòng quanh cậu, Hà nằm trên mặt đất cậu chắp tay trước mặt khấn:
– Con năm mô a di đà phật… con năm mô a di đà phật…
Thế nhưng mà vừa tụng kinh thì bất ngờ hắc hổ lại gầm lên lao vào dùng hai chân cào xé thân thể và đầu cậu. Hà đau đớn không tụng niệm nổi kinh, cậu bây giờ chỉ biết ôm đầu gào thét trong nước mắt và đau đớn thể xác tới tận cùng:
– Con xin ông hổ! Tha mạng cho con! Xin ông!
Tiếng hét lẫn tiếng khóc vang vọng trong nhà như khiến cho thầy Trà đứng ngoài càng cảm thấy bất lực và quặn lòng, không biết từ lúc nào mà quỳ gối cúi rạp đầu mà thầy Trà vã mồ hôi đầm đìa. Nghĩ rằng nếu không làm gì thì không chỉ có Hà là sẽ chết mà cả hai đồ đệ đang đi bị đầu trâu mặt ngựa khống chế ngoài kia. Thầy Trà trong phút tuyệt vọng đã liều mình, thầy run rẩy cắn ngón tay cho máu tứa ra, sau đó thầy vẽ lên trước mặt mình trên nền đất kia thứ phong ấn cuối cùng đó chính là “Thập Huyệt Lệnh”, một trong những lệnh có sức mạnh và kiêng kị nhất trong thế giới tâm linh. Không hiểu thầy Trà do bị dồn vào đường cùng mà hóa liều hay sao lại dám dùng cả Thập Huyệt Lệnh để đối phó với Diêm Vương Gia. Còn đang quỳ gối úp mặt xuống đất đó mà niệm chú khai lệnh, thầy Trà như không để ý rằng có một tên đầu trâu mặt ngựa khác đang đứng ngay cạnh mình. Bất ngờ tên đầu trâu mặt ngựa này cúi người túm tóc thầy Trà bẻ cổ thầy ngửa lên, tay kia hắn cầm cây côn răng chó nện mạnh vào cái tay đang khai lệnh. Thầy Trà bị đánh cho nát tay hét lên trong đau đớn. Diêm Vương Gia lúc này dùng tay hóa phép hất văng bàn lễ qua một bên, ông ta tiến tới trợn mắt nhìn chằm chằm vào hình Thập Huyệt Lệnh đang được vẽ trên nền đất bằng máu gần xong. Thầy Trà còn đang ôm bàn tay phải trong đau đớn mà lăn lộn trên mặt đất thì bất ngờ ở cổ thầy bỗng có cảm giác như bị ai bóp. Chỉ trong tích tắc, thầy Trà bị một thế lực vô hình bóp cổ mà nhấc bổng lên. Diêm Vương Gia trợn mắt nhìn thầy nói:
– Thập Huyệt Lệnh? Nhà ngươi thật hỗn láo!
Bàn tay vô hình như siết chặt cổ thầy Trà hơn nữa, chỉ còn thấy thầy ú ớ nói không nên lời, trên đầu mái tóc mầu tiêu đang dần dần chuyển qua mầu trắng.
Quay trở lại với Hà trong nhà, từ nãy đến giờ bị hắc hổ vơn, la hét trong đau đớn thì có lẽ Hà sắp kiệt sức rồi. Ngay khi mà hắc hổ dừng cào xé thân thể hà, nó há to miệng tính cắn vào gáy cậu thì kì tích xuất hiện. Bỗng nhiên có bốn cái bóng đen xuất hiện, 2 cái bóng lao vào ôm lấy 2 chi trước, 2 bóng còn lại thì ôm chặt 2 chi sau của hắc hổ mà đẩy nó lùi ra xa khỏi Hà. Một cái bóng thứ 5 xuất hiện, nó tiến tới đỡ Hà ngồi dậy tựa lưng vào bàn thờ. Bốn cái bóng kia mặc cho hắc hổ vùng vẫy nhưng bọn chúng vấn túm chặt cả 4 chi, nhưng rồi cuối cùng hắc hổ cũng vùng ra được mà vả chết từng cái bóng một. Hà tựa lưng vào bàn thờ hai mắt mờ ảo nhìn hắc hổ từ từ tiến về phía mình, cái bóng cuối cùng này đứng chặn trước Hà và hắc hồ. Kì lạ thay, hắc hổ này gầm lên một tiếng, sau đó nó hiện nguyên hình thành một vị quan trong bộ đồ đen, gương mặt của ông ta vẫn là mặt cọp đen. Khi hắc hổ hiện hình, tức thì cái bóng đen thứ 5 này mới quỳ xuống cuối người mà vái. Vị quan hắc hổ này nói:
– Cho ngươi lui.
Cái bóng đen này quỳ gối gập người vái 3 vái nữa rồi hắn mới mờ dần và tan biến. Quan hắc hổ tiến tới trước mặt Hà nói:
– Có được “bóng vệ binh” lên bảo vệ, quả nhiên ngươi là một người rất đặc biệt.
Hà nhìn vị quan này mờ ảo mà không thể cất lời vì đã cạn kiệt sức lực. Vị quan này đứng đó khoanh tay trước ngực nói:
– Dẫu rằng Thiện Tai Thánh đã có nói với ta từ trước, nhưng ta vẫn phải thực mục sở thị.
Nói rồi quan hắc hổ đưa tay lên vuốt hai hàng râu cọp nói:
– Dẫu biết không bắt người đi hôm nay thì sẽ để lại một mối đại họa cho các quan mãnh dần khác ngày mai. Nhưng mà, người là người được chọn, vậy thì ta cũng chỉ biết tuân mệnh bề trên mà thôi.
Nói rồi quan hắc hổ rút bên hông ra một lệnh bài mầu đen vứt lên mình Hà mà nói:
– Ta, quan hắc hổ, nay ban lệnh. Mai Việt Hà sẽ được ngự trị tại trần thế làm quan mãnh dần để giúp đỡ chúng sinh. Sau này khi dương thọ đã tận, cầm lệnh bài này xuống âm tào địa phủ diện kiến ta.
Nói rồi quan hắc hổ hiện lại thành một con cọp đen, hai cánh cửa nhà chính lại bật mở, chỉ thấy ông ta nhẩy ra ngoài biến mất. Hà ngồi tựa lưng vào tường mắt lờ mờ nhìn ra ngoài sân, một cảnh tượng hoang tàn đổ nát. Thế nhưng trước khi mà cậu ngất lịm đi, Hà như nhìn thấy có bóng một người con gái với mái tóc dài trắng bạch kim vẫn đang đứng lấp ló ở cửa nhìn cậu.
Gần sáng, hai sư huynh của Hà đã tỉnh, họ nhổm dậy nhìn quanh và lao tới chỗ thầy Trà lay thầy dậy:
– Thầy … thầy ơi…
Thầy Trà từ từ mở mắt, cả 2 đồ đệ đỡ thầy dậy. Thầy Trà nhìn xung quanh, cả cai sân mọi thứ đều đổ nát điêu tàn, bàn lễ bị xô đổ, đồ cúng văng tứ tung. Thầy Trà bàn tay phải vẫn đau nhức, một đồ đệ vội nói:
– Thầy … tóc của thầy?
Thầy Trà như chẳng them bận tâm quay đầu vô nhà nhìn nói:
– Thằng Hà, vào xem nó thế nào.
Thế rồi một sư huynh lao vào trong cảnh tượng cũng bề bộn không kém, một sư huynh khác thì đỡ thầy vào. Thầy Trà bảo một đồ đệ bắt mạch cho Hà, còn thầy thì cầm cái lệnh bài đen lên đọc “Hắc Hổ Quan”. Vị sư huynh bắt mạch cho Hà nói:
– Sư đệ vẫn sống, nhưng mạch yếu lắm thầy ạ.
Thầy Trà thở hắt một hơi ra nói:
– Nó sẽ sống … sẽ sống thôi.
Hà sau hôm đó được đưa vào khoa hồi sức cấp cứu, trong cơn mê man đó, cái ký ức về tâm linh đầu tiên lại hiện rõ trong tâm trí Hà, đó chính là cái ký ức về “Rừng Câm”.
Chương 3: Đảo Ngũ
Khắp cái đất nước Việt Nam này còn rất nhiều nơi hoang vắng, nơi mà chỉ có muông thú sống quây quần với nhau mà không bị loài người quấy rồi. Chắc hẳn khi nhắc tới cái cụm từ “núi rừng hoang vu”, trong đầu các bạn sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh những ngọn núi cao hùng vĩ, những rừng cây rậm rạp. Cái nơi mà không có tiếng còi xe, không có sự xô bồ, nơi mà thời gian đứng ím như bị chìm vào quên loãng. Tiếng chim muông hót vang trời, nơi mà nước suối chảy róc rách uốn lượn nằm sâu trong rừng, tiếng hươu nai dẫm lên cái nền rừng xơ xác um tùm cỏ và lá cây, một cái hình ảnh đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Ấy vậy mà có một khu “rừng núi” khá đặc biệt mà được người đời đồn thổi rằng hoàn toàn trái ngược với những nơi khác, “Rừng Câm”. Tương truyền Rừng Câm nằm đâu đó tại vùng Đông Bắc của Việt Nam, và nó chỉ cách thành phố Thái Nguyên cỡ trên dưới một tiếng lái xe là cùng. Tại sao lại gọi là Rừng Câm? Và cái tên này xuất phát từ đâu? Không ai biết rõ, họa chăng họ chỉ biết được cái tên dựa vào những câu chuyện rùng rợn đã từng xẩy ra tại cái khu rừng này. Cũng có lẽ bởi vậy, mà họ đặt tên nó là “Rừng Câm”.
… Cuối năm 1967 …
Tiếng hò kéo pháo cứ thế vang vọng “Hò dô ta nào, kéo pháo ta vượt qua đèo.” Tiếng người đội trưởng hát lớn vang vọng trong rừng, những chiến sĩ bộ đội khác thì cố kéo pháo và hát theo. Tại khu rừng này, một lữ đoàn pháo binh được đặt ở đây, nhiệm vụ của họ là huấn luyện cho những quân nhân pháo binh được cử tới. Khi đã thành thục thì họ được đưa ra mặt trận để dành lại độc lập cho đất nước, dành lại tự do cho muôn dân. Đoàn quân kéo pháo tới cạnh một con suối nhỏ thì họ dừng lại nghỉ chân, mọi người tới bên bờ suối ngồi nghỉ ngơi uống nước và nói chuyện. Trong đoàn huấn luyện này có Khánh là mới được điều lên đây để huấn luyện. Việt đội phó ngồi cạnh hỏi:
– Chú em có mệt lắm không?
Khánh vốc tay xuống cái dòng xuối trong suốt mát lạnh này tạt nước lên mặt mấy cái, thế rồi cậu lấy vạt áo lên lau mặt nói:
– Anh yên tâm, em sẽ cố được mà.
Việt ngồi đó nhìn cảnh rừng núi thanh bình nói:
– Chú em còn ít tuổi quá, đang tuổi ăn tuổi học, nhưng đất nước đang trong thời kì bom đạn khói lửa, biết sao được chứ…
Nói rồi Việt thở dài, Khánh mỉm cười đáp:
– Khi đất nước gọi tên là bọn em sẵn sàng mà anh.
Ngồi bên cạnh cậu là mấy cô giao liên cũng đang có mặt để huấn luyện thể lực, trong đó có cái Hoa là để ý Khánh từ hồi cậu mới chuyển lên đây. Hoa nói:
– Khánh tối nay có muốn đi thám hiểm rừng với bọn tôi không?
Cái Liên ngồi cạnh Hoa nói:
– Ê… mày đứng có dụ dỗ Khánh nha…
Thế rồi cả nhóm giao liên cười ầm lên khiến Khánh có hơi ngượng ngùng, Việt nói:
– Việc thám hiểm là một trong những bài huấn luyện các cô được giao, cớ sao còn lôi Khánh đi? Để cho cậu ta nghỉ ngơi chứ?
Một cô giao liên khac nói chen ngang:
– Anh chẳng biết gì cả, cái Hoa nó gọi Khánh theo là để nó đỡ sợ đó anh.
Hoa quay ra mặt cũng đỏ ửng lên mắng:
– Con kia, mày biết gì mà nói.
Việt mỉm cười vỗ vai khánh:
– Đằng nào cũng phải chiều mai mới có bài huấn luyện tiếp theo, nếu chú thích có thể đi. Miễn sao nhớ về nghỉ ngơi còn có sức mà huấn luyện nghe chưa?
Khánh gãi đầu nói:
– Dạ, phải xem tẹo kéo pháo về doanh trại em còn sức không đã anh ơi.
Nghe cái câu nói đó của Khánh mà mọi người lại cười ầm lên.
Tối hôm đó, bài huấn luyện của nhóm giao liên là tìm cho được lá cơ do người đội trưởng đội huấn luyện cắm sâu trong rừng. Đội giao liên được chia ra làm 2 nhóm, mỗi nhóm 2 người. Nhiệm vụ của họ là phải dựa vào tấm bản đồ mà người đôi trưởng cung cấp để tìm được đường tới lá cờ đó. Nhóm nào mang được cờ về trước coi như là thắng, đồng thời để huấn luyện cho nhóm giao liên một cách tốt nhất, họ sẽ được trang bị và mang vác ba lô nặng như khi làm việc ngoài chiến trường thực sự. Ngay khi mà mặt trời vừa khuất bóng, tức thì nhóm giao liên bắt đầu bài huấn luyện. Nhiệm vụ của nhóm Hoa, Liên là phải tìm ra được lá cờ mầu đỏ cắm sâu trong khu rừng núi này, theo như bản đồ chỉ dẫn thì là dưới một thân cây to. Nhóm Liên và Hoa bắt đầu vác ba lô nặng chĩu và lần theo tấm bản đồ sơ sài mà đi tìm lá cờ đỏ. Để cho bài huấn luyện này như thật nên họ không được phép dùng đèn hay đốt đuốc, mà phải dựa vào ánh trăng vằng vằng. Nhưng có lẽ đối với Liên và Hoa thì cái bài huấn luyện này như đỡ vất vả hơn phần nào khi mà họ có Khanh đi cùng, một anh quân nhân pháo binh trẻ tuổi và vui tính.
Cả ba người cứ lần mò trong rừng, họ dựa vào bản đồ mà đi ngày một sâu vào khu rừng rậm rạp. Khánh thấy Hoa vác nặng thì hỏi:
– Hoa có muốn tôi đeo hộ ba lô cho không?
Cái Liên nghe vậy có phần ghen tị nói:
– Còn tôi thì sao Khánh ơi?
Hoa quay ra nhéo con Liên một cái đau điếng, thế rồi cô đáp:
– Không sao Khánh ơi, bài huấn luyện của tôi mà.
Thế rồi Hoa bắt đầu tâm sự với Khánh:
– Nhà Khánh ở đâu?
Khánh đáp:
– Nhà tui ở Khâm Thiên á, còn Hoa?
Hoa cười đáp:
– Trai Hà Nội hả? Tui với Liên là đồng hương ở Hải Phòng nè.
Cả ba người họ cứ thế nói chuyện vui vẻ với nhau dọc đường đi mà quên hết mệt nhọc vất vả. Cuối cùng thì cả ba đã tới được ngã 3 rừng như trong bản đồ, từ đây thì đường đi cũng phẳng hơn nên đỡ vất vả phần nào. Cả ba người họ lững thững bước đi rẽ theo ngã rẽ mà trong bản đồ đã chỉ, không hiểu sao khi đi tới khúc này của khu rừng thì cả ba người bọn họ bỗng có cái cảm giác lạnh lẽo rờn rợn đến lạ thường. Cũng chả trách được khi mà đây là lần đầu cả ba người đi sâu vào khu rừng đến như vậy, chưa kể đến việc bốn bề im ắng đến lạ thường, không một tiếng chim kêu, không một tiếng vượn hú, côn trùng cũng không nghe. Chỉ có độc tiếng từng người thở một cộng thêm cái tiếng bước chân dẫm lên nền rừng xào xạc. Cả ba người họ dường như ai cũng đang dần dần cảm nhận ra được cái sự kì lạ tại khu rừng này, nhưng có điều không ai bảo ai cữ thế lặng lẽ mà dảo bước tiến đi. Bất ngờ cái Liên lên tiếng:
– Ê, hai người có biết về truyền thuyết cái khu rừng nơi mình đang đóng quân này không?
Khánh không nói gì chỉ có Hoa liền hỏi:
– Truyền thuyết sao bà?
Liên nói:
– Nghe đâu cái khu rừng này được gọi là Rừng Câm á.
Khanh thốt lên:
– Rừng Câm?
Cái Liên tiếp lời:
– Nghe đâu mấy chị khóa huấn luyện trước nói khu rừng này được gọi là rừng câm vì cho dù có là ngày hay đêm thì tuyệt nhiên không hề có tiếng muông thú hay như côn trùng kêu á. Mà tôi cũng để ý mấy hôm nay rồi, từ sáng cho tới đêm, cả khu rừng lúc nào cũng im lặng hết á.
Cái Khánh và Hoa không nói gì chỉ cố nhớ lại, quả đúng là như vậy thật, vì từ cái hôm đầu tiên đặt chân đến đây, họ chưa bao giờ nghe thấy tiếng chim hót bao giờ vả, và cũng chưa hề thấy một con thú hoang nào. Liên vừa đi vừa nhìn ánh trăng soi vào mặt con bạn mình, biết rõ nó sợ ma nên Liên ghẹo:
– Tui còn nghe đâu khu rừng này nhiều ma lắm đó, biết đâu chính vì quá nhiều ma mà chúng nó đuổi hết thú hoang và chim đi rồi.
Hoa quả nhiên là có hơi rợn gáy, cô khẽ mắng:
– Im đi mày, vớ va vớ vẩn không à.
Biết con bạn mình bắt đầu sợ, cái Liên dọa tới. Bất ngờ Liên khựng người lại hét lớn:
– Á!!! Ma kìa mày ơi!
Y như rằng cái Hoa tái mặt đứng khựng lại ôm chặt lấy Khánh khiến cậu ta lúng túng. Chỉ đến khi mà cái Liên cười ngặt nghẽo thì Hoa mới buông tay ra khỏi người Khánh mặt đỏ vì ngượng ngùng. Cô ta tiến tới cấu nhéo cái Liên khiến nó van xin. Khánh thấy vậy cũng chỉ biết phì cười và nói:
– Nếu gọi đây là rừng câm thì chúng ta làm cho nó hết câm đi.
Nói rồi khánh chạy nhanh lên trước, vừa chạy vừa hét lớn:
– Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta, mà phải hỏi ta đã àm gì cho tổ quốc hôm nay…
Tiếng Khánh hát như xé toạc cả cái màn đêm đen tĩnh lặng, cái Liên và cái Hoa chạy theo gọi:
– Khánh đợi với Khánh ơi…
Cuối cùng thì cả ba người bọn họ đã tới được dưới cái gốc cây to đồ sộ. Liên thì nhìn thật kỹ lại cái bản đồ, bây giờ thì cô mới can đảm cầm đèn pin lên soi vì đã hoàn thành nhiệm vụ. Nhỏ Hoa thì bắt đầu cầm một chiếc đèn pin khác rọi dọc thân cây như thể tìm kiếm một thứ gì đó, đến khi ánh đèn soi được tới cái dấu X do người đội trưởng dùng dao đánh giấu thì cô nói:
– Đúng đây rồi mày ơi.
Cái Liên gập bản đồ rọi đèn xuống phía nền đất gần cái gốc thân cây nói:
– Giờ kiếm lá cờ rồi về thôi.
Thế nhưng mà cả ba người cùng lom khom tìm kiếm khắp quanh gốc cây mà không thấy bất kì lá cờ đỏ nào. Bất chợt, Khánh cầm một khúc gỗ ngắn bị gấy dài và to gần bằng một cái đũa lên nói:
– Hai người nhìn này…
Cả Liên và Hoa soi đèn lên, cái Liên thì còn chưa hiểu gì thì bỗng cái Hoa thốt lên:
– Đây là chân lá cờ mà? Nó bị ai bẻ vậy?
Nghe đến đây cả ba người nhìn nhau nghi hoặc mà khó hiểu, Khánh hỏi:
– Hay là có ai ở bên nhóm kia tới trước phá tụi mình?
Liên lắc đầu đáp:
– Không có đâu, bọn tôi chơi thân với nhau và hiểu nhau lắm, đâu có ai rảnh mà trêu ghẹo.
Hoa đứng đó ngẫm nghĩ nói:
– Công thêm nữa là cả hai hướng đi của cả hai nhóm là bằng nhau, chúng ta đi khá nhanh nên không có lí do gì mà họ có thể tới trước cả.
Nghĩ đến đây Hoa đưa hai tay lên miệng và bắt đầu hú lên tiếng vượn như thể dùng thuật truyền tin. Thế nhưng dù cho có hú đến mấy đi chăng nữa, thì vẫn không hề có phản hồi. Liên nhìn Hoa mặt lo lắng hỏi:
– Làm sao đây bà? Tôi có cảm giác như có cái gì đó sai sai ở đây ý.
Mặc cho Hoa và Liên đang đứng cố đoán mò, Khánh đứng đó cứ hướng mặt lên trên cành cây cao của cái cây này mà nhìn, không hiểu vì sao mà từ lúc tìm ra được chân lá cờ, câu luôn cảm giác như có một thứ gì đó đang nhìn cả ba từ phía trên cao kia. Đôi mắt của Khánh từ nãy đến giờ dường như đã quen với cái quang cảnh tăm tối của rừng, ngay khi thấy trên tán lá động đậy thì Khánh chỉ tay nói lớn:
– Ai ở trên đó?!
Cả Liên và Hoa đứng đó giật thọt người, họ đồng loạt chĩa đèn lên trên cây, chỉ còn thấy cành lá phía đèn rọi đang rung rung. Khánh đứng đó nói:
– Chắc chắn là có ai trên đó.
Liên vừa rọi đèn vừa nói:
– Làm gì có ai đâu?
Bất ngờ vang vọng đâu đó là từng tiếng “hú” vang vọng, cái tiếng “hú” tựa như hồi này Hoa truyền tin vậy. Khánh quay ra hỏi Hoa:
– Có phải nhóm giao liên kia không?
Hoa lắng nghe cái tiếng “hú” cứ vang vọng, chợt Hoa sởn gai ốc:
– Không… đây … đây không phải là tín hiệu của nhóm giao liên…
Còn chưa nó giứt câu, bất ngờ hai cái đèn soi bắt đầu chập trờn. Khánh đứng đó cứng lưỡi, mặt tái mét khi mà dưới cái ánh đèn soi rọi chập trờn kia bỗng hiện ra một con vật toàn thân đen xì với hai con mắt đỏ quắc lên đang nhìn họ chằm chằm. Khánh quay người kéo ngay cả Liên và Hoa khiến hai cô rơi cả ba lô mà hét lớn:
– Chạy! Mau!
Liên cố với cái ba lô nói:
– Còn ba lô …
Khánh vừa kéo họ vừa hét:
– Vứt! Vứt Hết!
Cả ba cắm cổ cắm đầu chạy bán sống bán chết, sau lưng họ là tiếng “rầm” phát ra như thể vật gì rơi từ trên cao xuống. Tiếp theo sau là tiếng là “xào xạc” phát ra ngày một rõ từ phía sau. Cả ba cắm đầu chạy tụt cả hơi, Hoa quay ra hỏi:
– Cái gì?! Cái gì thế?!
Khánh vừa nói vừa thở dốc:
– Thú! Thú Dữ!
Cả ba người chạy đến đoạn dốc thì bất ngờ cái Hoa trượt chân ngã qua một bên, cũng may là Khánh xải người túm được tay cô. Liên thấy vậy vội túm lấy vạt áo và cạp quần của Khánh như để giúp kéo cái Hoa lên. Gần kéo được Hoa đứng lên thì bất ngờ Hoa hét lên thất thanh đau đớn, khiến cho cả Khánh và Liên Giật thột người. Lôi được Hoa lên lại, Khánh như kinh hãi thi thấy sau lưng Hoa là vết cào rách cả áo tóe máu, trên lưng hoa là 3 vết rách dài. Khánh nhanh nhẹn cởϊ áσ của mình và buộc chặt như để cầm máu cho Hoa. Khánh kéo Liên tới nói:
– Qua con dốc này là sắp về doanh trại rồi… Liên về gọi chi viện ngay.
Liên mặt tái mét, mồ hôi mồ kê đầm đìa, mặt hoảng loạn đầy kinh hãi. Thấy vậy Khánh tát vào mặt Liên một cái như để cô tỉnh mà hét lớn:
– Đi mau không chết cả lũ!
Liên vôi đứng phắt dậy phi mình chạy thẳng về phía trước, vừa đi cô vừa đưa tay lên miệng hú những tiếng hú như thể ra hiệu cho chi viện ứng cứu. Khánh cõng Hoa cũng dồn hết sức mà chạy về phía trước, tiếng Hoa khe kêu lên trong đau đớn như truyền cho cậu thêm sức mạng. Khánh cõng Hoa cứ thế mà chạy thục mạng, bên tai vẫn là cái tiếng lá “xào xạc” ngày một gần. Bất ngờ Khánh như vấp phải một đoạn rễ cây mọc trồi lên mà mất đà húc đầu vào một tảng đá gần đó. Máu trên đầu cậu bắt đầu tứa ra, hai con mắt hoa lên. Khánh cố lần tay sang hai bên như thể tìm Hoa, thế nhưng khi cậu nhận ra là Hoa không ở bên mình, Khánh xoay người nheo con mắt mờ ảo nhìn quanh. Khánh thất kinh khi mà Hoa đang bị một con vật to lớn lôi đi, cô với tay về phía Khánh mà hét lớn:
– Khánh… cứu … cứu tôi với…
Khánh cũng cố vươn cái tay yếu ớt ra mà gọi tên Hoa trong nước mắt:
– Hoa…!
Phải đến rạng sáng hôm sau, khi mà những tía nắng ban mai đầu tiên soi rọi khắp cả rừng câm thì đội tìm kiếm mới tìm ra được Khánh. Nghe lại cái câu chuyện mà Khánh và Liên kể thì người đội trưởng không tin, đơn giản là vì trong suốt thời gian mà lữ đoàn pháo binh đóng quân trong rừng chưa hề bắt gặp một con chim huống chi là thú dữ. Bên cạnh đó, người đội trường nghi ngờ rằng Khánh và Liên đồng lõa với Hoa để dàn dựng lên câu chuyện nhằm giúp Hoa đảo ngũ. Bằng chứng là việc khi mà Liên và Khánh bảo rằng khi tới được gốc cây cắm cờ, họ có dùng thuật truyền tin hú lên báo hiệu nhưng không hề nghe thấy phản hồi thì nhóm giao liên thứ hai lại nói khác. Nhóm giao liên thứ hai bảo rằng đã tìm được cờ và mang về, thế nhưng suốt dọc đường đi họ không hề nghe thấy tiếng hú truyền tin. Liên vốn là bạn thân của Hoa, nên khi nghe thấy người đội trưởng nói rằng bạn mình đảo ngũ và sẽ không cử người tìm kiếm thì cô uất ức lắm, chỉ biết khóc cho Hoa mà không thể minh oan được cho bạn mình. Cuối cùng cả Liên và Khánh bị theo giõi chặt chẽ và đợi ngày áp giải về để lãnh án. Nhưng có lẽ Khánh không đợi được tới ngày đó, những gì mà cậu đã tận mắt chứng kiến như khiến cậu sục sôi việc phải tìm bằng được Hoa, hoắc chí ít là mang được xác đồng đội về. Lựa lúc mà mọi người không để ý, Khánh tự ý lấy AK47 và một mình lần sâu lại vào trong rừng dể tìm Hoa, và đó cũng là ngày cuối cùng mà họ nhìn thấy Khánh.
Chương 4: Ma Rừng
… Sau năm 1975 …
Cuối cùng thì cái ngày đó cũng đã tới, cái ngày mà bom thôi rơi, đạn ngừng lạc. Cái ngày mà đất nước Việt Nam này không còn phải chịu cảnh phân kỳ, không còn chịu cảnh đường về chia 2 lối cũng đã đến. Thế nhưng cái niềm vui hòa bình đó cũng xin tạm gác lại khi mà nước ta vừa trải qua một cuộc bể dâu kéo dài đằng đẵng, giờ chúng ta phải chuyên tâm vào lao động và sản xuất. Phải phấn đấu vươn lên, để xây dựng lại từ đầu, để làm lại từ đầu. Bây giờ đang là mùa măng trong khu Rừng Câm, Ông Vinh lại rủ thằng con trai mới lớn 12 tuổi của mình tên Tú lên rừng bẻ măng măng mang xuống chợ huyện bán. Và cũng như mọi lần, cứ khi nào bố nó rủ nó đi là thằng Tú sốt sắng hẳn lên. Vốn dĩ nhà nó cũng khá là gần rừng, chỉ đi bộ có hơn một tiếng là đến, mà cứ mỗi mùa măng tới, là nó có thể phụ giúp gia đình kiếm thêm thu nhập. Chưa nói đến việc, thằng Tú cũng thường hái thêm cả nấm và một số đặc sản rừng khác để có tiền tiêu vặt.
Hai cha con bắt đầu tiến sâu vào rừng, trên lưng ông Tú đeo một cái túi vải to, quanh mình đeo một số thứ đồ lặt vặt khác gồm một cây nỏ mà ông đổi được của người dân tộc, một cây quắm cán dài to và cái thuổng. Thằng Tú cũng đeo một cái tui vải tương tự, nó được bố mình trang bị thêm một số thứ khác cùng với một con rựa và một cái thuổng nữa. Ông Vinh đi trước cầm cây quắm to phạt cành cây để mở đường cho hai cha con, thằng Tú cứ lúi húi đi theo sau. Hai cha con họ cứ đi mãi, đi mãi cuối cùng cũng đã vào được khu rừng vầu thuộc địa phận Rừng Câm. Thằng Tú đi sau cố vểnh tai lên nghe ngóng khắp cả rừng, ngoài tiếng cây quắm của bố nó phát cành cây ra thì quả nhiên là không hề có một thứ tiếng chim muông gì khác, thằng Tú hỏi:
– Bố bố… sao không có nghe tiếng chim hay như là muông thú kêu nhỉ? Không lẽ nào rừng này quả thật không hề có một con thú hoang nào?
Ông Vinh vẫn đi trước tay phạt cành ngó nghiêng nói:
– Bộ con quên ta bảo con đây là Rừng Câm rồi hay sao? Đã gọi là câm thì sao có tiếng động được con?
Có lẽ ông Vinh cũng không trách thằng Tú khi hỏi câu đó, đơn giản là vì đây mới là lần thứ 3 nó lên rừng bẻ măng cùng với ông. Thằng Tú tiếp lời:
– Con tưởng cái đó chỉ là truyền thuyết thôi chứ?
Ông Vinh cười thành tiếng, thế rồi ông nói:
– Đôi khi truyền thuyết lại là thật đó con trai ạ.
Thằng Tú nhanh nhẩu tiến lại cạnh bố nó hỏi:
– Nếu bố khẳng định là có thật thì tại sao bố còn mang ná và dao với mấy thứ đi săn làm gì ạ? Chẳng phải bố vừa bảo là không có một con thú hoang nào hay sao?
Ông Vinh nghe cái câu hỏi đó thì ngẫm nghĩ trong giây lát, rồi ông quyết đinh là sẽ nhân cơ hội này để rèn tính can đảm cho thằng con trai mới lớn của mình. Ông Vinh đổi giọng:
– Phải mang những thứ đó là để phòng thân con trai ạ. Rừng thiêng nước độc, không ai biết trước được chuyện gì sẽ xảy ra đâu, nên chúng ta luôn luôn phải chuẩn bị kĩ khi đi rừng con nhớ chưa?
Thằng Tú nghe cái giọng bố mình thì nó có hơi rờn rợn, nó hỏi:
– Chuẩn bị cho thứ gì hả bố? Trong rừng này làm gì có gì ngoài cỏ và cây? Và hai bố con mình?
Thầy rằng bản thân mình đã kí©h thí©ɧ được trí tò mò của thằng con tới cực độ, ông Vinh làm tới:
– Chuẩn bị cho những thứ cứ tưởng rằng không thật nhưng lại rất thật. Con có sợ ma không?
Thằng Tú nghe thấy bố mình hỏi có sợ ma không thì nó có hơi xoắn, thế nhưng bản năng của một thằng con trai mới lớn trỗi dậy, nó nói:
– Ma làm gì có thật mà sợ hả bố?
Ông Vinh mỉm cười nói:
– Nếu không có thật sao tối tối con vẫn phải lên nằm giữa bố mẹ làm gì? Mà ma rừng là nó khác với cả ma nhà đó con.
Thằng Tú bắt đầu sởn gai ốc, nó đi sát lại hơn vào người bố nó, mắt bắt đầu nhìn quanh. Ông Vinh thấy điệu bộ con mình như vậy thì cố nhịn cười, ông tiếp lời:
– Trước trong rừng này từng có một lữ đoàn pháo binh đóng quân. Nghe đâu trong suốt thời gian họ ở đây, năm nào cũng có một chiến sĩ bộ đội biến mất cho tới khi lữ đoàn pháo binh rời đi. Người ta bảo rằng họ biến mất do bị ma rừng bắt đi đó.
Thằng Tú càng nghe bố nó nói thì càng sợ hơn nữa, nó nói:
– Thôi bố đừng dọa con nữa.
Bố nó đứng lại vuốt đầu nó nói:
– Nếu con không muốn bị ma rừng bắt đi thì phải ngoan ngoãn nghe lời bố mẹ và chăm chỉ học hành nghe chưa?
Nó gật đầu lia lịa, và rồi hai bố con bắt đầu công việc bẻ măng. Trong suốt thời gian thu hoạch măng, ông Vinh để ý thấy thằng con mình cứ quẩn quanh mình mà không hoạt bát hay chạy đi ra xa như mọi khi thì có hơi áy náy, ông ta sợ rằng lúc nãy dọa thằng Tú hơi quá đà mà bây giờ nó đâm ra còn nhát hơn. Thấy vậy ông Vinh giả vờ hỏi:
– Thế con không đi tìm nấm nữa à?
Thằng Tú hý hoáy đào măng nói:
– Thôi để sau bố ơi.
Ông Vinh lúc này mới nói:
– Con không phải sợ ma rừng đâu, chỉ cần con ngoan ngoãn là nó không bắt được con, chưa kể đến việc con rựa bố đưa cho con là của người dân tộc. Đó là thứ bùa hộ thân khi đi rừng đó.
Thằng Tú vẫn hí hoáy đào và bẻ măng, nó vờ như không nghe thấy bố mình nói gì. Bất ngờ một tiếng “răng rắc” phát ra rõ mồn một, rất gần. Thằng Tú đứng hình, hai tay bất động, nó ngẩng đầu mắt liến láo nhìn quanh. Ông Vinh đang đào măng gần đó thấy thằng con mình khi không như vậy thì hỏi:
– Sao đấy Tú?
Thằng Tú vẫn nhìn lên trên những thân cây vầu cao vun vυ”t kia mà nói:
– Bố có nghe thấy cái gì không?
Ông Vinh hỏi mặt nghi hoặc:
– Nghe thấy gì là nghe thấy gì?
Thằng Tú khi không bẻ nốt măng ở đó rồi nó tức tốc chạy ngay ra gần bố mình đào tiếp, ông Vinh thấy vậy thì nghĩ rằng thằng con mình chắc đang sợ sun cả vòi nên cũng kệ.
Hai bố con cứ mải miết đào măng, tới khi cả hai túi đã nặng chĩu. Ông Vinh ngồi bóc lớp vỏ ngoài của măng ra và cho vào túi, vừa bóc ông vừa mừng thầm, “măng mùa này múp như vậy chắc bán được giá lắm đây”. Ông Vinh cứ ngồi đó bóc măng mà không để ý tới thằng Tú đã đi xa ông từ lúc nào. Không hiểu vì sao mà đột nhiên trong rừng vầu bỗng tắt nắng, sương bắt đầu dầy lên đến lạ thường. Thằng Tú đang đi loanh quanh như để tìm xem còn măng không, bất ngờ nó để mắt thấy có một con chim mầu sắc khả đẹp. con chim này cất lên cái tiếng hót thánh thót như mê hoặc thằng Tú. Thằng Tú tiến tới và đưa tay vuốt ve và nâng con chim này lên, con chim rừng này không hề bay đi mà để im cho thằng Tú vuốt ve. Được một lúc, con chim lại nhẩy khỏi ta nó và bay ra phía xa hơn, thằng Tú cứ thế đi theo con chim này như bị nó làm cho mê hoặc vậy. Ngay khi mà ông Vinh nhét nốt búp măng cuối cùng vô túi thì bên tai ông khẽ phát ra tiếng “răng rắc”. Ngay lập tức ông Vinh ngửng đầu lên nhìn, và tai thì tiếp tục nghe ngóng cái thứ âm thanh lạ. Ông nghĩ rằng chắc là có cây vầu nào già rồi nên thân nứt tự tạo ra tiếng, thế nhưng khi ông ta vừa đứng lên thì bất ngờ một cây vầu bắt đầu cong thân và đổ cái rầm xuống ngay trước mặt ông. Ông Vinh bắt đầu cảm thấy sợ hãi, sợ hãi là vì ông nhìn vào thân cây vầu này thì thấy nó còn khá tươi tốt. Đột nhiên trong đầu nhớ ra thằng Tú, ông Vinh nhìn quanh giữa làn sương khá dầy mà hét lớn:
– Tú! Tú ơi!
Không có tiếng trả lời, trên đầu ông Vinh, nơi những cây vầu cao lừng lững kia là một loạt tiếng kếu “răng rắc” bắt đầu xuất hiện. Ông Vinh sợ hãi quăng cái túi măng xuống gọi:
– Tú! Con ở đâu?!
Vẫn không có tiếng thằng Tú trả lời, thay vào đó là một loạt thân vầu bắt đầu gẫy “răng rắc” và đổ xuống nền rừng. Ông Vinh như linh tính được chuyện gì đang xảy ra, ông ta rút cây ná ra lên dây và để tên. Quả nhiên như ông Vinh nghĩ, trên đầu ông, trên những ngọn vầu cao kia là tiếng loạt soạt như thể có con vật gì đó đang di chuyển. Chỉ trong tích tắc, ông Vinh như nhìn ra được sau cái lớp sương mù là bóng một con vượn đang di chuyển từ cành này qua cành kia. Ông Vinh cầm ná và bắt đầu bắn về phía con vật đang di chuyển đó, thế nhưng chỉ nghe tiếng tên “vun vυ”t” lao đi trong không trung. Con vật này bắt đầu đu cây đi xa dần, ông Vĩnh nghĩ rằng nó đang đuổi theo thằng Tú bèn cầm ná lao theo con vật đó, vừa đi ông vừa hét lớn như thể ra hiệu cho thằng Tú:
– Tú! Mau chạy đi! Tú….!
Ông Vinh cứ chạy ở dưới đuổi theo mãi, cho tới khi ra khỏi khu rừng vầu, thoát khỏi lớp sương mù. Phía xa xa kia, trước mặt ông Vinh là thằng Tú con mình, nó đang đứng im ở đó bất động. Ông Vinh mừng rỡ chạy vội tới, thế nhưng ông ta kinh hãi khi nhìn thấy con vượn đen kia đang đu người từ trên cành cao mà với tay xuống. Giờ thì ông Vinh đã nhìn rõ, đây là một con vượn to lớn khác thường, toàn thân đen xì, cái mặt không rõ mồm mũi chỉ có hai con mắt sáng quắc nhìn ông. Tứ chi của nó thì dài khác thường, con vượn tinh đang với một cái chi xuống như để túm lấy thằng Tú. Ông Vinh chĩa ná về phía con vượn đen hét lớn:
– Tú!!!
Thế nhưng không còn kịp nữa, con vượn túm nhanh cổ thằng Tú lôi lên cao, thằng Tú giãy dụa hét lớn:
– Không! Bố Ơi!
Con vượn túm cổ thằng Tú lôi lên, thế rồi nó há cái miệng đen ngòm với răng lởm chởm ra mà nuốt trọn thằng Tú. Ông Vinh nghiến răng hét lớn:
– Không!!!
Thế rồi ông bắn ná về phía con vượn đen. Có lẽ con vượn tinh này vừa nuốt chửng thằng Tú xong nên nó di chuyển khá chậm chạp. Chẳng trách mà cuối cùng ông Tú cũng đã bắn ná trúng người con vượn tinh, máu nó tứa ra và chỉ đến phát thứ 3 là con vượn này đã rơi khỏi cây đổ cái “rầm” trên nền rừng. Con vượn tinh này cố bò đi trên mặt đất, ông Vinh thì vứt ná và bắt đầu lôi con quắm ra mà hét lớn:
– Trả con cho tao!
Thế rồi ông bổ nhát quắm đầu tiên vào chi sau con vượn mà lôi nó lại, chỉ nghe thấy tiếng con vượn này hú lên vang rừng khi mà lưỡi quắm cắm xâu vào da thịt nó tóe máu. Ông Vinh chèo hẳn lên trên người con vượn tinh và lật ngửa nó ra. Con vượn tinh đưa hai chi trước lên như thể cố cào cấu và ngăn cản ông Vinh. Ông Vinh trong cơn điện loạn thì cầm quắm mà chém lia lịa vào hai cái chi trước của con vượn nát bét. Con vượn bây giờ bị trọng thương chỉ còn biết nằm đó mà chịu trận. Ông Vinh đưa tay lần mò lên bụng con vượn tinh như thể để tìm kiếm thằng Tú, khi ông ta sờ được phần cứng cứng tròn tròn như đầu người còn đang động đậy thì ông Vinh bắt đầu dùng quắm rạch. Lưỡi quắm cứ thế xé toạc lớp da bụng của con vượn tinh, máu trào ra như xuối, tiếng con vượn hú lên trong đau đớn rung chuyển cả núi rừng. Ông Vinh cứ mãi miết một tay cầm quắm rạch, một tay thì thọc sâu vào bụng nó đề tìm và kéo thằng Tú ra, toàn thân ông Vinh bây giờ từ đầu xuống chân là nhuộm một mầu máu đỏ tươi. Chợt bên tai ông có tiếng kêu yếu ớt:
– Bố…
Và rồi chỉ sau cái chớp mắt, ông Vinh giật thọt người buông rơi cả cây quắm khi mà ông đang đứng đè trên người thằng Tú. Ông Vinh toàn thân run rẩy, mắt mở to không chớp, ông đưa hai cái tay đẫm máu lên cố bịt miệng mình khi trước mắt ông là thằng Tú nằm đó bất động, hai tay bị chém nát, bụng bị rạch lòi hết cả lục phủ ngũ tạng ra. Ông vinh toàn thân run lẩy bẩy, hai mắt cay xè nhìn thẳng vào đôi mắt của thằng Tú đang mở ra nhìn ông như van xin dừng tay. Chợt ông Vinh khóc hòa lên hét lớn:
– Tú! Con ơi!!!
Ông Vinh như hóa điên, ông ta hai tay cố vơ vét nội tạng của thẳng Tú nhét lại vào trong ổ bụng. Thậm chí ông còn cởi phăng cái áo của mình ra mà buộc người thằng Tú lại như thể để cho nội tạng của nó không bị rơi ra ngoài. Ông Vinh điên dại bế phộc cái xác thằng Tú lên chạy ngay về nhà, vừa chạy ông vừa gào khóc vang vọng cả núi rừng mà gọi tên nó:
– Tú ơi! Con đừng chết mà tú ơi!
Cái câu chuyện cha đẻ gϊếŧ chết con ruột trên rừng vầu như một làn sóng thần làm trấn động cả cái đất Thái Nguyên. Ông Vinh sau cái hôm lên rừng định mệnh đó thì được cho là mắc bệnh tâm thần và đặc biệt nguy hiểm với cộng đồng nên đã bị nhốt lại. Mẹ thằng Tú khóc hết nước mắt mà chôn cất con ruột mình, thế rồi bà ta cũng bỏ xứ mà đi. Lý do và nguyên nhân gì đã khiến cho Ông Vinh gϊếŧ hại dã man con mình có lẽ tới giờ vẫn là một dấu chấm hỏi lớn. Cái người duy nhất biết được câu chuyện thương tâm đó có lẽ chỉ mình ông Vinh, một bệnh nhân điên dại lúc nào cũng vừa khóc vừa cười, chân bị xích trong trại mà luôn miệng đòi lên rừng vầu tìm con. Mãi về sau này, còn có một số vụ việc kì quặc có liên quan tới mất tích và án mạng cũng xảy ra ngay tại cái khu Rừng Câm thuộc địa phận Thái Nguyên này. Có lẽ cũng bởi vậy mà người dân Thái Nguyên như hạn chế lui tới Rừng Câm hơn, họ bắt đầu một đồn mười, mười đồn trăm rằng khu Rừng Câm này là nơi đất độc, trong rừng này là một con quỷ khát máu luôn đợi thời cơ để bắt người đi.
Chương 5: Nỗi Oan 30 Năm
.. Khoảng đầu năm 1997 …
Một chiếc xe 16 chỗ từ từ tiến vào địa phận Rừng Câm, chiếc cửa kéo rộng mở, bước xuống trước là một người đàn bà ngoài 40. Ba ta nhìn quanh và hít một hơi thật sâu như để cố cảm nhận cái mùi đặc trưng của rừng núi:
– Cảnh vật còn đây mà người xưa đâu?
Nói rồi bà quay đầu vào trong xe nói:
– Có lẽ chúng ta phải đi bộ từ đây thôi, trong này không có đường bằng cho xe chạy vào đâu.
Bước xuống xe theo bà còn có thêm 3 người nam giới khác và một người phụ nữ. Người phụ nữ trạc tuổi bà có tên là Hằng, bà ta là một nhà ngoại cảm khá nổi tiếng thời bấy giờ với cái lộc trời cho đó là tìm mộ liệt sĩ. Đi cùng với bà Hằng là một ông thầy phong thủy địa lý có tên là Ninh, nghe đâu hai người còn lại hiện giờ đang đóng quân tại đất Thái Nguyên, và họ được xem là những người am hiểu về địa hình cũng như là đường đi ngã rẽ tại cái khu Rừng Câm này nhất. Cả bốn người bọn họ cứ đi mãi đi mãi, càng ngày họ càng tiến sâu vào trong địa phận của Rừng Câm. Cuối cùng cả bốn cũng đã đặt chân được tới một vùng đất phẳng rộng mênh mông, có dấu hiệu các gốc cây bị chặt đã từ lâu. Chợt bà trưởng đoàn thốt lên:
– Đây rồi … đúng là đây rồi…
Hai mắt bà trưởng đoàn bỗng nhòa đi vì lệ, cái hình ảnh của cả một doanh trại giữa rừng do lữ đoàn pháo binh lại hiện ra ngay trước mắt bà. Bà trưởng đoàn đứng đó như người mất hồn, bà nhớ rõ vị trí từ những xe pháo binh để đâu, bếp ăn dựng ở đâu, tất cả vẫn y nguyên như 30 năm về trước. Một chiến sĩ dẫn đường nhìn quanh nói:
– Bác nhớ chính xác đấy, đây chính là nơi đóng quân ngày xưa của lữ đoàn pháo binh.
Thế rồi cả bốn người bọn họ men theo một con đường “mòn” trong rừng, mà theo như bà trưởng đoàn nói thì đó chính là con đường đẩy pháo luyện tập của lữ đoàn ngày nào. Đi hết con đường đó khoảng 30 phút thì họ gặp một con suối. Bà trưởng đoàn như không kìm được lòng, chợt bà bắt đầu khóc, hai hàng nước mắt tứa ra, tiếng nấc nhè nhẹ bắt đầu xuất hiện. Bà chạy vượt lên trước tiến về phía con suối, bà bước lên cái mép đá lớn, nơi mà trước kia bà với người bạn đồng đội cùng quê vẫn hay ngồi tâm sự. Bà trưởng đoàn ngồi phộc xuống cái mỏm đá đó, bà ôm mặt khóc nhìn xuống mặt suối trong kia, trên mặt nước như lại hiện ra cảnh bà và người bạn đồng hương ngồi bên nhau ngày nào. Lúc này nhà ngoại cảm Hằng mới từ từ tiến tới hỏi:
– Bà muốn bắt đầu chưa?
Bà đội trưởng cố gạt đi hai hàng nước mắt, bà ta nói giọng nghẹn ngào:
– Đúng … đúng là chỗ này rồi… nhờ bà bắt đầu làm việc cho.
Nói rồi bà Hằng đặt cái túi đeo xuống và lấy ra một số đồ như tiền vàng giấy mã bầy lên cái mép đá đó. Bà ta thắp thêm 3 cây nhang cầm trước mặt kẹp với một tờ sớ miệng lẩm rẩm đọc:
– Nam mô a di đà phật, con lạy chin phương trời, mười phương chư phật, chư phật mười phương. Con kính lạy đức thượng ngàn đỉnh thương cao sơn triều mường sơn tinh công chú Lê Mai Đại Vương ngọc điện hạ. Con kính lạy đức thường ngạn chúa tể Mị Nương Quế Hoa công chúa tối tú tối linh…
Bà trưởng đoàn đứng đó chắp tay khấn theo lời bà Hằng đọc khấn, hai đồng chí dẫn đường đứng đó lặng im, ông Ninh lúc này thì đi loanh quanh và bấm độn ngón tay như thể để tính một cái gì đó. Sau khi nhẩm đi tính lại kỹ càng, xem một lượt khắp dọc con suối này thì trên nét mặt ông ta có thoáng gì đó thất thần. Bà Hằng vẫn đứng đó thành khẩn mà khấn:
– … Hôm nay là ngày…tháng…năm. Chúng con có mặt ở đây đốt nén tấm hương kính dâng lễ vật, một dạ chí thành, chắp tay khấn nguyện. Cúi xin lượng cả bao dung, thế đức hiếu sinh, giúp cho chúng con được tiếp xúc với vong linh liệt sĩ Hoa, người đã bị quỷ rừng bắt đi cách đây 30 năm. Cúi xin mẫu thượng ngàn soi đường chỉ lối, để cho chúng con có thể tìm được liệt sĩ Hoa để đưa liệt sĩ về với gia đình. Nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật.
Nói rồi bà Hằng đưa tay ra sau ra dấu cho bà trưởng đoàn, bà trưởng đoàn lúc này mới sụt sùi chấp tay nói:
– Hoa ơi … là tôi đây, là Liên đây. Suốt mấy chục năm qua chưa bao giờ tôi quên bà, chưa bao giờ tôi quên được cái nỗi oan ức bị cho là đảo ngũ của bà. Nay chiến tranh đã qua đi, bố mẹ bà cũng nhớ thương bà lắm, bà sống khôn thác thiêng, nếu bà còn ở đây, xin hãy dẫn đường chỉ lối, dưa tôi tới chỗ bà yên nghỉ, để tôi mang bà về với bố mẹ bà nghe.
Nói rồi bà Liên cúi người vái 3 vái. Vừa vái xong, bà Hằng đứng trước mặt bà Liên nãy giờ vẫn nhắm mắt cầm hương và sớ đưa lên trước mặt thì bất ngờ người bà bắt đầu đung đưa. Người bà Hằng cứ thế lắc lư tựa như cành liễu bị gió thổi đung đưa vậy. Bất ngờ toàn thân bà Hằng rung lên một cái, không nói không rằng, mắt vẫn nhắm, hai tay vẫn cầm hương và sớ trước mặt, bà Hằng bước đi một cách rất nhanh, nếu không nhìn kĩ thì cứ như thể bà ta đang bay lướt đi là là trên mặt đất vậy. Bà Liên với hai chiến sĩ kia vội đuổi theo, còn ông Ninh thì từ khi nhìn thấy toàn thân bà Hằng rung lên đã vội mở nắp chai lấy ít nước suối rồi cũng cuống cuồng đuổi theo ba người đó, có vẻ như chỉ có ông Ninh đang nhìn ra được có việc gì đó không phải ở đây. Bà Hằng cứ thế lướt đi là là trên nền rừng lòng vòng, bà Liên và ông Ninh với hai người kia chạy theo mà muốn hụt hơi.
Bất ngờ, tới một đoạn dốc hơi thoai thoải thì bất ngờ bà Hằng ngã úp mặt xuống đất, cả ba người chạy hụt hơi theo sau tới thì có hơi ngỡ ngàng. Hai chiến sĩ kia thì vội tiến tới đỡ bà Hằng dậy, bà Liên đứng đó nhìn một lúc, thế rồi mặt bà hốt hoảng nói:
– Con dốc này … con dốc này là…
Ông Ninh từ nãy giờ để ý mọi người, giờ thấy cái nét mặt của bà Liên thì vội quay ra nói:
– Đây có phải là chỗ lần đầu tiên bà đυ.ng độ con quỷ rừng không?
Bà Liên quay người nhìn ông Ninh như không tin:
– Làm sao … làm sao mà ông biết được?
Ông Ninh còn chưa kịp quay lại phía ba người kia thì bất ngờ bà Hằng hét lớn thất thanh giữa rừng, cái tiếng hét inh tai nhức óc như muốn làm nổ tung đầu của mọi người. Hai chiến sĩ bộ đội đang đỡ bà Hằng thì bị bà ta đẩy ngã lăn cu đơ. Bà Hằng quỳ gối chống tay trên nề rừng toàn thân cứ oặt ẹo, mắt trợn trừng mồm há ra mà phát ra cái tiếng “khò khè” đến ghê người. Chưa dừng lại ở đó, toàn chân, tay cổ, và mặt bà ta xuất hiện các đường lằn đỏ như thể có ai đó cào cấu. Bà Hằng cứ quỳ gối chống tay ở tư thế đó mà chịu trận, miệng khò khè cái tiếng như thể một con thú hoang, pha lẫn là cái tiếng cười điên loạn. Bà Liên và cả 2 chiến sĩ kia đứng đó tái mặt không dám lại gần, Ông Ninh lúc này lấy gói bột tỏi ớt nghiền nát ra đổ vào cái lọ nước suối lúc nãy. Ông Ninh sóc mạng cái chai đó, ông Ninh mở nắp và nhặt một cành cây dài. Ông cầm cành cây này mà vẽ một vòng tròn bao quanh chỗ bà Hằng. Vẽ xong vòng tròn ông đi đủ tứ hướng, mỗi hướng ông viết lên nền đất một chữ phạn. Xong xuôi đâu đó ông bắt đầu vẩy cái thứ nước tỏi ớt lên đầu, lên người bà Hằng. Thứ nước suối pha tỏi ớt này tựa như axit, vừa tưới lên đầu, lên người là y như rằng bà Hằng la hét điên loạn như thể toàn thân bị thiêu sống. Lựa lúc này, ông Ninh thò tay vô như để cố kéo được cái áo khoác trên người của bà Hằng ra, thế nhưng không, ngay khi ông Ninh vừa túm vào vai áo, bất ngờ bà Hằng quay qua trợn mắt nhìn ông Ninh la hét, bà ta với tay ra cào rách tay ông Ninh chảy máu. Như sợ thời cơ sẽ vụt qua, ông Ninh đưa ngay cái cành cây lên trước mặt niệm chú, thế rồi ông ta một tay cố túm vai áo, một tay vung cành cây vụt lia lịa vào mặt bà Hằng hét lớn:
– Tà linh dám hỗn láo sao! Tao đánh cho mày phục pháp thì thôi!
Tiếng cành cây vụt “vun vυ”t” vào mặt bà Hằng khiến 3 người kia phải sót xa, họ lao vào can ngăn hoặc như bảo ông Ninh nhẹ tay thì ông Ninh quát lớn:
– Làm nhẹ tay là chết hết đây!
Ông Ninh cứ thế một tay giữ vai áo bà Hằng, 1 tay vụt vào mặt bà ta đến tóe máu. Cuối cùng khi mà cành cây bị vụt gẫy làm đôi cũng là lúc mà ông Ninh kéo được cái áo khoác của bà Hằng ra mà ngã bổ ngửa ra nền rừng. Nhanh như cắt. ông Ninh bật dậy cuống cuồng bốc đất, nhổ lá trên cành mà cho vào giữa cái áo gói lại, trong khi bà Hằng thì đang lăn lộn trong vòng tròn ôm mặt gào hét. Xong xuôi đâu đó, ông Ninh móc một con hình nhân giấy mầu trắng ra nhét vào giữa. Ông cầm cái áo khoác bọc các thứ đó tiến lại và ở tư thế sẵn sang. Cả ba người kia vẫn đứng đó thất thần nhìn ông như không hiểu ông Ninh tính làm gì tiếp theo. Ông Ninh cứ đứng đó nhìn bà Hằng lăn lộn ôm mặt gào thét điên dại, tới khi mà bà Hằng quay đầu gần tay ông, Ông Ninh nhanh nhẹn vứt cái áo vào thẳng vòng tròn, hai tay với kéo mạnh đầu lôi bà Hằng ra khỏi cái vòng tròn đó. Đúng là kỳ tích, bà Hằng vừa được ông Ninh kéo ra khỏi vòng tròn thì ngay lập tức nằm im lìm, trên mặt và toàn thân thì không hề có vết bầm tím hay xước xác. Ông Ninh hét lớn:
– Mau vào đỡ bà ta lên lưng tôi!
Hai chiến sĩ kia vội tiến tới đỡ bà Hằng nằm lên lưng ông Ninh, thế rồi cả bốn người họ lao nhanh ra khỏi rừng, chỉ có riêng bà Liên vẫn đứng đó bất động. Ông Ninh hét:
– Mau ra khỏi đây nhanh!
Bà Liên ú ớ:
– Nhưng … nhưng mà … còn…
Ông Ninh hét:
– Có muốn đi theo bạn bà luôn không?!
Hai đồng chí bộ đội kia như hiểu được ý ông Ninh, chẳng gì thì gì họ cũng đóng quân tại đây mà. Nhanh như cắt, một chiến sĩ tiến tới kéo tay bà Liên, cả bốn người họ chạy như bay ra khỏi rừng câm, mặc cho bà Liên vẫn vừa chạy vừa ngoái đầu nhìn về phía con dốc đó.
Chiếc xe 16 chỗ từ từ đưa họ rời xa khỏi Rừng Câm, bây giờ thì bà Hằng đã tỉnh lại hoàn toàn, cả bốn người họ ngồi trên xe không ai nói với ai câu gì. Bà Liên ngồi cạnh ông Ninh để mắt thấy ông ta đang lấy cái khăn mùi xoa của mình cố thấm máu từ cái vết cào trên tay, bà ta hỏi:
– Ông … chuyện gì đã xảy ra vậy?
Ông ninh vẫn cố lau vết thương nói:
– Chuyện gì á, chuyện là chúng ta vừa thoát chết chứ sao?
Bà Liên run rẩy:
– Cái thứ … cái thứ đó …
Ông Ninh quay qua nhìn thẳng vào mặt bà Liên nói:
– Thế này nhé, tôi nghĩ là bà sẽ không tìm được hài cốt bạn bà ở cái nơi rừng thiêng nước độc đó đâu. Ít ra là không thể tìm ra trong một sớm một chiều được. Nếu bà thực sự trọng tình cảm với liệt sĩ Hoa, tôi sẽ giới thiệu cho bà một ông thầy ở Thái Nguyên này. Ông ta sẽ giúp được bà, còn tôi chỉ là thầy phong thủy.
Bà Liên nghe xong thì vẫn hỏi:
– Nhưng tôi muốn biết cái thứ vừa nãy là gì?
Ông Ninh lắc đầu:
– Là thứ mà bà không bao giờ muốn đối mặt đâu, người đời gọi cái thứ vừa rồi rà “tà linh”.
Bà Liên nói:
– Tà linh?
Ông Ninh nhìn ra cửa sổ ô tô:
– Không phải ma, cũng chẳng phải quỷ, mà ngang hàng với thánh thần … thứ linh có mặt ở trên đời này từ rất lâu, rất lâu rồi… tựa như là những vị thần bị lãng quên vậy?
Bà Liên nghe cái câu nói đó thì gặng hỏi:
– Ông … ông có thể nói rõ ra hơn được không?
Ông Ninh nói:
– Người mà tôi giới thiệu cho bà có tên là Trà, và ông ta sẽ nói cho bà hiểu rõ mọi vấn đề, nhất là cái khu rừng mà bà từng đóng quân này. Rồi bà sẽ hiểu tại sao người đời gọi là “Rừng Câm”, còn hôm nay hãy mừng là vì bà đã thoát chết.
Chương 6: Tà Linh
– Bà có thể nói lại cho tôi nghe mục đích của bà tới Rừng Câm là gì được không?
Bà Liên đáp:
– Tôi muốn đưa bạn tôi, là liệt sĩ đã “biến mất” tại khu rừng đó về với gia đình, không còn phải chịu cái cảnh bơ vơ lạnh lẽo nơi rừng thiêng nước độc đó nữa.
Ông Trà mỉm cười, ông ta cầm tách cà phê lên làm một ngụm rồi nói:
– Rừng thiêng thì đúng, còn nước độc thì chưa chắc đâu…
Cuối cùng thì bà Liên cũng đã có cuộc gặp với người đàn ông mang tên Trà, người mà ông Ninh nói có thể giúp được bà. Hai người có mặt tại quán cà phê ở trên đất Thái Nguyên này để bàn về việc tìm hài cốt liệt sĩ Hoa. Ông Trà ngồi đó ngẫm nghĩ một lúc, trên tay là cái điếu thuốc còn đàng cháy tỏa khói thơm lừng kia nói:
– Bà biết rằng không chỉ có bạn bà là vẫn còn lầm đường lạc lối tại khu rừng câm đó đúng không? Còn có rất nhiều liệt sĩ đến giờ này vẫn chưa tìm được đường về với thân nhân, về với gia đình.
Bà Liên thở dài:
– Từ ngày rời khỏi đó, tôi cũng có nghe ngóng, từ lúc cái Hoa “mất” về sau cũng có nhiều tin đồn các chiến sĩ pháo binh được cử tới đó huấn luyện, rồi cũng từng người từng người một biến mất. Nhưng vì là bên quân đội, nên họ cấm không được tuyên truyền ra ngoài. Ngoài cái Hoa ra còn có Khánh, cậu ta bên pháo binh, chính cậu ta là người đã cố cứu Hoa thoát khỏi cái thế lực vô hình đó, nhưng mà rồi … cậu ta cũng không thấy trở về. Tôi đã có nhiều lần nhờ đơn vị liên lạc với thân nhân, đích thân tôi có lên Hà Nội nhưng không thể nào tìm được nhà cậu ta.
Ông Trà nói:
– Và có lẽ họ cũng sẽ không thể nào tìm được đường về với gia đình, và cũng không ai có thể giúp được họ đâu.
Bà Liên nghe ông Trà nói vậy thì trên mặt bà bỗng toát lên cái vẻ buồn vời vợi, bà nói:
– Không lẽ nào ngôi rừng đó thực sự bị nguyền rủa? không lẽ nào không thế giúp người quá cố hồi hương được sao?
Ông Trà dít một hơi thuốc, ông ta chậm rãi nhả khói nói:
– Nguyền rủa thì cũng không đúng. Mà cái khu rừng này đặc biệt ở chỗ đó là có Tà Linh ẩn náu, chính vì thế mà người đời mới đặt tên cho khu rừng này là Rừng Câm.
Bà Liên nghe đến 2 chữ “Tà Linh” thì bà ta hỏi:
– Tà Linh? Tôi có nghe ông Ninh nhắc tới, ông có thể giải thích thêm được không?
Ông Trà phân tích:
– Ngắn gọn là thế này nhé. Nếu bà tìm hiểu tâm linh, đặc biệt bên phía đạo giáo, bà phải hiểu rằng thế giới được tạo ra bởi 2 người đó là Thiên Phụ và Địa Mẫu, đặc biệt đạo mẫu của Việt Nam ta là thờ phụng Địa Mẫu. Từ rất lâu, lâu lắm rồi, có một kẻ mang tên Hắc Đế, hắn ta muốn cai trị loài người, xóa sổ thần thánh, chiếm ngôi cao của Thiên Phụ. Trong cuộc giao tranh đó đã có khá nhiều người vô tôi phải thiệt mạng. Cuối cùng thì thần thánh, hay nói trắng ra là Thiên Phụ và Địa Mẫu vẫn lấy lại được cái lòng tin, sự tín ngưỡng của loài người. Hắc Đế thì … cuối cùng cũng bị Thiên Phụ đánh cho tan hồn phách mà rơi vào cõi hư vô, tựa như hắn chưa bao giờ tồn tại.
Bà Liên ngồi nghe chăm chú:
– Rồi sao nữa ông?
Ông Trà làm ngụm cà phê nữa:
– Vấn đề phải chăng Hắc Đế quả thực bị đánh cho tan hồn phách và thực sự chưa bao giờ tồn tại? Cái tà khí của hắn sau khi bị đánh tan thì tỏa ra khắp cái đất Việt Nam này. Một số khác thì tạo thành những vị thánh của bóng tối, một số khác thì cứ vô định luẩn quẩn mà không hình thành một hình hài nhất định. Ngày qua ngày, cái tà khí lởn vởn vô định đó hấp thụ tâm ma của người sống mà có sức mạng vô hình, có thể thiên biến vạn hóa và ám lấy cả một vùng rộng lớn, người đời gọi đó là Tà Linh. Rừng Câm ở cái đất Thái Nguyên này là nơi mà một tà linh đang chiếm giữ.
Bà Liên hỏi:
– Vậy là không phải ma hay là quỷ đúng không ông?
Ông Trà lắc đầu xua tay:
– Nói đến Tà Linh thì bà đừng nghĩ là ma hay quỷ, không ngang hàng đâu. Như tôi vừa kể, Tà Linh đã có mặt từ rất lâu, một thứ tà khí thuần khiết mà sức mạng ngang hàng với thần thánh của chúng ta. Và đương nhiên là, để giải quyết Tà Linh thì… hầu như là không có cách.
Bà Liên nghe đến đoạn không có cách thì bà ta thở dài, bà nhìn ra cửa phía xa xăm mà nói:
– Vậy không lẽ nào đồng đội của tôi và những người khác mãi mãi bị trói buộc ở đó sao?
Ông Trà gãi cằm nghĩ:
– Cũng chưa hẳn là đã hết cách, nhưng mà…
Nghe đến đây bà Liên quay đầu lại nhìn, trên khuôn mặt nhuộm mầu thời gian như toát lên một tia hy vọng:
– Ông nói mau đi.
Ông trà hỏi:
– Bà đã bao giờ nghe đến chùa Vạn Vọng chưa?
Bà Liên gật đầu:
– Ngôi chùa trên đồi mà có độc đạo đúng không? Nó nằm ở ngoại ô Hà nội.
Ông Trà gật đầu:
– Đúng, nhưng mà ngọn đồi đó là oán khí của người chết oan, nhờ vào ngồi chùa đó mà có thể hóa giải chướng khí của cả ngọn đồi. Tôi nghĩ rằng để giải quyết được tà linh tại Rừng Câm có khi ta cũng nên bắt đầu từ đó.
Bà Liên đáp:
– Vậy là phải xây chùa? Chuyện đó tôi lo được. Tôi sẽ đi vận động bà con khuyên góp, còn lại bao nhiêu tối sẽ lo hết, chẳng giấu gì ông. Chồng tôi là một thương gia nổi tiếng ở Hải Phòng, ông ý chắc chắn sẽ đồng lòng xây chùa mà thôi.
Ông Trà châm điếu thuốc nữa gật gù nói:
– Vậy là phần dương đã xong, giờ còn phần âm nữa.
Bà Liên vẻ mặt khó hiểu:
– Phần âm là sao?
Ông Trà giải thích thêm:
– Bà hiểu thế này nhé, xây được chùa tại Rừng Câm sẽ tựa như là một con chiện lớn, một lá bùa trấn áp cả cái vùng đất đó, đó sẽ là phần dương. Còn nói về phần âm, thì phải kiếm được người cầm con chiện đó, hay như là người yểm bùa cái vùng đất đó.
Bà Liên vẻ mặt khó hiểu hỏi:
– Tôi tưởng ông sẽ là người làm lễ chứ?
Ông Trà lắc đầu:
– Không, người mà trấn yểm lá bùa đó sẽ là người tu ở trong chùa, là vị sư trụ trì.
Ông Trà ngồi đây và kể lại cho bà Liên nghe rõ hơn về cái sự tích của chùa Vạn Vong. Sở dĩ ngồi chùa đó có thể đứng vững và xua tạn oán khí là nhờ vào có vị sư trụ trì của ngôi chùa đó. Nghe đâu đó là một người có căn tu từ nhỏ, và suốt cuộc đời ông ta luôn một lòng hướng phật. Việc mà ông đảm nhiệm trụ trì chùa Vạn Vong cũng chính là cái thử thách cuối cùng trước khi ông ta đắc đạo thành Phật. Ông Trà kể đến đây thì hỏi:
– Bà đã từng tới chùa Vạn vong, vậy bà có còn nhớ cái bức tượng phật được đặt ngay chính giữa không?
Bà Liên khẽ gật đầu, ông Trà nói tiếp:
– Bức tượng phật đó chính là xác của vị sư trụ trì năm nào đó. Ông ta đã chết ở ngay ngôi chùa đó, đắc đạo thành phật. Ông ta đổi lấy mạng sống của mình để đem lại sự bình yên cho cả một ngọn đồi, để cứu vớt những linh hồn tội lỗi ở đó.
Bà Liên nghe đến đây thì lại một lần nữa cảm thấy có phần nào thất vọng. nếu đúng như ông Trà nói thì khu Rừng Câm này phải làm tương tự như cái ngọn đồi kia, phải xây dựng được một ngôi chùa tượng tự như chùa Vạn Vong, nhưng thử hỏi làm sao mà kiếm được một vị sư trụ trì nữa sẵn sang hy sinh như vị kia chứ? Thấy bà Liên có vẻ thất vọng, ông Trà đã phải động viên mãi và nói rằng bà Liên là người có tấm lòng tốt bao dung, biết đâu trời phật phù hộ? Thêm vào đó Tà Linh ở Rừng Câm đã quấy nhiễu và hãm hại người dân đủ lâu rồi, có lẽ bà Liên sẽ là người chấm dứt tất cả, biết đâu sẽ có người tự tìm đến?
Và rồi cứ theo đúng như kế hoạch, bà Liên cùng với ông Trà đi vận động người dân sống tại cái đất Thái Nguyên này, đặc biệt là gần khu vực Rừng Câm khuyên góp tiền, ai không có tiền thì phụ giúp xây dựng. Sau khi có được giấy phép, ông Trà liên lạc với ông Ninh để tới tìm nơi xây dựng chùa. Sau khi xem xét kĩ càng, ông Ninh chỉ ra rằng có một vị trí có thể xây chùa được. Ông Trà hỏi đùa:
– Có thể xây được chứ không phải vị trí tốt và đẹp hả ông?
Ông Ninh nhìn ông Trà nghi ngờ nói:
– Ông ạ, ông là dân bản địa ông phải hiểu hơn tôi chứ? Tìm được vị trí để xây không đổ đã là tốt lắm rồi. Chứ cái vùng đất bị tà linh quấy nhiễu này thì thử hỏi chỗ nào mà phong thủy đẹp cho nổi?
Sau khi vật liệu đã được chuyển đến, đích thân bà Liên đã thuê người của tổng công ty xây dựng Trường Sơn để xây dựng ngôi chùa này. Cứ ngỡ rằng với vị trí mà ông Ninh đã chọn thì ngôi chùa sẽ được xây lên một cách dễ dàng. Nhưng không, nền của ngôi chùa cứa vừa xây xong là nứt toạc vỡ vụn ra cứ như thể có người cầm một cây búa khổng lồ nện xuống vậy. Dù cho có xây đi xây lại bao nhiêu lần, cứ sau một đêm khi mà xi măng khô là y như rằng những đường nứt lớn lại khi không xuất hiện cho dù là có người canh ở đó hay không. Cuối cùng thì việc xây dựng cũng phải tạm hoãn, đợi cho ông Trà nghĩ ra kể để xây cho xong cái nền của ngôi chùa này.
Chương 7: Cư Sĩ Thanh Tịnh
Tiếng chuông điện thoại tại nhà bố mẹ Hà vang lên, mẹ Hà nhấc máy:
– A lô tôi nghe?
Ông Trà nói:
– Bà Hương à? Thằng con nuôi của tôi có nhà không?
Bà Hương đáp:
– Có, bố nuôi nhớ nó quá hay sao mà hỏi vậy?
Ông Trà cười:
– Ừ thì nhớ, cuối tuần này tôi qua đón nó nhé, có việc cần nó.
Bà Hương đáp:
– Thế có đi cả ngày không hay chỉ đi một buổi thôi?
Ông Trà đáp:
– Yên tầm là tôi đưa con bà về trước giờ cơm tối nhé.
Ông Trà và bà Hương vốn là hai người bạn khá thân thiết từ nhỏ, chưa kể đến việc Hà sống được tới giờ phút này cũng là nhờ ông Trà. Chẳng là khi mang thai Hà, ông Trà đã bấm quẻ cho bà Hương và nói rằng bà đang mang thai đôi, nhưng sẽ chỉ có một đứa sống. Cứ ngỡ rằng mọi chuyện chỉ có đơn giản như vậy, nhưng không chỉ có người anh em song sinh chưa một lần nhìn thấy mặt trời của Hà chết trong bụng mẹ mình, mà ngay đến cả Hà cũng bị dây rốn cuốn cổ, và nếu như không can thiệp kịp thời thì cậu cũng chẳng bao giờ nhìn thấy được mặt bố mẹ mình. Cái ngày mà bà Hương lên bàn mổ, ông Trà ở nhà cũng làm lễ cầu cho mọi sự bình an. Ngày mà Hà chào đời, cất cái tiếng khóc “oe oe” thì cũng là lúc mà ông Trà đã vẽ được bản đồ tử vi cho cậu. Có điều mà ông Trà giấu tiệt bà Hương đó là đứa con trai này của bà khá nặng nghiệp âm. Thứ nhất, Hà mang mệnh tam dần, thứ 2 là cậu đã vượt qua được cửa tử ngay từ lúc chào đời. Thứ 3 nữa, đó là đứa anh em song sinh đã mất đi của cậu kia lại tượng trưng cho phần dương. Chính vì thế mà Hà sau này sẽ phải gánh nghiệp thay cho người anh em đó, phải một mình làm cân bằng lại số phận của không chỉ bản thân mình, mà còn là của gia đình. Để giúp cho Hà đỡ nghiệp, ông Trà không những chỉ nhận cậu làm con nuôi ngay từ lúc đẻ ra, mà sau này ông còn nhận Hà làm để tử út, để hướng cậu đi theo con đường tâm linh, cũng là để giải giúp cậu cái hạn phần nào.
Đúng như đã hẹn, ông Trà lái xe máy qua nhà Hà và đón cậu đi, trước khi đi ông Trà hứa với mẹ của Hà rằng sẽ đưa cậu ta về trước giờ cơm tối, lúc đó Hà mới có 10 tuổi. Hà chèo lên xe ngồi đằng trước ông Trà, cậu hỏi:
– Hôm nay ta đi đâu hả ba?
Ông Trà xoa đầu Hà nói:
– Hôm nay ba đưa con vào rừng chơi.
Ông Trà đưa Hà tới thẳng địa điệm được chọn để xây chùa, bà Liên đứng đó nhìn Hà thì có hơi ngạc nhiên, bà ta xoa đầu Hà nhìn ông Trà nói:
– Thằng nhóc mà ông nói đây sao?
Ông Trà gật đầu, thế rồi ông với Hà và bà Liên vào việc ngay. Theo như ông Trà bấm độ ra, thì sở dĩ ngôi chùa này cứ tôn nền lên là bị nứt có nghĩa là cái tà linh kia đang ngăn chặn không cho trấn yểm Rừng Câm này. Chính vì thế mà ông Trà đã phải lên một kế hoạch khác để có thể xây chùa, đó chính là yểm bùa vòng ngoài trước. Ngay trong cái buổi sáng khi mà đi đón Hà, bà Liên làm theo lời ông Trà, bảo thợ xây tường bao quanh chùa trước, bức tường được xây trong một buổi sáng đã trát xi măng. Trên bốn bức tường đó có vẽ hình khung của bốn vị phật nhưng không hề có mặt mũi hay như là quần áo, chỉ là cái hình dáng với ánh hào quang đang tỏa ra. Ông Trà đã chuẩn bị sẵn mọi thứ cho Hà, trước tiên ông mặc cho Hà một chiếc áo dài mầu đen có thêu hình cọp trước ngực và sau lưng, sau đó cho cậu đội một cái mũ quan cũng mầu đen nhưng có hình mặt trăng ở trên. Sau khi mặc đồ xong xuôi, ông Trà lấy ra một cái đài con chuyên để nghe kinh phật và bảo Hà đeo sẵn vào cổ. Xong xuôi đâu đó, ông Trà cầm một hộp sơn đỏ mở nắp, thế rồi ông cầm một lưỡi lam cúi xuống trước mặt Hà và nói:
– Chịu đau một tí rồi tẹo ba cho đi ăn kem nhé.
Hà khẽ gật đầu, thế rồi ông Trà cầm cái banh xa lam cứa một đường vào giữa lòng bàn tay bé nhỏ của Hà. Khi máu vừa ứa ra, ông Trà hứng ngay cái hộp sơn đỏ vào và hứng lấy như không để phí một giọt nào. Sau khi đếm đủ số giọt máu, ông Trà sơ cứu băng bó cầm máu cho Hà. Tiếp theo ông bảo bà Liên quấy đều cái hộp sơn đỏ trộn máu đó lên, còn ông Trà thì bật cái đài kinh phật ở cổ để phát ra tiếng tụng niệm trân kinh. Ông Trà bấy giờ mới lấy một cái khăn vàng có in hình kinh phật ra phủ lên đầu Hà, sau đó ông đặt một lư hương có sẵn 4 nén lên và nói:
– Còn đưa hai tay lên đỡ lấy lư hương trên đầu này, cứ bước đi tự nhiên, rồi sẽ có người dắt đường cho con, không sợ ngã nghe chưa?
Hà khẽ đáp:
– Dạ.
Xong xuôi đâu đó, ông Trà bảo Hà cứ đội lư hương trên đầu và đi vòng quanh bốn bức tường bao, còn ông ta thì cầm xô sơn đi sau với một chuổi tràng hạt, một chiếc bút lông cỡ vừa được cắm trong xô sơn, bà Liên thì đi sau cùng cứ chắp tay lại miệng lấn khấn “nam mô a di đà phật”. Ông Trà đợi cho Hà đi hết một mặt tường rồi mới bắt đầu tay lần tràng hạt miệng lẩm nhẩm tụng kinh và tiến tới từng cái khung hình phật được vẽ lên trên tường. Sở dĩ ông Trà phải dùng cách này là vì ông muốn trấn yểm cái vùng đất xây chùa với hy vọng rằng sức mạnh của trấn có thể cầm chân tà linh để nó không thể phá hoại. Vậy loại trấn gì của nhà Phật mà có thể đủ mạnh để cầm chân tà linh không cho nó quậy phá? Đó là A La Hán Trấn, trấn mượn oai của bốn đại đệ tử đầu tiên của Đức Thích Ca Mô Ni. Tương truyền rằng khi mới tìm ra chân tu thì có cả thẩy là 10 vị đệ tử đi theo Đức Thích Ca Mô Ni, trong số đó có 4 đại đệ tử là: Ma Ha Ca Diếp, Quân Đồ Bát Thán, Tân Đầu Lư, và La Vân. Bốn người này cũng thông hiểu phật pháp không thua gì Đức Thích Ca Mô Ni. Bốn người họ hiểu thông phật pháp tới mức mà khi Đức Thích Ca Mâu Ní lên đắc đạo thành Phật cùng những đệ tử khác chỉ còn lại 4 người họ vẫn ở lại trần thế. Nhưng mà cả 4 vị này chưa bao giờ oán hận hay đố kị vì không thể niết bàn thành phật như Đức Thích Ca và các đệ tử khác, họ hiểu ra được rằng cái sứ mệnh của mình còn cao cả hơn. Chính vì thế mà tại vị trí mà Đức Thích Ca niết bàn dưới bóng cây bồ để, cả bốn người Ma Ha Ca Diếp, Quân Đồ Bát Thán, Tân Đầu Lư, và La Vân đã chia nhau đi 4 hướng để truyền bá phật pháp cứu vớt chúng sinh khỏi bể khổ lầm than, tương truyền cho tới ngày hôm nay cả 4 người bọn họ vẫn đang tiếp tục cuộc hành trình đi chuyền bá phật pháp nhiệm mầu. Nhưng kể cũng lạ khi mà 4 vị đại đệ tử này hầu như không ai biết mặt mũi, tướng mạo họ ra sao, ngay đến trong sách kinh phật cổ cũng chỉ có ghi lại hai câu nói để ca ngợi họ “trụ thế bất niết bàn, lưu thông ngã pháp”, có thể hiểu là ở lại thế gian để hoằng dương phật pháp. Và đương nhiên, chính 4 người này cũng là 4 vị đệ tử đầu tiên được xưng tụng bậc A La Hán. A La Hán trấn mà ông Trà sử dụng chính là mượn oai nghiêm và phật pháp nhiệm mầu của bốn vị này để đánh đuổi tà linh, giữ chân không cho nó quậy phá. Vì không ai biết tướng mạo, nên đành phải dùng máu của quan mãnh dần viết tên mà kêu mời họ về để bảo vệ việc xây dựng chùa. Ngay khi mà ông Trà viết xong tên vị đệ tử cuối cùng thì Hà quả thật là như có người dẫn đường cũng đã dừng lại bên cạnh ông ta, dù cho không nhìn thấy đường, nhưng Hà như được phật pháp nhiệm mầu đưa đường chỉ lỗi mà đi đủ 4 vòng quanh chùa, không hề vấp ngã.
Sau khi đã yểm xong, ông Trà bảo Hà tiến thẳng vào cửa ngoài sân chùa, đặt bát hương xuống vái ba vái và đi giật lùi lại nhưng đầu vẫn phải đội khăn vàng. Cũng nhờ có thể, mà cuối cùng thì nền cũng đã được xây xong, và ngôi chùa cũng dần dần hình thành. Ngồi chùa ngự trị tại cái đất Rừng Câm này được đặt tên là Hương Lâm, ý nghĩa của nó là để mong rằng hương khói của những người thành tâm có thể xoa dịu tà linh trong rừng mà mang lại bình yên cho người dân sống quanh đây. Thế nhưng mà chùa được xây dựng lên cũng đã lâu mà lại không có vị sư nào tu hay như trụ trì? Có rất nhiều nhà tu hành biết đến chùa Hương Lâm này, thế nhưng mà khi biết nó được đặt ở Rừng Câm thì không ai dám tới đảm nhận việc canh gác chùa. Vậy cho nên việc chông coi, nhang khói, hay như lau chùi dọn dẹp đều do người dân trong vùng thay phiên nhau làm. Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua, và cái ngôi chùa Hương Lâm này vẫn đứng đó hiên ngang giữa rừng, và tưởng như rằng sẽ không có một nhà sư nào dám tới đây trụ trì… nhưng rồi cuối cùng cái ngày đó cũng tới, đã có một người tới.
Thằng Hà còn nhớ như in cái buổi sáng hôm đó, lúc đó cu cậu lên 13 tuổi và đang đứng quét lá trước sân chùa, ông Trà và mấy người khác trong vùng đang dọn dẹp và lau bàn thờ trong điện chính. Hà đang đứng ở sân thẫn thờ tay cầm chổi quét lá nhưng chân thì chưa tìm thấy ống bơ để đá thì bất ngờ cậu bỗng có cái cảm giác gì đó thanh thản vô cùng bào chùm lấy toàn thân. Hà khẽ ngửng đầu lên nhìn ra phía cửa sân chùa, trước mắt cậu là một vị ni cô với khuôn mặt rạng ngời thanh tao tới lạ thường. Nhìn qua thì Hà đoán là vị ni cô này mới chỉ tầm trên dưới 30 là cùng. Vị ni cô này nhìn Hà chấp tay nói:
– Mô phật, cậu cho tôi hỏi người cai quản chùa có ở đây không?
Hà như bị ai đó điêu khiển, cậu cũng vội buông rơi cây chổi chắp tay lại cúi chào và nói:
– Dạ, cô đi theo con.
Thế rồi Hà dắt ni cô vào trong, ni cô đi theo sau hà thì chăm chú nhìn cậu ta, thi thoảng ni cô lại đưa tay lên xoa đầu Hà với vẻ mặt khá tâm đắc. Sau khi ông Trà và ni cô đã ngồi ở bàn nước nói chuyện với nhau rồi thì Hà lại giả vờ vòng ra ngoài sân quét tiếp, nhưng kì thực là cậu cứ lấp ló ở cửa để hóng hớt. Ông Trà rót ra hai tách trà mời ni cô và hỏi:
– Tôi tên là Trà, một trong những người quản lý chùa Hương Lâm này. Xin hỏi ni cô pháp danh là gì để cho tiện xưng hô.
Vị ni cô này làm ngụm trà, thế rồi bà ta đáp:
– Ông đừng hiểu nhầm, tôi không phải là ni cô mà là cư sĩ, tên là Thanh Tịnh.
Ông Trà nghe người này tự xưng là cư sĩ thì có hơi ngạc nhiên, đơn giản là vì nhìn cái giáng vẻ cử chỉ của người này thì ông ta tin rằng phải là người của cửa chùa, ai ngờ lại chỉ tu tại gia. Ông Trà ngồi đó im lặng một hồi lâu, chẳng là ông đang muốn coi tướng số và cố bấm quẻ của người này nhưng không thể được. Bất ngờ cư sĩ Thanh Tịnh nói:
– Xin hỏi chùa này đã có ai trụ trì ngày đêm nhang đèn chưa?
Ông Trà như bị cái câu hỏi đó làm cho thức tỉnh, ông mỉm cười đáp:
– Dựa vào địa thế mà ngôi chùa được xây dựng lên, tôi tin chắc cư si đã có câu trả lời rồi mà.
Cư sĩ Thanh Tịnh mỉm cười, thế rồi bà ta nói:
– Nếu vậy tôi xin phép ông được trụ trì để ngày đêm tụng kinh nhang đèn giúp chấn yến mảnh đất rừng này được không?
Ông Trà cười gật đầu:
– Được, được chứ. Tôi thấy cư sĩ cũng là người khá phi pham, chỉ nhìn vẻ bề ngoài đã thấy rằng bà là người am hiểu phật pháp. Nếu có được cư sĩ làm trụ trì thì còn gì bằng…
Nói đến đây ông Trà đổi giọng:
– Xin hỏi cư sĩ là … ai cho cư sĩ biết về chùa Hương Lâm này mà tới đây?
Cư sĩ Thanh Tịnh mỉm cười nói:
– Chính phật pháp nhiệm mầu đã đưa tôi tới đây.
Nghe đến đây thì ông Trà chỉ còn biết mỉm cười và tự cho đó là ý trời. Cư sĩ Thanh Tịnh nhìn ra cửa nơi mà Hà đang thập thò hóng hớt kia mà hỏi:
– Cậu nhóc kia có phải là đệ tử của ông không?
Ông Trà có phần ngỡ ngàng vì vừa gặp mà cư sĩ này đã nhìn ra được, ông khẽ gật đầu. Cư sĩ Thanh Tịnh tiếp lời:
– Một cậu nhóc có căn số khá là cao, tuy chỉ có điều là phần âm nhiều hơn phần dương.
Ông Trà càng nghe cư sĩ này nói thì càng trầm trồ thán phục, làm sao mà một vị cư sĩ mới gặp Hà lần đầu có thể nhìn thấu được cậu nhóc như vậy:
– Dẫu biết là cao số, nhưng mà cái nghiệp của cậu ta khá nặng. Thêm vào đó, một thầy cao tay như ông sau này cũng sẽ phải gánh nghiệp hộ cậu ta phần nào đó, chưa kể đến là các đồng môn của cậu ta.
Ông Trà càng nghe thì càng thẫn thờ:
– Dù sao chúng ta cũng có duyên kỳ ngộ, tôi mong muốn sau này trụ trì ở đây có thể mở các khóa tu cho người dân trong vùng. Và tôi hy vọng rằng cậu nhóc kia cũng sẽ tham gia được, tôi mong muốn được dùng phất pháp, tiếng tụng kinh gõ mõ ngày ngày có thể khiến cậu ta hóa giải được cái nghiệp phần nào? Ông thấy sao?
Ông Trà nghe đến đây thì gật đầu lia lịa:
– Được … được chứ, tôi thấy chuyện đó rất hớp lý.
Cũng kể từ cái ngày đó, mà cư sĩ Thanh Tịnh chính thức trụ trì chùa Hương Lâm tại rừng cầm này. Và có lẽ không chỉ có mình ông Trà biết, mà ngay bản thân cư sĩ khi đặt chân tới đây cũng hiểu, đây sẽ là nơi an nghỉ cuối cùng của bà ta.
Chương 8: “Chào Mào Quỷ”
… Trở lại hiện tại, ở bệnh viện Thái Nguyên …
Hà từ từ mở mắt tỉnh dậy khỏi cái cơn mê sảng sau cái đêm làm lễ. Cậu ngổi hẳn dậy vuốt mặt vò đầu, cái mái tóc xoăn bông bềnh “hàn xẻng” mà nhìn quanh. Có lẽ là Hà đã quá quen với cái cảnh trần nhà trắng với bốn cái bóng đèn neon vẫn ở vị trí quen thuộc rồi. Thầy Trà ngồi gần đó thấy Hà tỉnh mới bắt đầu kéo ghế lại ngồi cạnh cậu ta và hỏi:
– Sao, quan mãnh dần cảm thấy thế nào rồi?
Hà vuốt mặt ngẫm nghĩ và hỏi:
– Con thăng được bao lâu rồi hả thầy?
Ông Trà tựa lưng ra sau ghế đáp:
– 3 ngày rồi, mày đi được 3 ngày rồi.
Hà lẩm nhẩm “3 ngày rồi”, vậy mà cậu ta chỉ cảm giác như mới ngủ được có 1 đêm. Hà ngồi đó thẫn thờ cố nhớ lại cái đêm làm lễ ở nhà mình, thầy Trà nói:
– Mày còn nhớ gì không con?
Trong đầu Hà lúc này là hình ảnh con cọp đen xì lại hiện về, thế rồi mấy bóng người ra bảo vệ cậu, Hà khẽ gật đầu. Thầy Trà lúc này lại móc trong túi ra cái lệnh bài đen của Hắc Hổ Quan ném lên trên người Hà nói:
– Cầm lấy.
Hà nhìn cái lệnh bài mầu đen trên người mình thì như không tin, cậu ta cầm lên xem thật kĩ lưỡng. Hà hết nhìn lệnh bài rồi lại nhìn thầy Trà như thể hỏi mà không cần nói “thật hả thầy?”. Thầy Trà ngồi đó khoanh tay trước ngực rồi nói:
– Ngắm nghía cho kĩ đi, rồi làm thủ tục xuất viện. Chúng ta còn phải chuẩn bị nữa đó.
Hà hỏi:
– Vậy hôm làm lễ coi như êm xuôi hả thầy?
Thầy Trà gật đầu đứng dậy:
– Coi như là vậy, còn lại để xem mày có thi triển được tam điểm chỉ không đã.
Hà hỏi:
– Bắt đầu từ đâu hả thầy?
Thầy Trà đáp:
– Chùa Hương Lâm.
Nghe đến đây trong đầu Hà bỗng hiện ra một khuông mặt, một cái tên rất thân quen “cư sĩ Thanh Tịnh”.
Từ khi nhận trụ trì chùa Hương Lâm, cư sĩ Thanh Tịnh ngày đêm lo đèn nhang, tụng niệm kinh văn, và đánh chuông như thể để trấn yến cái đất Rừng Câm này và đẩy lui cái thế lực tà linh vẫn đang luẩn quẩn tìm cách phá ngôi chùa. Cứ mỗi dịp hè đến, khi mà học sinh được nghỉ thì cư sĩ Thanh Tịnh lại mở các khóa tu cho các cô cậu nhóc đó, thậm chí là cho cả người lớn tuổi khi họ rảnh. Và như đã hứa, khóa tu nào cho học sinh sinh viên được mở ra là Hà đều tham dự. Mục đích của các khóa tu là dậy cho mọi người cách ngồi thiền để tâm tĩnh, đọc dịch và hiểu kinh văn, đồng thời bên cạnh đó là một số hoạt động có ích khác. Càng tiếp xúc với Hà nhiều, cư sĩ Thanh Tịnh càng cảm thấy quý cậu ta hơn, cứ như thể là cự sĩ Thanh Tịnh nhìn thấy một cái gì đó ở Hà vậy. Giờ này ngồi trên xe ô tô tiến tới chùa Hương Lâm với thầy Trà, hình ảnh cái khóa tu định mệnh đó lại hiện về, cái hình ảnh mà cư sĩ Thanh Tịnh vĩnh viễn lìa xa cõi đời này. Hà còn nhớ như in sau cái buổi tối hôm đó, cư sĩ Thanh Tịnh khi không lên cơn sốt cao, và cậu là người mà cư sĩ Thanh Tịnh yêu cầu được ở bên trước lúc lâm trung, khi đó Hà 18 tuổi. Cư sĩ Thanh Tịnh nắm chặt tay của Hà, Hà cũng cầm chặt lấy tay của cư sĩ, cái bàn tay yếu ớt nóng hầm hập đó. Cư sĩ Thanh Tịnh nói:
– Con … con phải luôn nhớ, con là một người rất đặc biệt…
Hà khẽ đáp “dạ” một tiếng, cư sĩ Thanh Tịnh tiếp lời:
– Thầy của con là một người tốt, con phải tuyệt đối nghe lời thầy và kính trọng thầy nghe chưa?
Hà khẽ gật đầu hai mắt nhìn vị cư sĩ rơm rớm, cư sĩ Thanh Tịnh thở hắt ra một hơi thật dài thế rồi bà ta nói:
– Sống chết là chuyện thường tình ở đời. Nay ta ra đi không hối hận điều gì cả, ta đi để ngôi chùa này được bình yên. Nhưng … nhưng ta muốn nói với con … chuyện này chỉ có ta và con biết… con phải tuyệt đối giữ kín, không được nói với ai kể cả thầy Trà.
Hà cầm chặt tay cư sĩ Thanh Tịnh mà hai hàng nước mắt nhạt nhòa khẽ gật đầu, cự sĩ Thanh Tịnh hướng cái đôi mắt mờ đυ.c nhìn thẳng vào mắt Hà, cái đôi mắt khi không bông trắng đυ.c đi như thể mù lòa mà nói:
– Hai tay con sau này sẽ nhuộm máu đồng loại, và còn sẽ đi theo bóng tối… nhưng đó là điều cần thiết … để… để đạt được cái mục đích cuối cùng… con hãy … hãy nhớ lấy. Cho dù có là cái bóng của đức Phật Ngàn Tay, nhưng bóng mãi mãi chỉ là bóng… rồi bóng sẽ phải về với thân … nhớ lấy…
Sau cái câu nói đó, cư sĩ bảo thầy Trà và mọi người ra về để bà lại một mình, dù Hà thực sự muốn ở lại nhưng thầy Trà đã hứa với cư sĩ, đồng thời cũng là để bảo toàn tính mạng cho mọi người. Cái đêm cuối cùng đó tất cả ra về hết, chỉ còn lại một mình cư sĩ Thanh Tinh ở lại trong chùa.
Hà ngồi trên xe hướng mắt nhìn ra hai bên đường cây côi um tùm, trên mắt cậu bắt đầu nhòa đi vì lệ khi mà Hà nghĩ tới cái thời điểm bắt đầu, cái thời khắc mà cái thế lực tà linh kia vào được trong chùa. Đó là một buổi trưa hè nóng nực, khắp cả cái khuôn viên chùa này cũng đều im bặt tựa như Rừng Câm bấy lâu nay, không một tiếng chim chóc hay muông thú, chỉ có tiếng gió thổi đung đưa cành cây, tiếng gió cào lá trên nền rừng “xào xạc”, tiếng động của một vùng đất chết chóc. Lúc đó là khoẳng tầm 2h chiều, các học sinh sinh viên vẫn con đang nghỉ trưa thì chỉ có Hà là đã tỉnh giấc. Hà đứng dậy vòng ra vòi nước rửa mặt cho tỉnh táo. Còn đang đứng đó rửa mặt thì bỗng bên tai cậu là một tiếng kêu thánh thót, từ trước đên này chưa bao giờ Hà nghe được tiếng muông thú ở cái đất này nên cậu cảm thấy khá lạ lẫm. Hà ngửng đầu lau mặt đảo mắt nhìn quanh, tiếng chim hót vẫn thảnh thót. Hà tiến ra giữa sân nghe ngóng, thế rồi cậu như hướng mắt tới cái cành cây trên cao ngay cạnh tường rào của chùa là một con chim mầu trắng. Hà cố nheo mắt nhìn thì có vẻ như đó là một con chào mào, chào mào mầu trắng hẳn hỏi. Hà đứng đó huýt sáo như thể nói chuyện với nó, con chim này nghe tiếng Hà huýt sáo cũng cất tiếng hót líu lo theo. Hà còn đang đứng đó cười khoái trí khi lần đầu tiên bắt gặp chim ở Rừng Câm thì bỗng có tiếng lá xào xạc phía xa xa, thế rồi con chào mào này tung cách bay. Thế nhưng nó vừa rời khỏi cành thì một tiếng “pặc” phát ra, Con chào mào bị ná bắn gẫy cánh rơi thẳng vào giữa sân chùa. Hà đứng đó kinh ngạc nhìn con chào mào đang cố giẫy giụa ở trên nền chùa, giờ thì cậu đã nhìn rõ, đây là một con chào mào trắng, trên lưng là sọc đen nhìn vô cùng lạ lẫm.
Hà từ từ tiến tới phía con chim, cậu còn đang định nâng con đó lên để xem nó bị thương có nặng không thì từ phía ngoài cửa chùa là tiếng mấy đứa nhóc lao vào gọi nhau ý ới:
– Nó rơi vào trong chùa kìa mày ơi…
Chỉ một lúc sau, có thêm hai thằng nhóc nữa tầm 12 đến 15 tuổi tiến vào trong chùa, bọn chúng đứng đó tay vẫn cầm ná và thân đeo một cái túi nhìn Hà. Hai bên đứng im nhìn nhau, và có vẻ như là Hà đang đứng gần con chim hơn nên là hai đứa nhóc kia không dám lại gần. Hà cúi người vừa tính với tay nâng con chim chào mào lạ này lên đem vô chùa thì từ trong chính điện có tiếng quát lớn:
– Hà!
Hà đứng hình quay đầu nhìn, cư sĩ Thanh Tịnh đang từ trong bước ra. Hai thằng nhóc kia thừa lúc Hà sơ hở thì chồm tới túm lấy con chim và ba chân bốn cẳng chạy thục mạng. Hà quay đầu tính đuổi theo thì cư sĩ Thanh Tịnh đã kéo tay cậu lại nói:
– Không được đuổi theo.
Hà nhìn cư sĩ Thanh Tịnh mặt khó hiểu, thế rồi cậu quay đầu nhìn theo hai đứa nhóc đang xa dần, không hiểu từ khi nào, bên tai Hà không còn có cái tiếng hót lánh lót của con chim nữa mà thay vào đó là cái tiếng kêu gào, tiếng thét tựa như một con quỷ dữ vậy. Hà có hơi chột dạ, cậu ta quay nhìn mặt cư sĩ Thanh Tịnh như thể dò la coi bà ta có nghe thấy cái tiếng rợn người đó không. Trên nét mặt cư sĩ Thanh Tịnh là một nối lo lắng tột cùng, không, đúng hơn là một sự sợ hãi bắt đầu hiện diện rõ dần. Hà hỏi:
– Sao cư sĩ không cho con cứu con chim đó?
Cư sĩ Thanh Tịnh quay lưng đi lại vào trong chính điện, vừa đi bà vừa nói:
– Nếu con mang con chim chào mào đó vô chính điện, là con dắt quỷ vào trong chùa đó.
Hà nghe xong thì thoáng rùng mình mà lo sợ, “tại sao cư sĩ lại gọi con chim chào mào đó là quỷ cơ chứ?” Hà nghĩ thầm trong đầu mặt tái mét.
Có lẽ cái câu hỏi đó của Hà chẳng lâu sau cũng có lời giải đáp. Cái buổi chiều hôm đó, khi đang đứng quét sân, chợt Hà rụng rời chân tay đánh rơi chổi khi mà cái tiếng ghào thét của con chim chào mào quỷ lại vang vọng. Hà đảo mắt nhìn quanh, kia rồi, vẫn tại cái cành cây hôm nào, con chim chào mào tà linh đang đậu ở đó với đôi mắt đỏ rực. Hà còn chưa hoàn hồn thì từ phía xa xa là mấy người đang hùng hục lao tới chùa, họ gọi to:
– Cư sĩ Thanh Tịnh ơi! Cư sĩ ơi!
Hà quay đầu nhìn thì thấy có 3 đến 4 người lớn, một người trong số họ đang cõng một đứa nhóc. Cư sĩ Thanh Tịnh lao vội ra đón bọn họ vào trong chính điện. Hà cúng hóng hớt vứt chổi lao vào theo, chỉ đến khi mà người này đặt thằng nhóc xuống trước tượng Phật Tổ thì Hà mới câm nín khi nhận ra đó chính là thằng nhóc đã bắn và bắt con chim chào mào kia đi. Thằng nhóc này bây giờ nằm trước mặt cậu giữa bao người toàn thân mồ hôi mồ kê đầm đìa, người oặt ẹo, mắt nhắm nghiền rêи ɾỉ những tiếng yếu ớt:
– Cứu… cứ con với… con đau … con đau quá…
Cư sĩ Thanh Tịnh mặt bà ta bây giờ thất sắc thực sự, cư sĩ banh mắt nó ra xem, đến khi bà thấy hai con mắt trợn tròng với những mạch máu đen nổi lên thì cư sĩ lùi lại. Bố mẹ và người nhà nó thì khóc lóc ỷ ôi và kể lể là đi khám chữa này nọ không tìm ra bệnh, đi coi thì thầy bảo bị quỷ rừng hành phải mang lên chùa. Có lẽ cư sĩ thanh tịnh hiểu rõ chuyện gì đang sảy ra, ngay lập tức bà đuổi hết mọi người về, kể cả Hà. Cư sĩ Thanh Tịnh bảo người nhà ngồi ngoài sân chùa đợi, sau đó bà chốt trong tất cả các cửa của chùa, chỉ còn lại có cư sĩ và thằng nhóc ở bên trong. Hà rất muốn ở lại coi nhưng cư sĩ đã căn dặn kĩ cho một bác giúp việc ở chùa là đưa cậu về tận nhà và cấm không được ra ngoài.
Người nhà của đứa nhóc này cứ đợi ở ngoài sân chùa, họ nghe tiếng tụng niệm kinh, tiếng gõ mõ, cứ thế vang vọng. Phải tới hơn 1 giờ đêm, cửa ở gian chính rộng mở, cự sĩ Thanh Tịnh bước ra dáng vẻ mệt mỏi, bà nói giọng yếu ớt:
– Xong … xong việc rồi…
Người nhà bu lại hỏi han, chỉ đến khi họ thấy đứa con, đứa cháu của mình đang nằm ngay ngắn chính giữa chiếu, đầu hướng về phía tượng Phật Tổ mới thở phào an tâm. Cư sĩ Thanh Tịnh tựa như người bị rút hết sinh lực, bà đứng còn không vững phải tựa lưng vào cửa. Bà nói:
– Các người bế … bế nó về đi… và nhớ rằng… nhớ rằng không bao giờ… được … được cho nó quay trợ lại Rừng Câm nữa… nghe chưa?
Người nhà nhìn cư sĩ Thanh Tịnh mặt đầy lạ lẫm không hiểu gì, thế nhưng cư sĩ căn dặn xong thỉ đuổi bọn họ ra về nốt. Ngay khi mà bọn họ bế thằng nhóc rời khỏi khuôn viên chùa thì cũng là lúc mà hai mắt cư sĩ Thanh Tịnh bắt đầu chuyển mầu đυ.c và mờ dần, bà ta đã bị mù.
… Trong chính điện của chùa Hương Lâm lúc 1 giờ đêm …
Chỉ còn lại cư sĩ Thanh Tịnh và thằng nhóc ở trong chùa, sau mấy tiếng tụng niệm chân kinh, gõ mõ, làm phép. Cuối cùng trước mặt cư sĩ Thanh Tịnh hiện ra một bóng đen hình người đang ngồi khoanh chân, đầu thằng nhóc gối vào lòng cái bóng đen này, hai tay cái bóng đang xoa lên hai con mắt của thằng nhóc. Cư sĩ Thanh Tịnh nhìn mà không thốt lên lời, bất chợt cái bóng phát ra tiếng ồm ồm:
– Người nghĩ rằng A La Hán Trận có thể cản chân ta sao?
Cư sĩ Thanh Tịnh mặt nghiêm nghị cố đè nén sự sợ hãi và nói:
– Đồ yêu quái quỷ quyệt, nhà ngưới dám cả gan hiện thân trước Đức Phật Tổ?
Một tiếng cười khàn đặc vang vọng, cái bóng đen đáp:
– Yêu ma, quỷ quái là cái thá gì cơ chứ? Nhà ngươi nghĩ ta ngang hàng đồng lứa với chúng nó sao?
Cư sĩ Thanh Tịnh nghe cái bóng đen này nói vậy thì bà bắt đầu nhận ra có gì đó không phải ở đây. Nếu chỉ là ma quỷ thì không thể nào cái bóng kia hiện chân thân mà ngồi giữa chính điện được. Chỉ có bên thần thánh hay như người nhà Phật thì mới may ra… vậy chả lẽ cái bóng này là? Đang nghĩ đến đây thì chợt cái bóng nói lớn:
– Ta được sinh ra và tồn tại trước khi mà cái tên kia tìm ra chân tu và lên làm Đức Phật cơ, cho nên nhà ngươi không phải suy đoán lám gì nhiều.
Nói rồi bỗng cái bóng đen này tan thành một làn khói, nó cứ thế bay vòng quanh chính điện, cái tiếng nói vang vọng:
– Ta chính là tà linh của Hắc Đế năm xưa, cai quản khu Rưng Câm này. Chẳng phải bản thân ngươi tới đây cũng là muốn tìm hiểu xem ai là kẻ đá ám cả một vùng đất sao? Cái kẻ ám cả Rừng Câm này đang đứng ngay trước mặt ngươi đây.
Cư sĩ Thanh Tịnh nghe đến đây thì trên khuôn mặt bà bỗng toát ra một cái vẻ thanh thản tịnh tâm đến lạ lùng, bà đáp:
– Nếu ngươi phép thuật cao thâm như vậy? Cần gì phải mượn xác đứa nhỏ hành hạ nó như vậy? Nếu người muốn đối mặt với ta vẫn có thể hiên ngang tiến vào chùa cơ mà? Hay họa chăng ngươi vốn không có hình hài nhất định nên vẫn cần một thân xác để vào đây?
Cái đám khói đen đó tụ trước mặt cư sĩ Thanh Tinh tạo nên một bóng người ngồi, cái bóng này chống hai tay lên đầu gối ở chân đang ngồi xếp vòng tròn nói:
– Thực ra thì nói là ta cần thân xác để vào được đây là sai, mà ta cần thằng nhóc để làm cái “giao kèo”.
Cư sĩ Thanh Tịnh nhìn thẳng vào cái bóng đó không nói gì, cái bóng đen tiếp lời:
– Chẳng phải nhà phật có câu “cứu một mạng người hơn xây bẩy tháp phù đồ sao”?
Cư sĩ Thanh Tịnh nghe đến đây thì như hiểu ra ý đồ của cái bong đen này bà ta nói:
– Nhà ngươi muốn ta thế chỗ cho đứa nhóc này?
Cái bóng đen gật gật cái đầu, cư sĩ Thanh Tịnh tiếp lời:
– Nhưng làm sao ta biết ngươi giữ lời?
Cái bóng đem cười khẽ, nó nói:
– Ngươi nghĩ một kẻ sức mạnh như ta lại phải lừa ngươi sao? Ta nói cho ngươi biết trước một điều, nếu ngươi chấp nhận thế chỗ cho đứa nhóc này, thì linh hồn nhà ngươi sẽ bị ta giam giữ mãi mãi, ngươi có cam lòng không? Người sẽ không được niết bàn, không được tọa dưới Phật Tổ đâu đó?
Cư sĩ Thanh Tịnh từ từ đứng dậy nói:
– Mô phật, thiện tai, thiện tai. Chỉ cần đứa bé kia khỏe lại, thì thân xác, hay như cái mạng này sẽ thuộc về nhà ngươi.
Cái bóng đen này cũng đứng dậy, trên cái khuôn mặt toàn một mầu đen đó như hiện ra một cái miệng đỏ nhoẻn cười:
– Được, ta hứa với nha người.
Nói giứt câu cái bóng đen này lại tan thành khói, sau đó nó nhập thẳng vào người cư sĩ Thanh Tịnh.
Chương 9: Âm Hầu
Chiếc xe ô tô dừng lại trước cửa chùa Hương Lâm, Hà mở cửa bước xuống, cậu ta cùng với thầy Trà đi thẳng vào trong chính điện. Đã lâu lắm rồi, kể từ cái ngày mà cư sĩ Thanh Tịnh mất tại ngôi chùa này mà Hà chưa hề đặt chân quay lại, dường như trong lòng cậu còn có chút gì đó tự trách bản thân bất lực vì trò đời quá đắng cay, tại sao một người như cư sĩ Thanh Tịnh lại phải lùi bước trước thế lực bóng tối cơ chứ? Thử hỏi chùa Hương Lâm được xây lên để làm gì? Chẳng phải là để trấn yểm và đẩy lui cái thế lực tà ma ngoai đạo hay sao? Thử hỏi tượng Đức Phật Thích Ca oai nghiêm ngay giữa chính điện này cũng không thể làm gì được hay sao? Trong đầu cậu là bộn bề suy nghĩ. Sau khi đã thắp hương và cúi chào chư vị thần phật, Hà lại đứng trước pho tượng xác ướp của cư sĩ Thanh Tịnh. Cậu chắp tay lại đứng khấn như thể chào cư sĩ mà hai mắt rơm rớm. Chăng là sau cái đêm cuối cùng trên cõi đời này, chỉ còn lại mình cư sĩ Thanh Tịnh ở lại chùa. Đến sáng hôm sau, khi mà những người giúp việc quét dọn mở cửa thì họ sững sờ khi thấy cư sĩ Thanh Tịnh đã hóa thành một pho tượng đồng ngồi thiền ngay dưới chân Đức Thích Ca Mô Ni.
Xong xuôi đâu đó, hai thầy trò lại ngồi vào bàn nước. Hà cháng chén rót nước mời thầy, cậu rút điếu thuốc lá ra mời thầy và tự mình làm một điếu. Hà nhả khói hỏi:
– Thầy bảo đây là nơi đầu tiên để chứng minh? Vậy con cần làm gì ạ?
Thầy Trà ngồi đó làm ngụm trà, ăn điếu thuốc, thầy nói:
– Tam điểm chỉ là phong ấn của quan mãnh dần, nó tượng trưng cho sức mạnh cũng như là quyền lực vững chắc tựa kiềng 3 chân của quan cao cực phẩm dưới âm. Nếu như muốn ngự trị trên trần thế thì bắt buộc phải phong ấn được trên trần thế. Mày mang trong người mệnh tam dần, là hiện thân của quan cao cực phẩm, nơi đầu tiên mày phong ấn sẽ là Rừng Câm con ạ.
Hả ngồi nghe thầy Trà nói vậy thì có chút ngạc nhiên, cậu suy nghĩ rồi nói:
– Thầy bảo con phong ấn Rừng Câm? Cái điều mà ngay đến cả thầy, cư sĩ Thanh Tịnh và ngôi chùa Hương Lâm này không làm nổi, điều gì khiến thầy nghĩ con có thể làm được?
Thầy Trà mồm ngậm điếu thuốc cười nói:
– Chỉ có mày và duy nhất mày thôi.
Hà nói:
– Tại sao lai là con? Tại sao lại là bây giờ?
Thầy Trà vẩy tàn thuốc nói:
– Trước đây tao không nghĩ là mày căn quả nặng như vậy. Thế nhưng sau cái lần mày triệu hồi Ngưu Đầu Mã Diện thì tao đã nhìn ra được thân thế hay như là sức mạng thực sự của mày, con ạ. Đặc biệt là mày còn đang mang trong mình lệnh bài của Hắc Hổ Quan nữa, nên chỉ có mày mà thôi.
Nghe thầy Trà thuyết phục, cuối cùng Hà mới chấp nhận:
– Vậy con phải làm gì để trấn yểm khu Rừng Câm này ạ?
Thầy Trà đưa tay xoa cằm hỏi Hà:
– Mày có còn nhớ cái phòng khám chui gần khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên không?
Hà nói:
– Có phải cái gia đình chuyên nạo thai xong bắt được con khỉ tinh, cuối cùng là đứa con gái của họ mất tích và họ phải chuyển nhà đúng không ạ?
Thầy Trà cười, thế rồi ông đáp:
– Đúng vậy, và nhiệm vụ của mày là phải tìm cho bằng được con khỉ tinh đó và nhốt nó lại.
Hà ngạc nhiên, cậu hỏi:
– Bây giờ biết nó ở đâu mà tìm hả thầy?
Thầy Trà chỉ tay xuống bàn nói:
– Nó đang lẩn quẩn trong Rừng Câm này đó thôi.
Sau khi ngồi nghe thầy Trà lên kế hoạch chi tiết để đi tìm con khỉ tinh mà dân Thái Nguyên đồn thổi, hai thầy trò lại ra về để Hà cũng như là thầy Trà sẽ đích thân ở lại chùa Hương Lâm trong mấy ngày tới, nhằm giúp Hà điểm chỉ khu Rưng Câm, dấu điểm chỉ đầu tiên để nhận chức quan mãnh dần. Theo đúng như kế hoạch, đêm đầu tiên đích thân Hà sẽ phải triệu hồi Ngưu Đầu Mã Diện để đi tìm kiếm nơi ẩn náu của con khỉ tinh tại Rừng Câm này. Đêm thứ hai, thầy Trà sẽ mời một người mà thầy ta giấu danh tính tới để quyết đuổi con khi tinh đó ra khỏi nơi ẩn náu. Đêm cuối cùng, Hà sẽ thử sức mình đầu tiên bằng việng gọi bóng vệ binh lên truy sát và ép con khỉ tinh này phải quay về chùa Hương Lâm mà chịu phục pháp và dam giữ nó mãi mãi. Hà thoạt đầu nghe qua cái kế hoạch của thầy mình thì khá là ưng ý, thế nhưng cậu hỏi:
– Kể hoạch chơn chu ngon ăn phết thầy ạ, nhưng mà…
Thầy Trà nhìn mặt Hà nghi ngờ:
– Mày bảo chơn chu rồi mà vẫn còn cần thêm dầu ăn à?
Hà mặt nghiêm nghị khiến thầy Trà tí thì phì cười:
– Trên xe thầy bảo đây là tà linh, cái thứ mà nó ngang hàng với thần thánh và còn có trước cả Phật… Vậy… rằng thì là mà… thầy nghĩ liệu thầy có bắt tà linh “phục pháp” được không?
Thầy Trà nghe xong cái câu hỏi đó thì đột nhiên im bặt, và có lẽ trong suốt cái quãng thời gian bái sư học đạo thầy Trà, thì đây là lần đầu tiên mà Hà có thể nhìn thấy rõ cái nỗi niềm trong ánh mắt của người thầy. Cái ánh mắt vẫn còn sáng lắm, và giờ đây, sâu thẳm trong cái ánh mắt đó là sự lo toan xen lẫn với nghi ngờ. Thầy Trà quay mặt ra ngoài như thể tránh cái ánh mắt xoáy thẳng vào tâm tư mình:
– Chưa thử làm sao thì biết được?
Đây cũng là cái lần đầu tiên trong đời, mà Hà nghe được cái câu trả lời rất 50/50 từ người thầy của mình, một người khá rạch ròi về tâm linh.
Ngày trước gần khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên có một đôi vợ chồng không biết từ đâu chuyển tới cái căn nhà 3 tầng khang trang đó. Nghe đâu bà vợ làm ở một bệnh viện lớn có tiếng, thế rồi hai vợ chồng mua đất, xây nhà ở cái đất Thái Nguyên này để mở thêm phòng khám đa khoa. Nói là phòng khám đa khoa thế nhưng mà cái phòng mạch của người vợ này đa phần bệnh nhân tới thì đều toàn là để, “bỏ đốt”. Điều mà khiến người ta cảm thấy lạ lẫm hơn nữa đó là vì đây là một phòng khám chui, chuyên làm việc nạo phá thai mà lại không được cấp phép, chỉ làm lậu làm chui. Vậy mà khi báo cho cơ quan chức năng nhiều lần, chỉ thấy người ta xuống kiểm tra rồi lại ra về, và cái phòng khám này vẫn hoạt động bình thường. Họa chăng hai vợ chồng vị bác sĩ này có quan hệ đủ rộng để bẻ cong luật pháp cũng như là mua chuộc chính quyền. Phòng mạch của gia đình này ăn nên làm ra được khoảng hơn một năm thì mọi thứ dường như tuột dốc không phanh với gia đình đó, có lẽ là mọi việc bặt đầu từ cái “con khỉ” đó. Chẳng là vào một buổi chiều, sau khi mà người chồng cùng với mấy người bạn lên Rừng Câm chơi, khi về họ dắt cổ theo được một con khỉ. Người dân bu quanh lại để xem, con khỉ này chắc cũng nhỏ hơn con chó ta một xíu. Điều còn đặc biệt hơn nữa đó là khắp thân lông vàng mượt nhưng sau lưng là 3 sọc đen nhìn rất lạ mắt, bên cạnh đó, đôi mặt của con khỉ rất có thẩn, tựa như nó có lanh tánh vậy. Khi mà người chồng này bảo rằng bắt được nó ở trên Rừng Câm thì không một ai tin, họ bảo rằng cả chục năm nay trong rừng cầm đến con chim còn không thấy nói gì đến cả một con khỉ. Điều còn kì lạ hơn nữa là cái cách người chồng bắt được con khỉ sọc này. Ông chổng kể lại rằng khi cùng bạn vô Rừng Câm đi thăm quan thì ông ta luôn có cái cảm giác như có ai, hay thứ gì đó đang đi theo mình từ xa. Cứ đi được một đoạn là lại có tiếng lá xào xạc, rồi thì tiếng cành cây rung động trên cao. Mãi cho đến khi mà người chồng này cùng với bạn quay về chuẩn bị bước ra khỏi đị phận Rừng Câm thì họ mới xác định được là con khỉ sọc này đã đi theo họ suốt từ nãy giờ. Khi hai người đàn ông đứng chỉ chỏ về phía con khỉ bình luận thì nó cũng đứng im nhìn hai người họ hồi lâu. Người chồng nghĩ là con khỉ này thích mình bèn đưa tay lên gọi nó xuống, quả nhiên gọi mấy tiếng là con khỉ này đu cây chèo xuống đứng trước mặt họ. Người chồng cùng với người bạn ngắm nghía vuốt ve, thấy con khỉ này như có linh tính bàn bắt luôn nó về nhà nuôi.
Mặc cho những lời rèm pha của bà con hàng xóm, người thì kêu ông chồng lắm tiền nhiều của mua con khỉ về chơi, người thì dọa rằng con khỉ này mà đến từ Rừng Câm thì chắc chắn là yêu ma quỷ quyệt, phải gϊếŧ hoặc thả ngay. Dù cho có đồn thổi đến bao nhiêu, thế nhưng gia đình này vẫn quyết tâm nuôi con khỉ này tựa như một con chó trông nhà vậy. Thời gian đầu khi mới bắt nó về nuôi, khách khứa hay như bệnh nhân đến nhà đều phải công nhận rằng con khỉ này có linh tính một cách đáng sợ. Nó linh tính ở chỗ là khá dễ gần gùi, mọi người tới nhà đều có thể vuốt ve nó được, nó lại còn biết làm một số trò như rót nước mời khách, giúp mấy việc lặt vặt trong nhà. Và đặc biệt hơn nữa, là nó rất thân với đứa con gái 5 tuổi của gia đình này. Thế nhưng rồi sau này, một loạt chuyện lạ đã diễn ra trong gia đình đó khiến cho cả hai vợ chồng nhà bác sĩ phải tin rằng, cái con khỉ bắt được từ Rừng Câm này không phải là con khỉ bình thường. Đầu tiên là khách đến chơi nhà không còn thấy con khỉ được thả tự do mà đã bị buộc vào một góc trong nhà. Dần dần sau này, người dân sống gần nhà này con nghe tiếng hai vợ chồng la hét cãi vã nhau buổi đêm, tiếng con khỉ cứ thét lên thất thanh, và đứa con gái 5 tuổi bắt đầu có vệt bì cào trên tay. Cứ ngỡ rằng mọi việc diễn biến xấu như vậy thì người chồng phải mang con khỉ đi thả nhưng không, ông ta lại đặt một cái l*иg sắt mang về và nhốt nó vào để ra trước cửa nhà. Ngày qua ngày, người dân hay như bệnh nhân đi qua đều phải rùng mình kinh hãi khi mà con khỉ điên tiết gào thét, lông nó dựng đứng lên đặc biệt là ở 3 cái sọc đen, hai con mắt long lên sòng sọc, với bộ răng sắc và cái tay cứ với ra như thể để cào cấu người đi ngang qua vậy. Mà kể cũng lạ, con khỉ này lên cơn điên dại như vậy mà người chồng vẫn nhất quyết không chịu mang nó đi mà cứ giữ khư khư trong nhà. Nhưng có lẽ điều đó cũng không quan trọng, khi mà vào một buổi sáng, cả hai vợ chồng chủ nhà này như chết điếng người khi họ không tìm thấy cô con gái của mình đâu, và ngay cả con khỉ cũng vậy, cửa l*иg vẫn được khóa chắc chắn, nhưng con khỉ thì đã bốc hơi không cánh mà biến mất. Vụ án đứa bé gái này như làm chấn động cả cái đất Thái Nguyên, suốt mấy tháng trời đội cứu hộ tìm kiếm trong rừng cùng với cơ quan trức năng vào cuộc điều tra, thế nhưng tung tích cửa đứa bé gái vẫn là 1 ẩn số. Cái gia đình này cũng không hiểu vì lí do gì mà sau khi mời thầy về làm lễ, cả vợ cả chồng cũng dắt nhau đi nơi khác, bỏ lại căn nhà 3 tầng khang trang, bỏ đứa con bị mất tích lại phía sau, không lẽ lại có loại cha mẹ nhẫn tâm như vậy sao?
Nhưng có điều đáng nói đó là gia đình bác sĩ kia đã để lại một hậu quả không nhỏ cho những người dân trong khu phố này, đó là việc ít lâu sau khi gia đình vị bác sĩ kia chuyển đi, thì người dân lại bắt gặp con khỉ tinh thoát ẩn thoát hiện ngay trên phố. Vào những ngày sáng sớm, khi mà người dân đi tập thể dục sớm thì họ cũng thường bắt gặp con khỉ này thoát ẩn thoát hiện ở những ngọn cây 2 bên lề đường. Chưa kể đến việc, con khỉ tinh này cũng thường xuất hiện ở những phiên chợ, nó hung hãn ăn chộm hoa quả ngang nhiên của người bán hàng, nếu có ai đánh đuổi nó thì ngay lập tức nó sẽ cào lại. Người dân trong vùng nhiều lần tìm mọi cách đuổi bắt, thế nhưng không hiểu bằng cách nào mà con khỉ tinh vẫn biến mất không để lại giấu vết. Điều còn đáng sợ hơn nữa đó là những vết cào cắn của con khỉ này thường khiến cho nạn nhân bị mưng mủ đau nhức đến đáng sợ, phải nặn mủ đắp thuốc gần một tháng mới hết. Nhưng có lẽ điều thực sự khiến cho người dân phải kinh sợ hay như là để yên cho con khỉ tinh này hoành hành ngang ngược đó là nó còn dám cả gan vào nhà người ta ăn cắp đồ thờ cúng, thậm chí là lên cả miếu, đền và chùa. Nhiều người tận mắt chứng kiến con khỉ tinh này ngồi chễm trệ trên bàn cúng ăn hoa quả và ném đồ mà không ai dám làm gì. Cứ ngỡ rằng người dân tại cái đất Thái Nguyên này sẽ phải chịu cái cảnh bị con khỉ tinh phá làng phá xóm mãi mãi, thế nhưng mà tầm nửa năm đổ lại đây, họ không còn nhìn thấy con khỉ tinh xuất hiện quậy phá nữa. Họa chăng hằng đêm hay như là sáng sớm, nếu đi ngang qua bìa Rừng Câm, người dân lại có thể nghe thấy tiếng hú gào thét của nó vang vọng. Một số người thì đồn thổi nhau rằng vì nó quẩy phá quá nên bị thần thánh đánh đuổi phải chạy vào trong rừng, nhưng có một số người khác lại bảo con khỉ tinh này quay trở về nhà, nơi mà nó đã sinh ra như để đợi một cái gì, hay như đợi một người nào đó sẽ tới để đưa nó ra khỏi Rừng Câm như lần đầu.
Mọi thứ đã được chuân bị xong xuôi đâu và đó, đích thân Hà và thầy Trà sẽ ở lại chùa Hương Lâm này trong mấy ngày tới nhằm phong ấn đầu tiên tại cái khu Rừng Câm này. Đêm đầu tiên, Hà đã mặc sẵn một bộ quan phục ngày xưa mâu đen, trên đầu đội mũ mão trang nghiêm, bên hông là lệnh bài đen của Hắc Hổ Quan. Thầy Trà đứng bên cạnh Hà, ông ta đưa cho Hà một viên đá nhỏ, ở trên có khắc một chứ Hán cổ, thầy Trà nói:
– Nhiệm vụ của con là sẽ đi theo Ngưu Đầu Mã Diện tìm ra nơi ẩn náu của con khỉ tinh này. Khi đã tìm ra được, hãy trôn viên đá này ở ngay đó rồi ra về. Bây giờ hãy gọi họ lên đi.
Hà gật đầu, thế rồi cậu bắt đầu cầm con dao cắt 3 đầu ngón tay của mình, Hà đưa tay vẽ lên hai bên mặt 3 cọng râu. Sau đó là vẽ lên trán 5 đường thẳng, đường ở giữa dài nhất rồi 2 đường ở mỗi bên ngắn dần. Xong xuôi đâu đó, cậu bắt đầu lẩm nhẩm đọc thần chú, đọc dứt câu Hà đưa ba ngón tay rỉ máu lên điểm chỉ 3 dấu lên hai lá bùa ở trước mặt và nói:
– Ngưu Đầu, Mã Diện mâu lên nhận lệnh.
Khi hai lá bài được điểm chỉ xong xuôi, tức thì từ phía ngoài cổng chùa hiện ra hai cái bóng cao lớn tiến lại. Cả hai người này khi tới trước mặt Hà thì quỳ xuống cúi đầu nhận lệnh. Ngưu Đầu Mã Diện đều là người của cửa phật, hai vị quỷ tốt, là hai vị tướng quân cai quản chúng âm linh ngạ quỷ dưới địa ngục. Họ còn được gọi là câu hồn sứ giả, được xếp vào trong 10 vị quỷ Ly Mị Võng Lượng. Nói về thân thế của Ngưu Đầu, có tên là A Bàng, sức mạnh vô xong. Truyền thuyết kể lại trước đây A Bàng không hiếu thuận với cha mẹ, để rồi khi cha mẹ bị quỷ dữ bắt đi, ông ta quá hối hận mà đi tìm cha mẹ cho tới chết. Ngã Phật từ bi, đích thân Địa Tạng Vương đã cho A Bàng một cơ hội nữa, đó là mang hình hài là đầu Trâu thân người, chuyên việc tuần tra trên dương gian để bắt vong quỷ và cũng là để đi tìm kiếm lại cha mẹ của mình. Nói về Mã Diện, còn có tên là Mã Diện La Sát, một vị thần lớn trong Mật Giáo, có nơi còn quan niệm là hóa thân của Quân Âm Bồ Tát. Mã Diện trước kia còn sống là một vị quan tốt, nhiều lần giải oan cho người dân. Thế nhưng không may cho ông, một lần đã thả nhầm một tên tội nhân, để rồi sau này bị hắn lấy oán báo ân gϊếŧ hại cả gia đình. Khi chết xuông Âm Tào Địa Phủ, Diêm Vương thương tình có quá nhiều công đức khi còn sống mà đã cho Mã Diệm làm dịch nhân dưới Âm Ty, chuyên đi bắt những oan hộn dám đào tẩu khỏi Địa Phủ và bắt chúng quay về phục pháp. Cũng chính tại cái nơi Âm Tào Địa Phủ này mà Ngưu Đầu và Mã Diện đã kết nghĩa huynh đệ, họ luôn luôn đi cùng nhau để thực thi nhiệm vụ. Chính vì thế mà người đời hay có câu “Ngưu Đầu Mã Diện” tức “đầu trâu mặt ngựa”, rất nhiều người đã nhầm lẫn 2 ông là 1 người có hình hài đầu trâu mặt ngựa nhưng không phải.
Khi mà cả Ngưu Đầu và Mã Diệm đã đích thân quỳ gối cúi đầu trước mặt Hà, lúc này cậu ta mới đứng thẳng người dậy, Hà giơ cái lệnh bài ở bên hông ra mà nói lớn:
– Ta, năm trong tay lệnh bài của Hắc Hổ Quan, nay ra lệnh cho hai ngươi hộ tống tìm đường tới nơi ẩn náu của Âm Hầu, mau mau nhận lệnh.
Nói dứt câu, Ngưu Đầu Mã Diệm lập tức chắp hai tay cúi đầu. Sau đó Mã Diện hóa ra một cái đèn l*иg sáng rực thứ mẩu đỏ, tay kia thì cầm đao dài đi trước dẫn đường cho Hà, theo sau là Ngưu Đầu tay cầm cây cây cổn răng chó đi theo sau bảo vệ. Cả ba người họ dựa vào cái ánh đèn l*иg đỏ rực của Mã Diện mà ngày một tiến sâu hơn vào trong rừng. Mặc dù hôm nay là một đêm trời quang không một gợn mây, vậy mà chả hiểu sao trên trời ko có lấy một ánh sao, mặt trăng cũng lặn mất tiêu chỉ còn lại đất trời quện vào nhau tạo thành một cái mầu đen xì hun hút. Ánh đèn đỏ của Mã Diện hắt lên từng cái thân cây một, Hà đi giữa hai vị dịch nhân này thì đáng lẽ ra phải cảm thấy an toàn. Thế nhưng mà không hiểu sao khi mà nhìn vào cái ánh đèn đỏ quá lâu, nghe cái tiếng thở phì phò của hai người, nghe tiếng xích họ đeo trên mình cà vào leng keng mà Hà như sợ rằng nếu như đối đầu với tà linh thì đến hai dịch nhân dưới Âm Ty này cũng chẳng bõ bèn gì. Cả ba người cứ thế đi mãi, đi mãi vào sâu trong địa phận Rừng Câm. Hà vừa đi vừa nghĩ về cái con khỉ tinh này, và giờ thì bản thân cậu cũng không hiểu được là mình với thầy Trà đang thực sự phải đối đầu với cái thế lực gì nữa. Hà còn nhớ lúc đầu thì thầy Trà nói là Tà Linh, thế rồi giờ lại bảo là nó đã hóa thành khỉ tinh, và đến ngày hôm nay thì gọi là Âm Hầu? Sở dĩ cái kế điều động Ngưu Đầu Mã Diện lên giúp Hà đi tìm nơi ẩn náu của nó cũng là vì cái tên gọi Âm Hầu. Truyền thuyết có kể lại rằng khi mà Tôn Ngộ Không đại náo Âm Tào Địa Phủ, đốt sách sinh tử đã đổ máu và rụng lông khá nhiều khi đối đầu với các dịch nhân. Chính máu và lông của con khỉ tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh đó đã hấp thụ âm khí mà biến thành Âm Hầu. Thế nhưng mà Âm Hầu này đã bị Diêm Vương ngăn cản không cho thoát khỏi Âm Ty để lên nhập lại với Tôn Ngộ Không. Để chuộc lại lỗi lầm năm xưa của Tôn Ngộ Không đã đại náo Địa Ngục, đích thân Địa Tạng Vương đã thu nạp hắn làm dịch nhân dưới âm ty, và nhiệm vụ của Âm Hầu chính là việc lên trần thế bắt các vong linh còn lởn vởn để cân bằng lại việc ngày trước Tôn Ngộ Không đã phá toàn bố sách sinh tử. Thầy Trà nghi ngờ rằng việc Tà Linh này hiện thân thành Âm Hầu là có chủ định, vậy nên bác ta mới dùng kế gọi hai dịch nhân khác lên với hy vọng có thể đối đầu ngang hàng và đồng thời là bảo vệ Hà toàn mạng.
Cả ba người họ đi thêm một lúc nữa, đến một khoảng đất không có lấy một cây tre vầu, không còn lấy một ngọn cỏ, chỉ có độc một mảnh đất khô cằn nứt nẻ đến lạ thường. Hà đứng giữa nhẩm tính từ nãy giờ đi cũng phải hơn hai tiếng đồng hồ rồi, cậu bắt đầu nhìn quanh và tự hỏi sao ở giữa rừng cầm lại có một mảnh đất kì quặc thế này. Cả ba người tiến thêm mấy bước nữa thì Hà như chết lặng người câm nín khi mà ánh đèn l*иg đỏ rọi vào 2 thân cây to đùng đứng hai bên chính giữa mảnh đất khô căn này. Cả ba người họ đứng dưới hai cây gạo to lừng lững, thân mỗi cây phải đến hơn 3 người ôm, hai cây gạo này đứng 2 bên đối xứng nhau, cành trên cao của hai cây đan lại tạo thành hình hài một cái cánh cửa lớn vậy. Hà có hơi run rẩy sợ hãi, cậu ta nhớ rằng từng đọc trong bản thảo tài liệu của thầy Trà có nói trên nước Việt này có vô số cánh cửa được coi là “Chung Giới Môn”, những cánh cửa liên thông từ thế giới này sang thế giới khác, nơi giao nhau giữa thiên, địa, và âm. Nếu như Hà không nhớ nhầm thì Hồ Hoàn Kiếm chính là một trong những Chung Giới Môn và Tháp Bút hiên ngang đứng bên chính là chìa khóa để mở Chung Giới Môn.
Chương 10: Lục Kỳ Quan Nhân
Hà từ từ đi quanh và quan sạt thật kĩ 2 cái cây gạo đồ sộ này. Dưới cái ánh đèn l*иg đỏ sáng rực, Hà như nhận ra cả 2 cây gạo to này đã chết khô từ lâu, và dưới cái ánh sáng đỏ bao chum thì cậu như nhìn ra cả 2 cây này đang bốc cháy ngùn ngụt. Hà đưa tay đặt lên một thân cây gạo, nhưng vừa chạm tay vào là cậu ta rụt tay ngay lại, thân cây gạo cứng rắn và khô cằn tựa như đã hóa đá từ lâu. Còn đang đứng đó ngẩn tò te ngắm nhìn Chung Giới Môn ngoài đời thật thì Hà như rùng mình khi nghe tiếng Ngưu Đầu thở phì phò mạnh dần, Ngưu Đầu rít lên mấy tiếng như thể thúc giục Hà. Mã Diện cầm đèn l*иg đỏ cũng như nhận ra có gì đó không hay sắp xảy đến, ông ta hí lên mấy tiếng rồi lấy cán đao dài khều khều vào người Hà như để thúc giục. Hà tiến tới đứng trước hai cái cây nhìn và nghĩ thầm, “biết đây là nơi ẩn náu của âm hầu rồi, nhưng mà trôn viên đá ở đâu bây giờ?”. Nhưng có lẽ không cần phải hỏi, Mã Diện đã đặt cái l*иg đèn qua một bên, ông ta dùng lưỡi đao dài đánh một giấu x vào giữa 2 thân cây và bắt đầu đào. Đào được cái hố sâu tầm 2 gang tay thì Mã Diện chỉ tay vào hố như để ra hiệu cho Hà. Hà tiến tới móc cục đá và thả vào trong hố, sau đó chính cậu ta cúi xuống lấy tay vun đất để lấp chỗ chôn viên đá.
Còn đang ngồi hí hoáy vun đất, bất ngờ một cái cảm giác rờn rợn lại xuất hiện. Thế nhưng mà ngay khi Hà kịp ngửng đầu lên thì Ngưu Đầu đã lao tới kéo cổ áo Hà giật mạnh về phía sau khiến cậu ngã ngửa rơi cả mũ mão. Trước mắt Hà là một cái bóng đen nhẩy phốc từ trên cây xuống. cái bóng đen này dáng người hơi khom lưng, thân to tựa Ngưu Đầu và Mã Diện. Hai tay thì dài quá cả đầu gối. Cái bóng đen này đứng ngay trên chỗ Hà vừa chôn viên đá, nó từ từ ngẩng đầu lên nhìn Hà qua đôi mắt đỏ rực. Con âm hầu này với hai bàn tay dài ra như thể túm lấy Hà, thế nhưng mà Mã Diện đứng gần đó đã vung đao chém mạnh vào hai cánh tay dài của âm hầu. Hai cánh tay của âm hầu lại mọc ra, nó quay người đẩy ngã Mã Diện qua một bên và lao thẳng về phía Hà. Ngưu đầu như hiểu ý vội lao lên trước Hà, ông ta dùng đầu húc mạnh khiến âm hầu văng ra xa. Không đợi cho âm hầu đứng lại lên, Ngưu Đầu túm cổ áo Hà lôi đi thẳng, mặc cho cậu con đang cố với lấy cái mũ quan rơi trên mặt đất. Con âm hầu này đứng dậy vừa tính đuổi theo thì nó bị ăn một nhát chém ngay giữa mặt. Con âm hầu trừng mắt nhìn Mã Diện thân hình to lớn đứng chắn trước mặt, trên tay là cây đao dài múa máy như thể khıêυ khí©h con âm hầu này.
Ngưu Đầu lôi Hà chạy đi như bay về phía chùa Hương Lâm. Thế nhưng khi nhìn thấy bóng dáng ngôi chùa thấp thoáng phía xa xa sau hàng tre vầu thì một tiếng hí thất thanh vang vọng. Hà bị Ngưu Đầu lôi đi khi nghe thấy cái tiếng hí vang vọng thì cậu hiểu ra rằng Mã Diện đã thất thủ. Ngưu Đầu vẫn kéo áo Hà lôi đi như bay, bất ngờ cái tiếng “xào xạc” và tiếng tre vầu cong kêu “cót két” bắt đầu phát ra ngày một gần. Một bóng đen phi lên trước trên đầu Hà và Ngưu Đầu. Thế rồi Ngưu Đầu như ăn một cú đánh mạnh vào mặt mà ngã ngửa ra sau, Hà thì vẫn theo quán tính mà lao đầu ngã sấp mặt về phía trước. Âm hầu từ trên ngọn tre vầu nhẩy bổ xuống, nó với cái cánh tay dài với nhứng móng vuốt sắc nhọn ra túm lấy bắp chân Hà. Móng vuốt sắc nhọn của âm hầu găm vào bắp bụng chân Hà khiến cậu ré lên trong đau đớn, thế nhưng mà ngay khi âm hầu vừa tính kéo Hà lại về phía mình thì tiếng xích kêu “leng keng” từ phía sau bắt đầu vang lên. Ngưu Đầu đứng thẳng người dậy cới xích trên người ra và quất mạnh về phía âm hầu nhằm trói chặt nó lại. Ngưu Đầu kéo mạnh giật âm hầu lại phía sau kéo theo cả Hà đang la hét trong đau đớn. Ngưu Đầu một tay cầm chắc dây xích, một tay cầm cây côn răng chó đập mạnh vào cái cánh tay của âm hầu đang túm chân Hà như thể bắt nó phải buông tay. Ngay khi mà âm hâu tuột tay khỏi bắp bụng chân Hà, thì Ngưu Đầu nhấc Hà một tay ném mạnh về phía trước gầm rú lên rung chuyển núi rừng. Hà như hiểu ý nên ngay khi cậu vừa tiếp đất đã có nén cơn đau mà chân tập tễnh chạy ngay về phía ngôi chùa Hương Lâm đã hiện ra ngay trước mặt kia rồi.
Ngưu Đầu sức mạnh vô địch có thể nâng được cả ngọn núi, tay ông ta cầm cây côn răng chó cứ thế nện ầm ầm vào đầu và mặt âm hầu. Nhưng dù cho có nện đến long trời lở núi thì âm hầu cũng không hè hấn gì. Bất ngờ âm hầu hóa thành làn khói đen vòng ra sau lưng Ngưu Đầu, nó với hay tay túm chặt vào sừng của Ngưu Đầu mà bẻ ngược ra, thuận đà âm hầu nện mạnh người Ngưu Đầu xuống nền đất cái “rầm”. Nhanh như cắt, nó dùng bàn tay với bộ móng vuốt dài thọc thẳng dưới hàm Ngưu Đầu mà móc lên, tay kia móng vuốt sắt nhọn găm vào l*иg ngực. Mặc cho Ngưu Đầu nằm trên mặt đật cố giẫy giụa và gầm rú lên vang đất trời, thế nhưng chỉ một tiếng “roạt” phát ra, âm hầu đã xé toạc đầu của Ngưu Đầu lìa khỏi thân. Hà tập tễnh như phế nhân vẫn đang cố lao mình về phía chùa Hương Lâm, thầy Trà đứng trong sân chùa thấy Hà tập tễnh lao về thì hiểu ngay ra vấn đề. Thầy Trà tiến vội ra trước cái bàn lễ đã chuẩn bị sẵn, ông bắt đầu lẩm râm thần chú và thỉ triển pháp trận. Thầy Trà đứng múa máy, miệng lẩm rẩm đọc thần chú. Mỗi lần bác ta vung tay về phía trước là một chữ vạn của phật mầu vàng sáng chói lòa lại văng ra, họa chăng thầy Trà đang cố tìm cách để đẩy lui con âm hầu đang lao tới từ phía sau lưng Hà. Nhưng mà có lẽ tất cả chỉ là vô ích, những chữ vạn kia vừa chạm vào người âm hầu là lập tức biến mất, họa chăng sức mạnh phật pháp là không thể nào trấn yểm nổi thế lực tà linh sao?
Âm hầu ngày một sát với phế nhân Hà, và ngay khi mà nó vươn cái cánh tay dài vuốt sắc nhọn ra tính túm lấy cổ cậu thì bất chợt một cơn gió lớn không biết từ đâu thổi mạnh từ phía sau lưng. Điều lạ nhất là cái cơn gió thất thường này như không có tác dụng với âm hầu mà chỉ thổi bay Hà, khiến cậu ta lăn mấy vòng vào sân chùa chút nữa là đập mặt vào cái bàn lễ của thầy Trà. Thầy Trà thì đứng im như phỗng khi mà cơn gió đó thổi Hà bay thẳng vào sân chùa. Hà lồm cồm đứng dậy vòng ra cạnh thầy mình hỏi giọng hết hơi:
– Thầy … thầy dùng phép gì mà hay thế…
Thế nhưng thầy Trà không trả lời, vẫn đứng đó đực mặt ra nhìn lên trên cao kia, Hà thấy thầy mình cứ đứng đực ra vậy thì cũng nhìn theo hướng đó, không biết trăng sao đã hiện ra từ lúc nào, mà trên bầu trời trong vắt không gợn mây kia là một người đàn ông đang bay lơ lửng, sau lưng là cắm đủ 6 lá cờ to đuổi nhọn. Thầy Trà vẫn đứng hình, miệng lắp bắp:
– Không … không thể nào…
Hà hỏi:
– Ai đấy hả thầy?
Thầy Trà đáp:
– Không lẽ lại là … Lục Kỳ Quan Nhân sao?
Con âm hầu bị LKQN cản việc bắt Hà thì nó tức sôi máu, nó đu từ ngọn tre vầu này qua ngọn khác, thi thoảng lại nhẩy lên cao để vồ LKQN. Thế nhưng mà LKQN đã rút một lá cờ đuôi nhọn sau lưng ra múa, âm hầu cứ nhẩy lên là bị LKQN cầm cờ vụt mạnh, mỗi một phát đánh từ cờ giáng vào âm hầu là một tia sét nổ cái “đoàng” giữa cảnh trời quang mây tạnh. Con âm hầu cứ nhẩy lên là bị đánh văng xuống, tức mình vì không làm gì được LKQN, âm hầu đổi hướng chuyền cây lao thẳng tới phía chùa Hương Lâm. Nhìn ra được âm mưu của nó, ngay lập tức LKQN phi mạnh lá cờ đang cầm trên tay. Khi mà âm hầu tới được trước cửa vườn chùa Hương Lâm cũng chính là lúc lá cờ cắm thẳng xuống trước cửa, thầy Trà và Hà đứng lùi lại kinh hãi nhìn, trên lá cờ đuôi nhọn mầu trắng đó có ghi chữ “kim”. Âm hầu cố tình thử lao vào trong sân chùa thì ngay lập tức trên trời sét đánh xuống liên hồi như không cho âm hầu xâm phạm. Âm hầu tìm mọi cách để vào chùa nhưng sét đánh liên hồi khiến nó phải lùi ra, thầy Trà và Hà sau cái phát sét đánh đầu tiên đã ù té ngay vào trong chính điện đóng cửa lại chỉ dám dòm qua cửa sổ. Thế nhưng mà khi 2 thầy trò hé mặt qua song cửa sổ nhìn thì LKQN đã biến mất, nhưng mà lá cờ Kim thì vẫn cắm trước cửa sân chùa, và thi thoảng vẫn là tiếng sét giật từ trên trời. Nghĩ rằng 2 thầy trò đã an toàn, thầy Trà lúc này mới đắp thuốc và băng bó vết thương cho Hà, vừa băng bó thầy vừa hỏi:
– Con chôn viên đá đó rồi chứ?
Hà đáp:
– Rồi thầy ạ, dưới Chung Giới Môn sâu trong rừng.
Thầy Trà nhìn Hà ngạc nhiên hỏi:
– Cái gì? Chung Giới Môn?
Hà lúc này mới kể lại chi tiết 2 cây gạo với cả một mảnh đất nứt nẻ ra sao. Thầy Trà băng bó xong thì cũng ngồi tựa lưng vào tường nói:
– Cũng chẳng có gì là lạ cả, còn nhiều thứ mà bản thân ta chưa được tận mắt nhìn thấy, đến như hôm nay còn có LKQN hiển linh thì đúng là không đơn giản một tí nào.
Hà quay qua hỏi:
– Thầy, cái người đó là ai vậy?
Thầy Trà móc thuốc ra châm cho Hà và mình mỗi người 1 điêu, thầy Trà nhả khói nói:
– Một trong những vị quan thần linh ít được biết đến nhất Việt Nam nhưng quyền lực lại vô biên.
Theo như truyền thuyết kể lại rằng để tiện cho việc quản lý trần gian, Thiên Phụ sau khi tạo ra loài người còn cắt cử người xuống canh gác thế giới nhằm chống lại thể lực bóng tối. Vạn vật trên đời tuân thủ theo ngũ hành, do ngũ hành tạo ra bao gồm kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Có cả thẩy là 4 vị thánh mang mệnh kim, mộc, hỏa và thổ sẽ trực tiếp giám sát tại dương gian, còn thủy thì theo quan niệm là từ trên trời xuống nên sẽ có một vị thần được cắt cửa xuống cùng với tứ thánh để đảm nhiệm việc giám sát. Thế nhưng ngoài tứ thánh giám sát còn có 1 vị quan nhân nữa đứng đầu, nguồn gốc xuất sứ của vị quan nhân này thì không ai nắm rõ. Chỉ biết ông ta nắm trong tay ngũ hành và điều khiển ngũ thánh, tính luôn cả sử giả mang mệnh thủy từ tiên giới phái xuống. Quan nhân này có đặc điểm là trang phục và khuôn mặt được vẽ khá đẹp tựa như các diễn viên tuồng. Bên cạnh đó, sau lưng quan nhân là 6 lá cờ đuôi nhọn, tượng trưng cho ngũ hành kim mộc thủy thổ hòa. Vậy chỉ có ngũ hành mà có tới 6 lá cờ lận? Nghe đâu lá cờ thứ 6 là lá cờ quan trọng nhất mà Thiên Phụ và Địa Mẫu ban cho vị quan nhân này. Nghe đâu khi kết hợp cả 6 lá cờ lại với nhau, quan nhân này sẽ cầm trong tay lá cờ có tên Nhật Nguyệt Tinh Hoa, khi cờ phất lên thì có thể hô mưa gọi gió, thậm chí là thay đổi ngày đêm. Một vị quan nhân thần thông như vậy mà lại ít người được nghe nhắc tới? đơn giản là vì LKQN không bao giờ trực tiếp ra mặt, họa chăng ông chỉ điều khiển tứ thánh ngũ hành để cứu độ chũng sinh, và đồng thời giám sát bảo trần gian mà thôi. Cũng có lẽ bởi vậy, mà hiếm khi nào thấy LKQN được nhắc tới trong sử sách và thậm chí là cả sự biết đến của người đời.
Đêm đầu tiên trôi qua tại chùa Hương Lâm, mặc dù cả đêm thi thoảng lại có một vài tiếng sét đánh xuống, thế nhưng mà hai thầy trò Hà cũng chợp mắt được một lúc. Khi ánh nắng đã rải khắp lên cả khu rừng câm thì hai thầy trò mới có thể yên tâm mở cửa chính điện. Sau khi mỗi thầy trò làm một bát mì úp, hai người lại ra sân đứng nhìn lá cờ đuôi nhọn của LKQN vẫn đang cắm chính giữa cửa sân chùa kia. Hà tay cầm cốc cà phê làm mấy ngụm hỏi:
– Thế hôm nay bạn thầy bao giờ đến ạ?
Thầy Trà đáp:
– Sắp rồi.
Hà hỏi giọng lo ngại:
– Thầy ơi liệu tà linh mạnh thế này chúng ta có đủ sức không? Đến như Ngưu Đầu Mã Diên mà còn tan xác thì…
Thầy Trà lắc đầu:
– Mày yên tâm đi, hôm qua chỉ là phân thân của Ngưu Đầu Mã Diện thôi, chứ còn để đối đầu với hai ông đó thật thì không dễ dàng đâu.
Nói rồi thầy Trà chỉ tay vào lá cờ:
– Hôm qua chính mày cũng thấy, tà linh vốn là có trước cả phật pháp vậy mà vẫn có thể bị LKQN đẩy lui, chính tỏ nó vẫn có điểm yếu và không hề bất bại, chúng ta chắc chắn có cơ hội tiêu diệt được nó.
Nói rồi hai thầy trò bắt tay vào thu dọn cái bàn cúng ngoài sân từ đêm hôm qua, thay vào đó, Hà được thầy Trà phái nhiệm vụ kéo hai cái thau đồng đen được đặt lên hai bệ khung sắt cố lách ra ngoài cổng chùa và để hai bên, Hà tò mò hỏi để làm gì thế nhưng mà thầy Trà không nói bảo cứ làm thôi. Ngoài hai cái thau đồng đen to đó, trước cửa chùa còn có một thau đồng nữa được để giữa sân khá to. Sau khi đã đặt các thau xong, thầy Trà bảo Hà bỏ than vào sẵn.
Đến gần trưa hôm đó, hai thầy trò đang ngồi uống trà nói chuyện với nhau thì có tiếng xe máy ở ngoài. Cả hai thầy trò bước ra, một nữ phượt thủ xuất hiện. Khi người con gái này bỏ mũ ra thì Hà còn sững sờ hơn nữa, con nhỏ này còn ít tuổi hơn cả cậu, không lẽ nào nó là “bạn” thầy mình? Người con gái này thầy thầy Trà và Hà bước ra thì nói:
– Con chào bác, em chào anh.
Hà đứng đó ngẩn tò te, thầy Trà tiến ra nói:
– Vất vả cho con quá, đi đường mệt không?
Người con gái này lách qua lá cờ vào sân, thế rồi cô ta quay qua nhìn lá cờ đuôi nhọn to vẫn cắm ngược ở cửa sân từ đêm qua. Cô gái này đưa tay cầm đuôi cờ lên xem rồi hỏi:
– Bác… quan nhân hiển linh ở đây rồi ạ?
Thầy Trà khẽ gật đầu, thế rồi bác ta đưa người con gái này vào trong. Hà lúc này mới bẽn lẽn đi theo hỏi:
– Em gái, em tên mô nhỉ? Anh là Hà?
Người con gái mỉm cười đáp:
– Cứ gọi em là hỏa thánh.
Hà lúc đầu nghe cũng cười rồi đùa cô gái, thế nhưng mặt hỏa thánh không có vẻ gì như đùa giỡn thì cậu đã nghĩ ngay trong đầu “Sao con ranh kênh kiệu này lại quen được thầy mình nhỉ?”. Cả ba người ngồi tại bàn nước, hỏa thánh sau khi thắp hương vái lậy xong thì hỏi thầy Trà:
– Sao trấn yểm đất bác không nói chú Thạch tạc cho mấy bức tượng?
Thầy Trà xua tay:
– Con à, đến chùa còn không trấn yểm nổi thì ta e là tượng của chú ý cũng không ăn thua.
Hỏa thánh tiến lại bàn nước làm ngụm trà, thế rồi cô nói:
– Thế còn tượng lính nhà Trần thì sao ạ? Để ngoài cổng cũng được mà?
Thầy Trà khẽ đáp:
– Ta muốn tự giải quyết trước xem sao đã, hạ sách cuối cùng mới là xin lệnh và xin lính của ngài.
Hỏa thánh ngẫm nghĩ một lúc, thế rồi cô nói:
– Vậy bác nghĩ rằng thiên hỏa của con có thể trấn áp được tà linh?
Thầy trà gật đầu đáp:
– Đúng vậy, đêm qua LKQN đã ra tay cản chân nó, thì ta tin con là một trong tứ thánh sẽ trấn áp được nó.
Hà cứ ngồi ở bàn nước như một con phỗng, trong đầu cậu thầm nghĩ, “hỏa thánh, tứ thánh nghe quen quen nhỉ… mà con ranh này là ai mà tự kêu là có thiên hỏa cơ chứ?”.