[Dịch] Ngược Về Thời Minh
Tập 1: Thiện nhân chín kiếp (c1-c10)
❮tiếp ❯Chương 1 : Thiện nhân chín kiếp
Cầu Nại Hà chật hẹp âm u vắt ngang qua dòng Vong Xuyên cuồn cuộn (1), kéo dài tới tận chốn chân mây sâu thẳm trong hư vô. Những quỷ hồn chân không chạm đất đang nghẹn ngào uống bát canh Mạnh Bà để bước vào một kiếp sống mới đầy bí ẩn khôn lường.
Từ sâu thẳm phía chân mây như có một lực hút vô hình khiến cho một khi đã bước chân lên cầu thì đám u hồn không thể quay lại được nữa, chỉ có thể lững lờ trôi về phía trước, như những con thiêu thân lao mình vào lửa.
Đúng vào lúc này, một giọng nói hết sức hung hăng, kiêu ngạo chợt vang lên:
– Ta phải kiện! Nhất định phải kiện!
Theo tiếng nói, một gã trai trẻ trông rất bảnh bao từ phía bên kia cầu Nại Hà bước đến. Đầu tóc y chải chuốt kỹ lưỡng, chỉnh tề đến bóng mượt, bận một bộ âu phục đính rất nhiều kim tuyến, trông như một ngôi sao ca nhạc mới vừa từ sân khấu bước xuống.
– Xoảng!
Bát canh Mạnh Bà đậm mùi rơi xuống đất. Những nếp nhăn xếp đầy trên khuôn mặt của Mạnh Bà càng hằn sâu hơn. Bà thở dài lẩm bẩm: “Đã là lần thứ chín, lần thứ chín rồi! Cái tên gây họa này lại quay về.”
Bộ đôi Ngưu Đầu, Mã Diện (Đầu Trâu, Mặt Ngựa) bước theo sau quỷ hồn trông như ngôi sao ca nhạc đó. Cặp mắt trâu của Ngưu Đầu trợn ngược hết mức, còn khuôn mặt của Mã Diện thì chảy dài hơn cả mặt lừa. Tất cả chỉ bởi cái gã Trịnh Thiếu Bằng thuộc thành phần phải cấm tiệt lai vãng theo quyết định của bọn họ đã lại quay trở về.
Đây là lần thứ chín y chết. Truyền kỳ về tám lần đầu thai của y bắt đầu bằng lần rơi thùng cáp treo ở núi Nam Thương. Nhờ đỡ cho một bé gái ba tuổi trước khi ngã mà y tích được âm đức, vì vậy tuổi thọ được tăng thêm ba năm. Nhưng xui xẻo cho bọn Ngưu Đầu, Mã Diện đang phải vội quay về tham dự buổi tiệc cưới của con gái Thành hoàng lão gia, không đợi đến khi y ngã xuống chân núi mà chúng đã tóm lấy hồn phách của y ngay khi y còn lơ lửng trên không.
Mãi đến khi bọn chúng tỉnh lại sau cơn say bí tỷ, phát hiện rằng mình đã bắt nhầm người thì thể xác của Trịnh Thiếu Bằng ở trên dương thế đã bị hỏa táng. Để trốn tránh trách nhiệm, bọn chúng buộc lòng phải đút lót Thôi phán quan, nhờ ông ta tống y về dương gian, cho y mượn xác sống lại để hưởng hết ba năm tuổi thọ ấy.
Nào ngờ… trong vòng có một năm mà y đã chết đến tám lần, không lần nào sống quá hai tháng. Phải nói là Thôi phán quan đối đãi với y rất là chu đáo. Trong lần chuyển thế đầu tiên, Phán quan đã cho y nhập thân vào một phú ông ở Ôn Châu vừa mới bị chết đuối. Phú ông này mở bốn công ty trang phục, tiền của có đến ba trăm triệu, năm nay sáu mươi tám tuổi, cô vợ lại chỉ mới hai mươi tám, ba cô tình nhân như hoa như ngọc tuổi lại càng nhỏ hơn, nhỏ nhất chỉ mới mười tám. Bấy nhiêu đó đủ để cho y vừa lòng rồi, đúng không?
Vấn đề là… lão phú ông này chết đuối không phải ở dưới sông, cũng chẳng phải ở trên biển, mà là chết đuối ở trong bồn tắm. Trong lúc tắm ông bị ả vợ yêu kiều quyến rũ dìm cho chết.
Đang lơ lửng ở trên không chờ nhập xác, Trịnh Thiếu Bằng nhìn thấy cảnh ấy mà sởn tóc gáy. Thế là y khóc lóc nỉ non, rất không cam lòng khi bị Ngưu Đầu, Mã Diện đẩy vào trong thân thể của lão phú hào mới vừa chết đuối. Y thật sự không hưởng thụ nổi loại “diễm phúc” như vậy.
Sau vài tuần lễ, y đã nắm rõ toàn bộ tình hình tài chính và hoạt động của công ty. Sau đó, y đem một phần ba tài sản chia cho người vợ thuở cơ hàn và mấy đứa con trai mà y đã bỏ rơi, còn lại bao nhiêu y đều đem đi làm từ thiện hết.
Một tháng sau, ả vợ xinh đẹp khi thấy y rõ ràng đã chết mà giờ lại sống sờ sờ, hơn nữa còn nhìn ả với một ánh mắt kỳ quái, đã bị doạ cho phát điên, vơ lấy một con dao gọt trái cây đâm y không ngừng. Đến khi Ngưu Đầu, Mã Diện nghe tin cấp tốc chạy tới thì cái thi thể đó đã thủng lỗ chỗ, nếu cho sống lại trông sẽ hơi tởm, thế là bọn chúng đành phải lôi y trở về địa phủ.
Dĩ nhiên Trịnh Thiếu Bằng sẽ không nói toạc ra là y ghét cái thân thể của lão già ấy, nơi cần “mềm” thì lại cứng đơ, chỗ cần “cứng” thì lại mềm xèo, nên đã sớm muốn tìm chết cho rồi. Thế là Phán Quan đại nhân lại phải vắt nát óc suy nghĩ rồi để y nhập vào xác một vị phó thị trưởng vừa mới bị bệnh chết.
Vị phó thị trưởng này mới bốn mươi tám tuổi, có thể xem như là độ tuổi sung mãn, đang nằm trong phòng bệnh cao cấp, khắp người cắm chi chít những ống dẫn. Lúc mới nhập viện thì người đến thăm đông nghịt, nhưng kể từ khi bác sỹ điều trị báo với cấp trên chuẩn bị lễ truy điệu thì phòng ông nằm đã trở nên vắng tanh.
Chưa từng nghĩ là mình có thể làm quan to đến như vậy nên thực sự Trịnh Thiếu Bằng cũng muốn chọc trời khuấy nước một phen. Nhưng y không thể nào chịu nổi cảnh lấy một người phụ nữ tuổi xấp xỉ mẹ mình làm vợ được.
Vì vậy cả ngày y nằm trong bệnh viện cáo ốm, nhất định không chịu về nhà. Đến khi phát hiện lão phó thị trưởng này hóa ra lại là một thành viên trong một đám tham quan hủ lại, lúc bấy giờ y mới thở phào nhẹ nhõm.
Y bèn thu thập một chồng chứng cứ chuyển giao cho văn phòng kỷ luật tỉnh ủy. Thế là trong lúc tổ chức nghiêm khắc điều tra, xét xử vụ án này, y đã “vinh dự” và “chủ động” bị đồng bọn trước đây thủ tiêu.
“Than ôi, nhân vô thập toàn!”, Trịnh Thiếu Bằng đành than thở như thế. Tại sao trên đời lại không có được một công tử lịch lãm, ngọc thụ lâm phong, phong lưu phóng khoáng, anh tuấn tiêu sái, tuổi trẻ nhiều tiền chứ nhỉ?
Á… thật ra không phải là không có. Nhưng mà cái đám thanh niên phù hợp mấy cái điều kiện trên đều khỏe như vâm, ăn uống ngon lành. Y muốn nhập được vào xác bọn chúng thì còn phải chờ chán.
Khó khăn lắm, mãi đến lần thứ tám y mới may mắn nhập được vào xác của một ngôi sao ca nhạc phong lưu tiêu sái, nổi tiếng khắp Hương Cảng, Đài Loan. Coi như cũng đã thỏa tâm nguyện của y rồi, nói chung cũng xứng để y hưởng nốt hai năm thọ còn lại chứ nhỉ?
Dè đâu… y bỗng dưng lại chết quay về, đừng nói là Thôi phán quan, thậm chí ngay cả Ngưu Đầu, Mã Diện cũng muốn điên lên.
Trịnh Thiếu Bằng lại cảm thấy nhẹ nhõm. Mới sung sướng nhập vào xác ngôi sao ca nhạc vừa mới chết vì bệnh chưa bao lâu thì y đã kinh hoàng phát hiện: không ngờ cái gã thanh niên bảnh bao xinh đẹp khiến cho biết bao thiếu nữ điên cuồng vây quanh kia lại là một gã đồng tính, lại còn là một gã đồng tính tính nữ.
Nhìn những ánh mắt tràn đầy u oán của mấy tay bạn nhảy khôi ngô ngày thường hay quấn lấy y giờ lại bị y từ chối “tiếp xúc”, y như muốn phát điên. “Cái tấm thân tàn hoa bại liễu này… ta đây đường đường thân nam nhi bảy thước (khoảng một mét bảy), chết đói là chuyện nhỏ, mất trinh là chuyện lớn đó!” Trịnh Thiếu Bằng đau đớn thầm nghĩ.
Cho nên… Khi công ty sắp xếp cho y đến Đại Lục để tham gia biểu diễn từ thiện cứu trợ thiên tai, vị ca sỹ nổi tiếng “vừa trải qua một cơn bạo bệnh” này đã “không cẩn thận” mà ngã xuống sân khấu, ót đập vào đá. Thế là hương hồn của y lại u oán trở về địa phủ.
Bên trong đại điện âm ty tĩnh mịch. Xếp trên một chiếc bàn bát tiên đen nặng trịch là một chồng văn thư cao quá nửa người, mà Thôi phán quan lại không thấy đâu. Ngưu Đầu, Mã Diện vô cùng kinh ngạc nhìn khắp tứ phương rồi bước đến chiếc bàn.
Trên chiếc bàn bát tiên phong vị cổ kính có đặt một màn hình trông giống như màn hình vi tính ở nhân gian, dưới gầm bàn ló ra một nửa thân người, dường như có ai đó đang chui vào gầm bàn.
Ngưu Đầu bước lên phía trước, cẩn thận gọi:
– Phán Quan đại nhân, ngài chui xuống dưới gầm bàn để làm gì vậy?
Thôi phán quan bò ra khỏi gầm bàn. Ông ta mặc một bộ quan phục xưa màu đỏ, hai cánh trên chiếc mũ cánh chuồn trông như hai chiếc lá đào (2), hao hao mấy tay tri huyện thất phẩm trên sân khấu kịch; lông mày chữ bát (3), cặp mắt ti hí, khuôn mặt nhỏ nhắn nhăn nhúm như bánh bao, trông hết sức buồn cười.
Thấy bọn chúng, ông ta liền ủ rũ than:
– Ôi chao! Còn không phải là “nhờ” cái hệ điều hành “Uyn-đầu-ết-pi” (Windows XP) này sao? Từ khi sử dụng nó, hiệu suất công tác của địa phủ tăng cao thì có đấy, nhưng cứ vài tháng phải cài đặt lại một lần. Bổn đại nhân bây giờ nhắm mắt cũng có thể thao tác thuần thục từng bước cài đặt rồi.
Càng chán hơn nữa là hệ điều hành lúc thì chết treo, khi thì chết đứng, rồi tự khởi động, bị sự cố mãi không thôi. Nghe đâu cái Luân Hồi điện ở chỗ Hồng Phán quan đã bị rất nhiều âm hồn lợi dụng lỗi của hệ điều hành mà vượt thời không, trốn về thời cổ đại làm ngựa giống (4) đấy. Mấy kẻ đó thật là, có câu “người khôn chọn chỗ cao mà ở”, bọn họ ở kiếp trước cũng chẳng có làm chuyện gì xấu xa, cớ sao lại phải tranh nhau đầu thai đi làm súc sanh chứ? Làm kiếp ngựa đâu có sung sướng gì? Nghĩ mãi vẫn không thông, thật sự nghĩ không thông!
Ngưu Đầu hơi giật giật khóe miệng, muốn cười nhưng lại cố nín: “Thôi kệ, ông ấy tuổi đã cao, không biết ’ngựa giống’ nghĩa là gì thì cũng thông cảm được. Cũng chả tiện giải thích cho ông ấy”.
Đoạn gã thay đổi đề tài:
– Hệ điều hành có vấn đề gì vậy, có muốn tiểu thần giúp ngài sửa một chút không?
Thôi phán quan lắc đầu đáp:
– Mấy cái lỗi này không nghiêm trọng. Có điều sau khi khởi động, đèn ổ cứng cứ chớp nháy liên tục cả nửa tiếng rồi mới cho bổn đại nhân sử dụng, khiến bổn đại nhân chờ đến ngủ gục luôn.
Mã Diện lầu bầu:
– Nghe nói mấy cái hệ điều hành sản xuất trong nước của chúng ta không đến nỗi nào mà, cớ sao khi đó phải mời Thành hoàng ngoại quốc về thiết kế chứ. Nghe nói Diêm Vương bệ hạ đang thương lượng với Diêm Vương phương Tây Lucifer bệ hạ, yêu cầu bọn họ phái cái tay thiết kế sư Biu-gây (Bill Gates) đó nâng cấp hệ điều hành càng sớm càng tốt đấy.
Thôi phán quan lắc đầu chán nản:
– Không được! Nghe nói vị Thành hoàng đó đã lên nhân gian nghỉ phép rồi. Sổ sinh tử không có tên ông ấy, kỳ nghỉ lại chưa kết thúc, chẳng ai kiếm được ông ta, nên giờ đành phải ráng chịu khó thôi. À đúng rồi, chẳng phải các ngươi đã xin nghỉ phép rồi sao, còn chạy tới đây làm gì?
Ngưu Đầu gắng gượng cười vài tiếng, đáp:
– Đại nhân, cái tên… cái tên không chịu sống đó lại chết trở về đây rồi. Cho y hưởng thêm ba năm thọ, y mới qua được có một năm mà đã quay về đến chín lần. Ngài thử nghĩ biện pháp gì xem, chứ cứ cái đà này ngộ nhỡ có ngày gặp phải Diêm Vương, bị ngài biết được thì sẽ rất thảm đó.
Nghe xong, da mặt Thôi phán quan lập tức co rúm lại, ông ta vội vàng nhảy bổ đến trước chiếc máy vi tính gõ lách cách một hồi, sau đó trợn tròn mắt nhìn vào màn hình lặng thinh không nói lời nào.
Mã Diện không khỏi khẩn trương, vội vác bộ mặt ngựa của gã đến hỏi:
– Sao thế, có chuyện gì ư?
Thôi phán quan đáp:
– Không có gì, máy vừa mới cài lại xong. Hệ thống thật lắm rác, kiểu này làm CPU chạy chết bỏ luôn, vận hành siêu chậm!
Ngưu Đầu nghe xong gãi gãi sừng không nói gì.
Đợi một hồi lâu, Thôi phán quan chợt biến sắc, sắc mặt biến đến độ trắng bệch trắng xanh. Nếu không phải ông đang mặc bộ quan phục thùng thình đỏ rực thì nhất định bọn Ngưu Đầu, Mã Diện đã tưởng ông ta là một quỷ tù vừa mới vượt ngục, câu lấy hồn quẳng lại vào ngục rồi.
Ngưu Đầu bất giác hồi hộp hỏi:
– Sao vậy đại nhân, chẳng lẽ hệ điều hành đã nhiều rác đến độ không thể chạy được nữa à?
Thôi phán quan cả người run lẩy bẩy, chỉ vào màn hình, than thở:
– Xong rồi, xong hết rồi, “ết-pi” (XP), lần này “lết đi” (5) thật rồi! Trời ơi, sớm biết sẽ như vầy thì lúc trước ta cứ bẩm báo thẳng với Diêm Vương các ngươi làm trái với quy tắc, câu nhầm hồn phách. Như vậy, lão phu đâu đến nổi vì bọn ngươi mà phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác. Lần này thì thảm chắc rồi!
Mã Diện khịt mũi, bực bội:
– Có gì mà thảm chứ, chẳng phải chỉ là một năm trở về tám lần thôi sao? Cùng lắm thì hai năm còn lại quay về mười sáu lần, có sá gì chứ. Để thần xem ai sẽ lì hơn ai.
Mặt như đưa đám, Thôi phán quan đáp:
– Không phải đâu, không phải đâu! Các ngươi nhìn xem, cái tên các ngươi bắt nhầm lần đó đã liên tục chết đến chín lần, mà mỗi lần đều vì làm thiện mà chết, vì vậy… vì vậy…
Thôi phán quan hít sâu một hơi, nghiến răng nghiến lợi nói tiếp:
– Bây giờ hắn đã là cửu thế thiện nhân (người tốt chín kiếp) rồi.
– Cửu thế thiện nhân? Nghĩa là gì?
Ngưu Đầu không hiểu hỏi. Lời của phán quan đại nhân thật quá sâu xa, khiến cho người ta có chút mù mờ.
Thôi phán quan run lẩy bẩy, giải thích:
– Nếu như bây giờ để cho hắn sống lại, rồi hắn lại làm thiện mà chết, vậy thì hắn sẽ là thập thế thiện nhân (người tốt mười kiếp), sẽ vượt ra khỏi sinh tử luân hồi.
Ngưu Đầu càng không hiểu:
– Thập thế thiện nhân? Thoát ra khỏi sinh tử luân hồi? Nghĩa là sao?
Thôi phán quan vỗ đùi nói:
– Chính là… hắn sẽ trở thành Phật.
Ngưu Đầu, Mã Diện đồng loạt há hốc mồm, nghi ngờ:
– Không… phải chứ? Thành Phật dễ như vậy sao?
Thôi phán quan cười khổ mấy tiếng, nói:
– Đôi khi chuyện thành Phật cũng phải có cơ duyên. Ví dụ như Quan Thế Âm Bồ Tát. Cũng vì trong ngày Phật Tổ giảng kinh truyền đạo độ cho chúng đệ tử thành phật, cũng chính là lúc nhân gian gặp phải đại nạn, Bồ Tát phát nguyện: “Chúng sinh bất độ tẫn, thệ bất thành phật!” (nghĩa là “chúng sanh chưa được độ hết thì thề sẽ chưa thành Phật”) mà đã lỡ mất cơ duyên. Mặc dù bà ta thần thông quảng đại còn trên cả chư phật, nhưng vẫn không được xưng là Phật.
Bọn chúng nghe xong không khỏi vỗ tay khen:
– Tấm lòng Bồ Tát thật là tốt, khó trách thế nhân gọi người là đại từ đại bi. Địa Tạng Vương Bồ Tát nguyện: “Địa ngục bất không, thệ bất thành Phật!” (nghĩa là “địa ngục chưa trống thề sẽ chưa thành Phật”) cũng giống như Quan Thế Âm Bồ Tát. Mặc dầu cả hai chưa thành Phật, nhưng trong lòng chúng tiểu thần hai vị đều là Phật thật sự.
Thôi phán quan than thở:
– Đại từ đại bi cũng không cứu được cái họa của bọn ngươi và ta ngày hôm nay đâu. Chỉ vì thói đời bạc bẽo, lòng dạ con người đổi thay, Phật Tổ muốn cải tạo nhân tâm, cho nên ba trăm năm trước tại Linh Sơn ngài đã ban một lời thề lớn. Ngài nguyện rằng nếu người trần có thể kiên trì làm việc thiện trong mười kiếp thì sẽ lập địa thành Phật (6). Nếu như để hắn làm việc thiện mà chết thêm một lần nữa, khi đó hắn sẽ thành Phật. Phật Tổ thần thông quảng đại, tất nhiên lúc đó sẽ nhìn thấu được ẩn tình, đến lúc đó há chẳng phải sẽ lộ ra hết hay sao?!
Ngưu Đầu, Mã Diện nghe xong cũng không khỏi ngẩn người, ngơ ngác hỏi:
– Vậy… vậy phải làm sao bây giờ? Cái tên vô lại chết tiệt này, chúng tôi vì không nỡ để hắn chịu nỗi đau ngã nát người, nhất thời có lòng tốt mà thu trước hồn phách của hắn, ai ngờ sổ sinh tử lại thay đổi bất thình lình chứ? Bây giờ phải làm sao đây?
Đột nhiên, Ngưu Đầu đảo tròn mắt vài vòng, nghi ngờ:
– Không đúng à đại nhân! Lúc cho hắn mượn xác sống lại, vì để bồi thường hết ba năm tuổi trời của hắn, bọn tôi đã hối lộ Mạnh Bà không cho hắn uống canh mà! Cho nên bất luận là hắn có chết bao nhiêu lần đi chăng nữa thì cũng chỉ tính là một kiếp thôi chứ, sao lại biến thành chín kiếp rồi?
Thôi phán quan thở dài nói:
– Lỗi của hệ điều hành…
Ngưu Đầu, Mã Diện ngây người cả nửa ngày trời rồi mới rống lên thảm thiết:
– Ta hận Biu-gây!
Thôi phán quan đăm chiêu đi lòng vòng trong đại điện. Qua một hồi lâu, lão bất chợt nhíu mày, giảo quyệt nhìn khắp chung quanh rồi vẫy bọn Ngưu Đầu, Mã Diện đến trước mặt, vân vê bộ ria chuột, nham hiểm cười nói:
– Khục khục khục, nếu sai sót máy tính của Luân Hồi điện ở chỗ của Hồng phán quan đó có thể khiến cho âm hồn xuyên qua thời không, vậy thì ta lại nghĩ ra được một phương cách. Nếu nghĩ ra được một biện pháp thu xếp cho hắn đi đến thời cổ đại mà mượn xác sống lại thì, hề hề hề…
Ngưu Đầu chớp chớp mắt, lấy làm kỳ quái hỏi:
– Vậy thì sao? Ngộ nhỡ cái tên đểu cáng đó xây một cây cầu, sửa một con đường không cẩn thận lại va đầu lên một hòn đá bé xíu mà chết, vậy chẳng phải hắn cũng sẽ thỏa lời nguyện ”thập thế thiện nhân” sao?
– Hề hề hề…
Thôi phán quan cố sức rặn một tràng cười nham hiểm:
– Phật Tổ nguyện “Thập thế thiện nhân khả dĩ thành phật (làm thiện mười đời có thể thành Phật)” là vào ba trăm năm trước. Nếu như có người đầu thai trước lúc ấy, thì cho dù hắn có chết một trăm lần cũng vẫn không thỏa điều kiện của mười đời thành Phật, ha ha ha…
Ngưu Đầu, Mã Diện nghe xong liền đồng loạt vỗ tay, nham hiểm cười lớn:
– Vậy thì quá tốt rồi! Đại nhân thật không hổ là lão già thành tinh, úi… là lão luyện thành thục…
Chương 2 : Lén vượt thời không
Trịnh Thiếu Bằng bị lôi đến trước mặt Thôi phán quan. Thôi phán quan khẽ vuốt chòm râu, ra vẻ tươi cười hòa nhã nói:
– Trịnh Thiếu Bằng, mặc dù bọn ta đã câu hồn của ngươi sớm mất ba năm, nhưng cũng đã để cho ngươi sống lại, mượn xác những kẻ không giàu thì sang, xem như không phụ ngươi. Thế nhưng ngươi lại cho rằng vẫn chưa đủ, chỉ trong vòng một năm mà đã quay về đến tám lần. Thôi được rồi, đám người hiện đại các ngươi không phải là rất thích vượt thời không trở về thời cổ đại lắm sao? Lúc trước là bổn phán quan đã sai, vậy ta sẽ đưa ngươi vượt thời không quay về thời cổ đại một chuyến, ngươi thấy thế nào?
“Về thời cổ đại?” – Trịnh Thiếu Bằng không khỏi kích động: “Mình chỉ còn có hai năm để sống, đi du lịch về thời cổ đại một chuyến cũng tốt. Tiếc là chỉ có hai năm để sống, không có cơ hội chinh chiến chém giết, hưởng thụ tư vị làm một đại anh hùng. Ừm… phải hưởng thụ cho sướng một phen! Hai năm à… làm Trụ vương hay là Tùy Văn đế? Cái nào cũng rất có diễm phúc à nha. Chọn gái là phải chọn chất chứ không chọn lượng. Còn không thì làm Sùng Trinh cũng tốt, lúc đó có thể thu được Tần Hoài Bát Diễm (1), Hồng nương tử, Trần Viên Viên này nọ.”
Thôi phán quan híp mắt vê râu, gật gù đắc ý nói:
– Trịnh Thiếu Bằng, kiếp này ta để ngươi đầu thai về thời cổ đại, dù gì thì cũng nên kiếm cho ngươi một gia đình thích hợp. Ta hỏi ngươi, ngươi có biết y thuật hay không? Đại loại như là mổ đầu giải phẫu, nghiên cứu bào chế tây dược gì đấy?
Trịnh Thiếu Bằng chỉ nghĩ tới chuyện sẽ hưởng thụ vài năm, nên vừa nghe ông ta nói vậy, liền nghĩ chẳng lẽ lão còn trông đợi ta sẽ tự thân lập nghiệp làm một thần y hay sao? Vì thế y bèn cười nói:
– Không được, nếu như bị nhức đầu sổ mũi bảo tôi tự mình đến tiệm mua thuốc thì tôi còn làm được, chứ ai mà rảnh hơi nhớ cho hết mấy thứ nguyên liệu thuốc thang này nọ kia chứ?
– Hơn nữa tôi cũng chả nhớ nổi mấy cái thuật ngữ khoa học đâu. Còn về phần giải phẩu mổ đầu gì gì đó, ông đừng có giỡn chơi chứ! Thần y Hoa Đà chỉ vì câu nói phải mổ đầu Tào Tháo mà còn bị chém cho bay đầu, tôi cho dù có biết mổ cũng không dám quay về quá khứ mà khoe khoang đâu. Người ở thời đại đó tri thức còn nông cạn, một đại thần y mà bọn họ còn không tin, cỡ tôi mà về đó khoe tài, không bị người ta gán cho là tà ma ngoại đạo đập cho chết tươi mới là lạ đó.
Nghe xong, sắc mặt Thôi phán quan chợt đanh lại. Ông cố áp chế lửa giận trong lòng, làm ra vẻ ôn hòa nói:
– Hành y là để cứu thế. Làm hạnh lâm quốc thủ (2) mặc dù nở mày nở mặt, thế nhưng… Thôi, không làm thì không làm! Ta lại hỏi ngươi, có biết chế tạo hỏa dược, nghiên cứu chế tạo vũ khí hiện đại không? Chém tướng đoạt cờ, kiến công lập nghiệp cũng là lạc thú của nhân sinh đấy.
Trịnh Thiếu Bằng đáp:
– Hỏa dược hả… tôi nhớ mang máng là phải dùng diêm tiêu (3), lưu huỳnh, rồi còn có một thứ gì chẳng nhớ nữa, phải than củi không ta? Còn về tỷ lệ thì lại càng không nhớ nổi. Nobel là chuyên gia về thuốc nổ mà khi nghiên cứu thứ này còn bị nó nổ cho cụt tay cụt chân, để một thằng gà mờ như tôi đây đi nghiên cứu cái quỷ đó, vậy còn không phải là chê đời quá dài kêu tôi thắt cổ tự tử đi cho rảnh hay sao?
– Còn về phần vũ khí hiện đại… trước tiên ông đưa tôi đến xưởng chế tạo vũ khí học hỏi vài ba năm đi! Rồi sắt thép cổ đại cũng không phù hợp với tiêu chuẩn, dù có nghiên cứu được súng thì lúc bắn chắc cũng nổ gãy nòng ấy chứ! Cho nên ông phải đưa tôi đi học vài năm để biết khai khoáng như thế nào, luyện thép ra làm sao, rèn đập như thế nào, chế tạo máy móc sao cho tốt trước cái đã. Ước chừng trình độ cỡ công nhân kỹ thuật không được đâu, làm sao cũng phải rèn luyện đạt tới trình độ công trình sư may ra mới được à! Không những vậy, mấy cái quy trình của công nghiệp hiện đại thì mấy cái công xưởng chế tạo nho nhỏ cũng không thể làm được đâu nhé. Trở về thời cổ đại, lực lượng sản xuất cùng với năng lực khoa học kỹ thuật của cả xã hội đều không đạt yêu cầu. Đã không có kỹ năng giết rồng, mà thế gian cũng chẳng có rồng (4), vậy chẳng phải là nói xàm hay sao?
Ngưu Đầu nhịn không nổi trợn trừng mắt, gắt gỏng:
– Thật đúng là vô dụng. Vậy kiếm thứ gì đơn giản chút đi. Ngươi biết ủ rượu không? Biết chế tạo ra pha-lê không? Thần y, anh hùng ngươi không làm được, vậy thì làm một đại phú thương cũng không tệ đâu!
Trịnh Thiếu Bằng nhơn nhơn:
– Ủ rượu… không biết. Nhưng mà tôi biết uống, tôi cảm thấy rượu Hồng Tinh Nhị Oa Đầu (5) uống ngon hơn rượu Mao Đài, mà lại không gây váng đầu nữa… Ông trừng mắt cái gì mà trừng! Ông đi mà hỏi xem có bao nhiêu người thật sự biết làm cái thứ quỷ này? Còn về phần pha-lê… tôi chỉ biết là nó được luyện từ cát, còn những thứ khác thì đều không biết.
– Ơ, ngó cái gì? Cho dù là công nhân xưởng pha-lê thì cũng chỉ thạo một công đoạn thôi cơ mà? Có điều tôi lại biết có loại pha-lê được gọi là pha-lê thép (sợi thủy tinh, fiberglass reinforced plastic), có loại pha-lê được gọi là pha-lê đường hóa được sử dụng trong kỹ xảo điện ảnh, có thể ông cũng chẳng biết. À… Không biết nếu đem mấy cái ý tưởng này cung cấp cho mấy tay thợ thủ công chế tạo ngói lưu ly thì bọn họ có thể sáng chế ra được không ta?
Khuôn mặt vốn đã dài của Mã Diện càng dài ra, gân xanh trên trán cũng đều bắt đầu nổi vồng. Hắn cố nén giận nói:
– Văn cũng không biết, võ cũng không thông, tay chẳng thể nâng, vai không thể gánh, ngươi nói xem ngươi làm được cái gì hả? Ngươi hễ mở miệng ra… mở miệng ra… À đúng rồi, thế đầu thai vào nhà quan lại thế gia thì sao? Tối thiểu ngươi cũng biết không ít về chế độ xã hội hiện đại, tùy tiện nêu ra mấy điểm cũng đều là những thay đổi cực kỳ tiến bộ và cách mạng trong thời cổ đại rồi. Làm một bề tôi giỏi giúp vua trị nước cũng không phải là tệ.
Trịnh Thiếu Bằng bĩu môi:
– Mã Diện huynh, không phải huynh muốn được gặp tôi thường xuyên mà đưa ra chủ ý này đó chứ?
Mã Diện ngơ ngác hỏi:
– Tại sao?
Trịnh Thiếu Bằng nói:
– Cải cách chính trị thời cổ đại tôi nhớ không nhiều, nhưng lại nhớ có một người tên là Thương Ưởng (6), rất được sự ủng hộ của vua. Tiểu tử này cũng chẳng thực hiện cải cách gì lớn lao, cũng chỉ là khuyến khích một chút cày cấy và dệt may, loại bỏ một chút đặc quyền thừa kế của quý tộc, phải dựa vào công trạng lớn nhỏ mà ban thưởng này nọ. Kết quả là gã ta bị cả một giai cấp thống trị cực lực phản đối, lôi đi cho ngũ mã phanh thây.
– Cái ông Vương An Thạch thời Tống triều còn tệ hơn, chẳng phải là chỉ cải tiến một chút từ chế độ sẵn có thôi sao? Yêu cầu xúc tiến phát triển thương nghiệp, đề cao sức chiến đấu của quân đội, cải tiến một chút về chế độ thi cử. Chỉ có mấy cái thay đổi nhỏ nhặt không đáng kể như vậy, đường đường lại là một viên tể tướng, sau lưng còn có hoàng thượng chống lưng, vậy mà vẫn làm không xong. Mặc cho ông ta ở trên ra sức hô hào cải cách, quan lại địa phương ở bên dưới căn bản không thèm nghe theo, hết đám này đến đám khác đều không chịu thực hiện, kết quả là ông ta bị bãi quan hai lần, uất ức ôm hận mà chết.
– Huynh nói xem, những thứ này chẳng qua chỉ là những tư tưởng cỏn con mà các chính trị gia vĩ đại trong lịch sử còn không sử dụng được. Tôi, một người căn bản chẳng hề biết gì về giai cấp thống trị và chế độ cổ đại, lại đi nói lung tung mấy thứ chế độ hiện đại gì đó, chưa nói là có phù hợp với nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất thời đó hay không, chỉ sợ vừa mới phát biểu cái ý thức vượt thời gian này thì sẽ liền khiến cho phe cải cách giống như bọn Thương Ưởng, Vương An Thạch đều biến thành phe bảo thủ, còn người bị ngũ mã phanh thây lại biến thành thằng tôi. Ái chà, căn bản chỉ là những lời nói suông, nói suông không những hại nước mà còn hại luôn cả tôi đó nha!
Thôi phán quan nhìn chằm chằm vào cái tên phế vật cứ thao thao bất tuyệt này hơn nửa ngày trời rồi đành bất đắc dĩ hỏi:
– Thế… ít ra thì ngươi cũng biết được dòng chảy của lịch sử, ai đắc thế ai thất thế, hẳn cũng phần nào biết mấy thứ này chứ? Kiếm một cây to mà bám vào cũng sẽ có thể sống an nhàn cả đời rồi.
Trịnh Thiếu Bằng lắc đầu quầy quậy:
– Không được đâu, không được đâu! Tôi biết được chút chút về lịch sử thì tính là gì chứ? Dù biết rõ Tần Thủy Hoàng chắc chắn sẽ có được thiên hạ đấy, nhưng ông không có tài cán gì, lại nhảy vào nói rằng hắn có thể thâu tóm được thiên hạ, rằng ông nhất định sẽ trung thành với hắn thì người ta sẽ nuôi ông chắc?
– Tôi còn biết nhà Đường có Lý Thế Dân, bên dưới có Lý Tịnh, Ngụy Trưng (còn gọi là Ngụy Chinh), còn như Trình Giảo Kim thì chả biết là có thật trong lịch sử hay chỉ là nhân vật được bịa ra trong tiểu thuyết. Nhà Tống thì biết có Khấu Chuẩn, về sau mới biết là ông ta chẳng phải nghèo rớt mùng tơi gì, trong nhà chất đầy của cải. Trung thần thì trung thần, nhưng mà hủ bại quá, tính hạn chế của lịch sử mà.
– Càng đáng sợ hơn nữa là, chiếu theo những mô tả về tính tình và cách đối nhân xử thế của bọn họ trong lịch sử hoặc là những câu truyện trong sách, nếu mà dựa dẫm vào bọn họ thì chỉ e mình chết lúc nào cũng không hay. Kiếp vừa rồi tôi là ca sỹ, diễn vai phụ một vở kịch truyền hình, có nghe một nhà sử học được mời đến kể rằng, trong lịch sử có đại gian thần tên là Nghiêm Tung (8), làm thủ phụ (9) hơn chục năm trời, đến cuối đời tài sản bị tịch biên còn không bằng một phần tư của vị đại thanh quan Từ Giai (10) làm thủ phụ trong sáu năm trước hắn nữa, mà hai người này trước khi làm quan đều là có cùng chung điểm xuất phát.
– Bà vợ của Nghiêm Tung quản con rất nghiêm. Nghiêm Thế Phiên cũng không phải là loại nhân vật như Cao Nha Nội (11) trong tiểu thuyết. Lão Nghiêm đối phó với địch thủ chính trị thì chỉ đẩy cho ngã rồi thôi. Mà mấy vị thủ phụ Từ Giai, Cao Củng (12) thì toàn đẩy cho chết mới thôi, nhưng mà mấy người này lại được chết già nha. Người viết sử không dám không lưu lại cho bọn họ mấy phần thể diện. Ai bảo Nghiêm Tung là bị chém đầu chết chứ? Ôi dào, là sách sử hại chết người rồi.
Thôi phán quan giận run cả người, ánh mắt thiếu điều muốn phun lửa, mãi một lúc sau lão mới cất giọng giần giật hỏi:
– Vậy… vậy ta đưa ngươi về thời Tống hoặc thời Nguyên thì thế nào? Tìm bản Cửu Dương thần công hay là Độc Cô Cửu Kiếm gì đó rồi làm một vị đại hiệp nha!
Mặt Trịnh Thiếu Bằng đầy vẻ vô tội, y than thở:
– Lúc đọc truyện tôi đâu có tìm hiểu kỹ, mà lão Kim thì lại không vẽ bản đồ trong đó, ngọn núi Côn Lôn lớn như thế tôi biết leo lên đâu mà tìm? Chỉ nhớ Trương Vô Kỵ bị người ta truy đuổi, sau đó rơi xuống vách núi rồi phát hiện được Cửu Dương chân kinh. Làm sao tôi có thể buộc dây thừng vào từng vách núi mà đi tìm chứ? Kiểu này nếu tôi không bị đứt dây thừng té chết, thì cũng sẽ bị rắn rết dã thú cắn chết. Cho dù có thật sự tìm được đi, ông tưởng đó là truyện tranh à? Bí kíp võ học đẳng cấp cao nhất cũng giống như mấy giáo trình đại học vậy đó, chắc chắn sẽ không có phần mở đầu giới thiệu những kiến thức cơ bản, bộ tôi xem là hiểu được hay sao? E rằng sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, không chết thì cũng phát điên.
Nước bọt văng tung toé, miệng liến thoắng đầy tự tin, y tiếp:
– Vả lại tôi là thứ gì? Cho dù tìm được Phong Thanh Dương thì lão ta sẽ bằng lòng dạy võ cho tôi chắc? Cái lão già đó trốn ở trong núi mấy chục năm không hề thu đồ đệ. Lúc lão ấy thu cái tên Lệnh Hồ Xung, ông thực sự cho rằng lão đó vĩ đại vậy sao? Ai mà chẳng biết “nước tốt không để chảy ruộng ngoài” chứ, tốt xấu gì thì hắn cũng là đệ tử phái Hoa Sơn của lão, còn được lão quan sát rất lâu cơ mà. Tôi mà không quen biết gì người trong võ lâm thì thôi không nói. Nếu không hả, Phong Thanh Dương còn chưa thu nhận, tôi đã bị Điền Bá Quang tóm đi làm dâm tặc rồi.
Lỗ mũi trâu của Ngưu Đầu xịt cả khói, gã nghiến răng nghiến lợi mắng:
– Ngươi quả là thiên hạ đệ nhất đại phế vật, vô sỉ cực độ, thật làm mất hết mặt mũi người hiện đại!
Không cảm thấy hổ thẹn mà ngược lại còn tự hào, Trịnh Thiếu Bằng dương dương đắc ý:
– Không phải vậy sao? Cường đại như Mãn Thanh tiến vào Trung Nguyên còn bị người Hán với nhân số chiếm đa số tuyệt đối đồng hóa, chỉ một tên vô danh tiểu tốt đơn phương độc mã chạy về thời cổ đại lại vọng tưởng có thể thay đổi cả một thế giới sao? Chắc chắn sẽ bị đồng hóa thôi. Người hiện đại bộ giỏi lắm hay sao? Các môn, các ngành, các sự phân công lao động trong xã hội hiện đại đều được phân chia rõ rệt đến nỗi mỗi một cá nhân chỉ biết thực hiện mà không thực sự hiểu thấu được nguyên do ngọn ngành, ai cũng như là ếch ngồi đáy giếng, đem về thời cổ đại có thể dùng được à? Còn về phần mấy cái tư tưởng hiện đại, mang đến thời đó căn bản sẽ chỉ là mầm họa gây ra rắc rối, có cũng như không mà thôi!
Thôi phán quan cũng tức giận đến hoa cả mắt, hết cách đành quay đầu sang Ngưu Đầu hỏi:
– Thời cổ đại có người nào mà không phải làm gì hết, chỉ ăn rồi nằm chờ chết hay không?
Ngưu Đầu ngang nhiên đáp:
– Có, vương hầu. Làm hoàng đế còn phải lao tâm cho quốc sự, làm một vương hầu là tốt nhất, không phải quản chuyện gì, ngược lại muốn quản thì nhiều khi sẽ xảy ra chuyện. Dù gì cũng là hoàng thân quốc thích, ăn không rồi chờ chết là được, căn bản chỉ là một cái máy tạo phân, sâu mọt của xã hội, rất thích hợp với hắn đấy.
Trịnh Thiếu Bằng nghe xong liền suy nghĩ: “Ừm! Vương gia cũng không tệ, khi không có gì làm thì dắt mấy tên cẩu nô tài đi trêu ghẹo con gái nhà lành một chút. Làm hôn quân… tốt thì có tốt, có điều lại bị người đời chửi mắng mấy ngàn năm. Làm vương gia được đấy!”
Thôi phán quan thoáng cười khổ. Lão hiện giờ chỉ muốn mời cái vị đại gia này mau mau đi dùm, có điều ngẫm lại, tống bừa hắn về thời cổ đại cũng không dễ. Nếu như hắn chưa chịu sống yên ổn được hai năm mà lại chết đi thì sẽ rất phiền phức. Vì vậy lão bèn nghiêm mặt, nói:
– Được, vậy cứ đưa hắn đi đầu thai mượn xác làm một vương hầu đi! Có điều hai năm này ngươi nhất định phải làm vương hầu cho yên ổn, đừng có đem phiền phức đến cho ta nữa! Bằng không… Hừm! Bản quan mà gặp lại ngươi sẽ đá ngươi bay về thời cổ đại cho làm một vị quan còn lớn hơn cả vương gia nữa đấy.
Trịnh Thiếu Bằng vừa nghe xong, mặt mày rạng rỡ hỏi:
– Ông muốn để tôi làm hoàng thượng hả?
Thôi phán quan sầm mặt:
– Giờ thì chưa, nhưng ngươi mà dám chết trở về lần nữa, ta sẽ “mời” ngươi đi làm Cửu thiên tuế (13) đó!
Trịnh Thiếu Bằng nghe xong lạnh cả sống lưng, vội vàng phản đối:
– Không cần đâu, không cần đâu, làm Vương gia là tốt lắm rồi! Tôi… à, bổn vương đã thỏa mãn rồi. Ơ, tôi còn chưa nói xong mà, hai vị huynh đài làm cái gì vậy?
Ngưu Đầu Mã Diện mặc kệ, cứ túm lấy y lướt ra khỏi U Minh đại điện, phóng như bay qua cầu Nại Hà, lao vào trong biển mây mênh mông.
Lục đạo luân hồi là một bánh xe khổng lồ cao ba tầng đang chậm rãi chuyển động, bề mặt bánh xe được khắc bốn chữ lớn “Chuyển Luân Thánh Vương” màu vàng rực rỡ, bên trên là bức tượng “Tam Thế Phật” bằng vàng. Khuôn mặt của vị Phật này xấu xí kỳ quái, đầu xù răng nhọn, chân đạp đầu ngao (14), miệng ngậm vành bánh xe, hai tay ôm ghì bánh xe, nghiến răng bặm môi như muốn biểu thị thần lực của ngài cũng không thể xoay chuyển được “nghiệp lực” (15) của nhân sinh.
Bên trong bánh xe phát ra sáu đạo hào quang chiếu thẳng ra bên ngoài, chia bánh xe ra làm sáu phần, lần lượt là: thiên đạo, nhân đạo, a tu la đạo, súc sinh đạo, ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo.
Quả nhiên công phá pháo đài dễ nhất là từ bên trong. Ngưu Đầu Mã Diện tìm một cớ gạt cho tên quỷ sứ đang canh gác đi khỏi, sau đó lập tức chạy đến phía trước phần nhân đạo, cẩn thận quan sát một chút rồi chầm chậm quay bánh xe thời gian ở tầng thứ hai của bánh xe khổng lồ. Cái pháp luân này quả là kỳ diệu, bánh xe thời gian vừa xoay, bánh xe thân phận của tầng thứ ba cũng theo đó hiện lên nhiều loại thân phận của xã hội đương thời. Ngưu Đầu Mã Diện quay cho bánh xe ở tầng thứ ba chỉ đến vị trí của Vương hầu.
Tám lần thất bại trước đều là do Ngưu Đầu Mã Diện đích thân dẫn y đến nhân gian tìm người thích hợp để mượn xác, lần này lại thông qua pháp luân của lục đạo luân hồi để chuyển thế. Liệu cái pháp luân này có phải là vật chí bảo trong phật môn quyết định vận mệnh họa phúc của một đời người?
Cảm thấy mới lạ, Trịnh Thiếu Bằng không kềm được chạy lên phía trước ngó một chút, khi thấy quả nhiên đang chỉ ở ngay vị trí của vương hầu, trong lòng không khỏi mừng rỡ.
Không ngờ, bởi vì y là linh thể (thân thể của linh hồn), mà Ngưu Đầu, Mã Diện cũng là linh thể, y không kềm được nóng lòng chạy lên nhìn đã đụng vào khuỷu tay của Ngưu Đầu, làm cho bánh xe thời gian khẽ dịch đi một chút, thế nhưng ba người đều không ai để ý.
Chỉ nghe “cách” một tiếng, chuyển thế pháp luân đã dừng lại. Sáu đạo hào quang chiếu ra từ trong bánh xe bỗng nhiên sáng rực một màu vàng, từ từ ngưng lại thành một chùm. Chùm tia sáng xoay tròn chiếu vào người Trịnh Thiếu Bằng. Thân thể của y bị vô số những tia sáng chiếu xuyên qua khiến cho trở nên gần như trong suốt. Ngay sau đó, hai chân y rời khỏi mặt đất, cả thân người thu nhỏ lại, lao đầu vào chùm ánh sáng vàng, trong nháy mắt đã không còn thấy đâu.
Ánh kim quang đọng lại trong phút chốc rồi tan thành sáu đạo hào quang, pháp luân chầm chậm chuyển động trở lại. Ngưu Đầu, Mã Diện vỗ tay cười lớn. Đang cười, Ngưu Đầu đột nhiên khựng lại, cặp mắt trâu chăm chú nhìn Mã Diện:
– A, hiền đệ!
– Chuyện gì vậy niên huynh (người bạn lớn tuổi hơn, giống như hiền huynh)?
– Mã hiền đệ có nhớ hắn vừa mới đầu thai vào thân xác của người nào không?
– Việc này… niên huynh không nhớ sao?
– Ài… hình như bọn mình lại phạm sai lầm nữa rồi… Lần này là vượt thời không, bọn mình không thể đích thân đưa hắn đi. Nếu như hắn không muốn chết, còn cái người mà hắn mượn xác đó lại bởi vì đã chết từ sớm nên đã đóng tài khoản ở âm ty rồi, vậy thì bọn mình biết đi đâu để câu hồn phách của hắn đây?
Mã Diện rụt cổ lại:
– Vậy… a hèm… Hiện giờ ở dưới âm gian cũng tổ chức điều tra nhân khẩu mà. Ai thọ trên một trăm thì Âm ty sẽ lập danh sách đăng ký để giám sát, cho nên hẳn sẽ không có chuyện lọt lưới mấy con cá lớn như Bành Tổ (16) đâu!
– Nói vậy có nghĩa là…
– À? Có nghĩa là gì hả? Không bằng chứng, ai dám nói là bọn mình đưa hắn vượt thời không chứ? Hề hề hề, kẻ đáng lẽ chỉ được sống hai năm mà lại sống quá trăm tuổi, đến lúc đó đã thay đổi nhân sự, người nào mà còn điều tra ra được ai đã làm chứ? Rõ ràng cái tên tiểu tử đó cũng chỉ là một trong số những kẻ lén vượt thời gian mà thôi.
– Đúng đúng đúng, kẻ nào chết kẻ đó tự chịu, chẳng liên quan cái rắm gì đến bọn mình. Ha ha ha… Mã hiền đệ, hôm qua vi huynh (xưng anh một cách khiêm tốn, giống như “ngu huynh”) có kiếm được một vò rượu ngon, ta mời đệ đi nhấm nháp một chút…
Nói đoạn Ngưu Đầu, Mã Diện cùng quàng vai bá cổ bỏ đi.
Chương 3 : Chết đi sống lại.
“Lạnh quá!” – Trịnh Thiếu Bằng khẽ cựa mình tỉnh lại. Ký ức ở tiền thế của y trong lần chuyển kiếp ngược thời gian lần này đã trở nên mơ hồ hơn. Những ký ức của tám lần chuyển thế trong năm qua và những trải nghiệm ở tiền thế trước đó cùng lẫn vào nhau khiến cho y không thể nào phân biệt được cái nào là những trải nghiệm ở tiền thế, cái nào là trải nghiệm của những lần chuyển thế sau đó. Hết thảy những ký ức đều như một đám mây lơ lửng trên bầu trời, lúc ẩn lúc hiện, không thể chạm tới, tựa như một giấc mộng hoang đường.
“Ngưu Đầu Mã Diện cứ vội vội vàng vàng lôi mình đi cứ như là tống khứ Ôn thần (1), cũng không biết đây là cái thời đại nào nữa. Tuy nhiên bọn họ có nói sẽ đem mình nhập xác sống lại làm vương hầu, vậy người mà mình nhập vào hẳn là một vị vương hầu rồi.”
“Nhưng mà nơi này là nơi nào? Sao tối tăm, lạnh lẽo thế?” – Trịnh Thiếu Bằng yếu ớt đưa tay mò mẫm. Trên người y phủ một lớp chăn mỏng, có vẻ như trời đang vào tiết đông, sự âm u giá rét tràn ngập không khí.
Đang muốn tìm hiểu chỗ ở của mình, Trịnh Thiếu Bằng chợt nghe thấy ba tiếng “tóc tóc tóc” của mõ trúc lanh lảnh vang lên, tiếp theo có người lớn tiếng hô to:
– Có khách đến… Ơ kìa, Dương lão thái gia, lão nhân gia ngài sao lại đến đây? Dương tú tài là vãn bối hậu sinh, không đáng để ngài làm như vậy đâu!
Trịnh Thiếu Bằng định thần lại: “Dương lão thái gia? Đây là kiểu xưng hô gì vậy? Bên cạnh náo nhiệt nhưng sao mình lại chỉ thấy tối thui thế này? Ôi trời… chẳng lẽ… chẳng lẽ mình đã chuyển thế vào một tên vương gia mù?”
Chỉ nghe thấy một thanh âm già nua ho mấy tiếng rồi nói:
– Chao ơi! Một nhà này của lục đệ xem như là đã tuyệt rồi, ta có thể không ghé qua một chút hay sao? Lăng nhi là nhân vật hiếm thấy của nhà họ Dương chúng ta đấy. Vị huynh đệ này của ta đến năm mươi bốn tuổi mới có độc một mụn con là đứa này, mà thằng nhỏ mới mười bảy tuổi đã trở thành tú tài trẻ tuổi nhất của Tuyên phủ chúng ta. Vốn còn muốn dựa vào nó để cho nhà họ Dương chúng ta được rạng rỡ tổ tông, vậy mà… Than ôi!
Loáng thoáng còn có cả tiếng khóc thút thít của con gái. Trịnh Thiếu Bằng có chút mơ hồ: “Rốt cuộc chuyện này là sao? Mặc dù chưa từng quay về thời xa xưa, nhưng mà mấy cái giọng điệu này nghe không giống với vương hầu thế gia à.”
Trước mắt vẫn tối đen như mực. Y sốt ruột muốn đứng lên, thế nhưng cái xác vừa mới nhập vào còn trong quá trình hồi phục, máu huyết trong chân tay tê cóng mới vừa bắt đầu lưu thông, cho nên trong một thời gian ngắn sẽ không đủ sức lực nâng người dậy. Cũng may là đã mấy lần làm hồn Trương Ba mượn da hàng thịt nên cũng quen; ở mỗi lần chiếm xác sống lại, lúc mới bắt đầu khống chế thân thể đều yếu đuối như vậy, cho nên y vẫn nhẫn nại nằm yên tại chỗ tích tụ sức lực.
Cái họng to ấy lại hô lên:
– Lão thái gia, mời ngài ngồi bên này! Các vị thân hữu hãy làm lễ!
Lập tức trong căn nhà vừa rồi hãy còn yên tĩnh đã trở nên ầm ĩ như có núi lở, khiến Trịnh Thiếu Bằng giật cả mình. Mới nãy trong phòng còn yên ắng tĩnh mịch, như thể chỉ có dăm ba người, đến khi một trận gào khóc như sói tru quỷ hú của của cả nam lẫn nữ vang lên, Trịnh Thiếu Bằng mới hiểu ra trong nhà vốn đã có nhiều người. Mấy lần chuyển thế trước cũng có khi nhằm ngay lúc mọi người trong nhà đang khóc lóc, nhưng chưa bao giờ tối thui đến nỗi xòe bàn tay không thấy ngón cả. Trịnh Thiếu Bằng chớp chớp mắt, mặc dù vẫn không trông thấy gì, nhưng trực giác cho thấy cặp mắt y không hề khuyết tật, thế nên trong lòng cũng có chút an ủi.
Chỉ nghe đám người đó kêu gào khóc lóc cái gì mà “đại huynh đệ ơi! Ngươi còn trẻ mà sao đi sớm quá vậy”, “Lăng huynh đệ ơi, sao ngươi lại chết như vậy chứ!” loạn cả lên, cũng chẳng biết cái đám người đó có quan hệ họ hàng thân thích gì với người chết hay không nữa.
Trịnh Thiếu Bằng nghe thấy chỉ muốn cười, khóc thật khóc giả cũng đã nghe chẳng phải lần một lần hai. Có điều ở thời hiện đại còn biết kềm chế, còn bây giờ nghe bọn họ hô khóc là khóc ngay, cứ như đang diễn kịch vậy, rất tức cười.
Cái giọng nói ồm ồm ấy lại hô lớn:
– Khách nhân đã làm lễ xong, thân nhân trả lễ nào!
Giọng nói vừa cất lên, những tiếng khóc lóc hỗn loạn lập tức im bặt, im đến nỗi có thể nghe được cả tiếng kim rơi. Thật không thể đoán được làm sao bọn họ có thể đồng diễn một cách thuần thục đến như vậy.
Tiếp đó chỉ nghe thấy giọng đau thương của một người con gái khẽ nói:
– Vị vong nhân (2) Dương Hàn Thị đa tạ lão thái gia, đa tạ các vị thân bằng hảo hữu!
“Vị vong nhân?” – Trịnh Thiếu Bằng nhíu mày: “Chắc hẳn những người này chính là khóc cho mình. Thế thì tốt, thậm chí vợ cũng đã cưới rồi. Nhưng mà… tại sao lại tối om thế này? Phúng điếu thì cũng không có lý gì mà phải tối như bưng chứ nhỉ?”
Đột nhiên y sực nghĩ đến cái gì đó, vội vã đưa tay ra sờ chung quanh.
Chân tay vừa mới cử động được, mặc dù còn yếu ớt chưa thể dùng sức, nhưng khi ngón tay vừa chạm vào vật ở chung quanh, trong lòng y liền có chút minh bạch. Thì ra là y đã bị bỏ vào trong quan tài.
“Trời ạ, một chốc nữa đây không phải sẽ bị chôn sống chứ?” – Lúc này Trịnh Thiếu Bằng đã bắt đầu trở nên sốt ruột, nhưng vì hiện giờ toàn thân của y đều vô lực nên cũng không biết phải làm sao.
Tiếp theo chỉ nghe cái giọng ồm ồm lúc nãy lại hô lớn:
– Các vị thân bằng hảo hữu ở trước linh cữu hãy chia buồn tiễn đưa thêm một chặng nữa nào!
Lời vừa mới dứt, những tiếng gào khóc thảm thiết lại vang lên. Lúc này âm thanh nghe đã gần hơn, đoán chừng là cả bọn đều đã vây trước linh cữu mà khóc.
Thừa cơ, Trịnh Thiếu Bằng cố gắng đưa tay gõ vào quan tài, nhưng vì chân tay vẫn còn hơi cứng nhắc, mới gõ nhẹ có mấy cái y đã cảm thấy đau muốn ngất đi. Mấy tiếng gõ yếu ớt này bị tiếng khóc rống của bọn người kia át hẳn. Không còn cách nào khác, y buộc lòng phải dừng tay.
Lúc này giọng nói ồm ồm lại vang lên:
– Gia quyến tạ lễ một lần nữa! Chư vị thân bằng hãy cố nén bi thương, chấp nhận sự mất mát. Đã đủ lời đủ lễ đủ tâm, lễ hoàn tất!
Như một vị nhạc trưởng tài ba nhất, lời gã vừa dứt, tiếng khóc lập tức ngừng bặt.
Chỉ nghe bên ngoài một trận huyên náo, sau đó giọng nói già nua kia cất tiếng:
– Dương Hàn Thị, cha mẹ chồng ngươi sớm đã ra đi, mà hôm nay Lăng nhi cũng đã theo bọn họ xuống suối vàng, để lại ngươi một mình trơ trọi. Ngươi có dự tính gì không?
Chỉ nghe tiếng một người con gái khe khẽ cất lên:
– Thúc thúc, Ấu Nương đã bước vào cửa nhà họ Dương thì chính là con dâu của nhà họ Dương. Phu quân lần này bị bệnh, mặc dù nhà nghèo xơ xác, vẫn may hãy còn bốn mẫu ruộng nương để lại cho Ấu Nương để giữ gìn môn hộ, cho dù có khổ một chút cũng vẫn có thể sống qua ngày.
Dương lão thái gia ho khan vài tiếng rồi nói:
– Ấu Nương à, tuổi tác của ngươi còn nhỏ, một mình khó mà gánh đỡ cái môn hộ này. Giờ ngươi đã là người của nhà họ Dương chúng ta, nhà họ Dương chúng ta ở nơi này cũng có thể xem là một họ lớn, dù gì cũng không thể để cho ngươi một mình vất vả qua ngày, để cho người ngoài chê cười bọn ta.
Ta và mấy lão nhân trong tộc đã thương nghị, muốn đem bốn mẫu sơn điền (3) này giao cho Tuyền nhi trồng trọt và cày cấy, để bọn Tuyền nhi phụ trách ngày cơm ba bữa cho ngươi. Ngươi là đàn bà, hơn nữa cũng xem như em dâu của nó, giao ruộng đất cho nó cày cấy, ngươi cũng bớt đi được một phần lo lắng về cơm áo gạo tiền. Ngươi thấy có đặng không?
“Chậc, lại còn có cảnh tranh chấp di sản nữa.” – Trịnh Thiếu Bằng buồn bực suy nghĩ: “Còn làm ra vẻ quang minh chính đại. Sao mấy cái chuyện này cổ kim thời nào cũng có nhỉ? Chỉ mới vừa tới phúng điếu thôi mà giờ đã trở mặt rồi, cái vị ‘thúc thúc’ này cũng thật là thiếu kiên nhẫn quá đi!”
Bên ngoài yên tĩnh một hồi rồi mới nghe Ấu Nương nói:
– Ý tốt của thúc thúc Ấu Nương xin tâm lĩnh. Ấu Nương bạc phước, phu quân mất sớm, cũng chưa hề để lại chút hương hỏa, nhưng Ấu Nương dù là nữ nhi gia đình bình thường cũng là người có học ‘Nữ Huấn’ từ nhỏ, hiểu được đạo lý “vi nhân thê tử, tòng nhất nhi chung”(4).
– Nô gia sinh là người của nhà họ Dương, chết là ma của nhà họ Dương. Dù hiện giờ trong nhà chỉ còn lại một mình nô gia, một nhà này vẫn chưa thể tính là đã tuyệt. Dương Tuyền đại bá và phu quân dù gì cũng không phải là anh em ruột thịt, thậm chí thúc thúc người cũng đã sớm phân chia tài sản cho huynh ấy ra nơi khác ở. Giờ nô gia lại đem ruộng đất cha mẹ chồng để lại giao cho huynh ấy, như vậy thỏa đáng hay sao?
Những lời của người con gái này trong nhu có cương, vừa nhắc nhở chớ nên nghĩ rằng nàng là một quả phụ trẻ tuổi vô lực, sẽ không giữ được mà đem gia sản tổ tiên bán đi, vừa ám chỉ rằng lão ta chỉ vì suy nghĩ cho nhi tử của mình mà đến đây tranh đoạt sản nghiệp của anh em con chú con bác của mình.
Dương lão thái gia bị nàng nói toạc ra tâm tư, mặt thoáng đỏ lên, nhất thời có phần không kềm chế được. Lão có tổng cộng bốn người con, duy chỉ có đứa con thứ ba Dương Tuyền này là không nghề không ngỗng, ăn chơi đàng điếm, đã tiêu xài hết sạch số ruộng đất mà hắn được chia.
Mặc dầu lão hận hắn đã khiến cho mình phải thất vọng, nhưng vì không cam lòng nhìn thấy đứa con ruột của mình sống trong cảnh nghèo khổ chán chường, cho nên lão mới dày mặt tới đây đề xuất ra lời thỉnh cầu phi lý này, chỉ mong con mình sau khi có được số ruộng đất này, có thể thay đổi làm lại từ đầu. Không ngờ con bé này tuổi còn nhỏ mà đã cương nghị, lại cứ khăng khăng cự tuyệt.
Điều mà lão không biết chính là, đứa con kia nhờ lão ra mặt đề xuất yêu cầu này với Dương Hàn Thị thật ra còn có một mục đích không thể nói ra. Dương Tuyền ăn chơi đàng điếm, xóm làng đều biết, lại còn xài hoang cạn kiệt gia sản. Từ sau khi bọn Thát Tử vào thôn cướp bóc giết chết cô vợ của hắn vào năm trước, cho đến giờ hắn vẫn chưa tìm được vợ, đã ngoài bốn mươi tuổi đầu mà vẫn còn là một kẻ lông bông.
Em họ Dương Lăng của hắn, cũng là gã tú tài mà Trịnh Thiếu Bằng vừa mượn xác nhập vào, năm nay vừa mới cưới Dương Hàn Thị, vốn tên thật là Hàn Ấu Nương, là một nữ tử xinh đẹp nổi tiếng gần xa. Người ta nói “thâm sơn dục tuấn điểu, sài ốc xuất giai lệ” (5), lời này quả thật một điểm cũng không sai.
Dương Lăng thân ôm bệnh lo toan hôn sự, mong có thể mượn chuyện thành thân để trừ vận xui, rốt cuộc ngay cả tấm khăn voan của tân nương còn chưa kịp dỡ xuống thì bệnh tình đã trở nặng, phải nằm liệt giường. Dương Tuyền mượn cớ thăm huynh đệ nhiều lần đến nhà cò cưa, kết quả đều bị Hàn Ấu Nương đuổi đi.
Nếu không phải vì đứa em dâu này là con gái của Liệp Nhân Vương (vua săn bắn) có võ nghệ giỏi giang thì hắn cũng đã nghĩ đến chuyện dùng vũ lực rồi.
Hắn vốn định bụng đoạt xong ruộng đất của nàng sẽ khống chế cuộc sống của nàng. Lúc đó, việc dần dần chiếm đoạt trái tim và thân xác của tiểu quả phụ đáng thương mới mười lăm tuổi này cũng sẽ không còn là chuyện khó nữa.
Dương Tuyền đứng một bên, cặp mắt tham lam nhìn chằm chằm vào cô em dâu trong bộ đồ tang càng lộ ra vẻ quyến rũ động lòng người. Vừa thấy nàng khiến cho phụ thân mình nghẹn họng, tính tình vô lại tức thời phát tác, hắn không nhịn được quát to:
– Hàn Ấu Nương, ngươi còn nhỏ tuổi, dựa vào cái gì mà đòi giữ gìn cái nhà này? Cha ta đây cũng là có ý tốt, không muốn ngươi đến lúc không thể chịu đựng được nữa sẽ làm ra chuyện nhục nhã gia phong cho nhà họ Dương.
Hàn Ấu Nương tuổi tác tuy nhỏ, nhưng lại rất cương liệt, nghe xong liền phất tay áo đứng dậy, mày ngài xếch ngược, lạnh lùng nói:
– Nô gia đọc sách hiểu lễ nghĩa, tuân thủ đến trọn đời. Từ khi bước vào nhà họ Dương, mỗi ngày không chút nghỉ ngơi phụng dưỡng phu quân, có chỗ nào là không phải với đức hạnh của người phụ nữ? Đại tộc Dương thị cho dù có thứ con cháu xấu xa cũng tuyệt đối sẽ không xuất phát từ nhà ta.
Dương Tuyền nghe nàng chế giễu mình, không khỏi nổi nóng, lớn tiếng mắng:
– Con tiểu tiện nhân nhà ngươi! Lăng đệ là tú tài duy nhất của nhà họ Dương ta, chúng ta đều nhờ vào đệ ấy để làm cho dòng họ nhà họ Dương được vinh dự. Nếu không phải vì bát tự (6) của ngươi khắc chết đệ ấy, thì cớ sao đệ ấy còn trẻ, thân thể trước giờ vẫn luôn khỏe mạnh lại có thể cứ nói chết là chết chứ?
Nói người phụ nữ khắc chết chồng thật sự là gán cho một tội danh không thể biện bạch, mà cũng không thể gánh nổi. Hàn Ấu Nương tính tình cương liệt, lại bị “lưỡi dao mềm”(7) giết người không thấy máu của tên vô lại này đâm cho một nhát khiến nàng giận đến run người. Đảo mắt nhìn quanh, nhân số gia đình của trượng phu vốn đơn bạc, ở chỗ này đều là thân nhân trực hệ của nhà thúc thúc, bọn họ kẻ nào kẻ nấy đều nhìn nàng với một ánh mắt kỳ quái, những cái nhìn lạnh nhạt khó chịu ấy như từng mũi kim đâm vào tim nàng.
Uất ức, bi thương, phẫn nộ, từng dòng cảm xúc lần lượt dâng lên trong lòng; người trượng phu này, từ lần gặp mặt đầu tiên thì đã nằm liệt trên giường như chờ chết. Mặc dù chưa có cảm tình gì, nhưng cái đạo lý “theo đến suốt đời” đã khiến nàng còn chưa kịp cởi áo cưới này đã phải thường xuyên bận rộn chạy đi mời thầy, tìm thuốc, bán của cải để chữa bệnh cho trượng phu, đêm ngày không ngừng chiếu cố cho y.
Chính mình đã bất hạnh như vậy, tuổi còn trẻ đã phải ở góa suốt đời, vậy mà không ngờ thi thể phu quân còn chưa lạnh, tộc nhân của y đã đến mưu đoạt gia sản, còn trút lên đầu mình cái ô danh như vậy. Thân mình thế đơn lực bạc, sau này sẽ phải sống như thế nào trong cái đại gia tộc này?
Nhất thời trong nỗi bi ai, Hàn Ấu Nương không kềm được lệ rưng rưng quanh đôi mắt xinh đẹp, nói:
– Được! Được! Được lắm! Tiễn Ngọc Liên đầu giang toàn tiết (8), lưu danh muôn thuở! Hàn Ấu Nương ta há lại tiếc tấm thân này. Giờ đây ta theo bước phu quân, miễn khỏi phải chịu sự chèn ép của bọn tiểu nhân các người.
Tiểu cô nương nói xong liền xoay người, muốn đập đầu vào quan tài của trượng phu. Dương lão thái gia sợ đến nhảy dựng: “Phụ thân của Hàn Ấu Nương này võ nghệ giỏi giang, khắp làng khắp xóm không ai mà không biết. Hôm nay trượng phu của người ta vừa chết, mình đến nhà uy hiếp đoạt gia tài vốn đã là đuối lý, lại còn bức cô ta đập đầu vào quan tài mà chết. Chuyện này nếu lan truyền ra ngoài, không những bị hàng xóm láng giềng chỉ trích mà cha cô ta há chịu bỏ qua sao?”
Lão ta hoảng hốt bật dậy khỏi ghế la lớn:
– Mau, mau ngăn nó lại!
Thế nhưng Hàn Ấu Nương thân thủ linh hoạt, vừa dứt lời thì đã hành động. Mọi người còn chưa kịp ngăn lại thì nàng đã phóng đến trước quan tài, nhắm vào một góc quan tài muốn đập đầu xuống.
Đúng lúc này, nàng bỗng nhiên khựng lại, đôi mắt tròn xoe sợ hãi nhìn vào quan tài. Chiếc nắp đóng hờ trên quan tài để cho người đến phúng điếu hiện giờ bỗng dưng lại xê dịch qua bên cạnh một chút, sau đó bốn ngón tay trắng bệch vươn ra vịn vào mép quan tài.
Chứng kiến chuyện kỳ quái này, Hàn Ấu Nương không khỏi kinh hãi lui về sau một bước. Mọi người trông thấy hành động của nàng đều nhìn về phía quan tài, lập tức có mấy bà cô hoảng hốt kêu lớn: “Xác chết sống lại rồi!”, sau đó lập tức xoay người co giò chạy mất.
Mấy nam nhân mặc dù không bỏ chạy nhưng cũng đều nơm nớp sợ hãi, tụm lại thành một đoàn. Hàn Ấu Nương can đảm hơn một chút, ngẫm lại dù gì thì đó cũng là phu quân của mình, có là xác chết sống lại hẳn cũng không làm tổn hại đến mình. Hay vì người ấy thấy mình chịu sự hiếp đáp của người khác nên mới từ cõi âm trở về?
Cố đè nén sự sợ hãi trong lòng, nàng dè dặt bước tới trước, đẩy chiếc nắp quan ra. Chỉ thấy trượng phu đang ngồi xổm thở hổn hển bên trong hòm, mà vì trời lạnh nên hơi thở cũng mang theo những làn sương trắng. Hàn Ấu Nương thấy vậy trong lòng không khỏi lấy làm mừng rỡ: “Người chết nào có thể thở ra hơi ấm chứ? Ông trời có lòng thương, không ngờ người ấy… người ấy đã sống lại rồi.”
Trịnh Thiếu Bằng hao phí tất cả sức lực, khó khăn lắm mới đẩy được một góc nắp quan ra, đang quỳ thở hổn hển, bất thình lình trước mắt sáng lòa, ánh sáng chiếu vào khiến y phải nhíu mắt lại, phải một hồi lâu mới thích ứng được đôi chút. Y ngẩng đầu nhìn người quả phụ đáng thương bị người ta hiếp đáp, thật không tài nào có thể liên tưởng đến một người phụ nữ đã xuất giá đi lấy chồng: đây rõ ràng chỉ là một cô bé còn chưa trưởng thành mà.
Chương 4 : Gia cảnh nghèo khó
Nàng mặc một bộ tang phục bằng vải bố thô, đầu buộc một dải lụa trắng, khuôn mặt trái xoan trông hết sức thanh tú. Nàng đang rụt rè nhìn y, đôi mắt đỏ hoe, bờ mi ươn ướt, chiếc mũi nhỏ lạnh cóng đến ửng hồng.
Trịnh Thiếu Bằng ngẩn ngơ nhìn nàng: “Dương Hàn Thị đây sao? Sao nhỏ quá vậy? Chắc mới chỉ lớp bảy, lớp tám thì phải?”
Mặc dầu đã có khá nhiều kinh nghiệm với việc mượn xác sống lại và nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới, nhưng bỗng nhiên nhìn thấy người vợ của “thân phận mới” lại “trẻ” đến như vậy, y vẫn cảm thấy rất lạ lùng.
Thân thể y cực kỳ yếu ớt, gắng sức quỳ (1) được một lát thì lại bắt đầu lảo đảo muốn ngã. Trước khi xây xẩm, y gượng cười nói với nàng:
– Đừng sợ! Ta vẫn chưa chết.
Hàn Ấu Nương đôi mắt xoe tròn, chằm chằm nhìn y không chớp, lệ từ từ ngấn lên mắt. Một lúc sau, đột nhiên nàng òa khóc.
Tiếng khóc khiến Trịnh Thiếu Bằng cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc từ dưới sống lưng lên đến tận gáy; phải chịu biết bao đau khổ lẫn uất ức lắm người ta mới có thể khóc đến xé lòng xé dạ như vậy.
Hàn Ấu Nương khóc nức nở, hai tay bíu chặt cỗ quan tài gỗ, chỉ sợ một khi buông tay thì sẽ lả người xuống đất. Lúc bình thường nàng không than thân trách phận, chỉ hết lòng chiếu cố y cho tròn đạo phu thê mà thôi. Vừa mới cưới xong, thậm chí hai người còn chưa nói được với nhau mấy câu, giữa hai người cũng chưa thể nói là đã có tình cảm sâu đậm gì. Nhưng bây giờ nàng chợt hiểu y quan trọng và có ý nghĩa đến dường nào đối với nàng. Dù cho chỉ còn một chút khí lực, y vẫn là người đàn ông của mình, có y thì nhà này mới được xem như là còn, mới được xem như là có trụ cột.
Trịnh Thiếu Bằng nghe nàng khóc mà thấy xót xa trong lòng. Vừa định an ủi nàng, nói mấy câu đại loại như “lần đầu gặp mặt xin hãy chiếu cố một chút” giống như mấy lời thoại trong phim, tiếc là thân thể không thể đáp ứng “kỳ vọng” của y, miệng y há ra như cá mắc câu, chả nói được tiếng nào. Chẳng những vậy mà hai mắt y còn trợn trắng lên, lại ngất xỉu trở lại.
Linh đường lại lần nữa trở nên hỗn loạn. Lúc này Hàn Ấu Nương đã tỉnh táo, vừa khóc vừa gọi vừa lôi y ra khỏi quan tài. Dương lão thái gia đã từng nghe qua một số chuyện về người chết giả sống lại, thế nên lão cũng không quá kinh ngạc trước sự việc này. Thấy Dương Lăng sống lại, mặc dù trong lòng lão có chút xấu hổ, nhưng phần cao hứng lại nhiều hơn.
Dù sao Dương Lăng cũng là nhân vật duy nhất có công danh ở thôn Kê Minh Dịch này. Trong tộc có người như vậy cũng là một niềm vinh hiển, nói gì thì nói đó cũng là huyết mạch nhà họ Dương của lão.
Lúc trước bị con trai thuyết phục, lão chạy đến đây tranh đoạt tài sản dĩ nhiên là vì tính toán cho con mình, nhưng có đến phân nửa cũng do lão lo rằng tiểu quả phụ này sẽ không thủ tiết nổi, mấy năm nữa sẽ mang điền sản của nhà họ Dương đi cải giá. Hiện giờ người cháu họ đã sống lại, những lo lắng đó đã không còn, cho nên lão cũng rút lại toan tính kia.
Lão xấu hổ kêu người khiêng giúp đứa cháu của mình đặt lên giường, rồi lại kêu người mời đại phu, bận rộn lo liệu một hồi lâu mới để đám con cháu dìu mình về.
Hai bát cháo, một đĩa dưa muối trộn, đó là bữa ăn đầu tiên mà “cửu thế đại thiện nhân” Trịnh Thiếu Bằng sau khi chuyển thế thành Dương Lăng dùng cùng với người vợ trẻ. Một ngọn đèn dầu lay lắt chập chờn trên giá bếp, mùi vị thức ăn phả nhẹ khắp phòng.
Tám lần trước, nếu không chuyển thế vào dòng dõi giàu có thì cũng là một kẻ quyền cao chức trọng. Bây giờ bỗng dưng phải ăn loại thức ăn như vầy, cho nên mặc dù bụng sôi ùng ục, nhưng Trịnh Thiếu Bằng, thân phận hiện nay là tú tài Dương Lăng của Tuyên phủ, năm Hoằng Trị thứ mười bảy triều Minh, cũng chỉ miễn cưỡng ăn lưng lưng bụng là đã không thể nuốt trôi thêm được nữa.
Hàn Ấu Nương lại ăn rất ngon miệng. Cơm canh đạm bạc dẫu có kham khổ, nhưng thấy trượng phu không những đã sống lại mà còn có thể tự mình ăn uống, trong lòng nàng chỉ có cảm giác mãn nguyện và vui sướng.
Nhìn căn nhà bốn vách trống trơn, Dương Lăng không khỏi âm thầm thở dài một hơi. Trông thấy Hàn Ấu Nương căn bản chỉ là một cô bé đang bê bát cháo húp sạch sành sanh một cách ngon lành, lại còn dùng lưỡi liếm sạch mép bát, trong lòng y không khỏi xót xa: “Xem ra mấy tên phán quan, quỷ sứ chết tiệt đã chơi mình rồi. Sớm biết như vậy chi bằng lúc đầu hưởng thụ cho sướng cuộc sống làm tỷ phú cho rồi, tuy rằng tuổi có cao một chút… Giờ biết phải làm sao đây? Chẳng lẽ thật sự đi làm Cửu thiên tuế (2)? Nếu thế chi bằng cứ như vậy sống cho qua hai năm, ít ra… cô vợ trẻ này mặc dù hơi nhỏ tuổi một chút nhưng cũng rất ưa nhìn.”
(2) Nguyên văn “nhất vạn tuế giảm khứ nhất thiên tuế”: mười ngàn tuổi trừ đi một ngàn tuổi còn chín ngàn tuổi (Cửu thiên tuế), ý nói đi làm hoạn quan Ngụy Trung Hiền.
Trong lòng còn đang suy tính, nhìn thấy Hàn Ấu Nương đã đặt bát xuống, y bèn đẩy nửa bát cháo còn thừa của mình qua, nhẹ giọng bảo:
– Vẫn chưa ăn no sao? Đây, húp luôn phần này đi!
Lúc này Hàn Ấu Nương mới có can đảm liếc nhìn y. Bộ dạng của y trông vẫn còn hết sức tiều tụy, nhưng tinh thần đã tốt hơn rất nhiều, ánh mắt cũng đã có thần hơn. Thấy ánh mắt của y đang chăm chú nhìn mình một cách dịu dàng, nàng không khỏi cảm thấy có chút ấm áp. Ấu Nương khẽ cụp mắt, lí nhí:
– Tướng công, chàng mới vừa khỏi bệnh, nên ăn nhiều một chút mới phải.
Dương Lăng suy nghĩ một hồi, mới sực nhớ ra mình nên gọi cô ấy là nương tử, có điều kiểu xưng hô cổ xưa này y thật sự rất không quen. Cũng may là từ lúc đổ bệnh, Dương Lăng lúc nào cũng mê mê man man, thậm chí chẳng buồn mở mắt, cũng chưa từng mở miệng gọi một tiếng nương tử, nên y bèn gọi tên tục của nàng:
– Ấu Nương, thân thể ta vừa mới khỏe lại nên không ăn được nhiều. Nếu nàng không ăn thì sẽ rất lãng phí đó.
Hàn Ấu Nương nghĩ ngợi một lúc rồi thẹn thùng cười với hắn, nhận lấy bát cháo, đáp khẽ:
– Đa tạ tướng công!
Dương Lăng quan sát kỹ “cô vợ trẻ”. Cô gái này đã cởi bỏ bộ tang phục, thay một bộ vải thô màu xanh. Khuôn mặt nàng trông vẫn còn non nớt. Có thể vì tập võ quanh năm mà vóc người nàng đã phát dục, hơi có dáng vẻ của một đại cô nương; dung mạo xinh đẹp, nước da ngăm ngăm, hàng lông mày đậm, chiếc mũi xinh xắn thẳng tắp, cặp môi đầy đặn, đôi mắt to đen lay láy, trông mười phần khả ái.
Phát giác trượng phu đang nhìn mình, Hàn Ấu Nương nghĩ rằng trong lúc ăn mình có hành vi nào đó bất nhã, không khỏi có chút thẹn thùng khẽ cựa người. Từ khi thành thân đến nay, đây mới là lần đầu tiên nàng và trượng phu cùng ngồi ăn với nhau. Tuy đã là phu thê hơn nửa năm, nhưng nàng lại không hề có chút ấn tượng gì về trượng phu mình. Ngoại trừ biết được tên của y, biết y là tú tài trẻ tuổi nhất Tuyên phủ, là nam nhân duy nhất có công danh ở vùng Kê Minh Dịch này ra, nàng chẳng mảy may biết được tí gì khác.
Chính giữa căn nhà là phòng ăn, vừa bước vào cửa sẽ đụng bếp, bước vào phía bên phải là phòng ngủ, trong đó vẫn còn thoang thoảng mùi thuốc bắc. Bên trái vốn là chỗ ở của phụ mẫu Dương Lăng, sau khi hai người mất đi, nó bị bỏ trống làm kho chứa một số đồ lặt vặt.
Phòng ăn cũng là phòng khách, đồng thời cũng là chỗ đặt linh đường của Dương Lăng. Hàn Ấu Nương vì sợ thân thể bệnh tật của y quá yếu, cho nên kiên trì không để cho y động tay động chân. Nàng dìu y đến ngồi ở đầu giường đất (3), sau đó tự mình đem các bức liễn, giấy vàng mã các loại do người ta phúng điếu chất vào sau cửa, tháo dỡ linh đường. Ấy vậy mà cũng đã bận rộn đến đầm đìa mồ hôi cả người.
(3) Một loại giường của người phương bắc Trung Quốc dùng để chống lạnh, dùng gạch bình thường hoặc gạch sống (gạch phơi nắng không nung) xây nên, phía trên trải chiếu, phía dưới có lổ hổng nối liền với ống khói, có thể nhóm lửa để sưởi ấm. Còn được gọi là giường lò.
Nhìn Hàn Ấu Nương tháo vát thu dọn nhà cửa, Dương Lăng không khỏi thầm thở dài. Thiên hạ đều nói con gái thời hiện đại tiếp xúc nhiều, ăn uống tốt này nọ cho nên trưởng thành sớm. Trưởng thành sớm cái quái gì chứ? Cái “trưởng thành sớm” đó chẳng qua là về cơ thể và dục vọng của bọn chúng. Hãy nhìn Hàn Ấu Nương mà xem, đó mới là trưởng thành về tâm trí.
Một người con gái mười lăm tuổi vừa bước vào nhà chồng đã phải săn sóc cho một bệnh nhân nằm liệt giường, nhà thì nghèo rớt mùng tơi như vậy, thật sự là đã làm khó cô ấy, cũng không biết làm sao cô ấy có thể cam chịu được hơn nửa năm nay. Nhìn thấy dáng vẻ xinh đẹp và lanh lợi của nàng, bất giác tim Dương Lăng đập nhanh hơn. Dáng vẻ thanh khiết thuần phác của cô gái này khiến cho trong lòng y phát sinh một thứ tình cảm thương xót và yêu quý. Ngẫm lại bản thân nhiều lắm chỉ sống thêm được hai năm, y thật không nỡ lòng làm hại người ta.
Dọn dẹp xong xuôi, Hàn Ấu Nương quay đầu lại, thấy y vẫn đang ngồi trên chiếc giường đất quan sát mình, mặt nàng không khỏi nóng lên. Nửa năm nay, ngày ngày nàng chỉ mong sao trượng phu sẽ tỉnh lại. Hôm nay y đã thật sự tỉnh lại, nàng lại cảm thấy cả người lúng túng khi bị y nhìn ngắm như vậy.
Nàng có chút ngượng ngùng, bẽn lẽn bước vào phòng khêu ngọn đèn dầu tỏ hơn một chút. Thấy ánh mắt y vẫn còn dõi theo mình, khuôn mặt nàng không khỏi nóng bừng, nhưng lại không biết nên nói thế nào với y.
Sau một hồi lóng ngóng trong phòng, nàng đỏ mặt tiến đến gần, kéo tấm chăn mỏng đắp lên đùi y, lắp bắp:
– Tướng công, chàng mới vừa hồi phục, nên nghỉ ngơi nhiều một chút! Thiếp… Thiếp sang nhà Lý đại nương ở kế bên một chuyến, lát nữa sẽ quay về.
Nói xong nàng liền chạy ào ra khỏi nhà.
Dương Lăng khẽ cười, trong lòng dâng lên tình cảm ấm áp. Y không rõ mình vốn mắc phải bệnh gì, song từ lúc mượn xác đến giờ, ngoại trừ vì nằm lâu ở trên giường, cộng thêm không đủ dinh dưỡng khiến cho tứ chi vô lực, hơi thở phập phù không ổn định ra thì không có trở ngại gì khác.
Thấy Hàn Ấu Nương đã chạy ra ngoài, y liền dỡ mền bước xuống giường, nhân cơ hội bắt đầu làm quen với hoàn cảnh một chút. Mới vừa nhìn quanh, lòng y đã cảm thấy khá là chán nản, khắp nhà đều trống trơn, đúng là “nhà không vách trống”, thật là thảm thương.
Bước vào phòng đối diện, từ miệng của Hàn Ấu Nương y đã biết căn phòng này trước đây là phòng của song thân Dương Lăng, hiện giờ bỏ trống để cất một số đồ lặt vặt. Y bước đến cạnh cửa, mở bao lương thực ra, bên trong chỉ còn chưa đầy một bát gạo vụn.
“Thảo nào buổi tối cô ấy chỉ nấu có hai bát cháo, húp nửa bát cháo thừa của mình mà vẫn thấy ngon miệng đến như vậy! Cũng không biết đã bao nhiêu ngày chưa có được một bữa cơm no rồi.” Dương Lăng chợt cảm thấy sống mũi cay cay.
“Với gia cảnh như vậy, chỉ tồn tại thôi e cũng đã là một vấn đề, làm sao có thể qua nổi trời đông giá rét như vậy chứ? Mình nói là ăn no nằm chờ chết chứ có nói là muốn chết đói đâu!” Y lôi mấy tên tiểu quỷ cùng phán quan ra thầm chửi từng tên một.
Căn nhà không lớn, trong nhà lại không có thứ gì, chỉ dạo vài vòng là đã xem hết. Y đẩy cửa bước ra bên ngoài. Sơn thôn về đêm tối mù, những ngọn đèn dầu nhỏ ở các nhà không chiếu được bao xa, căn bản không giống như nông thôn ngày nay khắp nơi đều sáng rực. Ngước nhìn vầng trăng lưỡi liềm bị áng mây đen che khuất trên bầu trời, y chỉ cảm thấy lạnh đến buốt xương. Bốn bề tĩnh mịch, cũng không biết Hàn Ấu Nương đã đi đâu. Đang muốn quay vào trong nhà, đột nhiên y nghe thấy một tiếng “két” gần đó, sau đó có tiếng chó ăng ẳng vang lên.
Lắng tai, y chỉ nghe thấy tiếng của một phụ nữ lớn tuổi cách đó không xa:
– Ấu Nương à, trời tối đó, con đi đường hãy chú ý một chút nhé!
Sau đó là giọng nói trong trẻo của Ấu Nương cất lên:
– Dạ, cảm ơn Lý đại nương! Số lương thực này chờ sang năm trong nhà con có thu hoạch nhất định sẽ trả lại cho người.
Dương Lăng lặng lẽ bước đến bên cạnh bức tường thấp. Bên dưới bức tường có một đống tuyết được vun lại. Y vịn tường nhìn qua, chỉ thấy một bà lão tóc bạc phơ một tay đưa cao đèn dầu, một tay vịn hờ cánh cửa. Hẳn là Ấu Nương đã đi ra khỏi cổng sân.
Chỉ thấy bà lão lắc đầu thở dài một tiếng, lúc bà đóng cửa còn nghe được tiếng một ông lão ở trong nhà:
– Bà bạn già à, thu rồi bọn Thát Tử kéo qua, nhà mình cũng chẳng còn bao nhiêu lương thực dư thừa nữa đâu!
Bà lão vừa đóng cửa vừa khẽ lẩm bẩm:
– Chà! Tôi biết, nhưng mà đứa nhỏ Ấu Nương này thật đáng thương, có thể giúp được thì cứ giúp đi! Hơn nữa thằng nhỏ Lăng nhi đó cũng có công danh, gặp đại nạn không chết tất sẽ có hậu phúc, tương lai…
Cánh cửa đóng lại, tiếng nói chuyện cũng theo đó tắt đi. Dương Lăng nghe cổng sân nhà mình kẹt khẽ, một bóng người nhỏ nhắn bước vào, y bất giác bước tới phía trước vài bước để nghênh đón.
Nhìn thấy trong sân có một bóng người đang bước tới, Hàn Ấu Nương không khỏi hốt hoảng, cho rằng cái tên vô lại Dương Tuyền kia lại đến nhà trêu ghẹo. Một tay nàng giơ nửa bao lương thực lên, tay kia thuận thế lôi một khúc cây từ sau cánh cổng ra, trầm giọng quát:
– Cút ra ngoài cho ta! Bằng không… bằng không ta sẽ kêu trượng phu ta đó!
Chương 5 : Lá lành đùm lá rách
Dương Lăng vừa bước lên mấy bước thì chợt nghe vù một tiếng, đã thấy một cây gậy gỗ to bằng hai lóng tay chĩa vào ngực, làm y la hoảng lên:
– Đừng…
Cổ họng hơi nghẹn lại, y nuốt nước miếng xuống rồi mới từ tốn nói:
– Ấu Nương, là ta, Dương Lăng đây!
– Ơ kìa!
Khúc cây rơi bộp xuống đất, Hàn Ấu Nương vội vã bước tới đỡ lấy y, lo lắng hỏi:
– Tướng công, chàng vừa mới khỏi bệnh, sao lại ra ngoài làm gì? Trời rét căm căm thế này, nếu chàng mà lại có chuyện gì, chàng bảo thiếp … bảo thiếp phải làm sao đây?
Dương Lăng trấn an nàng:
– Không có chuyện gì đâu, ta khỏe lên nhiều rồi. Vì không thường xuyên vận động nên người hơi yếu chút thôi.
Y đưa tay tới muốn giúp Hàn Ấu Nương xách bao lương thực, nhưng nàng nào chịu để cho y động tay động chân, vội vàng dìu y quay vào, nói:
– Tướng công, chàng hãy mau về nằm nghỉ! Ban đêm trời lạnh lắm, để buổi trưa nào tiết trời ấm áp thiếp sẽ đưa chàng ra phơi nắng.
Chẳng còn cách nào khác, Dương Lăng đành để mặc cho nàng dìu mình quay trở vào. Lúc vào nhà rồi, y không nhịn được mới hỏi:
– Ấu Nương, chúng ta chữa bệnh hết sạch tiền rồi phải không? Ta thấy trong nhà chẳng còn món gì nữa.
Hàn Ấu Nương đặt bao lương lên giá bếp, dìu hắn vào phòng trong rồi mới khẽ ừm một tiếng, nhẹ nhàng giải thích:
– Thu rồi lúc bọn Thát Tử kéo đến, thiếp mãi lo cõng chàng chạy lên núi, lương thực trong nhà … đều bị bọn Thát Tử cướp hết, cho nên … thiếp buộc lòng phải đem đồ dùng trong nhà đi cầm một ít.
Dìu Dương Lăng đến ngồi nơi đầu giường, nàng vừa giúp y cởi giày, vừa ngẩng đầu mỉm cười nói với y:
– Tướng công không cần phải lo lắng! Sang năm đất đai nhà ta có thu hoạch, mọi thứ sẽ ổn thôi. Chàng là tú tài, không cần quan tâm đến mấy chuyện này, lúc nào khỏe lên, chàng cứ an tâm đọc sách là được rồi. Năm tới đã là thi Hương rồi đó, ba năm mới có một lần.
Dương Lăng thấy khi nàng nói đến thân phận tú tài của y thì ánh mắt tràn ngập sự ngưỡng mộ và tự hào, trong lòng không khỏi cười khổ. Với sức khỏe hiện giờ, y thật sự không gánh vác được gì, chẳng qua chỉ dựa vào xuất thân tú tài viết được mấy cái mớ văn chương nhảm nhí, vậy mà đã trở thành nam tử hán chân chính trong mắt nàng. Nếu ở thời đại của y, cho dù có tốt nghiệp đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, mà vô dụng như thế thì sớm đã bị vợ đá văng ra rồi, lấy đâu ra ánh mắt sùng bái mà nhìn y chứ?
Song cũng khó có thể trách nàng lại xem trọng như vậy. Bây giờ đang là thời đại trọng nông khinh thương, thương nhân cho dù có tiền thì địa vị trong xã hội vẫn không bằng một tiểu địa chủ đất chỉ dăm ba mẫu. Cho nên con đường tiến thân phát tài hầu như đều phải dựa vào làm quan, mà để bước vào quan trường thì chủ yếu lại phải thông qua khoa cử. Mặc dù Dương Lăng hiện giờ chỉ là một gã tú tài, nhưng ở thời đại này, thân phận tú tài dù ở chốn thành thị hay nông thôn đều rất có tiếng. Có người đọc sách đến bảy tám mươi tuổi mà vẫn chưa thể đỗ tú tài.
Nhà Minh quản lý người dân rất nghiêm, cho dù là rời quê đi thăm người thân bạn bè cũng đều phải được địa phương cấp giấy thông hành, đóng dấu qua cửa, không thể qua loa. Có điều những người đọc sách có công danh như tú tài, cử nhân thì lại khác. Bọn họ có quyền mang kiếm, mặc áo lụa xanh, tùy ý du ngoạn, dọc đường quan lại không được ngăn chặn hay xét hỏi; trông thấy huyện thái gia – người mà những nông dân bình thường có thể cả đời cũng không được gặp – bọn họ chẳng những không cần cúi lạy, mà còn được phép ngồi. Trong mắt người thường, những người như vậy dĩ nhiên là nhân vật rất có thân phận.
Hàn Ấu Nương kéo chăn cho y dựa vào, rồi lại pha một chậu nước ấm, mặc cho Dương Lăng nhiều lần từ chối nàng vẫn dịu dàng giúp y rửa chân. Vị Dương Lăng này trước giờ nào đã được hưởng thụ loại đãi ngộ như vậy, thế nhưng sau khi cự tuyệt một phen, mắt thấy ngược lại còn khiến cho Hàn Ấu Nương thấp thỏm bất an, y đành để mặc cho nàng hầu hạ.
Đêm nằm trên giường, gác tay lên trán, Dương Lăng lặng lẽ suy nghĩ về những tâm sự của mình. Bên tai nghe được hơi thở nhẹ nhàng của Hàn Ấu Nương, có lẽ nàng ấy đã ngủ say rồi.
Từ lúc thành thân đến nay, Hàn Ấu Nương mặc dù ngủ chung giường với y, nhưng thật ra mỗi ngày nàng đều để nguyên quần áo vậy chăm sóc cho y, nên hai người chưa từng thực hiện nghĩa vụ vợ chồng, chỉ nằm ngủ bên cạnh. Nhưng đêm nay tướng công của nàng đã không còn bộ dạng mê mê man man đó nữa, trái lại khiến cho nàng cảm thấy cực kỳ xấu hổ. Tuy rằng khi ngủ đã thổi tắt đèn nên chàng không thấy được nàng, nhưng cả người Hàn Ấu Nương vẫn nóng lên, vừa chui vào chăn liền rút cả đầu vào trong đó, không dám ló ra.
Có điều, kể từ lúc thành thân, đêm nay là đêm mà tâm tình nàng cảm thấy vui vẻ nhất. Tướng công chẳng những đã thoát khỏi cơn thập tử nhất sinh, hơn nữa bệnh tình dường như cũng đỡ hơn nhiều, áng chừng chỉ cần nghỉ ngơi thêm một thời gian nữa là có thể hoàn toàn khỏe mạnh lại, cuộc sống sẽ lại ngập tràn hy vọng và mơ ước, nàng sung sướng nghĩ.
Dương Lăng và nàng tuy là quan hệ phu thê, nhưng trong lòng y, người con gái này mặc dù xinh đẹp mê người, nhưng từ khi mở mắt ra, chứng kiến sự vất vả và kiên cường của nàng, y cảm thấy xót thương vô cùng. Bản thân chỉ còn hai năm để sống, y không thể đành lòng có ý với người con gái đáng yêu này.
Y nhìn qua chỗ Hàn Ấu Nương nằm, trong phòng tối om, không thấy rõ được gì, chỉ có thể nghe thấy tiếng thở khe khẽ của nàng, giống như một con mèo nhỏ.
“Chà!” – Y khẽ thở dài một tiếng: “Bây giờ người con gái này đã mang thân phận thê tử của mình, mình không những phải nghĩ cách để tiếp tục sống, mà còn phải có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc cho nàng. Nhưng … nhà nghèo rớt mùng tơi như vậy, mình biết phải làm sao mới có thể lo được cái ăn cái mặc cho nàng đây?”
Nghĩ ngợi miên man một hồi lâu nhưng y vẫn chưa có được biện pháp gì. Lúc này nhiệt độ của lò lửa đã dần dần hạ xuống, phần ngoài chăn đã lạnh cứng lại, mà trong chăn cũng bắt đầu lạnh đi. Y siết chặt tấm chăn, chợt nghĩ mình đang nằm ngủ ở gần lò mà còn vậy, Hàn Ấu Nương sẽ càng bị lạnh hơn, không biết nàng có thể chịu được không.
Lặng lẽ đưa tay ra sờ sờ mặt giường bên cạnh, chỉ thấy bên đó lạnh như băng. Ở trong thôn núi muốn đốn củi hẳn là chuyện dễ dàng, trời lạnh như thế tại sao lại không đốt thêm củi? Ban nãy quan sát trong nhà hình như không nhớ rõ dưới bếp còn bao nhiêu củi.
Nhớ lại tình cảnh của bản thân, Dương Lăng không khỏi cảm thấy nhẹ nhõm: “Trong khoảng thời gian đó, mình chỉ còn thoi thóp, dường như có thể chết bất cứ lúc nào. Hàn Ấu Nương đơn độc bơ vơ không người giúp, lại phải chăm sóc cho mình, cô ấy làm gì mà có thời gian lên núi đốn củi chứ.”
Ngón tay chạm vào tấm chăn bên cạnh, Dương Lăng không khỏi giật mình. Tấm chăn này… sao lại mỏng như vậy? Dùng ngón tay miết miết, chỉ thấy lớp chăn đó so với tấm chăn của y thật sự là quá mỏng. Nàng phải trải qua những đêm đông lạnh giá như vậy sao?
Lúc này Hàn Ấu Nương đã co người lại như con tôm. Mặt Dương Lăng chợt nóng lên. Nàng vẫn còn chưa ngủ sao?
Y đỏ mặt hỏi nhỏ:
– Ấu Nương, chưa ngủ hả?
Hàn Ấu Nương ậm ờ đáp một tiếng, âm thanh rụt rè dường như có chút run run.
Dương Lăng thở dài:
– Sao chăn của nàng lại mỏng như vậy, làm sao chịu nổi đêm đông lạnh như thế này chứ? Trong nhà ngay cả chăn bông dày cũng không có sao?
– Ừm…
Hà Ấu Nương khẽ nói:
– Tướng công, bệnh tình của chàng nguy kịch lắm, Ấu Nương thật chẳng có cách nào mời được đại phu, nên đành phải … đành phải … xin lỗi chàng nhé…
Dương Lăng sờ tấm chăn dày của mình, trong lòng bồi hồi. Y bỗng ngồi dậy, đưa tay kéo tấm đệm dưới người Hàn Ấu Nương ra. Vì mặt giường rất trơn nên tấm đệm đó dễ dàng bị y kéo mạnh qua
.
Hàn Ấu Nương trong lòng có chút hốt hoảng, giọng run rẩy:
– Tướng công… chàng… chàng làm gì vậy?
Dương Lăng thấy nàng sợ hãi như vậy, cảm thấy rất buồn cười, bèn cố ý trêu nàng:
– Chúng mình là vợ chồng mà, ngủ chung một chỗ thì có gì không được chứ?
Hàn Ấu Nương càng thêm hốt hoảng, nhưng phu quân nói như vậy thật sự là không có gì không đúng, nàng chỉ biết lắp bắp:
– Nhưng mà … nhưng mà chàng vừa mới đỡ bệnh, chúng ta đừng … đừng …
Dương Lăng không nhịn được khẽ cười:
– Nha đầu ngốc … cái chăn của nàng mỏng quá, thấy nàng nằm đó mà chịu lạnh, ta làm sao có thể ngủ được chứ? Đến đây, chúng mình ngủ chung!
Đặt hai tấm đệm lại chung với nhau, Dương Lăng kéo tấm chăn của nàng ra, đem tấm chăn của mình đắp lên người nàng, sau đó phủ tấm chăn mỏng lên trên, bảo:
– Nàng xem, như vậy tốt hơn nhiều!
Hàn Ấu Nương ngượng đến nỗi trốn luôn ở trong chăn không dám ló đầu ra ngoài, cả người cuộn tròn lại như con tôm, hai nắm tay nhỏ siết chặt đặt trước ngực. Nàng cũng không biết vì sao mình lại sợ hãi và căng thẳng đến như vậy.
Dương Lăng là trượng phu danh chính ngôn thuận của nàng. Từ nhỏ nàng đã được dạy về tam tòng tứ đức, chồng là trời, vợ là đất. Thánh nhân có nói: “Phụ nhân giả, phục vu nhân dã” (Chú thích của dịch giả: Là phụ nữ phải biết phục tùng chồng.) Nếu như phu quân muốn nàng thì việc đó thật sự không có gì là không phải. Nhưng khi vừa nghĩ đến chuyện có thể xảy ra, trong lòng nàng vẫn không khỏi hồi hộp, lo sợ, thậm chí còn sợ hơn cả khi gặp con cọp trong lần đầu tiên đi săn với cha.
Dương Lăng cũng cảm thấy được sự căng thẳng của nàng. Nói thật, y cũng không dám dựa quá gần vào Ấu Nương. Nếu như hai người nằm sát vào nhau quá, y thật không dám đảm bảo mình sẽ không động tâm. Ít nhất thân thể và tinh thần y đều khỏe mạnh, lại nằm cạnh một người con gái trẻ trung như vậy, cho dù trong lòng không muốn, nhưng về mặt sinh lý vẫn sẽ không tránh khỏi sinh ra phản ứng. Cho nên y chẳng dám kéo sát lại khoảng cách chỉ bằng hai nắm tay giữa hai người.
Nhưng bởi vậy cho nên một chút hơi ấm ủ trong chăn cũng tản đi hết, dù chăn có dày cũng chẳng thấy ấm. Nằm được một chút, Dương Lăng lại bò dậy, mò mẫm xỏ giày vào.
Hàn Ấu Nương ló đầu ra hỏi:
– Tướng công, chàng… chàng đi đâu đó?
Dương Lăng hỏi:
– Đèn dầu thắp như thế nào? À không, đèn dầu ở đâu vậy?
Hàn Ấu Nương vội trở dậy đánh đá lửa thắp đèn. Dưới ngọn đèn dầu, gò má nàng ửng đỏ, cũng không biết là do thẹn thùng hay do ánh sáng phản chiếu, nhưng lại càng xinh đẹp thêm. Nàng bối rối hỏi Dương Lăng:
– Tướng công muốn đi ngoài sao? Bô đặt ở ngay phòng ngoài đó.
Dương Lăng lắc đầu:
– Không, ta định bỏ thêm chút củi vào lò.
Hàn Ấu Nương cầm đèn bước theo y ra phòng ngoài. Dưới bếp có chất một bó củi nhỏ đã được chẻ ra cẩn thận. Dương Lăng nhìn quanh rồi bước đến xó nhà, gom lại tất tần tật những bức liễn, giấy vàng mã và rổ cỏ đem nhét xuống đáy lò. Những thứ này đều được làm bằng thân sậy và giấy nên cực kỳ dễ cháy, không lâu sau ngọn lửa đã tắt lại cháy hồng lên.
Làm xong Dương Lăng lại nhét thêm củi vào từng que một. Hàn Ấu Nương mở miệng tính nói nhưng lại thôi, thầm nghĩ: “Đốt thì đã đốt rồi, dẫu sao phu quân cũng đã khỏe hơn, không cần mình phải luôn kề cận. Sáng mai mình dậy sớm lên núi đốn thêm một ít củi nữa là được rồi.”
Dương Lăng để cho lửa cháy từ từ, sau đó phủi phủi tay, quay đầu cười nói:
– Thế này là tốt rồi, đêm nay có thể ngủ ấm được một chút.
Lúc này nhờ ánh lửa trong bếp, y mới nhìn rõ Hàn Ấu Nương đang mặc một bộ đồ ngủ bằng vải thô màu trắng, mặc dù có vài miếng vá, nhưng vẫn không thể che dấu được vẻ yểu điệu động lòng người của nàng. Một chút da thịt thấp thoáng dưới cổ áo trông hết sức mê người.
Trống ngực Dương Lăng đập mạnh, vội vã dời ánh mắt đi không dám tiếp tục nhìn. Hàn Ấu Nương phát giác được cái nhìn của y, trên mặt cũng có chút thẹn thùng, bẽn lẽn dìu Dương Lăng về lại phòng trong. Lúc Dương Lăng tiếp lấy cây đèn từ trong tay Hàn Ấu Nương, y cảm thấy bàn tay nàng rất thô ráp, bèn cầm lấy nhìn một chút. Lòng bàn tay đã có vài vết chai sạn, da thịt trên lưng bàn tay ram ráp, có nhiều vết xước. Mặc dù hôm nay chỉ có thể xem như vừa mới quen thân, nhưng Dương Lăng vẫn đau xót không thôi.
Hàn Ấu Nương đỏ mặt lắc đầu, rụt rè rút tay lại nói:
– Tướng công, đừng để nhiễm lạnh, mau mau nghỉ ngơi đi!
Trải qua chuyện này, hai người cũng không còn câu nệ như trước nữa, một thứ tình cảm không rõ ràng âm thầm nảy sinh trong lòng họ. Sau khi chui vào trong chăn hai người cũng không còn dè dặt nữa.
Những khoảng trống trong chăn bị hơi lạnh tràn vào rất khó chịu. Dương Lăng không biết làm cách nào, cuối cùng chịu không nổi đành phải dịch người sát vào. Hàn Ấu Nương run lên, thân thể có chút căng cứng lại, nhưng vẫn ngoan ngoãn nằm im không nói lời nào.
Dương Lăng chỉ là muốn để cho nàng nằm sát vào mình, khít người lại để tránh cho hơi ấm thoát ra ngoài. Y tự giễu nói với Hàn Ấu Nương:
– Ấu Nương, bọn mình như vậy cũng có thể xem là lá lành đùm lá rách đó!
Vuốt nhẹ lên bàn tay nhỏ nhắn của Ấu Nương, y đau xót nói:
– Tay nàng bị nứt nẻ hết rồi, do giặt giũ và chẻ củi sao? Có đau không?
Hàn Ấu Nương a một tiếng rồi lắc đầu. Chợt phát hiện y không thấy được mình, nàng bèn nói:
– Không đau đâu tướng công. Chỉ cần chàng khỏe lại, Ấu Nương dù phải chịu khổ nhiều hơn cũng không oán hận.
Nghe xong, Dương Lăng không kiềm được siết chặt lấy tay nàng. Y cảm thấy lần chuyển thế này mặc dù là lần gian khổ nhất trong chín lần, nhưng lại khiến y vừa ấm áp lại vừa hạnh phúc. Qua một hồi, nghe thấy hơi thở của Hàn Ấu Nương không giống như đang ngủ, y không nén được lại hỏi:
– Đang nghĩ gì vậy?
Hàn Ấu Nương khẽ thở dài:
– Tướng công, thiếp đang nghĩ đến chuyện thi Hương của chàng sang năm. Trong nhà … đã hết tiền rồi. Nhà bên thiếp có hai ca ca, một đệ đệ, cha thiếp phải gánh vác rất nhiều, không giúp đỡ chúng ta được. Bốn mẫu ruộng núi nhà ta là được tổ tiên truyền lại nên không thể bán. Thi Hương là chuyện quan trọng cả đời của chàng, phải làm sao cho được đây?
“Bốn mẫu ruộng núi à?” – Dương Lăng chợt động tâm, chẳng để ý gì đến nguyên tắc không được động vào gia sản tổ tiên. Cách nghĩ này của y có thể bị cho là xấu xa, nhưng y chỉ nghĩ không biết bán đi bốn mẫu đất này sẽ được bao nhiêu tiền mà thôi. Tốt nhất là phát tài ngay lập tức, để mình có thể an nhàn yên ổn sống hết hai năm, khi chết đi vẫn có thể đảm bảo cho người con gái này suốt đời không cần phải lo lắng về cái ăn cái mặc.
Suy nghĩ lung tung một hồi, y cũng mệt mỏi dần, đồng thời cảm thấy phía dưới giường càng lúc càng ấm lên. Mặc dù Hàn Ấu Nương để cho y tùy ý dựa sát vai, nhưng thân thể nhỏ nhắn vẫn cuộn tròn lại, căng thẳng. Dương Lăng thấy buồn cười, bèn ngáp một cái, cười cười bảo:
– Ấu Nương, thả lỏng người một chút đi, nằm sát vào sẽ ấm hơn! Trời lạnh như vậy, nàng sợ ta sẽ làm gì chứ? À … đột nhiên ta lại nhớ đến người xưa.
Hàn Ấu Nương vừa bị y chọc đến đỏ cả mặt, nghe thấy những lời này, không rõ tướng công tú tài của mình muốn nói đến chuyện gì, không nén được lòng hiếu kỳ bèn hỏi:
– Tướng công nhớ đến người xưa nào vậy?
Dương Lăng cố nhịn cười, kể:
– Ta nhớ tới Liễu Hạ Huệ. Nếu như vị “quân tử” này không bị khuyết tật gì đó thì cũng không khác với tình cảnh hiện giờ của ta lắm: trời đông giá rét, ở dưới cổng thành ôm một thiếu nữ vào lòng mà tâm không loạn. Ta cũng làm được, bởi vì … thật sự là lạnh quá rồi, ý nghĩ xấu xa gì cũng bị đông lại hết.
Hàn Ấu Nương cười khúc khích. Trước lúc xuất giá nàng còn lo rằng tướng công của mình là một “ông tú tài” nhàm chán, cứng nhắc, không ngờ chàng … lại thú vị như vậy. Trong lòng nàng dâng lên một thứ cảm giác kỳ lạ.
“Đây là phu quân bầu bạn cả đời với mình, là người thân thiết nhất của mình sau này.” – Tâm hồn nhỏ bé của nàng khẽ thở phào, sự thân thiết và ngưỡng mộ khiến nàng bất giác nhích sát lại gần Dương Lăng, thân thể đang căng cứng cũng dần thả lỏng ra.
Không kìm lòng được, nàng nép người vào Dương Lăng, kề sát bên tai y thỏ thẻ:
– Tướng công, thiếp nguyện ý dựa sát bên chàng như vậy, bất kể sinh lão bệnh tử, phú quý bần cùng, thiếp cũng không oán không hận sẵn lòng cùng chàng chia sẻ, mãi mãi.
Nghe được tiếng lòng mà Hàn Ấu Nương mượn bóng tối để thổ lộ với mình, con tim Dương Lăng không khỏi khẽ rung lên. Trên thế gian này, chẳng phải mỗi người đều nỗ lực tìm kiếm một nửa còn lại sẵn sàng nói ra ba chữ “ta nguyện lòng” với mình đó sao? Sự xúc động khiến y thiếu chút đã buột miệng nói với nàng rằng y cũng nguyện lòng ở bên nàng như vậy cho đến hết đời nhưng lời vừa ra đến miệng lại nuốt trở vào. Hai năm trên cõi nhân gian mà thôi … y nén tiếng thở dài vào nơi sâu thẳm.
Cơ thể Hàn Ấu Nương mảnh mai, mềm mại, ấm áp, ôm vào trong lòng rất dễ chịu. Lòng yêu thương lấn át cả dục vọng, cơn buồn ngủ ập tới, Dương Lăng ngáp mấy cái rồi chìm vào giấc ngủ say.
Chương 6 : Rời nơi núi đồi
Con gà trống bên vách liên tục rướn cổ gáy vang. Đang ngủ say sưa, Dương Lăng mơ màng tỉnh giấc, định đưa tay rờ rẫm thì bỗng thấy trước ngực trống trơn. Y bừng mở mắt, trong chăn đã vắng lạnh, chỉ còn mỗi mình y.
Dương Lăng cười khổ, vốn tưởng sẽ chăm lo cho người ta, ai dè người ta đã dậy tự hồi nào mà mình vẫn ngủ nướng. Y quơ lấy quần áo mặc vào, một bộ y phục vải bông xanh lốm đốm vài mảnh vá.
Ra ngoài phòng, ló đầu nhìn quanh mà không thấy bóng dáng của Hàn Ấu Nương đâu, Dương Lăng bước luôn ra cổng. Khí trời giá rét, hơi lạnh xộc thẳng vào mũi. Y co duỗi tay chân, vươn vai ưỡn ngực, cảm thấy tinh thần thoải mái lên rất nhiều.
Tia nắng ban mai đã ló dạng. Nơi này là một ngôi làng bé nhỏ nằm bên sườn núi, chỉ có dăm chục gian nhà, đa số đều ọp ẹp tồi tàn. Dưới sườn núi còn có mấy mươi căn, trông kiểu dáng cũng không tệ, hẳn là thuộc về những gia đình giàu có.
Dương Lăng đang đứng ở bên tường nhìn xuống chân núi, chợt nghe thấy tiếng cổng kêu ken két. Xoay đầu nhìn lại, y thấy ngay bó củi thật to, trên vài nhánh còn vương ít tuyết, bên dưới là một thân hình nhỏ nhắn, thật chẳng cân xứng với bó củi lớn đến thế kia. Dưới bó củi đó lộ ra một khuôn mặt đỏ bừng vì giá lạnh.
Dương Lăng lấy làm xấu hổ, vội vàng chạy đến hỏi han:
– Ấu Nương, nàng sao lại… Mau, mau để xuống đi, sao đốn nhiều củi vậy?!
Hàn Ấu Nương trông thấy y lại còn cuống quít hơn, nàng vội vã đặt bó củi xuống, cầm rìu chạy đến đỡ lấy y, lo lắng nói:
– Tướng công, sao chàng lại ra đây? Bên ngoài lạnh lắm đó, hãy mau trở vào phòng đi.
Dương Lăng có phần tự oán trách bản thân. Y liền giật lấy cây rìu trong tay Ấu Nương ném sang một bên, hai tay nâng lấy khuôn mặt nhỏ nhắn đang đỏ bừng, cảm động nói:
– Ấu Nương, từ giờ về sau đừng đốn nhiều củi như vậy nữa. Nàng phải gọi ta dậy, mấy việc nặng nhọc này phải nên để cho bọn đàn ông chúng ta làm mới phải.
Bị y ôm lấy đôi má, Hàn Ấu Nương cảm thấy ấm áp vô cùng, nhưng nàng vẫn nghiêm túc bảo y:
– Vậy sao được? Chàng là tú tài mà, làm mấy công việc này sẽ bị người khác cười cho đó. Tướng công, hãy mau quay trở về phòng đi, kẻo lạnh đấy.
Hai tay nàng lạnh ngắt, mu bàn tay đỏ ửng, mười ngón tay cũng đã hơi cứng lại. Dương Lăng lấy tay mình bọc đôi bàn tay nhỏ bé của nàng, rảo bước vào trong nhà:
– Nàng mới cần phải mau vào nhà cho ấm đó. Nàng ăn mặc sơ sài quá đi.
Giọng y có phần chán nản:
– Nhà này nghèo đến độ chẳng còn bộ y phục nào ư?
Hàn Ấu Nương xấu hổ, cười đáp:
– Không đâu, vẫn còn bộ đồ mới, nhưng thiếp muốn sang năm mới mặc, bây giờ chưa nỡ dùng. Tướng công, chàng đói chưa, để thiếp đi làm chút đồ ăn.
Dương Lăng chợt thấy sống mũi cay cay, thầm nhủ: “Ngưu Đầu, Mã Diện, các người đã thắng rồi đấy. Nếu chưa thể mang lại cho người con gái xinh đẹp đáng thương này được một cuộc sống tốt đẹp, cho dù các người có lôi ta về làm hoàng đế(1) ta cũng sẽ không về.”
(1) ở đây tác giả chơi chữ, nguyên văn “tố cửu thiên tuế tái gia nhất thiên tuế” nghĩa là chín ngàn năm cộng một ngàn năm = mười ngàn năm, cũng chính là vạn tuế (hòang đế).
Kéo Hàn Ấu Nương đến mép giường ngồi xuống, Dương Lăng phanh áo ra, cầm lấy hai tay nàng đặt lên ngực mình, giọng y mang khí khái của một đại trượng phu:
– Ngồi yên ở đấy, giữ tay cho ấm rồi mới được nói, xem nàng bị đông cứng lại hết rồi kìa.
Hàn Ấu Nương ngẩn ngơ nhìn y, mũi sụt sịt, rồi đột nhiên thút thít rơi lệ. Dương Lăng chợt hoảng, vội vã hỏi:
– Ấu Nương, nàng sao vậy?
Hàn Ấu Nương rút một tay ra khỏi ngực y, gạt nước mắt, thẹn thùng cười bảo:
– Không, thiếp vui đấy mà. Tướng công, chàng đối xử với thiếp thật quá tốt, được gả cho chàng, ấy là phúc của Ấu Nương.
Hàn Ấu Nương cảm thấy thật hạnh phúc, ông trời đã không bạc đãi nàng, không những đã trả người chồng lại cho nàng, mà người chồng này còn rất dịu dàng ân cần, không hề có chút tính cách của một “ông tú tài”. Thế gian này đã thực sự cho nàng quá nhiều, trái tim bé nhỏ của nàng tràn ngập sự mãn nguyện. Nhìn thấy niềm hạnh phúc dâng đầy trên khuôn mặt ấy, Dương Lăng không kìm lòng nổi ôm choàng lấy nàng.
Bữa ăn sáng vẫn là cháo ngô cùng dưa muối, Ấu Nương đã nấu cháo nhiều hơn so với ngày hôm qua một chút. Dẫu gì cũng đói hai bữa, Dương Lăng ăn thứ cháo rau vốn khó nuốt này vẫn cảm thấy khá ngon miệng, nhai cái món “rau đông đá” này nghe “rôm rốp”. Đột nhiên y hỏi:
– Ấu Nương, bây giờ một mẫu đất đáng bao nhiêu tiền?
Hàn Ấu Nương ngơ ngác một hồi rồi mới trả lời:
– Tướng công, nếu là đất tốt ở bên Tuyên phủ Đại Đồng thì một mẫu khoảng từ sáu đến tám lạng. Ruộng núi nhà chúng ta cũng xấp xỉ bốn lạng bạc.
“Chỉ bốn lạng?”. Dương Lăng thất vọng tràn trề. Hàn Ấu Nương chớp chớp mắt không hiểu, nói:
– Bốn lạng cũng không ít mà, đó là tới bốn xâu tiền lận đó, mấy nhà nông dân chúng ta có thể dùng tới hai năm đấy.
Dương Lăng giật thót, sực nhớ ra y vẫn theo thói quen suy diễn vấn đề theo quan niệm hiện đại. Hỏi khéo nàng thì mới biết được một lạng bạc vào khoảng một ngàn văn tiền(2), nói dùng cho hai năm là đã tính rộng rãi. Mấy hộ nghèo đơn chiếc nếu tiết kiệm thì có thể dùng hơn ba bốn năm. Khó trách vì sao Ấu Nương lại bảo là không ít. Có điều cách tính này là đã tính lương thực tự trồng, chứ một lạng cùng lắm chỉ chi tiêu trong vòng một năm.
(2) văn tiền: đơn vị tiền nhỏ nhất (tương đương với xu)
Dương Lăng cẩn thận tính toán, một mẫu bốn lạng, vậy bốn mẫu sẽ là mười sáu lạng, xem ra không ít, nói chung cũng đủ để Ấu Nương dùng hơn mười năm. Song với tình hình ngày hôm qua, nếu như không có mình, chỉ e tộc nhân Dương thị sẽ không dễ dàng nhượng lại ruộng đất cho Ấu Nương.
Nhưng… nếu là mình muốn bán ruộng đất thì chẳng ai có quyền cản trở. Y thầm tính một hồi rồi mở miệng nói:
– Ấu Nương, ta muốn bán hết ruộng đất nhà cửa, dọn vào trong nội thành ở.
Hàn Ấu Nương tròn mắt thất kinh, vội thốt lên:
– Gì chứ? Như thế… như thế sao được? Đó là đất đai của cha mẹ chàng để lại, làm sao có thể mất trong tay chúng ta chứ? Tướng công, chàng lo lắng chúng ta sẽ hết kế sinh nhai phải không? Chàng chớ nên suy nghĩ, những ngày gần đây vì chàng lâm bệnh nên thiếp không dám rời chàng quá xa. Bây giờ chàng đã khỏe lại, chỉ cần an tâm chăm lo đọc sách là được. Thiếp từ nhỏ đã theo cha học bản lãnh săn bắn, qua mấy ngày nữa sẽ lên núi săn thú. Chỉ cần ráng qua khỏi mùa đông này, chờ cho đến khi ruộng đất nhà chúng ta có thu hoạch thì sẽ có thể trả hết số nợ mà chúng ta đã vay mượn.
Dương Lăng khổ sở nói:
– Băng tuyết ngập trời, một nữ nhân như nàng đi lên núi săn bắn sẽ rất nguy hiểm. Thời gian qua đã khổ cho nàng nhiều rồi. Ta nghĩ với tài viết lách và tính toán của ta, vào nội thành thế nào cũng sẽ tìm ra một công việc. Ta thật sự… thật sự không nhẫn tâm để nàng mới chừng này mà vẫn phải nuôi dưỡng một phế vật như ta.
Hàn Ấu Nương hoảng hốt đứng dậy, lật đật kêu:
– Tướng công, chúng ta là phu thê mà sao chàng lại nói ra những lời như vậy? Chàng là tú tài, là người có công danh, sao có thể đi làm mấy chuyện thấp kém đó được.
Dương Lăng không cho là đúng, hỏi ngược lại:
– Những việc đó có gì mà thấp kém? Chẳng lẽ ngay cả vợ mình cũng chăm sóc không nổi thì mới là cao thượng sao?
Không ngờ Hàn Ấu Nương vừa nghe đã rơi nước mắt, thút thít nói:
– Thiếp không thể chăm sóc tốt tướng công, để cho một tú tài như chàng phải đi làm mấy công việc thấp kém đó, sau này xuống cửu tuyền thiếp còn mặt mũi nào để gặp cha mẹ của chàng chứ. Tướng công, thiếp xin chàng, có nhà thì mới có căn cơ, rời quê xa xứ, lưu lạc tha phương sao có thể tính là kế lâu dài?
Dương Lăng thấy nàng rơi lệ liền cuống lên, vội vã đặt bát xuống bàn, kéo nàng vào lòng, khẽ lau nước mắt cho nàng, rồi nhẹ nhàng an ủi:
– Ngoan nào, Ấu Nương đừng khóc, nàng khóc là lòng ta chịu không nổi đâu. Nàng hãy nghe ta nói. Năm sau sẽ tổ chức thi Hương, mà nhà chúng ta thậm chí không có đủ lộ phí thì sao lên tỉnh thành tham gia thi Hương được? Ta làm vậy là để cắt đứt hết đường lui, quyết một trận tử chiến(3), mà ta cũng có thể tập trung tinh thần đọc sách. Vi phu là tú tài trẻ tuổi nhất Tuyên phủ, nàng có lòng tin ta sẽ thi đỗ cử nhân hay không?
(3) nguyên văn “phá phủ trầm chu, bối thủy nhất chiến”, nghĩa đen: đập nồi dìm thuyền, dựa sông mà đánh giặc. Ý cắt đứt hết đường lui để làm một trận sống mái. Thuyết Hạng Vũ xưa đem quân đi đánh Cự Lộc, sau khi qua sông thì dìm hết thuyền, đập vỡ nồi niêu để binh sĩ thấy không có đường lui, phải quyết tâm đánh thắng.
Hàn Ấu Nương cuống quít gật đầu:
– Vâng, Ấu Nương tin, tướng công nhất định sẽ có thể thi đỗ cử nhân, sau đó lại tiến kinh tham gia thi Đình, tương lai nhất định sẽ làm đại quan.
Dương Lăng cười nói:
– Thế thì được rồi, nàng còn tiếc mấy mẫu ruộng núi này làm gì? Nếu muốn mua đất, sau này chúng ta sẽ mua cả trăm khoảnh(4) đất tốt, quang tông diệu tổ, tương lai chẳng phải sẽ càng có thêm niềm hãnh diện để đi gặp cha mẹ sao?
(4) một khỏanh tương đương với 100 mẫu, chừng 6,7 héc-ta
Hàn Ấu Nương nghiêng đầu suy nghĩ kỹ rồi chần chừ đáp:
– Tướng công nói cũng có đạo lý, nhưng mà… nhất định phải bán ruộng đất đi sao? Không thì… mượn thúc thúc mấy lạng tiền lộ phí, chàng chỉ cần lo tham gia thi cử, thiếp ở nhà cấy cày, như vậy chẳng phải sẽ ổn thỏa hơn nhiều sao?
Nhìn cái mảnh đất nghèo khó hoang vu này, Dương Lăng liên tưởng tới một nhà kinh tế học bị rơi vào một bộ lạc nguyên thủy, xa rời chế độ và trình độ năng lực sản xuất hiện tại, những thứ mà y hiểu biết căn bản sẽ không có chỗ dùng.
Nhưng ngược lại, nếu vào thành, không chừng y sẽ như bọn người may mắn quay ngược thời gian trong truyện, nghĩ ra được vài phát minh hay sáng chế, kiếm một mớ tiền lớn, bảo đảm Hàn Ấu Nương không phải lo chuyện cơm áo. Cho nên y mới khăng khăng đòi rời khỏi nơi này.
Dĩ nhiên y sẽ không nói thẳng với Hàn Ấu Nương những suy nghĩ trên, cho nên kiếm cớ bảo:
– Hôm qua nàng cũng thấy rồi đó, hiện tại ta thật sự không muốn mang ơn vị thúc thúc đó. Huống hồ…
Y kề sát tai Ấu Nương cười nói:
– Đêm qua nàng đã nhầm ta với ai à? Những ngày qua có phải đã có mấy tên vô lại đến ve vãn nàng phải không? Ta làm sao có thể yên tâm để ái thê bé bỏng xinh đẹp như vậy ở lại đây một mình chứ.
Y chỉ nghĩ trêu mấy câu này thì sẽ làm cho Hàn Ấu Nương xấu hổ mà cười rồi đánh yêu y một phen. Ai dè, Hàn Ấu Nương vừa nghe y nói xong, sắc mặt lập tức trắng bệch, vùng mạnh ra khỏi ngực y, run rẩy nói:
– Tướng công, chàng nói thiếp đưa ong dẫn bướm, không giữ đạo làm vợ đó sao? Phụ nhân chi nghĩa, tòng nhất chi chung(5), đó là cái truyền thống cổ xưa. Ấu Nương tuy là con gái của một thợ săn, nhưng cũng biết những cái đạo lý làm người này, làm sao có thể làm ra được những chuyện bỉ ổi khiến thiên lôi muốn đánh, thần thánh chẳng dung đó chứ?
(5) cái nghĩa của người làm vợ là phải thờ chồng suốt đời
Dương Lăng bị dọa cho nhảy dựng, không nghĩ vốn mấy câu nói đùa lại khiến cho nàng phản ứng gay gắt đến như vậy. Y vội vàng dỗ dành:
– Ấu Nương, nàng quá nhạy cảm rồi, ta… vi phu chỉ là muốn trêu nàng, khen nàng xinh đẹp thôi, nào có ý trách móc gì nàng, nàng ngàn vạn lần chớ có đa nghi. Được rồi, coi như vi phu đã nói sai đi, đến đây, vi phu sẽ chịu phạt, nàng hãy đánh ta mạnh vào.
Dương Lăng chộp lấy nắm tay của Hàn Ấu Nương nện vào ngực mình một trận. Thấy nàng vẫn nước mắt lưng tròng, tức thì nhanh trí, giả bộ ho mấy tiếng. Kế này quả nhiên hữu hiệu, Hàn Ấu Nương lập tức quên mất phiền muộn, lật đật đỡ lấy y:
– Tướng công, có phải là thân thể chàng không khỏe không? Hãy mau nằm xuống nghỉ đi.
Dương Lăng cười thầm, xem ra lấy chiêu này đối phó với nàng ấy trăm lần đều sẽ trúng. Y giả vờ mang bộ dạng thật hư nhược để cho nàng dìu nửa nằm nửa ngồi trên giường, sau đó ho nói:
– Ta không sao, chỉ là tùy tiện trêu chọc nàng, vô ý lỡ lời, thấy nàng thương tâm buồn bã, mà ta thì mồm miệng vụng về, lại chẳng giải thích rõ, trong lòng nóng vội, thế là… khụ khụ….
Hàn Ấu Nương liền nói:
– Ấu Nương tin, Ấu Nương tin tướng công! Hết thảy hãy để cho phu quân an bài là được.
Nàng dựa vào lòng Dương Lăng, hai tay ôm lấy eo y, sợ y lo lắng buồn bực mà sẽ có bất trắc gì, luôn miệng đáp ứng. Qua một hồi lâu, nàng mới khẽ thở dài một tiếng, nói:
– Thiếp hết thảy sẽ đều theo ý phu quân. Chỉ có điều… vẫn xin phu quân để cho thiếp mấy ngày, chàng hãy điều dưỡng cho thân thể được khỏe lên đôi chút, thiếp muốn quay về nhà cha mẹ ở khe núi, dẫu gì cũng phải báo cho phụ thân một tiếng. Mấy hôm trước chàng hôn mê đến kịch liệt, cha đã đến thăm chàng, còn tặng mấy con thú săn được. Chỉ là… trong nhà cũng rất khốn khó, mấy hôm nay cha, huynh trưởng và thúc bá vào sâu trong núi săn bắn vẫn chưa về.
Dương Lăng sẵn lòng đồng ý ngay:
– Đó là lẽ đương nhiên. Nhà cửa đất đai không phải nói muốn bán là sẽ tìm được người mua ngay, dẫu gì thì cũng phải đợi dăm ba ngày. Mấy bữa nữa ta và nàng hãy cùng nhau đi gặp nhạc trượng đại nhân.
Chương 7 : Người đẹp trên lưng ngựa
Cổ ngữ có câu: “Muốn tới kinh thành phải qua ải Cư Dung, muốn đến ải Cư Dung tất phải đi qua trạm Kê Minh.” Trạm Kê Minh cùng với Thổ Mộc bảo cách đó sáu mươi dặm tạo thành thế ỷ dốc, lại kết hợp với Du Lâm hình thành nên ba cửa ải lớn bảo vệ kinh thành.
Dương Lăng và Hàn Ấu Nương đã chuyển nhà ra khỏi vùng núi hẻo lánh. Đầu tiên hai vợ chồng tới thăm vị nhạc phụ đại nhân mà Dương Lăng chưa từng biết mặt, nhưng lại đúng lúc Hàn lão đại dẫn con trai đi săn trên núi chưa về. Hiện giờ tuyết to gió lớn, phụ thân lại vào sâu trong rừng nên Hàn Ấu Nương đoán ít ra cũng phải mươi ngày nửa tháng nữa người mới quay về. Thế là nàng bèn nhắn lại tin mình đã dọn nhà vào trong thành với hàng xóm xung quanh, sau đó cùng Dương Lăng đi Kê Minh.
Dương Lăng chỉ nhớ có nghe qua về cái tên Thổ Mộc bảo. Theo trí nhớ của y, từng có một vị hoàng đế triều Minh dẫn theo năm mươi vạn đại quân đã bị thủ lĩnh bộ tộc Ngõa Lạt (CT: chỉ các bộ tộc ở Tây Mông Cổ, bao gồm phía bắc Tân Cương, Trung Quốc và phía tây nước Mông Cổ ngày nay) đánh cho đại bại ở nơi này, và ông ta đã trở thành một trong số ít các hoàng đế không may bị bắt sống. Nhờ đọc “Bình Tung Hiệp Ảnh” của Lương Vũ Sinh nên y mới biết được chuyện này.
Trong ấn tượng của y, e là chỉ có mấy nơi như Tuyên Đức, Đại Đồng mới đáng được gọi là thành. Tuy nhiên, khởi hành rồi y mới biết giao thông thời này rất bất tiện, còn Kê Minh, mặc dù là một tòa thành nhỏ, nhưng những hàng quán như hiệu buôn, tiệm cầm đồ, hàng dầu, quán trà, quán ăn, loại gì cũng có.
Nơi này là cửa ngõ qua lại giữa kinh thành và vùng Tây Bắc, thương nghiệp phát triển, giao thông tiện lợi, vì thế cũng có thể xem là rất phồn hoa.
Dương Lăng và Hàn Ấu Nương thuê một căn phòng nho nhỏ ở xưởng dầu của nhà họ Tương. Nhà cửa đất đai đều không còn nữa, trên người lại chỉ có khoảng mười lạng bạc, Hàn Ấu Nương sao có thể ngồi không một chỗ! Nàng bèn tới một tiệm may ở đầu phố xin một chân may vá.
Dương Lăng cũng muốn ra ngoài đi lại xem có cách gì để làm giàu không, hoặc ít nhất cũng phải tìm lấy một công việc, chứ để một thiếu nữ mới mười lăm tuổi đầu nuôi, y thật sự cảm thấy không ổn. Nhưng Hàn Ấu Nương lại khăng khăng không chịu, nàng muốn y ở nhà chuyên tâm đọc sách. Dương Lăng cũng đành nghe theo, miệng thì đáp ứng, nhưng nhân lúc nàng không ở nhà liền bắt chước đám học sinh cúp tiết, lẻn ra ngoài đi lăng xăng khắp nơi.
Nào là dịch trạm (CT: trạm truyền đưa văn thư), cửa hàng xe ngựa, tiệm cầm đồ, rồi chùa chiền, mấy chỗ này làm gì có công việc thích hợp với y! Đi cả ngày trời, vắt nát cả óc vẫn không nghĩ ra được cách nào để phát tài, thấy một tiệm rượu, thế là y bước vào kêu ba lạng thịt bò muối, một bình rượu trắng nhỏ, sau đó bắt đầu thưởng thức. Mùi vị của thứ rượu trắng được lên men từ gạo nguyên chất này còn ngon hơn loại rượu cả trăm tệ mà y từng uống tại các nhà hàng lớn. Cho dù có dở thì gã Dương Lăng đáng thương này cũng có biết cách nấu rượu đâu mà phát tài được.
Hỡi ôi, lúc trước đọc tiểu thuyết thấy mấy nhân vật vượt thời gian trong truyện muốn phát tài liền có người vội đưa tiền tới, muốn làm quan lập tức có hoàng thượng chạy ra khóc lóc năn nỉ xin hắn ta ra làm quan, muốn gặp mỹ nữ thì dù chỉ ra khỏi ngõ cũng gặp được vài ba nàng. Liệu có phải là mình quá kém cỏi không nhỉ?
Dương Lăng chán nản uống hết chén rượu chất chứa buồn phiền, sau đó trả bảy văn tiền và rời khỏi quán. Giấu tay vào trong áo, y buồn bực bước đi trên con đường đầy tuyết, tiếng sột soạt vang lên theo từng bước chân. Tòa thành này thật ra rất phồn hoa, lượng người qua lại cũng rất lớn. Nhưng bạn đừng có lấy hình ảnh mọi người đi lại chen chúc của thời nay ra mà tưởng tượng, thời đó không có nhiều người như vậy.
Con đường này tuy tương đối nhộn nhịp, cửa hàng cửa hiệu xếp san sát nhưng người đi lại thật ra cũng chỉ lác đác, không thể xem là nhiều. Sau lưng Dương Lăng chợt vang lên một tràng tiếng vó ngựa dồn dập. Theo thói quen y chỉ tránh đường khi nghe tiếng còi xe, do đó lúc này y vẫn tỉnh như không, cứ bước ngay giữa đường. Đột nhiên vai phải y như bị vật gì quất mạnh xuống, cả người lảo đảo về phía trước, suýt chút nữa là ngã.
Y lấy lại thăng bằng rồi quay đầu nhìn lại, một thớt ngựa thân hình to lớn, lông màu hạt dẻ đang thở phì phò đứng ngay bên cạnh, từ trên ngựa vọng xuống tiếng mắng:
– Ngươi bị điếc hả?
“Cái gì? Đã đụng người ta mà còn ngang ngược?” Dương Lăng tức giận bừng bừng, ngước mắt nhìn lên yên ngựa. Người trên ngựa đội một chiếc mũ da che kín hai tai, để lộ khuôn mặt phấn hồng xinh xắn, mi cong mềm mại, hai hàng lông mày đen nhánh, chiếc mũi dọc dừa nằm ngay dưới cặp mắt long lanh, miệng hồng chúm chím.
Cặp mắt Dương Lăng không tự chủ được sáng rực lên, vừa nhắc mỹ nữ, mỹ nữ đã tới. Mỹ nữ này thật sự là đệ nhất đại mỹ nữ y từng gặp kể từ khi bước chân vào thế giới cổ đại. Từ đôi mày ánh mắt đến mũi ngọc môi hồng, không chỗ nào không quyến rũ. Sự quyến rũ của một nữ nhân chân chính. Trông nàng mới chỉ xấp xỉ mười bốn, mười lăm tuổi, giờ đã đẹp thế này rồi, lớn hơn chút nữa không biết sẽ còn đẹp đến mức nào đây?
Ấu Nương mặc dù cũng là một cô gái xinh đẹp, song vầng trán lại hơi đậm tính cương nghị, đường nét khuôn mặt cũng không yêu kiều bằng. Mà cái khí chất của một cô gái thuần phác miền thôn dã lại càng không thể nào sánh được với khí chất trang nhã cao quý của thiếu nữ trước mặt đây. Có nhìn thấy đôi mắt cực kỳ quyến rũ trên khuôn mặt trái xoan của nàng người ta mới hiểu được hồ ly tinh trông như thế nào.
Nàng mặc đồ nam, bên ngoài khoác chiếc áo choàng màu xanh lục nhạt của nước hồ, để lộ đôi ủng da hươu ống ngắn ở bên dưới. Mày liễu nhướng lên, nàng đang tức giận quát Dương Lăng. Khi thấy y xoay lại, trên người mặc áo vải bông màu xanh nước biển, bên ngoài khoác áo choàng dài màu xanh da trời, dáng người cao ráo, khuôn mặt tuy mang vẻ thư sinh nhưng đường nét lại khá anh tuấn, quan trọng nhất là cặp mắt có thần, nhìn rất thuận mắt, nên cơn tức của nàng cũng tạm thời vơi đi vài phần.
“Hây” có tiếng hét ghìm cương, một người cưỡi ngựa chạy tới bên cạnh. Kỹ thuật rõ ràng là không bằng thiếu nữ xinh đẹp kia, đầu ngựa hất cao, hí vang một tiếng dài, vó đạp tuyết bắn tung tóe. Hắn hơi kiễng mông ổn định thân người rồi mới lớn tiếng:
– Sao vậy muội? Này, tiểu tử mù nhà ngươi đã va vào muội muội của ta phải không?
Gã này khá vạm vỡ, trên người mặc một áo chẽn ngắn nút cài bên, đầu đội mũ nỉ màu tím, tuổi độ hai mươi, da màu đồng, mắt to mày rậm. Gã có phong thái hiên ngang, mặt tràn đầy vẻ kiêu ngạo, trông hết sức gan dạ, dũng cảm. Vừa nói gã vừa rướn người tới, cây roi ngựa trong tay quất vút xuống người Dương Lăng.
Tên này nói đánh là đánh, thật quá bạo ngược. Dương Lăng tránh không kịp, lại sợ bị quất trúng mặt nên theo phản xạ y đưa tay lên che. Thiếu nữ nọ hơi vươn người ra, cây roi ngựa trên tay phải vút thẳng đến quấn lấy roi của ca ca. Rồi nàng kéo về phía sau, không cho nó đánh xuống.
Bật cười khúc khích, nàng thúc ngựa chạy tới bên cạnh Dương Lăng, nói với gã kia:
– Bỏ đi ca ca, trông người ta thế này chắc là kẻ đọc sách, sao có thể chịu được cây roi của huynh chứ? Này, thư sinh, đừng có sợ, bổn cô nương tha cho ngươi đó …
Giọng cười ngọt ngào của cô nàng nghe hết sức êm tai, phong cách thân thiện lại có phần châm chọc.
Dương Lăng bỏ tay xuống, ngẩng đầu ngắm nhìn dung nhan kiều diễm của nàng, khuôn mặt ấy xinh tựa hoa đào. Dương Lăng đã trải qua chín kiếp, từng gặp không biết bao nhiêu mỹ nữ, ấy vậy mà vẫn bị tiểu mỹ nhân có sức quyến rũ chết người này làm cho tim đập thình thịch.
Đôi mắt lấp lánh của thiếu nữ biểu lộ tình cảm rất phong phú. Dường như đã quen với phản ứng của bọn đàn ông khi lần đầu thấy sắc đẹp của mình, tuy nhiên khi thấy ánh mắt Dương Lăng mặc dầu đầy ngưỡng mộ, nhưng lại không có cái vẻ tham lam háo sắc của bọn nam nhân đáng ghét kia, mắt nàng lộ vẻ thú vị. Chăm chú nhìn y một chút, nàng quay đầu sang bảo với gã kia:
– Ca, đi thôi, còn phải mua lễ vật nữa!
Nói rồi, nàng thúc chân vào bụng ngựa, cười nhắc Dương Lăng:
– Thư sinh hãy nhường đường, ta không muốn lại va vào ngươi nữa.
Trong chuỗi cười khanh khách của nàng, con ngựa màu hạt dẻ lướt đi, kỹ thuật của thiếu nữ này quả thật rất giỏi.
Khi bóng dáng yêu kiều xinh xắn lướt qua, Dương Lăng ngửi thấy hương thơm quý phái thoang thoảng mê người.
Gã thanh niên to như con báo kia hung hãn trừng mắt nhìn Dương Lăng, hừ một tiếng, rồi cũng nghênh ngang thúc ngựa chạy theo sau muội muội. Dương Lăng chẳng phải người thích ẩu đả, mà y cũng chẳng có bản lĩnh đánh nhau, nên chỉ cười nhạt không nói gì. Khi thấy hai người đã đi xa, y tiếp tục chậm rãi bước về phía trước.
Dương Lăng cứ trông thấy cửa hàng là bước vào dạo quanh, hy vọng sẽ nảy ra được ý tưởng làm giàu. Tiếc là y nghĩ không ra thứ gì thích hợp để có thể ứng dụng, vừa phù hợp với trình độ khoa học kỹ thuật của người thời này, vừa là kiến thức y hiểu rõ. Vất vả lắm y mới nghĩ ra kẹo hồ lô, ngay lập tức liền thấy hai ông lão đang đứng ở góc đường với hai cây nộm rơm cắm đầy kẹo hồ lô.
Dương Lăng chua chát nghĩ: “Không biết thịt dê xiên của Tây Vực đã truyền đến Trung Nguyên hay chưa, nếu chưa thì xem như chỉ có mình là tung ra được. Nhưng bán thịt xiên thì làm sao mà giàu được đây? Về phương diện ẩm thực, yêu cầu của người xưa đối với vẻ ngoài quan trọng hơn mùi vị nhiều, nếu không thì trong ba thứ ‘sắc, hương, vị’ của đồ ăn cũng đã chẳng đặt chữ ‘sắc’ lên hàng đầu.”
Ngẫm lại thì cho dù ở thời đại của mình, thịt dê xiên cũng không phải là món ăn có thể đưa vào những nơi trang trọng. Những người có thân phận khi uống rượu giao lưu, ai lại cầm xiên thịt lên mà gặm chứ. Còn với kẻ không có tiền, bảo hắn bỏ ra một văn tiền để ăn mấy viên thịt, chỉ e hắn sẽ không đành lòng.
Tưởng tượng tới việc mình mặc một chiếc áo khoác dài sọc xanh trắng, gắn thêm bộ râu giả, đứng bên cái giá sắt hun khói, vừa giả làm người Tây Vực để mời gọi khách hàng, vừa nướng xiên thịt; còn Hàn Ấu Nương thì ngồi đằng sau cầm mấy que trúc xiên thịt chuột chết, Dương Lăng không khỏi rùng mình: dựa vào thứ đó mà có thể làm giàu ở thời đại này sao? Có đánh chết mình cũng không tin.
Bó tay lê bước, nhìn thấy một cửa hàng nhạc cụ, Dương Lăng bước vào, vừa liếc mắt đã trông thấy hai huynh muội khi nãy cũng đang đứng ở bên trong. Thấy có người vào, thiếu nữ đó cũng quay đầu lại nhìn. Bị bắt gặp, Dương Lăng giờ có muốn quay trở ra cũng bất tiện, sợ bị người ta chê cười là nhát gan.
Lúc này thiếu nữ kia đã bỏ chiếc mũ trên đầu xuống, để lộ ra gương mặt thanh tú, đường nét đẹp như tranh vẽ cùng với mái tóc được vấn ba búi trên đầu. Khi xoay lại nhìn thấy y, thiếu nữ không khỏi mỉm cười rồi lại quay đầu về, vuốt ve một chiếc đàn cổ ở trên bàn.
Dương Lăng không am hiểu về nhạc cụ, nhưng mới vừa thấy người ta đã bỏ đi thì cũng không tiện lắm. Cho nên y làm bộ làm tịch cầm lấy một cây sáo trúc lên nhìn nhìn ngắm ngắm, nhưng mắt lại lén nhìn về phía thiếu nữ.
Nàng chỉ cúi đầu nhìn cây đàn. Trông hình dáng cây đàn đó đúng là đồ quý hiếm trong các loại đàn: dáng vẻ cổ xưa, mặt ngoài bóng loáng như vàng mà chẳng phải vàng, hoa văn tinh xảo, chất liệu sử dụng cũng là loại gỗ đồng cổ (CT: tên khoa học Arites cordata, là một thứ gỗ dùng để đóng đàn).
Ánh mắt thiếu nữ lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, đưa ngón tay ngọc ra vuốt nhẹ dây đàn, trong phòng vang lên những nốt nhạc êm tai.
– A ha, âm điệu thật không tệ!
Thiếu nữ vui thích reo lên. Một ngón tay ấn lên dây thứ nhất, ngón kia khảy đàn, nốt nhạc hùng hồn bi tráng lan rộng khắp phòng.
– Đàn tốt! Lão bản, cây đàn này bao nhiêu tiền?
Lão bản độ sáu mươi tuổi, cười nói với vẻ bợ đỡ:
– Tiểu thư thật biết nhìn hàng, cây đàn này chính là cổ vật từ triều trước, nếu tiểu thư thích, lão sẽ để lại với giá hai mươi lạng bạc.
Thiếu nữ ngạc nhiên hỏi lại:
– Hai mươi lạng ư? Cây đàn này không tồi, nhưng hai mươi lạng thì hơi đắt, ta thấy … chỉ đáng giá mười lạng thôi.
Chương 8 : Đưa nhau ra cửa quan
Lão bản chép chép cái miệng móm chẳng còn mấy cái răng, bảo:
– Tiểu thư, cây đàn này được làm từ loại gỗ tung cổ thượng hạng đó. Chỉ riêng một khúc gỗ đồng này thôi cũng đã phải mạo hiểm tính mạng vào rừng sâu núi thẳm tìm bao lâu mới được đấy. Tiểu thư hãy nhìn những dây đàn này xem, mỗi một dây đều được bện thành từ ba mươi sáu sợi tơ ô kim (CT: hợp kim giữa đồng và vàng), tiền nào của nấy cả thôi mà! Một cây đàn quý hiếm như vậy, đòi cô hai mươi lạng không hề đắt chút nào.
Thiếu nữ cười không nói, lúm đồng tiền xinh xinh trên má trông thật động lòng người, cặp môi hồng hé mở để lộ hàm răng trắng đều như ngọc. Vẻ đẹp ấy khiến cho trái tim Dương Lăng đang đứng gần đó đập thình thịch. Thiếu nữ nghiêng đầu liếc y, hiển nhiên đã biết y đang trộm nhìn mình, có điều sắc mặt lại chẳng hề có chút khó chịu nào hết.
Thiếu nữ mỉm cười, ngoảnh qua nhìn ca ca, rồi đột nhiên xí xa xí xố một tràng những lời mà Dương Lăng không hiểu. Gã thanh niên cường tráng đó cũng dùng kiểu phát âm tương tự để trả lời. Thiếu nữ lắc đầu, nói với lão bản:
– Lão bản, ta thật rất muốn mua đàn của ông. Ở Kê Minh này, ngoài ta ra e chẳng còn ai bỏ ra nhiều tiền như vậy để mua nó đâu. Thế này đi, mười lăm lạng, nếu được ta sẽ mua.
Lão già lại chép miệng, gật đầu:
– Thôi được, hàng bán cho người biết hàng. Nếu tiểu thư đã nói vậy, lão đây đành bán cho cô vậy.
Thiếu nữ nghe xong khẽ cười, đưa tay vào ngực lấy ra một cái túi nhỏ, rồi lấy từ trong đó ra một viên trân châu. Nàng đặt nó lên lòng bàn tay trắng nõn của mình, đưa ra trước mặt lão bản:
– Được! Đây là viên Hòa Phổ châu thượng hạng, cho dù ở nơi hẻo lánh cũng đã đáng giá mười tám lạng bạc rồi. Ta dùng viên trân châu này đổi lấy cây đàn, ông không cần trả lại tiền thừa, đưa thêm cho ta hộp đàn nữa là được.
Thời đó mặc dầu cũng có vàng ròng bạc trắng, còn lưu thông cả ngân phiếu Đại Minh, song lấy vật đổi vật vẫn rất thịnh hành trong dân gian, cho nên hành động của thiếu nữ này cũng không có gì là kỳ quái. Lão già nhận lấy hạt trân châu, đưa ra ánh sáng mặt trời nheo mắt nhìn, thấy quả nhiên là một viên trân châu thượng hạng. Vụ làm ăn này đúng là quá hời.
Có điều … Lão già lại tham lam nhìn viên trân châu, âm thầm tính toán: Kê Minh dù tấp nập khách thương nam bắc, nhưng chẳng phải là một nơi tốt để buôn bán nhạc cụ, mình đến đây mở tiệm đã mấy năm mà vẫn thường lỗ nhiều lãi ít. Đây cũng là lúc mình đang tính dời tiệm đến Đại Đồng để làm ăn. Giờ đã cuối năm, viên trân châu này đến tay rồi thì còn phải nghĩ cách bán đi. Mình không nhận ra hai huynh muội này, nên có thể chắc chắn họ không phải là dân bản địa, nghe khẩu âm nói chuyện vừa rồi giống như là người quan ngoại, nói không chừng chỉ là tiện đường ghé qua đây. Nếu cướp được viên trân châu này thì có lẽ sẽ bù được vào phần làm ăn thua lỗ một chút.
Nghĩ đến đây lão già liền nổi lòng tham, thuận tay nhét viên trân châu vào trong ống tay áo, rồi lão cười ha hả nói:
– Tiểu thư, ta chỉ giao dịch bằng tiền mặt, nếu cô thật sự muốn mua vậy hãy đưa bạc đến đây đi.
Thiếu nữ nghe xong bĩu môi, nghĩ tới số bạc trong người không đủ, nàng giậm chân tức giận:
– Cái lão bản nhà ông! Rõ ràng ta đã nhường ông phần hời, vậy mà còn muốn lấy cớ này cớ nọ. Thôi, đem trả lại viên trân châu đây, ta không mua nữa.
Lão già chớp mắt gian xảo, làm ra vẻ kinh ngạc:
– Trân châu? Trân châu nào? Cô đến cửa tiệm của ta mua đồ chứ đâu phải đến bán đồ, ta nào thấy trân châu gì của cô đâu?
– Cái gì?
Khuôn mặt thiếu nữ lập tức đỏ bừng, nàng đập tay xuống quầy giận dữ mắng:
– Loại người như ông sao chẳng có đạo đức gì hết vậy? Muốn gạt lấy trân châu của ta hả?
Gã ca ca kia của nàng nghe thấy vậy liền giận đến tím mặt, hùng hổ vươn tay ra chụp lấy lão già gầy đét đó lôi mạnh từ trong quầy ra bên ngoài, lớn tiếng chửi:
– Con bà ngươi, dám gạt đồ của muội muội ta hả? Ngươi tưởng Mã Ngang ta là kẻ dễ bị ức hiếp lắm hay sao? Lão chó già, mau đưa viên trân châu ra đây.
Lão bản lập tức căng họng bắt đầu la hét:
– Cướp đánh người nè, bớ hàng xóm láng giềng, mau đến xem đây này … Lão Vương ta làm ăn buôn bán trước giờ luôn sòng phẳng, chưa từng gian dối với ai bao giờ … Bọn người vùng khác đến nhà ức hiếp người ta đây này …
Lão ta thấy Dương Lăng ăn mặc kiểu người bản địa, mà thời đó tư tưởng cục bộ còn nặng, cái kiểu “nói tình không nói lý” rất điển hình. Do vậy lão nghĩ la lớn như vậy thì hàng xóm láng giềng sẽ chạy đến, thêm vào đó, còn có người bản địa này ở đây làm chứng, hai kẻ ngoại địa chỉ còn cách ngậm bồ hòn làm ngọt, ôm hận mà bỏ đi thôi. Nếu vẫn không ăn thua thì lão còn có hai người con trai, chẳng lẽ lại e ngại hai người ngoại xứ hay sao?
Mấy lời la hét hàm hồ này càng khiến cho người thanh niên tự xưng là Mã Ngang kia thêm phẫn nộ. Gã bừng bừng nổi giận, giơ tay lên bạt tai lão, miệng thì mắng:
– Lão chó già gian trá, thật là ép người quá đáng!
Lúc này tấm mành phía sau quầy được vén lên, một gã đàn ông độ bốn mươi, râu ria xồm xoàm xông ra. Vừa thấy cảnh này hắn liền rống to một tiếng rồi vung quyền đánh mạnh, hung tợn quát:
– Thả cha ta ra! Thằng nhóc con từ đâu ra thế, dám đến tận cửa ức hiếp nhà họ Vương ta!
Tên này xem ra cũng có mấy phần khí lực nên quyền đánh ra khá mạnh mẽ. Mã Ngang nhìn thấy liền mỉm cười khinh miệt, vung tay ném bay lão già gầy đét như con khỉ kia đi. Gã đứng nguyên tại chỗ, không thèm nhúc nhích, chỉ đưa một tay ra là đã giữ được nắm đấm của tên nọ. Gã chầm chậm siết năm ngón tay lại, tên đó bị gã bóp chặt lấy nắm tay, kêu lên ôi ối, đau đớn khuỵ xuống.
Mã Ngang cười lạnh lùng, bảo:
– Muốn cướp không sao? Chẳng lẽ chỉ có chút khí lực thế này?
Lão già kia khi nãy bị gã nắm áo tát cho hai cái, sau lại bị ném xuống đất, lúc này đang chỉ tay vào Mã Ngang, la hét càng um sùm hơn. Có điều lão mới la lên được có mấy tiếng thì đột nhiên mặt mũi đỏ lên, hổn hển thở ồ ồ mấy tiếng, ngã gục tắt thở. Mã Ngang đang giữ cổ tay con trai lão, vẫn còn muốn tỏ uy phong. Lúc này láng giềng xung quanh đã nghe thấy tiếng mà kéo lại. Có người đỡ lão già kia dậy, rồi bỗng la lớn:
– Vương Tam Nhi! Mau đến xem cha ngươi đi, ông cụ không xong rồi.
Mã Ngang quay đầu nhìn, thì thấy khuôn mặt của lão chủ cửa tiệm tham tiền kia đã xám ngoét, còn lão thì mềm oặt nằm trong lòng người ta, không động đậy chút nào. Gã thầm kinh hãi, không tự chủ mà buông tay ra.
Gã con trai tên gọi Vương Tam Nhi đó vội vã lao qua ôm lấy lão già, đưa tay lên mũi lão sờ thử, nhưng lão đã tắt thở. Hắn lập tức gào lên đau xót, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, kêu khóc:
– Cha ơi, thương cho cha từng này tuổi đầu rồi mà còn bị tên khốn kia đánh chết, cha ơi …
Lúc này ở cửa sau lại xuất hiện thêm người tuổi cũng tương đương gã kia, theo sau là một tốp đàn bà trẻ con, xem ra đều là người nhà họ Vương. Bọn họ nghe thấy tiếng ồn ào nên chạy ra. Mã Ngang ban đầu vẫn cho rằng cả nhà này chỉ đang lừa bịp giả chết, nên cười khẩy không nói gì. Đến khi thấy đám con cháu vây quanh cha, ông bọn họ khóc mãi, sắc mặt gã không khỏi biến đổi hẳn, trong lòng cũng bắt đầu cảm thấy sợ hãi.
Gã lặng lẽ kéo tay áo muội muội, đưa mắt ra hiệu cho nàng, đồng thời định đưa nàng đi khỏi. Nhưng đám người nhà họ Vương nào chịu bỏ qua, lập tức đứng cả lên vây lại, còn la hét ầm ĩ, xô xô đẩy đẩy hai người. Trong đám lộn xộn có người chạy ra ngoài gọi hai nha sai đi tuần đến. Nghe nói có vụ án đánh chết người, hai nha sai đó cũng không dám thờ ơ, vội chạy theo vào trong tiệm, lớn tiếng quát:
– Hung thủ giết người đang ở đâu?
Kê Minh nguyên là từ trạm nâng lên thành, nhưng chưa thể xem là một toà huyện thành được. Nhưng vì nơi đây địa thế quân sự trọng yếu, thêm vào đó lại là cửa khẩu quan trọng để các khách thương trung chuyển hàng hoá, tiền thuế rất dồi dào, do vậy cơ quan huyện lị cũng đã được thiết lập ở đây để cai trị và quản lý trong phạm vi mấy chục dặm xung quanh. Có điều huyện này tương đối nhỏ, huyện lệnh cũng chỉ là quan Tòng thất phẩm.
Mã Ngang thấy quan sai đến, mà gã thì chẳng có cái gan giết quan tạo phản nên không dám lỗ mãng nữa. Con trai của lão bản tiệm nhạc cụ chỉ vào gã, tố cáo:
– Chính là hắn, chính là tên cướp đã giết cha tôi.
Mã Ngang chống chế một cách yếu ớt:
– Không phải tại ta. Lão bản này đã lớn tuổi, đã thế còn giấu đi viên trân châu của em gái ta, bị ta vạch trần nên vừa xấu hổ vừa tức giận ngất đi. Sau đó thì lão bị khí huyết công tâm mà chết. Có can hệ gì tới ta chứ?
Làm gì có chuyện tội phạm sát nhân nói một câu “người chết không phải do ta giết” thì sẽ được thả đi ngay! Hai tay nha sai đó chẳng thèm đếm xỉa đến những gì gã nói. Một tên lôi từ sau lưng ra một sợi dây xích nhỏ, tròng vào cổ gã, sau đó thì áp vai, kẹp tay, trói chặt gã lại. Tên còn lại nắm chặt cán đao bên hông, chỉ cần gã dám phản kháng thì chắc chắn sẽ cho một nhát bay đầu.
Trói chặt Mã Ngang lại xong, gã nha sai liền kéo sợi dây xích, quát:
– Có gì muốn nói thì đi mà giải thích với Huyện thái gia, đi! Gia quyến lão Vương chớ nên khóc nữa, hãy mang cha các ngươi đến nha môn rồi trình bày! Các vị láng giềng, phiền các vị hãy cùng đi làm chứng một chút!
Thiếu nữ nọ lo lắng đến độ nước mắt lưng tròng, mắt thấy ca ca nàng bị trói dẫn đi, nàng vội đưa tay chỉ về phía Dương Lăng nãy giờ vẫn thờ ơ bàng quan, nài nỉ:
– Ca ca của ta không giết người! Thư sinh này vẫn luôn ở đây, hắn có thể làm chứng.
Đứng cạnh đó chứng kiến sự việc suốt từ đầu chí cuối, hiển nhiên Dương Lăng hiểu rõ: gã Mã Ngang này mặc dù trẻ tuổi nóng nảy, nhưng lão già đó giấu diếm đồ vật của người ta, cũng xem như ăn cướp. Nhìn tình huống ban nãy mà phán đoán thì có lẽ lão già mang bệnh tim mạch hay áp huyết cao gì đó rồi. Lão bị Mã Ngang đánh chửi nên vừa tức vừa hoảng, tâm tình bị kích động, kết quả là chôm được viên trân châu thì lại mất luôn cả cái mạng.
Tay nha sai đang nắm chuôi đao nghe thế, tuy đã bước ra khỏi cửa tiệm rồi nhưng vội quay trở vào, cười vờ, bảo:
– Nếu đã thế, vậy cũng mời vị này đi cùng bọn ta về làm chứng.
Thấy thiếu nữ xinh đẹp đó khóc lóc sầu thảm, vẻ mặt van nài, Dương Lăng chợt mềm lòng, bèn gật đầu. Một hàng người nối đuôi nhau đi đến cửa huyện nha. Đứa cháu lớn nhà họ Vương vội vàng đánh trống kêu oan, Huyện thái gia Mẫn Văn Kiến vội vã khoác áo thăng đường nghe án.
Chớ có thấy huyện lệnh thất phẩm trong phim trong kịch thường là các vị quan thấp bé, bất kỳ ai cũng có thể đè bẹp dí bọn họ bằng một ngón tay mà lầm. Thật ra quyền lực của huyện lệnh so với bí thư huyện ủy thời hiện đại lớn hơn rất nhiều. Ông ta có thể một mình kiêm nhiệm đến mấy chức vụ như trưởng phòng công thương, phòng tài chính, phòng thuế vụ, rồi chánh án, trưởng công an huyện v. v…
Vị Mẫn huyện lệnh này không giống với đại đa số các văn quan xuất thân tiến sĩ, cử nhân. Ông ta nguyên là tướng quân du kích trong đội quân biên phòng, bởi vị trí địa lý đặc biệt của Kê Minh nên ông được phái đến đây để quản cả chuyện văn lẫn chuyện võ.
Dương Lăng thấy Huyện thái gia là một người mặt đen, râu quai nón rậm thì rất bất ngờ. Vị Huyện thái gia xuất thân là quan võ này đã ngồi ở chức quan văn được hai năm, ít nhiều cũng biết quy củ, nên vừa nghe nói Dương Lăng là tú tài liền kêu người dọn chỗ cho y ngồi, miễn lễ, rồi lên công đường nghe án.
Ông ta vừa nhìn đã nhận ra đôi huynh muội này không phải là những kẻ qua đường, mà là công tử, tiểu thư của Dịch thừa Mã đại nhân mới nhậm chức ngày hôm qua. Dịch thừa cũng có thể xem là quan viên chịu sự quản lý của Huyện thái gia, nhưng vì Kê Minh là từ trạm nâng cấp lên thành, thủ hạ của sở Dịch thừa ở đây trên dưới trăm người, hơn nữa lại thuộc về hệ thống quân dịch, thành ra trên thực tế Dịch thừa đại nhân lại ngang cấp với Mẫn huyện lệnh.
Tối hôm qua Mẫn huyện lệnh còn dự yến tiệc của Mã dịch thừa, trong bữa tiệc có gặp đôi công tử tiểu thư này, nên cũng có ý muốn giúp gỡ tội cho bọn họ. Tuy vậy, đánh chết người không phải là chuyện nhỏ, mặc dù đã lục ra được viên trân châu ở trên tử thi, chứng thực việc lão kia cướp đồ người khác, nhưng lão già ấy chết ở hiện trường cũng là sự thật. Bắt Mẫn huyện lệnh đi vung đao chém người thì còn đạt chuẩn, chứ còn bảo ông ta đi xử án thì … Người ta còn chưa thuộc luật Đại Minh cơ mà.
Chương 9 : Nhà có vợ hiền.
Kết quả, đứng trước công đường Dương Lăng đã nói những gì mình thấy, chứng thực rằng Mã Ngang đích xác chưa hề nặng tay với ông chủ họ Vương.
Già trẻ lớn bé nhà họ Vương bèn quỳ sụp xuống khóc lóc thê thảm, kêu gào kể lể rằng bình thường thân thể cha, ông bọn họ mạnh khoẻ như thế nào, rồi chắc chắn là đã bị Mã Ngang hành hung mà chết ra làm sao, khiến cho vị Huyện thái gia từng trải chiến trường này phải vò đầu bứt tóc, ngồi ở bên trên mà đôi mắt nhỏ trợn tròn, không nghĩ ra được chủ ý gì.
Ngồi phía sau một chiếc bàn thấp mặt bên công đường là Hoàng huyện thừa. Nhiệm vụ của huyện thừa là phụ tá cho huyện lệnh, có thể nói là không việc gì trong huyện mà không thể hỏi tới. Nhưng theo thông lệ, để tránh hiềm nghi lấn quyền, huyện thừa chỉ tương đương với huyện lệnh dự bị, bình thường giống như một ông tượng gỗ ở trong miếu, không bày tỏ thái độ với bất cứ chuyện gì.
Vị Hoàng huyện thừa này lại là văn nhân, mà thời đó trọng văn khinh võ, thế nên ông ta vốn rất xem thường cái vị Huyện thái gia xuất thân nhà binh này, cho nên luôn ở bên cạnh đóng vai Từ Thứ (1). Hơn nữa Mẫn huyện lệnh cũng sớm đã quen coi ông ta như không tồn tại, thế nên cũng tuyệt nhiên chẳng hỏi ý về bất cứ chuyện gì.
Đang lúc Mẫn huyện lệnh ngồi bứt râu không biết làm thế nào, một bộ đầu bước đến nói nhỏ vào tai hắn mấy câu. Hắn phất ống tay áo, lớn tiếng nói:
– Tạm thời bắt giữ Mã Ngang, thi thể sẽ do ngỗ tác (người làm nghề khám nghiệm tử thi, thời nay là nhân viên pháp y) trông giữ. Những người khác hãy về nhà trước đi, chờ cho bổn quan khám nghiệm xong sẽ tiếp tục định án.
Mã Ngang bị đưa vào trong đại lao. Mọi người sau khi để lại danh tính, chỗ ở xong thì đều được mời về. Dương Lăng cũng đứng dậy cáo từ Mẫn huyện lệnh, rời khỏi công đường.
Mã tiểu thư vội bước đuổi theo, hơi nhún người nói:
– Đa tạ Dương tú tài đã vì huynh trưởng tôi mà nói rõ sự thật.
Người con gái này quả thật là hoa nhường nguyệt thẹn, trong công đường không rét như ở bên ngoài nên khuôn mặt lạnh cóng của nàng đã khôi phục lại vẻ mềm mại và lộng lẫy, trắng nõn mịn màng như ngọc quý, dung mạo xinh tươi lại càng thêm động lòng người.
Dương Lăng nghe nàng gọi mình là tú tài, không khỏi nghĩ đến mấy gã hủ nho nghèo kiết xác, cảm thấy rất không thoải mải, bèn cười ha hả đáp:
– Tôi cũng chỉ chiếu theo sự thật mà trình bày. Ban nãy trên phố thấy Mã tiểu thư rất có phong thái của nữ trung hào kiệt, hà tất phải trịnh trọng gọi tú tài gì gì đó, cứ gọi thẳng tên tôi là được.
Mã tiểu thư gượng cười nói:
– Vậy, xin đa tạ Dương công tử. Tới lúc xét xử lại sẽ còn phải phiền Dương công tử làm chứng tiếp vậy.
Đang nói đến đó, từ ngoài cổng chợt có một viên quan tuổi trạc ngũ tuần, dưới cằm đính ba chòm râu vội vội vàng vàng bước vào.
Mẫn huyện lệnh lúc này đã hạ lệnh bãi đường nhưng chưa đi khỏi, thấy viên quan nọ bước vào bèn lập tức bước tới nghênh đón:
– Mã đại nhân, ngài tới đúng lúc lắm! Chuyện này thực khiến cho huynh đệ nhức đầu, ngài xem làm sao cho tốt đây?
Hắn là người thẳng ruột ngựa, cũng may mà Mã đại nhân còn cơ trí một chút. Nhận thấy trên công đường ngoài Mẫn huyện lệnh và con gái của mình ra còn có một người thanh niên lạ mặt, trong lòng Mã dịch thừa cảm thấy hơi e ngại, không dám đề cập đến vụ án.
Thấy con gái làm lễ với mình, lão chỉ khoát tay rồi nhìn Dương Lăng nghi hoặc hỏi:
– Vị này là…
Mã tiểu thư vội giới thiệu:
– Phụ thân, vị tú tài này tên là Dương Lăng. Con cùng ca ca đi mua sắm lễ vật mừng sinh nhật mẫu thân, lão chủ tiệm đó gạt lấy trân châu của con, kết quả bị ca ca mắng cho hổ thẹn tức tối mà chết. May nhờ có Dương công tử đây vì nghĩa nói sự thật, làm chứng giúp ca ca, thế nên ca ca mới chưa bị định tội vì những lời nói phiến diện của đối phương. Ngày mai ra công đường sẽ lại phải làm phiền Dương công tử nữa.
Mã dịch thừa nghe xong liền vội vàng chắp tay cảm tạ, hai bên khách sáo một phen.
Mẫn huyện lệnh vốn là người nóng tính, không thể nhịn được nữa, bèn nói:
– Mã đại nhân, không phải là huynh đệ không muốn giúp ngài. Nhà họ Vương đó người đông thế mạnh, lại còn có hương thân láng giềng ra làm chứng giúp, trăm miệng một lời. Mặc dù có lời chứng của Dương tú tài, nhưng đây là một vụ án mạng, huynh đệ không dám tùy tiện thả người đâu.
Mắt thấy vị Huyện thái gia này có cá tính như vậy, Dương Lăng không khỏi phì cười, lại thấy hai người muốn nói mấy câu mà mình không tiện nghe, y bèn vội chắp tay cáo từ. Mã tiểu thư là người rất thông minh, thấy vẻ lắc đầu phì cười của y, cảm thấy dường như y đã có phương cách sẵn trong lòng. Hôm qua trong tiệc rượu nàng đã gặp qua Mẫn huyện lệnh. Giống như cha nàng, lão ta cũng xuất thân từ quân nhân, không được mềm dẻo, khéo léo. Biết đâu vị Dương tú tài này đã có biện pháp cứu người, dẫu gì thì những kẻ đọc sách chắc hẳn đều đã đọc qua luật Đại Minh.
Nghĩ đến đây Mã tiểu thư vội đuổi theo y, dịu dàng hỏi:
– Dương công tử, nhìn thần sắc huynh, dường như đã nghĩ ra cách cứu ca ca tôi rồi phải không?
Vừa nghe Mã tiểu thư hỏi như vậy, Mẫn huyện lệnh và Mã dịch thừa đều bất giác chấn động, bốn con mắt đều dồn về Dương Lăng.
Y giật nảy mình, vội vàng xua tay nói:
– Đâu có, đâu có! Tại hạ chỉ là một nhân chứng, làm sao có thể qua mặt Huyện thái gia mà bày mưu tính kế chứ?
Hai vị Mẫn, Mã nghe thế liền cảm thấy vô cùng thất vọng, ai dè Mã tiểu thư lại hết sức lanh trí, lập tức hỏi dồn:
– Nói vậy là không phải Dương công tử không có biện pháp, mà chỉ vì thân phận không tiện can dự vào vụ án thôi ư?
Dương Lăng chỉ cần nói một câu là mình không có biện pháp nào, lúc đó sẽ có thể lập tức rời đi, quay về tiếp tục kiếm tìm phương pháp làm giàu thời cổ đại, sắm cho Hàn Ấu Nương một phần di sản hậu hĩnh, rồi sau đó thì trở về âm tào địa phủ tiếp tục quậy cho Ngưu Đầu, Mã Diện phải nhức đầu. Nhưng ở trước mặt một tiểu mỹ nhân thánh khiết như đoá phù dung trên mặt nước thế này, có người đàn ông nào lại tự nhận mình là vô năng được chứ?
Bị nàng ta khích, Dương Lăng buột miệng:
– Đúng vậy, tại hạ chỉ là một gã tú tài, do ngẫu nhiên nên mới làm nhân chứng cho chuyện này mà thôi. Nếu như tại hạ lại ra mặt khoa tay múa chân xét án thay cho Huyện thái gia, vậy chẳng phải đã vượt quá thân phận hay sao?
Mã tiểu thư nở một nụ cười rạng rỡ, chợt uyển chuyển quỳ sụp, vái Dương Lăng năn nỉ:
– Dương công tử! Ca ca tôi mặc dù là người hơi lỗ mãng, nhưng quyết sẽ không phải là kẻ ác xấu xa. Chủ tiệm họ Vương đó thấy lợi quên nghĩa mà chết, giờ lại đòi ca ca tôi phải đền mạng cho lão ta, Dương công tử có thể nhẫn tâm mà đứng nhìn hay sao chứ?
Huyện tôn đại nhân và gia phụ đều xuất thân võ biền, tính tình bộc trực, về mặt pháp luật chỉ biết sơ sơ. Dương công tử đã thông hiểu luật pháp, sao có thể thấy chết mà không cứu?
Thánh nhân có câu: “Đọc sách thánh hiền để mà làm gì?” Chỉ có “đảm đương” mà thôi. Khi gặp chuyện chỉ nói có hổ thẹn hay không hổ thẹn, mà không hỏi sẽ có họa gì hay không. Nếu biết rõ là chuyện bất công, nhưng lại tìm cớ lảng tránh không chủ trì chánh nghĩa, ấy gọi là vô sỉ. Dương công tử nghĩ sao?
Dương Lăng cứng miệng á khẩu, không ngờ tiểu cô nương này mồm miệng lại lanh lợi như vậy. Y không khỏi xấu hổ, một mặt vội lục lọi ký ức dung hợp từ hai kiếp lại xem có thể nghĩ ra được một vài biện pháp dựa vào luật Đại Minh và cách phán quyết vụ án ở hậu thế để giúp Mã Ngang hay không, một mặt bước tới đỡ nàng ta dậy, cất tiếng:
– Xin Mã tiểu thư hãy mau đứng dậy. Theo tôi thấy, e rằng bản thân chủ tiệm họ Vương đã mang bệnh từ trước. Mặc dù lệnh huynh có đẩy ngã lão ấy, nhưng tuyệt đối sẽ không đến mức khiến lão phải chết. Tuy nhiên, hiện giờ tinh thần mọi người trong nhà họ Vương đều đang rất cao, trăm miệng một lời, người thì đã chết ở đó, lệnh huynh lại quả thực có đụng vào người lão, nào có thể biện bạch rõ ràng có tội hay vô tội dễ dàng như vậy được? Dù cho tôi có chút ý kiến, cũng chưa chắc sẽ cứu được hắn.
Thời đại này nam nữ thụ thụ bất thân. Cho dù không muốn nhận đại lễ của nàng ta, muốn đỡ nàng ta dậy, y cũng chỉ được đưa tay ra dấu, giữ khoảng cách một thước, lúc ấy đối phương sẽ thuận theo dấu hiệu mà đứng lên. Giống như là người tinh thông Cửu Dương Thần Công vậy, có thể ở xa cả trượng mà phát công đả thương người.
Tuy biết những quy củ này, nhưng Dương Lăng vẫn theo thói quen ứng xử của thời hiện đại, cứ bước lên đỡ lấy cánh tay của Mã tiểu thư nâng nàng dậy. Cầm cánh tay mềm mại của nàng, khuôn mặt mịn màng đáng yêu lại ở ngay trước mặt, thậm chí y còn ngửi được mùi thơm như hoa tỏa ra từ trên người nàng, ngạt ngào hơn hẳn lúc nàng cưỡi ngựa lướt qua.
Trong lòng Mã tiểu thư ngượng ngập không thôi, thầm nhủ: “Trông hắn ra vẻ nhân tài, không ngờ cũng háo sắc như vậy, thừa cơ khinh bạc mình.” Mã dịch thừa cũng cảm thấy hắn trực tiếp đỡ con gái mình lên như vậy là hơi lỗ mãng, nhưng lúc này đang cần cứu con ra khỏi ngục, lão lại chỉ có độc một đứa con trai này, nếu có phải dùng con gái để đổi lấy con trai mình lão cũng sẽ chịu.
Cho nên lão vờ như không thấy, vẫn bước đến nhờ vả:
– Có chủ ý gì xin công tử nói ra nghe thử. Không giấu Dương công tử, Mẫn huyện lệnh và ta đều vốn là quân nhân, mấy cái luật pháp này… E hèm, nếu như công tử có biện pháp gì thì đừng ngại nói ra xem sao. Cho dù có hiệu quả hay không, Mã mỗ đều xin ghi nhớ đại ân của công tử.
Lúc này Dương Lăng đã cưỡi trên lưng cọp, khó mà trèo xuống được. Y liếc nhìn sang Mẫn huyện lệnh, ra vẻ khó khăn.
Vị huyện thái gia này như trút được gánh nặng, rất “rộng lượng” khoát tay nói:
– Đúng đúng đúng! Bọn người đọc sách các ngươi có lắm chủ ý, có biện pháp tốt gì thì cứ việc kể ra. Ta đau đầu nhất là phải thăng đường xử án. Phải chi ở bên dưới là bọn Thát Đát thì ta đã vung đại đao lên ngay rồi. Phiền là phiền ở chỗ ông nói ông có lý, bà nói bà có lý, nghe tới nghe lui thì chỉ có mỗi lão gia ta là vô lý, thực sự chẳng cách nào phán cho bọn họ được một cái lý. Đến nỗi bây giờ vừa nghe thấy tiếng trống đánh bên ngoài công đường thôi là trống ngực ta cũng đập thình thịch theo rồi.
– Việc này… việc này…,
Dương Lăng nói:
– Thường có câu: biết người biết ta mới có thể trăm trận trăm thắng. Toàn bộ quá trình xảy ra vụ án tôi đều đã tận mắt chứng kiến, không cần phải nói thêm gì. Có điều, tình tiết của vụ án lại tập trung vào việc ông chủ quán bị đánh chết hay do già yếu mà chết. Vì vậy… trước hết phải hiểu được toàn diện xem trước giờ ông lão đó đã có bệnh tật gì gì hay chưa, sau đó mới tìm sơ hở để có thể rũ bỏ hết mọi trách nhiệm, lấp luôn miệng bọn họ lại, khiến cho bọn họ không thể nói gì được nữa.
– Hay!
Mẫn huyện lệnh vỗ tay lớn tiếng khen khiến Dương Lăng giật cả mình.
Mã dịch thừa cũng thích chí xoa tay lia lịa nói:
– Dương công tử quả nhiên tài giỏi, lão phu chỉ biết lo lắng mà không thể ngang nhiên mà cứu con mình ra khỏi ngục, nghe cậu nói như vậy, dường như cách này rất ổn đó. Con ta đã không đánh người, cái lão già gì đó kia khẳng định là đã có bệnh từ trước. Mẫn đại nhân à, chuyện này vẫn phải phiền ngài phái người tìm hiểu cho rõ rồi.
Mẫn huyện lệnh liên thanh đồng ý:
– Được được được, không thành vấn đề! Thật đúng là kẻ đọc sách, lão Mẫn ta cứ đau đầu mãi về chuyện này, vừa nghe ngươi nói liền thấy rất có lý. Vẫn là kẻ đọc sách thâm độc, ha ha ha… À không, phải là… là kẻ đọc sách thông minh.
Dương Lăng thầm kêu xấu hổ. Chẳng qua vì cấp bách nên y mới đưa ra cái “kế trì hoãn” khi còn làm công tác giải quyết bồi thường bảo hiểm lúc trước mà thôi. Cả thế giới đều biết ngành bảo hiểm ở Trung Quốc nổi tiếng là: “Ký hợp đồng thì dễ còn đòi bồi thường thì khó”. Các điều khoản nhiều và rối rắm đến nỗi có thể khiến cho một người tốt nghiệp thạc sỹ phải cảm thấy mình là thằng mù chữ. Những đòi hỏi về chứng cớ liên quan nhiều đến độ có thể khiến cho một người kiên nhẫn nhất cũng phải phát cuồng. Hiện giờ chẳng qua là y lấy dao mổ trâu để giết gà mà thôi.
Có điều khi thấy ánh mắt dịu dàng chứa đầy sự hâm mộ của Mã tiểu thư, cho dù là Dương Lăng cũng không khỏi cảm thấy có chút phởn phơ, khoái chí.
Khi Dương Lăng trở về nhà thì tuyết đã phủ trắng xóa. Tuyết bay rợp trời lại khiến cho không khí ấm hơn; bông tuyết rơi rơi bám đầy lên người y.
Ấu Nương đã về nhà, đang đứng ở trước cửa ngóng trông y trở về. Nhìn thấy bóng y từ xa xa, nàng liền chạy ào đến. Trông thấy nàng, Dương Lăng chợt cảm thấy ấm lòng, đồng thời lại có chút chột dạ. Buổi sáng khi Ấu Nương ra ngoài đi làm, mình đã nói là sẽ ở nhà chăm chỉ đọc sách, rốt cuộc lại bị nàng bắt ngay tại trận thế này. Nếu mà nàng mở lời trách móc, quả thực Dương Lăng vẫn có chút sợ nàng.
Không ngờ Ấu Nương lại chẳng hề đề cập gì về chuyện y không ở nhà, chỉ rất vui vẻ dìu y vào nhà, phủi tuyết trên người y rồi ân cần nói:
– Tướng công, chàng về nhà rồi. Thiếp đã làm cơm xong, đang lo không biết phải đi đâu để tìm chàng đó.
Dương Lăng xấu hổ đáp:
– Ừm, vốn ta định ở nhà an tâm đọc sách, song… À, cái này… chợt nhớ ra có một đồng niên (người thi đỗ đồng khóa) ở đây, cho nên ta đi thăm hắn một chút.
Ấu Nương mỉm cười, nói:
– Tướng công là đàn ông, không thể thiếu được mấy chuyện giao tiếp như vậy, Ấu Nương hiểu mà. Đúng rồi, hôm nay Ấu Nương ở tiệm may làm công, một buổi sáng đã may được mười chiếc áo, kiếm được mười văn tiền lận đó. Tiệm may này nhận vụ làm ăn bên trại ngựa ở sở Dịch Thừa. Có hơn trăm dịch sứ (phu trạm, người đưa thư) ở đó, bọn họ bôn ba tứ xứ quanh năm suốt tháng nên y phục hay hư rách lắm. Việc làm ăn của tiệm rất được, không ngờ vào thành làm công hóa ra cũng tốt thật.
Dương Lăng nhìn nàng mặt mày rạng rỡ, hào hứng kể chuyện đến đỏ bừng cả mặt, không kìm nổi bẹo nhẹ má nàng một cái, cười ha hả nói:
– Ấu Nương thật giỏi, đều tại bệnh của ta mà liên luỵ đến nàng. Nhìn thấy nàng đáng thương như vậy, thật làm cho ta rất là đau xót.
Hàn Ấu Nương bất chợt bị động tác thân mật của y làm cho sững người, khuôn mặt lập tức đỏ lựng. Nàng e lệ cúi đầu, bẽn lẽn nói:
– Tướng công, chúng mình là phu thê. Vốn phải trọn đời bên nhau, đồng cam cộng khổ mà.
Dương Lăng nghe vậy, trong lòng xúc động, không kềm được bèn kéo nàng ôm chầm vào lòng, vuốt nhẹ mái tóc mềm mại của nàng. Lần đầu thân mật với y như vậy, Hàn Ấu Nương ở trong lồng ngực tình lang mà không khỏi ngất ngây, lòng tràn đầy thoả mãn và hạnh phúc.
Một hồi lâu sau Hàn Ấu Nương mới khẽ đẩy y ra, sắc mặt ửng hồng, không dám nhìn y, chỉ cúi đầu vân vê dây lưng, ngượng nghịu nói:
– Tướng công, đồ ăn đang nóng, chàng hãy mau ngồi xuống để thiếp xới cơm cho.
Cơm canh dẫu rằng đạm bạc, nhưng so với khi ở vùng núi thì đã khá hơn rất nhiều. Hơn nữa ông chủ xưởng dầu còn tặng cho họ một chút dầu thô để nấu ăn. Mặc dù không thật quen với mùi vị của loại dầu này, nhưng Dương Lăng vẫn ăn nhiều hơn được một chút.
Nhìn sức ăn của y mỗi ngày một tăng, Hàn Ấu Nương cảm thấy vui hơn bao giờ hết, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc. Ăn cơm xong, Hàn Ấu Nương thu dọn bát đũa, buộc tạp dề bắt đầu rửa bát.
Dương Lăng cảm thấy mình thật đã biến thành một kẻ vô dụng, có cũng như không. Y muốn đến bên cạnh giúp nàng rửa bát đĩa, không ngờ Hàn Ấu Nương lại kinh ngạc kêu ầm lên, quở trách:
– Đời nào lại có đàn ông làm mấy việc này? Tướng công, chàng cứ ngồi đó đi, việc này là việc của phụ nữ người ta mà!
Chương 10 : Bày ra kế hiểm.
Ngượng nghịu gãi gãi mũi, Dương Lăng quay về chỗ ngồi. Đang rất đỗi buồn chán, y chợt nhớ đến chuyện xảy ra ngày hôm nay, liền vội vã lôi rương sách ra lục lọi. Quyển “Đại Minh luật” dày cộm đó quả nhiên cũng nằm bên trong. Y lấy ra rồi bắt đầu lật đọc tỉ mỉ.
Đang tra cứu những điều luật có liên quan đến kiện tụng thì Hàn Ấu Nương mang tới một chén trà nóng nghi ngút khói. Dương Lăng không khỏi gấp sách thầm than thở: “Nam nhân trong xã hội phong kiến thật đúng là ‘nam nhân’ mà, chứ ở xã hội hiện đại thì kiếm đâu ra loại đãi ngộ thế này!”
Vào thời đó, giờ làm việc của những cửa tiệm bình thường không cập rập như bây giờ. Giờ nghỉ trưa rất dài, ước chừng tới hơn hai giờ chiều tính theo giờ hiện đại mới tiếp tục bắt đầu công việc. Cho nên Dương Lăng thoải mái vừa nhấp trà nóng vừa đọc sách, còn Hàn Ấu Nương thì ngồi ở mép giường may vá thêu thùa.
Ngón tay nàng khéo léo thắt nút một đầu sợi chỉ, liếm nhẹ đầu kia rồi luồn nó qua lỗ kim. Nàng co một chân lên giường, cẩn thận may vá quần áo, thi thoảng còn dịu dàng liếc mắt nhìn phu quân đang chăm chú xem sách.
Dương Lăng xem sách hồi lâu, suy nghĩ kỹ càng một trận, nhưng lại chẳng tìm ra được điều luật nào có lợi cho Mã Ngang. Xem ra vẫn phải dựa vào công phu “Thái Cực Quyền” mà mình học được ở hậu thế để đường đường chính chính “hại người lợi ta” rồi.
Y ngẩng đầu thở dài một hơi, vừa lúc bắt gặp Hàn Ấu Nương đang đưa chiếc áo vải bông lên khóe miệng cắn đứt chỉ thừa, còn đôi mắt lại say sưa nhìn mình. Khi chạm phải ánh mắt của Dương Lăng, nàng lập tức hoảng hốt né tránh.
Nhìn thiếu nữ xinh đẹp mới mười lăm, mười sáu tuổi mà ra dáng như một tiểu phu nhân này, mặc dù Dương Lăng đã quyết tâm chỉ coi nàng như một tiểu muội muội hiền lành đáng yêu, nhưng trong lòng y vẫn không khỏi hơi rung động. Từ chín lần chuyển thế đến giờ, y chưa từng có được loại cảm giác ấm áp thế này. Nhịp sống an nhàn êm ả, có một người vợ dịu dàng thùy mị quan tâm săn sóc, đây chẳng phải là cuộc sống mà mình hằng tha thiết ước mơ sao? Chẳng phải là tình cảm mà mình đã vất vả kiếm tìm, cần phải quý trọng hay sao?
Hàn Ấu Nương cúi đầu tiếp tục may vá. Cảm nhận được trượng phu vẫn đang nhìn mình, trong lòng nàng không khỏi lúng túng, tay chân rối loạn. “Ui da” một tiếng, mũi kim đã đâm vào ngón tay nàng. Dương Lăng vội gấp quyển “Đại Minh luật” lại, chụp lấy bàn tay nhỏ nhắn ấy mà xem xét. Chỉ thấy trên đầu ngón tay, một giọt máu đỏ thắm đã ứa ra.
Dương Lăng liếc nhìn xung quanh một lượt, lúc này mới chợt hiểu ra vì sao người xưa khi bị kim đâm lại đưa ngón tay vào miệng để mút. Đó không phải vì bọn họ biết nước bọt có thể sát trùng, mà là thật sự không có thứ gì có thể dùng để lau máu, dẫu sao cũng không thể chùi vào quần áo được! Thế là y cũng “noi gương” đưa ngón tay Hàn Ấu Nương vào miệng mút nhẹ, đầu lưỡi thoa lên ngón tay nàng. Tấm thân Hàn Ấu Nương đột nhiên run lên, khuôn mặt đỏ lựng, cả người nóng bừng.
Dương Lăng khẽ trách:
– Xem nàng kìa, sáng sớm đã phải ra ngoài làm công rồi mà về nhà vẫn không nghỉ ngơi, giờ nàng lại đang làm gì đấy?
Hàn Ấu Nương cụp hàng mi cong xinh đẹp, ngoan ngoãn để mặc cho y nặn nhẹ ngón tay của mình, rụt rè nói:
– Đã sắp sang năm mới rồi mà chàng vẫn chưa có được một chiếc áo khoác tươm tất. Thiết nghĩ chàng là người có thân phận, ăn vận như vầy ra đường sẽ không tránh khỏi bị chê cười, nên thiếp mới tranh thủ may cho chàng một chiếc mới.
Dương Lăng thở dài một hơi. Bên nhau càng lâu, y càng cảm thấy mắc nợ nàng nhiều hơn, cái cảm giác xót xa ấy như thể đã mắc nợ nàng không biết tới mấy kiếp ân tình rồi. Y lặng lẽ siết chặt bàn tay, tình ý chân thành không ngừng lan tỏa khắp tâm hồn và thể xác bọn họ.
Khẽ vuốt ve bàn tay nhỏ nhắn của thiếu nữ mới mười lăm tuổi này, trong lòng Dương Lăng dâng lên muôn phần xúc động. Ở cái tuổi đáng ra vẫn được cắp sách đến trường thì nàng đã phải trở thành một người vợ dịu dàng hiền thục, cái xã hội cổ xưa ác độc này. . . thực khiến người ta phải cảm khái mà.
Luật triều Minh quy định rằng nữ tử đủ mười sáu tuổi mới được xuất giá, song dân gian hiếm khi tuân thủ nó. Thế nên luật pháp thời đó mặc dù rất nghiêm, hở chút là phạm vào tội chém đầu, nhưng đối với chuyện này quan phủ lại mắt nhắm mắt mở, coi như không thấy.
Nặn ngón tay một hồi, áng chừng sẽ không còn chảy máu nữa, Dương Lăng mới bóp nhẹ ngón tay nàng cười nói:
– Được rồi, còn đau không?
– Không đau!
Giọng nàng cất lên hết sức mê ly.
Lúc này Dương Lăng mới phát giác hai rèm mi nàng đang rủ xuống, dáng vẻ ngượng ngùng, khóe môi hé nở một nụ cười ngọt ngào. Trên khuôn mặt non nớt ấy toát lên khí chất cực kỳ dịu dàng điềm tĩnh, đó là thần thái của một phụ nữ trưởng thành mà chỉ khi đối diện với người mình yêu thương nhất thì mới bộc lộ ra.
Trước đây nàng chưa bao giờ bộc lộ loại khí chất đặc biệt như thế, mà chỉ là thể hiện vẻ dịu dàng của nữ giới nói chung thôi. Bên ngoài hoa tuyết phất phơ, rơi xuống đất rồi chẳng còn dấu vết. Hàn Ấu Nương cảm thấy con tim mình vô cùng thanh thản, tình ý chân thành như tầng tầng sóng gợn không ngừng lan tỏa trong lòng nàng. Những sợ hãi lo âu, cay đắng xót xa trong hơn nửa năm qua, ngay tích tắc này như thể đã hoàn toàn tan biến.
Dương Lăng cũng không khỏi nhìn nàng đến ngây ngốc, si mê đắm đuối một hồi lâu. Bầu không khí ngọt ngào yên tĩnh này rốt cuộc đã bị một tiếng kêu lớn bên ngoài phá vỡ. Một nam nhân ở ngoài cửa lớn giọng gọi to:
– Dương Lăng công tử có ở đây không?
Hàn Ấu Nương lúc này mới giật mình “a” lên một tiếng, bừng tỉnh khỏi thoáng say mê, nàng luống cuống vội rụt tay về. Dương Lăng khẽ cười, xoay người đi ra mở cửa. Hoa tuyết theo gió lùa vào tới tấp, mới trở về nhà ăn cơm trong phút chốc mà bên ngoài đã thành một mảng mờ mịt trắng xóa.
Dương Lăng căng mắt ra nhìn, chỉ thấy hai gã nha sai tay giữ cán đao giắt bên hông đang đứng ngoài cửa, trên người phủ một lớp tuyết dày. Phía sau lưng họ còn có một thiếu nữ, trên người nàng khoác áo choàng màu trắng, tay cầm một chiếc ô màu vàng. Cổ áo choàng bằng lông chồn trắng muốt quấn kín cổ nàng chỉ để lộ ra khuôn mặt yêu kiều thuần khiết, trông như một đóa hoa sen nổi trên mặt nước. Giữa hoa tuyết ngập trời, nàng giống như một vị tiên nữ giáng trần.
Hai nha sai này chính là hai gã đã bắt trói Mã Ngang về nha môn, cho nên nhận ra được Dương Lăng. Vừa thấy người mở cửa đúng là y, họ bèn vội ôm quyền nói:
– Ha ha, quả nhiên là Dương tú tài, ti chức xin kính chào. Ti chức phụng mệnh Mẫn huyện lệnh hộ tống Mã tiểu thư đến gặp ngài.
Dương Lăng vội mở rộng cửa đón tiếp:
– Hai vị quan sai đại ca, mau vào đi. A! Mã tiểu thư, mời vào.
Mã Liên Nhi nhoẻn miệng cười, trên gò má hiện lên hai lúm đồng tiền mê người. Hai tay nàng vén chiếc áo choàng rồi bước vào trước, còn hai gã nha sai thì bước theo sau, thuận tay khép cửa lại.
Căn nhà bé tí thoáng chốc đã chứa đến năm người, thành ra có phần hơi chật chội. Mã Liên Nhi tiện tay tháo sợi dây đai ra, cởi bỏ chiếc áo choàng trắng như tuyết, đưa mắt nhìn quanh. Trông thấy Hàn Ấu Nương xinh xắn, nàng không khỏi nở một nụ cười ngọt ngào thốt lên:
– Vị cô nương này là. . . Dương công tử, đây là tiểu muội của ngài à?
Trông thấy bước vào là một đại mỹ nhân như hoa như ngọc, đôi mắt đen lay láy của Hàn Ấu Nương chứa đầy sự cảnh giác. Vừa nghe nàng ta nghĩ mình là muội tử của trượng phu, lập tức nét mặt nàng lộ vẻ không vui, song vì phu quân chưa lên tiếng nên nàng cũng không tiện mở lời.
Dương Lăng cười ngượng nghịu, cảm giác như đang phạm tội “vùi dập” mầm non tổ quốc, y lắp ba lắp bắp đáp:
– A. . . nàng ấy là. . . là vợ của ta.
Ánh mắt Hàn Ấu Nương loé lên một tia đắc ý, nàng liếc nhìn Mã Liên Nhi như để thị uy, đoạn hơi cúi mình chào rồi nhẹ giọng cất tiếng:
– Tướng công, vị tiểu thư đây là. . . ?
Dương Lăng vội giới thiệu:
– Mã tiểu thư đây là nhị tiểu thư của Dịch thừa Mã đại nhân, nàng ta và hai vị nha sai đại ca tìm ta có chút chuyện cần bàn.
Mã Liên Nhi hơi bất ngờ, sửng sốt nói:
– Hóa ra Dương huynh đã lập gia đình. Mã Liên Nhi xin ra mắt Dương phu nhân.
Hàn Ấu Nương vội đáp lễ:
– Tiểu thư không phải khách khí, mau ngồi đi! Hai vị nha sai đại ca, xin mời ngồi!
Trong phòng chỉ có hai chiếc ghế, nên hai gã nha sai đành phải ngồi ở đầu giường. Dương Lăng mới dọn đến đây không lâu, điều kiện trong nhà có hạn, bình thường uống trà cũng chỉ dùng bát lớn. Hàn Ấu Nương nhanh chóng lấy ra bốn chiếc bát rồi rót trà mời khách, hai gã nha sai cảm ơn rối rít.
Mẫn huyện lệnh đã sai người điều tra rõ ràng về tiệm nhạc cụ của nhà họ Vương. Mã đại nhân lo cho con trai của mình, mặc dầu đã có Mẫn đại nhân chiếu cố, nhưng vì lúc này đang là mùa đông giá rét, chỉ sợ trong lao ngục sẽ có gì không ổn, và Mã tiểu thư cũng rất quan tâm tới ca ca, nên đã thúc giục xin Mẫn huyện lệnh phái mấy nha sai phụ trách điều tra vụ này cùng đến nhà họ Dương.
Nghe hai gã nha sai trình bày tình huống bên nhà họ Vương một lượt, Dương Lăng cẩn thận suy nghĩ, cảm thấy y thực sự không tìm ra được một sơ hở nào trong luật pháp triều Minh để có thể giúp cho Mã Ngang thoát tội. Sở trường duy nhất của y là cái “kế trì hoãn” dùng trong công tác giải quyết bồi thường bảo hiểm, chỉ là chẳng biết có thể dùng được hay không, nên đành dè dặt nói ra chủ ý của mình.
Mã tiểu thư cũng không biết biện pháp này có hữu dụng hay không, nàng đánh mắt nhìn sang hai người đi cùng. Gã nha sai Đại Lý có hàm răng vàng khè vỗ đùi một cái tán thưởng:
– Tuyệt! Hay cho cái kế “đà dao”(1) này, dao cùn xắt thịt, từng lát từng lát, hà hà. Huyện lệnh đại nhân xử án công minh, không oan không uổng, cái nhà họ Vương đó sẽ chẳng thể moi ra được điểm nào sai. Chúng mà cứ tiếp tục kiện cáo thì vụ kiện này phải đánh cho tới tan cửa nát nhà mới thôi.
Tay nha sai kia lớn tuổi hơn một chút, là đội trưởng, họ Ngô. Hắn thì lại không tỏ ra quá hớn hở như gã Đại Lý, song cũng khẽ cười nói:
– Không ngờ Dương công tử tuổi còn trẻ thế mà đã tinh thông pháp luật, bụng đầy mưu kế, cho dù là bọn thầy cãi hàng đầu cũng chưa chắc đã đưa ra được diệu kế như vậy. Nếu cứ hành sự theo kế này thì e rằng bọn khổ chủ nhà họ Vương đó sẽ phải mau chóng rút đơn bãi án thôi. Có điều. . . nếu bọn họ chẳng thức thời, Mã công tử sẽ không tránh khỏi phải ở trong nhà lao lâu hơn một chút.
Mã tiểu thư nghe bọn họ nói là kế hay, không khỏi nhướng mày mừng rỡ, nhưng sau khi nghe câu cuối của Ngô đội trưởng thì nàng lại trở nên ngập ngừng.
Nàng cắn môi suy nghĩ rồi thở dài:
– Dẫu sao thì cũng là một mạng người, nếu chỉ phải ở trong ngục thêm một thời gian, chỉ cần an toàn mà nhập ngục cũng đã tốt lắm rồi. Ca ca thường ngày cục cằn lỗ mãng, chịu chút ấm ức để giảm bớt cái tính khí ấy đi cũng tốt.
Dương Lăng được sự tán thành của hai gã nha sai, lá gan bất giác cũng to lên, bắt đầu động não suy nghĩ rồi chậm rãi nói:
– Kế này mặc dù có thể dẫn đến sự chủ động rút đơn kiện của nhà họ Vương, cứu được tính mạng của Mã công tử, lại không làm tổn hại đến danh tiếng của Mẫn huyện lệnh, nhưng. . . Nếu như bọn người đó không nuốt được cục tức này, chỉ e sẽ kéo dài ra cả năm hoặc hơn, cho nên tại hạ còn có một kế. Mã tiểu thư. . .
Y nghiêng người tới gần, ghé miệng sát tai Mã Liên Nhi nói nhỏ mấy câu. Mã Liên Nhi nghe xong liếc y một cái, cười nửa miệng, ngọt ngào tán thưởng:
– Không hổ là người đọc sách, bày ra kế hay thật.
Cái liếc mắt này của nàng cực kỳ quyến rũ, dáng vẻ phong tình lộ ra trong khoảnh khắc ấy khiến cho ánh mắt Dương Lăng nhất thời bị cuốn hút. Mã Liên Nhi cũng nhận ra điều này, khuôn mặt trắng nõn mịn màng bất giác hơi ửng hồng. Nãy giờ vẫn luôn chú ý đến hai người, Hàn Ấu Nương chợt cảm thấy có phần chua xót.