[Audio] Tru Tiên
Tập 1: Thanh vân Mê cục (c1-c5)
❮tiếp ❯Chương 1 : Thanh Vân
Dãy núi Thanh Vân nguy nga sừng sững, hùng cứ Trung Nguyên, phía bắc núi có một dòng sông lớn tên gọi Hồng Xuyên, phía nam là trấn quan trọng “Hà Dương Thành”, chẹn lấy chỗ hiểm yếu của thiên hạ, vị trí địa lý hết sức trọng yếu.
Núi Thanh Vân kéo dài liên tục trăm dặm, nhấp nhô trùng điệp, có bảy ngọn cao nhất, vươn ngập trong mây, ngày thường chỉ thấy mây trắng vờn quanh sườn núi, không nhìn được đỉnh ngọn. Núi Thanh Vân có rừng rậm rạp, có thác đổ, vách núi dị kỳ, chim quý thú lạ rất nhiều, cảnh quan âm u hiểm trở, nổi tiếng trong thiên hạ. Nhưng còn nổi tiếng hơn, lại là một môn phái tu chân trên núi này — Thanh Vân Môn.
Thanh Vân Môn có lịch sử rất lâu đời, từ khi sáng lập đến giờ đã hai ngàn năm có lẻ, đứng đầu trong hai phái chính tà hiện nay. Nghe nói tổ sư khai phái vốn là một thầy tướng trong giang hồ, nửa đời thất vọng, buồn bực bất đắc chí.
Năm 49 tuổi, ngao du khắp nơi, trên đường đi qua núi Thanh Vân, vừa nhìn đã nhận ra nơi đây có vẻ thiêng liêng kỳ tú, tụ được linh khí của trời đất, là một nơi tốt đẹp vào bậc nhất. Lập tức đăng sơn, ăn gió nằm sương, tu chân luyện đạo, chưa được bao lâu, lại tìm đuợc một quyển sách cổ không tựa đề trong một hang sâu bí mật, trên đó ghi chép những thuật pháp môn kỳ ảo, thâm thuý cao xa, mà lại diệu dụng vô cùng, uy lực cực lớn.
Thầy tướng nọ được mối kỳ ngộ này, dốc lòng tu tập. Thấm thoắt hai mươi năm, có chút tựu thành, bèn xuất núi. Trải qua mấy trận mưa gió giang hồ, tuy không thể độc bá thiên hạ, nhưng cũng trở thành người hùng một phương. Bèn ở trên núi Thanh Vân, khai tông lập phái, đặt tên “Thanh Vân”.
Vì nội dung trong quyển sách không có tựa đề kia rất gần với đạo gia, nên ông ta bèn phục trang đạo nhân, tự xưng hiệu Thanh Vân Tử, đệ tử đời sau tôn xưng là Thanh Vân Chân Nhân. Thanh Vân Tử thọ 167 tuổi, sinh thời thu nạp mười đệ tử, lúc lâm chung có dặn rằng: “Ta nửa đời đã học đến tận cùng về tướng thuật, tinh yếu nhất chính là tướng phong thủy. Núi Thanh Vân này là linh địa hiếm có trong nhân gian, phái Thanh Vân ta giữ ngọn núi này, về sau nhất định sẽ hưng thịnh, các ngươi quyết không thể bỏ được.
Nhớ lấy, nhớ lấy!” Lúc ấy mười đệ tử đều gật đầu, tin tưởng chắc chắn rồi, Thanh Vân Tử mới nhắm mắt tắt nghỉ. Không ngờ trong vòng một trăm năm sau đó, chẳng biết là có phải ý trời ghẹo người, hoặc căn bản là Thanh Vân Tử tướng thuật không tinh, Thanh Vân Môn không chỉ không phát triển, mà mỗi ngày một suy vi.
Trong mười đệ tử, có hai người chết sớm, bốn người bỏ mạng trong những cuộc huyết sát giang hồ, một người tàn phế, một người mất tích, chỉ truyền lại hai chi phái. Trải qua năm mươi năm, trong vòng một trăm dặm quanh núi Thanh Sơn đã xảy ra những thiên tai địa chấn chưa từng có, ngập lụt khủng khiếp, đất rung núi chuyển, tử thương vô số, lại dứt tuyệt đi một chi phái. Mà còn lại mỗi một người, nhưng tư chất có hạn, bản lĩnh thấp kém, vốn chẳng thể khôi phục được phong quang năm xưa của Thanh Vân Tử, lại còn vì duyên cớ quyển sách cổ kia, kích động kẻ thù bên ngoài đến tranh đoạt, mấy phen huyết chiến, nếu không phải là nhờ mấy pháp bảo lợi hại mà Thanh Vân Tử để lại, thì e rằng Thanh Vân Môn đã bị người ta diệt tận rồi.
Tình cảnh này kéo dài đúng bốn trăm năm, Thanh Vân Môn không hề khởi sắc, hầu như có thể dùng từ “ngắc ngoải” để hình dung. Đến phút cuối, thậm chí còn bị người bắt nạt đến tận cửa nhà, trong bảy ngọn núi cao của Thanh Vân, ngoài ngọn chính Thông Thiên Phong, sáu ngọn còn lại đều bị ngoại địch chiếm hết, trong đám ngoại địch đó còn có cường đạo hãn phỉ, lấy làm cứ điểm, cướp bóc bốn phương, hoành hành ngang ngược.
Những người không rõ nội tình phần lớn đều hiểu nhầm, cho rằng Thanh Vân Môn đã sa sút mất rồi, mặc dù đệ tử Thanh Vân giải thích rất nhiều, rằng cũng có lòng giết địch, hiềm nỗi lực bất tòng tâm, thật đáng thương. Đến nay nghĩ lại, lúc ấy quả thực là quãng thời gian cay đắng nhất của cả phái Thanh Vân. Mãi cho đến thời điểm một nghìn ba trăm năm trước, tình hình mới có thay đổi. Có lẽ là tướng thuật của Thanh Vân Tử rốt cục cũng hiển linh, hoặc là trời già mệt rồi, không muốn trêu cợt Thanh Vân Môn nữa, đến lúc ấy, trong đám truyền nhân đời thứ mười một của Thanh Vân Môn, lại xuất hiện một nhân vật tuyệt luân, kinh thế hãi tục đứng lên dẫn dắt – Thanh Diệp Đạo Nhân.
Thanh Diệp tục gia họ Diệp, vốn là một thư sinh nghèo khổ, thiên tư đĩnh ngộ hơn người, nhưng ứng thí rất nhiều lần mà không trúng, sau này cơ duyên xảo hợp, được Vô Phương Tử chưởng môn đời thứ mười của Thanh Vân Môn thu làm đệ tử, lúc ấy tuổi mới 22.
Sau khi Thanh Diệp nhập môn, chỉ qua một năm đã lĩnh hội quán thông hết thảy những kiếm thuật pháp đạo do Vô Phương Tử truyền cho, độc chiếm hàng đầu trong đám đệ tử. Lại qua một năm, đến Vô Phương Tử cũng chỉ có thể dựa vào sự tu hành thâm hậu mới cố gắng đánh được ngang tay với y. Vô Phương Tử vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, quyết định lấy quyển sách cổ mà tổ sư truyền lại đem cho Thanh Diệp tự tham tường tu tập.
Thanh Diệp bèn bế quan ở Huyễn Nguyệt Động đằng sau ngọn Thông Thiên Phong, lần bế quan này kéo dài mười ba năm. Nghe nói lúc y phá cửa thoát ra, là vào một đêm trăng tròn. Đêm ấy trăng lạnh treo cao, cả ngọn Thông Thiên Phong núi Thanh Vân sáng rực như ban ngày.
Thốt nhiên cuồng phong ập tới, đằng sau núi lại có tiếng hú ngân dài, vang động đến trăm dặm, ai nghe thấy không khỏi biến sắc. Sau, có ánh sáng tốt lành tím nhạt dâng lên ngập trời, một tiếng động cực lớn, Huyễn Nguyệt Động phủ rộng rãi sáng tỏ, Thanh Diệp râu tóc bạc hết, mặt điểm nụ cười, thân mình có thanh quang, chậm rãi bước ra, mọi người kinh ngạc, tưởng đã thành tiên. Sau đó, Thanh Diệp chính thức xuất gia, lấy họ Diệp của mình, thêm vào chữ Thanh trong Thanh Vân, lấy tên là Thanh Diệp.
Ngày hôm đó y cười bái biệt ân sư Vô Phương Tử, nói: “Sư tôn xin hãy đợi, đệ tử đi làm mấy việc, một ngày là sẽ quay về.” Mọi người không rõ ý tứ, một ngày đêm sau Thanh Diệp chống kiếm quay về, ngoại địch ở sáu ngọn của Thanh Vân đã bị mai phục chém sạch. Thanh Diệp Đạo Nhân đạo pháp thâm sâu, thủ đoạn tàn độc, một thời gian đã danh động thiên hạ, thanh thế của Thanh Vân Môn đại thịnh.
Lại qua một năm, Vô Phương Tử đem chức vị chưởng môn truyền cho Thanh Diệp, còn mình thì chay tịnh thanh tu, không lý đến những chuyện lặt vặt trong môn nữa. Thanh Diệp chấp chưởng rồi, dốc sức vì môn phái, hết lòng trợ giúp đồng môn, nghiêm khắc tuyển chọn truyền nhân, lại nhờ những điều đã lĩnh hội được từ quyển sách cổ, có được cái uy quỷ thần vô lượng.
Thanh Vân Môn từ đó ngày một tăng tiến, trong vòng 50 năm, đã trở thành trụ cột trong chính đạo, thêm hai trăm năm sau, đã trở lành lãnh tụ của các môn các phái chính đạo. Thanh Diệp Chân Nhân thọ đến 550 tuổi, cả đời thu nạp đồ đệ rất nghiêm khắc, chỉ truyền thụ cho có bảy người, chia bảy ngọn núi cho họ, lệnh cho thất chi phái cùng nhau truyền hương hoả.
Trong đó trưởng môn ngụ ở ngọn chính Thông Thiên Phong, là chi phái trọng tâm. Cho đến nay, đệ tử của Thanh Vân Môn đã gần một nghìn người, cao thủ như mây, thanh uy hiển hách, cùng với Thiên Âm Tự, Phần Hương Cốc tề danh tam đại môn phái. Chưởng môn Đạo Huyền Chân Nhân, công tham tạo hoá, siêu phàm nhập thánh, là một nhân vật tuyệt thế bậc nhất đương thời.
Dưới chân núi Thanh Vân, ở phía Tây Bắc cách Hà Dương Thành chừng 50 dặm, có một thôn nhỏ tên là Thảo Miếu. Thôn này có hơn bốn mươi hộ dân, tính tình thuần phác, dân cư phần lớn sinh sống bằng cách lên núi đánh củi bán cho Thanh Vân Môn đổi lấy ngân lượng. Ngày thường thôn dân thường thấy đệ tử Thanh Vân Môn đi tới đi lui, phần nhiều thần kỳ, đối với Thanh Vân Môn rất là sùng bái, coi như tiên gia đắc đạo.
Mà Thanh Vân Môn từ xưa đến nay thường chiếu cố dân chúng quanh vùng, với thôn dân ở đây cư xử cũng không tệ. Hôm ấy, trời âm u, mây đen trĩu thấp, khiến người ta có cảm giác nặng nề nghẹn thở. Từ thôn Thảo Miếu nhìn ra, núi Thanh Vân sừng sững xuyên thẳng lên trời, ngọn cao vách cheo leo, âm thầm dữ tợn.
Chỉ có điều, thôn dân đời đời ở đây, cảnh tượng ấy đã nhìn quen không biết bao nhiêu lần, nên cũng không để ý, còn bọn trẻ nhỏ chưa biết gì thì càng không phải nói. ** * “Xú tiểu tử, mi chạy đi đâu đó?” Một tiếng la mắng, kèm theo là mấy hồi cười cợt, phát ra từ miệng một đứa trẻ lơn lớn.
Nó lối 12, 13 tuổi, mi thanh mục túc, dẫn theo chừng bốn, năm đứa bé con cả trai cả gái, đuổi theo một thằng nhỏ khác chạy phía trước. Thằng nhỏ ấy nom bé hơn nó chừng hai tuổi, người thâm thấp, mặt mũi hớn ha hớn hở, đang dốc sức chạy đi, vừa chạy vừa ngoảnh đầu lại nhăn mặt trêu. “Trương Tiểu Phàm, mi muốn tốt thì đứng lại!” đứa trẻ chạy theo cao giọng gọi.
Thằng nhỏ chạy trước, tên gọi Trương Tiểu Phàm “xì” một tiếng, vừa chạy vừa kêu: “Mi làm như ta là đồ ngốc vậy!” Nói đoạn lại còn chạy nhanh hơn. Trên đường đuổi bắt, mấy đứa trẻ càng lúc càng chạy gần đến toà miếu cỏ vừa cũ vừa nát ở phía đông thôn.
Từ ngoài nhìn vào, toà miếu cỏ này rách nát không thể chịu được, chẳng biết là đã trải qua gió mưa mấy kiếp. Trương Tiểu Phàm chạy đầu tiên xông tọt vào, ai ngờ không chú ý, lại vấp phải ván cửa, tòm một cái, ngã lộn nhào.
Mấy đứa trẻ đằng sau mừng rỡ, nhao nhao lao lại, đè lên mình thằng nhỏ, đứa bé mi thanh mục tú kia vẻ mặt đắc ý, cười bảo: “Bị ta bắt được rồi! Lần này mi chẳng có gì để nói nữa, phải không nào?” Ai ngờ Trương Tiểu Phàm đảo mắt kỳ dị, nói: “Không tính không tính, mi ám toán ta, tính làm sao được?” Đứa trẻ kia ngạc nhiên, lạ lùng bảo: “Ta ám toán mi lúc nào?” Trương Tiểu Phàm đáp: “Giỏi lắm Lâm Kinh Vũ, mi dám nói cái ván cửa này không phải là mi đặt ở đây ư?” Đứa trẻ tên gọi Lâm Kinh Vũ kia hét to: “Đời nào có chuyện ấy!” Trương Tiểu Phàm chúm miệng, nghiêng đầu, có vẻ nhất định không đầu hàng, không khuất phục. Lâm Kinh Vũ tức khí bốc lên đầu, một tay chẹn lấy cổ nó, giận dữ bảo: “Nói rồi bắt được là phải nhận thua, mi phục hay không phục?” Trương Tiểu Phàm chẳng hề lý đến.
Lâm Kinh Vũ sắc mặt đỏ bừng, vận sức vào tay, hét lớn: “Phục hay không phục?” Khí quản của Trương Tiểu Phàm bị nó bóp chặt, hô hấp dần dần khó khăn, sắc mặt bắt đầu bầm lên, nhưng nó tuổi tuy nhỏ, tính khí lại rất quật cường, cứng cỏi không hề kêu một tiếng.
Lâm Kinh Vũ thì càng lúc càng giận, lực ở tay càng lúc càng lớn, miệng thì cứ lặp đi lặp lại: “Phục hay không phục? Phục hay không phục? Phục hay không phục?!” Lúc ấy bọn trẻ kia thấy cũng không đúng, bèn lặng lẽ co rúm lại với nhau, chỉ còn trơ hai đứa bé non dại, vì tranh cãi, rồi do cái tính quá khích của đôi bên, đều cứ gan lì mãi.
Có vẻ một trường đại hoạ sắp xảy ra, thốt nghe góc sâu trong miếu cỏ niệm phật hiệu, rồi có người nói: “A di đà phật, mau mau dừng tay.” Một nắm tay khô xác, xé qua làn không lao đến, thò ra hai ngón, búng vào hai tay Lâm Kinh Vũ. Lâm Kinh Vũ như bị giật, toàn thân chấn động, hai tay tự nhiên lỏng ra. Trương Tiểu Phàm há miệng nghẹn ngào, rõ là bị bí thở lâu quá. Hai đứa nó đờ ra tại chỗ, định thần lại được, nhớ ra tình cảnh vừa rồi, liền nhìn nhau.
Lâm Kinh Vũ đờ đẫn bảo: “Tiểu Phàm, xin lỗi nhe. Ta cũng không biết làm sao mà…” Trương Tiểu Phàm lắc lắc đầu, hơi thở dần dần điều hoà, nói: “Không sao. Ồ, lão là ai?” Bọn trẻ nhìn theo ánh mắt nó, thì thấy trong miếu, có một hoà thượng già đứng đó, trên mặt nếp nhăn chi chít, khoác một tấm cà sa rách mướp, cả người từ trên xuống dưới bẩn thỉu nhem nhuốc. Chỉ có chuỗi tràng hạt bích ngọc đang cầm trong tay là óng ánh loá mắt, chiếu ra những tia sáng xanh nhạt. Điều kỳ lạ là, trong chuỗi tràng hạt bích ngọc mười mấy viên chằn chặn, chiếu sáng lấp lánh thì lại lẫn vào một viên đá chẳng ra đá ngọc chẳng ra ngọc, màu tím sẫm, ảm đạm vô quang.
Chương 2 : Mê Cục
Lão tăng đó không đáp, chỉ dùng ánh mắt quan sát kỹ càng người ngợm hai đứa trẻ, không nén được bèn liếc nhìn Lâm Kinh Vũ lần nữa, thầm nhủ: “Tư chất tốt, chỉ có điều tính khí sao mà lại quá khích làm vậy?” Lúc này Trương Tiểu Phàm bước lên một bước, nói: “Ê, lão là ai vậy? Làm sao mà chưa từng thấy lão nhỉ?” Thôn Thảo Miếu ở gần Thanh Vân Môn, ở đây Đạo giáo là chính, ít thấy có Phật gia đệ tử, cho nên Trương Tiểu Phàm mới hỏi như vậy.
Lão tăng liếc nó, khoé miệng lộ ra một vệt cười, hỏi ngược lại: “Tiểu thí chủ, vừa rồi tính mạng sắp nguy, ngươi chỉ cần nhận thua một câu là xong rồi, tại sao khăng khăng một mực như vậy? Nếu không phải có lão nạp ra tay, chỉ e ngươi đã chết toi rồi!” Trương Tiểu Phàm ngây người, trong bụng cảm thấy điều lão hoà thượng nói chẳng phải là không có lý, chỉ có điều đối với việc đã xảy ra, nó không nói ra được là sao lại như thế.
Lâm Kinh Vũ trợn mắt nhìn lão tăng, kéo tay Trương Tiểu Phàm bảo: “Tiểu Phàm, lão hoà thượng này kỳ quái lạ lùng, chúng ta đừng để ý đến lão nữa.” Nói đoạn bèn kéo nó đi ra ngoài. Mấy đứa trẻ cũng theo gót đi ra, rõ ràng xưa nay toàn làm theo lời Lâm Kinh Vũ. Trương Tiểu Phàm cất bước một cách vô thức, đi mãi một đoạn, khi ra đến cửa miếu rồi, nó không nén được mới quay đầu nhìn lại bên trong, trời đã tối dần, chỉ thấy lờ mờ lão hoà thượng vẫn đứng đó, nhưng chẳng trông rõ nét mặt nữa rồi.
Đêm khuya. Một tiếng sấm động, gió cuốn mây tàn, bên trời mây đen cuộn lên ngùn ngụt. Mưa gió sắp tới, một cơn càn quét.
Lão tăng vẫn ở trong miếu cỏ, đả toạ trên mặt đất. Lão ngước mắt nhìn, núi Thanh Vân đằng xa chỉ còn là một vệt mông lung. Trận giông mới lớn làm sao! Một lằn chớp rạch ngang thinh không, loé lên ngôi miếu cỏ nhỏ nhoi trơ trọi trong gió, lúc ấy lão tăng đã ra đứng ở cửa, nét mặt nghiêm trang, ngước mắt nhìn trời, cặp lông mày cau rúm lại. Trong cái thôn phía tây, không biết tự lúc nào đã đùn lên một đám khí đen, đậm đặc như mực, cuồn cuộn không ngừng.
Lão tăng đứng ở miếu cỏ, nhìn trừng trừng vào đám khí đen đó. Thốt nhiên, đám khí đen đó cuộn lại, lượn vòng lên, trườn thẳng ra phía ngoài thôn, hướng về phía ngôi miếu cỏ nhỏ. Tốc độ của nó cực nhanh, chớp mắt đã tới nơi. Cặp mắt sắc của lão tăng liếc thấy trong đó kẹp một đứa nhỏ, chính là Lâm Kinh Vũ đã gặp hồi ban ngày. Nét mặt lão chùng xuống, không chần chừ, cũng không nhìn thấy động tác thế nào, thân hình khô đét chớp một cái đã vọt lên, xuyên thẳng vào trong đám khí đen. Trong vùng ảm đạm không gọi được tên, truyền đến một tiếng kêu khẽ kinh ngạc: “Í?”
Mấy tiếng rên thảm, đám khí đen vụt ngừng lại, xoay vòng ngay trên miếu cỏ không đi. Lão tăng kẹp Lâm Kinh Vũ bên sườn, chầm chậm hạ xuống, nhưng tấm cà sa đã bị xé một miếng sau lưng. Dưới ánh một tia sáng yếu ớt loé lên, chỉ thấy Lâm Kinh Vũ hai mắt nhắm nghiền, hô hấp bình ổn, chỉ không biết là ngủ hay là đã ngất đi.
Lão tăng không đặt nó xuống, ngẩng đầu nhìn đám khí đen trong không trung, nói: “Các hạ đạo pháp cao thâm, tại sao lại ra tay với một đứa trẻ chưa biết gì, e rằng mất tư cách quá?” Từ trong đám khí đen truyền lại một âm thanh khàn khàn: “Ngươi là ai vậy, dám chõ mũi vào việc của ta?” Lão tăng không đáp, mà nói: “Nơi này là chân núi Thanh Vân, nếu Thanh Vân Môn biết các hạ ở đây làm những điều càn rỡ, e rằng sau này các hạ không dễ xoay xở đâu.” Kẻ kia “phì” một tiếng, ngữ điệu khinh thường: “Thanh Vân Môn là cái thá gì, chỉ cậy đông người mà thôi.
Lão lừa trọc khỏi nhiều lời nữa, biết điều thì mau mau giao thằng nhỏ đó cho ta.” Lão tăng chắp tay đáp: “A di đà phật, người xuất gia phải giữ lòng từ bi, lão nạp tuyệt không thể giương mắt nhìn đứa nhỏ này bị hại dưới độc thủ của ngươi.” Kẻ kia giận dữ: “Giỏi cho lão tặc trọc đầu, ngươi tự tìm lấy cái chết đấy.” Cùng với câu nói, từ trong đám khí đen vốn vẫn xoay tròn từ nãy tới giờ, một đạo dị quang đỏ sậm loé ra, ụp xuống xung quanh ngôi miếu cỏ nhỏ nhoi, âm phong l-ồ-n-g lộng, quỷ khí ngập tràn. “Độc Huyết Phiên!” Lão tăng nét mặt đột nhiên tức giận: “Nghiệt chướng, ngươi lại dám tu luyện cái loại tà vật táng tận lương tâm, hoạ hại nhân gian này à, hôm nay quyết không tha cho ngươi.” Giọng khàn khàn đó bật lên tiếng cười lạnh lẽo, không đáp một lời, chỉ nghe thấy một tiếng hú u u, ánh sáng đỏ sậm ngập ngụa, luồng khí tanh thối tràn đầy, một tấm phướn đỏ dài hai trượng từ giữa trời chầm chậm căng lên. Lúc ấy, tiếng quỷ khóc vẳng lên thê thảm, tựa như có vô số hồn ma bóng khế rên rỉ trong đêm, trong ấy còn âm ỷ có tiếng xương khô lách cách, nghe mà kinh hoàng.
“Lão tặc trọc đầu, chết này!” Người trong đám khí đen kêu lên một tiếng, chỉ thấy từ trên tấm phướn màu máu đó, đột nhiên thò ra một cái mặt quỷ nanh ác, có ba góc bốn con mắt, răng nhọn nanh dài, tiếng xương cốt va loạn “cộp, cộp, cộp, cộp”, bốn con mắt trên cái mặt quỷ thình lình mở choàng, rống lên một tiếng, hoá thành một thực thể, từ trên tấm phướn xông ra, mang theo một mùi máu tanh xộc, lao vào lão tăng.
Lão tăng sắc mặt càng giận dữ, biết Độc Huyết Phiên uy lực cực lớn, trong khi tu luyện hẳn đã hại chết rất nhiều người vô tội. Muốn luyện thành uy lực như thế này, chắc là đã thu hết tinh huyết của trên ba trăm người. Kẻ tà ác này thật là táng tận lương tâm! Thấy con quỷ kia sắp ập xuống trước mắt, lão tăng vẫn không buông đứa nhỏ Lâm Kinh Vũ cắp bên sườn, chỉ dùng tay trái đang nắm tràng hạt bích ngọc, vạch lên trước mặt một vòng tròn, đơn thủ nắm thành dấu hiệu sư tử Phật môn, đầu ngón tay âm thầm phát xuất kim quang, nháy mắt đã dựng lên trước mặt một bánh xe thần sắc vàng, kim quang huy hoàng, cùng con quỷ kình chống nhau giữa không trung.
“Cái trò vặt này, cũng mang ra khoe…” chưa kịp thốt nốt từ “khoang”, đột nhiên toàn thân lão chấn động, chỉ thấy bên tay phải, ở chỗ vẫn ôm đứa nhỏ Lâm Kinh Vũ, cổ tay bị dị vật ngoạm vào một miếng, một cảm giác tê ngứa lập tức chạy dọc nửa mình, trước mắt tối sầm, bánh xe thần lập tức lung lay sắp đổ.
Chính vào lúc ấy, ở trước mặt con quỷ kia lại biến hoá kỳ dị, trên trán chính giữa bốn con mắt bên trái bên phải, “cộp, cộp” hai tiếng, lại mở ra một con mắt cực to đỏ máu, luồng gió tanh tưởi nổi lên, uy thế càng nặng trĩu, chỉ nghe một tiếng quỷ gào, ánh sáng đỏ sậm màu máu nhấp nháy, con quỷ đánh nát vụn cái bánh xe thần sắc vàng, giáng mạnh vào ngực lão tăng.
Cả thân hình lão tăng bị giáng mạnh đến mức bay vọt lại đằng sau, Lâm Kinh Vũ bên sườn bị tuột xuống đất, trên đường mấy tiếng buồn thảm rên rỉ, tựa như xương cốt đã gãy hết rồi. Chỉ thoáng chốc, tấm thân khô đét của lão bị bắn chặt lên tường miếu, “bùng” một tiếng, bụi đất mù mịt, cả bức tường đều sập xuống. “Ha ha ha ha ha…” người trong đám khí đen cười lên một tràng cuồng loạn, đắc ý vô cùng.
Lão tăng lẩy bẩy đứng dậy, cổ họng mằn mặn, không nhịn được phún ra một ngụm máu nóng, nhuộm đỏ cả vạt trước tấm cà sa. Lão thấy mắt nổ đom đóm, toàn thân đau đớn, mà cảm giác tê ngứa càng lúc càng thấm dần vào tim. Lão gắng gượng trấn định tâm thần, liếc nhìn dưới đất Lâm Kinh Vũ vẫn đang hôn mê, lại thấy trong ngực áo của nó, dần dần thò ra một con rết sặc sỡ, to như bàn tay, lạ nhất là phần chót nó xoè ra bảy tua, nhìn cứ như là bảy cái đuôi. Mà mỗi cái một màu khác nhau, rực rỡ đẹp đẽ, có điều trong sự đẹp đẽ đó lại chứa tới mấy phần ghê sợ.
“Rết bảy đuôi!” Lão tăng thốt lên, nghe như một tiếng rên rỉ. Trên mặt lão đám khí đen càng lúc càng trĩu nặng, khoé miệng không ngừng ứa máu tươi, xem ra khó có thể gắng gượng được nữa, nhưng vẫn gồng mình không chịu ngã xuống. Lão nhìn đám khí đen giữa trời, nói: “Ngươi đem cái vật kỳ độc trên đời này nhồi vào người thằng bé, lại cố ý ẩn tàng thực lực, chờ đúng cơ hội là đả thương ta, ngươi nhằm vào ta phải không?” Người trong đám khí đen cười lạnh “Ha ha”, nói: “Không sai, ta chính là nhằm vào con lừa trọc Phổ Trí ngươi.
Nếu không làm như vậy, thật không dễ đối phó với một thân tu hành cửa phật Thiên Âm Tự của ngươi. Được rồi, hãy mau mau giao Phệ Huyết Châu ra đây, ta sẽ đưa giải dược của rết bảy đuôi, tha chết cho ngươi!” Phổ Trí cười thảm một tiếng, đáp: “Uổng cho chữ Trí trong cái tên của ta, chẳng ngờ ngươi lại luyện được tà vật Độc Huyết Phiên, há lại không mưu tham chiếm đoạt Phệ Huyết Châu.” Lão nghiêm sắc mặt, quả quyết nói: “Đòi ta đem cái vật chí hung trong thế gian này cho ngươi ư, đừng vọng tưởng nữa.”
Người trong đám khí đen nổi giận: “Thế thì ngươi hãy đi gặp Phật tổ ngươi đi!” Một lằn sáng đỏ chớp lên, Độc Huyết Phiên trương gió, tiếng quỷ khóc rộ, rồi con quỷ to vật đó lại hiện ra, khẽ xoay trong không trung, xông vào Phổ Trí một lần nữa. Phổ Trí hét to, y bào toàn thân không có gió mà căng phồng lên, thân hình vốn gầy nhỏ dường như lớn lên rất nhiều.
Phổ Trí lật tay, nắm viên tràng hạt tím sẫm vào trong, hai tay trái phải kết thành hình thủy bình, cặp mắt trợn tròn, cả thân hình trên dưới chỗ nào cũng ẩn chứa kim quang, niệm lần lần từng từ: “Án, Ma, Ni, Bát, Di, Hồng!” (Xem chú thích 1: Sáu chữ Đại Minh Đà La Ni) Người trong đám khí đen lập tức tỏ vẻ chú trọng thêm mấy phần. Phổ Trí vừa thốt xong chữ “Hồng”, lập tức cả tràng hạt bích ngọc cùng phát ra ánh sáng rực rỡ. Cùng lúc ấy, con quỷ của kẻ tà ác kia cũng đã xông đến trước mặt, mùi máu tanh xộc tới, nhưng vừa chạm vào ánh bích ngọc xanh nhạt, lập tức hoá thành vô hình, không tiến lên được nữa, cứ lửng khửng giữa trời.
Tuy vậy, thân hình Phổ Trí cũng lại trúng một cơn run rẩy, con rết bảy đuôi là vật tuyệt độc trong thiên hạ, lão đã tu hành đến mấy trăm năm, vẫn còn khó chống đỡ. Chỉ có điều trên khuôn mặt vẫn lởn vởn đám khí đen của lão, lại lộ ra một nét cười, kèm theo nét run run.. “Oác!” Phổ Trí thét lớn, như sư tử hống, tiếng động bốn bề, tràng hạt bích ngọc trước ngực thụ được phật lực, ánh sáng càng rực rỡ, thốt nhiên một viên vỡ rốp , hoá ra trong không trung một chữ Phật , đánh thẳng vào mặt con quỷ. “Ôi…chà!” Con quỷ hét lên thảm thiết, bật lui lại mấy bước, ánh đỏ toàn thân vụt xẹp đi, rõ ràng là đã trúng thương.
Người trong đám khí đen giận dữ la: “Giỏi cho lão lừa trốc!” Hắn còn đang chuẩn bị động thủ, có điều nói thì chậm mà diễn biến thì quá nhanh, trong phút chốc bảy tám hạt châu đều hoá ra chân ngôn nhà Phật đánh trúng con quỷ. Con quỷ kêu la không ngớt, liên tục né tránh, dáng điệu rất sợ hãi, khi bị hạt bích ngọc thứ chín đánh trúng, nó gào lên một tràng dài, năm con mắt nhất tề vỡ toé, xương cốt lục cục, rầm một tiếng ngã vật ra đất, quằn quại thêm một lúc thì cứng đờ bất động, dần dần hoá ra vũng máu, tanh thối kinh khủng.
Cùng lúc đó, Phổ Trí “ộc” một tiếng, lại phun ra một ngụm máu lớn, máu đã ngả màu đen xạm. “A!” một tiếng lanh lảnh truyền vào từ cửa miếu cỏ, giữa lúc hai đại cao nhân đang hồi đấu phép căng thẳng. Phổ Trí và người trong đám khí đen kia đều thất kinh, làn khí đen trên trời rùng chuyển, Phổ Trí cũng nhìn theo về phía cửa miếu, trông thấy trong ánh sáng bên ngoài, thằng nhỏ Trương Tiểu Phàm không biết vì sao lại tới trước miếu cỏ, đứng ở cửa, mắt trơ miệng há đứng xem cảnh tượng kỳ dị này trong miếu.
Người trong đám khí đen lạnh lẽo “hừ” một tiếng, cũng không nhìn thấy động tác của hắn ra sao, chỉ thấy con rết bảy đuôi vẫn bò trên mình Lâm Kinh Vũ đột nhiên quẫy đuôi, chớp một cái, bay vù đến Trương Tiểu Phàm. Phổ Trí dựng ngược cặp lông mày, tay phải chỉ ra, một viên bích ngọc bắn ngay đến. Con rết bảy đuôi lại như là thông linh, biết rõ lợi hại, không dám chống đỡ, quẫy đuôi một cái, rồi bật thẳng lên như cái cánh, lặn vào trong đám khí đen, không thấy tăm tích gì nữa.
Người trong đám khí đen u ám bảo: “Hừ hừ, quả không thẹn là Tứ đại thần tăng của Thiên Âm Tự, trọng thương như vậy, vẫn có thể phá được Độc Huyết Thi Vương của ta, nhưng ngươi bị Thi Vương tấn công, lại trúng độc của rết bảy đuôi, còn gắng gượng được bao lâu nữa? Hay là ngoan ngoãn đem giao Phệ Huyết Châu ra đây cho ta!” Phổ Trí lúc ấy đến khoé mắt cũng bắt đầu ứa máu đen, lão cười thảm, khàn giọng bảo: “Lão nạp coi như hôm nay táng mạng ở đây, nhưng trước tiên cũng phải trừ được yêu nhân ngươi.” Lời nói vừa thốt, tất thảy những hạt bích ngọc trước mặt lão cùng sáng rực lên, người trong đám khí đen lập tức đề phòng. Hốt nhiên hắn rú lên, một vật nhang nháng thanh quang từ đằng sau lao tọt vào đám khí đen, chính viên bích ngọc vừa bắn vào con rết bảy đuôi, bay ra quãng không một đoạn, được Phổ Trí âm thầm điều động, vòng đằng sau đám khí đen, thình lình đánh úp.
Chỉ nghe thấy trong đám khí đen một tiếng rống giận dữ, rõ ràng kẻ đó không kịp đề phòng, ầm ầm mấy tiếng bình, bình, bình , ánh xanh chớp chớp, đám khí đen tán loạn, cuối cùng tan loãng ra bốn phía, mất tăm mất dạng. Từ giữa trời tà tà rớt xuống một người cao gầy, toàn thân từ trên xuống dưới bó chặt trong tấm hắc bào, nhìn không rõ dung mạo tuổi tác, chỉ có hai con mắt, hung quang lồ lộ, đằng sau hắn quấn một thanh trường kiếm. Phổ Trí thấp giọng hỏi: “Các hạ đạo hạnh như vậy, sao lại không dám gặp người?” Hắc y nhân chớp cặp mắt lồ lộ hung quang, dữ tợn bảo: “Lừa trốc, hôm nay bắt ngươi chết không có đất chôn!” Nói đoạn, hắn lật tay rút soạt thanh trường kiếm sau lưng, chỉ thấy thanh kiếm trong như thu thuỷ, sáng mà không loá mắt, kéo theo một làn sáng xanh nhàn nhạt. “Hảo kiếm!” Phổ Trí không kềm được thốt lên.
Hắc y nhân hừ khẽ, tay nắm kiếm quyết, chân đạp theo thất tinh, bước liên tục bảy bước, trường kiếm chớp chĩa lên trời, trong miệng lầm rầm niệm: “Cửu thiên huyền sát, hoá vi thần lôi. Hoàng hoàng thiên uy, dĩ kiếm dẫn chi!” Chỉ trong khoảnh khắc, mây đen trên trời phút bỗng cuộn lên không ngừng, tiếng sấm ùng ùng, rìa mây đen chớp loé lia lịa, giữa đất trời một luồng sát khí, cuồng phong rộ lên. “Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết!” Sắc mặt Phổ Trí giữa lúc ấy trắng bệch như vôi, kèm theo là một mối kinh ngạc, một tia tuyệt vọng và một chút cuồng nhiệt không hiểu được. Lão bỗng nhiên hét to: “Ngươi chính là môn hạ Thanh Vân Môn!”
Chương 3 : Hồng Nguyện
Đối với Trương Tiểu Phàm, mây trên trời, bất kể là mây trắng, mây đen, chưa từng có đám mây nào xà xuống gần mặt đất như đám mây đen tối nay, chưa từng có tiếng sấm nào chấn động màng nhĩ như thế, chưa từng có ánh chớp nào chói mắt như thế, hầu như khiến nó khó nhìn thẳng lên. Có vẻ bầu trời sắp sụp xuống.
Nó cứ đứng ngây ra ở đó, ngó hắc y nhân và lão hoà thượng trong miếu cỏ đang trừng mắt nhìn nhau giận dữ, khua khoắng đấu phép. Thốt nhiên, một tiếng sấm nổ, giữa lúc màng nhĩ chấn động kêu lùng bùng, nó nhìn thấy trên cao một lằn chớp chói mắt rạch ngang bầu trời, rồi lao xuống mặt đất, đậu lên trường kiếm của hắc y nhân. Trong phút chốc, trang phục trên mình hắc y nhân căng phồng lên, hai mắt trợn tròn như sắp nổ tung. Lúc ấy, dưới ánh chớp chói ngời, trong miếu cỏ sáng rỡ như ban ngày.
Giữa đêm ánh chớp loè rộ trên mũi kiếm, đẹp đẽ như thế, Trương Tiểu Phàm khép nép không dám thở, còn trong mắt Phổ Trí lại lần nữa xuất hiện một thứ cuồng nhiệt kỳ dị. “Đây chẳng phải là đại năng đại lực của chân pháp đạo gia sao?” Hắc y nhân hét to một tiếng, tay trái dẫn kiếm quyết, dùng toàn lực lắc mạnh cổ tay, sấm nổ, ánh chớp trên kiếm vụt bắn vào Phổ Trí.
Trên đường, cây cỏ sỏi đá, bốc bay tung hết cả, chỉ để lại trên mặt đất một vệt cháy sâu hoắm. Phổ Trí lui liền ba bước, thu ấn, song chưởng chắp lại, mặt lộ vẻ trang nghiêm, toàn thân âm ỷ tán phát kim quang, khẽ niệm: “Đức Phật từ bi!” “Pắp” một tiếng, bảy hạt bích ngọc còn lại trước mình lão đều vỡ vụn, hoá thành một chữ “Phật” cực lớn ở cách trước mặt ba thước, kim quang chói loà, không thể nhìn thẳng vào. Một khắc sau, ánh chớp và chữ Phật đó va vào nhau. Trương Tiểu Phàm đột nhiên cảm thấy nội tạng trào sôi hết thảy, hình như huyết dịch toàn thân lúc ấy đều chạy ngược, chân tay nó bủn rủn, không thở được nữa, rồi thoáng chốc, cảm thấy gió tắt, sấm ngưng, cả thế gian đều yên tĩnh lại.
Sau đó, nó bất giác bị hất bay về đằng sau, thậm chí còn không kịp cảm thấy sợ hãi, chỉ thấy ánh trắng ánh vàng, rực rỡ vô cùng, rực rỡ hơn cả thái dương. Toàn bộ ngôi miếu cỏ tan tác rời rã, dưới đấu phép của hai người, bay tán ra bốn phương tám hướng, tung bắn cả lên trời. Trái tim nó rỗng hoang hoác, chỉ cảm thấy tiếng gió dữ dội không ngừng vùn vụt qua tai.
Nó cảm thấy sợ hãi, bất giác muốn oằn mình lại, nhưng hữu tâm vô lực, đành để mặc thân hình mình phiêu phất bay đi một nơi chưa từng biết. Trong đầu nó, chỉ dấy lên một ý nghĩ: mình sắp chết rồi ư? Nỗi sợ hãi khủng khiếp thình lình chụp lấy đầu óc nó, toàn thân đẫm mồ hôi lạnh, nó run lên khe khẽ. Cái chết đến ngay trước mắt, đối phó sao đây? Nó ngất đi, bất tỉnh nhân sự.
Phổ Trí chầm chậm tiến lại, bước chân khập khiễng, cắp Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ vào be sườn, đi đến một chỗ đất có phần sạch sẽ rồi nhẹ nhàng đặt hai đứa trẻ xuống, chợt lão cảm thấy toàn thân đau nhức, ngõ hầu như muốn vỡ ra, không thể chi trì thêm được nữa, lão liền té phịch xuống đất.
Lão cúi nhìn, qua lớp tăng y cháy khét, lờ mờ trông thấy một luồng hắc khí dần dần vây kín lấy ngực, chỉ còn lại một phần nhỏ quanh chỗ cuối xương mỏ ác là chưa bị xâm nhiễm. Lão cười khổ, thò tay dò dẫm trong bọc. Tay lão run ghê quá, mãi một lúc mới chậm chạp rút ra được một viên dược hoàn màu đỏ, chỉ nhỏ bằng đầu ngón tay, trông bình thường chẳng có gì là lạ lùng. Phổ Trí thở dài, thầm thì than: “Chẳng ngờ quỷ y nói đúng, ta rốt cục vẫn phải dùng tới viên Tam Nhật Tất Tử Hoàn này của hắn.” Lão do dự một lát, cuối cùng khẽ gật đầu, đem dược hoàn nuốt đi. Xong rồi, lão ngẩng đầu, nhìn về phía rặng núi xa. Trời cuối cùng cũng phiêu phất mưa.
Núi Thanh Vân đứng sừng sững trong gió bão, mông lung thần bí. “Pháp thuật Đạo gia thật là huyền bí, có thể sai khiến được cả thiên thần. Đem ấn chứng với Phật gia của ta, bù đắp cho nhau, tất tham phá được sự trường sinh bất tử.
Đáng tiếc Đạo Huyền Chân Nhân tu hành lâu hơn ta, nhưng rốt cục cũng như ba vị sư huynh đệ kia của ta, không từ bỏ được quan niệm bè phái, không rũ bỏ được thân phận và địa vị. Ôi!” Phổ Trí thở dài, thu hồi mục quang, ánh mắt dừng lại trên mình hai đứa trẻ. Khi ấy mưa mỗi lúc một to, dầm ướt đầm đầu mặt lão. Ngôi miếu cỏ đã rã rời tan tác trong trận đấu phép vừa rồi, gần đấy lại chẳng có chỗ nào khả dĩ tránh được gió mưa. Trong lòng lão chợt hồi hộp, bất giác thấy lo cho hai đứa trẻ.
Vừa rồi lão vận chân nguyên cao độ, dùng kỳ công “Đại Phạm Bát Nhã”, mượn sức Phật môn chí bảo là “Phỉ Thuý Niệm Châu” sinh ra một đại lực hàng ma, mới chống lại được Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết uy lực vô song của kẻ tà ác kia, rồi phản công lại khiến hắn bị thương, khiến hắn phải kinh hãi mà tháo chạy. Nhưng thân thể lão trọng thương, lại bị công kích bởi kỳ thuật của đạo gia, đã như ngọn đèn dầu sắp cạn, đến một tia hi vọng sống cuối cùng cũng tuyệt rồi.
Xem ra lão chẳng qua là nhờ vào kỳ dược Tam Nhật Tất Tử Hoàn của quỷ y để kéo dài chút hơi tàn, kéo dài sinh mệnh thêm ba ngày nữa mà thôi. “Tên yêu nhân bị thương tuy nặng, nhưng chưa phạm vào căn nguyên.
Sau khi ta đi, hắn tất sẽ lộn lại giết người diệt khẩu. Đến lúc ấy không chỉ hai đứa trẻ này, mà e rằng tính mệnh của mọi nhà trong thôn cũng đều lâm nguy. Thế này, thế này, thế này thì phải làm sao mới được?” Phổ Trí ruột rối như tơ vò, chân tu đạo hạnh của lão rất cao, nhưng một là biết rằng mình sắp chết, tâm thần cũng hoảng hốt vài phần; hai là lo lắng cho sinh mạng của bách tính vô tội, yêu nhân kia xem ra là người có thân phận địa vị cực cao trong Thanh Vân Môn, nếu đi bừa lên núi cầu cứu, e rằng được việc thì ít, mà hỏng việc thì nhiều.
Nhưng điều khiến lão di hận nhất là vẫn có một việc, chính là điều lão bình sinh đại nguyện, lại không thể hoàn thành được. Thân là Tứ đại thần tăng của Thiên Âm Tự, lão đã được thiên hạ mến phục, tôn vinh đến cực điểm. Nhưng đối với lão mà nói, quan trọng nhất là khám phá được bí ẩn về sự sống và cái chết, tìm được sự trường sinh bất tử.
Chỉ có điều 50 năm trước, lão đã nhận ra rằng dù mình cần cù tu luyện Phật môn đạo pháp đến thế nào, cũng chỉ có thể tăng được công lực, mà không thể phá giải bí ẩn của sự trường sinh. Lão đau đầu vắt óc, mấy chục năm sau, quả thực nghĩ ra được một biện pháp chưa từng có.
Thiên hạ ngày nay, Phật – Đạo – Ma tam giáo đều đang cực thịnh, trình độ phép thuật rất cao thâm. Ma giáo vốn mang tiếng xấu, tà thuật tàn nhẫn hết sức, chẳng ai muốn dây vào, còn kỳ thuật của đạo gia thì tinh thâm thần diệu, cùng với Phật môn mỗi bên đều chiếm ưu thế riêng, nếu có thể liên thủ nghiên tập, tất có thể tháo gỡ được tình thế này. Nhưng lão ngàn vạn lần chẳng thể ngờ, ba vị sư huynh từ trước tới giờ luôn phóng khoáng cởi mở lại dị khẩu đồng thanh phản đối lão, cho là viển vông hão huyền, hết lời khuyên bảo mãi không thôi.
Trong lòng lão không cam chịu, khăng khăng mấy lượt đến yết kiến các danh môn Đạo gia, chỉ riêng núi Thanh Vân cũng đã lên không biết bao nhiêu lần, nhưng chẳng lần nào mà không bị chưởng giáo của Thanh Vân Môn là Đạo Huyền Chân Nhân khéo léo chối từ. Nghĩ đến đây, lão cười khổ một tiếng, điểm chút tự trào, nghĩ bụng: chỉ còn sống được ba ngày, lại nghĩ ngợi gì cái chuyện trường sinh bất tử, chẳng phải là tự làm khổ mình lắm sao? Có điều lão tuy mặc lòng, nhưng nhìn thấy hai đứa trẻ vẫn nằm lăn dưới đất lại không nỡ dứt, nhất thời nghĩ không ra cách nào vẹn toàn, cứ nghiêng trái ngó phải, thấy đằng xa có một cây tùng, khả dĩ che đỡ được phần nào gió mưa, có vẫn còn hơn không, lão bèn gắng lên tinh thần, ôm lấy hai đứa trẻ, gồng sức đi lại phía ấy.
Khó khăn lắm mới đến được gốc cây, cẩn thận đặt hai đứa xuống xong, Phổ Trí đã sức cùng lực tận, ngồi phệt ra đất, dựa lưng vào thân cây, thở hồng hộc.
Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu! (*) Câu danh ngôn Đạo gia chầm chậm buột khỏi miệng Phổ Trí, chứa chất mấy phần phẫn hận. Bầu trời tối như mực, phủ chụp lấy mặt đất. Mây đen mênh mông đè trĩu xuống, mưa lia thia rơi, dày và mau, gió lạnh lùa tới, lắc tha lắc thắc quất vào mặt, lạnh lẽo thấu tim. Lão ngửa mặt nhìn trời, hồi lâu mới chậm chạp thu ánh mắt, nhìn hai đứa trẻ trước mặt, thầm thì nói: “Nhị vị tiểu thí chủ, lão nạp có lòng tương cứu, đáng tiếc hữu tâm vô lực.
Sự tình vốn do ta gây ra, để hại hoạ đến hai vị, thật là tội nghiệt! Ôi! Giá hai người các ngươi là đệ tử của Thanh Vân, ở trên núi Thanh Vân kia, giữa bao nhiêu người, sẽ an toàn hơn, nhưng bây giờ…” Đột nhiên, toàn thân Phổ Trí chấn động, miệng lầm rầm: “Thanh Vân đệ tử, Thanh Vân đệ tử…” Tâm niệm lão chợt xoay chuyển, tựa hồ nắm bắt được hay nghĩ ra được điều gì, rồi thoáng cái lại bẵng đi mất.
Trong khoảnh khắc, mồ hôi lạnh toát ra. Phút sau, trong mắt lão, không hiểu tại sao, lại thêm lần nữa ánh lên một thứ cuồng nhiệt kỳ dị. Lão ngẩng mặt cười lớn, trong tiếng cười ẩn chứa một chút điên cuồng! “Diệu quá, diệu quá! Mệnh ta tuy không còn lâu dài nữa, nhưng nếu truyền thụ Phật gia thần công cho một người, rồi để hắn đầu nhập làm môn hạ Thanh Vân Môn, tu tập Đạo gia thuật pháp, chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện sao, như vậy vừa có thể cứu được hai đứa nó, lại có thể giúp ta hoàn thành tâm nguyện!” “Phật Đạo hai nhà vốn xa cách từ xưa, đến lúc già chết cũng không hề lai vãng tới nhau.
Thanh Vân Môn tuyệt không ngờ được một thiếu niên ít tuổi, từ nhỏ sống dưới chân núi Thanh Vân lại có thể mang trong mình Phật môn đại pháp. Chỉ cần có người kiêm được cái học của hai nhà, tất sẽ phá giải được mê cục của sự trường sinh bất tử suốt vạn năm nay. Ha ha, nếu như vậy, ta chết còn có gì đáng tiếc?”
Lão tâm niệm đã quyết, trong người phấn khởi vô cùng, hai gò má ửng đỏ, mắt loé tia máu, bất giác nhìn Lâm Kinh Vũ rồi thò tay ra.
Nhưng tay thò ra đến nửa chừng thì dừng lại, trong lòng đắn đo: chuyện này quan hệ rất lớn, ngày nay các môn các phái có chính kiến rất nặng nề, cực kỳ uý kỵ việc học lén, chẳng may bị người phát giác, sự tình bại lộ, chắc chắn là chết.
Thằng nhỏ Lâm Kinh Vũ này tư chất rất tốt, nếu để Thanh Vân Môn thu nạp làm môn hạ, nhất định sẽ được sư trưởng chú ý. Nó tuổi còn nhỏ, e là sẽ không giữ được cái bí mật tày trời này! Nghĩ đến đây, trong lòng lão chợt nhớ ra điều gì, ánh mắt chuyển sang người Trương Tiểu Phàm, nhớ lại cái tính quật cường của nó lúc ban ngày, chết tới nơi mà không chịu cúi đầu, lão gật gật, nói: “Tư chất kém một chút, cũng không sao, sau này phải trông vào phúc phận của ngươi thôi.” Nói đoạn, không chậm trễ nữa, thò tay vỗ mấy cái lên người Trương Tiểu Phàm, dùng chút sức tàn cứu tỉnh nó. Trương Tiểu Phàm mãi sau mới tỉnh dậy, trước mắt mơ mơ hồ hồ, trong tai vẫn còn đập lùng bùng.
Một lát sau mới trở lại bình thường, nhìn rõ mọi vật trước mắt rồi, nó bỗng giật bắn mình, há hốc miệng không khép lại được. Ngồi trước mặt nó là lão hoà thượng nọ, thương tích cùng mình, lườn trái dường như bị cái gì đó thiêu đốt, khô cháy rất khó coi, trên mặt sắc đen rùng rùng, cả gương mặt nhuộm tử khí. Nhưng không biết tại sao, lão trông có vẻ rất phấn chấn rạng rỡ. Nó cũng nhìn thấy thằng bạn Lâm Kinh Vũ nằm một bên, hôn mê bất tỉnh.
“Lão, lão làm gì đó?” Trương Tiểu Phàm đờ đẫn một lúc lâu, mới ngập ngừng hỏi. Phổ Trí không đáp, ngắm nghía nó kỹ càng, rồi hỏi lại: “Tiểu thí chủ, mưa to gió lớn thế, đứa bé như ngươi sao lại một mình đến nơi héo lánh này?” Trương Tiểu Phàm run run, đáp: “Hồi tối ta trông thấy lão hãy còn đứng ở trong miếu, sau đấy thấy trời sắp mưa, nơi này lại rách nát quá thể, ta nghĩ chắc là lạnh lắm đây, bèn mang đến cho lão một ít đồ ăn.”
Phổ Trí động đậy khoé miệng, chắp tay đáp: “Thiện tai, thiện tai. Vạn vật đều là duyên, số mệnh đã sớm sắp đặt rồi, Đức Phật từ bi.” Trương Tiểu Phàm lạ lùng hỏi: “Lão bảo sao cơ?” Phổ Trí mỉm cười đáp: “Lão nạp nói, tiểu thí chủ và ta có duyên. Đã như vậy, lão nạp có một bộ Pháp môn tu hành, tiểu thí chủ có muốn học không?” Trương Tiểu Phàm đáp: “Pháp môn là cái gì cà?” Phổ Trí đờ người một lúc, rồi phá ra cười, thò bàn tay khô héo xoa xoa cái đầu trọc, nói: “Cũng không phải là cái gì cụ thể, mà là phương pháp dạy hô hấp thổ nạp thôi.
Ngươi học xong, phải hứa với ta một vài chuyện, được không?” Trương Tiểu Phàm có vẻ hoàn toàn không hiểu, nhưng vẫn đáp: “Lão nói đi!” Phổ Trí nói: “Ngươi quyết không được kể với người xung quanh chuyện này, cho dù là đối với những người thân nhất, ngươi có làm được không?” Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, đáp: “Biết rồi, chết ta cũng không nói.” Phổ Trí giật mình, thấy nó còn nhỏ tuổi mà trên nét mặt đã đầy vẻ kiên tâm, mù trời mưa sợi bay như đao như kiếm lại như sương, táp rạt vào khuôn mặt bé nhỏ, có phần tiều tuỵ hốc hác.
Phổ Trí bỗng hít sâu, rủ mắt không nhìn nó nữa, mấp miệng tiếp tục nói: “Ngoài ra, mỗi ngày ngươi nhất định phải tu tập pháp môn này một lần, nhưng không được luyện ở trước mặt người khác, chỉ có thể tiến hành lúc đêm khuya người vắng. Điều cuối cùng, trừ phi đến lúc sinh tử quan đầu, tuyệt đối không được thi triển cái thuật này, nếu không tất có đại hoạ.” Nói tới đây, lão lại mở bừng mắt, nhìn Trương Tiểu Phàm chằm chặp, hỏi: “Ngươi làm được không?” Trương Tiểu Phàm đắn đo một lúc, nghiêng nghiêng đầu, rồi lại gãi gãi đầu, nét mặt đầy vẻ nghi hoặc, nhưng rốt cục vẫn gật lia lịa. Phổ Trí khẽ mỉm cười, không nói thêm gì nữa, bắt đầu truyền khẩu quyết cho nó. Bộ khẩu quyết này bảo dài thì không dài, chỉ có chừng một ngàn chữ, nhưng trúc trắc khó hiểu, Trương Tiểu Phàm cố gắng hết sức, mất đến ba canh giờ, mới học thuộc được hết. Phổ Trí đợi đến khi nó nhớ kỹ hết thảy, mới thở phào một hơi, thần sắc bải hoải.
Lão nhìn Trương Tiểu Phàm, ánh mắt chất chứa từ ái, bảo: “Lão nạp cả đời tu hành, xưa nay chưa từng nghĩ đến việc thu nhận đệ tử, ai ngờ đến lúc sắp chết, lại có cái duyên sư đồ với ngươi. Xem ra, ngươi cũng nên biết danh hiệu của ta.” Lão ngừng một lát, rồi tiếp: “Ta pháp danh Phổ Trí, là tăng nhân của Thiên Âm Tự. Khục, hài tử này, ngươi biết Thiên Âm Tự chứ?” Trương Tiểu Phàm nghĩ ngợi một lúc, rồi lắc đầu. Phổ Trí tức cười bảo: “Đúng là trẻ con mà.” Rồi sực nhớ điều gì, bèn thò tay vào trong bọc lần ra một viên hạt châu tím sẫm, chăm chú nhìn nó, rồi đưa cho Tiểu Phàm, bảo: “Ngươi hãy giữ viên hạt châu này cho cẩn thận, không được để người ngoài dòm thấy. Đợi đến này sau an định rồi, ngươi tìm một hang sâu hay vách núi, ném nó xuống là được. Còn nữa, ta vừa nói cho ngươi biết danh hiệu của ta, ngươi nhất thiết không được nhắc đến với người ngoài.” Trương Tiểu Phàm nhận lấy hạt châu, đáp: “Biết rồi.” Phổ Trí xoa đầu nó, nói: “Ngươi và ta có mối túc duyên này, cũng chẳng biết kiếp sau còn gặp lại nhau không. Hài tử, ngươi hãy quỳ xuống khấu đầu ba cái, gọi ta một tiếng sư phụ đi!” Trương Tiểu Phàm nhìn Phổ Trí, thấy lão đã thu lại nụ cười, nét mặt trang nghiêm, bèn gật đầu dạ, gọi một tiếng “Sư phụ.” rồi quỳ xuống đất, liên tiếp khấu đầu ba cái. Nó vừa khấu đầu xong, chưa ngẩng lên, đã nghe Phổ Trí cười khe khẽ, nhưng trong tiếng cười chất chứa những bi thống và quả đoán. Trương Tiểu Phàm toan ngẩng lên nhìn lão, chợt cảm thấy sau lưng có người vỗ khẽ, rồi mắt mũi tối sầm, lại lăn ra bất tỉnh nhân sự.
Chương 4 : Kinh Biến
Sáng sớm, một trường mưa gió rốt cục đã lắng xuống. Nước đọng trên cây trong vắt long lanh, từ rìa lá lặng lẽ rỏ giọt, vừa rơi xuống, lại theo gió văng vào không trung kéo thành một vệt đẹp mong manh, rớt lên mặt Trương Tiểu Phàm. Nước lạnh buốt gỡ Trương Tiểu Phàm tỉnh khỏi cơn mộng, nó trợn mắt, vô thức thét gọi: “Sư phụ…” nhưng bốn bề vắng ngắt, chỉ có Lâm Kinh Vũ nằm bên cạnh, đang say giấc nồng. Cứ như vừa trải qua một giấc mơ. Nhưng toà miếu cỏ nát vụn nơi xa, rồi thằng bạn vẫn hay nô đùa với mình nằm ngủ say bên cạnh, đều nhắc cho nó biết, tất thảy đều là thật cả. Nó run rẩy nghĩ một lúc rồi lắc lắc đầu, đi đến bên mình Lâm Kinh Vũ, xô mạnh vào người bạn, Lâm Kinh Vũ làu nhàu mấy tiếng trong miệng, rồi từ từ bừng tỉnh, dụi dụi mắt, còn chưa nói lời nào, đã cảm thấy một luồng hàn khí thấm vào người, không nén được liền nhảy mũi mấy cái.
Nó mở to mắt nhìn, thấy mình với Trương Tiểu Phàm người ngợm ướt đẫm cả, lại nằm dưới một gốc tùng ở ngoài đồng, bất giác trơ mắt há miệng, hỏi: “Chẳng phải là ta đang ngủ ở nhà sao, thế nào mà lại đến đây?” Trương Tiểu Phàm khẽ nhún vai, đáp: “Ta cũng không biết nữa, có điều ta lạnh lắm rồi, hay là mau đi về đi!” Trong óc Lâm Kinh Vũ có vô khối nghi vấn, nhưng thân mình lạnh giá, bèn gật đầu, bò dậy cùng Trương Tiểu Phàm đi về trong thôn.
Chưa đến trước thôn, hai đứa bọn nó đã phát hiện ra có gì đấy không bình thường, hằng ngày vào giờ này, thôn dân đều đã dậy rồi, nhưng hôm nay lặng lẽ quá thể, chẳng thấy bóng một người nào, mà trong luồng gió ban mai thổi tới lại trộn lẫn mùi tanh của máu. Hai đứa liếc nhìn nhau, đều đọc thấy trong mắt nhau nỗi kinh nghi, liền cùng tăng tốc chạy vù về thôn. Không bao lâu, hai đứa đã đến trước cửa thôn, nhìn theo con đường lớn chạy từ trong ra, thấy ở bãi đất giữa thôn, hơn bốn mươi gia đình của Thảo Miếu, khoảng hai trăm người, già trẻ gái trai đều nằm trên đất trống, thân thể cứng đờ, đã ra thây chết hết, màu chảy thành sông, ruồi nhặng bay vo ve, mùi máu tanh xộc thẳng vào mặt. Lâm Kinh Vũ và Trương Tiểu Phàm hai đứa bỗng đâu gặp cảnh tượng kinh khủng này, trong lúc khiếp đảm bật la to rồi ngất xỉu. Cũng không biết là trải qua bao lâu, Trương Tiểu Phàm tự dưng bừng tỉnh lại, nó ngồi phắt dậy, há hốc miệng thở hổn hển, hai tay khe khẽ run.
Vừa rồi trong lúc ngất đi, đầu óc nó đầy ắp những mặt quỷ hung ác, máu tươi xương trắng, liên hồi gặp ác mộng. Nó định thần rồi, quay nhìn bốn phía, chỉ thấy đây là một sương phòng bình thường, cửa sổ nhỏ có hai cánh, trong phòng sắp đặt đơn sơ sạch sẽ, chỉ có mấy cái bàn ghế bằng gỗ tùng, trên đặt ấm chén. Một cái lò lớn (1), trên đặt bốn cái giường liên tiếp nhau choán lấy hẳn nửa căn phòng. Ngoài cái giường nó đang nằm, giường bên cạnh chăn đệm lộn xộn, như là vừa có người ngủ ở đó xong. Hai cái còn lại chăn gấp rất ngay ngắn, cẩn thận. Bức tường đầu dãy giường có treo một tấm hoành phúc, trên viết một chữ Đạo rất lớn! Xem vẻ giống như một phòng nghỉ bình thường trong một quán trọ, hoặc là phòng ở chung của mấy đệ tử đi tầm sư học nghệ.
Trương Tiểu Phàm ngồi một lát, trong lòng bất giác nảy ra một ý nghĩ: tất cả những chuyện đêm qua phải chăng đều là ác mộng cả? Biết đâu vừa rồi mình đã ngủ suốt tại đây? Biết đâu đi ra khỏi căn phòng này, sẽ gặp ngay mẫu thân cười rồi la mắng nó như mọi khi Cái thằng lười này!” Nó chậm chạp tụt xuống giường, xỏ giày, đi từng bước từng bước ra phía cửa. Cửa đang khép hờ. Qua khe, thoáng có gió lùa vào mát rượi. Nó đi từng bước từng bước, hai tay bé nhỏ nắm càng lúc càng chặt. Tim nó đập mạnh ghê gớm, chèn ép cả hơi thở, rất nhanh, nó đi đến cửa, đặt tay lên cánh phên.
Tấm cửa gỗ nặng như núi, trĩu như sắt. Nó nghiến răng, “dô ta” một tiếng, kéo mở cánh cửa phòng. Ánh sáng rực rỡ bên ngoài thoắt cái ùa vào, làm nó phải híp mắt lại. Dương quang nồng nàn rơi trên thân mình khiến nó thấy dịu dàng ấm áp. Nhưng trái tim nó, một lát sau lại như rơi vào hố băng. Phía ngoài cửa là một đình viện be bé, có mấy thân tùng bách, mấy cụm cây cỏ, chen lẫn có mấy đoá hoa nhỏ toả hương trong lành, nở rộ hân hoan. Trước cửa là một hành lang, dẫn thông ra ngoài viện. Bước lên độ bốn thước, có mấy bực thềm, nối liền đình viện và hành lang. Bên một góc thềm, có một đứa bé đang ngồi cô quạnh, tay chống vào má, cứ lẳng lặng ở đó, không động đậy. Có lẽ tiếng mở cửa đã khiến đứa trẻ chú ý, nó trù trừ một lát, rồi chầm chậm quay đầu lại. Lâm Kinh Vũ. Trương Tiểu Phàm há to miệng, trong lòng có trăm ngàn điều muốn hỏi, nhưng lời nói đến cửa miệng, lại hoá ra câm lặng. Nó còn muốn hét lên, chỉ có điều trong lòng u buồn, hét không ra tiếng. Hai hàng nước mắt, cứ thế, lặng lẽ chảy xuống. Hai đứa trẻ, cứ thế, im lìm không nói, lẳng lặng nhìn nhau. **
Chẳng biết từ nơi nào ở đằng xa, có tiếng chim hót trong trẻo đưa tới, bầu trời xanh thẳm, mây trắng bồng bềnh. Trương Tiểu Phàm ngồi ở một mé bậc thềm, đầu cúi thấp, nhìn con đường nhỏ lát đá trong đình viện. Trong đình viện, một bầu không khí tịch mịch. Cứ như thế cũng không biết đã qua bao lâu, Lâm Kinh Vũ chậm rãi bảo: “Ta dậy sớm hơn mi, lúc ấy trong phòng còn có mấy người, ta đã hỏi bọn họ, đây là Thông Thiên Phong của núi Thanh Vân.
Trương Tiểu Phàm thì thầm thốt: “Núi Thanh Vân…” Lâm Kinh Vũ nói: “Nghe bọn họ bảo, mấy đệ tử môn hạ Thanh Vân đi qua, nhìn vào trong thôn, trong thôn…” nói tới đây, giọng nó bất giác nghẹn ngào. Nó giơ tay lau mắt thật mạnh, thở hắt ra, lại nói tiếp: “Sau đó bọn họ tìm thấy hai đứa bọn mình ở cuối thôn, bèn đem bọn mình lên núi.” Trương Tiểu Phàm nhúc nhích khoé miệng, nhưng không ngẩng đầu, hỏi: “Sau này bọn mình biết làm sao, Kinh Vũ?” Lâm Kinh Vũ lắc lắc đầu, buồn thảm đáp: “Ta cũng không biết.” Trương Tiểu Phàm toan nói nữa, chợt nghe từ hành lang sau lưng vọng tới một giọng lạ: “A! Các ngươi đều tỉnh rồi à?” Hai đứa cùng quay lại nhìn, thấy đứng đó một đạo sỹ trẻ trung, vận bộ đạo bào lam sắc, trông rất có khí khái anh hùng. Y rảo bước đi lại, nói: “Vừa lúc mấy vị sư tôn cũng muốn gặp các ngươi, hỏi han các ngươi mấy việc. Các ngươi giờ theo ta lại đây!” Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ nhìn nhau, rồi đứng dậy, Lâm Kinh Vũ nói: “Vâng, xin đại ca dẫn đường!” Đạo sỹ trẻ đó liếc nhìn Lâm Kinh Vũ, gật gật đầu, đáp: “Các đệ theo ta lại đây.” Theo đạo sỹ, hai đứa đi ra khỏi đình viện, trước mắt hiện ra một dãy hành lang uốn khúc hình vành khuyên rất dài rất to, tay vịn cứ cách hai trượng lại có một trụ màu đỏ. Giữa mỗi cặp trụ đều có một cái cửa tò vò.
Họ men theo hành lang uốn khúc tiến về phía trước, đi qua từng trụ và từng cửa tò vò, mới nhận ra, trong mỗi cửa tò vò đều có một đình viện nhỏ y như chỗ ban nãy, xem ra đây là nơi ở của các đệ tử Thanh Vân Môn. Đừng nói gì khác, cứ nhìn quy mô này, số đình viện nhỏ chắc không dưới một trăm, có thể thấy đệ tử Thanh Vân Môn rất đông. Đi được một lúc, mới trông thấy đoạn cuối của hành lang, đó là một bức tường trắng cao chất ngất, phía dưới trổ một cái cửa lớn, hai cánh gỗ đại thụ dầy dặn, cao đến hai trượng, hầu như phải ngẩng đầu lên mới nhìn thấy hết, cũng không biết lúc đầu làm sao mà tìm thấy thứ gỗ to đến nhường này. Đạo sỹ trẻ tuổi nhìn mà như không thấy gì hết, có vẻ hàng ngày ra ra vào vào, nhìn mãi thấy nhàm rồi, trên mặt không một chút cảm xúc nào như hai đứa trẻ kia, tuyệt không động dung, qua cửa này đi ra. Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ vội vàng rảo theo.
Vừa mới đạp chân lên bậc cửa cánh lớn này, hai đứa trẻ thoắt cùng nín thở, không thể tin vào tất thảy những gì đang nhìn thấy Đây, dường như chính là tiên cảnh trong truyền thuyết. Một khoảng sân rộng lớn mênh mang, bề mặt lát toàn bằng đá Hán bạch ngọc toả sáng lóng lánh, trải ra trước mắt vụt khiến người ta cảm thấy mình sao mà nhỏ bé. Đằng xa nhiều đám mây trắng, nom mịn màng nhẹ nhõm, cứ bồng bềnh quanh bước chân.
Chính giữa sân, cách vài chục trượng lại đặt một cự đỉnh bằng đồng, chia làm ba hàng, mỗi hàng ba cái, tổng cộng chín đỉnh, sắp xếp rất ngay ngắn. Trong đỉnh phiêu phất thoảng lên làn khói, hương thanh nhẹ mà không tiêu tán. “Đi lại đây nào.” Dường như thấu hiểu tâm tư của hai đứa bé, vị đạo sỹ trẻ trung khuôn mặt lộ nét cười, cứ để chúng nó ngắm nghía một thôi một hồi, mới lên tiếng gọi, rồi tiếp tục đi về phía trước. “Đây là Vân Hải trong Thanh Vân Lục Cảnh, đầu đằng kia còn đẹp hơn nữa!” Đạo sỹ trẻ vừa đi vừa nói.
Lâm Kinh Vũ không nén được hỏi: “Là gì đấy ạ?” Đạo sỹ trẻ vung tay chỉ, miệng đáp: “Hồng Kiều” (2). Hai đứa phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy tít tắp phía trước, nơi cuối khoảng sân, sau làn mây lảng bảng như sương, tựa hồ có vật gì đó lấp la lấp lánh, bọn chúng cất bước mau hơn, đi về phía ấy. Dần dần nghe tiếng nước chảy vọng tới, trong đó lẫn vào một thứ quái thanh y như tiếng sấm động, chẳng biết phát ra từ đâu.
Đi càng lúc càng lại gần, vân khí tựa như tiên nữ ôn nhu, nhẹ nhàng lượn quanh mình chúng, từ từ giãn tấm mạng che mờ ảo, để lộ ra cảnh sắc thanh thao. Phía cuối sân, là một dãy thạch kiều không mố không trụ, vồng ngang qua trời, một đầu tựa trên sân, đầu kia vươn chếch lên, ngập chìm trong mây trắng, tựa như kiều long dược thiên, khí thế cô ngạo. Tiếng nước chảy tí tách vọng tới, dưới ánh dương quang, cả dãy thạch kiều tán phát một thứ màu bảy sắc, như cầu vồng từ trời chảy xuống nhân gian, cẩm tú rực rỡ, diễm lệ vô song.
Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ cứ ngẩn ra nhìn. Đạo sỹ trẻ cười cười, bảo: “Theo ta lại đây nào!” Nói rồi đi trước, bước lên thạch kiều. Đặt chân lên thạch kiều, hai đứa mới phát giác ra, hai bên cầu có làn nước chảy mãi xuống, trong leo lẻo, nhưng ở giữa không thấm một giọt nước nào. Ánh nắng xuyên qua lớp màu bảy sắc chiếu rọi lên cầu, tán xạ làn nước, tạo thành cầu vồng lóng lánh. Vị đạo sỹ thấy bộ dạng say sưa mê mẩn của hai đứa, bèn bảo: “Các đệ cẩn thận đấy, dưới cái cầu này là vực sâu không đáy, vô ý mà rơi xuống đó, thì chết không có chỗ chôn đâu.” Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ đều giật thót, vội vàng trấn định lại tinh thần, đi đứng cẩn thận. Hồng Kiều này thật cao quá dài quá, ba người đi trên ấy, chỉ thấy bên trái, bên phải mây trắng lờn vờn chìm xuống gót chân, hình như càng đi càng cao lên.
Âm thanh cổ quái đằng trước vẫn không ngừng vọng tới. Lại đi thêm một hồi, mây trắng mỏng dần, vậy là đã ra khỏi Vân Hải, trước mắt vụt sáng loá, chỉ thấy bầu trời mênh mông trong trẻo, xanh đến thấu suốt, bốn bề quang đãng, rộng đến không biết đâu là cùng; phía dưới là Vân Hải mịt mù, bồng bềnh chìm nổi, phóng mắt ra xa, tâm hồn bỗng chốc như rộng mở. Ở đằng trước kia, chính là đỉnh ngọn Thông Thiên Phong, nơi đặt Ngọc Thanh Điện, chính điện của Thanh Vân quán chủ.
Như viên ngọc trên non xanh, mái điện sừng sững, Ngọc Thanh Điện toạ lạc trên đỉnh núi, vân khí bao bọc, thi thoảng vài cánh hạc kêu hiu hắt bay qua, lượn vòng tròn trên không, như tiên gia linh cảnh, khiến người ta thốt sinh lòng kính ngưỡng. Lúc ấy Hồng Kiều không vươn cao lên nữa, nó vẽ thành một hình khum khum giữa trời, ngả xuống bên đầm nước màu bích lục trước điện. Cùng lúc ấy, từ trong Ngọc Thanh Điện âm âm vọng tới tiếng ca quyết của đạo gia, đầy khí thế thần tiên. Thứ quái thanh kia, cũng càng lúc càng lồng lộng. Ba người đi hết Hồng Kiều, đến bên đầm nước, một con đường đá rộng rãi dẫn từ đầm nước lên thẳng đại môn Ngọc Thanh Điện. Nước trong đầm màu bích lục, thanh tĩnh như gương, bóng người bóng núi soi trong ấy có thể nhìn thấy rõ ràng.
Họ bước lên con đường đá, toan theo hướng đại môn bước tới, chợt nghe từ sâu dưới đầm một tiếng gầm rống, vang như sấm nổ, chính là thứ quái thanh nghe thấy từ lúc trước. Phóng mắt nhìn lại, từ giữa đầm thình lình nổi lên một xoáy nước cực lớn, giây lát sau, chỉ thấy sóng nước cuộn trào, rồi một thân ảnh khổng lồ thoát ra, hoa nước bắn lên đầy trời vỗ hết cả vào mặt. Vị đạo sỹ trẻ trung kia dường như đã sớm có phòng bị, tay trái khẽ vẫy, thân hình chớp lên trên không, tránh vụt về đằng sau chừng hơn hai trượng rồi dừng lại lơ lửng giữa trời.
Hai đứa trẻ nhỏ chẳng biết nên tháo chạy đi đằng nào, liền bị té nước ướt sũng như con gà rơi vào nồi canh (3). Nhưng hai đứa chúng nó lại chẳng hề chú ý đến tình cảnh mình, cứ ngây người ra nhìn cái vật thù lù vừa mới xuất hiện trước mặt, nó cao đến năm trượng, đầu rồng mình sư tử, toàn thân phủ đầy vảy và mai, mắt to mồm lớn, hai cái răng nanh sắc nhọn lấp lánh sáng dưới ánh dương quang, mặt mày hung ác, trông mà phát sợ. Con quái thú ấy lắc lắc mình, hu la la lại một trận hoa nước nữa bắn ào ra, sau đấy tuồng như phát hiện được điều gì, nó liền duỗi cái đầu ù lại chỗ bậc thềm.
Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ thấy cái đầu con quái vật ấy còn lớn hơn cả hai đứa bọn nó cộng lại nhiều, dưới ánh dương quang, răng xỉ sắc nhọn trông rõ mồn một, thấy nó đi lại càng lúc càng gần, hai đứa sợ phát khiếp, không nén được bèn rúm rít lại với nhau, tim đập thình thình. Lúc ấy, đạo sỹ trẻ trung kia chẳng biết đã bay trở lại tự khi nào, đặt đơn chưởng lên trước ngực, cung cung kính kính nói: “Linh tôn, bọn trẻ này là do chư vị sư tôn có ý triệu kiến.” Con quái thú ấy trợn mắt nhìn y, “hừ” một tiếng, vắt mũi một cái, đôi con ngươi trong cặp mắt to cồ cộ đảo đảo, y như người đang động não suy nghĩ.
Sau rồi nó chẳng lý gì đến ba người nữa, lúc lắc đi sang một bên, tới chỗ khô ráo cạnh đầm nước nằm phục xuống, ngáp dài, uể oải ngả đầu ra sưởi nắng, rồi ngủ thiếp đi. Hai đứa còn kinh hãi chưa nguôi, vị đạo sỹ trẻ đã làm hiệu bảo tiếp tục đi, rồi nói: “Linh tôn là dị thú thượng cổ do Thanh Diệp tổ sư của phái ta thu phục được từ ngàn năm trước, tên gọi là “Thuỷ Kỳ Lân”. Năm ấy Thanh Diệp tổ sư quang đại Thanh Vân, hàng yêu trừ ma, nó cũng đã từng xuất đại lực đấy.
Bây giờ thì là linh thú trấn sơn của Thanh Vân Môn chúng ta, trân trọng nó mà gọi là linh tôn.” Nói đoạn, y lại hướng về phía Thuỷ Kỳ Lân hành lễ, Trương Tiểu Phàm đang nhìn đến xuất thần, chợt bị Lâm Kinh Vũ kéo một cái, thấy nó đánh mắt ra hiệu, bèn cũng cùng nhau cung cung kính kính hướng về Thuỷ Kỳ Lân hành lễ. Thủy Kỳ Lân chẳng hề ngoái đầu lại, cũng chẳng nhúc nhích, chỉ có tiếng ngáy vang lên ầm ầm, chắc là nó cũng chẳng nhìn thấy.
Ba người hành lễ xong, lại tiếp tục đi về phía trước. Đi qua đường đá cao cao, xa xa đã nom thấy tấm trương bài kim sắc, trên đề ba chữ Ngọc Thanh Điện, đến trước đại điện hùng vĩ, chỉ thấy cánh cửa mở rộng, bên trong ngập tràn ánh sáng, khí độ trang nghiêm, phụng thờ thần vị của Tam Thanh là Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Đạo Đức Thiên Tôn (4). đang đứng, có kẻ tu hành có người phàm tục, xem ra đều là môn hạ của Thanh Vân Môn. Phía trước đám người ấy, đặt chừng bảy cỗ đại kỷ, bên trái bên phải mỗi bên ba cái, chính giữa, nơi đầu hai dãy đặt một cái, trên đó có sáu người ngồi, riêng cái ghế tận cùng dãy bên phải thì để trống.
Chương 5 : Nhập Môn
Lúc ấy, mọi người trong điện đang đàm đạo, dường như đang thảo luận việc gì. Vị đạo sỹ trẻ dẫn Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ đến ngoài cửa, chỉnh đốn lại y bào, rồi cung kính thưa: “Chưởng môn, các vị sư thúc, đệ tử Thường Tiễn phụng mệnh đưa hai vị tiểu…” Y chưa nói hết, đột nhiên trên đại điện thần quái nghiêm trang, bỗng vẳng ra một tiếng hét ghê gớm, cắt ngang lời y: “Quỷ, ác quỷ! Quỷ!…” Thường Tiễn kinh hoảng, nhưng Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ còn kinh hoảng hơn, tiếng hét này chói lói rát tai, nhưng có vẻ rất quen thuộc.
Trương Tiểu Phàm chẳng kịp suy nghĩ nhiều, nhoáng một cái xộc vào trong điện, hét lớn: “Vương nhị thúc, Vương nhị thúc, là thúc phải không?” Nó bối rối quá, giọng điệu vừa lo lắng, vừa khóc lóc, mọi người trông thấy không khỏi thương xót. Chỉ thấy đằng sau đám người, chỗ mé tường trong đại điện, một trung niên nam tử ăn mặc lối tiều phu, hai tay ôm đầu, co rúm người vào sâu trong góc, toàn thân run bắn, từ các kẽ tay vẫn ri rỉ vọng ra tiếng kêu: “Quỷ, quỷ…” Trương Tiểu Phàm với Lâm Kinh Vũ vừa vào theo lập tức đều nhận ra người này chính là một tiều phu trong thôn Thảo Miếu, họ Vương, sắp hàng thứ hai, người rất lương thiện, lúc nào cũng cười ha ha, đối xử với đám trẻ con bọn nó rất tốt, ngày thường sau những lúc lên núi đánh củi, đều mang quả rừng về chia cho bọn chúng. Trương Tiểu Phàm chẳng suy xét gì, chạy ào tới bên mình Vương nhị thúc, ôm choàng lấy vai hắn, gọi to: “Vương nhị thúc, rốt cục là đã xảy ra chuyện gì? Vì sao mọi người trong thôn đều, đều chết cả? Lại còn, mẹ cháu nữa! Cha cháu nữa! Họ ra sao rồi? Thúc nói đi!”
Vương nhị thúc nghe thấy Trương Tiểu Phàm liên tục truy vấn, tựa hồ có chút tỉnh táo, tạm thời không nói “quỷ, quỷ” nữa, chậm chạp ngẩng đầu lên, ngó Trương Tiểu Phàm đang đứng trước mặt. Mọi người trên đại điện rờn rợn động dung, ai nấy đều im lặng, cả những người ngồi trên ghế cũng không nén được, bèn đứng dậy, trông lại phía ấy.
Tròng mắt Vương nhị thúc đỏ ngầu, rõ ra thần sắc sợ hãi khủng khiếp quá. Hắn ngắm nghía Trương Tiểu Phàm, chẳng thốt một lời, cau cau đôi mày, tựa hồ đang cố sức nghĩ ngợi gì. Lúc này, có người trong Thanh Vân Môn không nén được liền bước lên, đang định cất lời, thì bị người bên cạnh khe khẽ nắm lại.
Trương Tiểu Phàm thấy Vương nhị thúc chẳng có phản ứng gì, cứ nhìn mình mặt rùng rùng tử khí, trong lòng càng thêm lo lắng, lại la to: “Vương nhị thúc, thúc sao vậy?” Ai ngờ Vương nhị thúc nghe nó hét, toàn thân phát run, nét mặt tỏ ra kinh sợ khủng khiếp, cả người đột nhiên lăn chiêng ra mặt đất, hai tay ôm đầu, rúm lại thành một đống, trong miệng không ngừng la thảm: “Quỷ, quỷ, quỷ!…” Trong đại điện khắp phía vang tiếng thở dài, chúng nhân Thanh Vân Môn trên mặt đều có vẻ thất vọng, những người vừa đứng lên cũng chán nản ngồi xuống.
Trương Tiểu Phàm còn muốn truy vấn, nhưng bị Lâm Kinh Vũ bên cạnh giữ lại. Trương Tiểu Phàm vô thức ngoảnh đầu sang, thấy Lâm Kinh Vũ khoé mắt đầy lệ, buồn thảm nói: “Chẳng ăn thua gì đâu, chú ấy điên rồi!” Trương Tiểu Phàm thấy trong đầu nổ “rầm” một tiếng, ngã phịch ra đất, chẳng nói chẳng rằng. Lâm Kinh Vũ lớn hơn nó một tuổi, tâm tư cũng tinh tế hơn, đưa mắt nhìn mọi người trong đại điện, nó thấy những người đứng đó đều khoác môn y của Thanh Vân Môn, có nam có nữ, có đạo có tục. Hầu hết giắt binh khí, đa số là trường kiếm.
Trong đó, sáu người ngồi trên ghế, khí độ càng có vẻ xuất chúng, hơn hẳn mọi người khác. Trong sáu người này, có ba người là tu hành, ba người là tục gia, đặc biệt nguời ngồi chính giữa, mình khoác hắc lục đạo bào, tiên phong hạc cốt, hai mắt ôn nhuận long lanh, tất nhiên chính là vị chưởng môn đại danh đỉnh đỉnh của Thanh Vân Môn, Đạo Huyền Chân Nhân. Lâm Kinh Vũ không rườm lời nữa, kéo Trương Tiểu Phàm dậy, chạy tới chỗ sáu người đó, quỳ xuống trước mặt Đạo Huyền Chân Nhân, dập đầu lia lịa bình, bình, bình .
Đạo Huyền Chân Nhân đưa mắt ngắm kỹ hai đứa nó, khẽ thở dài bảo: “Hài tử đáng thương, các ngươi đứng dậy đi!” Lâm Kinh Vũ chẳng hề nhỏm dậy, nó ngẩng đầu nhìn nhân vật thần tiên đệ nhất lưu này, nói giọng bi thương: “Chân Nhân, hai đứa con niên ấu vô tri (1), thình lình gặp cơn đại biến này, thực là không biết làm thế nào mới được.
Lão nhân gia người thần thông quảng đại, tỏ tường được cả việc tương lại, xin hãy vì chúng con mà quyết định cho!” Trương Tiểu Phàm chẳng khéo ăn nói như thế, vả lại đầu óc đang hỗn độn tơi bời, cũng chỉ biết nói theo: “Vâng ạ! Thần tiên gia gia, xin người hãy quyết định giùm cho!” Chúng nhân nghe vậy, trên mặt đều không kìm được nét cười, thoạt tiên nhìn Truơng Tiểu Phàm nói lời trẻ dại ngây thơ, nhưng sau mọi ánh mắt đều dồn về phía Lâm Kinh Vũ. Lâm Kinh Vũ tuổi nhỏ, thân lâm đại biến, lại đối diện với cao nhân danh động thiên hạ như Đạo Huyền Chân Nhân, mà nói năng vẫn đâu ra đấy, rõ ràng mạch lạc, quả là điềm đạm trầm tĩnh hơn hẳn những hài đồng bình thường, càng không thể đem so với Trương Tiểu Phàm vô tri đến mức còn tưởng Đạo Huyền Chân Nhân là thần tiên. Thảm án thôn Thảo Miếu, là chuyện mà Thanh Vân Môn chưa từng gặp, chưa từng nghe tới suốt nghìn năm qua, lại xảy ra ngay dưới chân họ, làm cả môn phái đều chấn động. [Audio] Trọng Sinh Đô Thị Tu Tiên
Đạo Huyền Chân Nhân nhận được cấp báo xong vừa kinh ngạc vừa tức giận, bèn triệu tập thủ toạ của sáu chi phái kia đến thương lượng. Lúc này, ngoài thủ toạ của Tiểu Trúc Phong là Thuỷ Nguyệt Đại Sư còn chưa đến, thủ toạ của năm chi phái kia đều đã an toạ. Những nhân vật gánh vác được trách nhiệm thủ toạ của bảy chi phái, tất nhiên là những nhân vật đỉnh cao trong Thanh Vân Môn; mà những nhân vật đỉnh cao trong Thanh Vân Môn, cũng chính là những nhân vật tuyệt luân trong hàng ngũ đạo sỹ tu chân luyện đạo trên thế gian.
Những người đang ngồi đây, ai nấy đều nhìn xa trông rộng, lúc này trong lòng chỉ biết nhận xét một câu: “Đúng là một miếng ngọc đẹp!” Đạo Huyền Chân Nhân khe khẽ mỉm cười, nói: “Tương lai quá khứ thì ta không biết, nhưng các con sống dưới chân núi Thanh Vân, Thanh Vân Môn chúng ta tất nhiên không thể bỏ mặc không lý đến. Tuy thế ta có vài câu muốn hỏi, mong rằng con sẽ trả lời cho rõ.” Lâm Kinh Vũ gật đầu nói: “Vâng, đệ tử biết gì sẽ thưa ấy.
Xin chân nhân cứ hỏi!” Đạo Huyền Chân Nhân gật gật đầu, nói: “Con làm sao mà thoát được kiếp nạn này?” Lâm Kinh Vũ đờ người, rồi đáp: “Hồi bẩm chân nhân, con còn nhớ là đêm hôm qua vẫn ngủ trên giường ở nhà, nhưng sáng nay tỉnh giấc thì lại đang cùng Tiểu Phàm nằm ngoài đồng, dưới một cây tùng, con cũng không biết đã xảy ra chuyện gì. Sau đó Tiểu Phàm gọi con dậy, chúng con chạy về thôn, thì nhìn thấy cảnh, cảnh, cảnh đó, sợ quá ngất đi.” Đạo Huyền Chân Nhân chau mày, nhìn sang Trương Tiểu Phàm, nói: “Là con gọi y dậy, thế con thì sao?” Trương Tiểu Phàm nghĩ một lúc, rồi đáp: “Con cũng không biết làm sao mà ra đến chỗ đó, khi tỉnh lại thấy Kinh Vũ ở bên cạnh, con bèn đánh thức y.” Đạo Huyền Chân Nhân đưa mắt trao đổi với các vị thủ toạ khác, trong mắt có nét nghi hoặc.
Nếu có cao nhân cứu giúp, thì tại sao chỉ cứu có hai đứa nhỏ, nếu không phải là cao nhân, thì bất luận thế nào, cũng giải thích không xuôi! Đạo Huyền Chân Nhân trầm ngâm một lát, nói: “Nói như vậy, các con đối với việc đêm hôm qua, không hay biết gì hết.”
Hai đứa đồng thanh đáp: “Vâng.” Đạo Huyền Chân Nhân thở dài, gọi một tiếng: “Tống Đại Nhân (2).” “Có đệ tử.” Một đệ tử Thanh Vân ứng tiếng bước ra, dáng khôi ngô cao lớn, phục trang theo lối tục gia. Chỗ y vừa đứng là ở sau lưng một người béo lùn đang ngồi, xem ra chính là môn hạ đệ tử của người đó. Đạo Huyền Chân Nhân nói: “Ngươi là người đầu tiên phát hiện ra chuyện ở Thảo Miếu, ngươi hãy đem việc lúc đó nói lại một lượt nữa!” Tống Đại Nhân cất giọng thô sảng: “Vâng. Sáng sớm hôm nay, đệ tử và mấy sư huynh đệ đồng môn ra ngoài lo việc, khi quay về đạp không trung mà đi.
Lúc ngang qua trên thôn Thảo Miếu, đệ tử vô tình cúi đầu, thì phát hiện ra trong thôn có hơn hai trăm tử thi chất đống, thảm thương không nỡ nhìn. Bọn đệ tử vội vàng hạ xuống xem xét, thì tìm được hai đứa nhỏ này ở đằng sau thôn, thấy chúng hôn mê bất tỉnh, bèn trước tiên giao cho một vị sư đệ đưa về. Rồi trong một cái nhà tiêu lợp cỏ gianh ở rìa thôn…” y chỉ tay vào Vương nhị thúc đang co rúm trong góc tường, tiếp: “phát hiện ra người này.
Chỉ thấy y mục quang đờ trệ, tinh thần hoảng hốt, bất luận đệ tử hỏi han thế nào, y đều không đáp, chỉ lặp đi lặp lại mấy lời: quỷ, quỷ, ác quỷ mà thôi.” Lâm Kinh Vũ giật bắn mình, run run hỏi: “Vị đại ca này, xin hỏi các huynh có đếm kỹ số người không?” Tống Đại Nhân ánh mắt có vẻ thông cảm, nói: “Ta tìm được một vị sư đệ ngày thường vẫn giao dịch củi lửa với người trong thôn, y rất quen thuộc với mọi người. Y đã nhận mặt, chúng ta cũng đếm nữa, bốn mươi hai hộ dân thôn Thảo Miếu tổng cộng có 247 người, ngoài ba người các ngươi ra, ai nấy đều đã chết.” Mặc dù trong lòng đã có dự cảm, nhưng nghe thấy Tống Đại Nhân khẳng định rõ ràng như thế xong, Lâm Kinh Vũ và Trương Tiểu Phàm vẫn thấy trước mắt tối sầm, suýt lại ngất đi lần nữa.
Đạo Huyền Chân Nhân khe khẽ thở dài, tay trái nhẹ phất, trong tụ bào bay ra một viên ngọc nhỏ màu đỏ, bay đến trước mặt Trương, Lâm hai đứa, lăn trên trán chúng mấy vòng, lập tức một luồng khí thanh mát thấm vào mình.
Chẳng hiểu tại sao, thần kinh chúng vốn đang căng thẳng, tự dưng nhẹ nhõm hơn, rồi thấy trong người mệt rũ, không kìm đuợc bèn nằm ngay trên đại điện, ngủ thiếp đi. Đạo Huyền Chân Nhân xua xua tay, chúng đệ tử đang đứng lần lượt hành lễ, rồi theo thứ tự lui ra. Trong đại điện, chỉ còn lại sáu người bọn họ. Lúc ấy, người béo lùn nói: “Chưởng môn sư huynh, bây giờ huynh dùng Định Thần Châu tạm thời xoa dịu, nhưng sau khi chúng tỉnh lại, huynh sẽ xử trí thế nào?” Đạo Huyền Chân Nhân trầm ngâm một lát, quay đầu nhìn đạo nhân ngồi đầu hàng bên trái, hỏi: “Thương Tùng sư đệ, ý đệ ra sao?” Thương Tùng Đạo Nhân thân hình cao lớn, diện mạo trang nghiêm, là thủ toạ chi phái Long Thủ Phong của Thanh Vân Môn. Trong Thanh Vân Môn, ngoài chi phái chính của Đạo Huyền Chân Nhân ra, thanh thế của Long Thủ Phong là lớn nhất. Thương Tùng bản tính nghiêm khắc, ngoài việc quản lý các đệ tử trong chi phái của mình ra, còn kiêm quản những việc xử phạt trong Thanh Vân Môn.
Thanh Vân đệ tử bình thường đối với chưởng môn Đạo Huyền Chân Nhân cố nhiên kính ngưỡng vô cùng, nhưng khiếp sợ nhất lại chính là vị Thương Tùng thủ toạ ít khi cười nói này. Bấy giờ, Thương Tùng Đạo Nhân cau đôi mày rậm, một lát sau mới đáp: “Câu chuyện rất nhiều nghi vấn, trong lúc vội vàng e là khó mà tra xét cho rành mạch được. Nhưng thôn dân Thảo Miếu xưa nay chất phác, chúng ta không thể bỏ mặc con côi của họ. Đệ thấy chúng ta nên thu nạp hai đứa nó vào làm môn hạ!” Đạo Huyền Chân Nhân gật gật đầu, nói: “Không sai, ta cũng có ý như vậy. Hai đứa trẻ này thân phận cô khổ, chúng ta phải chiếu cố một chút. Chỉ có điều ta đã rất nhiều năm không thu nạp đồ nhi, chẳng hay có vị sư đệ nào có thể nhận chúng không?”
Lúc này, người béo lùn kia, tức thủ toạ chi phái Đại Trúc Phong của Thanh Vân Môn, Điền Bất Dịch, nói: “Chưởng môn sư huynh, theo đệ thấy, tốt nhất là không nên để cả hai đứa nó quy vào một nơi. Bọn nó thân thế tương cận, nếu để ở với nhau, mỗi khi gặp mặt đối phương, sẽ nhớ lại chuyện cũ, như vậy lệ khí bất tuyệt, e là sau này không hay!” Đạo Huyền Chân Nhân nghĩ một lúc, đáp: “Điền sư đệ nói rất có lý. Hai đứa nó tuổi còn nhỏ, gặp cơn đại biến này, chúng ta phải từ từ hoá giải oán hận trong tim chúng, vậy thì không nên để hai đứa nó ở cùng một nơi.
Vậy thì cần có hai vị sư đệ thu lưu chúng.” Nói đoạn, ông ta đưa mắt nhìn khắp mọi người. Chỉ thấy thủ toạ của năm phái kia, mà trước nhất là Thương Tùng, ai nấy cùng lúc đổ dồn ánh mắt về Lâm Kinh Vũ, rồi xoáy đi xoáy lại ở đó, không chịu rời ra, mà chẳng có ai để ý đến Trương Tiểu Phàm ở bên cạnh cả. Với đạo tu chân, tư chất là cực kỳ quan trọng, thế gian thường có cái gọi là thiên tài ngộ đạo, tức là cái thuyết vượt được tu hành trăm năm.
Mà người trong Thanh Vân Môn rất thấm nhuần điều này. Năm xưa khi Thanh Vân Môn cùng đồ mạt lộ, chỉ nhờ vào Thanh Diệp tổ sư kinh tài tuyệt diễm, tuy tuổi còn trẻ, nhưng thiên tư hơn người, tham phá cổ thư của tiền nhân, tu hành vượt xa tất thảy tiên nhân, mà khiến một Thanh Vân Môn hấp hối trở nên dồi dào sức sống, thịnh vượng vô song, rồi trở thành lãnh tụ chính đạo trong thiên hạ ngày nay. Thêm nữa, danh sư cố nhiên nan cầu, nhưng đệ tử tư chất thượng thừa cũng nan đắc, Lâm Kinh Vũ thiên tư hơn người, căn cốt kỳ giai, thủ toạ của các chi phái Thanh Vân Môn vừa nhìn là đã chọn nó ngay.
Sau một hồi im lặng, Điền Bất Dịch ho lên, rồi nói: “Hà hà, chưởng môn sư huynh, huynh biết Đại Trúc Phong của đệ từ xưa tới nay vốn neo người, thôi thì để đệ giải quyết giúp huynh chuyện này đi!” Nói đoạn toan chỉ tay về phía Lâm Kinh Vũ, nhưng thủ toạ của Triêu Dương Phong là Thương Chính Lương ngồi bên cạnh đã nhổm dậy trước, chắn ngang đường nói với Đạo Huyền Chân Nhân: “Chưởng môn sư huynh, hôm nay đệ vừa nhìn thấy đứa bé này đã cảm thấy rất hợp với nó, chắc là có mối túc duyên, chẳng bằng để nó đầu nhập môn hạ đệ!”
Thanh Vân Môn lịch sử lâu đời, các chi phái ngoài mặt luôn giữ hoà khí, nhưng bên trong đều có ngầm ý giao kình, nhìn thấy Lâm Kinh Vũ tư chất hơn người, chưa chừng có thể là một Thanh Diệp tổ sư nữa, huống hồ thu nạp môn hạ ít nhất cũng là thêm được một đệ tử, không thể để chi phái khác nắm được cơ hội.
Vì có uy vọng tu hành của Đạo Huyền Chân Nhân, vốn chẳng ai dám tranh, đằng này Đạo Huyền tự nói là không thu nạp, chuyện tốt như vậy đời nào có thể bỏ qua? Lúc ấy Thương Chính Lương vừa nói dứt câu, liền có thủ toạ của Lạc Hà Phong là Thiên Vân Đạo Nhân ở bên cạnh nói: “Thương sư huynh, môn hạ huynh đã có đến hai trăm đệ tử, nếu ai ai cũng có túc duyên với huynh, e rằng túc duyên của huynh khó tránh khỏi là quá nhiều đấy.” Thương Chính Lương đỏ lựng mặt, toan nói, Điền Bất Dịch đã tranh tiên: “Thiên Vân sư huynh nói rất đúng á! Luận về số lượng đệ tử, các vị ít nhất cũng trên trăm người, Đại Trúc Phong của ta lại chỉ có bảy người, chẳng ra cái thể thống gì. Chi bằng…” Lúc ấy Thương Tùng Đạo Nhân lập tức ngắt lời lão: “Điền sư đệ, hai đứa trẻ này thân thế đáng thương như vậy, cần mang lại cho chúng sự chăm lo, chứ không phải là chú ý đến việc số người của chúng ta nhiều hay ít.” Nói đoạn, ông ta ngoảnh đầu sang Đạo Huyền Chân Nhân, vòng tay nói: “Chưởng môn sư huynh, đứa trẻ này quả là một nhân tài, xin để đệ thu nạp nó làm môn hạ, đệ nhất định sẽ hết lòng dạy dỗ, giúp nó thành tài để an ủi những vong linh của thôn Thảo Miếu.” Đạo Huyền Chân Nhân trầm ngâm một lát, bọn Điền Bất Dịch, Thương Chính Lương trong lòng đều biết thế là thôi rồi, quả nhiên một lát sau, Đạo Huyền Chân Nhân bảo: “Thương Tùng sư đệ nói cũng có lý, vậy thì để nó đầu nhập môn hạ đệ đi!” Thương Tùng khẽ mỉm cười đáp: “Đa tạ chưởng môn sư huynh.”
Mọi người ở đây đã cùng Thương Tùng là đồng môn từ rất lâu, biết Thương Tùng ngày thường ít nói ít cười, hôm nay mỉm cười như vậy tức là trong lòng vô cùng hoan hỉ, ai nấy đều không nén được nỗi ngấm ngầm tức tối. Chỉ có điều Đạo Huyền Chân Nhân đã nói ra lời, mà Long Thủ Phong của Thương Tùng thực lực lại lớn, đành phải nuốt nỗi tức này xuống. Đạo Huyền ngưng một lát, lại nói: “Thế còn đứa kia…” Thương Chính Lương ho một tiếng, nhắm mắt lại; Thiên Vân ngẩng nhìn đỉnh trần đại điện, hình như đột nhiên phát hiện ra hoa văn trên ấy vô cùng đẹp đẽ; Điền Bất Dịch khục khục cười khan, thình lình cơn buồn ngủ ập đến, bèn ngủ say sưa; người ban nãy chưa kịp nói câu nào mà toàn bị kẻ khác cướp lời là Tăng Thúc Thường thủ toạ của chi phái Phong Hồi Phong thì quay ra nhập định, tựa hồ từ đầu đến giờ không chú ý gì đến sự việc nơi đây vậy.
Còn kẻ vừa giành được thắng lợi là Thương Tùng Đạo Nhân thì quét mắt khắp lượt một cách lạnh lẽo, nhưng sâu trong mắt lại có nét cười cợt. Đạo Huyền Chân Nhân thốt không tránh khỏi chút lúng túng, nhưng bằng vào thân phận của ông ta, tất nhiên không thể nói những lời như lẽ nào chỉ vì đứa trẻ này tư chất kém mà các người lại không cần, chợt trong lòng sực nhớ điều gì, lập tức tìm ngay ra được một kẻ thế mạng. “Điền Bất Dịch.” Khuôn mặt tươi cười của Đạo Huyền Chân Nhân bỗng đầy vẻ dịu dàng.
Điền Bất Dịch giật thót mình, đang định cất lời, Đạo Huyền Chân Nhân đã tranh tiên: “Chuyện của thôn Thảo Miếu vốn do môn hạ đệ là Tống Đại Nhân phát hiện ra trước tiên, xem ra đứa bé này với Đại Trúc Phong của đệ rất có duyên phận đấy. Hà hà, hay là đệ thu nạp nó đi!” Điền Bất Dịch luống cuống, Trương Tiểu Phàm tư chất tầm thường, nhìn một cái là nhận ra ngay, thu nạp làm môn hạ chỉ tổ nhọc xác, lão tất nhiên chẳng vui vẻ gì. Lão muốn phân biện, nhưng Đạo Huyền lại giành lấy cơ hội, không cho lão nói: “Được rồi, chuyện này ấn định rõ ràng như vậy, các vị sư đệ cũng phải chú ý điều tra việc kia, hiểu cả chưa?” Bọn Thương Tùng cùng đứng dậy, đồng thanh đáp: “Vâng.”
Đạo Huyền Chân Nhân gật gật đầu, ho khẽ mấy tiếng, không nhìn đến thái độ của Điền Bất Dịch, bước mau vào hậu điện. Bóng ông ta khuất rồi, trên Ngọc Thanh Điện liền vang tiếng cười lớn.
Môn hạ đệ tử của Đại Trúc Phong là Tống Đại Nhân vẫn đợi nãy giờ ngoài cửa Ngọc Thanh Điện, mãi mới thấy các vị sư trưởng bước ra, bèn tiến lên đón, thì thấy sư phụ Điền Bất Dịch trong tay ôm Trương Tiểu Phàm, bất giác đờ người, hỏi: “Sư phụ, thế nào rồi?” Điền Bất Dịch nhìn ra là y, bỗng đâm tức giận, cáu kỉnh quát: “Thế nào thế nào? Có ngốc không thế? Còn không mau đón lấy?!” Tống Đại Nhân vội vàng đón lấy Trương Tiểu Phàm vẫn đang say ngủ, Điền Bất Dịch nộ khí bừng bừng, khoé mắt cứ chĩa vào bọn Thương Chính Lương, Thiên Vân mấy người lúc ấy vừa đang bước ra vừa cười vụng, lòng càng thêm giận dữ, bèn hét bảo Tống Đại Nhân: “Mau đi đi, còn ngây ra ở đó làm gì?” Dứt lời, cũng không thèm để ý đến ai nữa, hữu thủ hư không vạch một đường, một làn xích quang loé sáng, rồi một thanh trường kiếm màu đỏ vút lên, chưa nhìn rõ động tác của lão ra sao, đã thấy lao tới kiếm rồi phá không bay vọt đi.
Tống Đại Nhân nhất thời không nắm được đầu đuôi câu chuyện, nhưng ít nhất cũng hiểu rằng mình vừa có thêm một sư đệ. Y nhìn Trương Tiểu Phàm nằm trong lòng, thốt lên: “Tiểu sư đệ, ta còn chưa biết đệ tên là gì nữa!” Trương Tiểu Phàm vốn vẫn ngủ say chưa tỉnh, hồn nhiên không biết rằng số mệnh của mình đã vô tình quành sang một khúc ngoặt lớn.