[Audio] Tru Tiên
Tập 2: Trương Tiểu Phàm bái sư (c6-c10)
❮ sautiếp ❯Chương 6: Bái Sư
Trương Tiểu Phàm mãi mới tỉnh lại, đờ đẫn đến nửa ngày trời, nó từ từ ngồi dậy, việc đã qua như nước thuỷ triều, vụt lại ào vào trí não.
Kinh hoàng như ác mộng!
“Đệ tỉnh lại rồi à! Vậy thì tốt.” Từ ngoài cửa vọng đến một giọng nói, rồi bước vào một người.
Trương Tiểu Phàm ngước mắt nhìn, nhận ra Tống Đại Nhân, thân hình to cao, tướng mạo thô hào hôm đó đã gặp trên Thông Thiên Phong, với tâm trạng của nó hiện nay, chẳng biết sao nữa, gặp được người quen là cảm thấy mấy phần thân thiết.
“Tống đại ca.” Trương Tiểu Phàm thốt lên.
Tống Đại Nhân tuy là một đại hán, lúc này trong lòng cũng bất giác thương xót, y đi đến trước giường, giơ tay xoa đầu Trương Tiểu Phàm, dịu dàng nói: “Tiểu sư đệ, đừng buồn bã quá, sau này chúng ta là người một nhà rồi.” Trương Tiểu Phàm đờ ra một lúc, hỏi: “Người một nhà là thế nào?”
Tống Đại Nhân mỉm cười đem chuyện Điền Bất Dịch thu nạp nó làm đồ đệ kể qua một lượt, đương nhiên mối tranh chấp nho nhỏ xảy ra giữa các vị trưởng bối trong Ngọc Thanh Điện trên Thông Thiên Phong ngày hôm đó, y không hề hay biết.
Trương Tiểu Phàm lắng nghe, nhất thời hoang mang, trong mắt một con nhà nông gia như nó, Thanh Vân Môn gồm toàn những nhân vật như là thần tiên, nó chưa bao giờ dám vọng tưởng một sớm một chiều, lại có cơ hội được vào Thanh Vân Môn. Chỉ có điều, nó chẳng mong phải trả cái giá như thế này.
Nó nghiến răng, rốt cục biết là nghĩ ngợi nhiều cũng vô ích, bèn cất giọng gọi: “Tống sư huynh.”
Tống Đại Nhân mỉm cười gật đầu: “Tốt lắm, tiểu sư đệ, lần này đệ ngủ đến một ngày một đêm rồi đấy, chắc là đói lắm?”
Trương Tiểu Phàm vốn không có cảm giác gì, nay nghe y nhắc thế, bụng nó liền réo lên “lục bục” hai tiếng.
Tống Đại Nhân cười: “Nào, tiểu sư đệ, chúng ta đi ăn cái gì đã, tiện thể ta nói cho đệ nghe qua tình hình bản môn, sau đó cùng đi bái kiến sư phụ sư nương, gặp qua các vị sư huynh khác.”
Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, tụt xuống giường, bây giờ mới chú ý thấy căn phòng nó nằm đây, có chút giông giống với căn phòng của đệ tử Thanh Vân trên Thông Thiên Phong, nhưng hình như rộng hơn chút xíu.
Tống Đại Nhân vừa dắt nó đi ra ngoài, vừa nói: “Đại Trúc Phong của chúng ta không bằng các chi phái đồng môn khác, người rất là ít, nếu tính thêm đệ vào, tổng cộng không quá mười người, vì thế phòng ốc đều rộng rãi.”
Y vừa nói vừa bước ra ngoài, cũng là một tiểu viện tương tự, lại đi thêm mấy bước, ra ngoài sân, cũng là một hành lang lượn khúc, nhưng nhìn qua là nắm bắt được hết, chỉ có mười mấy phòng, kém xa quy mô bên Thông Thiên Phong.
Trương Tiểu Phàm cùng Tống Đại Nhân đi xuống nhà bếp, nghe y nói, chi phái Đại Trúc Phong là do Trịnh Thông, toạ hạ tứ đệ tử của Thanh Diệp tổ sư khai sáng, truyền tới Điền Bất Dịch ngày nay là sáu đời, tình hình luôn luôn như vậy, lúc nào cũng neo người. Hiện giờ vào hàng sư trưởng ở đây, ngoài thủ toạ Điền Bất Dịch, còn có một vị sư thúc là Tô Như, cũng chính là thê tử của Điền Bất Dịch.
Họ chỉ sinh được một con gái là Điền Linh Nhi, năm nay 13 tuổi, hơn Trương Tiểu Phàm hai tuổi, vì vậy Trương Tiểu Phàm ở đây quả thực là một tiểu sư đệ.
Trong số đệ tử của Điền Bất Dịch thì Tống Đại Nhân là đại sư huynh, tiếp theo có Ngô Đại Nghĩa, Trịnh Đại Lễ, Hà Đại Trí, Lữ Đại Tín, Đỗ Tất Thư.
Trương Tiểu Phàm dụng tâm ghi nhớ: “Ờ, Đại Nghĩa sư huynh, Đại Lễ sư huynh, Đại Trí sư huynh, Đại Tín sư huynh, Đại Thư sư huynh…”
Tống Đại Nhân cười: “Là Đỗ Tất Thư sư huynh.”
Trương Tiểu Phàm ngây người, rồi hiểu ra, buột hỏi: “Sao vị lục sư huynh này lại khác mọi người vậy?”
Tống Đại Nhân đáp: “Vốn cũng kêu y là Đại Thư đấy, nhưng mà đệ thử gọi thêm hai tiếng nữa xem.”
Trương Tiểu Phàm lẩm nhẩm gọi: “Đỗ Đại Thư, Đỗ Đại Thư, Đỗ Đại Thúc…” rồi vỡ lẽ, bèn phá ra cười. (1)
Tống Đại Nhân cũng cười: “Đệ thấy đấy. Thực ra sư phụ cũng chẳng chú ý mấy, nhưng sư nương thì rất là bực, kêu tên mấy lần thì bảo Đỗ sư đệ chẳng tôn sư trọng đạo gì cả, bèn ra tay sửa trị một trận, doạ Đỗ sư đệ sợ gần chết, khiến y phải vội vàng xin sư phụ sư nương đổi tên cho, sau này sư nương bèn chọn cho y cái tên Đỗ Tất Thư, đệ lại đọc kỹ cái tên này xem.”
Trương Tiểu Phàm khe khẽ đọc: “Đỗ Tất Thư, Đỗ Tất Thư, Đổ Tất Thu… (2)” rồi lại phá ra cười gập cả bụng.
Tống Đại Nhân vốn có ý muốn làm cho nó cười, mong giảm bớt phần nào nỗi bi thống, thấy Trương Tiểu Phàm cao hứng như vậy, trong lòng y cũng rất vui, bèn hân hoan bảo: “Lục sư đệ trước khi nhập môn vốn có thói xấu đánh bạc, sau này cơ duyên xảo hợp, được sư phụ độ hoá thượng sơn, tuy không đánh bạc ăn tiền nữa, nhưng bình thường cứ thích gạ người cá cược, sư nương làm thế là cũng có ý nhắc nhở y.”
Trương Tiểu Phàm tính tình trẻ con, mặt mày tươi tắn rồi thì nỗi bi thiết trong tim cũng giảm bớt, lại thấy đại sư huynh thân tình như vậy, nỗi e ngại khiếp sợ nung nấu về tương lại cũng dần dần được xoa dịu.
Ở nhà bếp ăn uống xong, Tống Đại Nhân bèn dẫn Trương Tiểu Phàm đến Thủ Tĩnh Đường, điện chính của Đại Trúc Phong. Lúc ấy tất thảy mọi người từ trên xuống dưới trong Đại Trúc Phong đều đang tập trung tại Thủ Tĩnh Đường, nhà lát gạch đỏ, mái tươi cột đá, nền đất có khắc hình Thái Cực rất lớn, trần thiết nói chung là khá giản dị.
Trước sảnh bày hai cỗ trường kỷ, trên có hai người ngồi, một người là Điền Bất Dịch, người kia là một thiếu phụ xinh đẹp đoan trang điềm đạm, khoảng hơn ba mươi tuổi, phong tư yểu điệu, đứng cạnh bà ta là một đứa bé gái, mặt mày thanh tú, đôi con ngươi long lanh, trông rất hoạt bát, đáng yêu.
Năm nam đệ tử kia, xếp thành hình chữ nhất, đứng ở bên dưới, hoặc cao hoặc thấp, hoặc béo hoặc gày, lúc ấy ánh mắt đều tập trung vào Trương Tiểu Phàm.
Tống Đại Nhân đi đến trước sảnh, cung kính thưa: “Sư phụ, sư nương, đệ tử đưa tiểu sư đệ đến đây.”
Điền Bất Dịch hứ một tiếng, có vẻ sốt ruột, nhưng thiếu phụ xinh đẹp Tô Như thì nhìn kỹ Trương Tiểu Phàm, nói: “Đại Nhân, y ngủ đã một ngày một đêm, e là đói lắm rồi, con hãy dắt y đi ăn gì đó.”
Tống Đại Nhân thưa: “Hồi bẩm sư nương, con vừa mới đưa tiểu sư đệ lại nhà bếp ăn rồi ạ.”
Tô Như khẽ gật đầu, liếc nhìn Điền Bất Dịch, không nói nữa. Điền Bất Dịch lại lạnh lẽo hứ một tiếng, bảo: “Bắt đầu thôi!”
Trương Tiểu Phàm chẳng hiểu mô tê gì, chỉ nghe Tống Đại Nhân đứng sau khẽ nhắc: “Tiểu sư đệ, mau quỳ xuống dập đầu bái sư.”
Trương Tiểu Phàm lập tức quỳ xuống, dập đầu “cộc, cộc, cộc” mười mấy cái liền, vừa mạnh vừa vang.
“Ha ha.” Đứa bé gái Điền Linh Nhi không nhịn được phá ra cười. Tô Như cũng mủm mỉm: “Hảo hài tử, dập đầu chín cái là được rồi.”
Trương Tiểu Phàm “ố” một tiếng, rồi ngừng lại, ngẩng đầu lên nhìn, mọi người thấy trán nó đỏ bừng một khoảng, không nhịn được đều bật cười, trong mắt Điền Bất Dịch ngập tràn sự chán nản, nghĩ đến việc sau này phải dạy dỗ một đứa ngu ngốc như vậy, cái đầu đã to của lão dường như lại phình to thêm.
“Thôi được rồi, cứ như vậy đi!” Điền Bất Dịch chẳng còn chút tinh thần nào, vẫy tay bảo: “Đại Nhân, trước tiên con hãy dìu dắt y, những quy giới của bản môn, đạo pháp nhập môn, đều để con truyền thụ.”
Tống Đại Nhân ứng tiếng: “Vâng.” rồi sau trù trừ, lại nói: “Có điều, thưa sư phụ, tiểu đệ tuổi hãy còn nhỏ, những bài đệ tử nhập môn này…”
Điền Bất Dịch trợn trắng con mắt, bảo: “Cứ theo thế mà làm.” Dứt lời liền đứng dậy, chẳng ngoái đầu lại, bước ra sau hậu đường, chúng đệ tử cúi mình, hô: “Cung tiễn sư phụ.” Điền Bất Dịch vừa đi khỏi, chẳng đợi ai mở miệng, đứa bé gái Điền Linh Nhi đã xẹt đến trước mặt Trương Tiểu Phàm, chằm chằm ngắm nghía nó kỹ càng, Trương Tiểu Phàm thấy khuôn mặt cô bé đáng yêu như đoá phù dung lay động trước mắt, tuổi tuy còn nhỏ, nhưng đã có dáng dấp một mỹ nhân, khi nó còn ở thôn Thảo Miếu, chưa từng nhìn thấy đứa con gái nào cùng tuổi mà lại xinh đẹp như vậy, bất giác đỏ bừng mặt lên.
“Ha,” Điền Linh Nhi như vừa phát hiện ra vật báu, chỉ vào Trương Tiểu Phàm cười lớn: “Sư huynh, các huynh nhìn này! Nó vừa thấy muội là đỏ hết cả mặt!” Trên sảnh bật vang lên tiếng cười, Trương Tiểu Phàm mặt đã đỏ lại càng đỏ, Tô Như đi lại, mủm mỉm mắng: “Linh Nhi, không được bắt nạt sư đệ.”
Điền Linh Nhi làm bộ mặt hề, rồi hoàn toàn chẳng chú ý gì đến lời mẫu thân, cô bé nhổm mình dậy, nói với Trương Tiểu Phàm: “Ề, mau gọi ta là sư tỷ đi.”
Trương Tiểu Phàm bỗng tức khí, nhưng trước mắt vụt thoáng qua cặp mắt sáng và hàm răng lóng lánh của Điền Linh Nhi, trong lòng chợt luống cuống, buột miệng: “Sư tỷ.”
Điền Linh Nhi xưa nay toàn xếp hàng chót ở Đại Trúc Phong, tự nhiên lại có thêm một sư đệ còn bé hơn cả mình nữa, trong lòng rất lấy làm hoan hỉ, lúc ấy liền ra vẻ đạo mạo bảo: “Ngoan, tiểu sư đệ, sau này phải nghe lời sư tỷ nhé.” Trương Tiểu Phàm lí nhí ứng tiếng: “Vâng.”
Tô Như kéo con gái bảo: “Không được làm ồn nữa.” lại nói với Tống Đại Nhân “Đại Nhân, tiểu sư đệ tuổi còn nhỏ, bài vở có lẽ hơi vất vả, con hãy chăm sóc y một chút.”
Tống Đại Nhân cung kính thưa: “Vâng.” Năm đệ tử kia đứng bên nhau, cùng cười hi hi, ánh mắt liếc đi liếc lại, vẻ hí ha hí hửng.
Đúng lúc ấy, Tô Như đột nhiên làm một động tác kỳ cục, tựa như là giãn gân cốt, cái đầu quay tít một vòng, khác hẳn với khí chất đoan trang từ nãy đến giờ của bà ta. Chỉ trong nháy mắt, tất thảy chúng đệ tử của Đại Trúc Phong, kể từ Tống Đại Nhân trở xuống, đang cười đùa đều bỗng nín bặt, đều câm hầu tắc họng, trông y như thể sắp đương đầu với đại hoạ. Tô Như hắng giọng, nói: “Các con…”
“Sư nương,” có tiếng ai đó, thì ra là Tống Đại Nhân trán lấm tấm mồ hôi, vừa vội vàng kêu lên.
Năm sư đệ còn lại không hẹn mà cùng hét: “Đại sư huynh, huynh định làm gì?”
Tống Đại Nhân vội vàng thưa: “Sư nương, tiểu sư đệ vừa mới nhập môn, đệ tử phụng mệnh sư phụ, truyền cho y môn quy giới điều và nhập môn công khoá, cần thực hiện ngay.” Tô Như trầm ngâm một lát, gật đầu bảo: “Nói cũng phải, con đi đi.”
“Cái gì?” Năm đệ tử còn lại đồng thanh la lên.
Tống Đại Nhân cười khan hai tiếng, không nói một lời, tiến lên ôm lấy Trương Tiểu Phàm, rồi chẳng để ai cất tiếng hỏi han, lập tức quay ra ngoài đi mất, miệng nói: “Tiểu sư đệ, để sư huynh tìm một nơi yên vắng, dạy đệ môn quy của bản môn.”
Điền Linh Nhi cười cười chạy theo, kêu lớn vẻ thú vị, chỉ nghe thấy sau lưng có người mắng vuốt: “Đại sư huynh, huynh thật là vô sỉ!”
“Đồ hèn!”
Trương Tiểu Phàm nghe rót vào tai, ngờ vực không hiểu, nghĩ thầm đại sư huynh dạy ta môn quy sao lại có người mắng là đồ hèn?
Nó nghĩ ngợi mãi, thốt nghe tiếng Tô Như hét lên ngắt đoạn, âm thanh chói lói chọc vào tai, như chém băng phạt tuyết: “Câm mồm!”
Trên điện thốt bỗng lặng như tờ.
Rồi tiếng Tô Như nói: “Các con mấy đứa học hành chẳng ra gì, vừa thấy ta muốn kiểm tra xem tu luyện ra sao rồi thì sợ đến mức như thế đấy. Năm năm nữa là đến Thất Mạch Hội Võ của Thanh Vân Môn, một giáp mới có một lần, lần trước các con đã làm ta và sư phụ tức gần chết, lần này nếu không nỗ lực, hai ta còn xấu hổ chết với đồng môn! Mau lên, năm đứa cùng lên đây…”
Tống Đại Nhân đi mỗi lúc một nhanh, sải bước thật rộng, ra khỏi cửa điện bèn nhằm thẳng hậu sơn mà tiến. Trương Tiểu Phàm nằm vắt trên vai y, cây cối hai bên cứ vùn vụt trôi lại đằng sau, tốc độ cực nhanh. Điền Linh Nhi phía sau lưng chẳng biết tự lúc nào đã vung ra một dải lụa ngọc đỏ thắm, vẫy lên một màu hổ phách, hầu như trong suốt, toả ráng hồng, hiển nhiên là pháp bảo của tiên gia.
Lúc ấy Điền Linh Nhi bèn thong dong đứng lên trên dải lụa đỏ, tiện tay bắt quyết, dải lụa ngọc bèn đẩy cô bé bay lên giữa không trung, sát lại sau lưng Tống Đại Nhân.
Trương Tiểu Phàm nào đã nhìn qua những sự thần kỳ lạ lùng như thế, kinh ngạc quá đỗi, thấy Điền Linh Nhi cứ cưỡi gió lướt tới, nhàn nhã vô cùng, trong mắt tức thời dấy lên niềm cảm phục vô bờ bến.
Điền Linh Nhi nhận ra vẻ mặt của Trương Tiểu Phàm thì cực kỳ đắc ý, bay trên dải lụa đến cùng đi bên cạnh nó, miệng hỏi: “Thế nào, thấy ta lợi hại không?” Trương Tiểu Phàm gật đầu thật lực, đáp: “Có, sư tỷ lợi hại quá, cưỡi một dây vải đỏ mà cũng chạy nhanh thế!”
Điền Linh Nhi ngây người, rồi hiểu ra cái dây vải đỏ nó nhắc đến là cái gì, cô bé phì một tiếng, không nhịn được phá lên cười: “Đồ ngốc nghếch!”
Trương Tiểu Phàm chẳng hiểu gì hết, chỉ nghe Tống Đại Nhân cười: “Tiểu sư đệ, nói năng linh tinh gì thế! Hổ Phách Chu Lăng đó là pháp bảo thành danh mà sư nương luyện được hồi còn trẻ, diệu dụng vô cùng, uy lực cực lớn, cũng là một tiên gia pháp bảo rất nổi tiếng trong Thanh Vân Môn chúng ta, mà đệ bảo là cái dây gì, vải đỏ gì?” Nói đoạn rồi phá ra cười lớn.
Trương Tiểu Phàm đỏ bừng mặt, len lén đưa mắt nhìn Điền Linh Nhi, thấy cô bé đang hi hi cười giễu, đôi má hiện ra hai lúm đồng tiền xinh xinh.
Chạy một hồi, ba người đã đến trước một trái đồi nhỏ đằng hậu sơn, Tống Đại Nhân dừng lại, đặt Trương Tiểu Phàm xuống. Điền Linh Nhi cũng tiếp đất, thu ấn quyết, Hổ Phách Chu Lăng dường như có linh tính, tự động cuốn lại, vòng quanh hông cô bé, nom như một dải đai lưng màu đỏ dễ thương.
Trái đồi này mọc đầy những trúc, có to có nhỏ, có thưa có mau, rất là um tùm. Nhưng nhìn kỹ, trúc nơi đây không giống với trúc bình thường, ở các ngấn đốt đều hiện sắc đen.
Tống Đại Nhân chỉ một vạt rừng trúc, nói với Trương Tiểu Phàm: “Tiểu sư đệ, quy củ của Đại Trúc Phong chúng ta là, đệ tử vừa nhập môn, mỗi ngày đều phải đến đây chặt trúc. Đệ tuổi còn nhỏ, ba tháng đầu mỗi ngày chặt một cây trúc thôi! Cây to hay bé để đệ chọn cũng được.”
Trương Tiểu Phàm ban đầu nghe nói đến bài tập nhập môn, Tô Như còn bảo Tống Đại Nhân phải chăm sóc một chút, cứ tưởng là chuyện khó thế nào, ai ngờ là cái việc đốn chặt bình thường này. Nó sinh ra ở thôn Thảo Miếu, con nhà nông dân, cũng đã theo người lớn lên núi mấy lần, chặt củi mấy lần, lúc này trong lòng rất thoải mái, hớn hở nói: “Đại sư huynh, đệ đã từng chặt rồi, xin đừng bận tâm.” Tống Đại Nhân thấy dáng điệu của nó, toan nói lại thôi, chỉ cười bảo: “Vậy thì tốt. Mình từ từ đi về, ta sẽ chỉ cho đệ xem đường đi lối lại, sau này đệ tự mình đến, tiện thể cũng nói qua một chút về môn quy giới điều.”
Điền Linh Nhi ở bên cạnh cười bảo: “Đại sư huynh, sao phải vội vàng chạy xa thế mà nói toàn những chuyện chẳng đâu vào đâu, lại còn từ từ đi về nữa, hay là sợ mẹ muội đấy?” Tống Đại Nhân đỏ mặt, phớt lờ cô bé, lại nói với Trương Tiểu Phàm: “Tiểu sư đệ, điều thứ nhất trong môn quy của bản môn là tôn sư…”
Điền Bất Dịch, thủ toạ của Đại Trúc Phong, vốn có tính lười biếng, rất ưa chuyện thể diện nhưng xưa nay luôn ngại quản giáo đệ tử, cứ truyền thụ đạo thuật pháp môn xong là không quan tâm gì nữa, mặc cho đệ tử tự hành tu tập.
Nhưng Tô Như, thê tử của lão, thì tính tình cứng rắn, hiếu võ, thời trẻ danh tiếng khá nổi, rất đỗi phong quang. Sau khi thành hôn với Điền Bất Dịch, tính tình đã điềm đạm nhiều, nhưng một là xưa nay vẫn nóng nảy thiếu kiên nhẫn, hai là toạ hạ đệ tử không có chí phấn đấu, Thanh Vân Môn theo lệ mỗi giáp tổ chức một lần đại thí Thất Mạch Hội Võ, mà mấy kỳ liên tiếp, đệ tử của Đại Trúc Phong cứ tham chiến là thất bại, ngoài đại sư huynh Tống Đại Nhân thi thoảng thắng được một trận, những người còn lại toàn bại cáo chung, lâu dần trở thành một đề tài đàm tiếu cho mọi người trong Thanh Vân Môn.
Tô Như cả đời hiếu cường, làm sao mà chịu được điều tiếng ấy, bèn thường xuyên ra tay thay phu quân Điền Bất Dịch giáo hối đám đệ tử. Vẻ ngoài của bà ta tuy nhu mỹ, nhưng tính tình thì rất nóng nảy, tu hành thì cực cao, hễ không cẩn thận là đánh cho đám đệ tử ôm đầu tháo chạy, thương tích cùng mình, đến nỗi mọi người sợ hãi vị sư nương diễm lệ tuyệt mỹ này còn hơn cả sư phụ béo lùn.
Lúc ấy vẻ trời đã muộn, mặt trời đã ngả về tây, ráng tà xán lạn. Bóng tịch dương rọi lên Đại Trúc Phong, ba người một cao lớn hai bé nhỏ chậm rãi đi lên đằng trước núi, mãi xa ở các dãy nhà, chẳng biết tự nơi đâu đưa lại một tràng tiếng chó sủa, lẫn với tiếng la đau đớn của người nào nghe rất đáng thương.
Chương 7: Sơ Sử
Vào giờ ăn cơm tối, trời đã nhá nhem.
Trên Đại Trúc Phong, hậu sơn là toàn bộ cánh rừng trúc, đằng trước là phòng ốc của mọi người, lớn nhất là chính điện Thủ Tĩnh Đường, phu thê Điền Bất Dịch và con gái họ ở sau điện này.
Bên cạnh Thủ Tĩnh Đường chính là tiểu viện có hành lang uốn khúc, nơi ở của các đệ tử, do neo chiếc, số phòng còn nhiều hơn số người, nên mỗi người một gian, cả Trương Tiểu Phàm dù mới đến cũng có riêng một phòng. Điều kiện ăn ở là một điểm hiếm hoi mà Đại Trúc Phong trội hơn hẳn các chi phái đồng môn khác.
Còn lại là nơi luyện công tên gọi Thái Cực Động, nhà bếp và nhà ăn. Lúc này các đệ tử đều đã tụ tập trong nhà ăn, phụ trách việc ăn uống là lão lục Đỗ Tất Thư, đang đưa từng khay cơm và thức ăn đặt lên bàn, phần lớn là đồ chay, rất ít đồ tanh mặn.
Bọn đệ tử lần lượt ngồi xuống bên phải chiếc bàn dài trong sảnh, Tống Đại Nhân ngồi phía đầu, Trương Tiểu Phàm lễ phép ngồi phía cuối. Ở đầu bàn và phía đối diện đặt một chiếc ghế lớn và hai chiếc ghế nhỏ hơn một chút, xem ra là dành cho mấy người trong gia đình Điền Bất Dịch.
Trương Tiểu Phàm thấy bên cạnh mình còn thừa ra một khoảng trống, đấy là chỗ ngồi của lão lục Đỗ Tất Thư, lúc này vẫn đang bận túi bụi, một lát sau, Đỗ Tất Thư rốt cục cũng thu vén xong cơm nước, rửa tay sạch sẽ, đi về chỗ ngồi, cùng mọi người đợi sư phụ.
Đỗ Tất Thư nom còn khá trẻ, mặt gầy và nhọn, mắt tam giác, bộ dạng rất là tinh quái hiếu động, rất là nhanh nhẹn. Y ngồi xuống rồi, liếc nhìn Trương Tiểu Phàm, cười mỉm hỏi: “Tiểu sư đệ, đệ tên gì vậy?”
Trương Tiểu Phàm thật thà đáp: “Trương Tiểu Phàm.”
Đỗ Tất Thư gật gật đầu, chỉ tay vào mình, nói: “Ta là lục sư huynh của đệ, Đỗ Tất Thư.”
Trương Tiểu Phàm lễ phép gọi một tiếng: “Lục sư huynh.”
Đỗ Tất Thư khẽ hắng giọng, vỗ vỗ vai nó, cười: “Đệ đợi lát nữa rồi thưởng thức tài nghệ của sư huynh.”
Trương Tiểu Phàm nhìn mâm bàn đầy ắp thức ăn thơm ngon, không nén được nuốt nước bọt đánh ực, rồi gật đầu thật mạnh.
Đỗ Tất Thư thình lình bật cười, có vẻ rất ám muội, chỉ tay ra cửa sảnh nói: “Tiểu sư đệ, lát nữa sư phụ sư nương, cả tiểu sư muội nữa, sẽ đi từ hướng nào vào, chúng mình thử đánh cuộc xem nhé?”
Trương Tiểu Phàm ngây ra, mấy người ngồi trên nhao nhao quay đầu lại, mặt mày đều có vẻ vui thích, ngồi trên Đỗ Tất Thư là lão ngũ Lữ Đại Tín cười bảo: “Lão lục, đệ lại phạm thói nghiện cá cược rồi hử?”
Bên cạnh đó, Hà Đại Trí gầy đét cũng giễu: “Y lâu lắm rồi chưa thắng, bây giờ đi lừa trẻ con.”
“Đi, đi, đi!” Đỗ Tất Thư vẫy tay lia lịa, phớt lờ mọi người, mặt mày hớn hở, bảo Trương Tiểu Phàm: “Tiểu sư đệ, đệ đoán lát nữa ba người nhà sư phụ, ai sẽ là người đầu tiên đặt chân lên bậc cửa này? Ồ, đệ vừa đến, để đệ đoán trước, khỏi nói là sư huynh bắt nạt đệ.”
Lão nhị Ngô Đại Nghĩa ngồi mãi đằng xa cao giọng gọi: “Tiểu sư đệ, đã là đánh cược, đệ hãy hỏi y xem thua thì sao, thắng thì sao?”
Đỗ Tất Thư hừ một tiếng, đáp: “Các huynh sợ đệ trốn nợ chăng? Đỗ Tất Thư này hành tẩu thiên hạ, đều dựa vào đổ phẩm hảo danh vấn giang hồ (2) (Mọi người cười ồ: đệ có thắng bao giờ đâu!), tiểu sư đệ, nếu đệ đoán trúng, ta sẽ giúp đệ chặt trúc mười ngày, nếu đệ thua, thì giúp ta rửa bát mười ngày, được không?”
Mọi người lại cười ồ, Tống Đại Nhân cười mắng: “Hết nói nổi.”
Trương Tiểu Phàm nhìn các vị sư huynh ai nấy đều hớn hở hoà mục, thái độ rất thân thiết, chẳng ai coi mình là người ngoài, trong lòng cảm thấy ấm áp, bèn nói: “Được.”
Đỗ Tất Thư vỗ đùi, vẻ mặt hân hoan, dáng điệu hớn hở, hỏi: “Tiểu sư đệ, vậy theo đệ rốt cục sẽ là sư phụ, sư nương hay tiểu sư muội đi vào trước?”
Ánh mắt mọi người đổ dồn vào Trương Tiểu Phàm, Trương Tiểu Phàm lặng lẽ tính toán, Thanh Vân Môn thủ trọng tôn sư, chắc Điền Bất Dịch sư phụ sẽ là người đầu tiên bước vào, bèn cất tiếng dõng dạc: “Đệ đoán nhất định là sư phụ sẽ vào đầu tiên.”
Mọi người cười lớn, Lữ Đại Tín lắc đầu nói: “Không ngờ hôm nay quả thật là đệ đã bị lão lục lừa mà giành lấy phần thắng rồi.”
Đỗ Tất Thư vui mừng khôn xiết, nhìn Trương Tiểu Phàm đang nghệt mặt không hiểu, cười hi hi nói: “Tiểu sư đệ, ta bảo cho đệ biết, thực ra lần nào, tiểu sư muội cũng là người đầu tiên trong gia đình sư phụ lao vào đây. Ha ha, lát nữa đệ đến giúp ta rửa bát nhé.”
Trương Tiểu Phàm gãi gãi đầu, không nhịn được cũng bật cười, gật đầu đáp: “Vâng, lục sư huynh.”
Trịnh Đại Lễ, người đứng vào hàng thứ ba, thân hình thấp lùn vạm vỡ, cười bảo: “Lão lục, đệ cũng dày mặt thật?”
Đỗ Tất Thư trợn mắt quái dị, nói: “Lão tam, huynh nói cái gì, đệ không ràng không buộc, mọi người muốn đánh cược thì phải nhận thua chứ, đúng không tiểu sư đệ?”
Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, chợt nghe Tống Đại Nhân nói: “Sư phụ đến rồi.”
Ai nấy nét mặt nghiêm trang, đều đứng cả dậy, hướng ra ngoài nghênh đón sư trưởng. Giây lát sau, thân hình béo lùn của Điền Bất Dịch xuất hiện ở cửa, kế đến đằng sau lưng lão là…
**
*
Chẳng có ai cả.
Lão đến một mình.
Mọi người đờ hết cả người ra, Đỗ Tất Thư không nén được bèn hỏi giật: “Sư phụ, sư nương và tiểu sư muội đâu ạ?”
Điền Bất Dịch ném cho y một cái nhìn, lạnh nhạt bảo: “Sư nương ngươi dẫn tiểu sư muội về nhà mẹ rồi.”
Mọi người ngạc nhiên, nhưng thoáng chốc sau không nén được đều phá lên cười. Nhìn Điền Bất Dịch lắc lư bước vào, Trương Tiểu Phàm lúng túng, muốn cười rồi lại không dám cười, Đỗ Tất Thư thì trơ mắt há miệng.
Điền Bất Dịch ngồi xuống cái ghế lớn của mình, vẫy tay bảo: “Ăn cơm thôi!”
Bọn đệ tử lúc này mới ngồi xuống, ai nấy nhìn Đỗ Tất Thư, vẻ cười mà không phải cười. Điền Bất Dịch liếc qua Trương Tiểu Phàm rồi hỏi Tống Đại Nhân: “Ngươi bảo cho y biết về môn quy và giới điều chưa?”
Tống Đại Nhân gật đầu đáp: “Rồi ạ, 12 môn quy 20 giới điều, con đều đã nói với tiểu sư đệ. Còn về tu luyện đạo pháp cơ bản, đệ tử thấy tiểu sư đệ hôm nay mới đến còn hơi mệt nhọc, định là ngày mai bắt đầu chính thức truyền thụ.”
Điền Bất Dịch gật gật đầu, có vẻ bằng lòng, nói với Trương Tiểu Phàm: “Lão thất này.”
Trương Tiểu Phàm còn chưa hiểu ý, bị Đỗ Tất Thư bên cạnh huých một cái, mới nhận ra là sư phụ gọi mình liền vội vàng đứng dậy: “Có đệ tử.”
Điền Bất Dịch lắc lắc đầu, lòng tin tưởng đối với đứa đệ tử phản ứng chậm chạp này lại giảm đi mấy phần, bảo: “Ngươi trước tiên hãy theo đại sư huynh, nhớ là phải dụng tâm học, đạo hải vô nhai, cần lệ vi chu (3), tuy tư chất có kém một chút, nhưng chỉ cần ngươi kiên nhẫn chịu khó, chưa chắc là không thể không học được, biết chưa?”
Trương Tiểu Phàm như phụng thánh chỉ, cung cung kính kính đáp: “Vâng.”
Điền Bất Dịch khoát tay: “Ăn cơm.”
Trương Tiểu Phàm tuổi nhỏ người thấp bé, bưng cái bát to ngồi lên ghế, thức ăn hơi xa, với mãi không tới, Đỗ Tất Thư bên cạnh rất tốt, gắp cho nó luôn, khe khẽ bảo: “Tiểu sư đệ, ăn nhiều một chút.” Thấy y có vẻ hoàn toàn chẳng để ý gì đến việc cá cược bị thua, tư cách đổ phẩm quả không tệ.
Trương Tiểu Phàm xúc động, gật đầu lia lịa, ăn được một lúc rồi len lén gọi: “Lục sư huynh.”
Đỗ Tất Thư quay đầu lại hỏi: “Gì thế?”
Trương Tiểu Phàm nói: “Làm sao mà sư nương lại còn có nhà mẹ nữa?” Trong cái đầu bé bỏng của nó, người trong Thanh Vân Môn thảy đều như thần tiên, lẽ nào vẫn vướng vít những sự thế tục. Đỗ Tất Thư phì ra: “Tất nhiên là có chứ, sư nương cũng là người mà. Nhưng sư phụ nói sư nương về nhà mẹ, không phải là nhà mẹ đẻ đâu, mà là về bên Thuỷ Nguyệt sư thúc ở Tiểu Trúc Phong.”
Trương Tiểu Phàm ngạc nhiên: “Gì ạ?”
Đỗ Tất Thư thấp giọng bảo: “Sư nương hồi còn trẻ xuất thân ở Tiểu Trúc Phong, vốn là sư tỷ muội với Thủy Nguyệt đại sư thủ toạ bên ấy, tình cảm rất sâu sắc. Sau này không biết là vì chuyện gì, sư nương người đẹp như hoa thế ấy, lại lấy sư phụ nhà mình, nghe nói lúc ấy các vị nam sư thúc trong Thanh Vân Môn rất nhiều người không hiểu ra sao…”
“Phắp”, một cây đũa bắn ngay vào trán Đỗ Tất Thư, lực đạo không nhẹ, làm lằn đỏ lên một vệt. Hai người sợ giật thót, thấy Điền Bất Dịch mặt mày bừng giận, đôi đũa trong tay thiếu một chiếc. Đỗ Tất Thư quay đầu lè lưỡi với Trương Tiểu Phàm, cả hai không dám nói chuyện nữa, cắm đầu ăn thật lực. Lúc ấy, Tống Đại Nhân hỏi Điền Bất Dịch: “Sư phụ, lần này chưởng môn chân nhân triệu tập thất chi phái, sao Thủy Nguyệt sư thúc lại không đến?”
Điền Bất Dịch hừ một tiếng, cầm đôi đũa khác lên, nói: “Thì lão đạo cô ấy giả bệnh, phái người đến nói với chưởng môn sư huynh cái gì mà đau đầu phát sốt mãi, chưởng môn sư huynh cũng thật là, lại đi tin chứ. Hừ, hôm nay nếu mụ ấy đến, ta cho dù không cướp được, cũng không phải…” Toạ hạ tứ đệ tử là Hà Đại Trí ho khan hai tiếng, khe khẽ nói: “Sư phụ, chi phái bên Thủy Nguyệt sư thúc xưa nay không thâu nam đệ tử.”
Điền Bất Dịch phát nghẹn, lắc đầu nói: “Lại được sư nương các người nữa, vừa nghe nói Thuỷ Nguyệt có bệnh gì đó, lập tức dẫn Linh Nhi đi sang thăm mụ ấy, cứ làm như trời sập không bằng, đúng thật là.”
Bọn đệ tử nhìn nhau, nét mặt đều có vẻ mừng, Tống Đại Nhân ngập ngừng một lát, mới dọ dẫm hỏi: “Sư phụ, thế không biết sư nương ở bên Thủy Nguyệt sư thúc bao nhiêu ngày?”
Điền Bất Dịch trợn mắt nhìn y, nói vẻ không vui: “Cái gì mà mấy ngày, ngày nay đi, tối nay là về.”
“Ối!” Bọn đệ tử than thở, ai nấy lộ rõ sự thất vọng. Điền Bất Dịch nhìn tới nhìn lui, hừ một tiếng nói với Tống Đại Nhân: “Hôm nay sư nương lại dạy dỗ bọn ngươi phải không?”
Tống Đại Nhân chưa cất tiếng, lão nhị Ngô Đại Nghĩa đã cướp lời: “Sư phụ khỏi phải hỏi y nữa, đại sư huynh hôm nay lâm trận bỏ chạy, thật là mất mặt.”
Tống Đại Nhân tức giận: “Nói bậy, ta phụng mệnh sư phụ giúp tiểu sư đệ…”
“Úi…” mọi người cùng thốt lên.
Bữa cơm kéo dài đến nửa canh giờ, sau khi mọi người đi cả, Trương Tiểu Phàm muốn nán lại giúp Đỗ Tất Thư rửa bát, Đỗ Tất Thư cười bảo: “Tiểu sư đệ, đa tạ đệ, có điều việc ở đây ta làm là được rồi. Đệ đánh cược thắng ta, ngày mai ta sẽ giúp đệ chặt trúc.”
Trương Tiểu Phàm ngường ngượng, đang định cất lời thì nghe thấy tiếng Tống Đại Nhân: “Lão lục, đệ đừng giúp y.” Lời vừa rót ra, đã thấy Tống Đại Nhân từ ngoài cửa đi vào, nói với Trương Tiểu Phàm: “Tiểu sư đệ, lại đây, ta dẫn đệ đến phòng riêng.” Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, Đỗ Tất Thư ở bên cạnh hỏi: “Đại sư huynh, huynh bảo gì?”
Tống Đại Nhân đáp: “Tiểu sư đệ vừa nhập môn, chính là lúc phải rèn luyện căn bản, chưa đến lúc được lười biếng.”
Đỗ Tất Thư gãi gãi đầu: “Nói cũng đúng, thế này vậy! Tiểu sư đệ, lần này coi như ta nợ đệ, ngày sau đệ có việc gì cần ta đỡ, cứ bảo nhé, được không?”
Trương Tiểu Phàm nói: “Lục sư huynh, hay là bỏ đi, đằng nào…”
Đỗ Tất Thư nghiêm mặt, hiên ngang nói: “Gì vậy, ta lẽ nào là loại thị phi bất phân, trung gian bất biện (4) ư, đã nhận lời đệ tất nhiên phải làm cho bằng được, nếu không thì sẽ trở thành trò cười, bị các vị sư huynh phỉ nhổ.”
Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, tuy thế trong lòng vẫn không rõ lắm việc này với thị phi bất phân, trung gian bất biện thì có liên quan gì?
Tống Đại Nhân kéo tay Trương Tiểu Phàm dậy, bảo: “Tiểu sư đệ, nào, ta đưa đệ đi xem phòng mới của đệ nhé.” Hai người ra khỏi nhà bếp, trời đã tối mịt, một vầng trăng sáng từ từ nhô lên, treo phía trời đông. Họ đi ngang qua Thủ Tĩnh Đường, Trương Tiểu Phàm ngoảnh nhìn vào trong, thấy đèn lửa đã tắt hết, một vùng đen ngòm, chỉ có ánh trăng chiếu trước điện, mang chút khí vị u ám.
Lại đi thêm một lúc, họ quay về khu hành lang lượn khúc nơi ở của bọn đệ tử, Tống Đại Nhân đưa nó vào một gian tận cùng phía bên phải, nói: “Tiểu sư đệ, căn phòng mà đệ thức dậy lúc ban ngày đó là nơi ta ở, các sư đệ khác theo thứ tự mà xếp phòng, đều nằm bên phải, bảy căn bên trái kia không có người ở.” Ngưng một lúc, y nhìn Trương Tiểu Phàm hỏi: “Đệ ở một mình, liệu có sợ không?”
Trương Tiểu Phàm lắc đầu.
Tống Đại Nhân mỉm cười: “Vậy thì được rồi, nam tử hán đại trượng phu chúng ta sao có thể sợ cô đơn! Lại đây, chúng ta cùng vào!” Nói đoạn dắt Trương Tiểu Phàm đi vào. Trương Tiểu Phàm ngắm cái nơi bây giờ lạ lẫm mà rồi sẽ phải kết bạn với nó lâu dài, cái sân nhỏ, bên trái có một cây tùng xanh, bên phải có năm thân trúc tỉa tót, cao bằng hai ba người.
Trong sân đá mảnh lát thành lối đi nhỏ, hai bên là bờ cỏ, gió đêm thoảng tới, lá cây cành trúc khe khẽ khua động, hương cỏ dịu dàng đưa lại, rất đỗi thanh tịnh.
Tống Đại Nhân mở cửa phòng, đi vào thắp đèn, gọi: “Tiểu sư đệ, lại đây nào!”
Trương Tiểu Phàm bước theo, thấy bên trong sắp đặt giản dị y như phòng của Tống Đại Nhân, chỉ có bàn ghế chăn đệm, ngoài ra chẳng còn gì nữa.
Tống Đại Nhân bảo: “Hôm nay ta đã quét tước qua chỗ này, đệ ở tạm vậy! Sống trên núi thanh bần, đệ tuổi lại nhỏ, có thể cảm thấy cô đơn, nhưng chúng ta là người học đạo, phải chịu đựng mọi sự rèn luyện, về sau những chuyện ăn ở sinh hoạt, đệ đều phải tự lo lấy.”
Trương Tiểu Phàm đáp: “Đệ biết rồi, đại sư huynh.”
Tống Đại Nhân gật gật đầu, quay nhìn các phía, nói: “Thế nếu không có việc gì nữa thì ta về đây. Đệ đã mệt nhọc suốt cả ngày cũng nên nghỉ sớm một chút!” Trương Tiểu Phàm vâng lời, tiễn đại sư huynh đến cửa, sực nghĩ ra một điều, liền hỏi: “Đại sư huynh, làm sao mà vừa sập tối, đã chẳng thấy vị sư huynh nào ló ra ngoài thế?”
Tống Đại Nhân cười đáp: “Đệ không biết đâu, bọn chúng ta ở trên Đại Trúc Phong học đạo cũng được ít nhất mấy chục năm rồi, ngày thường hiếm khi ra ngoài, nơi này bước chân đã thuộc khắp, vì vậy lười đi lại. Như lão tứ thích xem sách, lão nhị thích ca hát, người cần mẫn hơn một chút như lão tam thì ngồi trong phòng tu luyện, thông thường đều không ra ngoài.” Trương Tiểu Phàm giờ mới hiểu, Tống Đại Nhân xoa xoa đầu nó, lại dặn dò vài câu, rồi quay mình bước đi.
Trương Tiểu Phàm trở vào phòng, đóng cửa lại, lúc ấy cảm thấy cả thế giới đột nhiên tĩnh lặng, chẳng có lấy một tiếng nói.
Nó sè sẹ bước lại trước bàn, đờ đẫn ngồi xuống một lát; rồi chẳng biết làm gì, nó bèn thổi tắt đèn lửa, cởi bỏ áo ngoài, lên giường nằm, trằn trọc trở mình, chẳng biết bao lâu thì mơ mơ hồ hồ ngủ thiếp đi.
“Á!”
Trong bóng tối, Trương Tiểu Phàm kêu khẽ rồi lật mình ngồi dậy thở hổn hền. Nó vừa mơ thấy mình quay lại thôn Thảo Miếu, gặp lại cha mẹ, gặp lại lũ bạn nhỏ vẫn thường chơi đùa, lại cả các chú bác cô dì khác rất là vui vẻ, nhưng đột nhiên họ đều biến ra tử thi, máu chảy thành sông, kinh khủng cùng cực. Nó run hết cả người, thế là thức giấc.
Nó ngồi trên giường một lúc lâu, hơi thở dần dần điều hoà, mắt cũng lần lần thích ứng với bóng tối, nhìn ra phên cửa mở hé, có ánh trăng nhàn nhạt xiên vào, rơi trên nền đất, mờ ảo như tuyết sương. Tương Tiểu Phàm không buồn ngủ, bèn bò dậy đi đến trước cửa, cọt kẹt một tiếng, kéo cửa bước ra ngoài.
Bốn bề tịch mịch lặng lẽ, từ nơi nào chẳng biết âm ỷ đưa lại tiếng côn trùng, một tiếng, hai tiếng, rủ rà rủ rỉ, ánh trăng long lanh như nước, rải xuống mình nó.
Nó ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy ngàn sao nhấp nháy, trăng giữa từng không, long lanh trong trẻo.
“Chẳng biết Kinh Vũ thế nào, có phải cũng đang mất ngủ không?” Nó khẽ thì thầm, rồi thở dài, xoay mình đi vào phòng, thình lình trước ngực chùng lại, một vật từ trong áo lót sát mình lăn ra, rơi xuống mặt đất.
Trương Tiểu Phàm giật bắn mình, cúi xuống nhặt lên, thì ra là hạt châu tròn trặn tím sẫm ảm đạm vô quang nọ, chính giữa trên hạt châu có một lỗ nhỏ xíu, chắc là để Phổ Trí xuyên vào chuỗi tràng hạt ngày hôm đó. Mấy buổi nay nó gặp toàn đại biến, đã quên bẵng vật này, giờ mới nhớ lại khi ấy Phổ Trí có dặn phải ném hạt châu đi.
Nghĩ đến đây, lòng nó chợt trào nỗi cay đắng, cha mẹ chẳng để lại gì, Phổ Trí với nó là chút duyên tao ngộ, tuy chỉ gặp nhau một đêm, nhưng cũng đã như người thân, mà hạt châu xấu xí này là vật duy nhất Phổ Trí để lại cho nó.
Trương Tiểu Phàm giơ tay, soi hạt châu lên giữa không trung, dưới ánh trăng rờ rỡ sáng trong, chợt thấy màu sắc hạt châu bợt đi một chút, thành ra màu tím nhạt, nửa như trong suốt, lờ mờ bên trong có một luồng khí loãng xoáy tròn không ngừng, hình như có linh tính, chỉ chực phá vỏ mà ra. Duy có điều mỗi lần luồng khí chạm được gần đến nơi nào trên bề mặt, nơi ấy lại sáng lên một chữ 卍 nho nhỏ, dồn nó quay lại.
Trương Tiểu Phàm ngắm mãi, lòng bất giác sinh niềm vui thích, lại nghĩ đây là vật duy nhất mà Phổ Trí di niệm, nên thực sự không nỡ vứt bỏ.
Nghĩ ngợi lâu lắc, lại từ trên cổ tuột xuống một sợi dây đỏ, đó là cái cha mẹ buộc cho để giữ gìn trường mệnh bình an. Con nhà bình thường đều có thể đeo thẻ vàng khoá bạc, nhưng gia đình nó nghèo nàn, đành lấy dây đỏ thay thế.
Nó bèn dùng dây đỏ xuyên vào hạt châu buộc kỹ lại, đeo lên trước ngực, sát da, bất giác lạnh buốt, nhưng vẫn cảm thấy khí vị ấm áp. Nó mỉm cười một mình, ngẩng đầu nhìn trăng sáng trên cao, rồi quay gót bước vào phòng đi ngủ lại.
Ngày đầu tiên của nó ở Thanh Vân Môn, đã kết thúc như vậy đấy.
Chương 8: Truyền Nghệ
“Trương Tiểu Phàm!” một tiếng kêu lớn, âm thanh ngọt ngào, nhưng chấn động sém tét màng nhĩ.
Trương Tiểu Phàm tỉnh mộng, mở to hai mắt, đột nhiên thấy một cái miệng há rộng, rồi hai hàng răng nhọn hoắt ghé sát lại trước mặt, nó sợ phát khiếp la lên: “Ối!”
“Khách khách khách…” một tràng cười từ đằng sau vọng lại.
Trương Tiểu Phàm mãi mới hoàn hồn, lúc ấy nhìn rõ thì ra là một con chó vàng to tướng, cao đến nửa người ta, lông vàng láng mướt, nằm trên giường mình, đằng sau con chó là Điền Linh Nhi mặc bộ đồ đỏ bó sát, đang cười gập cả bụng.
Trương Tiểu Phàm len lén liếc con chó to, thấy mình nó thù lù, răng nanh nhọn hoắt, cái lưỡi dài ơi là dài thè lè ra ngoài, bộ dạng rất hung ác. Trương Tiểu Phàm chưa từng nhìn thấy con chó to như vậy, trong lòng có chút hoảng sợ, rồi thấy Điền Linh Nhi nét mặt tươi cười rạng rỡ, bèn lúng búng hỏi: “Sư tỷ, chuyện gì vậy?”
“Chuyện gì ư?” Điền Linh Nhi đang cười nói, chợt nét mặt nghiêm lại, cau mày quát lớn: “Trời đã sáng rồi mà đệ còn hỏi ta chuyện gì? Dậy mau, ta và đệ đi lên núi chặt trúc.” Trương Tiểu Phàm ngây ra, rồi lạ lùng hỏi: “Sư tỷ cũng phải đi á?”
Điền Linh Nhi hét: “Còn phải nói, đệ tử nhập môn ở chi phái ta ba năm đầu đều phải lên núi chặt Hắc Tiết Trúc, ta mười tuổi mới bắt đầu, năm nay là năm cuối cùng rồi. Ê, đệ vẫn còn ỳ ra trên giường à?”
Trương Tiểu Phàm vội vàng vâng lời, cẩn thận dè dặt vòng qua con chó to, theo mé bên kia giường tụt xuống, hấp ta hấp tấp mặc quần áo.
Điền Linh Nhi hét: “Tiếp này.” rồi ném một con dao chặt củi lại.
Trương Tiểu Phàm giơ hai tay đỡ lấy, đó là một con dao chặt củi thông thường, cầm thấy nằng nặng.
Chuẩn bị xong xuôi, nó hỏi Điền Linh Nhi: “Sư tỷ, có phải gọi đại sư huynh cùng đi không?”
Điền Linh Nhi lườm nó một cái, bảo: “Đệ chưa nghe ta nói là riêng nhập môn đệ tử mới phải làm bài tập hả, bây giờ chỉ có ta và đệ đi chặt trúc thôi, đi nào!”
Nói rồi vẫy tay, Trương Tiểu Phàm còn chưa động đậy, đã thấy trên giường con chó vàng kia đột nhiên đứng phắt dậy, nhảy phốc xuống, ngoáy ngoáy cái đuôi, hướng về phía Trương Tiểu Phàm sủa mấy tiếng “oẳng oẳng”, nhe răng làm bộ hung ác, rồi phóng ra ngoài.
Trương Tiểu Phàm nghe thấy quen tai, sực nhớ hôm qua lúc theo đại sư huynh quay về có nghe thấy hai tiếng chó sủa, xem ra chính là con chó vàng to này, trong lòng bất giác ngấm ngầm tự nhủ: “Thanh Vân Môn thật là lợi hại, đến con chó nuôi cũng lớn hơn nhiều con chó ở thôn mình.”
Nó theo Điền Linh Nhi rời khỏi phòng, trời còn chưa sáng tỏ, vẫn lờ mà lờ mờ, đi ra khỏi hành lang lượn khúc nhìn về phía hậu sơn, đằng xa sương mờ mông lung lảng bảng trong núi.
Hai người và con chó cứ thế đi ra sau núi Đại Trúc Phong.
Hôm qua Trương Tiểu Phàm được Tống Đại Nhân ôm lên đồi, thấy chẳng bao lâu là đến nơi, đường cũng dễ đi, chẳng dè hôm nay tự mình đến, mới đi được nửa đường, đã thấy độ dốc càng lúc càng lớn, lộ trình cũng xa hơn mình tưởng tượng rất nhiều.
Quay sang nhìn Điền Linh Nhi ở bên cạnh, hôm nay cô bé không dùng Hổ Phách Chu Lăng, nhưng vẫn bước đi nhẹ nhàng, thân hình nhỏ nhắn mặc bộ đồ đỏ lướt trên đường núi rất nhanh nhẹn. Con chó to màu vàng kia thì chẳng phải nói, chạy trước chạy sau, lúc thì xuyên lên, lúc thì lùi lại, có lúc còn luồn vào vạt rừng bên đường, chẳng biết để làm trò gì, lát sau, cây cỏ lao xao, lại thấy từ một chỗ khác chui ra, dáng điệu rất là hưng phấn hoạt bát.
Đi tiếp chừng nửa canh giờ, Trương Tiểu Phàm mệt nhoài thở hồng hộc, hai chân đau mỏi, rã rời cả người.
Điền Linh Nhi đi trước, thấy bộ dạng nó như thế thì hừ một tiếng bảo: “Thật vô dụng, dừng lại nghỉ tý vậy!”
Trương Tiểu Phàm vội gật đầu, đặt mông ngồi xuống, ra sức thở, con chó to màu vàng lúc ấy lại chẳng thấy đâu, không biết đã chui vào xó xỉnh nào rồi.
Trương Tiểu Phàm thở một lúc, hô hấp mới dần dần điều hoà. Nó ngồi trên sơn đạo, nhìn xuống dưới, thấy Đại Trúc Phong vươn cao sừng sững, trông có vẻ cô ngạo bên cạnh những dãy núi gần đó đều thấp hẳn xuống.
“Sư tỷ, đệ có một việc muốn hỏi, không biết là…”[Audio] Tuyệt Đỉnh Đan Đôn
Điền Linh Nhi nghe giọng điệu nó có chút e dè bèn đưa mắt nhìn sang, trong lòng rất là đắc ý, lơ đãng dùng tay sửa lại mớ tóc, nét mặt ngay ngắn, nghiêm trang nói: “Đệ hỏi đi!”
“Tại sao chúng ta lại coi chặt trúc là bài tập! Đệ nghĩ bài tập phải là tu hành đạo pháp chứ?”
Điền Linh Nhi cong môi: “Đệ thì hiểu cái gì, với người tu chân sức khoẻ là quan trọng nhất. Mẹ nói nếu thể trạng không tốt, thì dù có diệu pháp vô thượng cũng khó mà tu tập được. Thanh Vân Môn chúng ta bắt nguồn từ Đạo giáo, rất coi trọng dưỡng sinh kiện thể, tu tập đạo pháp tới chỗ sâu xa, thể trạng càng quan trọng. Nói ngay như kỳ thuật tối cao của bản môn là Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết…”
Trương Tiểu Phàm chợt run bắn, mặt biến sắc.
Điền Linh Nhi lạ lùng hỏi: “Đệ làm sao vậy?”
Trương Tiểu Phàm hồi tâm, sắc mặt u ám bất định, lẩm bẩm nói: “Không, không có gì, đệ nghe cái tên này có vẻ dài dòng ghê gớm quá.”
Điền Linh Nhi trợn mắt nhìn nó, bảo: “Đương nhiên là ghê gớm, đây chính là một trong những tuyệt kỹ trấn sơn của Thanh Vân Môn, chẳng có mấy người luyện được đâu. Nghe cha nói, thi triển chân quyết này, phải lấy chính thân mình để dẫn, rồi dùng thần binh lợi nhẫn, dẫn dụ cửu thiên thần lôi, thiên uy thần lực, làm đối phương tan tác, uy lực tuyệt luân.” (1)
Trương Tiểu Phàm thở dài, nói: “Thế à!”
Điền Linh Nhi lại tiếp: “Thì đệ thử nghĩ xem! Tuy có chân quyết hộ thân, nhưng những uy thế cỡ cửu thiên thần lôi, người thường hễ đụng phải là hoá ngay thành tro bụi, người thi triển thuật ấy cố nhiên tu hành cực thâm sâu, nếu thể trạng không tốt, một chốc một lát chỉ e là chính mình bị thần sấm vụt chết trước ấy chứ, còn nói gì đến đánh cho ai tan tác?” Cô bé liếc nhìn Trương Tiểu Phàm, nói: “Vì vậy cha bảo đệ làm bài tập này chính là vì muốn tốt cho đệ, thế mà đệ còn giữ cái thái độ không bằng lòng.”
Trương Tiểu Phàm giật thót, nhẩy cẫng lên vội nói: “Làm gì có chuyện đó, đệ hoàn toàn, hoàn toàn không dám có chút ý bất kính nào với sư phụ, càng không có ý không bằng lòng. À! Đệ đã nghỉ đủ rồi, thôi đi, đi!”
Nói đoạn vung con dao chặt củi, khoa chân bước thình thịch, đi lên trên núi, tốc độ đã nhanh hơn. Điền Linh Nhi nhìn theo sau nó, khe khẽ mỉm cười, rồi cũng đi lên theo.
Khó khăn lắm mới bò lên đến sườn đồi, Trương Tiểu Phàm nhịp thở đứt đoạn, thấy mé trước rừng trúc, con chó to màu vàng đó chẳng biết đã phục sẫn đấy từ khi nào, trông thấy hai đứa lên tới nơi, nó chõ mõm kêu “oẳng oẳng” mấy hồi, cũng không nhổm dậy, lại ngoảnh đầu đi.
Trương Tiểu Phàm ngây ra một lát, nói: “Nhanh quá nhỉ!”
“Đệ nói Đại Hoàng hả?” Điền Linh Nhi đi từ đằng sau lên, không đỏ mặt, không thở gấp, cất tiếng hỏi.
Trương Tiểu Phàm chỉ con chó to: “Nó tên là Đại Hoàng à?”
Điền Linh Nhi đáp: “Phải, đệ đừng coi thường nó, nó lợi hại lắm đó!”
Trương Tiểu Phàm lẩm bẩm: “Thì vậy, xem cái bộ dạng nó to như thế là biết, ít nhất cũng đã nuôi được cỡ hai chục năm.”
Điền Linh Nhi xì một tiếng: “Đâu có!”
Trương Tiểu Phàm lạ lùng nói: “Nó chưa được hai chục năm à! Đại Hoàng quả là chóng lớn.”
Lúc ấy Đại Hoàng ở đằng trước hướng về Trương Tiểu Phàm mà sủa rất là dữ dội.
Điền Linh Nhi bảo: “Ta nói đâu có ít năm như thế. Chà, để ta tính xem, hình như lúc tứ sư huynh đến đã có rồi, vậy là cỡ bảy mươi năm, không đúng, tam sư huynh nói lúc huynh ấy đến nó đã ở đây rồi, vậy thì phải đến chín mươi bảy năm. Á!”
Cô bé bỗng thốt lên, làm Trương Tiểu Phàm giật thót mình, vội vàng hỏi: “Sao vậy?”
Điền Linh Nhi vui hơn hớn nói: “Ta nhớ ra rồi, lúc nhỏ có lần mẹ cãi nhau với cha, nói năng rất ghê gớm, bảo là sẽ đem con chó vàng mà cha nuôi từ bé đến lớn đem ra giết thịt nấu canh ăn, làm cha tức gần chết, Đại Hoàng cũng sợ đến nỗi mấy ngày liền không dám về nhà!”
Trương Tiểu Phàm tò mò hỏi: “Đại Hoàng không dám về nhà hử?”
Điền Linh Nhi đáp: “Đúng! Đại Hoàng sống đã rất nhiều rất nhiều năm, hiểu tính nết con người lắm, biết mẹ ghê gớm, sợ bị rơi vào tay mẹ thật, bèn chuồn mất. Thế nào, ghê không?”
“Ghê!” Trương Tiểu Phàm nói rất thật lòng, cũng không biết là nói Đại Hoàng, hay là nói sư nương. Nó nhìn kỹ con chó to ấy thêm một chút, Đại Hoàng chẳng thèm để ý, phì mũi một cái rõ to, quẫy quẫy đuôi, rồi nghiêng đầu, lười biếng ngả ra mặt đất.
Hai đứa lúc ấy đã đi đến trước rừng trúc, Trương Tiểu Phàm nói với Điền Linh Nhi: “Sư tỷ, lúc đệ vừa đến Thông Thiên Phong, còn nhìn thấy một con quái thú to hơn Đại Hoàng rất nhiều lần, nghe đại sư huynh gọi nó là Thuỷ Kỳ Lân, Đại Hoàng có phải là linh thú giống như thế không?”
Điền Linh Nhi đi vào rừng trúc, lắc đầu đáp: “Không phải, linh tôn là dị thú thời thượng cổ, là linh chủng hồng hoang, vượt xa Đại Hoàng, không thể so sánh được.”
Trong lúc nói chuyện, cô bé đã dẫn Trương Tiểu Phàm đi xuyên qua rừng, lát sau tới một nơi tương đối nhiều thân trúc gầy, Hắc Tiết Trúc nơi đây đều chỉ lớn bằng cỡ cổ tay, rất là mảnh mai.
“Ở đây đây, đệ từ nay về sau, trong vòng ba tháng, mỗi ngày chặt một cây là được rồi.” Điền Linh Nhi nghiêm trang bảo.
“Nhỏ thế này mà chỉ chặt một cây thôi ư?” Trương Tiểu Phàm ngạc nhiên hỏi.
Điền Linh Nhi hừ một tiếng, bảo: “Đệ chặt thử xem.”
Trương Tiểu Phàm gật đầu, cầm con dao chặt củi lên đi đến trước một cây trúc mảnh mai, ước lượng hươ dao một phát là đốn ngã. Chỉ nghe một tiếng trong trẻo vang lên, con dao như chém phải đá, dội lại mạnh đến nỗi lòng bàn tay Trương Tiểu Phàm phát tê dại. Cây trúc gầy bị nó chặt nghiêng xéo về trước, tích tắc sau bật trở lại, Trương Tiểu Phàm không kịp tránh, bị cành trúc quật vào đầu đau điếng, để lại một vệt đỏ bầm.
“Khách khách…” Điền Linh Nhi ôm bụng cười, một lát sau mới nhăn nhó bảo: “Đệ ở đây chặt nhé! Ta phải đi làm bài tập của ta đây.” Nói rồi vừa cười vừa quay mình bỏ đi.
Trương Tiểu Phàm xoa xoa chỗ bị quật đau trên mặt, thấy trên thân trúc, nơi nó vừa chém phải, lộ ra một vệt trăng trắng, bất giác thở ra một hơi lạnh buốt.
Sáng hôm nay, Trương Tiểu Phàm một mình ở đây đối mặt với cây Hắc Tiết Trúc, dùng đủ mọi cách chặt, chém, cưa, mài, đè, bẻ, đến hai canh giờ, mặt trời đã lên giữa thinh không, toàn thân mồ hôi đầm đìa, chân tay mỏi nhừ vô lực, cũng chỉ xẻ được một cái lỗ be bé chừng hai phân trên thân cây trúc.
Lúc ấy một tràng tiếng hát đưa tới, Điền Linh Nhi cất tiếng ca bài gì chẳng biết, nhảy chân sáo quay trở lại, thấy bộ dạng bối rối của Trương Tiểu Phàm, lại nhìn cây Hắc Tiết Trúc, lắc lắc đầu, vung con dao lên, có vẻ như định chặt.
Trương Tiểu Phàm vội vàng hỏi: “Sư tỷ, làm gì vậy?”
Điền Linh Nhi sốt ruột bảo: “Thì giúp đệ chặt chứ gì nữa!”
Trương Tiểu Phàm lắc đầu thật mạnh, thở hộc ra: “Không cần đâu, đa tạ sư tỷ. Đây là bài tập của đệ, đệ sẽ tự mình hoàn thành.”
Điền Linh Nhi hừ một tiếng, chỉ lên mặt trời, nói: “Đệ biết lúc này là lúc nào rồi không?” Trương Tiểu Phàm tính tình cứng cỏi, nghiến răng đáp: “Dù phải chặt đến tối mịt cũng được…”
“Đồ ngu!” Điền Linh Nhi vụt chống nạnh mắng, Trương Tiểu Phàm kinh ngạc, nhất thời không thốt nên lời, chỉ ngây ra mà nhìn vị sư tỷ.
Điền Linh Nhi uy phong lẫm lẫm, rất có cái phong phạm của mẹ, nổi giận: “Ngươi không xem thời gian, cũng không nghĩ gì đến người khác. Ngươi chặt đến tối, chẳng lẽ muốn ta cũng phải đợi ngươi đến tối hay sao? Nếu ngươi thật sự cương quyết như thế, về sau mỗi ngày nên hết sức cố gắng, nghĩ cách nào để trong hai canh giờ có thể làm xong bài tập, khỏi phải nói ra những lời dấm dớ chặt đến tối cái gì đó!”
Nói xong, cô bé vung dao lên, dao rít phá không, “phách phách phách phách” bốn tiếng, cây trúc theo tiếng rít đổ rạp, Trương Tiểu Phàm đứng trơ mắt trông.
Điền Linh Nhi liếc nhìn nó, lạnh lùng bảo: “Về thôi!” đoạn đi ra bìa rừng. Trương Tiểu Phàm trong lòng vừa thẹn vừa ngượng, âm thầm hạ quyết tâm, ngày sau nhất định phải hết sức cố gắng, làm bài tập thật tốt.
Nó lê tấm thân mệt mỏi về tới nơi ở trong Đại Trúc Phong thì đã là chính ngọ, Điền Linh Nhi chẳng nói chẳng rằng đi vào hậu điện Thủ Tĩnh Đường.
Trương Tiểu Phàm ngây đuỗn, khó khăn lắm mới cất nổi bước chân về phía phòng riêng, đến lối vào hành lang uốn khúc thì gặp đại sư huynh Tống Đại Nhân đang đứng ở đó.
Tống Đại Nhân khoé miệng lộ nét cười, nói: “Sao rồi, tiểu sư đệ, mệt lắm hả?”
Trương Tiểu Phàm nhệch ra cười, lắc lắc đầu. Tống Đại Nhân thấy nó tuổi còn nhỏ mà tính tình cương nghị, bèn thôi cười, đưa nó về đến phòng, bảo: “Trong nhà bếp thường có sẵn nước nóng, sau này hễ đệ về thì hãy tự vào lấy nước rửa ráy. Lát nữa là ăn cơm rồi, đệ nghỉ ngơi một lúc đi, ta sẽ đến gọi đệ sau, ăn cơm xong chúng ta còn phải làm bài tập nữa!”
Trương Tiểu Phàm giật thót, hỏi: “Chiều vẫn còn bài tập nữa ư?” Tống Đại Nhân thấy nó phản ứng mạnh như thế thì sững ra một lát, rồi lập tức tỉnh ngộ, cười bảo: “Ồ, ta nói sai, chiều là lúc tu tập đạo pháp của đệ tử chi phái, từ hôm nay ta sẽ truyền thụ cho đệ nhập môn đạo pháp.”
Trương Tiểu Phàm lúc này mới thở phào, lòng vừa mừng vừa sợ, khe khẽ hỏi: “Đại sư huynh, những đạo pháp ấy rất lợi hại, có khó học không?” Tống Đại Nhân mỉm cười: “Tu hành đến chỗ sâu xa, tất nhiên là lợi hại vô cùng. Còn có khó học hay không, thì phải tuỳ vào tư chất ngộ tính của từng người. Tư chất kém một chút cũng không sao, đệ nghe sư phụ nói tối hôm qua rồi đấy: Đạo hải vô nhai, Cần lệ vi chu. Chỉ cần đệ chịu khó kiên trì chăm chỉ, chuyên cần tu tập, thì dù có khó đến đâu đi nữa, cũng có thể luyện thành.”
Trương Tiểu Phàm gật đầu thật mạnh. Đến giờ cơm trưa hôm đó, Điền Bất Dịch hỏi qua về tình hình bài vở của Trương Tiểu Phàm, Điền Linh Nhi ngồi bên thêm mắm dặm muối kể xấu Trương Tiểu Phàm một thôi một hồi, đến nỗi thằng bé đỏ hết cả mặt, không dám ngẩng đầu lên.
Điền Bất Dịch nghe con gái kể, lắc đầu hoài, cuối cùng khẽ phẩy tay, nói thon lỏn: “Ăn cơm.”
Điền Bất Dịch chẳng buồn mắng Trương Tiểu Phàm, nhưng Trương Tiểu Phàm lại nghĩ, sư phụ rất quan tâm mình, mình làm ăn chẳng ra gì mà sư phụ không hề trách mắng, khoan hồng đại lượng đến như thế, đúng là một bậc ân sư hiếm thấy trên thế gian. Nó tự thẹn với lòng, không dám nói năng gì nữa, âm thầm phát thệ, sau này nhất định phải chuyên cần tu tập để đền ơn sư phụ.
Sau bữa cơm, Điền Bất Dịch lại theo cái lối đi chữ bát vốn có, lắc la lắc lư trở về Thủ Tĩnh Đường. Những đệ tử khác vội vàng đi đến Thái Cực Động, còn Tống Đại Nhân thì cùng Trương Tiểu Phàm về phòng, bảo: “Tiểu sư đệ này, bản phái đạo pháp rất trọng căn cơ, đệ mới nhập môn, ta hãy truyền cho đệ đạo thuật cơ sở, đệ nhớ kỹ rồi thì sau này phải tự hành tu luyện, nếu có chỗ nào chưa rõ thì hỏi ta, biết chưa?”
Trương Tiểu Phàm gật đầu lia lịa, trong lòng xúc động.
Tống Đại Nhân nét mặt trang trọng, nghiêm nghị nói: “Còn một chuyện nữa, ta phải cảnh báo đệ: kỳ thuật bản môn tinh thâm thần diệu, tà ma yêu nhân lúc nào cũng rình mò. Đệ phải lập trọng thệ, sau khi đệ học xong, trừ phi là đệ tử bản môn, quyết không được truyền cho người ngoài.”
Trương Tiểu Phàm giật mình hoảng hốt, nhưng lập tức hiểu ra, khuôn mặt bé nhỏ tỏ vẻ kiên quyết, đáp: “Dạ. Có trời xanh trên cao, đệ tử Trương Tiểu Phàm ngày sau nếu tiết lộ bí mật đạo pháp của Thanh Vân Môn, tất sẽ bị sét giáng đỉnh đầu, chết không có chỗ chôn.”
Tống Đại Nhân mỉm cười gật đầu, bảo nó ngồi xuống trước bàn, rồi dạy cách đả toạ, mặc tưởng, lại nói sơ qua cách vận hành kinh mạch và tinh khí, cuối cùng là truyền cho nó pháp môn tu hành tầng thứ nhất của Thái Cực Huyền Thanh Đạo.
Thái Cực Huyền Thanh Đạo là căn bản của tất thảy những diệu pháp kỳ thuật trong Thanh Vân Môn, cũng chính là điều mà Thanh Vân Tử đã ngộ ra từ cuốn cổ thư kia hai ngàn năm về trước, trải qua quá trình tinh nghiên của các tông sư Thanh Vân Môn, cho đến nay, đã trở thành một đạo pháp vô thượng, định đoạt được cả chuyện thiên địa tạo hoá.
Thái Cực Huyền Thanh Đạo gồm ba cảnh giới Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Đệ tử Thanh Vân Môn, kể cả những người thông minh tài trí, suốt cuộc đời giỏi lắm là đột phá được đến Ngọc Thanh Cảnh, nhưng cũng chỉ loanh quanh tại đó, mà tu hành được đến tầng cao nhất của Ngọc Thanh Cảnh cũng đã là một việc hiếm thấy xưa nay.
Trong Thanh Vân Môn, người đông đến gần một nghìn, nhưng có thể đột phá được Ngọc Thanh Cảnh để tiến lên Thượng Thanh Cảnh, ngoài chưởng môn Đạo Huyền Chân Nhân, bất quá có chừng hơn mười người nữa mà thôi. Nhưng chỉ với mười mấy người này, Thanh Vân Môn đã đứng được vào hàng những môn phái có thực lực mạnh nhất thâm ảo nhất trong giới tu chân ngày nay. Còn về Thái Thanh cảnh giới vô thượng trong truyền thuyết, nghe nói mới có mỗi Thanh Diệp tổ sư là tu tập tới.
Chương 9: Phật và Đạo
Tống Đại Nhân lần đầu làm thầy, thấy Trương Tiểu Phàm hai tay chống má, lắng nghe chăm chú, bất giác cao hứng, ăn nói rất đĩnh đạc.
Quá trình tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo là từ dễ tới khó, phần lớn mọi người ngay năm đầu tiên đều có thể tựu thành tầng thứ nhất của Ngọc Thanh Cảnh, nhưng sau đó trở đi bắt đầu đụng phải những chỗ thâm thuý khó hiểu; với tầng thứ hai, người bình thường phải tu tập mất năm năm; tầng thứ ba lại càng một trời một vực, người nào tư chất hơi kém thì cả đời sẽ dừng mãi ở chỗ này, người khá hơn một chút tu tập đến năm sáu mươi năm cũng không phải là chuyện lạ.
Trương Tiểu Phàm nghe mà há hốc miệng, Tống Đại Nhân mủm mỉm cười, lại giảng tiếp.
Pháp môn tu hành chủ yếu của Thái Cực Huyền Thanh Đạo, đến tầng thứ ba là hầu như truyền thụ hết, từ đó trở đi phần nhiều phải dựa vào tu vi và tư chất của bản thân, sư trưởng trình độ cao thâm có thể chỉ điểm chút ít, nhưng cũng chỉ là về mặt kinh nghiệm, để đệ tử tránh rẽ theo đường vòng mà thôi. Đương nhiên, cái gọi là đường vòng ở đây phải tính bằng đơn vị thời gian từ một trăm năm trở lên.
Trong Thái Cực Huyền Thanh Đạo, tu luyện đến tầng thứ tư của Ngọc Thanh Cảnh là tựu được căn bản của mọi pháp thuật, có thể bắt đầu đồng thời tu tập những kỳ thuật diệu pháp khác và rèn tập bảo bối của mình.
Bảo bối vốn có nguồn gốc lâu đời, trong thần thoại truyền thuyết, các vị thần linh phần nhiều đều có bảo bối riêng, uy lực tuyệt luân. Còn trong nhân gian, những người tu chân luyện đạo dùng nó để chế ngự dần thiên địa tạo hoá, uy lực cũng rất đáng kể, nhỏ thì có thể đằng không, cưỡi gió bạt mây mà đi, lớn thì có thể làm trời rung đất chuyển, phá được núi ngăn được sông.
Vật liệu để luyện bảo bối cũng lắm màu nhiều vẻ, thiên kỳ bách quái, nhưng có điều, vật liệu sẽ quyết định uy lực của bảo bối sau khi luyện thành, nếu lấy sắt thường để thi triển Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết, thì chưa kịp tấn công kẻ địch, kiếm đã cùng với chủ nhân biến thành tro bụi rồi.
Đối với môn hạ Thanh Vân, nhớ chuyện xưa Thanh Diệp tổ sư lấy được cổ kiếm Tru Tiên trong Huyễn Nguyệt Động Phủ rồi cùng nó tung hoành khắp nơi, thiên hạ hầu như không có địch thủ, bọn hậu bối ngưỡng mộ dư thế, thành ra quá nửa đều tu luyện tiên kiếm, mãi ngàn năm sau, kiếm khách vẫn không ngừng xuất hiện. Việc chọn kiếm làm bảo bối gần như là quy tắc bất thành văn của Thanh Vân Môn, nên có đổi tên thành Thanh Vân Kiếm Phái thì cũng không phải là bất khả.
Nói tới đây, lại phải nhắc một chút đến thủ toạ Đại Trúc Phong là Điền Bất Dịch, lão vốn luyện kiếm, pháp khí hộ thân Xích Linh cũng là một trong các danh kiếm của Thanh Vân Môn, nhưng chẳng hiểu sao, lão không hề có ý khuyến khích bọn đệ tử tu luyện tiên kiếm.
Không chỉ có vậy, lão còn thường xuyên “xui giục” mọi người rèn tập các loại pháp bảo khác, khiến dư luận trong Thanh Vân Môn dấy lên ít nhiều trách móc, nhưng một là chẳng có quy định nào nói rằng không được, hai là đệ tử của Điền Bất Dịch tư chất tầm thường, số lượng cũng ít, nên mọi người cứ để mặc lão.
Trong các đệ tử Đại Trúc Phong, đại sư huynh Tống Đại Nhân tu hành súc tích nhất, đã luyện tới tầng thứ năm của Ngọc Thanh Cảnh trong Thái Cực Huyền Thanh Đạo, sát ngay sau là lão tứ Hà Đại Trí, luyện tới tầng thứ tư. Tuy thời gian y nhập môn ngắn hơn Ngô Đại Nghĩa, Trịnh Đại Lễ, nhưng trong số các đệ tử ở đây y thuộc hạng thông minh nhất, vì vậy tuy đi sau mà lại về trước.
Trong khi ấy, lão nhị Ngô Đại Nghĩa, lão tam Trịnh Đại Lễ, lão ngũ Lữ Đại Tín, lão lục Đỗ Tất Thư, đều đang chật vật ở tầng thứ ba Ngọc Thanh Cảnh.
Còn tiểu sư muội Điền Linh Nhi thì thông tuệ hơn người, từ nhỏ đã được cha mẹ hết lòng giáo hối, tuy mười tuổi mới bắt đầu bài tập chặt trúc, nhưng tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo đã khá nhiều năm.
Cô bé còn nhỏ, nhưng năm mười ba tuổi đã luyện tới tầng thứ tư Ngọc Thanh Cảnh, có thể khu dụng pháp bảo, là một trong những hài đồng khôn sớm nổi tiếng ở Thanh Vân Môn, cha mẹ yêu chiều, các vị sư huynh quan tâm thương mến. Tô Như cũng đã đem dải Hổ Phách Chu Lăng trứ danh của mình tặng cho con gái làm pháp bảo phòng thân.
“Sư tỷ thật là giỏi!” Trương Tiểu Phàm nghe tới đây, bất giác thốt lên cảm thán.
Tống Đại Nhân mỉm cười nói: “Không sai, tiểu sư muội rất thông minh, đối với việc tu chân lại có thiên phú, sư phụ sư nương truyền thụ điều gì, sư muội vừa nghe là nhớ liền, tư chất hơn hẳn bọn huynh, hiện nay chỉ vì thời gian tu đạo còn ngắn, hoả hầu chưa đủ, sau này có thêm thời gian, thành tựu của sư muội nhất định sẽ không thể tưởng tượng được, vượt xa bọn huynh. Chi phái Đại Trúc Phong phát dương quang đại hay không, là nhờ ở sư muội.”
Nói đoạn, trong ánh mắt y khấp khởi hi vọng, hiển nhiên là rất yêu mến tiểu sư muội kiều mỵ dễ thương này.
Tiếp theo, Tống Đại Nhân lại chỉ cho Trương Tiểu Phàm những điểm cần chú ý trong quá trình tu hành, sau đó nghiêm nghị bảo: “Tiểu sư đệ, cuối cùng có một chuyện, ta nhất định phải nói cho đệ hay: việc tu hành của bản môn quý là ở chỗ tuần tự nhi tiến, đi bước nào chắc bước đó. Nếu tham lam muốn vượt nhanh, chỉ e là lòng tham chưa được thoả mãn, đã phát sinh đại hoạ. Thành công hay thất bại là do số mệnh, không cần phải cưỡng cầu. Đối với yêu ma ngoại đạo, dị đoan tà thuật, ham muốn không được đáp ứng thì đều muốn tốc thành, cuối cùng quá nửa là bị trời phạt, bi thảm lắm. Đệ phải cần thận đấy.”
Trương Tiểu Phàm kinh hãi, vội đáp: “Vâng, đại sư huynh, đệ hiểu rồi.”
Tống Đại Nhân gật gật đầu, đứng dậy nói: “Hẵng như vậy đã! Thái Cực động đằng hậu sơn, chỉ có đệ tử đã tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo từ ba tầng trở lên mới được bước vào. Trước đó, đệ hãy tạm ở phòng riêng rèn luyện! Chỗ này cũng rất thanh tịnh, sư phụ sư nương ít khi lại, đệ hãy tự mình cố gắng nhé.”
Trương Tiểu Phàm đứng dậy đáp: “Đa tạ đại sư huynh.”
Tống Đại Nhân nhe răng cười, vỗ vỗ đầu nó, rồi quay mình bước đi.
Trương Tiểu Phàm tiễn Tống Đại Nhân xong, trở vào trong phòng, đóng kỹ cửa lại, lòng mừng không nói hết được, đến những mệt nhọc lúc chặt trúc hồi sáng cũng chẳng biết đã tan biến đi đằng nào.
Nó hô hấp thật sâu, rồi tĩnh tâm, chầm chậm trèo lên giường, theo đúng tư thế đả toạ mà Tống Đại Nhân vừa dạy, nhắm nghiền hai mắt, nhẩm lại một lượt từ đầu đến cuối nội dung tầng thứ nhất trong Ngọc Thanh Cảnh của Thái Cực Huyền Thanh Đạo mà Tống Đại Nhân vừa truyền thụ, đang lúc định theo đó tiến hành tu tập, thốt nhiên trong lòng chợt nhớ ra điều gì, hai mắt bừng mở, thất thanh la: “Không phải rồi!”
Những gì mà Tống Đại Nhân vừa dạy cho nó là pháp môn tu tập căn bản thô sơ nhất trong Thái Cực Huyền Thanh Đạo, công dụng chỉ nằm ở hai chữ: luyện khí. Người tu tập phải tĩnh toạ, mở rộng tâm niệm, khống chế những phiền não, dẫn linh khí của trời đất vào vần chuyển vòng tròn trong người, tiến tới cảm ngộ được thiên địa tạo hoá. Nếu có thể dẫn linh khí đó liên thông khắp ba mươi sáu huyệt đạo, thì kinh mạch trong mình sẽ vững vàng, có thể tu luyện lên cảnh giới cao hơn.
Pháp môn tu tập này vốn đã trải qua mấy ngàn năm được Đạo giáo gọt giũa, tuyệt không có điểm nào sai sót đáng ngờ cả, nhưng giờ đây trong lòng Trương Tiểu Phàm như có phong ba bão táp vần vũ không ngừng. Tất cả chỉ là vì những gì hôm nay nó nghe thấy trái ngược hoàn toàn với bộ khẩu quyết và phương thức tu hành mà Phổ Trí hoà thượng đã giảng cho nó ngày hôm đó.
Trong cái đêm trước khi xảy ra thảm án ở thôn Thảo Miếu, lúc Phổ Trí truyền khẩu quyết cho nó, đã dặn nó rõ ràng rằng, tu chân luyện khí nhất thiết phải tách hẳn mình khỏi mối liên hệ với ngoại giới, để ngộ ra tự tính, cái đó gọi là: chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ tập diệt đạo; vô trí diệc vô đắc. (Chú: lời trích từ “Bát Nhã Tâm Kinh (1)”) Cái đạo lý thâm thuý khô khan này, Trương Tiểu Phàm tức thời không thể lý giải cho minh bạch, nhưng nó nhận thấy rõ là hai loại pháp môn tu tập này căn bản hoàn toàn khác nhau, lòng dạ lúc ấy rối như tơ vò, không biết phải làm thế nào mới được.
Thực ra Trương Tiểu Phàm không hề biết, Thái Cực Huyền Thanh Đạo cố nhiên là diệu pháp vô thượng của Đạo gia, nhưng bộ khẩu quyết mà Phổ Trí dồn bao nhiêu ước nguyện to lớn, ký thác kỳ vọng cả một đời để truyền cho nó lại cũng là pháp đạo chí cao của Phật môn, gọi là Đại Phạm Bát Nhã.
Nói đến hai loại đại pháp, hai cách tu tập hoàn toàn khác nhau này, phải bắt đầu từ căn nguyên.
Phật môn và Đạo gia, lịch sử đều lâu đời, nhưng trước sau không hề đi lại với nhau, thuật tu chân lại khởi nguồn từ trào lưu tư tưởng của mỗi nhà. Chẳng hạn như Đạo gia, tôn chỉ của nó nằm ở một chữ Đạo, diễn tả ra là: đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, trung khí dĩ vi hoà. (Chú: lời trích từ́c Kinh thuộc “Đạo Đức Kinh”)
Đạo giáo khởi nguồn từ tư tưởng Đạo gia, đến ba cảnh giới của Thái Cực Huyền Thanh Đạo cũng là lấy từ Tam Thanh gồm Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh chỉ Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Đạo Đức Thiên Tôn trong thần thoại Đạo gia. Tu chân của Đạo giáo chú trọng đến thiên địa nhất tức (2), thân thể hoà với tự nhiên, dùng thân mình để chế ngự tự nhiên tạo hoá, biến ra đại uy lực.
Đối với Phật môn, tôn chỉ của nó lại nằm ở chỗ “Sự ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, nhất thiết vạn pháp, bất ly tự tính.” Lại nói: Hà kỳ tự tính, bản tự sinh diệt; Hà kỳ tự tính, bản tự cụ túc; Hà kỳ tự tính, bản vô động dao; Hà kỳ tự tính, năng sinh vạn pháp! (3) (Chú: lời trích từ “Đàn Kinh, Hành Do Phẩm Đệ Nhất”) Tu chân của Phật giáo chú trọng đến lĩnh hội tự thân, nhận ra ngũ uẩn (4) chính là đạo lý “có thể lấy bát nhã mà độ ra trí tuệ bốn phương tám hướng”. Tư tưởng đạo Phật khác hẳn, pháp môn tu tập tất nhiên cũng đi theo hướng ngược lại, chỉ có điều mấy nghìn năm nay nhà nào cũng giữ bí mật riêng, không để cho người ngoài biết. Giờ phút này thằng bé Trương Tiểu Phàm ở trên Đại Trúc Phong của Thanh Vân Môn, bị việc này làm cho đầu óc rối tinh rối beng.
“Rốt cục đằng nào là đúng đây?” Trương Tiểu Phàm nhảy xuống khỏi giường, đi đi lại lại trong phòng, nó thấy trong đầu ong ong, nghĩ ngợi lung tung, lại không dám hỏi ai, cuối cùng đành thờ thẫn ngồi ở mép giường, thở dài rồi im lìm lặng lẽ.
Nó vốn chẳng phải là đứa thông minh, con nhà nông dân, tuổi lại còn nhỏ, không có gì là hiểu biết quyết đoán, những việc lớn như thế này nó nghĩ tới nghĩ lui, mất bao nhiêu thời gian vẫn không hiểu ra được tại sao lại như thế. Cuối cùng, Trương Tiểu Phàm tự nhủ với mình: “Thôi, đằng nào lúc đầu Phổ Trí sư phụ cũng chẳng nhắc gì đến tình huống này, ta luyện cả hai thứ vậy, cũng thế cả.” Rồi không nghĩ ngợi nhiều nữa, trong lòng bỗng thấy thoải mái, lại trèo lên giường, đả toạ mặc tưởng, trước tiên luyện tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo.
Có điều nó nghĩ thì thấy dễ dàng, thực hành rồi mới thấy hoàn toàn là một cảnh khác hẳn. Luyện khí theo Thái Cực Huyền Thanh Đạo phải mở hết thất khiếu và các lỗ chân lông trên toàn bộ cơ thể, dẫn linh khí của trời đất nhập vào mình vận hành theo kinh mạch, việc luyện tập này sẽ củng cố nguyên khí thân thể và kinh mạch nội lạc; Đại Phạm Bát Nhã lại đòi hỏi phải nhập vào cảnh giới tịch diệt, phong bế ý tưởng và hành thức (4), để thân mình hoà vào với thế giới, tự mình ngộ ra mình, dùng chân nguyên thâm tâm để cố bản bồi nguyên.
Hai bộ pháp môn hoàn toàn tương phản, làm Trương Tiểu Phàm khổ không nói hết. Trong vòng ba tháng sau đó, ngoài việc mỗi ngày bất kể mưa gió lên núi chặt trúc, nó đều dụng tâm tu luyện hai bộ đại pháp môn này. Chỉ có điều nó luyện Thái Cực Huyền Thanh Đạo vừa mới được chút thành tựu, khổng khiếu toàn thân vừa mới mở ra, linh khí nhập thể, thì tiếp ngay sau, Đại Phạm Bát Nhã lại đóng mạnh tất cả các chỗ đó lại, nhập vào cõi tịch diệt, làm cho bao nhiêu nỗ lực lúc trước, hầu như đều đổ sông đổ bể cả.
Sau ba tháng, đột nhiên một hôm Điền Bất Dịch chợt nổi hứng, hỏi han tình hình tu đạo của Trương Tiểu Phàm, ai ngờ mỗi lần hỏi mỗi lần đáp, đều khiến lão tức gần chết.
Cứ theo lẽ thường mà xét, người bình thường tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo, với độ đơn giản của tầng thứ nhất, sau ba tháng đều phải có chút thành tựu, sơ bộ dẫn được linh khí trời đất nhập thể, vận hành được ba đến năm huyệt đạo.
Ai dè cái kém cỏi của Trương Tiểu Phàm thật là hiếm có. Tu luyện đã ba tháng tròn, mà đến khổng khiếu toàn thân cũng không thể khống chế như ý, dẫn linh khí nhập thể thì gượng gạo, nói gì đến việc vận hành vài huyệt đạo.
Điền Bất Dịch mở to mắt, bộ mặt giận dữ nhìn chằm chằm vào Trương Tiểu Phàm, chúng đệ tử bên cạnh đều có vẻ thông cảm, nhưng không dám nói gì, Tống Đại Nhân vốn cũng muốn đỡ hộ Trương Tiểu Phàm một hai câu, nhưng thấy sư đệ do mình dạy dỗ lại luyện tập đến cái mức như thế này, mặt mày mất hết thần sắc, thành ra không dám mở miệng nữa, còn Điền Linh Nhi thì cười hi hi đứng cạnh xem chuyện vui.
Trương Tiểu Phàm mặt đầy nỗi hổ thẹn, quỳ xuống trước Điền Bất Dịch, chẳng có chỗ nào để trốn tránh, trong lòng nghĩ bất luận sư phụ trách mắng thế nào, đều là phải lẽ cả. Ai ngờ đợi mãi một lúc lâu, sư huynh xung quanh không hé một tiếng, mà Điền Bất Dịch cũng chẳng thốt lời nào, nó lấy làm lạ, len lén ngửng đầu lên nhìn, thì thấy bộ mặt giận dữ của Điền Bất Dịch, không biết từ lúc nào đã biến ra bộ mặt thất vọng, thật ứng với câu nói: Đúng là chết cả cõi lòng! Điền Bất Dịch phất tay áo đứng dậy, lắc đầu, rồi lê cái thân hình béo lùn, chẳng nói chẳng rằng đi về phía hậu điện. Bọn đệ tử liếc nhìn nhau, chẳng hiểu thế là thế nào.
Tống Đại Nhân ở với Điền Bất Dịch lâu nhất, ngấm ngầm đoán biết được những suy nghĩ trong lòng lão ta, hiểu rằng sư phụ đang muốn rũ bỏ tiểu sư đệ này.
Ba tháng nay, Trương Tiểu Phàm ngoài việc tu hành và làm bài tập, những lúc rỗi rãi thì tíu ta tíu tít vui vẻ giúp đỡ người khác, tính tình rất thực thà, mọi người ai cũng quý. Sống trong núi tịch mịch, Điền Linh Nhi xưa nay vốn ngạo túng, đột nhiên ở đâu nảy ra một người bạn vui đùa xấp xỉ tuổi mình, tuy ngoài mặt luôn chỉ trích quát mắng, nhưng trong lòng cũng thấy mấy phần ưa thích.
Tống Đại Nhân chau mày, đi lên trước đỡ Trương Tiểu Phàm dậy, nói: “Tiểu sư đệ, sư phụ chỉ là giận dữ nhất thời thôi, không sao đâu. Chỉ cần đệ tu tập chăm chỉ hơn, sớm muộn gì cũng có lúc lão nhân gia người chấp nhận.”
Trương Tiểu Phàm hổ thẹn, gật đầu lia lịa, tự lúc ấy càng ra sức cố gắng.
Mỗi ngày từ sáng sớm nó cùng Điền Linh Nhi lên núi chặt trúc, đệ tử bình thường tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo sau ba tháng đã có thể chặt gãy được Hắc Tiết Trúc, Trương Tiểu Phàm thì đến hơn nửa năm mới chặt được cây trúc đầu tiên. Có điều mỗi ngày bất kể mưa gió, thân thể nó nhờ rèn luyện mà trở nên khoẻ mạnh, ít nhất lên núi cũng không đến nỗi thở hồng hộc như trâu.
Từ lần đó trở đi, Điền Bất Dịch chẳng nghe chẳng hỏi gì đến Trương Tiểu Phàm nữa, Tống Đại Nhân ban đầu còn xem xét tình hình tu tập của nó, có điều bao lâu trôi qua, tiến cảnh của Trương Tiểu Phàm vẫn chậm chạp đến nỗi không thể nào chậm chạp hơn, cuối cùng Tống Đại Nhân cũng chán nản, không buồn hỏi.
Trương Tiểu Phàm thì chẳng để ý đến chuyện đó, biết mình tư chất không tốt, tuy đôi lúc cũng nghĩ có khi hai loại pháp môn này không thể nào cùng nhau tu luyện đến nơi đến chốn được, nhưng mỗi lần nhắc tới chuyện này, nó đều nhớ lại khuôn mặt và giọng nói của Phổ Trí hoà thượng, trong lòng chợt bừng bừng, bèn kiên trì học tiếp. Tuy luyện tập theo kiểu này gian nan vô cùng, nhưng tính nó cứng cỏi quật cường, vẫn không hề buông xuôi. Nơi nó ở vắng vẻ yên tĩnh, ban ngày tu hành Thái Cực Huyền Thanh Đạo, đêm xuống lại luyện Đại Phạm Bát Nhã, thời gian dài lâu thấm thoắt trôi, chẳng mấy chốc đã ba năm.
Chính vào khoảng thời gian này, Trương Tiểu Phàm cũng lập được một kỷ lục tồi tệ nhất trong Thanh Vân Môn kể từ thời khai sáng: nó đã dùng đủ ba năm, tức là dùng gấp ba số thời gian cho một người bình thường, mới hoàn thành tầng thứ nhất trong Ngọc Thanh Cảnh của Thái Cực Huyền Thanh Đạo, tức là có thể tuỳ ý khống chế khổng khiếu toàn thân, dẫn linh khí trời đất nhập thể vận hành ba mươi sáu huyệt đạo. Nhưng điều mà mọi người không biết là đồng thời trong việc rèn tập Đại Phạm Bát Nhã, nó cũng đã mấp mé ở ngưỡng cửa khống chế nội khí, tạo được một căn cơ vững chắc.
Một buổi tối lúc ăn cơm, khi Trương Tiểu Phàm rụt rè thông báo với mọi người chuyện này, tất thảy đệ tử của Đại Trúc Phong đều há hốc miệng, như nhìn thấy một cây sắt ngàn năm nay nở hoa, rồi liền đó cùng phá lên cười rõ to, Tống Đại Nhân thì ôm lấy Trương Tiểu Phàm giờ đã lớn ra nhiều tung lên không trung, liên tiếp mấy lần liền, rất là vui sướng. Nhưng Điền Bất Dịch ngồi đầu bàn chỉ lạnh lùng nhìn, hừ một tiếng, rồi khẽ chửi: “Đầu đất!”
Trong ba năm đó, Trương Tiểu Phàm đã được mười bốn tuổi, vì mỗi ngày đều đi chặt trúc nên thân hình rất khoẻ mạnh, tuy ít hơn sư tỷ Điền Linh Nhi hai tuổi, nhưng lại cao hơn đến một cái đầu. Điền Linh Nhi thì từ một cô gái nhỏ mười ba tuổi, đã lớn lên thành một thiếu nữ mười sáu, dung mạo thêm diễm lệ, lúc nói cười trông vẻ càng thanh tú. Điền Linh Nhi xưa nay đều cảm thấy sáu vị sư huynh lớn hơn mình nhiều quá, lại bần thần không sức sống, nên thường thích ở cùng với gã sư đệ ngớ ngẩn ngốc nghếch, ba năm qua, tình cảm thân mật vô cùng. Xưa nay lúc nào Điền Linh Nhi cũng chiếm thế thượng phong, Trương Tiểu Phàm cảm thấy sư tỷ quả thật hơn mình quá nhiều, tuy ngày thường hay đùa nghịch chọc phá, nhưng thi thoảng mình bị sư huynh trêu ghẹo, sư tỷ lại là người đầu tiên đứng lên bênh vực, ủng hộ mình.
Trong núi tịch mịch, nhưng cũng thanh tịnh, Trương Tiểu Phàm đã hỏi Điền Bất Dịch và Tống Đại Nhân mấy lần về vụ thảm án thôn Thảo Miếu, nhưng chuyện đó đến nay chẳng còn tìm ra đầu mối, thời gian lâu dần, Trương Tiểu Phàm cũng lần lần bớt sốt sắng.
Sáng sớm hôm ấy, Trương Tiểu Phàm theo lệ thường cầm lấy con dao chặt củi, một thân một mình đi ra khỏi phòng, nhằm hướng hậu sơn mà bước. Điền Linh Nhi từ hai năm nay đã hoàn thành bài tập chặt trúc, không còn đi nữa, vì vậy Trương Tiểu Phàm thường lên núi một mình, có điều lúc nào rỗi, Điền Linh Nhi cũng chạy lên theo chơi đùa với Trương Tiểu Phàm.
Hôm nay Trương Tiểu Phàm chẳng thấy bóng Điền Linh Nhi đâu, nhưng cũng không để ý lắm, cứ thế đi lên núi, thêm một tháng nữa là có thể kết thúc bài tập chặt trúc. Bây giờ mỗi ngày hắn đã chặt được hai cây Hắc Tiết Trúc, nhưng vẫn còn kém xa Điền Linh Nhi, hồi đầu Điền Linh Nhi đã kết thúc rất nhanh, một ngày có thể chặt đến mười mấy cây.
Một tháng trước, cuối cùng hắn cũng đã tu xong tầng thứ nhất trong Ngọc Thanh Cảnh của Thái Cực Huyền Thanh Đạo, kế đó Tống Đại Nhân truyền thụ cho hắn yếu quyết của tầng thứ hai. Hắn tập được một tháng, tuy tầng thứ hai thâm ảo hơn tầng thứ nhất nhiều, nhưng chẳng hiểu tại sao, hắn ngấm ngầm cảm thấy còn dễ dàng hơn.
Chẳng hạn tầng thứ nhất cần khống chế khổng khiếu toàn thân, hắn luyện đủ ba năm mới có được chút thành tựu, nhưng tầng thứ hai yêu cầu “hoá khí vi tinh”, tức là biến linh khí trời đất dẫn nhập vào cơ thể thành tinh khí trong kinh mạch. Theo như đại sư huynh nói, bài này khó hơn tầng thứ nhất không chỉ mười lần, nhưng Trương Tiểu Phàm tự thấy là nhẹ nhàng vượt xa tưởng tượng.
Xét đến căn nguyên, chắc có liên quan với bộ “Đại Phạm Bát Nhã”, ba năm nay mỗi ngày hắn đều tu tập Đại Phạm Bát Nhã không hề gián đoạn, vận hành nội khí cũng đã hơi có hoả hầu, mà tinh khí thì thuộc nội khí, có căn bản ba năm rồi, tiến cảnh của Trương Tiểu Phàm thành ra cực nhanh.
Chỉ có điều hắn không tin lắm vào bản thân, lúc đầu người xung quanh luyện mất một năm thì hắn luyện mất ba năm, lần này chắc quá nửa là cảm giác sai rồi. Vì vậy hắn cũng chẳng để ý nữa, có điều mỗi ngày vẫn theo đúng giờ giấc tu tập, trước nay cũng chẳng có ai lai vãng làm phiền.
Chương 10: U Cốc
Trương Tiểu Phàm lên núi, đến chỗ cánh rừng trúc đã quen thuộc bấy nay, nhưng thấy màu xanh tươi tràn ngập, trùng trùng điệp điệp, gió núi lùa tới, rừng trúc xào xạc như sóng xô, vẻ rất lộng lẫy, trong lòng bỗng như mới mẻ..
Hắn hít thật sâu luồng không khí thanh tân, vận động thân thể một lát, rồi cầm con dao tiến vào rừng trúc. Chỗ hắn đến lúc này không phải là chỗ bắt đầu bài tập ba năm về trước nữa, mà ở tít mãi sâu trong rừng, nơi toàn trúc to, chất trúc cũng cứng rắn hơn nhiều.
Trong rừng, sương loãng ban sớm lờn vờn như sa mỏng, trên lá trúc xanh hai bên con đường nhỏ, móc đọng lóng lánh, đẹp long lanh.
Đi được một hồi, mình hắn chìm vào trong biển màu xanh lục, Hắc Tiết Trúc ở đây vươn cao sừng sững, lá cành rậm rạp xuyên thẳng lên trời, ánh sáng từ các khe kẽ rọi xuống, để lại từng mảng bóng sẫm trên mặt đất. Trương Tiểu Phàm nhìn trái nhìn phải, chọn một cây Hắc Tiết Trúc lớn, ước lượng một chút, rồi vung dao lên định chặt.
“Phụp”, thốt nhiên vang lên một tiếng động buồn ỉu, Trương Tiểu Phàm cảm thấy trước đầu đau nhói, ra là bị một vật đập đúng vào trán. Hắn cúi đầu xuống nhìn, trên đất đang lách tách một quả thông. Trước sau trái phải ở đây đều là Hắc Tiết Trúc, trúc non rất nhiều, nhưng tuyệt nhiên không có cây thông.
Hắn nghĩ một lát, khoé miệng lộ nét cười, rồi dòm khắp bốn phía, kêu lớn: “Sư tỷ, là tỷ phải không?”
Giọng hắn truyền đi mãi xa trong rừng trúc, vang dội nhưng chẳng có ai đáp lời. Trương Tiểu Phàm biết sư tỷ xưa nay nghịch ngợm thích lừa người ta, đang định kêu thêm lượt nữa, thốt nhiên trước đầu lại nhói lên, đau ơi là đau, ra là bị một quả thông nữa ném trúng, phía trên đỉnh đầu vẳng xuống tiếng kêu lanh lảnh “chí chí chí chí”.
Trương Tiểu Phàm nén đau ngẩng nhìn, thì thấy trên cây Hắc Tiết Trúc, có một con khỉ lông xám chẳng biết đã trèo lên ấy từ khi nào, tay nó nắm mấy quả thông, đuôi treo vào cành trúc, đang cười lảnh lót “chí chí chí chí”, bộ dạng hí hửng trông kẻ khác gặp nạn.
Trương Tiểu Phàm đờ người, ba năm nay hắn chưa từng nhìn thấy con khỉ nào trong rừng, trên Đại Trúc Phong hầu như toàn là trúc, mãi nơi hang động xa xôi phía bắc núi mới có một dải rừng hoang tùng bách, xem ra con khỉ này chính là sống ở đằng đó, hôm nay chẳng hiểu thế nào lại chạy lên đây.
Đại Trúc Phong vươn thẳng và hiểm trở, tuy không cao vượt chân mây như Thông Thiên Phong, nhưng cũng ngập Vân Hải, từ chân núi leo lên trên, hầu như không có đường lối, phần lớn đệ tử Thanh Vân Môn đều đằng không mà đi.
Trương Tiểu Phàm tu tập thô sơ, ngoài việc chặt trúc mỗi ngày ra, thường xuyên cũng nghe các sư huynh nói chuyện, trong thâm cốc ở hậu sơn Đại Trúc Phong loài tùng bách dại mọc thành rừng, thâm u khó lường, ít người lai vãng.
Năm xưa tổ sư của Đại Trúc Phong cũng đã từng có người chống kiếm đi vào thám thính thâm cốc, nhưng đó chỉ là rừng rậm nguyên thuỷ, chẳng có sự gì kỳ quái lạ lùng, thú dữ trùng độc tuy nhiều, nhưng cũng chẳng bao giờ ra khỏi cốc, vì vậy mấy năm lại đây tương đối bình an vô sự.
Hắn đang nghĩ ngợi, chợt thấy con khỉ giơ tay lên, hắn giật thót, vội vàng lách mình tránh, quả nhiên lại là một trái thông nữa ném xuống, nếu không né kịp, e lại dính vạ tiếp.
Con khỉ xám thấy hắn né ra, bèn kêu lanh lảnh hai tiếng, mặt mày giận dữ, tựa hồ trách Trương Tiểu Phàm không nên tránh đi vậy.
Trương Tiểu Phàm xông tới con khỉ làm bộ mặt hề, rồi không thèm để ý đến nó nữa dang ra bỏ đi, trong lòng nghĩ con khỉ này lấy việc chọi người ta làm vui, thật là ít thấy, đúng là súc sinh vô tri.
Hắn đi được hai bước, chợt nghe sau tai tiếng gió rít lên, tránh không kịp, rồi “phụp” một tiếng, sau ót lại bị quả thông cứng đập vào, lần này lực đạo không nhẹ, Trương Tiểu Phàm thấy mắt tối sầm, không kìm được kêu thốt lên.
Chỉ thấy con khỉ đó ngồi trên cành trúc vỗ tay cười to, lắc la lắc lư, rõ là vui thích. Trương Tiểu Phàm bừng bừng nổi giận, xông lại lay cây trúc thật mạnh, cây Hắc Tiết Trúc to thế bị hắn lay rùng rùng nghiêng ngả, nhưng con khỉ xám chỉ dùng đuôi quấn vào cành trúc, đu đưa người theo nhịp hắn lay, chẳng tỏ vẻ sợ hãi, lại còn cười “chí chí chí” không ngừng.
Trương Tiểu Phàm thấy không làm gì được con khỉ, trong lòng càng thêm tức giận, rút dao ra chặt mạnh vào cây trúc. Con khỉ cũng chẳng sợ sệt, cứ ở trên cây trúc nhìn hắn với vẻ thú vị.
Trương Tiểu Phàm chặt đến đầm đìa mồ hôi, khó khăn lắm mới chặt được bảy tám phần, đã thấy thành công trước mắt, chợt nghe trên cây tiếng kêu lanh lảnh, liền ngẩng đầu nhìn, thì thấy con khỉ xám lắc đuôi, tung mình bay lên, rồi nhảy sang một cây Hắc Tiết Trúc bên cạnh, sau đó kêu “đoành”, lại ném một quả thông xuống.
Trương Tiểu Phàm tức quá, cũng không thèm bận tâm xem nó có nghe hiểu không, chỉ tay quát lớn: “Mày có giỏi thì xuống đây!”
Con khỉ xám gãi gãi đầu, ngoẹo cổ nghĩ một lúc lâu, áng chừng không hiểu cái gì là giỏi hay không giỏi, nên chỉ há mồm cười to, làm mặt xấu với Trương Tiểu Phàm.
Trương Tiểu Phàm bị nó hành cho tức gần chết, nhưng chẳng biết làm thế nào, ngày hôm ấy mãi mới làm xong bài tập, nhưng bị nó ném bảy tám phát vào đầu, đau không chịu nổi.
Trương Tiểu Phàm tức cành hông, bực bội xuống núi, không đếm xỉa gì đến con khỉ nữa. Ai dè nó nghịch thành quen, mấy sáng liền đều đợi trong rừng, hễ thấy Trương Tiểu Phàm đi đến chặt trúc, là chọi hắn làm vui, rồi thích thú ngó bộ dạng nổi giận của hắn.
Trước bữa cơm tối ngày hôm ấy, Điền Linh Nhi kéo Trương Tiểu Phàm qua một bên, khe khẽ hỏi: “Tiểu Phàm, đầu đệ sao vậy?”
Trương Tiểu Phàm mấy ngày liền bị con khỉ bắt nạt, đầu bị chọi đến mức chỗ thì xanh chỗ thì tím, đau đớn không chịu nổi, chỉ có điều hắn cảm thấy bị một con khỉ chọc ghẹo là chuyện rất mất mặt, nên chẳng nói với ai, lúc này nghe sư tỷ hỏi, trù trừ một lát, rốt cục cũng kể hết ra.
Điền Linh Nhi bĩu đôi môi hồng, không nín được bật cười, hai má hiện ra đôi lúm đồng tiền xinh xinh, tú mỹ quá đỗi. Trương Tiểu Phàm bị cô ta cười, lại giống như mọi khi, mặt mày đỏ ựng lên, cúi đầu nhìn xuống.
Điền Linh Nhi vỗ bồm bộp vào vai Trương Tiểu Phàm bảo: “Yên tâm đi! Tiểu sư đệ, mấy ngày nay mẹ muốn ta năng vào Thái Cực Động tu tập, chuẩn bị cho kỳ Thật Mạch Hội Võ hai năm tới, chẳng ngờ để đệ bị một con khỉ bắt nạt. Đệ đừng lo, ngày mai ta đưa đệ lên núi, dạy cho nó một bài học.”
Giọng điệu của cô ta ra vẻ già dặn, lại có ý như là dỗ trẻ con, nhưng Trương Tiểu Phàm từ nhỏ nghe đã quen, chỉ cười mếu mà không để tâm đến.
Sáng hôm sau, Điền Linh Nhi quả nhiên thức dậy rất sớm, cùng Trương Tiểu Phàm thẳng đường lên hậu sơn.
Trong núi gió mát, thổi tới hiu hiu, Điền Linh Nhi mặc bộ đồ đỏ, y như bóng dáng buổi đầu cùng Trương Tiểu Phàm lên núi chặt trúc, thoăn thoắt bước đằng trước.
Trương Tiểu Phàm theo sau, thấy người thiếu nữ xinh đẹp như một dải mây hồng phiêu phất thong dong trên núi, thoảng trong làn gió, dường như có một phiến u hương nhè nhẹ thả đưa.
Trương Tiểu Phàm thốt bàng hoàng, chợt nhiên nảy sinh ước vọng là được đi mãi, đi mãi như thế này.
Trong lúc hắn nghĩ ngợi đến xuất thần, Điền Linh Nhi đã đi rõ xa, rồi ngoảnh đầu nhìn lại, gọi lớn: “Tiểu Phàm, đệ làm sao mà chậm chạp thế!”
Trương Tiểu Phàm giật mình thức tỉnh, khuôn mặt chợt hồng, không dám nghĩ nhiều nữa, vội vàng rảo bước lên..
Hai người đến trước rừng trúc, Điền Linh Nhi bảo Trương Tiểu Phàm: “Tiểu Phàm, đệ một mình vào trước, ta sẽ theo sau.”
Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, cầm con dao đi vào, mới được vài bước, thình lình nhớ ra là cần dặn dò Điền Linh Nhi phải cẩn thận, bèn xoay mình nhìn lại, đã không thấy bóng dáng cô ta đâu nữa.
Hắn đờ ra, lòng trào lên một nỗi buồn nản mơ hồ, rồi khẽ lúc lắc đầu, rũ bỏ những suy nghĩ vô liêu, hướng về phía sâu trong rừng trúc cất bước. Đến nơi, thấy khắp rừng là một dải tịch mịch. Trương Tiểu Phàm giương mắt ngó quanh nhưng không tìm thấy con khỉ xám đâu cả. Hắn lẩm bẩm: chắc là con khỉ đó có linh tính, biết rằng hôm nay hắn đưa trợ thủ đến, nên không dám lại nữa.
Hắn vừa nghĩ ngợi, vừa ngó nghiêng khắp bốn xung quanh, nhưng không thấy tung tích con khỉ, hoài công vô ích, đành đi đến bên một cây Hắc Tiết Trúc, chuẩn bị đốn chặt.
“Chí chí chí chí”, thình lình trên đỉnh đầu vang lên cái tiếng lanh lảnh quen thuộc.
Trương Tiểu Phàm lập tức nhảy ra như một phản xạ có điều kiện, nhưng đã thấy đầu đau nhói, thì ra lại không kịp nữa, bị một quả thông nện trúng, đau ơi là đau. Trương Tiểu Phàm ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy con khỉ đó treo ngược lên cành trúc như mọi khi, cười mãi không thôi.
Hắn mừng rỡ, nhảy cẫng lên chỉ vào con khỉ cười lớn: “Ha ha, rốt cục mày cũng đến rồi!”
Hắn nói không to, nhưng con khỉ lại giật mình đánh thót, bụng nghĩ người này ngày thường bị chọi luôn nhảy lên như đỉa, lửa giận cứ sùng sục, sao hôm nay lại vui vẻ như thế, lẽ nào bị ta chọi mấy ngày, đâm ra nghiện rồi, không được chọi không chịu nổi, bị chọi đau lại cao hứng đây?
Chính lúc đó, trong rừng trúc bỗng xẹt đến một cái bóng đỏ, Điền Linh Nhi đạp trên Hổ Phách Chu Lăng, đằng không lướt tới, nhanh như chớp giật, năm ngón tay vung trảo, tóm lấy con khỉ kia.
Ai ngờ con khỉ cực kỳ linh mẫn, mắt vừa liếc thấy là liền có phản ứng, cái đuôi đang quấn lấy cành cây lập tức lỏng ra, cả thân mình buông rơi xuống. Điền Linh Nhi đã tính kỹ cách vây chụp khắp các phương vị trước sau trái phải, nào ngờ con khỉ tự thả rơi, cô ta bất giác sững người, chụp trượt vào khoảng không.
Trương Tiểu Phàm ở dưới đất đang chuẩn bị hành động, thì lại thấy con khỉ nhẹ nhàng giơ cánh tay, níu lấy thân trúc bò lên, rồi dường như biết phía trên là cô gái áo đỏ lợi hại, nó chẳng chậm trễ, lập tức lắc lư nhảy từ cây trúc này sang cây khác rồi lại sang cây trúc khác nữa, ra ý tìm cách đào thoát.
Điền Linh Nhi sinh lòng hiếu thắng, hét vang từ trên cao: “Đuổi theo!” Co ta vẫy tay trái, Hổ Phách Chu Lăng phá không mà tiến, Trương Tiểu Phàm dưới mặt đất sải bước chạy.
Nếu ở trên đất trống, với tốc độ của Hổ Phách Chu Lăng, chưa đến một tích tắc là Điền Linh Nhi đã bắt được con khỉ xám, nhưng hôm nay lại là trong rừng trúc rậm rà, thành ra gặp vô số chướng ngại.
Con khỉ xám vô cùng thông minh, nó không chạy trốn theo đường thẳng, mà luồn trái quẹo phải trong khu rừng, vòng tới ngoặt lui, tháo chạy về phía trước. Điền Linh Nhi vừa phải chú ý tông tích con khỉ, vừa phải đề phòng những cây Hắc Tiết Trúc nhan nhản khắp nơi ào đến trước mặt, thật là phiền phức. Trương Tiểu Phàm thì chỉ có thể chạy dưới đất mà lo hão, không giúp được gì.
Hai người một con khỉ cứ đuổi chạy gấp gáp như thế, trong những tiếng “chi chí” lanh lảnh của con khỉ xám, cũng chẳng biết là trải qua bao lâu, Trương Tiểu Phàm hô hấp dần dần nặng nề, đã thấy mệt nhừ, có lẽ cũng chạy đuổi đến rất xa rồi.
Rừng trúc xanh tươi trước mặt dường như trải dài khôn cùng khôn tận, hết lớp này đến lớp khác ào tới trước mặt. Trương Tiểu Phàm lưỡi khô miệng khát, chợt thấy bóng con khỉ xám xẹt qua, rồi cứ tụt lại mãi. Hắn mừng rỡ, lập tức lấy lại tinh thần, một luồng sức mạnh trào lên, chợt trong tích tắc, Điền Linh Nhi phía trên cao la hoảng: “Cẩn thận!”
Trước mặt Trương Tiểu Phàm bỗng hiện ra một vách đá dựng đứng. Hắn vội vàng thu bước, mất đà ngã bổ chửng. Định thần lại được, hắn thấy dưới vách đá là một thâm cốc, tít xa trong cốc có sương dày mù mịt, chẳng nhìn rõ gì cả, trên sườn vách gần đó không có Hắc Tiết Trúc, mà là các loại cây cối hoang dại, phần lớn là tùng bách, thì ra bọn họ đã vô tình đuổi tới u cốc xa mãi phía sau núi.
Trương Tiểu Phàm trông thấy con khỉ xám rơi xuống dưới, giữa không trung lại giở ngón cũ ra, nắm vào các cành cây đưa đẩy thân mình, rồi theo đà nhảy xuống, tháo chạy về phía trước.
Hắn đang băn khoăn, chợt nghe tiếng gọi xé màn không vẳng tới, ngẩng đầu nhìn thì thấy Điền Linh Nhi tà áo đỏ phơ phất, đang lướt trên không, chìa cánh tay ngọc về phía hắn: “Lên đây nào.”
Trương Tiểu Phàm không kịp suy nghĩ nhiều, thò tay ra nắm lấy Điền Linh Nhi, Điền Linh Nhi dùng lực kéo, lôi hắn lên dải lụa đỏ, Hổ Phách Chu Lăng chợt trĩu xuống một chút, nhưng lập tức trở lại nguyên trạng.
Trương Tiểu Phàm lần đầu có trải nghiệm này, cứ luống ca luống cuống, Điền Linh Nhi đẩy hắn lại đằng sau, quát: “Ôm lấy eo lưng ta, mau.”
Trương Tiểu Phàm y lời ôm lấy, Điền Linh Nhi vội vã thúc tấm lụa bay, ánh đỏ lướt tới, hai người ngự trên Hổ Phách Chu Lăng, nhào thẳng xuống thâm cốc, đuổi theo bóng con khỉ xám kia.
Gió rít căm căm, Trương Tiểu Phàm chỉ nghe tiếng vù vù, hai mắt nhắm nghiền chẳng mở ra, dưới chân hắn, Hổ Phách Chu Lăng mềm mà không phải mềm, e sơ sẩy là có thể rớt ra ngoài, khiến người ta cứ thấp tha thấp thỏm. Hắn cảm thấy rất là sợ hãi, bất giác giữ chặt Điền Linh Nhi thêm một chút, chỉ thấy tà áo hồng như mây, phiêu phất trước mắt, bóng hình sư tỷ tựa như tiên nữ trên chín tầng trời, thanh lệ vô song, lại thêm làn u hương nhè nhẹ, phả vào khứu giác, trong lòng hắn ngập niềm vui sướng, khắc khoải mong sao giờ phút này đừng mãi trôi đi.
Điền Linh Nhi hơi sức nào tưởng đến những suy nghĩ kỳ cục của thằng bé đằng sau lưng, một lòng một dạ đều hướng về con khỉ xám đang ở trước mặt. Cô ta thường ngày được cha mẹ và các vị sư huynh yêu thương khen ngợi, tính tình rất cao ngạo, hôm nay đuổi không nổi một con khỉ, thì làm sao mà chịu đựng nổi.
Thế là trong thâm cốc, giữa những tàng cây, chỉ thấy bóng con khỉ xám đằng trước, bóng đỏ theo sát sau, quành tới quẹo lui, bay chạy vùn vụt.
Cứ thế chừng nửa canh giờ nữa, con khỉ xám đó chẳng biết là thứ dị chủng gì, hoàn toàn không tỏ ra mỏi mệt, vẫn chạy nhanh như cũ. Điền Linh Nhi thì đuổi bắt suốt quãng đường dài như vậy, đã dần quen với cách chạy xuyên qua rừng, thành ra càng đuổi càng thấy gần tới nơi.
Con khỉ chạy một mạch về mãi xa, Trương Tiểu Phàm từ sau lưng Điền Linh Nhi ngó lên, nom thấy cây cối trước mặt lần lần thưa đi, ánh sáng xuyên xuống, thấp thoáng đằng trước một dải đất trống, tựa hồ có tiếng nước chảy. Lúc này tiếng kêu lanh lảnh của con khỉ xám càng thêm gấp gáp, tựa như bất ngờ vì hai người này đuổi cả ngày trời mà không bỏ cuộc, nhưng nó chẳng có đường rút nữa, đành cố sống cố chết tháo chạy.
Chẳng bao lâu, trước mặt bỗng sáng oà, quả nhiên là một vùng đất trống bao la, trên đất đầy đá vụn, ở giữa có một cái đầm nhỏ biêng biếc, sóng gợn dập dềnh, dòng nước chảy về phía tây. Con khỉ xám lăng mình đến đây, tỏ ra lúng túng, nhưng sau lưng tiếng gió rít thoắt đã đến gần, nó bất đắc dĩ phải nhảy xuống đất, chạy bộ về đằng trước.
Nhưng không hiểu tại sao, bước chân nó bỗng dưng chậm rì, chẳng giống chạy trốn, mà cứ như là tản bộ. Có điều, nó vẫn đi về phía trước, dẫu chỉ là từng bước, từng bước.
Trương Tiểu Phàm nom thấy, trong lòng lấy làm lạ, nhưng Điền Linh Nhi vừa né tránh các chướng ngại, vừa chú ý theo dõi tung tích con khỉ, tất cả tư tưởng đều tập trung cao độ, chẳng chú ý nhiều đến thế. Trông thấy con nghỉ xám ngay trước mắt, cô ta mừng rỡ quá, quát lớn một tiếng, thúc Chu Lăng bay thẳng lên, xông đến giữa bãi đất trống, lao ập tới con khỉ xám nọ.
Đã thấy sắp bắt được con khỉ rồi, bỗng nhiên trong đầu Trương Tiểu Phàm nổ “rầm” một tiếng, thân mình chợt nhiên rung lắc lia lịa, một cảm giác váng vất nôn nao từ ngũ tạng trào lên, xông đến đỉnh đầu, trong phút chốc toàn thân hắn run lẩy bẩy.
Trương Tiểu Phàm thất kinh, đang không biết làm thế nào, thì vừa lúc ấy, ngực hắn đột ngột nóng ran, một luồng khí ấm áp tán phát toàn thân, bảo vệ tâm mạch, rồi đánh tan cái cảm giác nôn nao kia đi.
Trương Tiểu Phàm vô tình cúi nhìn xuống ngực, cảm thấy luồng khí nóng kia toả ra từ hạt châu tím sẫm mà Phổ Trí cho hắn ngày nào. Vừa lúc đó, Điền Linh Nhi phía trước thân hình cũng run rẩy, người chợt mềm oặt, rồi ngã nhào.
Hai người bọn họ đang ở giữa không trung. Vừa mất đi sự điều khiển của Điền Linh Nhi, Hổ Phách Chu Lăng liền dừng ngay lại, hai người lập tức rớt tòm xuống dưới.
Trương Tiểu Phàm lăn mấy vòng trên mặt đất, đau ơi là đau, nhưng hắn chẳng màng đến điều đó, còn chưa đứng vững đã hét toáng: “Sư tỷ, sư tỷ, tỷ không sao chứ?”
Chỉ thấy Điền Linh Nhi ngã lăn đằng trước, không hề động đậy, nét mặt trắng nhợt, mồ hôi lạnh toát ra đầy trán, đã ngất xỉu tự khi nào.
Trương Tiểu Phàm hoảng kinh thất sắc, đoán chừng quá nửa là có liên quan với cảm giác cổ quái vừa nãy, liền nén đau, bò dậy chạy tới bên mình Điền Linh Nhi, lay lay cô ta gọi thêm mấy tiếng, Điền Linh Nhi vẫn không có phản ứng gì.
Trương Tiểu Phàm ngoái nhìn bốn phía, thấy ở khu vực quanh cái đầm nước biếc này, trong vòng ba trượng, chẳng mọc đến một ngọn cỏ, nhưng ngoài ba trượng lại có cây cối um tùm. Hắn nghiến răng, trấn áp cảm giác váng vất không ngừng trào dậy trong đầu, cõng lấy Điền Linh Nhi, thu nhặt Hổ Phách Chu Lăng vứt rơi một bên, đi ra phía ngoài.
Với khoảng cách một hai trượng này, nếu là lúc bình thường nào khác thì chẳng đáng mấy bước chân, nhưng giữa lúc trong người nôn nao, đi đứng sao mà gian nan. Khó khăn lắm hắn mới ra khỏi ba trượng, đến dưới một cây thông lớn, cảm giác nôn nao kia quả nhiên lập tức tiêu tan không vết tích.
Trương Tiểu Phàm đặt Điền Linh Nhi xuống, hồng hộc thở dốc, nhìn về phía đầm nước biếc, hắn thấy con khỉ vốn đến đó từ nãy giờ đang đứng im, nét mặt đau đớn khôn cùng, hướng ra chỗ hắn, trong mắt đong đầy những lời cầu cứu.
Trương Tiểu Phàm chau mày, cuối cùng không nén được, bèn đứng lên đi vào trong. Mới có mấy bước, cảm giác nôn nao váng vất đó liền xuất hiện, rồi luồng khí ấm áp nơi ngực bỗng tràn dậy, chặn đứng nó lại.
Trương Tiểu Phàm chầm chậm đi đến bên mình con khỉ, đầu mặt đầm đìa mồ hôi, con khỉ thấy hắn đến gần, chẳng nhúc nhích được, xem ra đã bị nén đến nghẹn thở. Trương Tiểu Phàm hít hơi thật sâu, cúi xuống ôm con khỉ lên, quay mình bước ra ngoài. Con khỉ lúc này rất nghe lời, yên yên lặng lặng phục trong lòng hắn.
Khó khăn lắm mới bước nổi ra ngoài, đến bên mình Điền Linh Nhi vẫn đang hôn mê, cảm giác váng vất cũng theo đó tiêu tán. Trương Tiểu Phàm thả con khỉ, đặt mông ngồi xuống, thở hổn hển, con khỉ xám đó cũng thở phào, nằm lăn ra đất, mắt long lanh đưa đi đưa lại, nhưng không chạy trốn nữa, cứ chằm chằm nhìn Trương Tiểu Phàm.
Trương Tiểu Phàm cởi vạt áo, lấy hạt châu xỏ ở sợi dây đỏ ra ngắm nghía kỹ càng, chỉ thấy bề ngoài tím sẫm của nó đã biến thành tím nhạt, luồng khí xanh bên trong tựa hồ bị kích thích, xoáy lông lốc không ngừng với tốc độ nhanh gấp mười lần, va đập vào khắp phía bề mặt hạt châu.
Cũng như lúc trước, cứ mỗi lần luồng khí xanh chạm vào bề mặt, thì chữ “卍” của chân ngôn nhà Phật lại hiện lên ngăn chặn. Cảm giác ấm áp vừa giải cứu Trương Tiểu Phàm cũng chính là từ chân ngôn này toả ra.
Chỉ có điều Trương Tiểu Phàm nhận thấy rõ ràng, so với lần đầu hắn phát hiện ra hồi ba năm về trước, những chữ “卍” của chân ngôn nhà Phật này mỗi lần xuất hiện dù lớn hay nhỏ, thì độ long lanh cũng kém hơn khi xưa rất nhiều.