1. Home
  2. Truyện Kiếm Hiệp
  3. [Dịch] Ngược Về Thời Minh
  4. Tập 2: Bị quan đày đọa – Luận bàn về chữ trinh (c11-c20)

[Dịch] Ngược Về Thời Minh

Tập 2: Bị quan đày đọa – Luận bàn về chữ trinh (c11-c20)

❮ sau

Chương 11 : Bị quan đày đọa

Hôm sau, từ già trẻ lớn bé nhà họ Vương đến hàng xóm láng giềng và cả Dương Lăng đều được triệu lên công đường. Tối qua, Mẫn huyện lệnh đã nhận được hồi báo của nha sai, còn được Mã tiểu thư tỉ mỉ giải thích lại chủ ý của Dương Lăng nên lão ta đã có sẵn tính toán trong đầu. Những lời lẽ nho nhã bay bướm thì lão chẳng nói ra được, có điều lão lính già lõi đời này vốn là một kẻ hay cưỡng từ đoạt lý, giờ lão chỉ cần khoác thêm cái vẻ công bằng chính trực nữa là được.

Mã đại nhân ngồi nghe xử án đằng sau tấm bình phong sau lưng Mẫn huyện lệnh. Đơi khi Mã Ngang được áp giải lên công đường, Mẫn huyện lệnh mới đập phán gỗ xuống bàn, ôn tồn nói với hai người con nhà họ Vương:

– Vương Đại, Vương Nhị, hôm qua bản quan đã lục ra được viên trân châu của tiểu thư nhà họ Mã trên người phụ thân các ngươi. Vương lão thấy tiền mờ mắt, chiếm đoạt trân châu của người khác, chuyện này hai ngươi có ý kiến gì khác không?

– Việc này…

Vương Đại và Vương Nhị nhìn nhau, không biết vị huyện thái gia này có ý đồ gì đây. Đưa mắt ra hiệu cho nhau xong, bọn họ mới thưa với Mẫn huyện lệnh:

– Bẩm lão gia, lúc gia phụ và Mã Ngang phát sinh tranh chấp, thảo dân không có ở đó. Cho nên thảo dân thật sự không biết là gia phụ thấy lợi nảy lòng tham, hay là do Mã Ngang cố ý hãm hại.

Mã Ngang đang quỳ ở trên công đường, nghe thế đùng đùng nổi giận, mắng:

– Nói láo! Chẳng lẽ lão tử lại đổ oan cho lão già đó hay sao? Lão ta nhận trân châu của muội muội ta xong liền một mực chối là đã lấy, rõ ràng có ý chiếm đoạt của cải nhà chúng ta …

Mẫn huyện lệnh đập phán gỗ xuống nghe “bộp” một tiếng, quát:

– Bản quan chưa hỏi ngươi! Nếu còn dám tùy tiện nói chen vào, bản quan sẽ cho người vả miệng!

Mã Ngang giận sôi máu, hừ một tiếng, không nói thêm lời nào nữa. Mẫn huyện lệnh cười híp mắt, vuốt vuốt chòm râu quai nón, hỏi:

– Nói như vậy, chuyện hai ngươi nói lệnh tôn bị Mã Ngang đánh chết cũng không có ai tận mắt chứng kiến sao?

Vương Đại nghẹn lời, giận dữ nói:

– Bẩm lão gia, mặc dù tiểu dân không tận mắt chứng kiến tên hung thủ này đánh gia phụ, nhưng gia phụ trước giờ thân thể luôn mạnh khỏe, nếu không phải vì bị tên này hành hung, cớ sao lại đột nhiên bỏ mạng? Thấy tiểu dân lao ra ngăn cản, hắn còn ném gia phụ xuống đất, sau đó còn định đánh tiểu dân. Chuyện này hàng xóm láng giềng đều chứng kiến nên có thể làm chứng cho tiểu dân.

Mẫn huyện lệnh cười khà một tiếng:

– Vậy thì hơi khó rồi đây. Lúc đó Dương Lăng Dương tú tài ở ngay tại hiện trường, trước sau đều chứng kiến rõ mồn một. Theo lời của Dương tú tài, lệnh tôn chiếm đoạt trân châu của đại tiểu thư Mã gia, bị huynh trưởng của tiểu thư Mã gia giữ lại nói chuyện phải trái, từ đầu đến cuối chưa từng động chân động tay với ông ta. Dựa theo đó mà xét, lệnh tôn vì đã lớn tuổi, thân thể ốm yếu, lại bị người ta vạch trần hành vi phi nghĩa tại chỗ, cho nên thẹn quá mà chết!

Vương Đại, Vương Nhị nghe xong vội dập đầu kêu oan:

– Đại nhân, oan cho gia phụ, gia phụ…

Mẫn huyện lệnh xua tay:

– Chậm đã, chậm đã, bản

quan còn chưa nói hết. Tuy vậy, theo lời anh em ngươi, thân thể lệnh tôn trước giờ đều rất mạnh khoẻ, nhất định không thể vì tức giận mà chết được. Khi đó Mã Ngang và cha ngươi phát sinh tranh chấp, sau đó cha ngươi ngã xuống đất tắt thở. Mặc dù ngươi không tận mắt chứng kiến, nhưng hàng xóm láng giềng có thể làm chứng rằng từ đầu tới cuối chỉ có một mình Mã Ngang cãi nhau với cha ngươi. Vì vậy hiển nhiên hung thủ sát nhân không thể là ai khác ngoài Mã Ngang, phải không?

Vương Đại, Vương Nhị dập đầu liên tục:

– Đại nhân anh minh, đại nhân anh minh. Gia phụ đúng là bị tên hung thủ điên rồ này đánh chết. Cha tiểu dân lớn tuổi như vậy, sao có thể chịu nổi đòn đánh của hắn? Đừng nói là gia phụ chưa từng thèm muốn của cải nhà hắn, cho dù là thực sự thấy lợi mà nổi lòng tham đi chăng nữa thì cũng không đáng tội chết. Xin đại lão gia hãy chủ trì công đạo!

Mã Ngang nghe thế lập tức nổi giận, hai chân nhớm lên định bật dậy. Lập tức, hai nha dịch đứng bên cầm hai cây côn thủy hỏa trong tay xuyên chéo qua hai chân hắn đè xuống. Mã Ngang đau đến nỗi phải la “ối” lên một tiếng, quỵ xuống, không cựa quậy được nữa.

Mã Liên Nhi thấy vậy vội vàng chạy đến đỡ lấy vai hắn, dỗ dành:

– Ca ca chớ có nóng vội, cứ yên tâm! Mẫn đại nhân công chính liêm minh, nhất định sẽ phán xử một cách công bằng.

Mã Ngang trợn tròn mắt, cả giận nói ngay:

– Ca ca nào có động tay động chân gì với lão ta! Lão thất phu ấy lừa gạt tiền của người khác, con trai lão ta cũng cùng một giuộc, rõ ràng là muốn hãm hại ta. Muội hãy mau đi tìm cha …

Còn chưa dứt lời, vai hắn đã bị Mã Liên Nhi nhéo mạnh. Kinh ngạc ngẩng đầu nhìn lại, thấy muội muội đang trừng mắt với mình, trong lòng hắn chợt hiểu, tức thì ngậm miệng không nói nữa.

Mẫn huyện lệnh cười mỉm, liếc hắn một cái, thầm nghĩ: “Đúng là kẻ ngu ngốc hữu dũng vô mưu! Nếu không phải vì nể phụ thân ngươi cũng làm quan ở Kê Minh này, ta thật chẳng muốn cứu ngươi. Nếu còn không biết tốt xấu, ngươi có bị hành hạ cũng đáng đời.”

Ngay sau đó lão hắng giọng, nghiêm mặt nói:

– Bản quan tại vị ở Kê Minh này đã hai năm, luôn chấp pháp công minh, chính trực liêm khiết. Dưới sự cai trị của bản quan, khắp nơi đều phồn thịnh, thanh liêm nức tiếng gần xa, sẽ không có chuyện dung túng một tên côn đồ, cũng sẽ không để người tốt phải chịu hàm oan…

Dương Lăng nghe mà thấy mắc cười. Những lời ca ngợi này không phải do người khác nói ra, mà là bản thân lão tự thổi phồng mình lên trước đám đông, thế đã đủ khôi hài lắm rồi. Vậy mà vị quan huyện râu xồm này lại còn cố nói một cách nghiêm túc như vậy, cứ như thể đã học thuộc lòng. Có điều y ngẫm lại, ở hậu thế khi làm tổng kết cuối năm thì ai ai cũng khoe khoang như vậy, tâng bốc mình lên tận mây xanh. Cho nên y cũng cảm thấy thoải mái hơn nhiều.

Mẫn huyện lệnh lại đổi giọng, lớn tiếng nói:

– Sau khi bản quan tiếp nhận vụ kiện này, đêm qua đã không quản gió tuyết đi tìm hiểu các nhà lân cận, thu thập chứng cứ, hơn nữa còn lệnh cho ngỗ tác kiểm tra di hài lệnh tôn. Theo bản quan được biết, trên người của lệnh tôn không có dấu vết bị ngoại thương, cho nên không đủ … không đủ … chứng minh một cách rõ ràng rằng nạn nhân bị đánh chết.

Mẫn huyện lệnh thầm nuốt nước bọt, bụng bảo dạ: “Cái tay Dương tú tài này kiếm đâu ra mấy từ trúc trắc như vậy nhỉ? Có điều … nghe rất là cao thâm, khà khà!”

Lão cầm chén trà lên nhấp một ngụm, rồi tiếp:

– Hơn nữa, theo bản quan được biết, hai năm trước gia đình ngươi chuyển từ Mân Nam đến đây, vào thu năm ngoái lệnh tôn đã từng bị bệnh nặng suốt một thời gian dài. Cho nên nếu nói cơ thể luôn mạnh khỏe thì khó mà tin cho được.

– Ngoài ra, theo lời khai của lão Hà ở tiệm bán tương, có lần cha ngươi kể với lão rằng trên đường di cư đến đây ông ta từng bị rắn độc cắn ở Hồ Quảng. Vì thế phải hoãn cuộc hành trình lại hơn mười ngày, sau đó do vội vàng nên chưa khỏe hẳn đã tiếp tục lên đường. Đấy đều có khả năng là nguyên nhân dẫn đến tử vong.

– Để tránh đổ oan cho người tốt, cũng không để lọt lưới kẻ xấu, bản quan quyết định: tạm giam Mã Ngang, trước khi vụ án được làm sáng tỏ thì nhất quyết không được thả ra. Đồng thời ta sẽ cử ngỗ tác mổ bụng khám nghiệm tử thi của lệnh tôn, kiểm tra xem có bị nội thương hay không. Còn gia đình các ngươi phải đi tìm thầy lang đã khám bệnh cho lệnh tôn năm ngoái, xin lại đơn thuốc đã kê lúc đó để làm bằng chứng cho việc bệnh tình của lệnh tôn chưa nặng tới mức có thể lưu lại di căn chí mạng về sau.

– Chưa hết, gia đình các ngươi phải mau chóng sai người đến Hồ Quảng, tìm cho bằng được thầy lang đã xem bệnh cho cha ngươi lúc đó, xin lại đơn thuốc chữa bệnh. Đương nhiên, còn phải mời danh y Phủ thành, người đã rút nọc độc của rắn ra khỏi người lệnh tôn, xác định là nó không thể gây chết người. Như vậy bản quan mới có thể dựa vào đó mà phán Mã Ngang tội tử hình.

– Dạ? Tìm lại thầy lang đã khám bệnh cho cha tiểu dân thì không khó, đến Phủ thành mời danh y, việc này …cũng cố gắng làm được. Nhưng … còn phải tới tận Hồ Quảng tìm thầy lang kê đơn lúc đó, có thể ông ta đã chuyển nhà đến nơi khác. Vậy chẳng phải đi xa xôi ngàn dặm vô ích hay sao?

Mẫn huyện lệnh cười thầm một tiếng. Đây mới chỉ là chiêu đầu tiên mà thôi, nếu nhà họ Vương vẫn cứng đầu, thực sự đi ngàn dặm xa xôi lấy đơn thuốc của thầy lang về, ta sẽ an bài để Mã Ngang kháng án, yêu cầu Vương gia phải đi Hồ Quảng một chuyến nữa, lấy thêm giấy xác nhận của tiệm thuốc. Nếu vẫn không xong, ta còn có thể bắt hai huynh đệ nhà hắn quay về quê cũ tìm quan phủ địa phương để xin cấp văn thư xác nhận cha bọn chúng trước giờ luôn mạnh khỏe.

Tóm lại, lộ trình đi đi về về càng xa càng tốt, chứng cứ yêu cầu càng chi tiết càng tốt, vừa cho thấy mình xét án cẩn thận, xem trọng nhân mạng, lại khiến bọn chúng phải khổ sở đi tới đi lui, sức cùng lực kiệt, đến khi phải bỏ cuộc không truy cứu nữa mới thôi. Đây là một trong những mánh khóe thường dùng trong bảo hiểm khi phải bồi thường cho khách hàng.

Vương Đại, Vương Nhị ngẩn người, đang định biện bạch thêm vài câu, Mẫn huyện lệnh đã trừng hai mắt, đập “bộp” phán gỗ xuống bàn, cao giọng nói:

– Được rồi, giải nghi phạm Mã Ngang vào đại lao, trông chừng cho cẩn thận! Những người khác hãy trở về nhà! Chờ khổ chủ là nhà họ Vương tìm được chứng cứ thì bản huyện sẽ lại thăng đường thẩm vấn tiếp. Bãi đường!

Đám nha dịch cùng dạ một tiếng vang rền, ngay sau đó liền có hai nha dịch cường tráng chạy đến, lôi xồng xộc Mã Ngang ra ngoài. Mặc dù đám hung thần ác sát này nhắm vào Mã Ngang, nhưng cũng làm cho huynh đệ nhà họ Vương bị dọa khiếp vía, lời còn chưa ra khỏi cửa miệng đã vội nuốt vào.

Hai huynh đệ nhà họ Vương lặng lẽ quay về nhà, cảm thấy nếu cứ như vậy mà bỏ qua thì thật không cam tâm. Bàn bạc mất hai hôm, bọn họ mới quyết định để Vương Đại thu dọn hành trang đi Hồ Quảng một chuyến, đợi lấy được chứng cứ về rồi sẽ đi Phủ thành mời người. Việc buôn bán trong nhà trước mắt sẽ do Vương Nhị lo liệu.

Đang lúc bàn bạc, vợ của Vương Đại chạy vội vào, lo lắng nói:

– Tướng công, thiếp từng nghĩ nhà mình mấy hôm nay không có khách ghé vào, có lẽ là do nhà mới có người mất, lại sắp đến Tết, cho nên các khách quen có phần kiêng kị. Nhưng hoá ra là do người của sở Dịch thừa tung tin đồn nhảm khắp nơi, nói nhà mình làm ăn gian dối, lấy giả tráo thật, lấy kém tráo tốt, ép mua ép bán. Chẳng những khắp Kê Minh này ai ai cũng biết, mà nghe nói cái bọn dịch sứ (Những người chuyên đưa văn thư từ dịch trạm này tới dịch trạm khác cho triều đình – ND) đáng chết ấy còn truyền công văn đi khắp nơi, chỗ nào cũng đặt chuyện, giờ ngay cả người làng khác cũng biết. Nếu cứ tiếp tục như vậy, nhà chúng ta làm sao mà buôn bán được chứ? Người trong nhà há chẳng phải chỉ có thể chờ chết thôi sao?

Hai huynh đệ họ Vương nghe mà giật nẩy người. Làm ăn sợ nhất là bị mang tiếng xấu, sở Dịch thừa tung tin đồn nhảm trong vùng này thôi còn đỡ, bọn họ mà lợi dụng cả trăm dịch sứ đi xuyên tạc khắp nơi thì tiệm nhạc cụ nhà họ Vương chỉ có nước đóng cửa.

Nhà họ Vương ở đây không có ruộng đất gì, hoàn toàn dựa vào việc buôn bán để kiếm sống. Trong nhà mặc dù sung túc hơn người làm nông bình thường, nhưng thời này trọng nông khinh thương, cho nên địa vị xã hội của bọn họ còn không bằng cả nông dân.

Triều đình nhà Minh đã có quy định, nông dân có thể mặc áo gấm như những người có công danh, nhưng thương nhân dù có giàu có đến đâu đi chăng nữa cũng không được phép làm vậy. Cho nên, mặc dù nông dân không mua nổi áo gấm, nhưng phú thương có mua nổi thì cũng chẳng mặc được. Thậm chí là những thương nhân gia tài ngàn vạn cũng chỉ có thể mặc áo gấm ở trong nhà, khi ra khỏi cửa lại phải thay bằng quần áo vải thô. Nếu không, để người ta cáo quan thì sẽ là tội lớn.

Do đó, khi Vương gia đi thưa kiện thì ngay từ đầu đã rơi vào thế bất lợi, nếu lại còn để cho việc làm ăn “đi tong” chắc chắn sẽ là lợi bất cập hại. Chẳng lẽ vì một người đã chết mà khiến cả nhà không sống được nữa sao?

Đến lúc này, ý định thưa kiện đến cùng của hai huynh đệ đã giảm đi phần nào. Ngẫm lại, cũng gần hết năm, bây giờ mà đi xa thì không ổn, chi bằng hai huynh đệ cố gắng quản lý cửa tiệm, chờ qua tết rồi bàn tiếp.

Hai huynh đệ cùng chạy ra sảnh trước mời chào khách. Thế nhưng qua mấy ngày vẫn không bán được gì, lại còn nghe được tin đồn, nói là Vương lão gia lừa gạt tiền của người ta, bị người ta vạch trần tại chỗ, xấu hổ quá mà chết. Hai đứa con nhà họ Vương còn tham của hơn cả lão ta, mùa đông giá rét thế này mà vẫn bỏ mặc thi hài cha mình ở chỗ ngõ tác, kệ cho người ta mổ bụng moi gan, lóc xương xét nghiệm. Tất cả chỉ vì muốn lừa gạt chút tiền

Thường có câu: Lời gièm pha của thiên hạ luôn rất đáng sợ. Những người khác nào quan tâm thật giả ra sao, tóm lại tất cả chỉ nghĩ không nên qua lại với nhà họ Vương, kẻo lại ảnh hưởng đến thanh danh nhà mình. Có vài nhà hàng xóm vốn rất thân thiết với nhà họ Vương, nhưng mấy hôm nay khi thấy mặt, trông họ hơi là lạ rồi dần dần trở nên xa lánh.

Hai huynh đệ hết sức bất bình, bèn đi cầu kiến huyện thái gia. Nhưng lại nghe nói, vì tuyết lớn làm đổ nhà của ba hộ dân ở Lưu Gia bình, nên huyện lệnh đại nhân vốn yêu dân như con đã đến đó động viên và cứu tế, phải hai ngày sau mới trở về. Hai hôm sau bọn họ quay lại thì lại nghe nói, huyện lệnh đại nhân đã tới Tuyên Phủ để chỉ huy việc vận chuyển lương thực mùa đông cho nha môn và sở Dịch thừa.

Chương 12 : Dây dưa kéo dài

Một hôm lúc Vương Nhị tới Phủ thành lấy hàng, Vương Đại ngồi trong quầy đực mặt nhìn người đi trên đường. Trong cửa tiệm vắng tanh, giờ này năm ngoái còn có mấy đội ca múa, đội cà kheo, có cả tổng hội gánh hát, nhà chùa đến mua vài món nhạc cụ giá rẻ theo mùa. Còn năm nay, cho đến giờ vẫn chưa bán được một món, chẳng lẽ cứ phải chạy ra ngoài đường lôi kéo khách vào hay sao?

Vương Đại vô cùng rầu rĩ mà chẳng biết nên làm thế nào, cẩn thận nhớ lại khi trước thấy cha hắn thường nói là bị tức ngực, hồi năm ngoái còn đột nhiên bị bất tỉnh bởi một cơn bạo bệnh. Nay ngõ tác kiểm tra thấy trên người không có vết thương nào, có lẽ thực sự vì xấu hổ xen lẫn giận dữ, nộ khí công tâm mà chết. Bây giờ làm ầm lên thế này sẽ khiến tiệm nhạc cụ của nhà họ Vương mất sạch thanh danh, một nhà già trẻ lớn bé sắp phải gặm đất mà sống rồi, phải làm thế nào bây giờ?

Đang lúc hắn đắm chìm trong suy tư, chợt có người vỗ lên quầy, cười ha hả hỏi:

– Vương Đại, gì mà ngây người ra thế? Đang tính bán đồ gì vào dịp Tết hả?

Vương Đại ngẩng đầu nhìn thì thấy một lão già quắc thước mặc thanh bào đang tươi cười đứng ở bên ngoài quầy. Hắn vội vàng đứng dậy bước ra nghênh tiếp, mặt cười tươi roi rói, giọng niềm nở:

– Ông chủ Ngô, sao ông rảnh rỗi mà ghé thăm thế? Mau vào đi. Người đâu, mau pha trà ngon đem ra đây.

Vị này tên là Ngô Kiệt, tuổi hơn năm mươi, là thương nhân vùng Xuyên Thiểm (Tứ Xuyên và Thiểm Tây-ND) đến khu vực lân cận kinh thành để buôn bán dược liệu, tiền tài vượt xa nhà họ Vương. Kê Minh là nơi tập trung phân phối luân chuyển dược liệu của lão, một năm thì đã có nửa năm lão ở lại nơi đây. Người làm ăn buôn bán ở vùng này phần đông đều biết đến ông chủ Ngô, kẻ có tiếng vung tay hào phóng.

Ngô Kiệt mỉm cười ngồi xuống ghế, chậm rãi trả lời:

– Nào có bận gì đâu, giờ sắp đến Tết rồi, ta đang bận bịu lo xong đống công việc để còn chuẩn bị về quê ăn Tết, tiện thể đi qua nhà hiền đệ nên ghé vào thăm một chút. Sao hôm nay đệ lại ngồi trông quầy thế? Để xem nào, vẫn chưa có chuẩn bị gì à, trước tiệm trông vắng vẻ quá nhỉ! Thế cha đệ đâu?

Khuôn mặt Vương Đại thoắt trở nên ảm đạm, gượng cười:

– Ôi! Ông chủ Ngô, không giấu gì ông … cha tiểu đệ vừa mới mất được mấy hôm.

Ngô Kiệt giật mình, la hoảng lên:

– Sao lại có thể như thế được? Lúc ta rời khỏi đây đi Thiểm Xuyên thu mua dược liệu, ông chủ Vương vẫn còn khỏe mạnh lắm mà, sao lại … Căn bệnh tức ngực khó thở năm ngoái lại tái phát à?

Vợ của Vương Đại cho nước vừa đun vào ấm trà rồi bước ra, khuôn mặt cũng rất buồn bã. Nhìn thấy ông chủ Ngô, bà ta bèn cố gượng cười chào hỏi, rót xong chén trà thì lại quay trở vào nhà sau.

Ngô Kiệt rút từ trong ống tay áo ra tẩu thuốc có miệng làm bằng ngọc bích, lôi từ trong đai lưng ra cái túi, vốc một nắm thuốc lá rồi dùng đồ châm lửa châm mồi. Lão ta khoan khoái rít vào một hơi, lim dim mắt nói:

– Ông chủ Vương đã tròn bảy mươi. Thường có câu: nhân sinh thất thập cổ lai hi, Ông chủ Vương cũng đã sống thọ đến lúc xuôi tay, xem như là hỷ tang vậy. Ta biết huynh đệ hai người vốn hiếu thuận. Lại đây, ngồi xuống đi, đừng có đau buồn, hãy kể cho ta nghe nào.

Vương Đại đem toàn bộ sự tình trước sau kể lại một lượt, dĩ nhiên trong lúc kể đã giấu nhẹm chuyện tìm thấy hạt trân châu ở trên người phụ thân ra. Kể xong, hắn cất giọng phẫn hận:

– Thù cha không đội trời chung. Ông chủ Ngô, ông đã từng vào Nam ra Bắc, hiểu rộng biết nhiều, ông nói xem, thù này nếu không báo, đệ còn không bị hàng xóm láng giềng chửi mắng ở sau lưng sao? Chỉ là giờ đây … khụ khụ, nhà họ Mã thế mạnh, đặt điều gây thị phi khắp nơi, cho nên mới … Ông cũng đã thấy đấy, thậm chí khách hàng cũng chẳng buồn ghé vào. Huyện tôn lão gia lại không có ở trong phủ, theo tiểu đệ thấy, hắn ngoài miệng nói thì dễ nghe, nhưng dường như cũng đều là quan lại bao che cho nhau, cố ý thiên vị cho nhà họ Mã thôi.

Ngô Kiệt nghe xong liền cười nhạt, bập một hơi thuốc, giọng khẳng định:

– Cái gì mà dường như? Chẳng phải điều đó rành rành trước mắt sao? Người ta rõ ràng đang giúp nhà họ Mã đấy.

Vương Đại nghe xong vừa giật mình vừa phẫn nộ, vỗ đùi đánh tét:

– Tiểu đệ đã nói rồi mà, hắn vừa bắt chúng ta đi tìm thầy lang, lại bắt đi tìm ông chủ tiệm thuốc. Lúc bọn đệ đi tìm huyện thái gia thì hắn lại không có ở đó, vậy … vậy … Hừ, là hắn bức đệ ôm luật triều Minh lên kinh nộp cáo trạng rồi.

Ngô lão bản rút tẩu ra, trợn mắt nhìn hắn:

– Hiền đệ còn tưởng giờ đang là năm Hồng Vũ (Niên hiệu vua Thái tổ, tức Chu Nguyên Chương, thời Minh ở Trung Quốc (1368-1398) – ND) à? Lên kinh kiện cáo? Vậy mà đệ cũng nghĩ ra được! Hoàng đế ngự trong Tử Cấm thành, kín cổng cao tường, trọng binh trùng trùng bảo hộ, đệ gặp được chắc? Mà cho dù gặp được rồi thì sao? Huyện thái gia không có nói người ta không xử vụ này. Việc xem trọng nhân mạng, cẩn thận xử án vốn đã không sai. Đến lúc đó nói không chừng hoàng thượng sẽ còn khen ngợi Mẫn đại nhân xử án cẩn thận, không xem mạng người như cỏ rác. Có khi hoàng thượng còn phán cho đệ tội phỉ báng mệnh quan triều đình, khi quân phạm thượng, có thể là đại tội xử chém toàn gia, họa diệt cửu tộc đó.

Vương Đại nghe thấy hậu quả đáng sợ như vậy, không khỏi kinh hãi đến dựng cả lông tóc, một hồi lâu mới lên tiếng:

– Ôi trời đất ơi, thật cảm tạ ông chủ Ngô đã nhắc nhở. Tiểu đệ kiến thức còn hạn hẹp, chưa trải qua hết sự đời, nếu hôm nay không có buổi trò chuyện với ông thì có thể đệ đã rước họa lớn về nhà. Vậy … bây giờ đệ nên làm thế nào đây?

Ông chủ Ngô khẽ cười, thong thả nhả ra một ngụm khói, ngước mắt nhìn làn khói lượn lờ bay lên rồi mới chậm rãi khuyên nhủ:

– Vương lão đệ à, lão ca cũng chẳng có nhiều kiến thức gì, chẳng qua vào Nam ra Bắc, mấy chuyện này nghe cũng đã nhiều, thấy cũng không ít. Thường có câu: dân không đấu với quan, lại có câu: dân tâm tự thiết, quan pháp như lô (lòng dân vững như sắt, quan pháp như lò lửa: ý nói pháp luật vô tình, có thể nung chảy cả sắt (dân tâm) – ND). Trong chuyện này đệ không có đầy đủ chứng cứ, cho dù có kiện lên đến điện Kim Loan cũng chưa chắc đã làm gì được người ta, ngược lại có khi còn hại cả nhà mình. Ta có mấy lời khuyên thế này, không biết đệ có chịu nghe hay không?

Vương Đại nghe xong vội vàng bê ấm trà lên, vừa rót thêm trà nóng, vừa khúm núm nói:

– Ông chủ Ngô, mời ông nói cho. Không giấu gì ông, mấy hôm nay trong lòng đệ thấp thỏm không yên, thật giống như đang cưỡi trên lưng cọp, lên xuống đều không xong. Lão nhân gia có chủ ý gì hay, xin hãy nể mặt cha già đã khuất mà vui lòng chỉ giáo cho.

Ông chủ Ngô cười ha hả, gõ nhẹ ống điếu vào chân ghế rồi cẩn thận đặt trên bàn. Lão chậm rãi đưa chén trà lên nhấp một ngụm, sau đó mới cất giọng thong thả:

– Chuyện này vốn không rõ ràng. Đệ mặc dù có nhân chứng chứng minh được là ông chủ Vương chết khi tên Mã Ngang đó tranh chấp với đệ, nhưng lại không có người làm chứng tên Mã Ngang đó đã động thủ với cha đệ. Vị Dương tú tài kia là người có công danh, lại có mặt ở đó từ đầu tới cuối, nếu ta là Huyện thái gia thì ta cũng không thể cứ vậy mà định tội người ta, cho nên ngươi chẳng thể trách Mẫn huyện lệnh được.

– Chuyện ngày hôm nay thành ra nông nỗi này … Vương lão đệ à, ta nói câu công bằng này ngươi đừng có trách! Vương lão bản tuổi đã gần bảy mươi, khuất đi âu cũng là chuyện phải tới. Ta biết đệ là đứa con có hiếu, chẳng phải muốn kéo con cái nhà người ta chết cùng. Nhưng nếu thật sự là oan uổng cho người ta, đệ làm vậy há chẳng phải sẽ tạo thêm một tội nghiệt cho cha đệ sao?

– Hơn nữa, hiền đệ dẫn cả nhà đến ở nơi này, liệu có thật sự muốn đắc tội với Mã dịch thừa không? Người ta mới đến nhậm chức, còn có thể làm đến mấy năm, đệ đấu lại người ta sao? Huống hồ nếu vụ án này cứ kéo dài mãi, tan cửa nát nhà tạm chưa nói đến, nó còn liên lụy khiến thi cốt lão phụ thân đệ không thể nhập thổ. Trời đông tháng chạp rét mướt như vầy lại bị xếp đống trong nhà xác, nói không chừng còn bị mổ bụng rút ruột, róc xương xét nghiệm. Cha đệ vất vả nuôi hai anh em đệ khôn lớn, để rồi chết cũng không toàn thây, đệ liệu nhẫn tâm sao?

Vương Đại nghe mà chảy cả nước mắt, nước mũi. Hắn sụt sùi khóc:

– Ông chủ Ngô, ông nói xem vậy giờ tiểu đệ nên làm sao cho phải?

Ngô Kiệt khẽ cười, trấn an hắn:

– Nếu như đệ thực sự có tấm lòng hiếu thuận, vậy cứ coi như là Vương lão gia mất đã được an hưởng tuổi trời, chết không tiếc nuối. Còn chuyện chiếm đoạt tiền tài người ta, cho dù là thật hay giả, nhà họ Mã cũng sẽ biết điều không cố truy cứu đâu.

– Có điều, tuy rằng cha đệ không phải bị người ta đánh chết, nhưng vì lúc mua bán nảy sinh tranh chấp, tuổi già sức yếu, lại sinh phẫn uất nên dẫn đến tử vong, nhà họ Mã cũng sẽ khó tránh khỏi có liên can. Nếu không phạt nặng bọn họ thì sẽ khó mà hoá giải nỗi tức giận của đệ, lại càng khó ăn nói trước mặt hàng xóm láng giềng. Theo ta thấy, không bằng kêu nhà họ Mã bồi thường cho đệ vài chục lượng bạc, tất thảy mọi chi phí khâm liệm cũng sẽ đều do bọn họ chi trả. Vụ kiện này xử lý như vậy, đệ thấy sao?

Vương Đại nghe xong cúi đầu không nói, trầm ngâm một lúc mới lắp bắp hỏi:

– Nếu … nếu xử lý như vậy, sẽ không khiến cho người khinh bỉ chê cười huynh đệ mưu cầu tiền tài, bất chấp đại thù của lão phụ thân sao? Những lời như vậy, bảo đệ làm … làm thế nào mà nói ra?

Ánh mắt ông chủ Ngô chợt sáng lên, định nói thêm câu nữa thì một người cưỡi lừa đi đến trước cửa. Gã ta nhảy xuống lưng lừa, buộc chặt cương lại rồi xầm mặt xông vào trong phòng. Vương Đại ngẩng đầu liếc nhìn thấy chính là huynh đệ Vương Nhị của mình, vội đứng dậy đón:

– Nhị đệ, đệ về rồi à, thế nào…?

Đoạn hắn liếc mắt nhìn ra ngoài, kinh ngạc hỏi:

– Không phải huynh bảo đệ đi thu mua một lô còi tre, sáo trúc, chiêng đồng, chũm choẹ à? Sao đệ lại về tay không thế?

Vương Nhị quay về phía ông chủ Ngô chắp tay cung kính chào:

– Ông chủ Ngô, chào ngài.

Sau đó gã ta bước tới ngồi phịch xuống cái ghế của ca ca, giọng đầy tức giận:

– Mua hàng gì chứ? Ông chủ Liễu muốn chúng ta giao dịch bằng tiền mặt, không cho nợ hàng.

Vương Đại ngạc nhiên hỏi:

– Sao lại thế chứ? Năm ngoái gia đình chúng ta làm ăn lần đầu với hắn mà hắn còn đồng ý bán chịu cho chúng ta. Đến giờ đã qua lại hơn một năm, chưa từng nợ hắn lạng bạc nào, sao đang tốt đẹp lại đòi giao dịch bằng tiền mặt?

Vương Nhị đáp:

– Còn không phải là vì lũ khốn họ Mã đó sao? Cũng chả biết là ai đã huyên thuyên …

Nói đến đó gã chợt nhớ ra ông chủ Ngô vẫn còn đang ở trong phòng, vội ngậm miệng lại.

Ngô Kiệt hớp một ngụm trà, thong thả đứng dậy nói:

– Mấy ngày hôm nay buôn bán bận rộn, lão phu cũng không thể ngồi lâu, giờ cũng phải trở về rồi. Nhị vị, năm sau chúng ta gặp lại nhé!

Lão chắp tay cười với Vương Đại, Vương Nhị, rồi từ tốn bước ra ngoài.

Vương Đại nghe xong lời của đệ đệ mình, ngẩn ra một lúc, thấy Ngô lão bản đã sắp khuất tầm mắt, hắn không khỏi bực tức dậm chân, vội vàng đuổi theo phía sau, gọi lớn:

– Ông chủ Ngô, xin chờ đã! Thật không còn biện pháp nào tốt hơn chủ ý của ông nữa. Chỉ có điều, cầu xin lão nhân gia giúp dàn xếp chuyện này, xin ông nhất định phải giúp cho!

Chương 13 : Sư gia danh dự

Dương Lăng ngồi trong phòng công vụ, đờ người nhìn chồng hồ sơ các vụ án dày cộm xếp trước mặt. Y rất muốn lập tức xắn tay vào làm việc, nhưng lại giống như một tay ngang phải đối diện với đống lưới đánh cá rách nát quấn chằng chịt vào nhau, căn bản không biết phải bắt đầu từ đâu.

Nếu bạn suy nghĩ một tí về những công việc mà một huyện thái gia cần phải phụ trách là sẽ biết thôi, nó không giống như ở trên ti vi, ông ta nhàn rỗi ngồi ở thất phẩm chính đường (sảnh đường lớn nơi quan thất phẩm như huyện lệnh thăng đường chủ trì xử lý kiện cáo, vv…) mà đập phán gỗ cốp cốp đâu.

Tài chính này, thuế vụ này, giao thông này, luật pháp này…, tất cả mọi việc trong huyện đều phải qua tay huyện thái gia giải quyết. Lẽ ra ngoài Huyện thừa, Chủ bạ, huyện thái gia còn có một đám sư gia về luật pháp, về tiền lương, về kiện cáo. Vậy mà giờ đây, Mẫn huyện lệnh, cái lão huyện thái gia gà mờ này lại đem tất tần tật vất cho Dương Lăng. Cho dù là một tay sư gia dồi dào kinh nghiệm đi chăng nữa, e rằng nhất thời cũng phải tay chân bối rối.

Phòng công vụ gồm ba gian phòng ăn thông với nhau như một xâu hồ lô đường. Thông thường bọn sư gia, phụ tá của huyện thái gia đều ngồi ở đây xem xét công văn, xử lý mọi việc. Phía trước phòng công vụ chính là thất phẩm chính đường, nơi huyện thái gia thẩm vấn và xử án, còn phía sau là nơi ở của cả nhà huyện thái gia.

Từ khi giúp nhà họ Mã giải quyết vụ kiện cáo liên quan đến mạng người kia xong, Dương Lăng được Mẫn huyện lệnh rất mực tán thưởng, lập tức được mời vào phủ đảm nhiệm chức vụ sư gia. Đang ảo não vì mình ăn không ngồi rồi, để cho một tiểu cô nương nuôi dưỡng thực là quá vô sỉ, nên y đã vui vẻ chấp nhận ngay.

Có điều vì ánh mắt ai oán của Hàn Ấu Nương, y đành phải nói rõ với Mẫn huyện lệnh rằng chỉ tạm thời làm sư gia, đến kỳ khảo thí sang năm y vẫn sẽ lên tỉnh thành tham gia thi Hương. Mẫn huyện lệnh cũng đồng ý ngay lập tức.

Thật ra y cũng tự biết mình chẳng sống được bao lâu. Ngày thường đi dò hỏi người ta, y cũng biết ở thời đó cho dù có thi đỗ Trạng nguyên đi chăng nữa, cùng lắm thì cũng sẽ chỉ được ở lại kinh thành làm một chân sử quan ở viện Hàn lâm, nếu có thể lập tức được cử đi làm một viên tri huyện đã là tốt lắm rồi, tuyệt đối không thể nào được cử làm quan to. Hiện tại cũng chỉ vì tình cảm với Hàn Ấu Nương và trách nhiệm của người đàn ông nên y mới muốn cố gắng để lại cho nàng một phần gia sản mà thôi, chẳng muốn tham gia thi hương làm gì. Chỉ có điều y không thể chống lại được tình cảm dịu dàng của nữ nhân. Tuy tuổi còn nhỏ mà Hàn Ấu Nương đã có một đôi mắt đầy u oán, đủ khiến y phải thay đổi ý định. Ít ra thì biểu hiện bên ngoài của y là như vậy.

Mẫn huyện lệnh xuất thân quân đội, thân tín đem theo cũng đều là dân đi lính, có thể nói là mù tịt với việc quản trị một huyện. Trong huyện vốn còn có một tay Hoàng huyện thừa, nhưng kẻ này cũng chẳng để ý gì tới Dương Lăng, cả ngày chỉ như một pho tượng đất. Nếu không phải vào ngày phát lương hằng tháng còn thấy lão ta ôm theo cái bao rỗng chạy tới lĩnh tiền lĩnh thóc, nhất định sẽ chẳng thấy bóng dáng của lão ta ở đâu.

May là ở Kê Minh dân chúng thuần phác, hơn hai năm qua vẫn chưa có sự việc gì quá nghiêm trọng. Có điều cuộc khảo hạch ba năm một lần đã sắp tới gần, lúc ấy triều đình sẽ kiểm tra thành tích của các quan viên. Mẫn huyện lệnh mặc dù tính tình thô lỗ, nhưng cũng không khỏi có chút tính toán riêng cho bản thân.

Trong đợt đại khảo thí này của triều đình, thành tích được tính như thế nào đây? Thật ra nó không nằm ngoài hai thứ: một là sự thanh liêm, sáng suốt, hai là thu thuế đúng hạn. Về phần thanh liêm, sáng suốt thì chỉ cần không có nông dân gây loạn, thương nhân bỏ chợ và thư sinh kháng nghị, đồng thời không xảy ra vụ trọng án nào, đã có thể báo cáo là một cảnh thái bình thịnh vượng, “ngoài đường không trộm cắp, tối ngủ khỏi cài then” rồi.

Kê Minh có hai đội quan binh trú đóng, cộng thêm sở Dịch thừa, bọn sai dịch của huyện nha, là một huyện bậc ba quản lý rất nghiêm, hai năm qua chưa từng xảy ra chuyện lớn nào. Thế nhưng về mặt thu thuế đúng hạn thì không được như vậy. Vì là vùng đất có nhiều thương khách tụ tập nên thu thuế buôn ở đây thì còn có thể đúng hạn, nhưng các hộ dân cư phụ cận phần nhiều là sống ở trong núi, bình thường vốn sinh sống rải rác, không dễ quản lý. Hơn nữa đất đai cằn cỗi, bọn Thát Tử lại thường đến quấy nhiễu cướp bóc, cho nên lương thuế giao nộp không được như ý, đến lúc đại khảo không khỏi trở thành điểm yếu của Mẫn huyện lệnh.

Mẫn huyện lệnh làm quan cứ ngây ngây ngô ngô. Phải đến mấy ngày trước lặn lội đi phủ thành một chuyến, lão mới nghe ngóng được cuộc trò chuyện của thượng quan, mới biết được quan văn khảo hạch sẽ có rất nhiều thứ để nói. Đang lo lắng không biết sẽ phải khoe khoang thành tích cai trị của mình như thế nào thì ở trên trời lại rơi xuống một Dương tướng công. Dĩ nhiên lão sẽ đẩy hết trọng trách sang y, trông mong y giúp mình tạo ra được chút thành tích để báo cáo.

Nhưng Dương Lăng quả thực không thể hiểu được phương thức vận hành chính phủ ở thời đại này. Tuy ở kiếp trước hắn đã từng làm trưởng phòng của một công ty bảo hiểm, nhưng với chế độ và cơ cấu quản lý ở thời nay, dù cho không có trưởng phòng thì cả cơ cấu cũng không bị ảnh hưởng quá nhiều. Hiện tại thì không giống như vậy, gần như mỗi chuyện lớn chuyện nhỏ đều cần y quyết định. Dương Lăng làm đến bở hơi tai mà ngay cả công văn thường ngày còn xử lý không xong, lấy đâu ra thành tích cho nổi.

Y ưỡn lưng, đưa tay về phía sau khẽ đấm mấy cái, mày chau mặt ủ nhìn cái đống hồ sơ ở trước mặt. Cuối năm đã cận kề, trạm vận chuyển hàng hóa đang có một đống đặc sản Tây Vực do hoàng cung mua sắm cần phải vận chuyển về kinh thành, thế nhưng lại không có đủ xe, lừa ngựa để sử dụng, cần thỉnh cầu nha huyện giúp đỡ giải quyết.

Bộ phận nhận công văn lại nhận được công hàm của bộ binh thông báo sắp tới sẽ có đại quân điều động, đi qua Kê Minh lúc nửa đêm. Bọn y cần phải mở cửa thành giữa đêm đó, rồi an bài nha sai và quan binh canh giữ cửa thành, nghiêm ngặt đề phòng có kẻ thừa cơ ban đêm lẻn vào.

Ngót nghét cuối năm, lệnh giới nghiêm đã được bãi bỏ. Thân là sư gia chuyên lo về pháp luật, hiển nhiên những việc liên quan đến phương diện trị an, đuổi trộm bắt cướp này nọ y cũng phải đích thân đứng ra xử lý.

Những vật liệu như khói hiệu, lửa hiệu dùng ở phong hỏa đài (1) cũng cần phải thay đổi.

Trâu cày của nhà họ Đậu ở ngoại thành bị thất lạc. Con heo mập mạp do nhà họ Lưu ở phía tây thành nuôi đã ba năm bị trộm mất. Nhà họ Lí có mấy tên lưu manh tụ tập trêu chọc quả phụ trẻ. Đầu thành phía Bắc có đứa nhỏ nhà họ Hách châm pháo làm cháy đống củi của nhà họ Hạ, nhà họ Hạ đến cửa tranh cãi đánh con dâu của nhà họ Hách bị thương. Nhà họ Hách tố cáo nhà họ Hạ gia đến tận nhà mình hành hung, nhà họ Hạ tố cáo nhà họ Hách đốt lửa gây cháy lớn…

Càng chết người hơn là số hộ nông dân khất nợ thuế nông nghiệp thực sự quá nhiều. Có hộ chỉ khất một hai năm, có hộ ngâm phải tới chín tới mười năm, ngâm tới đá cũng phải mềm, không cách nào giải quyết nổi.

Thoạt đầu Dương Lăng còn đập bàn kêu Vương bộ đầu lôi cái tên nông dân gian xảo Hồng Mãn Thương – kẻ ngâm nợ lâu nhất, dai nhất tới, định bụng giết gà dọa khỉ. Đến khi nghe Vương bộ đầu kể lại chuyện huyện thái gia nhiệm kỳ trước đã từng dùng qua phương pháp này, kết quả đã ép vợ Hồng Mãn Thương phải thắt cổ tự vẫn, Hồng Mãn Thương cũng trở nên nửa điên nửa dại. Một đám văn nhân biết được sự tình đồng loạt phẫn nộ bất bình gây náo loạn đến cả bộ Hộ, sau khi quan huyện bị cách chức thì chuyện mới yên.

Vẫn may còn có tay Chủ bạ Vương Dưỡng Chính thấy vị đồng liêu trẻ tuổi này tính nết hòa nhã, làm việc chăm chỉ, nên đã len lén cho y biết Hoàng huyện thừa ngồi ở bổn huyện đã rất lâu, từng trải qua hai đời huyện thái gia. Vị huyện thừa già này là một người có rất nhiều biện pháp, ở chốn quan trường có thể xem là một người lọc lõi, chi bằng hãy xin lão ấy giúp đỡ.

Dương Lăng nghe lời, cắn răng mua chục cân thịt heo, một túi trà ngon đến cửa Hoàng huyện thừa xin chỉ giáo. Ai dè lão đang kèm cặp cháu trai mình luyện chữ, nghe ý tứ của Dương Lăng xong thì chỉ cười nhạt, cố ý cò cưa không chịu giúp đỡ. Nhưng lão lại chẳng hề khách khí gì, vẫn nhận lấy gói thịt heo và túi trà, khiến cho Dương Lăng chẳng biết phải khóc hay nên cười.

“Ôi!” Hồi tưởng đến chuyện này, Dương Lăng thở dài nặng nề, có phần tiếc nuối hai mươi bốn văn tiền đã bỏ ra. Thi thoảng mua ít thịt về, tiểu nha đầu ở nhà đều gắp bỏ vào bát của hắn hết, bản thân lại không nỡ ăn một miếng. Nếu biết trước sẽ như vậy, chi bằng y đem thịt về nhà cho cô bé vừa đáng thương vừa đáng yêu đó ăn một bữa thật ngon còn hơn.

Y cầm lấy bút, viết dự trù tài chính, lương thực cho năm sau đã được tính toán cẩn thận vào trong công văn trình báo lên bộ Hộ: “Tổng cộng quan viên sai nha ở cả Kê Minh là 79 người, dịch sứ 158 người, lính canh nội thành 260 người, dân phu 45 người, ngựa trạm 82 con, tiền chiêu đãi thết tiệc trong năm 7647 lạng, thức ăn cho ngựa 52 thạch (mỗi thạch tương đương 100 lít). Ngoài ra: chiến đài ở cổng Tây thành đã có vết rạn nứt, cần phải tu bổ, dự toán 116 lạng.”

Thổi cho tờ công văn ráo mực, y cẩn thận đặt nó lên trên chồng công văn đã xử lý. Tấm rèm cửa chợt được vén lên, một người mặc áo xanh bước vào. Mấy viên tiểu lại phụ trách sao chép, sắp xếp văn thư trong phòng vội vàng đứng dậy chào: “Mẫn đại nhân!”

Dương Lăng ngước đầu lên nhìn, cũng vội đứng dậy thi lễ. Người vừa vào chính là Mẫn huyện lệnh trong bộ y phục bình thường. Lão thoải mái vẫy tay, giọng oang oang:

– Được rồi được rồi, mỗi ngày đều gặp, còn hành lễ làm gì? Trời cũng không còn sớm nữa, hôm nay làm đến đây thôi.

Mấy viên tiểu lại vội vàng vâng vâng dạ dạ, bắt đầu thu dọn vật dụng của mình. Mẫn đại nhân bước đến trước mặt Dương Lăng, thấy y đã xử lý xong gần nửa số công văn, không khỏi đưa ngón tay cái lên tán thưởng:

– Tiên sinh thật có bản lãnh! Bổn huyện vừa nhìn mấy cái thứ này thì đã cảm thấy đau đầu, không ngờ ngươi lại giải quyết nhanh như thế, được hơn một nửa rồi, ha ha ha…

Dương Lăng cười khổ không thôi. Đích xác y xử lý rất mau, song phần lớn đều là những công việc “trên đưa dưới làm”, những vấn đề thực sự nan giải nào có thể giải quyết nhanh được như vậy. Còn chưa kể cái đám con nợ tiền thuế lâu dầm lâu dề phải chia ra đến làm mấy loại. Có loại cố ý kéo dài dây dưa, có loại thực sự do gia cảnh bần hàn, việc điều tra thống kê cho rõ ràng sẽ rất mất thời gian.

Chỉ riêng mấy vụ án nhà này mất con trâu, nhà kia mất con lợn, có vụ nào mà trong lúc xét xử không phải cắt cử mấy người đi đâu, mau lắm cũng cần dăm ba ngày mới điều tra xong. Mấy cái vụ lặt vặt này không lớn, nhưng vụ nào cũng đều cần phải có người, có thời gian, muốn giải quyết nhanh cũng không nhanh được.

Lúc trước xem ti vi thấy mấy cái tay làm quan động một tí là cải trang vi hành, tra rõ ngọn ngành vụ án, xem ra toàn chỉ là chuyện vớ vẩn. Mỗi ngày có biết bao nhiêu chuyện phải làm như vầy, thời giờ đâu ra cho hắn rời khỏi nha môn mà tự mình đi điều tra phá án chứ?

Đương nhiên y không tiện kể khổ mấy chuyện này với huyện thái gia, nên đành luôn miệng nói:

– Đâu có, đâu có,… Đại nhân đã quá khen rồi.

Đợi thấy đám tiểu lại kia đã đi hết, Mẫn huyện lệnh mỉm cười vỗ vai y nói:

– Ta là một kẻ thô lỗ, đừng có xem ta như người đọc sách, không ở trên công đường thì chớ nên khách khí như vầy. Phải rồi, mau mau dọn dẹp rồi đi với ta! Mã dịch thừa muốn tạ ơn ngươi và ta nên mời chúng ta đến Hồng Nhạn lâu uống rượu xem kịch đấy.

Dương Lăng nghe xong không khỏi chần chừ:

– Ồ? Chuyện này… Hay là đại nhân đi trước? Ty chức phải về nhà báo với vợ nhà một tiếng trước, kẻo không nàng ấy lại lo lắng.

Mẫn huyện lệnh cất giọng cười vang, đấm một quyền vào vai y rồi vừa cười vừa mắng:

– Sao lại lôi thôi thế? Đàn ông mà, khi nào muốn về thì về, không muốn về thì phụ nữ vẫn phải ngồi ở nhà mà đợi, nói với thị làm gì? Đi nào, còn trẻ mà đã mang bệnh sợ vợ rồi.

Mẫn huyện lệnh cũng không để cho Dương Lăng phân bua, lôi tuột y ra ngoài. Dương Lăng bất đắc dĩ đành phải thuận theo ý lão. Mẫn huyện lệnh vận thường phục nên cũng không tiện ngồi kiệu quan. Hơn nữa cái thành Kê Minh này cũng chẳng lớn, khoảng cách giữa hai cổng nam và bắc chỉ khoảng bốn dặm. Hồng Nhạn lâu nằm cạnh bên Kim Quang tự, chỉ cách huyện nha một con đường, nên càng không cần phải đi kiệu cho phiền phức.

Hai người đi bộ đến Hồng Nhạn lâu. Mã dịch thừa và Mã Ngang, Mã Liên Nhi sớm đã đợi trong một nhã phòng (phòng VIP). Nơi đây vốn là một kịch viện, gọi là nhã phòng chẳng qua cũng là một chỗ có vị trí tốt ở chính giữa, sử dụng bình phong để phân cách độc lập mà thôi.

Dương Lăng cảm thấy bất ngờ khi thấy Hoàng huyện thừa cũng ở đây, đã gặp mặt đành phải khách sáo chào hỏi một hồi. Mã Ngang bị giam trong đại lao hơn chục ngày, tính khí nóng nảy cũng đã bớt được không ít. Thấy ân nhân cứu mạng xuất hiện, vẻ mặt của hắn trở nên rất thân mật, bước đến cầm tay Dương Lăng tạ ơn không ngớt.

Dương Lăng và Mã Ngang đều là thanh niên trẻ tuổi, có điều một người thì đầy vẻ văn nhân, nho nhã lịch sự, một kẻ thì khôi ngô cường tráng, mày rậm mắt to, không ngờ lại khá hợp chuyện, đúng là có phần kỳ lạ.

Hôm nay Mã Liên Nhi chỉ trang điểm nhẹ, trông rất dễ thương, nhưng khi nhìn Dương Lăng, khuôn mặt mỹ lệ lại tỏ ra khá mất tự nhiên.

Dương Lăng có nghi biểu bất phàm nên ngay lần đầu gặp mặt, tâm hồn thiếu nữ của Mã Liên Nhi đã có vài phần yêu thích y. Nhưng ngay khi biết được y đã lấy vợ, Mã Liên Nhi chỉ coi y như là ân nhân bằng hữu khác giới mà thôi.

So với nô tì, phận làm thiếp cũng không cao hơn bao nhiêu. Đừng nói y chỉ là một tú tài, cho dù y là tuần phủ một tỉnh đi nữa, tuy chỉ là con gái của một quan chức cấp thấp, Mã Liên Nhi cũng tuyệt đối không thể làm thiếp của y. Do đó tình cảm của nàng vừa mới chớm đã bị dập tắt.

Chương 14 : Luận bàn về chữ trinh

Hàn huyên một lúc xong, Mã dịch thừa mời mọi người ngồi, tiểu nhị bắt đầu bê từng món đã được gọi lên. Mã dịch thừa quay sang nói với Dương Lăng:

– Dương tú tài, lão phu cũng lớn tuổi rồi, xin gọi ngươi một tiếng hiền điệt. Đứa con này của ta tính tình thô bạo, ngày thường hay gây rắc rối cho lão phu. Lần này gây ra họa lớn, nếu không nhờ diệu kế của Dương hiền điệt, lại được Mẫn đại nhân khai ân, khuyển tử đã phải mang tội giết người rồi.

Dương Lăng vội đáp:

– Đâu có, đâu có! Hôm ấy tiểu điệt nhìn thấy rõ Mã huynh thật sự chưa hề động tay chân với Vương lão bản. Có thể nói là do lòng tham hại người thôi. Vương lão bản kia vì tham trân châu của Mã tiểu thư, bị phát hiện ra rồi tranh cãi một hồi nên thẹn quá hoá giận, nộ khí công tâm mà chết. Đó thực không phải là lỗi ở Mã huynh, xin Mã đại nhân ngàn vạn lần chớ có khiển trách Mã huynh nhiều quá.

Mã Ngang lập tức lên tiếng:

– Cha thấy chưa, con và muội muội nói mà cha không tin. Dương huynh đệ nói vậy cha đã có thể tin rồi chứ? Con không có đánh cái lão già đó.

– Câm miệng! Tiểu súc sinh! Ở đâu có phần cho ngươi nói chen vào!

Mã dịch thừa mắng con xong liền quay về phía Mẫn huyện lệnh, Hoàng huyện thừa và Dương Lăng, lắc đầu nói:

– Xem đó, tiểu súc sinh này được việc thì ít hỏng việc thì nhiều. Đâu có so được với Dương hiền điệt tuy còn thua con ta mấy tuổi nhưng hiểu rõ sự đời, chưa đến hai mươi mà công danh đã có. Ôi, vợ ta mất sớm, một nam một nữ chúng nó thiếu người dạy dỗ nên mới không hiểu việc thế này đây.

Mẫn huyện lệnh, Hoàng huyện thừa và Dương Lăng nghe thế lại phải nói giúp thêm Mã Ngang. Cùng lúc ấy tiểu nhị bắt đầu bày các món ra. Một lát sau, người trong rạp hát càng lúc càng đông. Xung quanh nhã phòng là mấy thương nhân hiện đang nghỉ tạm ở dịch trạm, xa hơn chút nữa là mấy dịch sứ, dân phu và đám nha dịch vô công rồi nghề chạy đến xem để giết thời gian.

Bất chợt sân khấu phía trước bừng sáng, một hồi chiêng trống vang lên và mấy diễn viên bắt đầu bước ra biểu diễn. Thời ấy còn chưa có kịch nói, Dương Lăng lại không rành về tuồng mà không tiện hỏi người khác nên nghe không hiểu được bao nhiêu. Toàn bộ diễn viên tuồng thời đó đều là nam, muốn xem mỹ nữ cũng chẳng được. Dương Lăng cảm thấy rất chán, ngồi nghe Mẫn huyện lệnh, Mã dịch thừa và Hoàng huyện thừa vừa xem vừa đàm luận mới đại khái hiểu ra một chút.

Nghe hai người bọn họ từ ngữ qua lại kể về tình tiết câu chuyện, Dương Lăng thấy hết sức khó tin. Vở tuồng này kể về một người con gái vừa mới kết hôn không lâu thì trượng phu đã rời khỏi nhà đi xa. Mấy năm sau người chồng trở về quê hương. Trên đường về nhà, hắn gặp một cô gái vô cùng xinh đẹp đang hái lá dâu. Bị vẻ đẹp của cô gái đó lay động, hắn bèn bước đến trêu ghẹo. Chẳng ngờ lại bị nghiêm khắc cự tuyệt nên hắn đành bẽ mặt ôm lòng chán chường về nhà. Ai ngờ về đến nhà lại thấy vợ mình chính là người con gái mà hắn vừa mới trêu ghẹo không được. Hắn cảm thấy vô cùng hổ thẹn, tự đáy lòng cũng nảy sinh sự ngưỡng mộ đối với vợ mình.

Truyện đến đây cũng không có gì là bất ổn. Nhưng sân khấu diễn tiếp đến ngày thứ hai, người vợ đó ở trong nhà khóc lóc sướt mướt rồi viết lại một phong di thư và thắt cổ tự vẫn. Trong thư nàng viết vì không giữ trọn đạo làm vợ, gợi lên tà niệm nơi nam nhân, khiến cho trinh tiết bản thân bị ô uế, cho nên nàng không thể tiếp tục sống trên nhân thế, chỉ đành lấy cái chết để bảo toàn trinh tiết. Sự việc đó cuối cùng làm náo động cả thôn làng. Khắp nơi dâng thư, Hoàng đế ban xuống thánh chỉ truy phong nàng liệt nữ này làm Nhất phẩm Cáo Mệnh Phu Nhân và cho lập “Trinh Khiết bài phường“ (cổng chào Trinh tiết), thật vẻ vang vô cùng. Trượng phu của nàng vì để tưởng nhớ, về sau khi cưới phu nhân mới, họ vẫn cùng nhau lên mộ để bái tế.

Hồng Nhạn lâu là một nơi kết hợp giữa rạp hát và tửu điếm, vì vậy một vở tuồng không phải được diễn liên tục cho đến hết, mà còn có giờ nghỉ giữa buổi. Lúc giải lao, hai người Mẫn, Mã bắt đầu sôi nổi đàm luận. Hoàng huyện thừa nhấp rượu, thi thoảng chêm vào vài câu. Tuy lão không nói nhiều nhưng dẫu gì cũng là một kẻ đọc sách nên có thể giảng giải một cách trôi chảy những lời Mẫn huyện lệnh muốn nói nhưng không diễn đạt được.

Dương Lăng lại cảm thấy vở kịch này rất không thực tế, tựa như một câu chuyện hoang đường nhất mà hắn đã từng nghe qua. Câu chuyện ấy kể về một triều nọ có một phụ nữ bị rớt xuống nước, được một nam nhân đi đường trông thấy nắm lấy tay nàng ta kéo lên. Không ngờ nàng ta trở về nhà lấy dao chặt đứt cánh tay của mình, chỉ bởi vì chỗ đó đã bị một người nam nhân không phải trượng phu của mình chạm vào.

Như vậy cũng có thể tính là “thất trinh” đi, vì suy cho cùng đó là thất trinh về thể xác. Nhưng người phụ nữ ở trong vở kịch này không ngờ lại không chịu nổi “thất trinh” về tinh thần. Chưa nói nó vốn không phải là thất trinh, chẳng qua vì nàng ta quá xinh đẹp, khiến cho người ta nhìn vào mà nổi sắc tâm. Người nam nhân đó đã không có tội, mà trái lại người vợ này lại tự cảm thấy chưa tròn phụ đạo làm vợ. Quả thực là hoang đường!

Nghe Mẫn huyện lệnh và Mã dịch thừa luôn miệng tấm tắc, Dương Lăng cuối cùng cũng chịu hết nổi, đành hỏi:

– Hai vị đại nhân, vở tuồng này không khỏi hơi quá khoa trương và không thực tế thì phải? Trượng phu nàng ta là kẻ tồi tệ, đi đường trông thấy mỹ nhân liền buông lời chòng nghẹo, bị mắng phải bỏ đi. Nhưng rốt cuộc người vợ lại cảm thấy tự mình bất trinh, điều đó . . . điều đó quả thật là vô lý! Trên đời làm gì có chuyện như vậy? Chuyện buồn cười như thế, vở tuồng lại khoa trương lên thì có gì hay ho đâu chứ?

Mã dịch thừa kinh ngạc hỏi:

– Sao? Dương hiền điệt đọc sách thánh hiền vậy mà lại không biết sự tích trong Liệt Nữ truyện hay sao? Tích truyện này có gì mà không thật chứ? Nữ tử đó tiết liệt như vậy, thật đúng là tấm gương cho các nữ tử khác trong thiên hạ, làm gì có chỗ nào đáng cười?

Mẫn đại nhân cũng mỉm cười nhấp một ngụm rượu rồi cười ha hả nói:

– Dương tú tài nhất định chỉ đọc mấy sách thánh hiền để thi đỗ công danh, cho nên không biết mấy tích truyện trong “Liệt Nữ truyện”. Ngươi mềm lòng tốt bụng cũng phải, ta cũng cảm thấy có chút đáng tiếc cho nữ tử này. Nếu ta mà là quan huyện ở đó, nhất định sẽ phạt đánh tên trượng phu kia bốn mươi gậy to, phạt hắn cả đời không được nạp thiếp. Có điều chuyện này cũng không có gì là không thật cả. Vào năm Thành Hoá (Niên hiệu của vua Hiến Tông nhà Minh (1447-1487) – ND), khi ta vẫn còn là một tiểu binh ở Phúc Kiến đánh hải khấu, phía nam Mân Nam có một phu nhân, sau khi trượng phu mất đi thì muốn tuẫn tiết theo chồng. Họ hàng thân thích lấy đó làm vẻ vang, khua chiêng đánh trống tung hô ầm ĩ. Sau ba ngày, người phu nhân đó tay cầm hoa tươi, ăn mặc đẹp đẽ, ngồi ngay ngắn trong kiệu đến trước phần mộ trượng phu. Sau đó bà bước lên dàn treo đã được dựng sẵn từ trước rồi thắt cổ tự tử. Cảnh Thái đế (Niên hiệu của vua Đại Tông thời Minh (1428 – 1457) – ND) đã ban chỉ tặng thưởng lập Trinh Khiết bài phường, cả tỉnh được thơm lây. Khà khà, cái đền thờ đó chính là do bọn ta đã xây nên cho bà ta (Ở đây có thể tác giả nhầm lẫn về thời gian của hai vị hoàng đế Đại Tông và Hiến Tông – ND.)

Mã dịch thừa gật gù bảo:

– Đúng thế, lễ giáo sao có thể xem nhẹ được? Dương hiền điệt đã quá mềm yếu rồi. Những nữ tử như vậy đều là liệt nữ con nhà gia giáo, nếu mà là những nữ tử hoang đàng sao có thể tiết liệt như vậy được! Nhớ khi trước danh kỹ Từ Châu Quan Phán Phán (1) được thủ soái Trương Âm (2) nạp làm thiếp. Sau khi Trương Âm chết đi, ả đã không tuẫn tiết theo chồng, mà lại quay về Yến Tử lâu cũ của mình sống cô độc mười năm, vọng tưởng sẽ lấy được mỹ danh thủ tiết, thật đúng là mặt trơ mày tráo. Về sau Giang Châu Tư Mã (3) viết một bài thơ vạch trần bộ mặt giả dối của ả, ả mới hổ thẹn tuyệt thực mười ngày mà chết (4). So với vị nữ tử trong vở tuồng này và vị thiếu phụ ở Mân Nam đó thật đúng là một trời một vực.

Ở kiếp trước Dương Lăng rất hay luyện chữ và quan sát mấy bảng chữ mẫu, cho nên biết Giang Châu Tư Mã này là ai. Có điều hắn không hiểu Bạch Cư Dị này tại sao đối với một ông lão bán than thì tỏ lòng thương hại, nhưng đối với một quả phụ ở góa thì lại có thái độ như vậy. Mà khi đó vẫn còn là triều Đường, triều đại có nếp sống cởi mở nhất Trung Quốc. Giờ đã trải qua triều Tống, triều đại xuất hiện “Tam tòng tứ đức” của lão phu tử họ Chu (5), khó trách nữ nhân bị đầu độc nặng đến như vậy.

Ngồi nghe ở một bên, Mã Liên Nhi rất lấy làm bất bình, không nhịn được bèn hừm một tiếng rồi chen vào nói:

– “Thập tái xuân đề biến oanh thiệt, tam hiềm lão sửu hoán nga mi.“ Nếu đó là ái thê chết theo trượng phu thì cũng không phải là không nên. Nhưng đã là hàng hóa để loại nam nhân này đem về làm thiếp, có thể trao đổi mua bán tùy ý thì rõ ràng là không tình nghĩa gì. Vậy mà còn muốn người ta tuẫn tiết đi theo, con làm nữ nhi cũng cảm thấy có phần quá đáng đó.

Nàng chính là đang nghĩ tới mấy câu thơ trong “Truy hoan ngẫu tác” trong tập thơ tự thuật kể lại chuyện phong lưu tao nhã của Bạch Cư Dị. Bài thơ kể rằng ông mua một nữ hài độ mười lăm, mười sáu về làm thiếp. Vui vẻ mới được ba năm, người ta cũng mới mười tám mười chín thì đã chê người ta già, xấu, thế là có nàng bị ông ta đem bán lại cho người khác, có nàng thì bị cho đi. Rồi ông ta lại mua về một “món hàng tươi tốt” khác. Mười năm thay đến ba lần, thành thử viết ra bài này để khoe khoang với chúng bạn.

Mã dịch thừa rất đỗi không vui, chỉ cảm thấy thật quá mất mặt khi con gái mình nói ra những lời này ở trước mặt mọi người. Ở đây có một vị Huyện lệnh, một vị Huyện thừa, còn có một kẻ đọc sách có công danh, vậy mà con gái mình lại nói ra mấy lời đại nghịch bất đạo đó, khó tránh khỏi người ta nghĩ rằng lão dạy dỗ không nghiêm. Cho nên mặc dù ngày thường lão thương yêu nhất là đứa con gái này, lúc này vẫn không nhịn được, bèn tát cho một cái, mắng rằng:

– Hỗn láo, nói gì thế hả? Từ thời Cao Thái Tổ hoàng đế đến nay, bổn triều vốn luôn coi trọng nhất là phong giáo. Để biểu dương tiết phụ, quả phụ dưới ba mươi tuổi mất chồng mà đến năm năm mươi tuổi vẫn không cải giá thì treo biển trước cổng làng, miễn trừ sai dịch cho người trong tộc. Đó là vinh dự đến cỡ nào chứ? Tiết liệt trinh thao vốn là bổn phận. Thường có câu “một ngựa không kết hai yên, một chân khó đạp hai thuyền,” cho nên một nữ không hầu hai chồng, cũng giống như bọn ta một thần không thờ hai chủ. Cái đức của nữ nhân mặc dù là ở sự dịu dàng, nhưng những tiết lưu danh đều là về sự trinh liệt. Những lời ta giáo huấn ngươi đều quên hết rồi hay sao?

Mã Liên Nhi xưa nay rất được phụ thân cưng chiều, cho nên khi nàng nghe bọn họ nói về nữ nhân như một thứ đồ chơi riêng của nam nhân thì không nhịn được mà mở miệng phản bác. Ai ngờ phụ thân lại tát cho nàng một bạt tai ở trước mặt người ngoài nên vừa giận vừa xấu hổ, nàng che mặt bật khóc, đứng dậy bỏ chạy đi.

Mã Ngang thấy phụ thân phát hỏa cũng không dám khuyên nhủ, muốn đuổi theo muội muội nhưng lại sợ phụ thân nổi giận nên lưỡng lự ngồi yên. Mã dịch thừa nổi giận đùng đùng phất tay nói:

– Để cho nó đi, chúng ta cứ uống rượu thôi! Nó đúng là được ta nuông chiều quá đâm hư, mấy lời như vậy cũng nói ra được.

Dương Lăng không khỏi sửng sốt. Mã Liên Nhi có chỗ nào nói sai đâu, sao Mã dịch thừa lại nổi nóng lên như vậy. Mẫn huyện lệnh cũng cho rằng đây là chuyện đương nhiên nên không khuyên can thêm. Dương Lăng đứng dậy nói:

– Mã tiểu thư hẳn là chỉ thương tiếc cho Quan Phán Phán, nàng ta tuyệt thực chết đi khiến cho thế gian mất đi một bậc tuyệt đại phong hoa, vì vậy mới xúc động bày tỏ mà thôi. Bá phụ chớ nên tức giận! Bây giờ trời cũng đã tối, Mã tiểu thư một mình đi ra ngoài rất nguy hiểm. Xin hãy để tiểu điệt khuyên nàng trở về!

Mặc dù cảm thấy những lời đó của con gái làm cho mình hết sức mất mặt nhưng dẫu gì cũng cha con tình thâm, nên dù miệng có nói dữ nhưng trong lòng Mã dịch thừa lại lo lắng. Thấy Dương Lăng nói khách khí như thế, mặt lão lập tức dịu lại:

– Vậy đành vất vả cho Dương hiền điệt rồi.

Dương Lăng chắp tay chào mấy người Mẫn đại nhân và Mã dịch thừa, rồi nhanh chóng đuổi theo Mã Liên Nhi. Nàng đang đứng dưới chiếc đèn lồng đỏ treo trước cửa rạp hát, thẫn thờ nhìn lên bầu trời. Nhẹ cả lòng, Duơng Lăng dừng chân, rồi chậm rãi bước tới nói:

– Mã tiểu thư, cô hãy quay lại đi! Lệnh tôn cũng chỉ vì lo mấy lời đó của cô bị người khác nghe thấy, ảnh hưởng đến thanh danh của cô thôi. Đó chính là thương càng nhiều thì mắng càng dữ, cô cũng đừng quá tức giận!

Mã Liên Nhi ngẩng đầu nhìn chòm sao lấp lánh trên trời, khẽ nói:

– Ở trong thiên hạ này, rốt cuộc nữ nhân bị coi là thứ gì? Nữ nhân tuẫn tiết theo chồng là nữ nhân tốt, được ca ngợi, được biểu dương. Tiết liệt của nữ nhân chứng tỏ mỹ đức của nàng, càng chứng tỏ sự vĩ đại của nam nhân, chỉ ra rằng hắn xứng đáng được nữ nhân hy sinh cho hắn. Nhưng đến cùng thì hắn đã làm được gì cho nữ nhân? Coi nữ nhân như tài sản riêng của nam nhân, không chỉ đối với thiếp, mà cả thê cũng như vậy. Ta nghe kể ba kẻ kết nghĩa vườn đào trong “Tam quốc”, chuyện đầu tiên họ làm là giết sạch cả vợ con. Đối đãi với thê tử như thế, bọn họ liệu còn có tình cảm hay không? Lưu Bị coi vợ mình là y phục, gã thợ săn Lưu An (6) xem vợ mình như đồ ăn, giết đi để đãi khách. Những kẻ này là người hay là dã thú? Nước thì phải trong, nữ thì phải sạch. Huynh có biết không, mẹ ta . . . đã bị chính cha ta ép chết đó. Lúc bấy giờ cha vẫn còn là một binh sĩ, một mình mẹ nuôi ca ca và ta sống rất là cực khổ. Về sau bọn cướp trên núi gần đó kéo xuống cướp bóc, mẹ đã đem giấu ta và ca ca ở trong một hang nước, nhờ vậy mới thoát được một kiếp nạn. Bọn cướp cưỡng gian bà, sau lại nảy chút lòng tốt hiếm hoi mà không giết chết. Kết quả là mẹ ta không chết dưới đao của đám cướp, mà lại bị chết bởi những ánh mắt khinh bỉ của cha, của bọn đàn ông hèn nhát chỉ biết chạy trốn giữ lấy mạng mình.

Dương Lăng trầm mặc một lúc rồi khẽ thở dài:

– Trong lòng có thiên lý thì dục vọng ắt bị diệt. Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn. Lời của Chu Hy Chu phu tử chưa chắc đã đúng, nhưng vì thiên hạ này là thuộc về nam nhân, thế nên nó lại đúng!

Rồi y nhớ đến thời đại của mình, lắc đầu bảo:

– Không những đúng cho bây giờ, mà mấy trăm năm sau này, nam nhân có lắm người vẫn tin thờ vào nó. Có điều, thứ đạo lý này lại chỉ đặt ra dành riêng cho phụ nữ.

Mã Liên Nhi cười nhạt:

– Chu Hy ư? Lão ta mở miệng ra là “thiên lý”, ngậm miệng lại thì “đạo học”, nhưng lại đi dụ dỗ hai ni cô làm sủng thiếp, cả nàng dâu góa cũng bị lão đùa bỡn trong tay. Thật đúng là chuẩn mực của đạo đức, là tấm gương của kẻ đọc sách. Rõ nực cười!

Dương Lăng chỉ biết lễ giáo đại phòng (chuẩn mực lễ giáo) là được phát triển mạnh xuất phát từ Chu Hy nhà Tống, kể từ đó nữ nhân tuẫn tiết mới mọc ùn ùn lên như nấm, chứ đâu biết Chu Hy còn có những chuyện “phong lưu” như vậy.

Hắn đành gượng cười:

– Trong cái thế giới này tiếng nói của nam nhân mới có trọng lượng, thế nên yêu cầu về đạo học đối với nam và nữ có sự khác nhau cũng không có gì là lạ. Ví như nam nhân bị sỉ nhục đến tôn nghiêm, khi đó cứ nếm mật nằm gai, nhẫn nhục chịu đựng miễn sao tương lai hắn báo thù được thì sẽ nở mày nở mặt. Không ai cần quan tâm hắn đã từng vô sỉ như thế nào, cho dù hắn có chủ động nịnh hót liếm gót ai. Còn nữ nhân ư, có bị cưỡng bách đến thất tiết cũng đã là tội không thể tha!

Mã Liên Nhi bất chợt quay đầu, ánh mắt như hai vì sao lấp lánh kinh ngạc nhìn Dương Lăng. Một lúc sau nàng mới nói:

– Nam nhân thời nay, đặc biệt là những kẻ đọc sách, có thể nói ra được những lời này thì huynh chính là người đầu tiên mà ta biết. Ta thật nghĩ không ra huynh tuổi còn trẻ, lại đọc những thứ “sách thánh hiền” đó đã lâu, thế mà lại có kiến thức như vậy. Đáng tiếc … thật sự đáng tiếc …

Dương Lăng không kìm được hỏi:

– Đáng tiếc gì?

Mã Liên Nhi quay đầu đi, cất giọng xa xăm:

– Hoàn quân minh châu song lệ thùy, hận bất tương phùng vị giá thì (7) … (Trả ngọc chàng, lệ như mưa. Hận không gặp gỡ khi chưa có chồng.)

Dương Lăng nghe mà trống ngực đập thình thịch, không khí giữa hai người bất chợt trở nên trầm lặng. Sau một hồi lâu y mới cố nặn ra một nụ cười, buông một câu nói đùa để xoa dịu bầu không khí:

– Mặc dầu chúng ta nhờ viên minh châu kia mà có duyên gặp gỡ, nhưng ta chưa hề tặng minh châu cho cô, xin tiểu thư chớ nên nhầm lẫn!

Mã Liên Nhi phì cười một tiếng, xoay đầu trừng ánh mắt quyến rũ liếc y, rồi mím môi, đỏ mặt lấy can đảm nói:

– Đó là do huynh không có phúc khí!

Nhìn ánh đèn rọi xuống sống mũi cao cao của y, trống lòng Mã Liên Nhi chợt đập rộn lên. Nàng lại quay đầu đi, chỉ cảm thấy có một cảm giác diệu kỳ lan tỏa ra giữa hai người.

Khẽ quẹt vệt nước mắt lạnh ngắt trên má, nàng nói:

– Ai đối xử tốt với ta thì ta sẽ đối xử tốt lại với người đó. Từ sau khi mẹ mất đi, Mã Liên Nhi ta cảm thấy trên đời này không có một nam nhân nào đáng để nữ nhân chúng ta phải hy sinh nhiều đến như vậy. Ta sẽ không làm những chuyện ngu xuẩn như ả tiết phụ trên sân khấu ấy đã làm đâu. Ta sẽ sống tốt vì bản thân mình!

Dương Lăng đắm say trong cái thần thái mỹ lệ kết hợp với sự tự tin và dũng cảm của nàng, mãi một lúc sau mới khẽ thở dài:

– Cô được sinh ra quá sớm, đáng lẽ phải sinh trễ hơn năm trăm năm, thật đấy!

Mã Liên Nhi trợn tròn cặp mắt xinh đẹp, lấy làm lạ hỏi:

– Huynh không cảm thấy những lời ta nói là đại nghịch bất đạo, kinh hãi thế tục sao? Nói như vậy chẳng lẽ năm trăm năm sau thì sẽ không có chuyện đó nữa hả?

Dương Lăng trong lòng chợt hoảng, vội cười ha hả nói:

– Ta chỉ nghĩ có lẽ lúc đó sẽ có một bộ phận nam giới coi nữ nhân là một thực thể độc lập mà đòi hỏi bình đẳng cho bọn họ. Ha ha, cũng chỉ là suy đoán lung tung, xúc động bộc phát mà thôi.

Mã Liên Nhi khẽ cười, thò tay vào trong ngực lấy ra một chiếc túi, bước lên mấy bước đặt vào trong tay Dương Lăng, nói:

– Ta có thể thấy phu nhân của huynh rất yêu thương huynh. Viên minh châu này hãy coi là lễ vật ta tặng cho hai người. Chỉ mong huynh hãy đối đãi vợ mình thật tốt, chớ có xử tệ với cô ấy.

Chiếc túi ở trong tay hắn vẫn còn vương chút hương thơm và hơi ấm của thân thể nàng. Mã Liên Nhi thấy hắn cứ đứng ngây ra liền cười khúc khích, vén tóc lên rồi nói:

– Đi thôi, chúng ta quay lại thôi. Ta chỉ là thương tâm chứ không hề có oán giận. Chuyện này dù sao có nói cũng chẳng nói rõ ra được. Nỗi lòng nữ nhân, nam nhân các huynh có mấy ai mà hiểu được chứ?

Liếc qua khóe mắt phát hiện thấy Hoàng huyện thừa đã chạy theo ra đến nơi, nàng vội rút tay lại rồi bước trở vào.

Mãi một lúc sau Dương Lăng mới tỉnh ra, xoay người đi theo. Hắn thấy Huyện thừa Hoàng Kỳ Dận đang cười với mình đầy thâm ý, đưa tay ra dấu mời vào. Hắn cũng khẽ cười, chắp tay đáp lại. Hai người không nói lời nào nhưng lại như thân thiết vô cùng.

—————————–

Chú thích:

(1) Quan Phán Phán: còn có tên là Quan Miến Miến, là một danh kỹ đất Từ Châu đời nhà Đường,khoảng niên hiệu Trinh Nguyên và Nguyên Hòa (785—820), được Thượng Thư Trương Kiến Phong nạp làm thiếp – ND

(2) Trương Âm, tên thật là Trương Kiến Phong, Thượng thư nhà Đường. Năm Trinh Nguyên thứ 15 , làm Tiết Độ Sứ ở Vũ Ninh, trấn Thủ Từ Châu – ND

(3) Giang Châu Tư Mã tức Bạch Cư Dị (772-846), tự là Lạc Thiên (樂天), hiệu là Hương Sơn cư sĩ là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, nhóm quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm tư mã ở Giang Châu. Giai đoạn từ năm 821 tới năm 824 làm thứ sử Hàng Châu, năm 825 làm thứ sử Tô Châu, sau được triệu về kinh làm Thái Tử thiếu phó. Năm Hội Xương thứ 2 (842) về hưu với hàm thượng thư bộ Hình, sau mất tại Hương Sơn, Lạc Dương. (ND trích Wikipedia)

(4) Câu chuyện này có sự tích như sau: Bạch Cư Dị lúc còn làm Hiệu thư lang, tới vùng Hoài Tứ, được Trương thượng thư (tức Trương Kiến Phong) mời ăn tiệc. Lúc rượu say, Thượng thư gọi Miến Miến (Quan Phán Phán) ra ca múa giúp vui. Mười hai năm sau, nghe tin Trương thượng thư đã chết, phủ đệ cũ ở Bành Thành có một ngôi lầu nhỏ gọi là Yến Tử lâu. Miến Miến nhớ lòng yêu dấu của Thượng thư ngày trước nên không lấy chồng, về ở lầu ấy hơn mười năm. Ông (Bạch Cư Dị) tặng nàng một bài thơ tứ tuyệt:

Hoàng kim bất tích mãi nga my,

Giản đắc như hoa chỉ nhất chi.

Ca vũ giáo thành tâm lực tận,

Nhất triêu thân tử bất tương tuỳ

Dịch nghĩa :

Không tiếc vàng, bỏ ra mua gái mày ngài,

Chọn được ba bốn cô nàng đẹp như hoa.

Dạy cho họ biết hát múa, hơi sức ông kiệt quệ,

Một sớm đem thân ra đi, chẳng cô nào theo!

Dịch thơ :

Mua gái mày xanh chẳng tiếc vàng,

Như hoa khéo chọn mấy cô nàng.

Dạy cho múa hát bao công sức,

Một sớm về âm chẳng kẻ màng!

Miến Miến đọc đi đọc lại, khóc nói “Từ khi Trương công mất, thiếp không phải không dám chết, nhưng lại sợ trăm năm sau, người đời cho rằng công chuộng sắc đẹp nên có thê thiếp chết theo, lại làm nhơ đức tốt của công, đành gượng mà thôi”. Bèn làm bài họa lại Bạch công như sau:

Độc túc không lâu liễm hận my,

Thân như xuân hậu trí tàn chi.

Xá nhân bất giải nhân thâm ý,

Phúng đạo tuyền đài bất khứ tuỳ.

Dịch:

Ở chốn lầu hoang héo mặt mày

Sau Xuân thân khác tựa cành cây

Hiềm vì chẳng kẻ tri âm hiểu

Trách chẳng cùng theo xuống dạ đài

Rồi nàng nhịn ăn uống, mười ngày sau thì chết.

(5) Chu Hy (朱熹, 1130-1200) là một nhà tư tưởng nổi tiếng nhất đời Tống. Sự tổng hợp tư tưởng Khổng giáo với Phật giáo và Đạo giáo (道教) của ông cùng với các tư tưởng khác đã trở thành hệ tư tưởng chính thức của triều đình từ cuối thời nhà Tống tới cuối thế kỷ 19. Vì được kết hợp với khoa cử (科舉), triết lý Chu Hy liên quan tới tín điều chính thức cứng nhắc, bắt buộc sự tuân phục mù quáng từ một phía của dân chúng đối với nhà cai trị, con với cha, vợ với chồng, em với anh. Hậu quả làm kìm hãm sự phát triển xã hội của nước Trung Hoa tiền hiện đại, dẫn tới sự phát triển chậm chạp của nhiều thế hệ chính trị xã hội và sự ổn định tư tưởng dẫn tới sự trì trệ văn hoá cho tới tận thế kỷ 19. Học thuyết lý học Khổng giáo mới cũng đóng vai trò quyết định trong đời sống trí thức tại Triều Tiên, Việt Nam, và Nhật Bản. (ND sưu tầm)

(6) Lưu An là một nhân vật trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Truyện kể lúc Tiểu Bái bị Lữ Bố chiếm cứ, Lưu An đã thu nhận và giúp đỡ Lưu Bị đang lánh nạn. Vì trong nhà không có gì ăn nên đã giết vợ làm thức ăn cho Lưu Bị.

(7) Hai câu thơ nổi tiếng này được trích trong bài “Tiết phụ ngâm”, được viết bởi Trương Tịch, hàm ý cự tuyệt yêu cầu kết thông của tư đồ Lý Đạo Sư, về sau thường được nhiều người trích dẫn nhằm từ chối mối thâm tình của một người dành cho mình. Bài thơ như sau:

Quân tri thiếp hữu phu,

Tặng thiếp song minh châu

Cảm quân triền miên ý

Hệ tại hồng la nhu.

Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,

Lương nhân chấp kích Minh – Quang lý

Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt;

Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử.

Hoàn quân minh châu song lệ thùy,

Hận bất tương phùng vị giá thì.

Bản dịch của Ngô Tất Tố:

Chàng hay em có chồng rồi

Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành

Vấn vương những mối cảm tình

Em đeo trong áo lót mình màu sen

Nhà em vườn ngự kề bên

Chồng em chấp kích trong đền Minh – Quang

Như gương, vâng biết lòng chàng

Thờ chồng quyết chẳng phụ phàng nghĩa xưa

Trả ngọc chàng, lệ như mưa

Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.

Chương 15 : Hiểu lầm viên trân châu

Dù Mã Liên Nhi đã quay lại, nhưng vì chuyện lúc nãy nên bầu không khí cũng có căng thẳng hơn. Mẫn đại nhân và Mã dịch thừa không còn hứng thú tán gẫu nữa, chuyển sang bàn chuyện công vụ. Hoàng huyện thừa ngồi bên chỉ mỉm cười lắng nghe, họa hoằn lắm mới chêm lời vào.

Dương Lăng là thuộc hạ, cũng là vãn bối nên đương nhiên phải đảm trách việc mời rượu và giữ cho bầu không khí vui vẻ, khó tránh khỏi uống nhiều, mãi đến khuya mới cáo từ ra về.

Tuyết lại lất phất rơi, cơn gió lạnh cuốn theo những bông tuyết lùa vào cổ áo. Dương Lăng đã uống đến mặt nóng phừng phừng, đầu óc chuếnh choáng. Giấu hai tay vào trong ống tay áo, y khẽ ngâm nga một ca khúc hiện đại đã quên mất tựa, khoan thai rẽ bước vào con hẻm nhà mình.

Về đến nhà, y định gõ cửa, nào ngờ vừa đưa tay lên khẽ đẩy thì cánh cửa đã mở ra rồi. Trong nhà le lói ánh đèn, Hàn Ấu Nương đang ngồi chống cằm trước chiếc bàn thấp, có vẻ rất buồn ngủ. Vừa nghe thấy tiếng động nàng liền ngẩng đầu nhìn, thấy y bước vào thì hết sức vui mừng đứng dậy đón.

Dương Lăng ngạc nhiên nhìn nàng:

– Ấu Nương, trễ như vầy ta tưởng nàng … ngủ rồi.

Y lướt nhìn quanh, thấy dưới bếp lò vẫn còn chút tro lửa lập lòe, hơi nước vẫn nhẹ bốc lên trên nắp nồi. Hàn Ấu Nương bước tới giúp y phủi tuyết trên người, khẽ nói: “Công việc của tướng công bận quá thì phải? Ấu Nương định đến nha môn hỏi thăm, nhưng lại sợ người ta cười nên đành ngồi nhà đợi chàng về.”

Dương Lăng nghe thế thì cảm thấy rất xấu hổ, ấp úng giải thích: “À … Mẫn đại nhân hẹn ta cùng đi dự tiệc, đi gấp quá nên không kịp báo cho nàng một tiếng. Cô bé ngốc, làm gì mà đợi lâu như vậy, đi nghỉ luôn đi có phải tốt hơn không. Nàng … ăn cơm chưa?”

Hàn Ấu Nương ngửi thấy miệng Dương Lăng nồng nặc mùi rượu, cũng biết là y đã đi chè chén tiệc tùng, nhưng nghe giải thích xong nàng mới thấy nhẹ nhõm. Dìu Dương Lăng đến đầu giường, để y ngồi xuống, rồi nàng cúi người giúp y cởi giày, phủi tuyết dính trên đó, còn đem hơ bên bếp lò. Sau đó nàng lại đi rót một bát nước đem đến cho y:

– Tướng công, nước ấm đấy, chàng uống một chút cho thấm cổ. Hầu hạ cho tướng công ngủ xong Ấu Nương sẽ đi ăn.

Dương Lăng nghe vậy, lại nhớ đến vở kịch đã xem tối nay, không cầm được lòng mà nắm lấy tay nàng, thở dài nói:

– Ấu Nương à, nàng là nương tử của ta chứ không phải là nô bộc, nàng không nên hầu hạ ta thế này. Ài, nàng còn nhỏ, lại đáng yêu như vậy, phải được thương yêu cưng chiều mới đúng.

Nghe y nói thế, khuôn mặt Hàn Ấu Nương thoáng ửng đỏ. Thẹn thùng rút tay lại nhưng không được, nàng đành để yên cho y nắm, giọng cảm động:

– Tướng công rất … rất …

Chữ “yêu” ngượng ngùng không thốt lên được, nàng chỉ dám nói:

– Tướng công đối xử với thiếp rất tốt, mà nữ tử bọn thiếp vốn nên hết lòng hết sức hầu hạ cho phu quân của mình, có quan hệ gì với nô tì đâu chứ? Tướng công thương Ấu Nương, Ấu Nương biết rất rõ, nhưng tướng công không nên quá cưng chiều thiếp, sẽ làm hư thiếp đó.

Dương Lăng không khỏi bật cười. Thời này là vậy, mình cứ gắng gượng truyền bá lại những quan niệm của thế kỷ thứ hai mươi mốt chỉ sợ sẽ làm cho nàng sợ thêm. Mấy thứ như lễ giáo đại phòng (chuẩn mực của lễ giáo), phu vi thê cương (vợ phải nghe chồng) là thứ nam nhân dùng để đầu độc nữ tử, nhưng trăm ngàn năm nay, nữ nhân không những tự giác phục tùng những quan niệm này, mà còn cho rằng nó là lẽ đương nhiên, thậm chí còn đề cao nó lên.

“Nữ Giới,” “Nữ Huấn” gì gì đó đại đa số là được viết bởi nữ nhân, lấy chúng làm chuẩn mực cho nữ nhân trong thiên hạ. Người bươn chải ra ngoài tìm việc làm ở hàng may như Ấu Nương đã là cực hiếm rồi, phụ nữ thời này phần đông chỉ ở nhà phụ chồng dạy con. Nếu cấm nàng hầu hạ phu quân, chẵng lẽ muốn nàng xây dựng sự nghiệp cho bản thân sao? Nghĩ như vậy làm Dương Lăng cảm thấy thoải mái hơn khi tận hưởng sự dịu dàng hầu hạ của nàng.

Thấy Dương Lăng ngáp mấy cái, cặp mắt lờ đờ, Hàn Ấu Nương vội giúp y cởi áo ngoài, bảo:

– Tướng công, chàng hãy cởi áo rồi đi nghỉ trước đi!

Dương Lăng buồn ngủ ừm một tiếng, nương theo tay nàng cởi bỏ áo ngoài, sau đó kéo gối lại xoay mình nằm xuống ngủ, miệng lẩm bẩm:

– Thật không thức nổi nữa rồi. Nàng hãy mau ăn cơm rồi cũng ngủ đi nhé!

Hàn Ấu Nương vâng một tiếng, cầm lấy cổ áo giũ giũ để xếp lại. Chợt nghe “cạch” một tiếng, từ trong áo rơi ra một vật, Hàn Ấu Nương hiếu kỳ nhặt lên xem. Dưới ánh đèn dầu, nàng thấy rõ đó là một chiếc túi thơm tinh xảo, kiểu dáng dành cho nữ, chẳng những được may tinh tế bằng chất liệu cao cấp, mà còn thoang thoảng mùi thơm. Khuôn mặt nàng tái hẳn đi.

Tay nàng run ghê gớm, muốn mở nó ra xem, nhưng đồng thời cũng chẳng muốn biết, vậy có thể lừa mình lừa người mà coi như chuyện này chưa từng xảy ra. Do dự một hồi lâu, cuối cùng nàng không kềm nổi sự tò mò, nhẹ nhàng mở chiếc túi, lấy từ bên trong ra một hạt trân châu óng ánh bóng loáng.

Dưới ánh đèn phản chiếu, màu sắc viên trân châu đẹp đẽ vô cùng. Hàn Ấu Nương không khỏi tròn xoe mắt, bụng bảo dạ: “Đẹp quá, nó chính là trân châu mà người ta thường nói đến sao? Tướng công làm thế nào mà có vật này, còn được đựng trong túi thơm của nữ nhân nữa. Chàng … chàng có nữ nhân khác ở bên ngoài rồi sao?”

Vừa nghĩ đến khả năng duy nhất này, Hàn Ấu Nương cảm thấy đau đớn không thôi. Thảo nào khỏi bệnh rồi mà phu quân vẫn chưa thực hiện cái “lễ vợ chồng” với mình. Lúc sắp xuất giá, bà thím có dạy qua cho mình, nói là phu thê phải … phải làm chuyện ấy thì mới trở thành phu thê. Chiếc khăn trắng thím ấy đưa cho mình để nghiệm hồng (kiểm tra máu trinh) vẫn còn cất trong rương.

Lòng nàng hoảng loạn: “Chẵng lẽ phu quân không chỉ phong lưu bên ngoài mà còn muốn … kiếm cớ đuổi mình, thế nên mới không gần gũi mình sao? Nhìn cái túi thơm và viên châu bảo này cũng biết nữ tử đó gia cảnh nhất định chẳng phải tầm thường, nếu như phu quân yêu mến ả, hẳn sẽ không nạp về làm thiếp. Mình cứ nghĩ vì chàng mới khỏi bệnh nên không thích thú chuyện ấy, mình là con gái, chàng đã không đề cập đến thì dĩ nhiên mình chẳng thể mở miệng được. Nào ngờ chàng lại … lại …”

Dương Lăng mơ mơ màng màng kéo chăn đắp, khó chịu vì đi ngủ mang vớ dài không được thoải mái. Y cởi vớ ra, vất chúng sang một bên thì phát hiện thấy vẫn còn ánh đèn lập loè. Tình cờ ngoảnh đầu lại, y thấy Hàn Ấu Nương đang ngồi bên mép giường, lưng quay về phía mình, bờ vai yếu mềm đang run lên từng chập, còn thoáng nghe có tiếng thút thít.

Tình cảnh này khiến cho men rượu trong người Dương Lăng vơi hết mấy phần. Y vội vàng trở mình ngồi dậy, xoay vai Hàn Ấu Nương lại thì thấy nước mắt long lanh như ngọc rơi từng hàng trên khuôn mặt nhỏ nhắn của nàng. Tiếng nức nở rất thương tâm làm y vội dịch sát đến, ôm chặt lấy bờ eo mảnh mai của nàng, xót xa thốt lên:

– Ấu Nương, sao nàng lại như thế này? Nàng có chuyện gì mà đau lòng đến vậy?

Hàn Ấu Nương vội lau nước mắt, ngoảnh mặt đi khẽ nói:

– Có phải tướng công hiềm Ấu Nương hầu hạ không chu đáo nên muốn … muốn ruồng bỏ Ấu Nương phải không?

Dương Lăng thấy nàng khóc rất tội nghiệp, tim y cũng cảm thấy đau nhói, vội phân trần:

– Ấu Nương, sao nàng lại nói thế? Những ngày nàng theo ta phải chịu đựng biết bao cực khổ, vậy mà chẳng oán trách gì. Điều ấy Dương Lăng ghi khắc trong tim, sao có thể làm những chuyện như thế chứ?

Hàn Ấu Nương xòe bàn tay ra, u uất nói:

– Tướng công, nếu không phải như vậy, hạt châu này từ đâu mà có? Chàng … chàng đừng dối thiếp nữa!

Nhìn viên trân châu, Dương Lăng mới giật mình hiểu ra. Y cười ha hả, ôm chặt lấy bờ vai mảnh khảnh của Ấu Nương, nhưng nàng cứ khăng khăng vùng ra. Từ nhỏ nàng đã luyện võ công, nếu lúc này thật sự muốn phản kháng, Dương Lăng chắc chắn sẽ không giữ được nàng.

Từ lúc Dương Lăng gặp nàng đến nay, nàng vẫn luôn hết mực nhu mì, chẳng hề có chút nào không vâng lời, tính cách thật không như một nữ tử hoạt bát sống động. Giờ nàng bộc lộ chút dỗi hờn, y lại cảm thấy hết sức thú vị, mặt dày ôm lấy vai nàng một lần nữa. Hàn Ấu Nương vùng vằng mấy cái, Dương Lăng càng ôm chặt thêm, Hàn Ấu Nương liền thôi không dùng sức nữa, chỉ quẫy vai lấy lệ, quay đầu không nhìn mặt y.

Dương Lăng nhón lấy viên trân châu, cười ha hả:

– Ấu Nương, viên trân châu này có đẹp không? Sắp đến Tết rồi, để ta tìm thợ xuyên sợi dây qua cho nàng đeo cổ có được không nào?

Hàn Ấu Nương quay đầu lại, kinh ngạc hỏi:

– Hạt châu này … là cho thiếp ư?

Dương Lăng nháy nháy mắt, vờ làm ra vẻ kì quái hỏi:

– Không cho nàng chẵng lẽ cho ta? Nàng có thấy nam nhân nào đeo cái thứ này chưa?

Hàn Ấu Nương đỏ lựng cả mặt, nhưng nhớ đến chiếc túi thơm, vẫn không nhịn được bèn ấp úng hỏi:

– Nhưng mà … nhưng mà chiếc túi thơm này … tướng công, không phải chàng đã có nữ nhân ở bên ngoài chứ?

Dương Lăng giật thót người, nhớ lại khuôn mặt xinh xắn của Mã Liên Nhi. Mặc dù hai người không có tư tình gì bí mật, nhưng Mã Liên Nhi rất có tình ý đối với y, và y thật ra cũng rất thích cô gái xinh đẹp ấy. Trong lòng hơi hoảng nên y kéo chiếc áo ở phía mép giường lại, lục lọi bên trong lớp áo kép một hồi rồi lấy ra mấy đĩnh bạc trắng, bảo:

– Ồ … nàng nói đến cái này à. Ta uống nhiều rượu, chỉ muốn đi ngủ cho nên vẫn chưa kịp nói với nàng. Thực ra hôm nay Mã dịch thừa vì được ta giúp đỡ xử lý vụ kiện nên đã mời Mẫn đại nhân và ta đi uống rượu. Trong bữa tiệc ông ấy có biếu ta bốn mươi lạng bạc để cảm ơn. Cái túi thơm và viên trân châu là lễ vật mà Mã tiểu thư, người đã tới nhà chúng ta ngày hôm đó, tặng riêng cho nàng. Nàng chớ có hiểu lầm!

Hàn Ấu Nương trước giờ nào đã thấy đĩnh bạc lớn như vậy: bốn mươi lạng bạc chất lượng thượng hạng, đó quả là một con số khổng lồ. Nàng tròn xoe mắt kinh ngạc thốt lên:

– Trời ạ, tướng công chẳng qua chỉ nghĩ giúp cách cho ông ta thôi mà đã được tạ lễ nhiều như vậy sao?

Dương Lăng nhét ngân lượng vào tay nàng, cười nói:

– Nương tử hãy cất đi! Giờ thì yên tâm, không còn buồn phiền gì nữa rồi nhé!

Đĩnh bạc trong tay lạnh ngắt, nặng trĩu. Hàn Ấu Nương bị y trêu đến đỏ cả mặt. Nàng cắn môi, con tim hoảng loạn đã yên ổn lại đến tám phần. Nàng nghĩ bụng, giờ trượng phu vẫn còn say, ngày mai chưa chắc còn nhớ chuyện đêm nay. Có vài chuyện sao mình không nhân tiện hỏi luôn một lần cho rõ ràng, cũng để lòng khỏi phải lúc nào cũng thấp thỏm không yên. Chủ ý đã định, nàng chợt đặt bạc xuống, đưa ống tay áo lên che mặt, ngượng ngùng nói:

– Ấu Nương … Ấu Nương có một câu muốn hỏi tướng công, xin tướng công chớ chê cười thiếp!

Dương Lăng lấy làm lạ, hỏi:

– Chuyện gì vậy? Được rồi, hôm nay Ấu Nương đại nhân cứ thăng đường xét hỏi, Dương mỗ đây biết thì sẽ nói, nói sẽ nói hết. Đại nhân xin cứ hỏi đi!

Chương 16 : Lời bịa đặt đáng yêu

Hàn Ấu Nương nghe xong cảm thấy buồn cười, nhưng những lời muốn hỏi thì lại xấu hổ chết đi được. Nàng ngập ngừng một lúc lâu, đến khi không nhịn nổi nữa thì mới mở miệng lí nhí hỏi:

– Tướng công, thiếp. . . được gả vào nhà họ Dương đến nay đã gần được một năm. Tướng công vốn. . . vốn dĩ mang bệnh trên người, nên thiếp cũng không thể nói ra, nhưng mà. . .

Đến đây nàng lại bắt đầu quanh co:

– Nhưng mà. . . đến bây giờ. . . vì sao tướng công vẫn không cùng thiếp thực hiện thủ tục của đạo phu thê?

Dương Lăng hốt hoảng trong lòng: “Đến rồi đây, rốt cuộc nha đầu này cũng đã hỏi. Ha! Không phải là nàng ta hoài nghi thân thể mình có bệnh tật gì đấy chứ?”

Ài, đừng nói cô bé này còn nhỏ tuổi, Dương Lăng không phải là không có cảm giác với nàng ấy, nhưng là một người của thời hiện đại, thủy chung y không thể nhẫn tâm chiếm đoạt tấm thân hãy còn non nớt của nàng. Huống chi y còn mang máng nhớ rằng mình chết thường xuyên như cơm bữa, trong mấy lần chuyển thế trước chưa có lần nào sống quá hai tháng. Còn lần này thì …. có lẽ cũng được một tháng rồi.

Nghĩ đến đây, y không khỏi cảm thấy hơi chán nản. Mặc dù cuộc sống gia đình trong tám lần chuyển thế trước tốt hơn bây giờ rất rất nhiều, nhưng y lại thích cái cuộc sống giản dị an nhàn này và có phần yêu mến cô bé trẻ tuổi này. Có điều . . . không thể được. Nếu xâm hại nàng ấy xong, sau đó y lại bỏ mạng nữa thì chẳng phải là hại người ta rồi sao?

Giữ lại tấm thân trinh trắng cho nàng, tuy vẫn xem như là người đàn bà đã có chồng, nhưng trong tương lai nếu có đi bước nữa, vị hôn phu mới thấy nàng vẫn còn là xử nữ thì chắc hẳn sẽ đối xử với nàng tốt hơn một chút. Vả lại, nếu thực sự chiếm hữu nàng thì không khéo lại phát sinh tình cảm sâu đậm với nàng, đến lúc phải chết liệu y còn có thể ra đi thanh thản được không? Chẳng lẽ không cảm thấy đau lòng sao?

Y khẽ thở dài, nhẹ nhàng ôm lấy eo nàng, ghé miệng vào tai nói ra lý do mà y đã nghĩ ra để ứng phó trước đó:

– Ấu Nương, chuyện này ta chưa từng nói với một ai. Giờ ta kể cho nàng nghe, nàng ngàn vạn lần chớ nên nói ra ngoài, được chứ?

Hàn Ấu Nương bị y ôm lấy eo, đặt tay lên bụng của mình, nàng vốn đã căng thẳng đến phát run cả người; giờ lại bị y thì thầm vào tai, hơi ấm phả lên má, chỉ cảm thấy toàn thân như có kiến bò. Nàng run giọng nói:

– Tướng công có điều gì xin cứ nói ra. Ấu Nương. . . Ấu Nương quyết không nói cho bất cứ người nào đâu.

Dương Lăng ừm một tiếng, rồi chợt hỏi:

– Ấu Nương, nàng nói xem. . . con người sau khi chết sẽ đi về đâu ?

– Hả?

Hàn Ấu Nương ngẩn người, không nghĩ đến phu quân lại hỏi tới chuyện này. Nàng thản nhiên đáp:

– Con người chết đi, dĩ nhiên là sẽ phải xuống âm tào địa phủ, dựa vào âm đức tích được ở tiền thế mà sẽ tái nhập luân hồi.

Dương Lăng nói:

– Đúng vậy. Ấu Nương, ngày trước các thầy lang đều nói rằng ta đã chết, đặt vào trong quan tài một ngày, nhưng lại đột nhiên tỉnh dậy. Mọi người tưởng ta vì tắc đờm mà hôn mê, nhưng thật ra. . . linh hồn của ta đã bị Ngưu Đầu Mã Diện lôi đi rồi.

– Á!

Hàn Ấu Nương sợ đến nhảy dựng lên, vùng mạnh ra khỏi người y. Nàng quay lại tròn mắt nhìn y chằm chằm. Mặc dù người ở thời đại này tin rằng tồn tại một nơi gọi là Địa Ngục, nhưng suy cho cùng thì vẫn chưa có ai từng thấy qua, cho nên cảm thấy nó hết sức thần bí. Vậy mà bây giờ trượng phu của mình đã đi vào âm tào địa phủ, rồi lại cải tử hồi sinh, thật sự khiến cho người ta vừa cảm thấy kinh ngạc không nói nên lời, lại vừa có chút tò mò.

Dương Lăng trịnh trọng nói:

– Đáng lẽ ta đã bị phán quyết vào vòng luân hồi rồi, nhưng lúc ấy ta phát hiện ra vị thành hoàng ở đây không ngờ lại là ân sư tại cuộc thi tú tài. Phẩm hạnh cũng như học vấn của lão nhân gia hơn người, nên sau khi tạ thế đã trở thành vị thần của cõi âm, được bổ nhiệm làm thành hoàng của vùng này.

– Ồ, hóa ra người làm nhiều việc tốt ở trên nhân gian, sau khi chết đi thì có thể xuống âm phủ làm quan à?

Hàn Ấu Nương rất kinh ngạc, sớm đã gạt bỏ sự sợ hãi khi thấy trượng phu chết rồi mà vẫn có thể hoàn hồn trở lại, nàng không nhịn được tò mò hỏi.

Dương Lăng cười thầm trong bụng, gật đầu nói:

– Đúng vậy, ân sư vừa thấy liền mang trà mang rượu ra mời ta uống, nói là muốn đưa ta đầu thai vào một gia đình giàu có. Đúng vào lúc đó, ta cảm ứng được nàng đang bị trưởng bối gia tộc của ta hiếp đáp ở dương gian, trong lòng vô cùng tức giận. Ân sư vốn rất coi trọng ta, thấy cảnh đó liền thi triển thần thông để kéo dài tính mạng cho ta, đưa ta hoàn hồn trở lại, nhưng. . . trong vòng hai năm không được thân cận nữ sắc, bằng không pháp thuật sẽ lập tức mất linh.

Mấy câu nhảm nhí này không ngờ lại khiến Hàn Ấu Nương tin sái cổ. Nàng ngẫm nghĩ, đáng ra trượng phu được đầu thai vào một gia đình tốt để hưởng phúc, nhưng vì nàng mà trở lại dương gian, vậy mà mình còn nghi ngờ này nọ, cho nên trong lòng cảm thấy áy náy mãi không thôi.

Để tăng thêm tính chân thật cho lời nói của mình, Dương Lăng còn làm bộ than thở:

– Ôi, đây vốn. . . là thiên cơ, không thể kể cho ai biết được, nhưng ta sao nỡ để cho nàng thương tâm như vậy? Hôm nay nói cho nàng nghe, ta sẽ không thể tránh khỏi phải mất ba năm dương thọ rồi.

Hàn Ấu Nương nghe xong khóc oà lên. Mình thật là đáng chết, sao đang yên lành lại ép trượng phu tiết lộ thiên cơ làm chi, để bây giờ chàng bị giảm mất ba năm tuổi thọ, hoàn toàn đều là do mình hại cả. Nghĩ đến đây, Hàn Ấu Nương lòng đau như cắt, hối hận đến độ chỉ muốn đánh chết bản thân thì mới cam tâm. Nàng ôm chặt lấy y, bi thương nức nở không dứt, luôn miệng nói:

– Thiếp xin lỗi, thiếp xin lỗi. Phu quân, đều là do Ấu Nương không tốt. Trời ơi, thiếp thật đáng chết, vì thiếp nên chàng đã vứt bỏ chuyển thế vào vinh hoa phú quý, lựa chọn quay trở lại nhân gian. Vậy mà thiếp lại hại chàng đến nỗi. . . Hu hu hu. . . Thiếp thật là đáng chết!

Dương Lăng nói dối hết câu này đến câu khác xong, trong lòng liền cảm thấy áy náy không ngớt, hận không thể vả vào miệng mình một cái thật mạnh.

“Mày nói mày là cái thá gì chứ. Nói dối không đụng vào thân thể cô ấy vốn để tốt cho cô ấy. Theo thường lệ thì mày chắc sẽ không sống quá hai tháng, đến lúc đó lại chết đi. Chết rồi là hết, cớ sao lại nói cái gì mà lo lắng cho cô ấy nên mới quay lại nhân gian, rồi vì cô ấy mà bị giảm đi dương thọ. Tại sao lại nói những lời như vậy? Chẳng nhẽ mày còn muốn khiến cho cô ấy không thể xa rời mày hay sao?”

“Nhưng mà. . . tại sao thấy cô ấy coi trọng mày, không ngớt vì mày mà phải đau khổ khóc như vậy, mày lại có một cảm giác thích thú không giải thích được thế này. Mày kém cỏi và ích kỷ đến vậy sao? Vốn là mong còn chẳng được cô bé đáng yêu ấy sẽ chỉ chung tình với mày, nhưng vô hình chung những lời nói dối này lại khiến cô ấy cảm thấy phải mang ơn, thật là vô sỉ mà.”

Y vội vàng tìm cách bù đắp cho nàng, cuống quýt nói:

– Ấu Nương, chớ nên đau lòng nữa. Ân sư nói ta có thể sống đến trăm tuổi mà. Bây giờ chẳng qua chỉ còn sống đến chín mươi bẩy tuổi thôi, cũng coi như sống dai hiếm thấy rồi, có gì mà phải đau lòng chứ? Thế nhưng. . . nếu như ta chết sớm, thì đó là do chuyện thành hoàng làm phép kéo dài tính mạng cho ta đã bị phán quan ở địa phủ phát hiện, vì vậy câu hồn ta về để sớm đưa đi đầu thai mà thôi. Cho nên. . . nếu như có ngày đó, nàng cũng chớ nên đau lòng. Nhờ công đức ở tiền thế, ta vẫn sẽ được hưởng phúc. Nhưng nếu nàng vì ta mà cực khổ thủ tiết, như vậy sẽ làm giảm công đức của ta. Nàng nhất định phải chiếu cố cho bản thân thật tốt, nếu có nhà nào tốt. . .

Miệng y đã bị bàn tay của Hàn Ấu Nương nhẹ nhàng bịt lại, đôi mắt đen láy đẫm lệ chớp chớp, trông xinh đẹp vô ngần. Nàng chỉ khẽ lắc lắc đầu, thỏ thẻ nói:

– Tướng công, đừng nói những lời này nữa, Ấu Nương nghe mà hoảng sợ.

Dương Lăng thở dài:

– Thôi được rồi, sống chết có số, phú quý do trời, ta sẽ không đề cập đến chuyện đó nữa. Nhưng mà. . . nàng phải nhớ kỹ, bất luận như thế nào cũng không được làm khổ bản thân. Chỉ cần nàng được hạnh phúc, thì khi đó bất luận là sống hay chết trong lòng ta mới an tâm.

Hàn Ấu Nương gật đầu, vòng tay ôm lấy lưng y, áp gò má lên ngực y, thì thầm:

– Tướng công, tướng công. . .

Nàng ôm thật chặt lấy Dương Lăng, như thể lo sợ tướng công mất đi sống lại này sẽ lại đột nhiên biến mất. Trong thâm tâm nàng đã quyết định, phu quân đối với mình tình thâm ý nặng, nếu như chàng đột nhiên mất sớm, quá nửa là tại mình ép chàng tiết lộ thiên cơ nên mới bị âm phủ phát hiện. Vậy cũng sẽ không cần vì chàng mà thủ tiết nữa, cứ theo chàng xuống thẳng địa phủ để cầu xin kiếp sau có thể tiếp tục hầu hạ chàng là được.

Nhưng Dương Lăng lại không hề biết những suy nghĩ ở trong đầu nàng, y chỉ biết gán hết thảy mọi thứ cho thiên mệnh; còn nói chết chính là đi hưởng phúc, nếu cô ấy sống tốt thì đó là tích đức cho mình. Cuối cùng coi như y cũng đã dẹp bỏ niềm tâm sự luôn canh cánh trong lòng về “người vợ góa tương lai”, nhưng nào biết rằng y đã sớm bị âm tào địa phủ liệt vào danh sách những thành phần “cấm lai vãng” rồi. Muốn chết ư? Đâu có chuyện dễ dàng như vậy.

Dương Lăng xoa nhẹ tấm lưng nàng. Hình ảnh của cô bé thuỳ mị đáng yêu này càng lúc càng khắc sâu trong lòng y. Một thứ cảm giác tựa như thân tình, lại tựa như ái tình đang dần dần nảy sinh giữa bọn họ. Đêm khuya thanh vắng, hơi ấm từ chiếc lò sưởi đầu giường, một chút men say, một tấm thân mềm mại ôn nhu như nước đang rúc vào ngực y, tất cả khiến y cảm giác được cái mầm mống của tội ác ở dưới hạ thể đã bắt đầu nóng lòng muốn trỗi dậy.

Dương Lăng vội ho một tiếng, khẽ đẩy người nàng ra rồi nói yêu:

– Nha đầu ngốc, đừng có nghĩ ngợi lung tung nữa nghe chưa? Đến đây, cất kỹ chỗ bạc này rồi mau đi ăn cơm đi. Viên ngọc này hay là cứ để ta giữ cho, sáng mai ta lấy một sợi dây xỏ qua rồi đưa lại cho nàng sau.

– Không!

Hàn Ấu Nương đứng dậy cười thẹn thùng, thu lấy ngân lượng rồi ôm chiếc túi vào trong lòng:

– Viên ngọc này rất xinh đẹp, thật không nỡ. Xỏ lỗ qua thì tiếc lắm.

Dương Lăng thấy nàng cười thẹn lộ ra một nét biểu cảm rung động lòng người, nhất thời y không kềm được, bèn giơ tay vỗ bốp vào mông nàng một cái, rồi cười nói:

– Ngốc ạ! Có đẹp đi chăng nữa mà không dùng, đem cất đi thì còn có tác dụng gì?

Tay vừa vỗ xuống, không ngờ bờ mông ẩn dưới lớp váy mềm đó lại to lớn tròn lẳng, cảm giác thật đàn hồi. Còn Hàn Ấu Nương, sau khi bị vỗ một cái thì “á” lên một tiếng, dưới ánh đèn chỉ thấy nàng tóc mai rối loạn, ánh mắt mơ màng. Cô bé mười lăm tuổi này trong lúc vô ý đã để lộ ra vẻ phong tình vô cùng quyến rũ, khiến cho bụng dưới của y càng thêm phát hoả.

Lo bản thân nhất thời động tình sẽ làm ra chuyện mà sau này có hối hận cũng không kịp, y liền vội xoay người nằm xuống giường, kéo tấm chăn lên thân, cố dằn cảm xúc nói:

– Được rồi, mau đi ăn cơm rồi ngủ đi.

Hàn Ấu Nương bị y vỗ vào mông một cái, cả người nóng rực, cô nàng rốt cuộc cũng rạo rực xuân tâm. Dẫu chưa từng có hành động gì quá thân thiết với phu quân, nhưng loại cử chỉ thân mật đột ngột như vậy cũng đã làm nàng vui vẻ không thôi, khiến nàng cảm thấy những việc mình làm đều đáng giá; mọi đắng cay gian khổ dường như cũng biến thành mật ngọt.

Chuyện nam nữ không ngờ lại thú vị như vậy. Nếu như phu quân chàng . . . chàng . . . Chợt nghĩ đến chuyện phu quân trong vòng hai năm sẽ không thể đụng vào nữ sắc, trong lòng Ấu Nương dường như có chút yên tâm, thế nhưng cũng cảm thấy hơi mất mát. Đợi cho vẻ ngượng ngùng trên khuôn mặt dịu đi, nàng mới cầm đèn đến trước chiếc rương ở cạnh tường, mở nắp ra rồi nhét túi ngân lượng giấu vào giữa lớp quần áo, sau đó rón rén bước ra phòng ngoài.

Chương 17 : Thuyết con ếch

Vừa bước vào phòng phê duyệt đã thấy một chồng công văn nằm đó làm Dương Lăng bất giác thở dài. Mặc dù vẫn cảm thấy đau đầu, nhưng trong lòng y không còn quá lo lắng nữa. Dựa theo “thông lệ” của mỗi lần chuyển thế, thế nào rồi y cũng sẽ chết một cách quái lạ, lần sống dai nhất không quá hai tháng, mà tính đến giờ thì y đã ở cái thế giới này được một tháng rồi.

Nghèo túng chính là điểm khác biệt lớn nhất so với các lần trước, và người con gái y nhìn thấy đầu tiên sau khi tỉnh dậy đã khóc đến lệ đẫm mặt hoa đó, lại khiến cho y xót thương biết bao nhiêu. Vì lẽ đó nên với thân phận là người hiện đại đến thời cổ, với mạng sống có hạn của mình, y chỉ mong sao có thể chu cấp một cuộc sống an nhàn, đầy đủ cho Ấu Nương mà thôi. Chẳng mang hùng tâm đại chí, cũng chẳng lòng dạ nào mơ tưởng vui vầy bên bao nhiêu mỹ nhân, chỉ sống vỏn vẹn có hai tháng, y làm sao mà chịu đựng hết được.

Bây giờ trong nhà bỗng nhiên có thêm bốn mươi lượng bạc ròng, có thể xem là một món tiền khổng lồ đối với nông dân vùng này. Để số tiền này lại cho Ấu Nương thì sau này nếu có nhắm mắt xuôi tay, y cũng ra đi thanh thản. Cho nên khi nhìn thấy chồng công văn dày cộm này, trong lòng y cũng không còn cảm thấy quá nhiều áp lực nữa.

Tâm tình không nóng vội nên cách giải quyết công việc cũng trở nên rõ ràng hơn rất nhiều, trong thời gian uống cạn hai chén trà, y đã phê duyệt được sáu bảy tờ văn kiện. Lọc những văn kiện cần đích thân Mẫn đại nhân xử lý qua một bên, y mở một tờ khác thì phát hiện tờ văn kiện này lại là một tấm văn thiếp đã ố vàng, trông không giống như mới được viết. Chẳng lẽ có ai đó đã đem trình nhầm văn kiện cũ?

Lấy làm hiếu kỳ, Dương Lăng cầm tấm văn thiếp lên xem, chỉ thấy ở trên đó bôi bôi xoá xoá, hiển nhiên người viết đã rất do dự. Có điều nét bút chữ Khải (*) viết thật là đẹp, bản thân y viết chữ bút lông cũng đẹp nhưng không thể viết kiểu chữ Khải đẹp như vậy được, y không nén được phải tấm tắc khen ngợi vài tiếng. (*: nguyên văn “dăng đầu tiểu Khải”: chử Khải viết tay nhỏ bằng đầu con ruồi nên gọi là “dăng đầu”)

Y mở tấm văn thiếp ra đọc cẩn thận, thì thấy trên đó viết: “Hiện nay tiêu cực trong triều đình đã nghiêm trọng đến mức cực điểm, vua không giữ đạo quân thần, đại thần không làm tròn trách nhiệm, thưởng tước quá tràn lan, công dịch quá phiền nhiễu, tiến cống vô độ, kẻ ra đi không trở lại. Triều đình xảy ra biến trước nay đều do những thứ đó mà nên. Việc tổ chức trong nội cung đều đã có quy định từ những ngày đầu lập quốc, giờ đây một giám cũng đến hơn mười người, một việc sáu bảy kẻ tham gia. Nào là hưởng lợi từ việc phân phối quận huyện hay lộc vương gia. Nào là tranh quyền thống lĩnh biên cương hay làm đại tướng. Nào là tiến cử tà môn hay hùa vào dâng hiến kỳ thuật. Ty lo gạo tiền thì lách luật ăn riêng, cống vật thì gặp đủ loại yêu sách hối lộ, kẻ giết người được tha, kẻ làm sai thoát tội, không thể kể xiết …”

Dương Lăng ồ lên một tiếng, xem ra nội dung của tấm văn thiếp này là bàn về quốc sách. Sao loại văn thiếp như vậy có thể xuất hiện trong mớ công văn của một huyện lệnh được nhỉ? Dương Lăng đang mê mải đọc thì chợt nghe tiếng cười ha hả bên cạnh:

– Dương tú tài, vẫn còn đang xử lý công văn sao?

Dương Lăng ngước đầu lên: trước mặt là một lão nhân ngũ tuần, mày râu nhẵn nhụi, trông áo quần thì chỉ là một tiểu lại cấp tòng bát phẩm, còn chưa thể gọi là quan. Đó chính là vị huyện thừa lâu năm ở bản huyện, Hoàng Kỳ Dận.

Dương Lăng vội đứng dậy, chắp tay thi lễ:

– Hoá ra là Hoàng huyện thừa, học sinh thất lễ rồi.

Hoàng Kỳ Dận xua xua tay, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Cầm tấm văn thiếp trên bàn lên liếc mắt qua, lão cười lớn nói:

– Lý Tư Tỉnh, Đặng Thường Ân à? Ồ, đây đều là những trọng thần của triều đình năm Hiến Tông, trông có vẻ như là bản thảo tấu chương của vị đại nhân nào đấy. Dương công tử từ đâu mà có được vậy?

Cũng không đợi Dương Lăng trả lời, lão tự mình đọc lướt qua nội dung, rồi ngẩng đầu hỏi:

– Dương tú tài nghĩ sao về những lời trong đó?

Đầu tiên là tình cờ thấy một bản thảo tấu chương năm Hiến Tông, cũng gần hai mươi năm trước, ở trong chồng công văn, sau đó lại thấy vị Hoàng huyện thừa “không phải ngày phát lương, không phải ngày thẩm án không ló mặt” đó đột nhiên xuất hiện thì trong lòng Dương Lăng cũng đã đoán ra được vài phần căn nguyên. Y còn cảm nhận được cặp mắt thâm thuý đang nhìn mình chằm chằm, ý như thăm dò, lại có phần khao khát, mong muốn, giống như một đứa trẻ đang hy vọng được thầy khen ngợi.

Dương Lăng đã từng làm cho công ty bảo hiểm sáu bảy năm, đã gặp rất nhiều loại người, sở trường lớn nhất của y là suy đoán tâm lý người khác, cho nên vừa thấy lão ta vô tình để lộ hàm ý trong ánh mắt thì y chợt hiểu ra. Một ý nghĩ táo bạo đột nhiên loé lên trong đầu y: “Đầu tiên là tấu chương của hai mươi năm trước, tiếp theo đó là Hoàng huyện thừa, kẻ quanh năm chẳng thấy bóng dáng đâu xuất hiện. Lão ta nói cái gì là tấu chương của vị đại nhân nào đó năm ấy phác thảo, nội dung trong tấu chương thì lại bài xích trọng thần trong triều đương thời. Chẳng lẽ … tờ tấu chương này là do lão ấy viết, vì đắc tội với triều đình nên bị giáng chức hết lần này đến lần khác, tới nỗi phải lưu lạc đến Kê Minh này làm một tiểu lại không phẩm cấp?

Vừa nghĩ tới đây, Dương Lăng một mặt phỏng đoán ý đồ của lão, mặt khác giả vờ nói:

– Vãn bối hổ thẹn không rõ sự tình về mấy vị trọng thần triều đình năm hoàng đế Hiến Tông, cho nên thật sự không thể luận bàn.

Hoàng Kỳ Dận lắc đầu bảo:

– Ài …, đều là chuyện xưa tích cũ cả rồi. Hôm nay rảnh rỗi, ta chỉ ngồi đây tán gẫu với ngươi thôi. Miệng ngươi nói, tai ta nghe, đâu thể tính là nghị luận gì. Ngươi chỉ đơn thuần là đánh giá nội dung trên tờ văn thiếp này mà thôi.

Trong đầu Dương Lăng nghĩ rất nhanh, âm thầm suy đoán: “Nếu mình đoán không sai, thì lão đại nhân bất đắc chí này hẳn đã vì tấm thiếp này mà đắc tội với thiên tử, đến nỗi bị giáng chức hết lần này đến lần khác. Hôm nay lão đến khảo sát mình, lẽ nào là muốn xem xem mình có đáng để lão ra tay giúp đỡ hay không? Thôi được, phỏng chừng mình sống cũng chẳng được bao lâu, cứ mạnh dạn mà bàn luận cũng chẳng sao. Nếu muốn lão ấy giúp đỡ thì đương nhiên phải tâng bốc một phen, nhưng nếu không có cách nghĩ đặc biệt của riêng mình sẽ khó tránh khỏi bị lão ấy khinh thường.”

Vừa thầm tính trong lòng, vừa cẩn thận xem kỹ nội dung của tấu chương, Dương Lăng nói:

– Đã như vậy, học sinh đành lớn mật nói càn. Nếu nói không đúng, xin Hoàng huyện thừa chớ chê cười.

Hoàng Kỳ Dận cười nhạt:

– Không sao, không sao, ngươi và ta cũng xem như là đồng liêu, cứ việc nói thoải mái, không cần phải cố kỵ.

Dương Lăng dạ một tiếng, rồi phát biểu ý kiến:

– Mở đầu bài tấu chương này ý nói triều đình đương thời cơ cấu cồng kềnh, người nhiều hơn việc, thỉnh cầu triều đình tinh giản lại các bộ và các quan viên, có thể nói là trúng vào trọng tâm, kiến nghị đưa ra cũng có thể nói là sáng suốt, chỉ là….

Hoàng Kỳ Dận vừa nghe thấy tám chữ “cơ cấu cồng kềnh, người nhiều hơn việc,” mắt chợt sáng lên, vỗ tay khen hay:

– Tuyệt diệu, thấu triệt! Chỉ tám chữ này thôi đã nói ra hết sự tình, Dương công tử thật giỏi. Chỉ là cái gì?

Dương Lăng ngây ra một chút, rồi mới chợt tỉnh ngộ: “Phải rồi, triều đại này vẫn chưa có mấy danh từ này, khó trách lão ấy cảm thấy rất đỗi mới lạ. Nhưng mà cũng đâu cần phải kích động đến đỏ cả mặt chứ? Chẳng nhẽ là vì đã tìm được tri âm à?” Dương Lăng cười thầm trong bụng, tiếp tục nói:

– Chỉ là vị đại nhân này có cái nhìn quá đỗi mô phạm đi.

Sắc mặt Hoàng Kỳ Dận thoáng không vui, lão không phục hỏi:

– Tại sao khẳng định như vậy?

Trông thấy phản ứng của lão, Dương Lăng càng chắc chắn với phán đoán của mình, thế là dùng thủ đoạn “trước nâng lên, sau đạp xuống,” nói:

– Vị đại nhân này kiên quyết chính trực, không so đo được mất của cá nhân, niềm mong muốn lập lại trật tự để chỉnh đốn triều cương hiện rõ trong từng câu chữ. Có điều, tuy ông ta mang một bầu nhiệt huyết, song suy nghĩ lại hơi đơn giản.

Nghĩ đến việc càng tinh giản cơ cấu càng dẫn đến nhiều tiêu cực ở đời sau, y chậm rãi suy nghĩ nói:

– Theo học sinh thấy, mặc dù quan viên các bộ, phủ ngày một cồng kềnh, nhưng vị đại nhân này lại hy vọng rằng hoàng thượng vừa mở miệng hạ lệnh, liền sẽ có thể chỉnh đốn được kỷ cương, tinh giản được cơ cấu ngay. Đó là điều không thực tế. Đại nhân ngài hãy nghĩ xem, hoàng thượng hạ chỉ xong thì dù gì cũng cần có người thực hiện chứ? Trên dưới cả nước toàn thể hưởng ứng, triệu hồi toàn bộ các quan viên bên ngoài, vậy triều đình sẽ mất đi tai mắt. Quan lại không qua bước đệm trung gian mà lập tức bị cắt giảm, vậy không ít sự vụ sẽ khó tránh rơi vào đình đốn.

Hắn trỏ vào tờ văn thư ở trước mặt, cười khổ nói: “Tỷ như học sinh, đột nhiên để học sinh phụ trách tiền lương, thuế má, hình tụng, nhiều phương diện như vậy, bận đến đầu tắt mặt tối. Khoan nói sẽ cần rất nhiều thời gian để hiểu rõ trình tự, không có một tiền bối giàu kinh nghiệm chỉ điểm sẽ phải đi rất lòng vòng, điểm tối thiểu là học sinh bị trói chân ở đây, không thể cục cựa, như vậy công việc cụ thể đều sẽ phải giao cho kẻ khác lo liệu. Ngài làm sao đảm bảo những kẻ đó sẽ có thể tận tụy với nhiệm vụ của mình chứ?”

Sắc mặt của Hoàng Kỳ Dận trở nên hết sức khó coi, nhưng lại không nói gì. Lặng lẽ lần trong ống tay áo ra cái tẩu thuốc, lão run run nhét sợi thuốc lá vào, có vẻ hơi kích động.

Dương Lăng nói tiếp:

– Những thứ đó vẫn chưa phải là khó khăn thật sự, cũng giống như lần đầu sinh con, người mẹ phải trải qua đau đớn tột cùng, nhưng rồi sẽ đón nhận niềm hạnh phúc vô bờ bến. Cái khó đây chính là ở chỗ … toàn quốc trên dưới có bao nhiêu quan viên? Giữa những vị quan này có không biết bao nhiêu quan hệ dây mơ rễ má, cùng nhau chèo lái sự vận hành của cái quốc gia khổng lồ này. Nếu bỗng dưng muốn chặt đứt nhiều nhánh, vậy sẽ dẫn đến sự phản đối của biết bao nhiêu người? Tuy rằng lực lượng này vô hình, nhưng nhất định là vô cùng đáng sợ, đụng chạm đến lợi ích của quan viên toàn quốc, kể cả những vị quan viên bản thân đang giữ những chức vị quan trọng, không bị xoá bỏ cũng khó tránh phải suy nghĩ. Quan vị nhiều thì lựa chọn của bọn họ cũng sẽ nhiều, quan vị ít đi thì mọi chuyện sẽ không còn thoải mái như vậy nữa, con đường làm quan của chính bọn họ khi đó sẽ ít lối hơn rất nhiều. Hơn nữa, bọn họ sao có thể cam lòng vứt bỏ những mối quan hệ dây mơ rễ má đó chứ. Kiến nghị này quả thật là kẻ địch của quan viên cả nước. Quan vị ít thì bọn thư sinh sẽ tiến thân như thế nào? Thế là cũng đắc tội những kẻ đọc sách luôn. Còn bọn thân hào địa chủ có quan hệ thân mật chống lưng bọn họ thì sao? Tất nhiên sẽ kịch liệt phản đối, lay động đến cả nền tảng nước nhà. Cho dù hoàng thượng có tiếp nhận kiến nghị này, cũng sẽ gặp phải muôn trùng trắc trở và bị ngàn vạn lớp quan viên phản đối mà phải thay đổi chủ ý. Ý kiến này tuy là vì nước vì dân, nhưng lại thực hiện không đúng cách, quá đỗi vội vàng, thành thử hại nước hại dân.

Thân là người trong cuộc, Hoàng Kỳ Dận nào có được những kinh nghiệm thi hành biện pháp chính trị đã được tổng kết qua bao nhiêu triều đại, cũng như cách nhìn thấu triệt về vấn đề tinh giản cơ cấu của các bài báo ở xã hội tiên tiến trong và ngoài nước mà Dương Lăng có thể đọc và tổng kết lại được từ sách báo tạp chí?

Nhớ lại năm đó chính lão tuổi trẻ hăng say, mắt thấy quan lại hủ bại, cơ cấu to lớn cồng kềnh thì lòng bừng nhiệt huyết, điều trần lên hoàng thượng. Quả nhiên hoàng thượng tiếp nhận, không bao lâu sau đã triệt đi một lượng lớn quan viên, giáng chức quốc sư, cắt giảm hơn năm trăm quan truyền phụng (*), đồng thời lệnh cho toàn quốc phải đồng loạt thi hành. (*: chức quan do chính hoàng đế chỉ định, không thông qua sử bộ, cũng không thông qua tuyển chọn.)

Song, chưa quá nửa tháng, mình liền bị giáng chức, điều ra khỏi kinh thành. Bọn người bị giáng chức như Lý Tư Tỉnh, Đặng Thường Ân lại được phục hồi nguyên chức, còn mình thì lại bị trù dập khắp nơi, bị giáng chức hết lần này đến lần khác. Năm năm trời, đường đường một ngự sử ngôn quan (*) đã bị rớt xuống thành một huyện thừa nhỏ bé. (*: chức quan có thể can gián vua.)

Hoàng đế khác lên ngôi, bọn người Lý Tư Tỉnh bị vấn tội. Lúc đó mình cứ nghĩ sẽ thấy lại ánh mặt trời, nào ngờ rất nhiều quan viên bị đồng đảng bọn Lý, Đặng đả kích được phục hồi nguyên chức, duy chỉ mỗi mình dường như đã bị bỏ quên, nhờ người chuyển mấy phong thư đến đồng liêu năm xưa cũng không thấy kết quả. Thì ra mấu chốt lại nằm ở chỗ này.

Tự phụ là vì nước vì dân, nhưng lại rơi vào một kết cục như vậy; căm ghét thế tục, cả đời buồn bực không vui, nào ngờ lại bị một thiếu niên chưa tròn hai mươi một lời nói đúng trọng tâm. Thì ra lão đã đắc tội đến tất cả mọi quan viên.

Vừa nghĩ thông suốt những mấu chốt bên trong, mặc dù tiết trời lạnh lẽo nhưng lưng áo Hoàng huyện thừa vẫn đẫm mồ hôi. Lão cười buồn, giọng bi thương:

– Chẳng lẽ lại khoanh tay ngồi nhìn, mặc cho tình cảnh cứ tiếp tục như vậy. Rồi cuối cùng để bọn chúng như giòi bọ của đất nước, được vỗ béo bằng thành quả lao động của dân chúng hay sao?

Dương Lăng thở dài:

– Muốn thay đổi cũng không phải là không thể, chỉ có điều … đó không phải là việc có thể làm trong một sớm một chiều. Sắc lệnh từ trên đưa xuống không chỉ cần phải thống nhất, mà còn phải làm liên tục, không thể vì một người nào đó không làm mà ngừng. Thực thi cụ thể phải bắt đầu từ trên xuống dưới, từ một điểm nhỏ mà loang ra thành diện rộng. Trước tiên bắt đầu từ kinh thành, và bắt đầu xoá bỏ từ những bộ ngành và quan viên không quan trọng. Quy mô nên nhỏ chứ không nên to, hành động cũng nên từ từ chứ không nên gấp gáp. Cứ tiếp tục như thế, phải đến ba, năm mươi năm sau mới có thể phát huy hiệu quả ổn định. Đến khi đó còn cần phải xác định lại những định chế về quan và tướng trong luật pháp, thế mới không sợ bị trở mặt. Mặc dù thời gian có hơi lâu, nhưng lại là biện pháp duy nhất có thể thực hiện. Chẳng qua là bỏ ra thời gian dăm ba mươi năm để hướng đến cơ nghiệp muôn đời. Dẫu rằng nó không phải là công lao của một người hay một đời nhưng đất nước và nhân dân sẽ được hưởng lợi muôn đời.

Dương Lăng lại đưa ra cái thuyết con ếch:

– Đại nhân có từng nghe tới một câu chuyện ngụ ngôn chưa? Đổ nước vào nồi, bỏ một con ếch vào, sau đó châm lửa đun dưới đáy nồi cho nước từ từ ấm lên. Bởi vì tốc độ ấm lên chậm nên con ếch không phát hiện ra, vì vậy cũng không gấp gáp phản kháng mà nhảy ra ngoài. Ung dung nhàn nhã cho đến khi nước nóng không thể chịu nổi nữa, muốn nhảy ra khỏi nồi thì đã muộn, khi đó nó đã không còn sức để vùng vẫy nữa rồi. Con ếch có thể nhảy ra khỏi nước sôi hay không, cái đó học sinh không biết. Nhưng quan trọng ở chỗ là nếu dùng nó để miêu tả thế nhân, học sinh lại cảm thấy rất có hình tượng. Việc thi hành chính sách quốc gia gắn liền với sự triển khai toàn cục, thành thử những thay đổi quá quyết liệt đều cần phải thận trọng dè dặt, từ tốn mà làm. Đợi đến khi bắt đầu có thành quả, lúc đó, cho dù những kẻ phản đối có phát hiện ra thì nó đã là xu thế tất yếu, bọn họ không thể phản kháng được.

Hoàng huyện thừa ngẩn người hồi lâu, rồi khàn giọng cười ha hả. Lão đứng dậy, vái sâu một cái, bảo:

– Nghe một lời của người còn hơn đọc sách mười năm. Hoàng mỗ xin thụ giáo.

Nói đoạn lão xoay người, khom lưng, trông như già đi hai chục tuổi, nhọc nhằn cất bước ra ngoài.

Dương Lăng lật đật đứng dậy, chạy đến chắn trước mặt lão, khom người chắp tay nói:

– Hoàng lão, học sinh chỉ là đàm binh trên giấy, ba hoa chích chòe mà thôi. Không ở trong cuộc mới có mấy lời này, nếu thật sự đặt mình vào trong đó thì học sinh cũng như kẻ mù mà thôi. Lão xem, chỉ mỗi công văn huyện mà học sinh xử lý còn không xong thì nói gì đến thụ giáo chứ. Thật ra, học sinh phải thành tâm thành ý thỉnh cầu Hoàng lão tiên sinh chỉ giáo cho mới phải.

Lúc này y gọi Hoàng lão mà không xưng quan hàm, chính là thật sự tự coi mình là học sinh. Sắc mặt Hoàng huyện thừa thay đổi khó đoán, ngó hắn một hồi lâu. Dương Lăng khom lưng, cung kính chắp tay giữ lễ. Đùa à, nói nhảm cả nửa ngày trời chính là muốn mời người thông thái đến chỉ điểm cho mình một phen, làm sao thả lão đi như vậy được chứ?

Chương 18 : Khói hiệu đêm giao thừa

Trong lòng Hoàng Kỳ Dận vẫn luôn cảm thấy tràn đầy nhiệt huyết nhưng không thể tận trung báo quốc, ở trong cái ao tù nhỏ bé này quả thật làm hao mòn hùng tâm tráng chí, đến hôm nay lão mới thấy được rằng mình thất bại không oan.

Tuy tấm văn thiếp đáng tự hào ngày ấy đã khiến cho lão bị thất bại, song trong lòng lão vẫn luôn có ngạo khí của một văn nhân, cho rằng mình bị những kẻ bất đồng chính kiến đả kích. Mặc dù không thể thỏa chí quan trường nhưng sử sách ắt sẽ lưu lại thanh danh, vậy cũng không uổng phí một đời. Ngờ đâu tấu chương của mình nếu được thực thi thì cũng sẽ làm hại nước hại dân, thế nên lúc này lão chẳng những tâm chí nguội lạnh mà ngạo khí ứ đọng bấy lâu cũng tan biến hết.

Nhìn người thanh niên trẻ tuổi anh tuấn Dương Lăng này, Hoàng Kỳ Dận âm thầm suy xét:

– Vốn chỉ nghe nói hắn là tú tài trẻ tuổi nhất trong huyện, cùng lắm là tinh thông văn chương bát cổ (*) mà thôi, không ngờ lại có tầm nhìn như vậy. Bản thân mình đã chẳng có thành tựu gì, thôi thì cứ hết lòng giúp đỡ hắn, tương lai nếu hắn có thể trở thành một đại danh thần thì lúc đó mình cũng sẽ được lưu danh sử sách. Bằng không, chỉ cần hắn có thể làm quan lớn một phương thì đứa cháu sớm mất cha đó của mình cũng có thể tìm được nơi nương tựa. (*: Bát cổ gồm phá đề, thừa đề, khởi giảng, nhập thủ, khởi cổ, trung cổ, hậu cổ, thúc cổ.)

Nghĩ đến đây, Hoàng Kỳ Dận cười ha hả, bước tới đỡ Dương Lăng dậy, mặt mày rạng rỡ nói: “Dương hiền chất chớ nên khách sáo, tiếng sư trưởng hổ thẹn không dám nhận. Lão Hoàng ở trong huyện quá lâu đến nỗi sắp thành tinh rồi, hiền chất nếu có chỗ nào cần giúp đỡ thì cứ việc mở miệng, lão Hoàng đảm bảo không một chút giấu giếm”.

Kê Minh là một huyện cấp ba, so với huyện giàu có như Giang Nam thì tổng số thuế thu được hàng năm kém gấp ba trăm, năm trăm lần. Mức thuế thấp đến kinh người, nhìn sơ qua có vẻ như cần phải tăng thêm mức thuế, hoặc chí ít thì huyện nhỏ như vậy không nên có nợ thuế mới phải. Nhưng trên thực tế, ở nơi này, kể cả mấy địa chủ nhỏ hoặc gia đình tự canh cũng còn bữa đói bữa no nữa là, cho nên nợ thuế nợ lương cũng đã trở thành chuyện cơm bữa.

Bởi thế mà một quan huyện ở một huyện giàu cho dù có thu thuế đến 80% nhưng đời sống sinh hoạt của người dân ở nơi đó vẫn không bị ảnh hưởng, hơn nữa còn được xưng tụng là thanh thiên, biếu tặng “vạn dân tán”(*). Nhưng mấy năm sau nếu y xui xẻo bị điều đến cái huyện nghèo như vậy, thì cho dù có tổn hao tâm sức cố ép thu 30% thuế, khi đó trong mắt người dân, y vẫn trở thành tham quan, ác quỷ hút máu người. (*: thời xưa, để ca tụng sự liêm chính của quan lại địa phương, các thân sĩ sẽ tặng những chiếc dù (tán), trên đó có thêu nhiều sợi vải lụa nhỏ.)

Huống hồ hoàng đế dựng nước Đại Minh là Chu Nguyên Chương tính toán bổng lộc của các quan viên cực kỳ chính xác. Bổng lộc phát ra chỉ đủ cho quan viên nuôi dưỡng một nhà già trẻ. Thậm chí chi phí nghênh đón, tống tiễn, tiền lương cho gia đinh phu dịch, kiệu phu mã phu, bao gồm cả trợ tá sư gia … toàn bộ đều do quan viên tự bỏ tiền túi. Vì vậy số tiền lương mà người dân giao nộp chắc chắn là sẽ bị các quan địa phương “vay” một phần cho vào túi riêng. Quan huyện đã như vậy, các thôn trưởng, lý trưởng, giáp trưởng bên dưới ai nấy cũng giống nhau. Do đó dù thu được 100% thuế, nộp lên quốc khố cũng chỉ có tám phần.

Bởi vậy khi thu không đủ thuế, các quan địa phương liền tự thi triển thần thông. Huyện nào mà số đất đai vượt quá con số bộ Lại nắm rõ thì sẽ lấy phần đó bù vào, còn những huyện vốn đã nghèo thì liều báo cáo có thiên tai để xin miễn giảm, vừa hoàn thành nhiệm vụ thu thuế, lại được tiếng thương dân.

Tuy rằng Kê Minh có nhiều người thiếu nợ lương thuế (lương thực và thuế), song những năm gần đây nhờ có thêm người khai hoang, mà số đất đai do Bộ Hộ quản lý lại là con số từ thời dựng nước, do vậy dù số thuế thu được là rất ít, nhưng chỉ cần lấy số dư thuế thương mại bù đắp vào một phần là có thể đạt được con số mà Bộ Hộ yêu cầu.

Ngoài ra, mùa thu vừa rồi bọn Thát Tử mới vừa kéo đến cướp bóc, quan huyện có thể lấy lý do đó để báo cáo về tai họa, vẽ thêm tình tiết nghiêm trọng nhằm miễn giảm thuế ruộng nương. Do vị trí địa lý đặc thù có ý nghĩa về mặt quân sự của Kê Minh đã vượt xa phạm vi huyện lỵ, nên tuy hiểu rõ số thuế trưng thu mỗi năm ở nơi này dù có cố vắt thêm cũng không đủ, bộ Lại cũng sẽ không vì thế mà nghiêm khắc kiểm tra tình hình thực tế.

Vốn đang rầu rĩ đến thối cả ruột, thế mà khi được Hoàng Kỳ Dận chỉ điểm, Dương Lăng bỗng thấy sáng rõ. Con số 30% thuế thu được ít ỏi đến thảm thương, nhưng qua ngòi bút biến hóa của Hoàng huyện thừa không ngờ thành ra chỉ phải nộp lên trên có một nửa. Dương Lăng thấy thế mà phục sát đất.

Những công việc lặt vặt còn lại, Dương Lăng cũng đã mau chóng bắt tay vào,xử lý gọn ghẽ dưới sự chỉ bảo của Hoàng huyện thừa. Và y trở thành người nắm quyền khống chế hành chính của một huyện sau lưng Mẫn huyện lệnh. Chỉ có điều toàn bộ quyền lực của y đều đến từ Mẫn huyện lệnh. Chỉ cần đội ngài “Bồ Tát bằng đất sét” này ở trên đầu, y sẽ chính là người phát ngôn cho Bồ Tát. Nếu không có ngài Bồ Tát này thì cũng sẽ chẳng có ai nghe theo lệnh của y cả.

Được sự ủng hộ của vị huyện thái gia chính hiệu là Mẫn huyện lệnh và sự hỗ trợ hết sức mình của nhân vật đứng hàng thứ hai là Hoàng huyện thừa, công việc nội vụ của tiểu huyện thành “tuy nhỏ mà quan trọng” này đã được Dương Lăng xử lý hết sức gọn gàng. Không bao lâu, người dân, quan binh hay dịch sứ ở Kê Minh đều biết nhân vật thực sự điều khiển hoạt động của huyện này là một thiếu niên mười sáu tuổi đứng đằng sau Mẫn đại nhân. Người này tên gọi là Dương Lăng.

Hàn Ấu Nương không còn đi làm công ở tiệm may nữa. Không phải là nàng chẳng muốn đi mà là ông chủ ở đó không dám tiếp tục thuê nàng. Đùa à, nam nhân của nàng là ai chứ? Trên đầu y bây giờ chỉ có thiếu mỗi cái mũ quan của huyện thái gia mà thôi.

Thời này ở thành phố lớn như Chiết Giang đã có mấy công xưởng dệt nhuộm, kẻ làm đến cả trăm. Song những người làm thuê này đại đa số đều là nam, phụ nữ ở một địa phương nhỏ bé như vậy ra ngoài đi làm là chuyện rất hiếm gặp. Cho nên mặc dù không muốn để cho một cô gái mới mười lăm tuổi hàng ngày nằm lỳ trong nhà làm thiếu phụ trông nhà, Dương Lăng cũng đành phải nhập gia tuỳ tục, không để nàng ra ngoài nữa.

Có điều một mình Hàn Ấu Nương ở nhà thật quá nhàm chán, trừ việc bếp núc ra thì đúng là vô công rồi nghề, mà thời đại này lại không có những phương tiện giải trí như ti vi. Tuy bấy giờ phần lớn phụ nữ sau khi lấy chồng đều như vậy, song theo suy nghĩ của một người hiện đại, Dương Lăng lại cảm thấy Ấu Nương giống như đang bị cầm tù ở trong nhà.

Mỗi ngày chỉ khi nào y trở về, lúc đó nàng mới biểu lộ sự vui mừng, ngồi nhìn y ăn mà như có rất nhiều điều muốn kể, một chút chuyện nhỏ nàng cũng có thể làm cho chúng thêm thú vị mà kể hết nửa buổi. Hồi ở sơn thôn tuy gian khổ nhưng ít ra nàng còn có thể ra ngoài, giờ lại giống như chim ở trong lồng, nên ánh mắt nàng càng lúc càng thêm u ám.

Dương Lăng nhìn nàng mà cảm thấy đau lòng. Thêm vào đó là công việc của y thật sự quá bận rộn, nên y đã quyết định đưa cho nàng bộ y phục nam giới rồi dẫn đến phòng phê duyệt để giúp mình sao chép, soạn, viết văn kiện. Cũng may là Hàn Ấu Nương không giống như những cô gái khác: phụ thân nàng vốn là một tiêu đầu của tiêu cục, về sau vì mất một số tiêu lớn mà tiêu cục mới trở nên lụi bại. Cho nên hoàn cảnh gia đình nàng cũng không tệ, thuở nhỏ ở nhà nàng đã từng được dạy dỗ, đương nhiên có thể đảm nhiệm được những việc ghi chép này.

Có việc để làm, lại có thể ở cạnh phu quân mình, Hàn Ấu Nương dĩ nhiên trong lòng vui phơi phới. Dương Lăng “công tư phân minh”, mặc dù mọi người trong phòng đều biết đó là nội nhân (vợ) của Dương sư gia, song y lại chỉ nói là mời nàng đến giúp đỡ, vì thế tiền lương cứ theo quy định mà trả. Chỉ có điều người y thuê riêng thì phải do y phát lương cho nên Dương Lăng cũng theo lề thói ở đây, cái nào đã nên ăn chặn thì bỏ hết vào hầu bao không thiếu một xu.

Vì Dương Lăng là do cá nhân Huyện thái gia mời, không có phẩm cấp nên bổng lộc mỗi tháng chỉ có ba thạch, tương đương với sáu chỉ bạc. Số tiền này là do Huyện thái gia chi trả. Bổng lộc hàng tháng của Huyện thái gia là ba lạng bảy chỉ, đủ nuôi sống một gia đình già trẻ. Để trả thêm cho trợ tá, phó sư gia, người hầu hay kiệu phu, nếu Mẫn huyện lệnh không xén bớt chút tiền thuế thì cả gia đình lão phải gặm đất mà ăn.

Trên quan trường gọi loại “tạm giữ” hợp lý này là “hoả hao” (*), dựa theo sự lý giải của Dương Lăng thì đó chính là: trên có chính sách, dưới có đối sách. Trước đây khi xem tiểu thuyết, đọc đến đoạn quan viên đời nhà Minh tham ô sáu mươi lạng bạc trắng, Chu Nguyên Chương liền thi hành cực hình lột da nhồi rơm. Nhưng đám quan lại tham ô đó vẫn không chừa, hết kẻ này đến kẻ khác lần lượt kéo nhau lên đoạn đầu đài, lúc đó y cảm thấy rất khó hiểu. Hôm nay bản thân tự trải nghiệm, y mới biết được tuy thật có tham quan, nhưng cho dù là thanh quan đi nữa thì việc giữ lại một số tặng phẩm cũng là chuyện cần làm. (*: vốn chỉ phần bạc hao hụt trong lúc đúc chảy bạc nén.)

May mà những quan viên này về sau đã tự hình thành nên một thông lệ: cái nào thuộc về tham ô, cái nào thuộc về quà biếu tự nhiên đã trở thành một hệ thống nằm ngoài triều cương mà quan viên trên dưới đều tự động tuân thủ. Có Hoàng lão chỉ điểm, Dương Lăng cũng vững tâm mà cất lấy phần mình.

Mai là ngày mùng một Tết. Có lẽ là do tâm tình mà rõ ràng là khí trời vẫn còn ẩm lạnh, nhưng đi trên đường lại không cảm thấy giá rét như mọi ngày. Gần xa đã nghe thấy những tiếng pháo nổ đì đùng.

Ngày mai nha môn huyện không phải đi làm, cho nên mãi đến tận khuya Dương Lăng mới xử lý xong đống công văn, rồi cùng với Hàn Ấu Nương rời khỏi huyện nha. Mọi nhà đều đã treo đèn lồng đỏ ở trước cửa, ngay cả những nhà ngày thường rất tiết kiệm, không dám dùng mà hôm nay cũng đã châm nến treo đèn lồng từ sớm.

Thời này, nữ nhân không được đi trước hoặc sóng bước ngang hàng cùng trượng phu, cho nên Hàn Ấu Nương vẫn theo quy củ đó mà đi sau nửa bước. Dương Lăng thấy lúc này trời đã tối đen không gây chú ý nhiều, hơn nữa Hàn Ấu Nương lại đang mặc đồ nam, vì thế y cố ý đi chậm lại, rồi thừa dịp nàng không chú ý, nắm lấy tay nàng.

Hàn Ấu Nương giật mình, ngượng chín cả mặt, cố giãy tay mấy cái mà không thoát. Đỏ mặt, nàng cúi đầu khẽ trách:

– Tướng công, chàng…

Dương Lăng quay đầu lại, nở một nụ cười ấm áp rồi nhẹ nhàng nói:

– Ngày mai hãy lên phố mua sắm chút đồ Tết, còn đêm nay chúng ta đến tửu quán ăn chút gì đó đi! Đi thôi!

Nói đoạn y kéo Hàn Ấu Nương đi thẳng tới một tửu điếm nho nhỏ mà y đã từng đến một lần.

Dương Lăng là một kẻ thích chỗ quen, ghé qua một lần mà cảm thấy khẩu vị dùng được thì sẽ lười tìm một quán khác, lúc muốn thay đổi khẩu vị, cũng cứ thẳng tiến đến chỗ đó. Hàn Ấu Nương trong lòng tuy có chút bất an, nhưng nàng biết tướng công của mình hiền lành tử tế, cộng với sắc trời đã tối đen, người khác cũng sẽ không nhìn rõ mặt nên để mặc cho y nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn rồi ngoan ngoãn bước theo.

Lúc Dương Lăng và Hàn Ấu Nương rời khỏi tửu điếm thì đêm đã rất khuya, trên bầu trời chi chít ánh sao, những bông tuyết mềm mại rơi lất phất làm cho khuôn mặt vốn đã ấm lên vì rượu của y cảm thấy hết sức thoải mái.

Dương Lăng mặt mày phấn khởi, kéo tay Hàn Ấu Nương dạo bước trong thành. Tuy cả hai đều không nói lời nào, chỉ cần tay trong tay thôi thì trong lòng đã trào dâng một cảm xúc rất đặc biệt.

Đứng ở lỗ châu mai trên tường thành, Dương Lăng vốc lấy một nắm tuyết, vo lại thành một quả cầu rồi dùng hết sức ném mạnh nó vào trong màn đêm mịt mờ phía ngoài thành. Chẳng qua vì thân thể gầy còm, ít tập luyện nên lần này hơi dùng sức khiến cho cơ bắp y đau nhức một chút. Binh sỹ đi tuần qua lại nhiều làm tuyết bị đạp mòn nên mặt đất rất trơn, suýt nữa thì y bị ngã. Hàn Ấu Nương kinh hãi, vội bước tới bên cạnh đỡ lấy, giúp cho y lấy lại thăng bằng, rồi vừa thở ra một hơi vừa cười trách móc:

– Tướng công, xem chàng kìa, làm sao mà lại như một đứa trẻ như vậy chứ? Cẩn thận kẻo ngã đấy!

Dương Lăng xoay người lại, vuốt nhẹ gò má bóng mịn săn chắc của nàng rồi nhẹ giọng âu yếm:

– Nàng mới là một đứa trẻ con chưa lớn đó.

Hàn Ấu Nương bĩu môi không chịu rồi thẳng người lên. Thấy nét thơ ngây vẫn còn trên khuôn mặt nàng và đôi mắt dịu dàng ấy, con tim Dương Lăng liền đập thình thịch. Lúc này y mới phát hiện rằng y và nàng đã càng ngày càng trở nên thân thiết, y đã quen được nàng thầm lặng ở cạnh bên chăm sóc cho, y đã quen thân mật cùng nàng. Nếu một ngày bỗng nhiên y hồn về nơi chín suối, lúc đó chẳng phải sẽ khiến cho nàng càng thêm thương tâm lắm sao?

Nhưng nếu bây giờ đối xử lạnh lùng, Dương Lăng làm sao chịu được những dòng lệ của nàng? Thật sự bây giờ còn quá đột ngột để nói với nàng rằng một ngày nào đó y sẽ chết, nàng phải tự lo cho bản thân. Mà cũng không cách nào nói ra được, y chỉ biết ngây ngốc đứng nhìn Hàn Ấu Nương, chẳng biết phải nên nói những gì.

Khuôn mặt trái xoan của Hàn Ấu Nương bỗng chợt càng lúc càng nóng dần. Dưới ánh nhìn bởi cặp mắt sáng rực như sao mai của Dương Lăng, nhất là trong người y vẫn còn hơi rượu, dĩ nhiên Hàn Ấu Nương sẽ hiểu lầm ý của y, trong lòng nàng bất giác vừa sợ hãi lại vừa vui sướng đến nỗi cả người hoảng loạn, run rẩy.

Ngay vào lúc này, từ trong đôi mắt đen láy của Hàn Ấu Nương, Dương Lăng đột nhiên nhìn thấy một cột lửa loé sáng. Hàn Ấu Nương lúc này cũng tròn mắt kinh hãi nhìn qua vai Dương Lăng, ngây người nhìn chăm chăm về phía xa chân trời.

Dương Lăng lập tức quay đầu lại. Hai đầu phía đông và phía tây tường thành mỗi đầu đều có một toà phong hoả đài, mà giờ đây phong hoả đài ở phía đông tường thành đã được nhóm lên, lửa cháy bừng bừng. Ở phía xa, nơi tường thành uốn lượn kéo dài vào tận trong rừng sâu còn có mấy ánh lửa lập loè.

Y lại nhìn sang hướng tây, ngay đúng lúc đó, phong hoả đài ở phía này cũng nổ ầm một tiếng rồi cháy bùng lên, thế lửa mãnh liệt. Rất nhanh sau đó phong hoả đài ở hướng tây nơi triền núi cũng được châm sáng, truyền tiếp tới nơi ở xa hơn.

Dương Lăng há hốc mồm, mãi một lúc sau mới quay lại nhìn Hàn Ấu Nương, hai cặp mắt không hẹn mà cùng mang đến một tin: “Thát Tử đã kéo đến!”

Chương 19 : Lão huyện lệnh điên

Tuy chưa từng tận mắt thấy lửa hiệu nhưng đã nghe nói rất nhiều lần về nó, đương nhiên Hàn Ấu Nương hiểu được việc châm lửa phong hoả đài đại biểu cho cái gì. Ấn tượng của nàng về sự hung tàn và dã man của Thát Tử cũng giống như cái nhìn của người thời nay về phát xít Nhật: đều là một bầy dã thú khát máu.

Dương Lăng thì ngạc nhiên hơn là khiếp sợ. Do ảnh hưởng bởi vô số phim ảnh và kịch truyền hình ở hậu thế, trong tưởng tượng của y, cái gọi là Thát Tử đều là những chiến sĩ Mông Cổ bộc trực mạnh mẽ, vừa mến khách lại vừa hào sảng, có lẽ chiến đấu rất dũng mãnh. Nói gì đi chăng nữa thì không phải là bọn xâm lược mất hết nhân tính được.

Chẳng là lúc này triều đình hai bên còn đang đối địch, y sẽ không ngây thơ cho rằng không may bọn họ tấn công vào được trong thành thì sẽ tha cho mình, bèn vội vàng kéo tay Hàn Ấu Nương tức tốc chạy về nha môn.

Lúc này cổng thành đóng chặt, cư dân trong thành đã sớm vì lửa hiệu mà nháo nhào đổ ra ngoài. Chuyện tiểu vương tử Thát Đát Bá Nhan Mãnh Khả kéo quân tập kích biên giới đã không phải là lần đầu, nhưng đa phần bọn chúng không dám đánh thẳng vào quan ải như Kê Minh này. Đối với những thành trì tương đối to lớn như vầy, bọn chúng sẽ không đủ năng lực mang theo các loại khí giới công thành đi một khoảng đường xa chỉ để cướp bóc; Thát Tử sẽ không chấp nhận thương vong lớn chỉ để công thành.

Thông thường thì chiến tranh quy mô nhỏ sẽ không dùng đến phong hoả đài để truyền tin. Nhưng tình hình đêm nay có vẻ hơi đặc biệt, dường như có quan ải đã bị công kích trực tiếp, những người dân này há không cảm thấy lo sợ?

Mẫn huyện lệnh tuy làm quan huyện ù ù cạc cạc, nhưng dẫu gì vẫn xuất thân quân nhân, vừa nghe được tin tức Thát Tử đến liền vội vàng từ trong hậu sảnh chạy ra ngoài, thậm chí y phục cũng chưa kịp mặc chỉnh tề.

Quân trú đóng nơi đây chỉ có hai trăm sáu mươi người, do hai bả tổng (*) thống lĩnh. Dựa theo quy củ của triều Minh, một khi phát sinh chiến sự, quan hành chính tối cao ở địa phương đó sẽ phụ trách toàn bộ hoạt động quân sự, sĩ quan quân đội không có quyền độc lập chỉ huy. Do đó bây giờ Mẫn huyện lệnh còn trở thành tư lệnh phòng ngự chiến khu. (*: võ quan trấn thủ)

Đây vốn là nghề cũ của Mẫn huyện lệnh, cho nên một mặt lão lập tức phái thám mã liên lạc với mấy trạm dịch gần nhất thăm dò thêm tin tức, một mặt phái người mau chóng thúc ngựa quay về Phủ thành điều binh, lại đồng thời phái người báo tin cho Mã dịch thừa, yêu cầu toàn bộ nhân viên quân dịch phân phát đao thương, chuẩn bị lên thành chi viện khi có yêu cầu.

Dương Lăng đứng ở một bên trợn mắt há miệng mà nhìn. Nói thật, mấy ngày nay ngày nào cũng thay Mẫn huyện lệnh xử lý sự vụ lớn nhỏ, Mẫn huyện lệnh giống như là con rối, cho nên tuy là cảm kích ân tri ngộ của lão ta, nhưng tự đáy lòng y lại xem thường lão, không ngờ lúc này lão lại xử lý chiến sự đâu vào đấy.

Văng nước miếng tứ tung điều khiển tất cả xong xuôi, Mẫn huyện lệnh mới thở ra một hơi. Chỉnh đốn lại quan phục, lão chạy ra phía sau quát lớn:

– Khôi giáp, đại đao của lão tử đâu, mau lấy ra đây!

Nói đoạn xoay đầu liếc Dương Lăng và Hàn Ấu Nương đang đứng sau lưng, cười nói:

– Mẹ nó, năm nay sợ là không dễ qua rồi. Cái đám Thát Tử này tranh thủ đến cướp ngay trước đêm giao thừa, chắc là do đông năm nay tuyết lớn làm chết quá nhiều dê bò, bọn chúng mà không vét cho đủ ăn đủ dùng thì sẽ chẳng bỏ đi đâu.

Lúc này hai tên gia bộc, một tên bê bộ tỏa tử giáp (1), một tên vác thanh đại đao chạy ra. Vì đây là huyện bậc ba, điều kiện gian khổ, Mẫn huyện lệnh chưa mang theo vợ con bên người, cho nên ngày thường hầu hạ lão là mấy tên gia bộc này.

Cũng không xem mình như người ngoài, Mẫn huyện lệnh cởi luôn áo bào quan văn, thay y phục ngay tại đại sảnh. Hàn Ấu Nương thấy vậy vội vàng lui sang phòng bên để tránh dị nghị. Giáp trụ chỉnh tề xong, Mẫn huyện lệnh khoác chiếc áo bào quan huyện lên lại, rồi chộp lấy thanh đại đao từ tay gia bộc.

Thanh đao đó e phải nặng đến bốn mươi cân. Mẫn huyện lệnh nâng đao một tay, cổ tay vừa xoay, thanh đại đao nặng trịch trong tay xoay tít một trận, sau đó chém uỳnh xuống đất, khiến cho gạch xanh trên mặt đất vỡ văng tung toé. Dương Lăng trong lòng rúng động, mặc dù biết Mẫn huyện lệnh này xuất thân võ quan, nhưng y không ngờ lão ấy lại có thể sử dụng binh khí nặng như vậy.

Mẫn huyện lệnh cả người vận đồ huyện thái gia, cánh chuồn trên mũ vẫn còn lắc lư mỗi khi đi tới đi lui, nhưng lại vác theo một thanh đại đao sắc bén, trông chẳng ra ngô ra khoai. Lão cũng chẳng chút bận tâm, uy phong lẫm liệt quay ra ngoài sảnh quát:

– Đi! Theo ta lên tường thành!

Một đám nha dịch trong sân tuần tự chạy đến ứng tiếng reo hò, đám người đông đảo rầm rộ xông ra ngoài. Dương Lăng cũng chạy theo ra khỏi nha môn. Bốn chiếc đèn lồng đỏ treo trước cửa nha môn nhẹ lay trong gió tuyết. Lúc này tuyết đã rơi dày hơn, bông tuyết bay lả tả. Đất trời mênh mông, mù mịt.

Mẫn huyện lệnh dẫn theo một đám người đeo đao cầm thương, sải bước xông lên đầu thành (*). Khắp trên các đường phố, dân chúng chạy tán loạn như kiến bò trên chảo nóng; bọn họ cũng chẳng có thời gian để tâm. (*: lầu trên tường thành)

Trên cổng thành phía nam, gần trăm quan binh đang căng thẳng chăm chú nhìn xuống dưới thành. Cổng thành này nằm trấn ngay trên đường quan đạo thông nam bắc, hai cổng đông, tây giáp núi, không thích hợp cho ngựa chiến chạy. Cho dù Thát Tử đến tấn công cũng sẽ khó điều động kỵ binh để công vào hai cổng đông, tây, có thể nói là tương đối an toàn, cho nên mỗi nơi chỉ phái bảy mươi quan binh đóng giữ, do một bả tổng cưỡi ngựa đi lại để tuần tra.

Bả tổng ở cổng thành phía nam đang đứng trên đầu thành quan sát ở phía dưới, mắt thấy huyện thái gia tự thân dẫn người đến thì vội chạy lại, quỳ một gối, hai tay ôm quyền nói:

– Ty chức Giang Bân tham kiến Mẫn đại nhân.

Mẫn huyện lệnh phất tay:

– Miễn đi! Giang bá tổng, Thát Tử đến rồi à?

Giang Bân nhe răng cười, rồi thưa:

– Đại nhân, ánh đèn không soi được đến chân thành nên nhìn không rõ lắm. Có điều từ số đuốc không nhìn rõ của bọn Thát Tử thì ít nhất không dưới trăm tên. Nhưng đại nhân cứ yên tâm, có ty chức ở đây, bọn chúng sẽ không công lên nổi đâu.

Dương Lăng quan sát kỹ người gọi là Giang bả tổng này. Vị Giang bả tổng này tướng mạo cực kỳ anh tuấn, trông cũng phải ngoài hai mươi, vóc người tráng kiện, thần thái nhanh nhẹn dũng mãnh, tựa hồ chẳng chút để tâm đến Thát Tử.

Dương Lăng không khỏi thầm gật gù. Trong ấn tượng trước đây của y, tất cả binh sĩ Đại Minh đều rất nhu nhược, bằng không thì hoàng đế Đại Minh thân chinh thống lĩnh năm mươi vạn đại quân đã không bị thái sư Dã Tiên của Ngoã Lạt dẫn mười vạn đại quân đánh cho tan tác, thậm chí ngay cả hoàng đế cũng bị bắt sống. Y còn cho rằng quan viên Đại Minh khi vừa nghe đến cái tên Thát Tử thì sẽ sợ tái mặt, không ngờ ở đây, một vị huyện thái gia, một vị bả tổng thủ thành lại có dũng khí như vậy.

Mẫn đại nhân cười ha hả, bảo:

– Đi, đi, lên trên xem nào!

Đám người bọn họ bước lên đầu thành, vịn vào ụ thành nhìn xuống, chỉ thấy phía dưới tối om, hơn trăm bó đuốc di động khắp nơi, dưới thành vọng lên những tiếng la hét kỳ quái. Chính giữa thông lộ dưới thành, ngoài một tầm tên, tập trung hơn hai mươi bó đuốc, soi thấy mấy bóng người đang ở phía xa hướng lên trên thành hét hò gì đó. Mẫn đại nhân cười nhạt nói:

– Chỉ trên trăm tên ít ỏi đã muốn chiếm được Kê Minh dịch của ta sao?

Giang Bân chỉ tay về phía hướng đông đằng xa nói:

– Đại nhân, thám mã khi nãy phái đi bị Thát Tử bắn chết một người, người quay về bẩm báo rằng bên phía Nhị Lý Bán có tiếng quân sĩ giáp chiến rền trời, chắc hẳn Thát Tử đang tấn công nơi đó.

Nhị Lý Bán, Ngũ Lý Đài và Tuần La Phố là những quan ải gần nhất quanh Kê Minh; nhưng nếu muốn tiến thêm một bước công kích ải Cư Dung thì nhất định phải từ Kê Minh Dịch đánh vào. Cho nên Mẫn đại nhân vừa nghe mũi chủ công của Thát Tử là nhằm vào Nhị Lý Bán liền hiểu ra rằng lần này bọn chúng lại vì không chịu nổi mùa đông giá rét, đã xem Đại Minh như nhà kho của mình mà kéo đến cướp bóc lương thảo.

Cho nên mục đích của bọn Thát Tử dưới thành chín phần mười là chặn cổng thành, đề phòng trong thành phái viện binh đi cứu Nhị Lý Bán. Đã hơn hai năm không động đao thương, hai tay Mẫn Văn Kiến đã ngứa ngáy lắm rồi, nên vừa thấy bên dưới Thát Tử phi ngựa quanh tường thành la hò những câu vô nghĩa thì sướng rơn. Lão quay đầu bảo Giang bả tổng:

– Giang bả tổng, chuẩn bị cho ta một thớt chiến mã, phái bốn mươi người theo ta ra ngoài thành đánh lui bọn Thát Tử.

Giang bả tổng cũng đã sớm muốn xuất chiến một trận, chẳng qua chưa có mệnh lệnh của thượng quan nên không dám vọng động, nên vừa nghe phân phó thì lập tức mừng rỡ, vội quát thủ hạ:

– Người đâu, dắt hai con chiến mã đến đây, cung thủ trên thành chuẩn bị! Lưu, Lý, hai vị đồn trưởng hãy dẫn quân theo đại nhân và ta xuất chiến!

Dương Lăng thấy bọn họ chỉ dẫn bốn mươi người đã dám xuất thành thì rất đỗi kinh ngạc. Vương bộ đầu ở cạnh bên vốn là thân binh của Mẫn đại nhân lúc còn trong quân đội, thấy vẻ mặt kinh ngạc của Dương Lăng thì cười ha hả nói:

– Xem ra Dương sư gia chưa thấy qua thần dũng của Mẫn đại nhân rồi. Đại nhân vốn là Thiên tổng dưới trướng của quan tổng binh Đại Đồng Đỗ đại nhân, võ nghệ siêu quần. Trước đây khi tiêu diệt sơn tặc, đại nhân chỉ dẫn nhân mã một đồn thì đã giết cho hơn trăm tên sơn tặc của Ngưu Đầu sơn phải trốn lủi vào trong rừng. Lần này nhất định sẽ kỳ khai đắc thắng (thắng ngay trận đầu).

Hai kỵ binh và bốn mươi tiểu binh xông ra thành nghênh chiến với những kỵ binh Thát Đát cưỡi chiến mã to lớn đó? Trong lòng Dương Lăng có chút bất an, song ngẫm lại, cây đại khảm đao nặng bốn mươi cân bị Mẫn huyện lệnh sử dụng dễ dàng như không, mà đại đao này lúc vung lên nào chỉ một, hai trăm cân; một thân võ nghệ đó hiển nhiên là bất phàm, cho dù địch không lại có lẽ cũng sẽ không gặp nguy hiểm gì, lúc này y mới có chút yên tâm.

“Két két”, cổng thành bên dưới đã mở ra. Tòa thành nhỏ này không hề có luỹ hào bảo vệ, cũng không có cầu treo. Trên thành, hai mươi tay cung thủ giương cung lắp tên, thủ thế đợi sẵn. Dưới thành Mẫn đại nhân cùng Giang bả tổng dẫn bốn mươi quan binh xông ra khỏi thành.

Trong bốn mươi tay tiểu binh có hai mươi đao thuẫn binh, hai mươi trường thương binh, phân ra hai bên tạo thành hình cánh nhạn. Giang Bân ghì cương chiến mã, đang muốn lớn tiếng kêu gọi bọn Thát Đát cách một tầm tên đầu hàng, thì Mẫn đại nhân đang một tay cầm cương, tay cầm đại đao thong thả đi trên đường đột nhiên hét lên một tiếng rồi quát lớn:

– Đầu lĩnh quân giặc xâm phạm biên giới hãy mau đến đây chịu chết dưới đao của ta, xông lên!

Nói đoạn vung đao qua đầu đánh vù một tiếng, hai chân thúc ngựa phóng như bay về phía hơn chục tên Thát Đát khoác nghiêng da thú, lưng đeo cung tên ở phía trước.

Giang Bân mắt thấy mà trợn ngược. Y biết vị Mẫn đại nhân này vốn là một Thiên tổng nổi tiếng dưới trướng tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc. Đỗ tổng binh xưng là Đỗ Phong Tử (*), khi lâm trận giết địch chẳng màng đến mưu lược chiến trận gì, càng chẳng biết gì về phối hợp nhiều loại binh chủng, thông thường địch ta đôi bên vừa chạm trán liền đều lập tức dẫn quân ùa vào đánh như ong vỡ tổ, thành một vòng hỗn chiến. Tay lão cầm một thanh đại khảm đao sống dày nặng sáu mươi cân, chưa mấy ai có thể ngăn được lão ta, quả đúng là “người cản giết người, phật cản giết phật.” Có điều hai quân đối chiến thì không phải cứ cá nhân làm ra vẻ anh hùng là đã có thể quyết định được thắng bại. Lão ta tuy là hiếu chiến, tự tay giết chết Thát Đát rất nhiều, nhưng lúc nào cũng đều là thua nhiều thắng ít, mỗi khi bại trận thì lấy đao chém vào khôi giáp để phát tiết. Không ngờ tác phong vị Mẫn huyện lệnh này lại giống với tổng binh đại nhân của lão ấy như đúc. (*: lão Đỗ điên)

Giang Bân cuống cả lên, nếu Mẫn huyện lệnh mà có mệnh hệ gì thì y có mười cái đầu cũng không đủ chém, thế là lúc này cũng bất kể thủ hạ đều là bộ binh, lập tức vung đao quát lớn:

– Theo đại nhân, giết cho ta!

Giang Bân này khoẻ hơn người, lại giỏi thuật cưỡi ngựa, sử dụng hai thanh trảm mã đao dài ba thước, hai tay cầm đao, chỉ dùng chân để điều khiển ngựa, điên cuồng đuổi theo huyện thái gia Mẫn Văn Kiến.

Bốn mươi tiểu binh thấy vậy đành phải ra sức đuổi theo sau đít ngựa. Đêm khuya đường trơn, tuyết phủ dày đặc, trong khoảnh khắc đã không còn bóng dáng đội hình gì nữa, trở thành một đám binh lính mất chỉ huy.

Trái lại, Huyện thái gia cưỡi một con ngựa tốt, nên chỉ trong chốc lát đã chạy hết khoảng cách một tầm tên. Lão thả lỏng dây cương, hai tay nhấc đao, như một cơn lốc đánh thốc về phía gã thanh niên tầm hai mươi tuổi đang được đám người vây quanh. “Cầm tặc tiên cầm vương” (*), vị huyện thái gia nghèo chữ này vẫn biết cái đạo lý đấy. (*: Bắt giặc trước hết bắt vua)

Dưới ánh lửa của ngọn đuốc, gã thanh niên đó vận một chiếc áo khoác bằng da hổ, vai đeo cung, tay cầm một thanh trường thương vắt ngang qua yên ngựa. Sứ mệnh của hắn chính là gây rối trú quân trong thành, hù doạ bọn họ, ngăn không cho bọn họ xuất thành cứu viện quan binh của trạm dịch Nhị Lý Bán. Nhiệm vụ này có thể nói là hết sức nhẹ nhàng.

Vừa đến dưới chân thành, hắn liền phân phó thủ hạ mỗi người cầm hai bó đuốc, phi ngựa khắp các khu đất xung quanh, phô trương thanh thế để doạ dẫm, còn bản thân hắn thì đứng ở chỗ này lớn tiếng chửi mắng. Trước đó hắn cũng đã biết sơ về quân thủ thành ở nơi này, ước đoán rằng quân phòng thủ trong thành không nhiều, chủ quản huyện lị lại là quan văn, dưới thanh thế như vậy tuyệt sẽ không dám ra thành nghênh chiến, cho nên đã có chút lơ là.

Cũng phải nói là hắn xui xẻo, hôm nay đụng phải lão huyện lệnh điên dưới trướng của lão tổng binh Đại Đồng điên, không những ra thành nghênh địch mà còn đơn thương độc mã nhào tới đánh. Vì vị tướng lĩnh Thát Đát này đứng cách cổng thành một tầm tên, mà binh sĩ thủ hạ Mẫn Văn Kiến vừa ra khỏi thành liền lao vào đánh, thậm chí đuốc cũng chưa châm, cho nên đứng ở đây hắn không hề hay biết quan binh đã rời thành. Tuy là Mẫn huyện lệnh có lớn tiếng quát ở dưới thành, nhưng vì khi đó hắn cũng đang rống họng chửi mắng quan binh trên thành cho nên không có nghe thấy, còn cho rằng quan binh Đại Minh trên thành đang chửi lại.

Lúc này tuyết rơi ngập trời, Mẫn huyện lệnh cưỡi ngựa đen, vận chiếc quan bào màu xanh, hoà cùng một khối với màn đêm. Vó ngựa tuy nhanh nhưng khắp nơi đều là kỵ binh Thát Đát đang thoả sức phóng ngựa phô trương thanh thế, cho nên bọn chúng lại càng không để ý. Mãi đến khi Mẫn huyện lệnh xông đến trước mặt, hai tay giơ đao, đánh thẳng vào trong đám người, thì lúc này, thấp thoáng dưới ánh lửa của hơn chục bó đuốc, bọn chúng mới nhìn rõ được kẻ này là người của Đại Minh.

Một bên thì không chút chuẩn bị, một bên thì phóng ngựa như bay, đến lúc phi đến gần thì gã thanh niên khoác áo da hổ đó mới kinh hãi trợn tròn đôi mắt. Chỉ thấy trước mặt một người đang cưỡi ngựa phóng đến, người trên lưng ngựa vận áo bào quan văn Đại Minh, thấy rõ trước vạt chiếc quan bào đó thêu một con chim nhỏ màu vàng đang giương cánh. Trên đầu người này còn đội một chiếc mũ ô sa, hai cánh chuồn lập loè lắc lư hết cỡ, song nhờ tính đàn hồi cực tốt mà vẫn chưa bị đứt rời.

Vị quan văn trên ngựa này mặt đen xì xì, cặp mắt bé xíu trợn tròn, râu quai nón đầy cả mặt, hai tay giơ cao lên trời, tạo nên một tư thế kỳ quái.

Ngựa phi nhanh như chớp, mấy chục tên Thát Đát nhất thời không kịp phản ứng, đến khi hai cánh tay ở tư thế quái dị đó nhằm vào vai đeo khố của gã thanh niên vận hổ bào bổ mạnh xuống, thì lúc này, dưới những ánh lửa rọi sáng một khoảng trời, bọn chúng mới phát hiện trong tay vị quan văn Đại Minh này đang cầm một thanh đại khảm đao sắc bén.

Chương 20 : Huyện thừa gầm thét

Mượn sức khoái mã vọt tới, thanh đại khảm đao nặng hơn bốn mươi cân xé gió vù vù khuấy cho tuyết trắng bay tán loạn đầy trời. Ngựa đến đao bổ, thanh niên kia đã không còn tránh kịp. Khi hắn còn đang sợ hãi, mới nhấc cán thương lên khỏi yên ngựa thì lưỡi đao đã chém chéo xuống.

Một cột máu tươi bắn lên, chiếc đầu không biết đã lăn về phía nào. Một đao này chém từ cổ bên phải xuống đến tận sườn trái, xẻ mất nửa thân người, nửa bờ vai cũng không thấy đâu. Trong cơn mưa máu, phần còn lại của cái thân thể không đầu lắc lư mấy cái rồi ngã nhào xuống ngựa.

Đại đao lóe lên, quay vòng vòng trong tay Mẫn huyện lệnh nhẹ như không. Bó đuốc trên tay đối phương chính là mục tiêu rõ ràng nhất, lão vung đao, trái đâm, phải quét, liên tục bổ, chém. Dù sao chung quanh cũng đều là kẻ địch, do đó lão chém giết mà không hề e dè.

Những kẻ này đều là anh hùng trên lưng ngựa, vốn sẽ không phản ứng chậm như vậy, có điều khi thấy thanh niên mặc hổ bào ở giữa vừa đối mặt liền bị Mẫn Văn Kiến chém chết thì bọn chúng đã bàng hoàng. Sự bàng hoàng này tuy chỉ diễn ra trong chốc lát, nhưng đại đao của Mẫn huyện lệnh đã chém chết năm tên.

Lúc này những tên khác mới hét lên một tiếng, nháo nhào phóng ngựa tháo chạy, đồng thời ném đuốc về phía Mẫn huyện lệnh. Mẫn huyện lệnh vung đao gạt những bó đuốc ra, hăng say chém giết, còn lớn tiếng cười phóng ngựa đuổi theo không tha.

Giang Bân ở phía sau thấy vậy hốt hoảng la lớn:

– Mẫn đại nhân, hãy mau trở lại!

Mẫn Văn Kiến cũng chả thèm để ý, đuổi theo một bóng đen ở phía trước, quát to một tiếng, vung đao bổ xuống. Chỉ thấy tên đó đột nhiên ghìm cương, con ngựa tung hai vó trước, hí lên một tràng. Một tiếng “keng” vang lên, Mẫn huyện lệnh cảm thấy hai cánh tay tê rần, không khỏi trừng mắt khen:

– Khí lực thật mạnh!

Tên tướng lĩnh Thát Đát đó có nỗi khổ không thể nói ra. Vũ khí mà hắn sử dụng chính là Tam Cổ Thác Thiên Xoa (đinh ba), toàn thân bằng thép, luận về cân nặng không hề kém đại đao của Mẫn Văn Kiến, luận về lực cánh tay lại càng mạnh hơn. Nhưng Mẫn Văn Kiến là vung đao bổ thẳng, còn hắn là đỡ vội, cho nên mặc dù khí lực của hắn mạnh hơn ba phần, lần này hai tay vẫn bị chấn đến tê rần. Đại đao của Mẫn Văn Kiến tuy bị mẻ một miếng, nhưng cây xoa của hắn cũng đã bị chém cong queo.

Tên này quyết đoán kịp thời, lập tức trở tay phóng mạnh cây xoa đã bị chém cong vào người Mẫn Văn Kiến, sau đó giật cương, rạp người thuận theo quan đạo phi như tên bắn về phía trước, đồng thời lấy cung đeo trên lưng xuống.

Mẫn Văn Kiến vung đao gạt văng cây Thác Thiên Xoa, đang định tiếp tục truy đuổi thì ở mặt bên đột nhiên xông ra một thớt ngựa. Tên trên ngựa cầm thương đâm tới, may nhờ những cây đuốc trên mặt đất còn chưa tắt hẳn, vừa nhác thấy tên đó, không kịp ngả người tránh, Mẫn huyện lệnh vội đưa đao lên đỡ, gạt cây thương ra.

Ngay sau đó, phía bên phải vang lên một tiếng hét, một thanh trường đao vụt chém tới. Mẫn Văn Kiến đỡ trái thì lại hở phải, ba người giáp chiến tạo thành một vòng tròn. Lúc này tuyết lớn mịt mù, hoàn toàn phải dựa vào vài cây đuốc còn chưa tắt trên mặt đất để soi sáng, cho nên bọn họ đều rất cẩn thận, không ai dám áp sát vào.

Kỵ binh Thát Tử xa gần đã phát hiện thủ lĩnh bị tập kích, bèn nhao nhao hò hét xông đến. Cũng may trời quá tối, lại có hai tướng lĩnh Thát Đát đang cùng lão loạn chiến, nên bọn người Thát Đát kia không thể phát huy sở trường cưỡi ngựa bắn cung. Bằng không, cho dù có một thân võ nghệ thì Mẫn huyện lệnh cũng khó tránh bị bắn thành con nhím rồi.

Lúc này Giang Bân đã phóng ngựa đến phía trước, cổ tay rung lên, hai thanh mã đao xảo diệu vung ra tạo thành hai đóa hoa đao. Hai chân móc chặt vào bàn đạp, y nhổm người dậy, song đao như gió táp mưa sa giao thủ với tên Thát Đát cầm thương hơn chục hiệp, bức lui hắn, sau đó lập tức quay về phía Mẫn Văn Kiến hét lớn:

– Đại nhân, một khi đuốc tắt chúng ta sẽ bị vây ở ngoài thành đó! Hãy mau về thành!

Mẫn Văn Kiến ngẩn người, vung đại đao lên, chạm với đao của tên nọ làm xẹt lên một loạt tia lửa, đoạn quay đầu ngựa nói:

– Nói đúng lắm, chúng ta về thành!

Hai người quay đầu ngựa, mở đường máu về thành. Chung quanh hơn chục tên Thát Đát cầm đao, thương không ngừng quấn lấy. Mẫn Văn Kiến cũng không biết một đao bất ngờ vừa rồi lại có thể giết chết Húc Liệt Bột Tề, con trai thứ hai của tiểu vương tử Thát Đát Bá Nhan Mãnh Khả, lúc này mắt thấy bốn bề là kỵ binh Thát Đát ùn ùn liều mạng xông tới, nếu hai người bị vây lại thì thật sẽ không thể trở về thành, cho nên lão cũng không ham chiến nữa; vũ khí vừa chạm liền đánh bật công kích đối phương, cùng Giang Bân chém giết cướp đường quay về.

Lúc này, tên tướng lĩnh Thát Đát bị Mẫn huyện lệnh một đao chém cong cây Thác Thiên Xoa phải thảm bại bỏ chạy khi nãy cũng đã quay đầu ngựa đuổi theo. Hắn rất hận vị quan văn triều Minh này, cũng chẳng thèm quan tâm đến quan binh triều Minh đang rút về, chỉ từ xa dán mắt nhìn vào ánh sáng sắc bén loé lên lúc Mẫn huyện lệnh vung đại đao, giương cung lắp tên tìm cơ hội.

Vừa mới chạy được nửa đường, nhác thấy huyện thái gia và bả tổng đánh ngược trở về, bốn mươi tay binh sỹ lập tức quay đầu lao về phía cổng thành, bốn bề kỵ binh Thát Đát không ngừng truy đuổi. Chỉ tội cho mấy tay đao thuẫn binh, lúc này có thể nói là đã mất sạch đội hình, lại không có trường thương binh phối hợp, căn bản không chống nổi thiết kỵ của bọn người Thát Đát quá hai hiệp, trong nháy mắt đã bị kỵ binh Thát Đát đuổi tới đâm chết bảy tám người.

May mà bọn họ cách thành không xa, lúc này đã nằm trong tầm bắn của cung thủ trên đầu thành. Cung thủ trên thành thấy kỵ binh Thát Đát cầm đuốc phi đến, lập tức bắn tên như mưa, bức lui bọn chúng.

Thát Tử thấy vậy, lần lượt dừng ngựa, gác binh khí, rút cung tên sau lưng ra bắn theo. Tuy phía trước là một khoảng tối mù, không nhìn rõ bóng người, hoàn toàn không phát huy được kỹ thuật bắn tên của bọn chúng, song vẫn có gần mười binh sỹ trúng phải loạn tiễn, trong đó mấy người bị thương nhẹ, trên lưng còn cắm tên sắc, lảo đảo, thậm chí bò lết vào trong thành.

Mẫn huyện lệnh vừa phóng ngựa đến cổng thành thì tên quan quân Thát Đát kia thấy cơ hội sắp vuột mất, lập tức buông cung, một mũi tên bay “vút” ra. Áo giáp Mẫn huyện lệnh mặc chính là tỏa tử giáp, không sợ búa bổ đao chém, nhưng những kẽ hở giữa các móc khóa lại không thể ngăn cản tên bắn vào. Lão chỉ cảm thấy lưng chợt rung lên, đau rát; mũi tên nhọn kia đã bắn trúng vị trí dưới xương bả vai.

Một tên này bắn ra rất mạnh mẽ, móc khóa của tỏa tử giáp rất khít, vậy mà sau khi bị móc khóa chặn lại một phần đầu tên hình tam giác vẫn xuyên vào. Nếu không phải đã bị chặn lại một phần, một tên này e rằng đã xuyên thẳng vào tim.

Mẫn huyện lệnh vội cúi rạp người, thúc ngựa phóng nhanh vào trong thành. Đằng sau Giang Bân múa song đao, phóng vào như một cơn gió. Số binh sỹ còn lại ào ạt chạy vào thành, rầm một tiếng, cửa thành đã được đóng lại.

Đám người Dương Lăng lũ lượt từ trên tường thành kéo xuống. Mẫn huyện lệnh nhảy xuống ngựa mà vẫn cười ha hả:

– Quá đã! Quá đã! Mẹ nó, nếu lần này mà có một đội kỵ binh thì lão tử đã chém sạch cái đám Thát Tử này rồi.

Thấy trên lưng lão cắm một mũi tên lông chim mà mặt lại tỉnh như không, Dương Lăng trợn tròn mắt. Y vội vàng kêu lên:

– Đại phu, mau tìm đại phu, đại nhân bị trúng tên rồi!

Mẫn đại nhân phẩy tay cười nói:

– Vết thương vặt này thì nhằm nhò gì.

Nói đoạn lão bước tới trước mấy bước, đột nhiên cảm thấy choáng váng, đầu gối nhũn ra, suýt tý nữa ngã xuống đất, may mà Giang Bân thân thủ linh hoạt kịp thời bước tới đỡ lấy lão.

Mẫn đại nhân lắc lắc đầu, chửi đổng:

– Bọn chó Thát Tử đáng chết! Trên tên… có tẩm độc.

Lão vừa nói xong thì ngất đi. Lúc này mọi người ai nấy đều luống cuống tay chân, vội vàng ba chân bốn cẳng khiêng lão lên lầu gác trên tường thành để nằm sấp xuống giường.

Giang Bân cầm lấy một chiếc đèn dầu lớn ở trên bàn, xé áo của Mẫn huyện lệnh ra. Nhìn thấy đầu tên cắm vào trong kẽ hở của tỏa tử giáp, y cũng không dám rút bừa, lập tức quát lớn:

– Đại phu đâu? Mau đi tìm đại phu!

Vài người ở cạnh đó vội cuống cuồng chạy đi. Mấy vị đồn trưởng bên dưới cũng phái người đem hết mấy binh sỹ bị thương vào trong lầu gác, bố trí nằm trong một tầng. Chỉ một lát sau, lang trung lưng đeo hòm thuốc đã được dẫn vào. Ông ta cưa gãy mũi tên trên người Mẫn huyện lệnh, cởi khôi giáp của lão ra. Chỉ thấy chỗ tên cắm sưng lên một cục to như trứng ngỗng, đen sì bóng nhẵn, đã rỉ ra một chút máu tanh.

Giang Bân khẩn trương hỏi:

– Đại nhân thế nào rồi? Có nguy hiểm đến tính mạng không?

Lang trung kia đầu hai thứ tóc, bôn ba trong quân đội đã nửa đời người, thường hay xử lý các loại vết thương. Tuy trước mặt là Huyện thái gia, lão cũng không quá lúng túng, lập tức lấy từ trong hòm ra một con dao bạc, rạch vào chỗ vết thương sưng tấy đen sì kia, tức thì máu đen ứa ra. Mẫn huyện lệnh vẫn nằm yên, không hề có cảm giác.

Lang trung dùng vải bông thấm máu, đưa lên mũi ngửi ngửi, rồi thở phào nói:

– Thật may, đây là độc của Lang Xỉ thảo (cỏ răng sói), độc tính cũng không mạnh. Đại nhân chém giết trên chiến trường, độc tố lan nhanh nên mới hôn mê. Chờ tiểu nhân lấy hết máu độc ra, kê thêm mấy toa thuốc, nghỉ ngơi dăm ba ngày là có thể bình phục rồi.

Mọi người ở bên cạnh nghe xong mới thở phào nhẹ nhõm. Ngay lúc này một đám người đột nhiên từ bên ngoài tiến vào. Dương Lăng quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Hoàng huyện thừa vẻ mặt u ám đang dẫn đầu, Vương chủ bộ, điển sử (sử quan) Lưu đại nhân, Phùng tuần kiểm (quan tuần sát) cùng với Hồng bộ đầu đến muộn dẫn một đám người vội vã theo sau. Y vội bước tới nghênh đón:

– Hoàng lão, ngài đến rồi.

Hoàng huyện thừa nghiêm mặt ừm một tiếng. Lão đang ở dưới thành thì nghe nói Mẫn huyện lệnh bị trúng tên độc, lúc này lạnh lùng lườm mắt hỏi:

– Mẫn đại nhân ra sao rồi?

Dương Lăng vội vàng đem mọi việc kể lại một lượt. Hoàng huyện thừa nghe xong liền đập bàn giận dữ mắng:

– Khốn khiếp! Đồ con lừa! Thật đúng là tên điên!

Dương Lăng nghẹn họng, không biết lão đang chửi mình hay là đang chửi Mẫn huyện lệnh. Mặc dù phẩm tước của Hoàng huyện thừa chỉ thấp hơn Mẫn huyện lệnh một cấp, chức vị năm đó lại cao hơn, nhưng cái kiểu ngang nhiên nhục mạ quan trên như vậy cũng quá vô lễ rồi.

Hoàng huyện thừa trán nổi gân xanh: lão đã thực sự nổi giận. Bình thường đối với những chuyện trong huyện lão không nghe không hỏi đơn thuần là vì tình cảm cá nhân, nhưng hiện giờ giặc ngoài xâm phạm, một khi thành bị phá thì gần vạn tính mạng toàn thành, bao gồm cả cha mẹ già một nhà của lão e rằng sẽ đều khó sống nổi, thử hỏi lão làm sao không giận?

Râu vểnh ngược, chỉ chỏ lung tung, Hoàng huyện thừa lớn tiếng quở mắng:

– Các ngươi cũng không biết khuyên nhủ đại nhân, lại còn hùa theo y làm càn. Hiện giờ trong thành đã loạn ra cái dạng gì rồi? Chiến sự chưa rõ ràng mà đã có hàng loạt bá tánh náo loạn ở cửa bắc, nếu không phải ta và Phùng tuần kiểm kịp thời chạy đến dẹp đuổi bọn họ thì có lẽ bây giờ bá tánh toàn thành đã bỏ chạy hết một nửa rồi.

– Thành cũng không có bố trí phòng thủ gì cả. Nếu không phải Thát Tử kéo đến vội vàng, không có sự chuẩn bị, bọn chúng há chẳng phải đã dễ dàng đánh lên thành rồi sao? Thân là quan phụ mẫu một huyện mà không biết tính cho toàn cục, hữu dũng vô mưu, chỉ biết khoe cái dũng của kẻ thất phu, thật chẳng đâu có cái lý này…

Hiện tại Mẫn huyện lệnh đang hôn mê bất tỉnh, quan chức cao nhất ở đây chính là Giang Bân Giang bả tổng, cũng là quan thất phẩm. Nhưng thời đấy võ quan địa vị rất thấp, phẩm cấp tuy ngang nhau nhưng địa vị lại thấp hơn huyện thái gia đến mấy bậc, quyền lực thì lại càng không thể sánh bằng, cho nên đứng trước mặt vị lão huyện thừa này y cũng không dám nói gì. Trên vọng lâu tuy có mấy chục người chen chúc, nhưng lại im phăng phắc, mặc cho con mèo già lâu nay không ra oai tha hồ lớn tiếng gầm thét…

❮ sau

Avatar

Các bạn đăng ký thành viên hội nhé…!
→Free vip→Đọc và nghe audio truyện/ 0 quảng cáo→Yêu cầu truyện / Ưu Tiên♥Ngoài ra AudioSite là Website do hội Mê Đọc Truyện thành lập – chính vì vậy Đọc Truyện trên website giảm 90% xuất hiện quảng cáo nhé !