[Audio] Thạch Kiếm
Tập 4: Tình huyết nhục – Dưới chân Đại Kiều (c31-c40)
❮ sautiếp ❯Chương 31: Tình huyết nhục
Sĩ Khánh về đến võ đường, mặt cau có. Hắn ném con cắt cho một đệ tử bảo nhốt vào lồng rồi ngồi phịch xuống ghế.
– Cát Xuyên tráng sĩ không về cùng với đại ca ư ?
– Không. Nhưng chắc hắn cũng sắp lại.
Sĩ Khánh vào nhà tắm thay áo rồi ra ngồi ở đại sảnh.
Võ đường đóng cửa từ ngày hăm lăm, phần lớn võ sinh đã tản mát về quê ăn Tết cả. Những tiếng đao kiếm không còn rộn rã như mọi ngày và lò sưởi cũng không nhóm vì tiết kiệm than củi. Không khí lạnh lẽo càng thêm giá buốt và làm tăng vẻ rộng lớn của gian đại sảnh. Sàn gỗ đen im lìm. Đây đó vài giá binh khí đứng trơ trọi. Sĩ Khánh bước vào, nhận ngay thấy cái cảnh hoang vắng ghê người ấy. Ngồi bên chiếc bàn thấp, hắn bất giác thấm thía nỗi cô đơn của chính lòng mình và sự bất lực của cả môn phái. Hắn rùng mình, mất hết ý chí chiến đấu. Sự trụy lạc trong tâm hồn của Sĩ Khánh còn đáng sợ gấp mươi lần sự trụy lạc của võ phái hắn đang đảm trách.
Sĩ Khánh rung chuông gọi đệ tử hầu cận. Chẳng thấy ai tới, hắn uể oải đứng dậy vén màn cửa nhìn ra ngoài.
Bên kia vườn, trước gian nhà gỗ dùng làm văn phòng của viên tổng quản, vô số người ngồi đứng lố nhố. Đủ các hạng. Thợ mộc, thợ nề, lái buôn, chủ tiệm rượu, thấp thoáng có cả bóng phụ nữ. Họ là những khách thương và phu phen bấy lâu nay vẫn thường cung cấp nhu yếu phẩm hoặc sửa chữa võ đường đến đòi nợ cuối năm. Ai nấy nếu không bồn chồn thì cũng lo lắng, vẻ giận dữ hiện ra nét mặt.
– Không biết bao giờ ông quản mới đến ? Nợ bác nhiều không ?
– Cũng đến vài ngàn.
– Của tôi thì số nợ năm trước coi như xong, nhưng năm nay chưa được đồng nào cả.
– Lúc sinh tiền Khổ Bích lão gia, đâu có bao giờ phải chầu chực thế này. Chẳng biết các ngài trong ấy ăn tiêu ra sao mà ông quản này chậm chạp đến thế ?
Họ hỏi han nhau, trao đổi những lời than phiền. Tuy thế một phần lớn vẫn còn giữ lễ độ. Danh vọng các bậc tiền bối Hoa Sơn còn để lại trong lòng họ một sự tôn kính mà hậu duệ của phái, dù hèn kém, chưa làm mai một.
Mãi đến trưa, khi mặt trời đứng bong, một toán chừng sáu bảy người, dẫn đầu là Ưng Đằng, mới khệnh khạng đến. Ưng Đằng nhìn đám chủ nợ, thấy toàn là thứ dân, bèn lên tiếng hách dịch:
– Tổng quản đi vắng, chưa về.
Quả thật, tổng quản Hồ Định đã trốn rồi, ẵm luôn cả số tiền hắn quyên được của những đồ đệ và thân hữu, cùng với Ôkô đi biệt tích. Một chủ nợ đứng lên trần tình:
– Anh em tiểu nhân bất đắc dĩ phải đến đây. Năm cùng tháng tận rồi, xin các ngài trong quý phái trả nợ cho. Nếu không được hết thì cũng chi cho mỗi người một ít để bọn tiểu nhân lo trang trải nợ nần.
– Đúng rồi ! Bọn tiểu nhân không đợi lâu hơn được nữa.
Người khác nói.
– Nếu ngài không trả được thì cho bọn tiểu nhân gặp chưởng môn.
Ưng Đằng ghé tai đồ đệ nói nhỏ. Hắn chạy đi, lát sau trở lại thì thầm:
– Đại ca bảo nói đại ca không có nhà.
Ưng Đằng cau mặt. Tiến thoái lưỡng nan, hắn phân vân không biết xử trí ra sao, nhưng vì thân danh là một trong mười cột trụ của phái, hắn cao giọng:
– Bản chưởng môn không có nhà. Để thư thả, ta sẽ hoàn trả chu tất.
– Thư thả là đến bao giờ ? Hôm nay cuối năm rồi, không trả ngay không được !
Nghe giọng nói có vẻ hỗn xược, Ưng Đằng nóng mặt:
– Đứa nào nói không được ?
Mọi người im thin thít.
– Ta đã nói trả là trả. Bây giờ các ngươi về đi, ta còn nhiều việc khác.
Nhưng chẳng ai nhúc nhích. Một chủ nợ than phiền:
– Vay thì năn nỉ, trả thì khó khăn, còn lên mặt mục hạ vô nhân, không biết nhục !
– Đứa nào nói đấy.
– Ta nói !
Ưng Đằng đứng dậy, xăm xăm đến bên người vừa cất tiếng, xuất kỳ bất ý, thoi cho một quả. Mọi người ồ lên một tiếng kinh ngạc và bất nhẫn. Ưng Đằng nắm cổ áo người đó nhấc bổng lên ném ra cửa.
– Trông đấy ! Đứa nào còn nói hỗn sẽ biết tay ta !
Rồi đưa mắt cho đàn em:
– Dồn chúng nó ra cổng trước, đóng cửa lại !
Đồ đệ Hoa Sơn nhất tề xắn tay áo, mặt hầm hầm. Mọi người nhìn nhau cung cúc bước ra. Khỏi bờ mới quay lại chửi mắng thậm tệ Ưng Đằng và đồng bọn.
Sĩ Khánh ngồi trong sảnh, nghe tiếng ồn ào đã biết chuyện gì rồi nhưng vẫn cúi mặt làm ngơ. Vấn đề chi tiêu trong nhà, hắn chẳng bao giờ lý tới, mặc quản gia lo liệu.
Từ khi Hồ Định bỏ đi, tất cả mọi việc đều do Ưng Đằng quán xuyến, cho nên thấy đàn em làm bậy, hắn cũng chẳng nói năng gì. Bản tính rụt rè, ưa hưởng thụ, hắn sợ, không muốn làm mất lòng kẻ tay chân.
Ưng Đằng bước vào thấy Sĩ Khánh vẫn còn ngồi thờ thẫn bên chiếc bàn thấp.
– Đại ca, có chuyện gì không vui thế ?
Nhìn bọn thuộc hạ, Sĩ Khánh vững dạ. Hắn đáp:
– Không. Chẳng có chuyện gì. Sắp đến ngày rồi phải không Ưng Đằng ?
– Sắp rồi ! Bọn tiểu đệ đến đây cũng vì việc ấy. Đại ca phải tính chỗ và giờ hẹn đi chứ, để còn thông báo cho nó biết, không chần chờ được nữa đâu.
– Ờ …ờ … chỗ nào tiện nhỉ. Ngươi nghĩ cánh đồng Đại Tỉnh Môn phía bắc Cổ Thành có được không ?
– Chỗ đó được. Đệ nghĩ chẳng còn chỗ nào hơn. Thế còn ngày giờ, đại ca định ra sao ?
– Ngươi tính nên hẹn trước hay sau ngày hạ nêu ?
– Đệ cho là càng sớm càng tốt. Đừng để nó kiếm cớ trốn mất.
– Mùng tám được không ?
– Mùng tám là kỵ nhật lão tiền bối tổ khảo, đại ca quên rồi sao ?
– Ừ nhỉ, vậy vào ngày mùng chín đi. Đầu giờ thìn, bấy giờ sương chưa tan, mình dễ xoay sở.
– Dạ. Bọn tiểu đệ sẽ cho yết bảng ngay tối nay dưới chân cầu.
– Vậy tốt !
– Đại ca sẵn sàng cả rồi chứ ?
– Dĩ nhiên, dĩ nhiên !
Nói thế nhưng Sĩ Khánh không an tâm. Tuy Thạch Đạt Lang chỉ là một tên kiếm khách, nhưng gần đây có tin đồn đại gã đã giao đấu với nhiều cao thủ võ lâm và đều thắng cả. Sĩ Khánh hơi sợ. Hắn không muốn tự nhận mình tư chất kém cỏi, không đủ khả năng bảo vệ danh dự một môn phái lớn, mà chỉ cho là hiện giờ tâm không tĩnh, một phần vì tình hình tài chính của Hoa Sơn kiệt quệ quá, một phần cũng vì A Kế Mỹ. Trong vụ Sumiyhoshi, A Kế Mỹ cự tuyệt hắn làm lòng tự ái của hắn thương tổn, hắn càng nghĩ càng giận. Lại Hồ Định bỏ đi. Tất cả những biến cố ấy khác nào những mũi thương ác độc đâm thủng lòng tự tin của hắn, giảm nhuệ khí của hắn không ít.
Sĩ Khánh gọi người hầu, hỏi tin Cát Xuyên Mộc. Thấy trình Cát Xuyên Mộc chưa về, hắn ngạc nhiên. Nắng xiên khoai đã đổ dài bóng những gốc tùng, bách cao lớn sau nhà mà người hắn mong đợi tiếp tay vẫn còn mãi mê săn bắn làm hắn khó chịu, cảm thấy như bị phản bội.
Ưng Đằng trở lại, theo sau là một đệ tử mang tấm bảng gỗ mới cắt, chữ viết còn đen nhánh nét mực chưa khô. Sĩ Khánh nhìn tấm bảng, lẩm nhẩm đọc:
“Cáo yết Thạch Đạt Lang lãng nhân kiếm khách, Phúc đáp yêu cầu của ngươi, bản phái quyết định ngày giờ gặp gỡ như sau:
Địa điểm:
Đồng Đại Tỉnh Môn, phía bắc Cổ Thành Ngày giờ:
đầu giờ thìn, ngày mùng chín tháng một xuân năm mùi.
Bản chưởng môn sẽ hiện diện. Nếu vì lý do gì ngươi không đến, bản phái dành toàn quyền tiếu mạ ngươi trước công chúng. Phần bản phái, nếu không giữ lời hứa, xin quỷ thần tru diệt.
Làm tại sảnh đường Hoa Sơn ngày quý đông năm Ngọ Chưởng môn:
Hoa Sơn Sĩ Khánh”.
Sĩ Khánh đọc xong, gật gù:
– Được đấy !
Lời văn rõ ràng trong cáo thị làm hắn hết do dự. Ít nhất, tình thế đã ngã ngũ rồi, hay có lẽ bây giờ hắn mới ý thức được như vậy.
Ưng Đằng ra lệnh cho đồ đệ mang bảng ra cắm ngay dưới chân đại kiều đường Gojo và trở vào ngồi cùng Sĩ Khánh bàn các việc sắp tới.
Dưới chân đồi Yoshida, Thạch Đạt Lang len lỏi giữa những ngôi nhà nghèo nàn của các kiếm sĩ vọng tộc nhưng ít tiền. Những kiếm sĩ này phần lớn mang tư tưởng bảo thủ, cầu an, không ưa hay không thể làm được những việc xuất chúng, đành cam phận sống tầm thường như mọi người.
Thạch Đạt Lang vừa đi vừa đảo mắt đọc những tấm bảng gỗ nhỏ đề tên gia chủ treo trước cửa mỗi nhà. Hắn tìm gia đình người dì, vì hắn chỉ còn có bà dì này với Ô Nhiên, chị hắn, là hai người thân duy nhất. Dì hắn lấy chồng kiếm sĩ, phục thị dưới trướng Tôn Điền. Có điều hắn không ngờ chú dượng hắn cũng chẳng giàu có gì, tư thất ở hỗn độn trong khu gia cư thanh bạch này, tìm được thật khó. Nhà nào cũng nhỏ chỉ hai gian, chen chúc nhau, co ro như sợ cái lạnh mùa đông, nấp sau mấy thửa vườn hẹp xơ xác, cây cối khẳng khiu, tuyết trong trận bão vừa qua vẫn còn đọng trên cành cây gầy guộc.
Cửa đóng kín mít. Ngày ba mươi Tết, tuy có đôi nhà trang trí trúc và cành thông theo tục lệ cổ truyền ở trước hàng hiên, nhưng thiếu hẳn cái không khí rộn rịp ngoài đại lộ.
Đi mãi không tìm được nhà, mà tứ bề vắng vẻ không biết ai hỏi thăm, Thạch Đạt Lang tự nhủ:
“Chắc di mẫu ta dọn đi nơi khác rồi”. Bèn đi ngược trở lại. Đến gần chợ, sương chiều phủ kín khắp nơi nhưng phố xá ngày Tết vẫn còn tấp nập. Đèn đường nhòe nhoẹt rung rinh giữa những vòng ánh sáng vàng úa. Khách bộ hành mang xách đi lại vội vàng, lúc ẩn lúc hiện.
Một phụ nữ đứng tuổi bước ngang trước mặt Thạch Đạt Lang. Đột nhiên hắn có cảm giác kỳ lạ, hình như đã thấy người này ở đâu rồi. Những nét quen thuộc lắm. Người đàn bà đi đã xa mà hắn vẫn còn ngẩn ngơ nhìn theo. Đứng một lúc, hắn sực nhớ :
nét mặt này là nét mặt của mẹ hắn, hắn vẫn mường tượng trong giấc mơ. Đúng rồi, chắc bà đó là di mẫu hắn. Tuy không gặp dì mười năm nay, nhưng cái vẻ mặt và cái dáng đi ấy, hắn không sao quên được.
Thạch Đạt Lang chạy theo gọi. Bà kia dừng lại, nhìn hắn ngạc nhiên tột độ, nhưng trong khóe mắt nhăn nheo và trong tròng mắt bắt đầu mờ đục vì cuộc sống khó khăn, thoáng một niềm nghi kỵ:
– Ngươi là Thạch Đạt Lang, con ông Mưu Ni Sai phải không ?
Đến lượt Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Hắn tự hỏi không hiểu sao dì hắn lại gọi hắn là Thạch Đạt Lang mà không là Thạch Kinh Tử. Trực giác bén nhậy của hắn cho biết rõ ràng hắn không được tiếp đón nồng nhiệt. Nhưng vẫn thành thật đáp:
– Vâng, tiểu điệt là Thạch Kinh Tử, dòng họ Yết Mân.
Bà dì nhìn Thạch Đạt Lang từ đầu đến chân, không một lời mừng rỡ:
“Ồ ! Mày đã lớn thế này rồi cơ à !” hoặc “cháu đấy ư, lâu lắm dì chẳng gặp cháu” … Bà chỉ lạnh nhạt nói:
– Ngươi đến đây làm gì ?
– Thưa di mẫu, cũng không có lý do gì đặc biệt. Nhân đi qua Kyoto, tiểu điệt tạt vào thăm di mẫu và chúc di mẫu cùng di trượng sang năm mới an khang.
Hắn nhìn nét mặt, chân tóc bà dì. Nhiều nếp nhăn ở đuôi mắt, vành môi, chân tóc cũng đã bắt đầu nhuốm bạc. Nếu mẹ hắn còn sống, bà cũng tuổi này và chắc còn nhiều vết nhăn hơn. Giọng nói hẳn cũng thế.
Bà dì tỏ vẻ không tin:
– Mày đến thăm ta ư ?
– Dạ, tiểu điệt cáo lỗi đã không báo trước.
Bà giơ tay đuổi Thạch Đạt Lang:
– Vậy bây giờ đã gặp ta rồi thì thôi, đi đi !
Kinh ngạc về lời nói quá vô tình ấy, Thạch Đạt Lang giận dữ:
– Tại sao di mẫu lại đối với con như thế ? Nếu di mẫu đuổi con, con xin đi ngay chẳng dám làm phiền, nhưng con muốn biết tại sao. Hay con đã làm điều gì để di mẫu phật ý. Ít nhất di mẫu cũng cho con biết chứ !
Dường như hối hận vì thái độ lạnh nhạt của mình, bà đi quay đi, không trả lời vào câu hỏi. Bả nói lảng:
– Ừ, thôi đã đến đây thì về nhà, chào dượng mày một câu. Ta là dì mày, cũng không muốn mày đi khỏi nơi này rồi đem lòng oán giận ta.
Thạch Đạt Lang theo bà về nhà. Hắn đợi ở phòng ngoài chờ bà vào báo cho dượng hắn biết. Tiếng ho khan và thở khò khè của một người bị bệnh suyễn ở phòng trong vọng ra cùng với lời nói bực tức:
– Sao ? Con ông Mưu Ni Sai à ? Nó đến đây làm gì thế ? Sao bà để nó vào nhà mà không báo cho tôi biết trước ?
Tiếng dì hắn nói thầm những gì không rõ, rồi tiếng lục đục của người ở trên giường bước xuống tìm dép. Sau cùng, cánh cửa lùa mở và ông Mã Xuyên bước ra, mắt hấp háy.
Mã Xuyên là dượng hắn, dáng thấp lại hơi gù, hai vai so lại vì bệnh hoạn. Nhìn Thạch Đạt Lang, ông tỏ vẻ khinh rẻ ra mặt, một sự khinh rẻ thường thấy ở những người tình thành nhìn bà con thô lỗ của họ Ở quê ra thăm:
– Thằng Kinh Tử đấy à ? Mày đến làm gì thế ?
– Tiểu điệt nhân có việc đi qua Kyoto, đến thăm di trượng.
– Láo !
– …
– Mày trí trá lắm, ta lạ gì. Đừng tìm cách dối gạt. Ở Mimasaka người ta đuổi mày nên mày trốn lên đây chứ gì ?
Thạch Đạt Lang đứng sững. Hắn không ngờ dượng hắn lại có thái độ như vậy.
Dưới ánh đèn lờ mờ, dì hắn ngồi lặng thinh trong góc phòng, đầu hơi cúi.
– Mày giết người, dụ dỗ con dâu người ta, làm bại hoại gia phong, thật đáng xấu hổ, bây giờ còn đến đây định bêu xấu chúng ta nữa ư ?
Nói xong dượng hắn thở hổn hển. Dường như câu nói dài và sự tức giận làm ông mệt nhọc, ông giơ tay đỡ ngực. Thạch Đạt Lang buồn rầu, tuy biết bị hàm oan nhưng trước cảnh ấy không giữ được lòng thương xót.
– Thưa di nương di trượng, tiểu điệt biết đã làm nhiều điều không phải, nhưng bấy giờ tiểu điệt còn dại. Bây giờ xin sửa đổi.
Ông lão hình như không để ý đến lời hắn nói. Ông ngồi xuống chiếu tiếp tục mắng nhiếc:
– Dân làng ruồng bỏ mày, chắc mày phải bỏ đi cũng vì thế. Gieo gió gặt bão, ông Mưu Ni Sai dưới mồ hẳn không được nằm yên.
Thạch Đạt Lang thấy di trượng, di mẫu tỏ ra phiền lòng và giận dữ quá, bèn cáo thoái:
– Thôi, tiểu điệt chỉ đến để chào di trượng và di mẫu. Bây giờ xin cho tiểu điệt được kiếu …
– A ! Không được ! – Ông Mã Xuyên giận dữ cắt ngang – Mày không đi bây giờ được. Mày biết ai đợi mày ngoài ấy không ? Mụ Hồ Điểu. Mày mà gặp mặt mụ thì phiền lắm.
– Ô ! Bà Hồ Điểu đến đây ư ?
– Chứ gì nữa. Tháng trước mụ tới đây, kể cho chúng ta nghe hết về mày. Nếu không phải vì tình huyết nhục thì ta đã trói mày giao cho mụ ấy rồi. Nhưng mày là cháu, chúng ta nghĩ tình đối với ông Mưu Ni Sai và mẹ mày nên giữ mày lại. Mày nên đợi đến khuya hãy trốn đi.
Thạch Đạt Lang buồn phiền khôn tả, biết có trần tình cũng vô ích nên chỉ ngồi cắm mặt xuống đất. Những lầm lỗi của hắn trong tuổi thiếu thời không ngờ đã bị bà Hồ Điểu thổi phồng lên và đã gieo vào lòng di mẫu và di trượng hắn một ấn tượng xấu xa đến thế.
Dì hắn nhìn hắn thương hại, bảo hắn ra nhà sau nằm nghỉ. Một mình trong bóng tối, dựa lưng vào đống củi, một lần nữa, Thạch Đạt Lang lại thấm thía nỗi đơn độc của mình. Hắn cởi cây gươm đeo bên sườn, vuốt nhẹ lên bao gỗ nhẵn bóng. Cảm giác mát rượi của vỏ gươm làm hắn thoải mái như những lời an ủi của người bạn cố tri.
Thạch Đạt Lang ngồi đã lâu, không một ai hỏi han gì. Không khí trong vựa củi ẩm ướt lạnh tanh. Đói, mệt và buồn ngủ, hắn thiếp đi lúc nào không biết.
Tiếng chuông giao thừa đổ hổi làm Thạch Đạt Lang bừng thức giấc. Năm mới rồi, năm mới rồi đấy ! Giấc ngủ vừa qua đã đem lại cho hắn sự sảng khoái. Tâm trí lâng lâng thư thái, những bắp thịt sau một thời gian nghỉ ngơi như được dãn nở thêm ra và một luồng sinh lực mới chu lưu khắp thân thể.
Thạch Đạt Lang đứng dậy vươn vai. Chuông chùa vẫn thong thả buông những tiếng ngân nga, uy nghi đĩnh đạt, đủ một trăm lẻ tám tiếng cho một trăm lẻ tám mê vọng của người đời, mỗi tiếng là một lời nhắc nhở họ về tính chất phù ảo của kiếp nhân sinh.
Thạch Đạt Lang tự hỏi có bao nhiêu người trong đêm nay, cái đêm trừ tịch này, đã nói được:
“Ta đã làm xong điều ta phải làm, ta chẳng có điều gì hối tiếc”. Riêng đối với hắn, mỗi tiếng chuông lại làm hắn rùng mình nghĩ đến những tư tưởng, những hành động xấu xa hắn đã phạm phải trong năm qua, năm trước và những năm trước nữa.
Không năm nào không có những điều hắn không hối tiếc. Người đời thay vợ đổi chồng, đối đãi với tổ tiên, cha mẹ, anh em, con cái, ai dám tự hào đã không có điều gì xúc phạm ?
“Ta vẫn tự nhủ:
nhất định không mong nhờ ai điều gì mà sao vẫn còn hy vọng ở họ lòng thương yêu ? Thật là ngu xuẩn và dại dột. Ta phải quyết tâm và ghi điều này lên giấy mới được !”. Thạch Đạt Lang mở hành trang, lấy ra một mẩu nến, đánh lửa thắp lên rồi rút ra quyển sổ giấy đã vàng trong đó hắn ghi những điều nhận xét về võ công, về địa lý cũng như những ý tưởng hỗn độn của hắn trên bước đường giang hồ, kèm theo với cây bút nhỏ. Hắn nhổ nước bọt vào cái nghiên con, mài mực, viết câu khai bút:
“Ta muốn không có điều gì phải hối tiếc”. Nhưng viết thôi, không đủ, hắn cần tìm một câu ngắn, gọn, ý nghĩa súc tích như một thành ngữ để có thể nhắc đi nhắc lại hàng ngày. Có thế hắn mới không quên. Bèn sửa:
“Ta sẽ không hối tiếc những điều ta làm”. Nhưng vẫn chưa vừa ý, hắn lại sửa lần nữa:
“Không làm những gì phải hối tiếc”. Thạch Đạt Lang lẩm nhẩm nhắc đi nhắc lại câu này giữa những tiếng chuông lớn ngân nga và những tiếng chuông nhỏ đổ hồi báo hiệu một năm mới vừa điểm.
Cửa lùa xịch mở. Dì hắn thò đầu vào và nói, giọng run run thì thầm:
– Kinh Tử ! Mày ở đây không được nữa rồi. Mụ Hồ Điểu đến ngoài kia và đòi chúng ta phải điệu mày ra. Chúng ta đã nói mày không có đây nhưng mụ không nghe. Đầu năm, đừng để xảy ra chuyện không hay.
Giọng bà dì hạ thấp hơn:
– Kinh Tử, trốn đi mau. Dượng mày đang giữ mụ ngoài nhà khách.
Bà lẻn vào, cầm nón đội lên đầu Thạch Đạt Lang và đẩy hắn ra phía cửa bếp.
Hắn vừa đi vừa khoác vội túi hành trang lên vai:
– Con ân hận và xin lỗi đã làm phiền di mẫu.
Bà tạt vào bếp lấy năm cái bánh dầy nhỏ, gói vào vuông vải trắng dúi vào tay hắn.
Thạch Đạt Lang cung kính giơ bánh lên ngang trán tỏ dấu cảm ơn và đi vội ra cửa:
– Con xin vĩnh biệt di mẫu.
Chương 32: Dưới chân Đại Kiều
Như cánh chim bạt gió, Thạch Đạt Lang lầm lũi đi trong đêm tối, dưới trời giá buốt. Chiếc nón nan mong manh không đủ che đầu, gió lạnh lùa qua lần khăn mỏng quấn quanh trán, hắn phải cắn chặt hai hàm răng cho khỏi và vào nhau kêu lập cập. Hơi hắn thở ra trắng tựa khói, vướng vào hàng lông tơ trên mép chẳng mấy chốc đã đọng thành những giọt sương nhỏ li ti.
“Chà, lạnh dữ !”. Trước nay, lạnh như thế này đối với hắn có nghĩa gì đâu, sao đêm nay hắn run rẩy như chiếc lá ? Chắc chẳng phải vì cái lạnh bên ngoài mà vì lòng hắn nhu nhược. Như đứa trẻ nhỏ thích được mẹ Ôm ấp nâng niu, hắn vẫn còn trông cậy vào tình thương của người khác. Trong thâm tâm, hắn chưa gạt bỏ được sự mong ước nắm một bàn tay trắc ẩn, nghe một lời âu yếm, hay nhận một cử chỉ vuốt ve, hắn vẫn còn bị tình cảm ràng buộc. Sự thất vọng vừa qua tại nhà người dì đã như một gáo nước dội vào dập tắt tất cả những mong ước ấy làm hắn lạnh tê, nhưng đồng thời cũng khích động lòng tự ái của hắn không ít. Hắn chẳng trách người dì và ông chú dượng, chỉ giận mình chưa đủ trưởng thành để sống một đời tự lập. Tự lập ! Trong cơn phẫn nộ với chính mình, Thạch Đạt Lang nói to như hét:
– Tự lập ! Ta phải sống cuộc đời tự lập ngay tự trong lòng ta !
Tiếng kêu giận dữ phát xuất từ tâm khảm hắn vang lên tựa sấm động bên tai.
Trong giờ khắc trang nghiêm của buổi nguyên đán, giữa những tiếng chuông chùa dõng dạc uy nghi, tiếng kêu bi thiết ấy là lời hứa long trọng với chính mình, Thạch Đạt Lang sung sướng như người vừa được giải thoát. Hắn bước nhanh hơn, hơi thở dồn dập, một thay đổi sâu xa đương làm đảo lộn cả tâm hồn và thể chất hắn.
“Kiếm đạo không phải là con đường dành cho những kẻ yếu hèn, không lý tưởng.
Người mang kiếm không lý tưởng chỉ là kẻ ăn mày lang bạt. Sự khác biệt giữa một kẻ ăn mày lang bạt và một hiệp sĩ giang hồ nằm trong đáy lòng mình chứ không ở nơi nào khác”. Thạch Đạt Lang vừa lòng với những suy tư ấy. Hắn bước những bước dài, mạnh trên đường cỏ ướt sương và không còn thấy tê cóng trên đầu ngón chân như trước nữa.
Hồi lâu, cảnh trí xem chừng đổi khác. Rặng liễu ven đường nhiều thêm ra và nhà cửa cũng thưa dần. Dưới chân Thạch Đạt Lang đã có những vũng nước đóng váng. Đôi lúc, hắn phải tránh đường mòn, đi lên bờ cỏ cho khỏi ướt chân.
Ngoài xa, một dải sương trắng đục mờ mờ, có lẽ là sông Kamo. Không ngờ hắn đến bờ sông Kamo chóng đến thế ! Trời còn tối lắm. Lau sậy và cỏ lác mọc rậm rạp ven sông càng làm cho bờ sông tối thêm, hắn không phân biệt được đâu là bờ, đâu là nước nữa.
Thạch Đạt Lang men theo rặng liễu đến chỗ lũng cao. Trời chưa sáng, vả hẵn cũng không gấp nên quyết định ngồi nghỉ chân trên lũng. Nhìn quanh, vô số cành lá gãy, lá khô, hắn nhặt gom lại thành đống, mồi lửa đốt. Gió sông thổi ào ào, mấy lần lửa đã bắt lại tắt ngấm. Kiên nhẫn, hắn lấy nón che, thả từng chiếc lá làm mồi, đến khi lửa bốc cao, hắn xoa hai tay vào nhau khoan khoái và cởi hài xảo hong bên đống lửa. Ngọn lửa theo gió thổi tạt vào mặt nóng rát. Thạch Đạt Lang lùi lại, bỗng tay chạm vào một túi nặng đeo bên mình. Sực nhớ đến mấy chiếc bánh dì hắn cho lúc sang canh, cơn đói ở đâu kéo đến khiến hắn ứa nước rãi. Hắn tháo túi, lấy bánh ra bày trước mặt, dùng cành khô xiên từng chiếc hơ lên lửa.
Bánh dầy gặp lửa phồng to tựa quả cam, vàng ngộm, nhắc hắn nhớ đến những ngày Tết nguyên đán xưa, khi còn nhỏ, hắn cũng nướng bánh ăn như thế này. Bánh dầy nhạt, không tẩm đường và cũng không có muối, nhưng dẻo và thơm, càng nhai càng có vị. Bất giác, hắn so sánh những chiếc bánh thuần hậu với cuộc đời hành hiệp hắn đang theo đuổi, đạm bạc mà cao khiết.
Thạch Đạt Lang vui vẻ, vừa ăn bánh vừa ngó ngọn lửa bập bùng. Cơn gió thổi, ngọn lửa rạp sang bên rồi lại tỏa ra cháy xuê xoang hơn trước. Những tiếng nổ lách tách reo vui, một chút vui nhỏ trong niềm vui lớn sáng tạo của vũ trụ.
“Năm nay ta ăn một cái Tết nguyên đán của riêng ta …Giang hồ lãng tử như ta mà cũng có bánh ăn đầu năm thì chắc Trời Phật chẳng để ai đói lòng. Này sông Kamo là bạn, băm sáu ngọn Hải Nhai sơn làm bối cảnh trang trí cho cây tùng xanh tốt ngoài kia !
Thật là hùng vĩ ! Ta phải làm cái gì mới được ! Ờ ờ …ăn xong, ta sẽ xuống sông tắm gội cho thân thể thanh khiết đợi ánh sáng đầu tiên của năm mới.” Thạch Đạt Lang lần ra bờ sông, cởi bỏ quần áo, xếp cùng với hành trang bên gốc liễu rồi nhảy xuống tắm. Nước lạnh quất vào da thịt làm cho bắp thịt hắn săn lại nhưng Thạch Đạt Lang thấy sảng khoái vô cùng. Hắn vùng vẫy bơi lội, bọt nước bắn tứ tung chẳng khác gì một loài thủy cầm đang đùa nghịch.
Thạch Đạt Lang vừa tắm xong, chân trời phía đông cũng vừa hửng sáng. Hắn bước lên bờ, linh cảm làn dương quang mới hé chiếu trên lưng, quay lại thì đúng lúc mặt trời vừa ló.
Xúc động trước vẻ đẹp bao la của cảnh vật, bóng tối lui dần dưới bầu trời rạng rỡ, sông dài, trời rộng trải thênh thang, Thạch Đạt Lang cứ để nguyên thân thể trần truồng như kẻ cổ sơ, dạng chân giơ tay hít một hơi dài bầu không khí trong lành buổi ban mai vào ngực.
Giây phút huyền diệu ! Đột nhiên, hắn cảm thấy tâm hồn lâng lâng bay bổng, bừng lên một sự cảm thông với vô cùng và hòa đồng cùng vạn vật. Hắn không còn là hắn nữa, hắn là cái cây, là đám mây, là ngọn núi. Hơi thở của hăn, những tế bào trong cơ thể hắn chỉ là những mắt xích của vô cùng, ảo giác mà thôi, hiện ra rồi lại tan loãng vào thiên nhiên để mà luân lưu mãi. Không ngờ trong giây phút linh thiêng này, hắn vừa lý hội được cái nghĩa sắc, không của nhà Phật.
Thạch Đạt Lang lau khô mình, sắp sửa mặc quần áo thì vừa hay nhìn lên lũng cao, thấy bóng một bà già bên đống lửa. Bà đó không ai khác hơn là bà Hồ Điểu.
Hồ Điểu lão bà trông thấy hắn cũng không khỏi kinh ngạc:
– Đúng rồi ! Đúng hắn rồi !
Mới kêu được có thế, bà đã hụt hơi vì xúc động, hai tay giữ ngực rồi sụp xuống.[Audio] Ngạo Thế Đan Thần (Tuyệt Thế Thần Đan) dịch
Chân tay run rẩy, bà thều thào:
– Lạy Trời lạy Phật, vong hồn cậu sống khôn thác thiêng run rủi cho ta gặp thằng ác tặc đây rồi !
Từ khi cậu Ngô gặp nạn chết đi, bà luôn luôn đem theo trong mình một cái túi nhỏ đựng vài sợi tóc và lóng xương của người em bạc mệnh như một giải bùa để những khi trái gió trở trời, hoặc gặp chuyện gì phiền não, bà mang ra cầu nguyện. Tuy cậu mới chết chẳng bao lâu, nhưng không ngày nào bà không khấn vái vong linh cậu. Bà nguyền sẽ trả mối thù cho dòng họ đến hơi thở cuối cùng, giết cho bằng được tên đại gian đại ác, cho dù có phải tan xương nát thịt cũng cam lòng.
Nghe đồn có bảng cáo thị dưới chân đường Gojo của Hoa Sơn phái hẹn Thạch Đạt Lang tỉ võ ngày nguyên tiêu, bà Hồ Điểu không ngần ngại, vội vàng đến Kyoto xem hư thực. Bà chỉ sợ trễ, Thạch Đạt Lang mà chết dưới tay Hoa Sơn rồi thì còn đâu để bả trả hận. May sao Trời Phật và đức Quan Âm bồ tát đã chứng giám lời cầu xin thành khẩn của bà, lại nhờ vong hồn cậu Ngô linh thiêng, bà bắt gặp nó ở đây.
Thấy ánh lửa ven sông, bà đinh ninh cho là lửa của kẻ ăn xin nào đó đốt lên sưởi ấm, không ngờ lại chính là Thạch Đạt Lang. Khi nhìn dáng dấp cao lớn của người dưới nước bước lên, dám khinh thường cái lạnh, tắm sông về mùa này, bà không còn hồ nghi gì nữa.
Thạch Đạt Lang trần truồng là một dịp rất tốt cho bà tấn công, chờ lúc hắn đang mãi bận quần áo, xuất kỳ bất ý xông ra đâm cho một nhát, tất hắn tránh không kịp.
Nhưng bộ Óc già nua của bà không cho thế là phải. Bà nhắm mắt chắp tay cảm ơn Thần Phật, tin rằng Thần Phật sẽ phù hộ bà cho đến lúc chết. Mà có Thần Phật phù hộ thì lo gì bà không giết được nó ?
Khi bà Hồ Điểu mở mắt ra, Thạch Đạt Lang đã mặc xong quần áo. Túi hành trang trên vai, song kiếm giắt lưng, thoắt cái hắn đã nhảy qua vũng nước lớn, rảo bướ c đi về phía đại kiều đường Gojo.
Bà Hồ Điểu há hốc miệng, không ngờ hắn nhanh quá đến thế. Rút kiếm ra rồi, bà lại tra kiếm vào vỏ, chạy theo. Bà cũng khôn ngoan không lên tiếng thách thức, chỉ men theo hàng liễu và lẩn sau những bụi lau sậy, dõi bước chân hắn.
Bóng chiếc cầu gỗ đã bắt đầu hiện ra lờ mờ trong sương sớm cùng với những mái nhà rêu màu xám nhạt. Còn một thôi nữa thì đến chân cầu, Thạch Đạt Lang bước nhanh. Hắn dư biết bà Hồ Điểu đang đuổi theo nhưng hắn không quay lại. Vì quay lại, tất nhiên phải đối đầu với bà. Hắn phải tự vệ nhưng lại không muốn làm bà lão bị thương. “Thật là khó xử !”. Hắn tự nhủ thầm, và mỉm cười:
“Thật là một đối thủ lợi hại!”.
Nếu như hắn vẫn là thằng Thạch Kinh Tử xưa kia, khi còn ở Miyamoto thì dễ quá:
hắn chỉ đấm cho một quả, bà sẽ nằm liệt giường hàng tháng. Nhưng nay hắn là người khác rồi.
Thực ra Thạch Đạt Lang chẳng ưa gì bà Hồ Điểu, nhưng hắn không căm thù bà như bà căm thù hắn. Hắn cho rằng lòng căm thù của bà sinh ra từ một điều ngộ nhận.
Hắn muốn trần tình, nhưng cái thế không cho phép. Chắc chắn hắn nói thế nào bà cũng chẳng nghe, bà vẫn nổi tiếng là người bướng nhất làng. Chỉ Mãn Hà Chí nói, may ra bà mới để vào tai, vì thực ra ngoài Mãn Hà Chí, còn ai có thể chứng minh chính con bà đã viết thư từ hôn với Oa Tử ?
Đến đầu cầu đường Gojo, Thạch Đạt Lang chậm bước. Dịp may để bà Hồ Điểu đuổi mau hơn. Trăm thước. Năm chục thước. Ba chục thước. Trông dáng đi của Thạch Đạt Lang, sao bà ghét lạ ! Đến những vết chân hắn in trên đất, bà cũng ghét cay ghét đắng. Bà ngoảnh mặt đi, nhổ bọt, rồi không giữ nổi kiên nhẫn, hét lớn:
– Thạch Kinh Tử !
Nhưng Thạch Đạt Lang không chú ý, làm như không nghe tiếng.
– Thạch Kinh Tử ! Mày điếc à ? Sao không nghe ta gọi ?
Thạch Đạt Lang vẫn điềm tĩnh tiến bước.
Bà Hồ Điểu tức uất, hai tay nắm chặt, cổ bạnh ra, chạy lên chặn đường hắn.
– Đứng lại !
Thạch Đạt Lang giả vờ ngạc nhiên:
– Chà ! Ai như bà Hồ Điểu ? Sao bà lại ở đây ?
– Tiểu tặc gian ác, đừng vờ vịt ! Sao ta lại ở đây ! Đáng lẽ ta phải hỏi mày câu ấy.
Ta đã để mày chạy khỏi tay ta trên sơn đạo chùa Phổ Quang, bây giờ không thể cho mày trốn thoát được. Ta phải lấy đầu mày !
Mặt bà Hồ Điểu đỏ gay, gân cổ nổi lên như chiếc đũa. Giọng bà the thé phun ra từ cái miệng nhăn nheo có hàm răng vổ, thưa làm Thạch Đạt Lang thấy sợ hãi hơn là tiếng thét xung trận của một đối thủ lợi hại.
Sự sợ hãi của hắn bắt nguồn từ hồi nhỏ, khi hắn và Mãn Hà Chí đang mãi hái trộm dâu trong vườn thì bị bà bắt được. Bấy giờ hắn tám chín tuổi gì đó. Tiếng hét của bà làm hắn sợ hãi quá chừng, bỏ chạy mà trống ngực đập thình thịch. Thời gian trôi qua, cường độ của sự sợ hãi giảm bớt nhưng âm hưởng tiếng hét vẫn còn vang dội bên tai làm hắn giật mình khó chịu.
Phần bà Hồ Điểu, tuy bây giờ Thạch Đạt Lang đã thành niên, nhưng ấn tượng một đứa bé hỗn láo và man dại vẫn còn ghi trong ký ức. Khi Mãn Hà Chí đăng lính, rồi Oa Tử, con dâu tương lại của bà bỏ đi, bà đều quy tội cho Thạch Đạt Lang dụ dỗ. Vì những lời đàm tiếu trong làng, sự tức giận của bà mỗi ngày một tăng và nay trở thành thù hận.
Bây giờ, tất cả kỳ vọng của bà trước khi nằm xuống là được cắt đầu Thạch Kinh Tử cáo gia tiên để trả mối hận đó.
Bà Hồ Điểu giơ tay quệt mép, nhổ bọt vào gan bàn tay rồi rút kiếm đánh soạt:
– Thạch Kinh Tử ! Thằng vô lại du đãng kia ! Rút kiếm ra nếu không đừng trách ta không báo trước.
Tích xưa, chuyện con bọ ngựa đá xe không biết có từ đời nào nhưng so vớ i cảnh này thì thật hợp. Bà Hồ Điểu chân tay khô đét chẳng khác gì càng bọ ngựa, mắt lồi, da mặt nhăn nhúm, chiếc áo chẽn bà mặc ngắn đến lưng, gió thổi phồng lên như hai cái cánh. Còn Thạch Đạt Lang chẳng nói chẳng rằng, lừng lững như cỗ xe vững chãi, đưa mắt nhìn lão bà bọ ngựa múa kiếm chạy quanh. Cảnh tượng thật nực cười, nhưng Thạch Đạt Lang không cười được. Hắn chỉ thấy thương.
Khi bà Hồ Điểu đến gần, giơ kiếm định đâm, hắn không tránh, giơ tay nắm chặt lấy khuỷu tay bà.
– Thôi mà, bà bớt giận để con nói.
Giọng hắn cầu khẩn. Đang đà, bà Hồ Điểu ngã xô vào người hắn. Hắn nhẹ nhàng đẩy ra.
– Bà hiểu lầm con rồi !
– Mày đừng tìm cách lừa gạt. Ta từng này tuổi đầu, ăn hơn mày bốn mươi cái Tết, mày chỉ đáng con cháu ta, chuyện gì ta phải nghe mày nói ?
Mặt bà đỏ gay, bọt sùi ra bên mép qua hai hàm răng vổ và thưa. Thạch Đạt Lang lắc đầu:
– Bướng quá sức ! Thật chẳng hổ danh dòng Hồ Điểu.
– Tiểu tặc đừng hỗn. Ta không nghe những lời tán tụng của mày đâu. Bỏ tay ta ra !
– Bà hãy nghe con giải thích …
– Không ! Không giải thích gì cả. Đọc kinh sám hối đi là vừa, trước khi ta chặt cổ mày !
Bà Hồ Điểu vùng vẫy giằng tay ra, dáng điệu hung hăng như con gà chọi.
– Bà không nghe con nói thì con phải đoạt thanh kiếm này.
– Hứ ! Đoạt đi ! Nó là đồ gia bảo nhà ta. Mày giết ta mới lấy được. Đừng hòng !
– Xin bà bớt giận. Tuổi bà đã cao, giận dữ không tốt. Hãy để Mãn Hà Chí nói bà rõ.
– Á ! Mày nói gì thằng Mãn Hà Chí ?
– Con có hẹn hôm nay gặp Mãn Hà Chí ở chân cầu. Nó biết rõ chuyện, bà đợi nó nói hết cho bà nghe.
– Xì ! Chỉ láo ! Thật xấu hổ, mày có phải con ông Mưu Ni Sai dòng họ Yết Mân không ? Ông ấy có dạy mày khì phải chết thì chết cho đĩnh đạt không ? Đừng tìm cách gạt ta để rồi trốn như lần trước !
Mắt bà long sòng sọc ngước nhìn Thạch Đạt Lang. Thấy hắn lặng thinh, bèn giật mạnh tay, nhưng vì dùng quá sức, bà bắn ra xa, ngã ngồi xuống. Thạch Đạt Lang định đến nâng dậy song bà đã đứng lên kịp, cầm gươm xông tới:
– Nam mô quan thế âm bồ tát !
Bà Hồ Điểu vừa niệm kinh vừa phóng ra một chiêu. Kiếm chiêu vừa run lại vừa chậm. Thạch Đạt Lang khẽ nghiêng mình né tránh. Bỗng thấy nhói bên mí mắt, hắn đưa tay lên sờ. Không có máu, chỉ thấy cay và hơi ngứa.
Bà Hồ Điểu quay lại tấn công lần nữa. Hắn nheo mắt nhìn. Mắt bên trái hắn cay như xát ớt, nước mắt chảy ra ràn rụa, hắn không hiểu tại sao.
– Nam mô a di đà Phật !
– Nam mô quan thế âm bồ tát !
Mỗi câu niệm Phật lại kèm theo một chiêu kiếm. Lão bà Hồ Điểu Anh điên cuồng chạy xung quanh Thạch Đạt Lang, phóng kiếm đâm chém liên tiếp. Đôi dép da trâu dưới chân bà kêu lép nhép, mà hắn chỉ nghiêng mình tránh né.
Thạch Đạt Lang phiền lòng quá. Nếu muốn, hắn chỉ giơ tay bà sẽ ngã ngay nhưng thấy bà yếu, hắn không nỡ. Mắt hắn bị thương, bây giờ cộm và ngứa. Hắn muốn giải quyết vụ này cho chóng xong mà chưa biết phải làm thế nào.
Đột nhiên, bà Hồ Điểu giả chạy quá đà, quay ngược lại dùng thế hồi mã chém một nhát vào đầu Thạch Đạt Lang. Đạt Lang giơ tay đỡ. Soạt ! Lưỡi kiếm cắt đứt miếng áo ngoài và chạm vào cườm tay hắn. Hồ Điểu Anh thấy đã chém trúng địch thủ, mừng rỡ nhảy lên:
– Mô Phật ! Phen này mày chết với ta !
Thạch Đạt Lang cau mặt. Từ trước hắn vẫn coi thường bà lão, không quan tâm điều thắng bại, nhưng bây giờ biết là lầm. Binh thư cũng như kinh nghiệm đều dậy không bao giờ được khinh địch. Theo luật giang hồ, như vậy là hắn bại rồi. Vết thương ở cườm tay tuy nhẹ, nhưng chứng tỏ hắn đã bất cẩn, một điều hết sức tránh trong khi giao đấu.
Thạch Đạt Lang hét một tiếng, chờ cho Hồ Điểu Anh đến gần, vòng tay ra sau lưng bà điểm mạnh một cái. Bà lão ngã sấp, kiếm văng sang bên. Bà không đứng dậy được nữa, mặt nhăn nhó. Thạch Đạt Lang dùng cầm nã thủ pháp khóa tay bà lại, đồng thời móc vào nẹp áo xách bà lên như xách con mèo. Tay kia hắn nhặt thanh gươm, cầm lăm la)m.
Bà Hồ Điểu rên rỉ:
– Thằng này hỗn, thằng này hỗn ! Mày làm gì ta vậy ? Ối chao, đau ! Bỏ ta ra !
Không còn Thần Phật gì nữa hay sao ? Thạch Kinh Tử. Thằng súc sinh này, mày hỗn quá!
Bà Hồ Điểu giẫy đạp như điên, mồm la bai bải. Mặc ! Thạch Đạt Lang làm như không nghe gì hết. Hắn giơ bà ra xa để bà khỏi đạp vào chân hắn rồi lầm lũi đi về phía đại kiều.
Đang phân vân không biết xử trí ra sao, bỗng xa xa gần bờ sông có chiếc thuyền nhỏ neo bên gốc liễu. Thuyền dường như bỏ trống. Một ý nghĩa thoáng hiện. Hắn xăm xăm xách bà Hồ Điểu đến bên thuyền, tìm dây trói chặt chân tay bà lại.
– Trời ời ! Thạch Kinh Tử, mày làm gì ta thế này ? Mày định trôi sông ta hay sao ?
Ừ giết ta đi, mày làm nhục ta quá rồi !
Thạch Đạt Lang không đáp. Nét mặt hắn đăm chiêu, vẻ buồn và hối hận thoáng lộ trên khóe mắt.
– Qúa lắm rồi ! Thật không còn Thần Phật trời đất gì nữa ! Thạch Kinh Tử ! Sẵn gươm kia sao mày không cho ta một nhát ?
Thạch Đạt Lang nhẹ nhàng đặt bà lão lên thuyền.
– Bà nằm tạm đây, con đi tìm Mãn Hà Chí.
Rồi hắn bỏ đi.
Nhưng bà Hồ Điểu không chịu. Bà la hét, gọi tên Thạch Đạt Lang chửi rủa, dùng hai chân bị trói đạp lung tung khiến chiếc thuyền nhỏ chòng chành tưởng sắp lật.
Đi một quãng, nghĩ thế nào, Thạch Đạt Lang quay trở lại. Hắn tìm giây chão buộc chặt hai đầu thuyền vào gốc liễu. Lại nhặt thanh kiếm gia bảo nhà Hồ Điểu tra vào bao rồi cẩn thận đặt lên thuyền bên bà lão.
Lần này hắn bỏ đi hẳn, giữa những tiếng mắng nhiếc và câu nói sau cùng nghe được của bà Hồ Điểu:
– Thạch Kinh Tử ! Mày nói theo kiếm đạo mà ngu quá, có biết gì về kiếm đạo. Lại đây ta dạy cho, thằng tiểu tặc …
Thạch Đạt Lang mỉm cười, lẩm bẩm:
– Để rồi sẽ học sau.
Mặt trời đã lên cao, đỏ chói trên bầu trời xanh nhạt không vẩn mây. Thạch Đạt Lang tưởng như những tia nắng mới của vầng thái dương xuyên thấu tâm can.
Hắn nghĩ đến điều dân gian thường tin tưởng:
mỗi năm vào ngày mồng một, đúng lúc bình mình, tia sáng đầu tiên của mặt trời sẽ làm tiêu tán con sâu tư kỷ nó đục khoét tâm ta và ràng buộc ta vào những ham muốn ti tiện. Ai bắt gặp tia sáng đó, suốt năm sẽ hưởng hạnh phúc, an vui.
Thạch Đạt Lang phanh ngực áo, hít một hơi dài. Hắn hy vọng.
Chương 33: Cố nhân
“Đại Tỉnh Môn, bắc Cổ Thành, đầu giờ thìn tháng mạnh xuân, ngày mồng chín …”.
Thạch Đạt Lang vẻ tư lự, lẩm nhẩm đọc ngày giờ và điểm hẹn cáo yết trên bảng gỗ dựng dưới chân cầu rồi thong thả lui vào một chỗ khuất đứng ngó mông lung.
Thấy mắt còn cộm, hắn đưa tay dụi, không ngờ chạm phải một vật cứng dính gần cổ áo. Rút ra xem, ra là một cây châm nhỏ bằng sắt giống như cái kim khâu nhưng không có lỗ chỉ, một đầu nhọn, đầu kia hơi loe buộc vài sợi tơ ngắn.
– À ra cái này đây !
Thạch Đạt Lang không ngờ bà già ghê gớm thế ! Trên bước đường giang hồ, hắn đã từng nghe nói nhiều đến thuật phóng châm của một số phụ nữ. Hắn không tin mấy, mặc dầu cho rằng thuật đó không hẳn là vô căn cứ. Nhưng dù có thật đi chăng nữa, chắc cũng chỉ là một tiểu kỹ của những kẻ yếu thế, gặp lúc cùng thì dùng để tự vệ, hắn chẳng quan tâm. Song qua kinh nghiệm vừa rồi, Thạch Đạt Lang thấy thuật phóng châm quả là một đòn nguy hiểm không thể coi thường. Cây châm nếu được phóng trúng vào con ngươi và chiêu kiếm của bà già nhanh hơn chút nữa thì trong lúc lúng túng dụi mắt, hắn đã bị khốn rồi. Hơn nữa, nếu cây châm lại được tẩm thuốc độc, kết quả còn đáng sợ gấp mấy ! Nghe nói người sử dụng tuyệt kỹ này có thể giấu rất nhiều châm trong tay áo hoặc trong miệng rồi xuất kỳ bất ý phóng ra có khi hai ba cái một lúc. Châm phóng bằng miệng phải luyện tập công phu và nếu không phải tay lão luyện, không dám dùng châm độc.
Chẳng biết bà Hồ Điểu đã sử dụng tuyệt kỹ nào, nhưng may cho hắn, châm của bà không tẩm độc chất, hắn chỉ thấy mí mắt ngứa xoàng và hơi cộm. Hắn vận khí thấy kinh mạch vẫn điều hòa không có triệu chứng gì tỏ ra bị ngộ độc thì yên dạ. Thạch Đạt Lang mở bọc định lấy lọ thuốc bột rắc vào chỗ ngứa, thình lình nghe sột soạt phía sau lưng.
Một thiếu nữ đã đứng đó tự bao giò, tay cầm giải lụa trắng đưa cho hắn, nói:
– Chớ dụi. Càng dụi mắt càng ngứa thêm. Thạch lang, chàng hãy lấy giải lụa này mà buộc !
Thạch Đạt Lang ngạc nhiên:
– Cô nương là ai ? Sao biết tại hạ ?
Thiếu nữ không đáp, chỉ đăm đắm nhìn. Lát sau thấy hắn vẫn đứng im như phỗng thì ra vẻ bối rối. Không giấu được vẻ buồn đượm chút tủi thân, nàng cúi đầu nói khẽ:
– Thạch Kinh Tử …à …à …Thạch Đạt Lang ! Chàng thật không nhận ra thiếp sao ?
Thạch Đạt Lang nhìn kỹ. Thiếu nữ này chắc thuộc hạng quyền quí trong xã hội.
Lối trang phục xa xỉ, áo bằng hàng lụa đắt tiền thêu hoa chim, nhưng nếp áo xô lệch.
Cửa tay và thân áo nhiều chỗ đã rách, vạt áo loang lổ những vết bùn dường như chưa được gột rửa kỹ. Da mặt nàng hơi xanh dưới lớp phấn thoa vội. Đôi môi nàng mọng, tô son đỏ thắm run run như sắp khóc hay định nói điều gì song cố giữ.
Trông nàng như con chim non bị bão, vậy mà trong cái tơi tả ấy, diện mạo thiếu nữ vẫn còn giữ được một vẻ đẹp lạ kỳ. Những đường cong của môi, của má, của cằm nàng mang một sức quyến rũ đặc biệt, đầy nữ tính. Thạch Đạt Lang so sánh thiếu nữ đứng trước mặt với Oa Tử. Hai người xấp xỉ cùng trạc tuổi như nhau, nhưng Oa Tử đẹp thanh cao, trang nhã và quý phái còn nàng này cũng đẹp nhưng đẹp cách khác. Ở khóe mắt bờ môi có một vẻ gì nồng nàn nó lôi kéo, thu hút người khác phái như một thứ nam châm hút sắt. Thiếu nữ trông quen lắm, hình như hắn đã gặp ở đâu rồi mà không tài nào nhớ ra được.
Sự im lặng của Thạch Đạt Lang làm thiếu nữ càng bối rối thêm. Sau cùng không nhịn được nữa, nàng òa lên khóc, giang tay ra ôm chặt lấy hắn:
– Thạch Kinh Tử.
Cử chỉ tự nhiên và tiếng kêu xuất phát tự đáy lòng có một cái gì khích động làm bừng dậy trong tiềm thức Thạch Đạt Lang những kỷ niệm cũ tưởng đã quên lãng từ lâu.
Văng vẳng, hắn nghe đâu đây tiếng nhạc khánh leng keng như khi ở trên đồi Ibuki, hắn còn là tên lính bại trận phải trốn tránh trong vựa củi của một căn trại đổ nát.
Và hắn sửng sốt kêu lớn:
– A Kế Mỹ ! Ồ A Kế Mỹ ! Nàng đã lớn từng này rồi đấy !
Nụ cười sung sướng nở trên môi, A Kế Mỹ gật đầu, trong khi mắt vẫn còn long lanh hai hàng lệ:
– Phải rồi ! Chàng đã nhớ ra người cũ ! Hơn năm năm rồi còn gì …
Nàng ôm chặt lấy Thạch Đạt Lang hơn và nói như trong giấc mộng:
– Thiếp đợi mãi mới có ngày nay. Thạch Kinh Tử, chàng có nhớ thiếp không ?
Thạch Đạt Lang chẳng biết trả lời sao. Đối với hắn, những ngày ẩn nấp trên đồi Ibuki là một giai đoạn kỳ thú trong cuộc đời trôi nổi của hắn. Mang ơn Ôkô, thanh mộc kiếm đen bóng như mun vẫn còn đeo bên sườn đây là kỷ niệm Ôkô tặng, nhưng hắn cũng không quên vì người phụ nữ đa tình ấy mà Mãn Hà Chí đã bỏ đi, gây cho hắn không biết bao nhiêu phiền lụy với gia đình nhà Hồ Điểu. Còn A Kế Mỹ, nàng chỉ là một cô bé ngây thơ ngẫu nhiên gặp trong những ngày đầu của cuộc đời phiêu bạc, rồi tan biến với thời gian, chẳng để lại một cảm tình gì sâu đậm trong lòng hắn. Đột nhiên bây giờ nàng lại hiện ra, đôi vai thổn thức, ánh mắt dậy thì đam mê trông hắn như van lơn, như cầu khẩn. Hắn biết trả lời sao đây ?
Thạch Đạt Lang không muốn làm phật lòng người thiếu nữ đáng thương kia, nhưng cũng không muốn nói dối. Bèn đánh trống lảng:
– Sao nàng biết ta ở đây mà tìm ? Nàng còn ở Ibuki không ? Mẹ nàng đâu rồi ?
Nghe hỏi đến mẹ, A Kế Mỹ như bị tổn thương, chỉ thổn thức mà không đáp.
– Còn Mãn Hà Chí nữa ? Ngày đó Mãn Hà Chí cũng bỏ đi với mẹ con nàng mà.
Bây giờ còn ở chung với mẹ nàng không ? Ta có hẹn gặp Mãn Hà Chí ở đây hôm nay, nàng biết chứ ?
Mỗi câu hỏi lại nhưng một mũi dao đâm sâu vào vết thương phiền muộn của A Kế Mỹ. Áp mặt vào ngực Thạch Đạt Lang, nàng chỉ biết nức nở lắc đầu.
– Mãn Hà Chí đâu, A Kế Mỹ ? Chuyện gì vậy ? Nàng không trả lời ta thì ta biết làm sao mà giúp nàng được ?
A Kế Mỹ nói qua nước mắt:
– Mãn Hà Chí không đến đâu. Thiếp đâu có nhắn cho ông ấy biết.
Thạch Đạt Lang gỡ tay A Kế Mỹ ra, nhìn thẳng vào mặt nàng. Nước mắt chan hòa nhòe nhoẹt cả son phấn. Hắn lấy tay áo lau mặt cho nàng. A Kế Mỹ giữ chặt tay hắn, muốn kể rõ mọi chuyện từ khi bỏ Ibuki đi ra sao và thổ lộ hết tâm sự với Thạch Đạt Lang nhưng có một cái gì làm nghẹn cổ họng. Nàng chỉ đứng lặng nhìn hắn, nước mắt chứa chan.
Trời đã sáng rõ. Tiết trời đầu năm bỗng ấm hẳn. Nắng xuân chan hòa loang loáng trên những cành tùng xanh biếc, vẽ loang lổ từng miếng ánh sáng màu nâu tươi trên nền đất ẩm. Gần bờ sông, ở một vài chỗ cỏ còn ướt, tia nắng rọi qua những giọt sương đọng trên lá chiếu thành những vòng hào quang ngũ sắc óng ánh như những chiếc cầu vồng nhỏ.
Người đi trên cầu mỗi lúc một đông:
phụ nữ mặc áo mới hoa sặc sỡ, thoa cài đầu lóng lánh dưới ánh nắng mai; đàn ông đứng tuổi trang nghiêm trong những bộ y phục sẫm hồ bột cứng nhắc. Họ đến chùa hoặc đi thăm bạn hữu ngày nguyên đán. Lẩn trong đám đông ấy, Giang cũng lên cầu, mắt nhớn nhác nhìn ngược nhìn xuôi tìm sư phụ.
Bỗng Giang reo lên một tiếng vui mừng. Nó vừa trông thấy Thạch Đạt Lang.
Nhưng này, ồ, lạ quá ! Sao thầy nó lại ôm trong lòng một thiếu nữ ? Mà thiếu nữ này không phải Oa Tử. Ai thế nhỉ ? Giang nhăn mặt khó chịu. Nó nheo mắt, lấy tay che nắng nhìn cho rõ. Đúng rồi ! Người đứng dưới chân cầu là Thạch Đạt Lang, sư phụ nó.
Cái dáng dấp cao lớn, ngang tàng, đôi song kiếm giắt bên hông, túi hành trang màu chàm đã bạc vì sương nắng, Giang không thể lẫn. Nhưng Oa Tử đâu ? Mà thiếu nữ kia là ai, sao thầy nó lại ôm nàng vào lòng giữa chỗ đông người qua lại như thế này mà không biết ngượng ?
Nó thường được dạy dỗ người tự trọng phải biết kềm chế dục tính, không bày tỏ tình cảm một cách thái quá trước công chúng, sao vị tôn sư khả kính của nó lại có thái độ tồi bại như vậy ? Giang mím môi, vừa mừng vừa giận, lại ghen hộ cho cô Oa Tử. Nó muốn chạy đến níu áo thầy. Đã lâu không gặp, thầy nó thấy nó chắc vui lòng, nhưng còn thiếu nữ kia, nó e dè không dám. Giang tuy nhỏ, nhưng cũng đã biết thế nào là tế nhị, không muốn làm người khác phải lúng túng.
Ít lâu nay, Giang và Oa Tử tạm nương náu trong khuôn viên lâu đài của Tả Xuyên Hầu Lưu Cát. Khi hai cô cháu mang tranh của viện chủ viện Arakida đến làm quà, Tả Xuyên Hầu thấy Oa Tử đang trong cảnh lưu lạc, người thân không có mà năm cũ sắp hết, bèn ngỏ ý lưu lại. Giang và Oa Tử bằng lòng ngay vì nghĩ không còn nơi nào an toàn hơn nữa.
Mới tối hôm trước, tin rằng thế nào Thạch Đạt Lang cũng có mặt tại đại kiều đường Gojo ngày nguyên đán, Oa Tử đã sắp sẵn bộ y phục nàng ưng ý nhất và tính những chuyện gì cần phải nói với chàng. Mới canh ba, Oa Tử đã dậy gội đầu chải tóc thật kỹ, lòng rộn ràng vui sướng như đứa trẻ sắp sửa được đi trẩy hội. Giang cũng đòi đi cùng, song Oa Tử không muốn. “Lần này ta để em cùng đi, nhưng lần này ta muốn gặp thầy em nói câu chuyện riêng. Thế nào em cũng gặp thầy mà, nhưng đến sau đi, ta và thầy em hứa sẽ đợi”.
Giang phụng phịu. Nó lơ mơ hiểu cảm tình của Oa Tử đối với thầy nó, có điều nó không biết tại sao một thiếu nữ đẹp, tài hoa và khôn khéo như Oa Tử lại cứ khóc mỗi khi nhắc đến Thạch Đạt Lang. Chắc có điều gì làm nàng phiền muộn lắm nên nó thương và bằng lòng để nàng có cơ hội giải bày tâm sự với thầy nó.
Giang ngó nháo nhác tìm quanh. “Kỳ thật ! Không lẽ cô Oa Tử không biết đường ?
Đáng lý ra phải đến đây lâu rồi chứ ! Hay lại tạt vào đền chùa nào cầu khấn gì chăng ?”.
Nó đi ngược đám đông quay trở lại, lòng bồi hồi lo lắng.
Trên cầu, khách vãng lai càng lúc càng tấp nập. Thạch Đạt Lang kéo A Kế Mỹ đến một chỗ khuất nẻo hơn.
Dưới gốc liễu ngay bờ sông, chỗ mọi ngày đàn sếu trắng vẫn thường đến đậu chờ mồi, hôm nay chẳng thấy có con nào. Một thanh niên còn trẻ lắm, y phục sặc sỡ, đứng ngay ở đó, lưng dựa vào cành liễu cỗi có đầu cành vặn vẹo sà trên mặt nước giống con rắn lớn. Gã thanh niên khoanh tay trước ngực, mắt chăm chú hướng về phía Thạch Đạt Lang và A Kế Mỹ.
Bên Thạch Đạt Lang, thiếu nữ vẫn sụt sùi, giọng thành khẩn kể lể nỗi niềm. Nàng đã quyết rũ bỏ hết lòng tự ái, không giấu Thạch Đạt Lang điều gì, chỉ mong mối tình vô vọng nàng ấp ủ bấy lâu nay được đáp ứng.
Tội nghiệp cho nàng ! Những lời kể lể ấy chẳng biết có lọt tai chàng thanh niên lãng tử kia không mà chỉ thấy hắn ừ hử hoặc gật đầu cho qua hay trả lời gióng một.
Mối tình thơ dại đẹp bao nhiêu cũng chỉ như đám bọt nước kia tung lên trắng xóa dưới chân cầu. Mà chân cầu thì hờ hững. Mà bọt nước thì tan đi, còn gì đâu dấu vết ?
Như linh cảm thấy mình đang bị dò xét, Thạch Đạt Lang chú ý nhìn quanh. Mục quang hắn quét từ gần ra xa, soi mói những bụi sậy xơ xác ven bờ, kín đáo dừng ở từng tảng đá. Sau cùng, nó ngưng lại, chăm chú vào gã thanh niên trang phục sặc sỡ đứng bên gốc liễu.
Thạch Đạt Lang mắt nâu. Lúc sinh tiền, ông Mưu Ni Sai vẫn bảo hắn:
“Thằng này mắt nâu, không như mắt ta, đen. Chắc nó giống cụ tổ cữu cũng có đôi mắt sắc như thế, tàn nhẫn lắm !”. Bây giờ, dưới ánh nắng chênh chếch, mắt Thạch Đạt Lang hồng lên rồi đỏ rực như hổ phách.
Hắn nhìn gã thanh niên. Gã thanh niên cũng nhìn lại hắn. Hai làn mục quang chạm nhau tưởng chừng tóe lửa.
Binh pháp có dạy trước khi lâm trận, hãy xét khả năng địch thủ trên đầu kiếm.
Đúng vậy, hai gã này đang thủ thế với nhau, không phải bằng kiếm mà bằng mắt. Như hai con dã thú gờm gờm nhìn nhau trước khi xông vào nhau cắn xé.
“Hừ !”. Gã thanh niên bên gốc liễu nghĩ thầm. “Chắc thằng này là Thạch Đạt Lang đây. Một địch thủ ta phải cẩn thận !”.
Thạch Đạt Lang càng lúc càng chú mục. Mắt hắn lộ hung quang xoáy về phía thanh niên thách đố. Và gã thanh niên không vừa, dường như gật đầu chấp nhận.
Bây giờ cường độ mục quang của cả hai không phải do mắt phóng ra nữa mà tự tâm khảm phát xuất. Nó là cường độ của ý chí, của quyết tâm không cần lời nói và cũng không gì lay chuyển.
Cả hai tuổi tác tương đương, Thạch Đạt Lang chỉ hơn gã kia chừng hai tuổi, cùng ở vào cái tuổi ngang tàng, không biết e sợ là gì, đầy tự tin và ngạo mạn đến liều lĩnh. Hai cá tính đó đối nhau, tất không khỏi va chạm. Và như hai con thú dữ, bản năng của chúng đều ngầm bảo chúng:
đối phương trước mắt là một kẻ thù nguy hiểm và đáng sợ !
Một lúc, thanh niên y phục sặc sỡ quay mặt đi, tránh tia mắt của Thạch Đạt Lang, khẽ nhếch mép. Thạch Đạt Lang thấy rõ nụ cười ngạo mạn ấy, nhưng hắn tin chắc trong trận vừa rồi, hắn đã thắng.
Cúi nhìn thiếu nữ đứng trước mặt, Thạch Đạt Lang để tay lên vai nàng:
– A Kế Mỹ !
Thiếu nữ ngước trông lên, lệ còn hoen má.
– Người đó là ai ?
A Kế Mỹ ngạc nhiên, nhìn về phía Thạch Đạt Lang hất hàm chỉ. Bỗng giật mình.
– Người đó có vẻ biết nàng. Hắn đã theo nàng đến đây để dò xét ta phải không, A Kế Mỹ ?
A Kế Mỹ lau nước mắt:
– Thiếp không rõ, nhưng người đó thiếp chỉ mới biết đây. Y là ân nhân của thiếp.
– …
– Hai hôm trước thiếp bị chó cắn, nhờ y cứu và gọi thầy thuốc đến chữa cho mới được thế này.
– Thế bây giờ nàng ở với hắn phải không ?
A Kế Mỹ cúi mặt.
– Tên hắn là gì ?
– Cát Xuyên Mộc. Người ta còn gọi là Giang Biên Liễu.
– Giang Biên Liễu ?
– Phải. Giang Biên Liễu là ngoại hiệu của y. Sao ?
– Ta nghe cái tên quen lắm, hình như trong giang hồ đã có nhiều người nhắc đến tên hắn.
Thạch Đạt Lang lại đưa mắt nhìn về hướng Cát Xuyên Mộc đứng và hỏi:
– Có phải hắn sử dụng một cây trường kiếm hỗn danh là cây sào phơi không ?
– Thiếp không biết, nhưng thanh kiếm của y quả có dài hơn kiếm thường.
Thấy Thạch Đạt Lang nhìn mình, Cát Xuyên Mộc mỉm cười, đôi má lúm đồng tiền.
Một điều lạ, Thạch Đạt Lang cũng mỉm cười đáp lại, nhưng nụ cười của cả hai chẳng giống nụ cười của đức Phật khi thấy đệ tử mình là Ananda bóp cánh hoa trong tay. Nụ cười Giang Biên Liễu ngạo mạn và mỉa mai; nụ cười của Thạch Đạt Lang ẩn một ý chí tranh đấu mãnh liệt, đầy thách thức.
A Kế Mỹ đưa mắt nhìn hết người này đến người kia, không hiểu. Thạch Đạt Lang khẽ vỗ vào vai nàng:
– A Kế Mỹ, thôi bây giờ hãy về phòng trọ đi. Ta sẽ lại thăm nàng sau.
A Kế Mỹ khóc nấc. Hắn phải cầm tay an ủi:
– Đừng ngại. Ta sẽ lại thăm nàng mà !
– Thạch Kinh Tử ! Thật nhé, thiếp đợi.
Thạch Đạt Lang gật.
– Thiếp trọ Ở thương điếm Hải Âu, trước thiền viện đường Quan Ngoại.
Thạch Đạt Lang lại gật.
Dường như không được hài lòng về thái độ của hắn, A Kế Mỹ nắm tay Thạch Đạt Lang bóp chặt, giọng run run qua hai hàng lệ:
– Nhé ! Thạch Kinh Tử ! Chàng nhớ đến nhé ! Nhớ đấy !
Cát Xuyên Mộc cất tiếng cười vang, trở gót. A Kế Mỹ vừa bước đi vừa ngoái lại.
Thạch Đạt Lang tần ngần đứng một mình dưới chân cầu, nhìn theo hai người, lòng buồn vô hạn.
Len lỏi giữa dòng người đi lễ tết đầu năm, Giang tìm mãi không thấy Oa Tử. Trên cầu hẳn là không có rồi. Nó chắc như thế vì đã đi lên đi xuống mấy lượt. Chỉ còn góc phố đằng kia, chỗ ngã ba cầu tiếp giáp với đường lên đền thờ đức Quan Âm là chưa tới.
Nó đến nơi, đang đứng ngơ ngác nhìn lên đền thì nghe tiếng gọi khẽ:
– Giang !
Quay lại, thấy Oa Tử ngồi nấp sau chiếc xe bò chở cỏ. Giang vui mừng quá sức, chạy ngay lại ôm chầm lấy nàng, vội vàng thế nào suýt đâm phải chiếc càng xe.
Hôm nay Oa Tử bới tóc cao, có thoa phân và bôi sáp môi đỏ. Nàng trang điểm trau chuốt, nhưng không được tinh luyện lắm. Nàng lại mặc bộ kimono mới có thêu những bông mẫu đơn trắng trên nền lụa nõn màu hoa đào cho hợp với cảnh tươi đẹp mùa xuân và lòng nàng bấy giờ.
Oa Tử giơ tay đón Giang vào lòng. Nhưng nó kéo nàng đứng dậy, liến thoắng:
– Sao cô nương lại nấp ở đây. Cô nương theo em, sư phụ đằng kia kìa. Không ra ngay, sư phụ bỏ đi mất.
– Không ! Em vào đây với ta, ta không ra đâu !
Giang ngạc nhiên, mở to mắt nhìn Oa Tử:
– Sao vậy ?
– Đừng hỏi tại sao. Em ngồi đây với ta.
– Chà ! Sao cô nương kỳ quá vậy ? Cô nương nói bao nhiêu lần là muốn gặp sư phụ, bây giờ thầy em ngoài kia, cô nương lại trốn nấp ở đây. Cô nương mặc đẹp thế này để ngồi dưới gầm xe bò hả ?
Lời nói ngây thơ của thằng bé như roi quất những vết hằn đau đớn trong lòng Oa Tử. Nàng lắc đầu, mắt rưng rưng lệ:
– Giang ! Em đừng nói thế, đau lòng ta. Em mà cũng tàn ác với ta đến thế ư ?
Giang ôm lấy vai Oa Tử. Nó không dám để đầu gần tóc nàng sợ hư mái tóc chải công phu. Thấy vạt áo Oa Tử ướt, nó biết nàng đã khóc nhiều:
– Em xin lỗi, em không có ý ấy. Nhưng em không biết tại sao …
Oa Tử lau nước mắt:
– Tìm hiểu làm gì, em !
– Thế cô nương có trông thấy sư phụ Ở dưới chân cầu không ?
Oa Tử gật đầu.
– Vậy em biết rồi nhé ! Cô nương ghen phải không ? Cô nương trông thấy thầy em ôm người con gái ấy chứ gì ?
Oa Tử thấm nước mắt, lắc đầu.
– Cô nương không biết gì hết, chỉ biết khóc thôi. Mình nghi ngờ thì phải đến hỏi cho ra lẽ chứ ! Đi ! Đi với em mau lên, không sư phụ em không còn ở đó nữa.
Giang cầm tay Oa Tử kéo ra khỏi chỗ nấp. Nàng giằng lại. Thằng bé phân vân một lúc rồi rảo bước lên cầu đứng trông xuống, không thấy thiếu nữ kia đâu. Bỗng nó reo lên như chợt nhớ ra điều gì, chạy ngược lại chỗ Oa Tử:
– A Kế Mỹ ! Phải rồi ! Đi mau cô nương, A Kế Mỹ không còn ở đấy nữa !
– A Kế Mỹ là ai ?
– Là cô gái đứng nói chuyện với sư phụ đó. Em nhớ ra rồi. Một lần em gặp cô ấy giặt áo ở ven sông, có nhờ cô ấy chuyển lời nhắn ông Mãn Hà Chí mà. Đúng rồi ! Đúng rồi !
Oa Tử lính quýnh theo Giang. Khi nhìn rõ không còn A Kế Mỹ ở đó nữa, nàng mới yên dạ. Nhưng nàng cũng trở lại chỗ cũ sửa lại mái tóc và nếp áo xô lệch, thoa thêm chút phấn lên mặt.
– Trời ơi ! Cô nương ! Giờ này mà cô nương còn làm dáng thì trễ mất !
Giang vừa kêu vừa dậm chân xuống đất bành bạch.
Quả nhiên, Thạch Đạt Lang đã không còn ở dưới chân cầu. Biết chắc Mãn Hà Chí không tới, hắn vội vàng men theo bờ sông, đến chỗ buộc thuyền giữ bà Hồ Điểu.
Bà già thấy hắn đến, đưa mắt nhìn lo sợ. Thạch Đạt Lang rút đoản kiếm, nhưng hắn chỉ nói:
– Mãn Hà Chí không đến.
– Bây giờ mày giết ta phải không ?
– Không. Con cởi trói cho bà để bà đi tìm Mãn Hà Chí hỏi cho ra lẽ, dẫn hắn về nhà. Con nghĩ như thế hơn là bà tìm cách cắt cổ con.
Thạch Đạt Lang vừa nói vừa cười. Hắn đưa mũi kiếm cắt dây trói. Bà Hồ Điểu lúng túng ngồi dậy:
– Ta biết phải làm gì. Ta không cần mày khuyên !
Thời gian bà cởi được hết dây trói thì Thạch Đạt Lang đã đến chỗ khúc sông hẹp, nhảy qua các ghềnh đá sang bờ bên kia, lẩn vào những bụi lau sậy mất dạng.
Trên lũng cao, Giang thoáng thấy bóng thầy. Nó kêu lớn:
– Cô nương ! Cô nương ! Ở dưới lũng, sư phụ Ở dưới lũng gần bờ sông !
Giang ba chân bốn cẳng đổ dốc. Nó còn nhỏ, nhanh như con sóc. Nhưng Oa Tử vướng áo, chỉ bước được những bước ngắn. Đến gần bờ sông nàng ngừng lại, lên tiếng gọi.
Trên mặt sông rộng, tiếng nàng bay bổng vang xa. Cơn gió thoảng đưa đôi lúc dội lại nghẹn ngào tha thiết như tiếng hò trong đêm vắng.
– Oa Tử !
Âm thanh nhọn hoắt, the thé bỗng làm nàng giật mình. Ngoảnh lại, bà Hồ Điểu đã đứng chỉ cách chỗ nàng chừng vài chục bước. Oa Tử kinh hãi vô cùng. Trong lúc thảng thốt, toàn thân như bị tê liệt, nàng đứng sững. Khi hoàn hồn, bà Hồ Điểu đã tiến tới gần ? Bấy giờ Oa Tử mới kịp phản ứng. Tim nàng đập mạnh, máu dồn lên mặt, Oa Tử quay phắt đầu, cắm cổ bỏ chạy.
Bà Hồ Điểu nhìn theo, gọi:
– Oa Tử ! Đứng lại ! Ta muốn nói câu chuyện !
Trong bộ Óc đa nghi của bà, dần dần hiện ra một ý nghĩ. Bà đã hiểu tại sao Thạch Đạt Lang lại trói bà bỏ lên thuyền. À thì ra hai đứa nó có hẹn với nhau, nó trói mình lại để tự do gặp nhau. Chắc con này đã làm gì phật lòng thằng kia nên nó bỏ đi. Ta biết mà, chúng nó lừa ta thế nào được. Con Oa Tử này thật bất trị !
Trong thâm tâm, bà Hồ Điểu còn ghét Oa Tử hơn Thạch Đạt Lang. Nó đáng lẽ là con dâu bà mà thành ra vì nó mà gia đình bà mất cả thanh danh. Bà cất giọng giận dữ:
– Oa Tử !
Tiếng kêu chưa dứt, bà đã bị một cái đạp vào bắp chân suýt ngã. Giang đứng đằng sau, hai tay chống nạnh:
– Bà là ai, làm gì mà lại đuổi cô Oa Tử ?
– A ! Thằng ranh con, mày ở đâu tới ?
Oa Tử chạy được một quãng, không thấy chân người đuổi theo, bèn dừng lại thở.
Nhìn về phía sau, xa xa, thấy Giang và bà Hồ Điểu đứng đối diện nhau tự a hai con gà chọi, nàng hơi lo. Oa Tử chẳng lạ gì tính bà lão, già nhưng còn hung hăng lắm mà Giang thì nàng thừa biết, nó loắt choắt nhưng nhanh nhẹn vô cùng. Nếu cả hai cùng xông vào quần thảo nhau, tất Giang rút cây kiếm gỗ ra. Bà Hồ Điểu cũng đến phải dùng thanh gươm gia bảo. Dám một hay có khi cả hai bị thương hoặc vong mạng cũng chưa biết chừng.
– Ranh con, mày đi cùng với con Oa Tử phải không ?
– Phải ! Bà là ai ?
– Ta là mẹ nó !
Giang giật mình. Bà già này là mẹ Oa Tử à ? Sao không bao giờ thấy Oa Tử nói đến. Nhưng nghe xưng danh, Giang cũng khựng lại, không dám hỗn.
– Thế sao bà lại đuổi cô Oa Tử cháu ?
Thấy thái độ thằng bé đổi khác, bản tính quỷ quyệt của bà Hồ Điểu nổi dậy. “Phải dùng mưu mới được”, bà tự nhủ. “Đối với thằng Kinh Tử có lẽ nó chẳng tin ta đâu, nhưng con Oa Tử và thằng nhỏ này, chắc lừa không khó. Mình cứ vui vẻ tử tế dụ chúng vào tròng, sau làm thịt mấy chốc !”. Nghĩ đoạn, bà làm bộ tươi cười:
– Ờ ! Tại ta bảo nó không nghe. Nhưng mẹ nào chả thương con, ta muốn gọi nó về, để nó lang bạt tội nghiệp.
– …
– Thế còn cháu ! Sao cháu biết Oa Tử ? Cháu con cái nhà ai ?
Giang thấy bà lão vui vẻ, lại ngồi xuống bên gốc cây nói năng hòa nhã, cũng nhẹ nhàng đáp lại:
– Tên cháu là Giang. Cháu không có nhà, gặp cô Oa Tử cùng đi tìm sư phụ.
– Ồ ! Vậy ư ? Cháu ngoan quá. Cháu lên mấy rồi ?
– Thưa mười hai.
– Ta muốn nhờ cháu một việc, cháu làm giúp ta được không ?
Giang phân vân. Bà Hồ Điểu kéo tay áo chấm nước mắt rồi nói giọng buồn bã:
– Oa Tử là con dâu ta đấy. Từ ngày nó bỏ đi, ta thương nhớ lắm, mấy lần bảo nó về mà nó chẳng nghe.
Bà Hồ Điểu sụt sịt:
– Ta nhờ cháu đến bảo Oa Tử lại đây ta nói chuyện !
Giang mủi lòng. Bà này chắc nói thật. Nếu cô Oa Tử không muốn về thì trở lại nói chuyện với bà lão một lúc cũng chẳng hề gì. Bèn nói:
– Thật hả bà. Thế để cháu đi gọi !
Bà Hồ Điểu vui vẻ gật đầu, nhìn Giang chạy đi, cười thầm trong bụng.
Lát sau, Giang dắt Oa Tử trở lại. Tuy còn nghi hoặc, nhưng nghe lời Giang, Oa Tử thấy đây cũng là dịp tốt để nói cho bà Hồ Điểu biết hết mọi sự, hầu đánh tan những hiểu lầm từ trước.
Bà già cười hí hí:
– Oa Tử đấy à ? Sao gặp ta con lại chạy ?
Oa Tử phủ phục xuống đất:
– Bà tha lỗi cho con.
Bà Hồ Điểu đưa tay đỡ Oa Tử dậy, bảo nàng ngồi cạnh:
– Con dâu ta có lỗi gì đâu ! Lỗi ở thằng Mãn Hà Chí cả. Trước ta giận con lắm, nhưng nay ta biết, ta thương con. Dễ đã đến năm năm rồi đấy nhỉ, từ bấy đến nay, bao nhiêu nước chảy qua cầu …
– Nếu bà biết như thế thì may cho con lắm.
Bà Hồ Điểu giơ tay lên má, đập mạnh:
– Chà ! Cái con muỗi quỷ này. Mới nắng lên đã thấy muỗi ! Ở, nhưng mà này Oa Tử ạ ! Ta là mẹ thằng Mãn Hà Chí, có tha lỗi cho con thì cũng phải dàn xếp để đẹp lòng nó chứ. Mặc dầu nó bỏ con đi với người khác nhưng nay đã biết hối trở vể. Ta muốn con về nhà, rồi cả hai vợ chồng con ngồi trước mặt ta để ta khuyên bảo. Như thế ta mới yên lòng làm mẹ.
Oa Tử muốn nói một lời phản đối, nhưng nghĩ có lẽ chưa phải lúc. Nàng chỉ ấp úng:
– Dạ, con hiểu.
Bà Hồ Điểu cũng đoán biết ý nghĩ thầm kín của Oa Tử. Đã khôn lại ngoan, bà chặn ngay:
– Nếu con không muốn chung sống với nó nữa thì ta tưởng đây cũng là dịp tốt, trước mặt ta, nói thẳng cho nó biết. Như thế thì dứt khoát và ta nghĩ, vậy có lẽ lợi cho tương lai của con hơn.
Oa Tử thấy bà lão nói phải. Nhưng chưa vững tin, nàng hỏi vặn:
– Thưa bà, nếu con bằng lòng thì biết tìm Mãn Hà Chí ở đâu ?
Bà Hồ Điểu cười:
– Dễ quá mà. Ta lạ gì chỗ nó ở. Nếu con bằng lòng, ta chỉ cho người đến gọi vài ngay là nó trở về ngay. Nó là con ta, ta bắt nó làm gì nó chả phải làm ?
Một con cáy càng đỏ tía từ trong cái hốc nhỏ ở bờ sông bò ra. Giang rình chộp ngay được. Nó cầm con cáy rón rén bước đến đằng sau bà Hồ Điểu bỏ nhẹ lên khăn đội đầu.
Oa Tử muốn chắc có kết quả, đề nghị:
– Con xin tiếp tay bà, đi tìm Mãn Hà Chí.
Bà Hồ Điểu nắm ngay lấy cơ hội:
– Vậy còn gì bằng. Thế con đến trọ cùng với ta. Năm nào đến Kyoto ta cũng ở trọ tại một quán nhỏ trên đồi Sĩ Miên. Ở đó tĩnh, lễ Phật không ai làm rộn mà lại rẻ tiền, con ạ !
Bà Hồ Điểu thấy nhột sau lưng giữa hai lần áo. Ngoái tay ra sau, bà vớ được con cáy giơ lên.
– Con quỷ này, sao lại bò vào áo ta được kìa !
Giang đứng sau gốc liễu, bưng miệng cố nín cười. Oa Tử cúi mặt vờ như không thấy nhưng cũng mỉm cười. Thằng bé tinh nghịch quá !
Cả ba người, Giang, Oa Tử và bà Hồ Điểu, rời bờ sông theo đường mòn ra đại lộ.
Oa Tử bảo bà Hồ Điểu đi trước. Nàng muốn lui lại phía sau nói với Giang vài lời để nó biết chuyện và trấn an nó:
– Em cứ trở về chờ ta ở khuôn viên lâu đài Lưu tướng công. Nếu ngài có hỏi thì bảo một hai hôm ta sẽ trở lại. Ta phải đi dàn xếp việc riêng nhé !
– Dạ ! Cô nương đừng ngại. Em sẽ chờ cho đến khi nào cô nương về.
– Nếu em rỗi, thử dò xet tin tức Thạch Đạt Lang hộ cho ta.
– Thế lúc sáng sao thấy sư phụ, cô nương lại trốn.
Oa Tử thở dài:
– Ta dại quá !
Đến đầu cầu trời đã gần trưa. Người đi lại trên cầu vẫn tấp nập. Một đám đông lố nhố đứng vây quanh tấm bảng gỗ dựng ở dưới chân cầu, bàn tán:
– Thạch Điền Đạt Lang, tôn huynh có biết là ai không ?
– Có, tại hạ có nghe nói. Chắc tay này cũng phải là một tay cao thủ mới dám đơn thương độc mã chống với phái Hoa Sơn chứ.
Giang cũng chen vào đọc bảng cáo yết. Tin lãng nhân kiếm sĩ Thạch Điền Đạt Lang đương đầu với Hoa Sơn được truyền đi nhanh như mồi thuốc súng !
Chương 34: Đồng cỏ úa
Đại Tỉnh Môn là một đồng cỏ, trước kia dành cho hoàng cung dùng làm mục trường nuôi gia súc. Đồng rộng bao la nhưng không bằng phẳng, đồi nọ tiếp đồi kia trải dài đến tận chân núi. Đây đó vài khu rừng phong thưa, lẫn với nhiều gốc tùng cổ thụ điểm những nét xanh đen trên nền cỏ úa. Đường mòn ngang dọc khắp nơi, ngoằn ngoèo ẩn hiện giữa những hàng lau già xơ xác mà hoa lau muộn từ cuối thu năm ngoái vẫn còn bạc phau, nghiêng ngả.
Vào thế kỷ trước, đồng này có một cái giếng lớn lộ thiên, nước luôn luôn trong và ngọt nên mới có tên là đồng Đại Tỉnh. Giếng sau bị cạn không hiểu vì lẽ gì, cỏ cũng kém xanh dần, thành ra đồng bị bỏ phế. Hoàng cung sai người mang gia súc đi chăn nơi khác, từ đấy đồng Đại Tỉnh trở thành hoang địa.
Đồ đệ Hoa Sơn khoảng chừng hai chục người tụ tập dưới chân đồi từ sáng sớm, gần sơn đạo đi Nara. Sau vài ngày nắng dịu đầu năm, tiết trời bỗng trở lại lạnh. Gió đông bắc thổi nhiều, chúng ngồi sát vào nhau quây quần bên đống lửa, mặt ai nấy đăm chiêu tư lự. Về phía nam cổ thành, đỉnh núi Vân Sơn, tuyết phủ trắng phau, lấp lánh giữa những cành phong trơ trụi. Thỉnh thoảng một tiếng chim sớm lảnh lót vang lên nhưng rồi tắt phụt, thê lương như cánh đồng hoang phế.
Chúng ngồi như vậy dường đã lâu lắm, chẳng ai nói vứoi ai câu gì. Bỗng Ưng Đằng lên tiếng phá tan bầu không khí yên lặng:
– Mấy giờ rồi ?
Bọn đàn em cùng ngửng lên nhìn trời, đồng thanh đáp:
– Dễ đến cuối giờ thìn.
– Sương tan gần hết rồi. Sao không thấy đại ca đâu nhỉ ?
– Đại ca bảo cứ ngồi đây chờ. Chắc cũng sắp tới !
Một người nóng ruột, chạy ra phía sơn đạo, nhìn xuống dưới dốc. Đường đất đỏ vắng tanh, gió thổi rạp đầu những ngọn bông lau hiu quạnh. Bóng một con sóc đen vụt qua, lẩn vào bụi cây, êm và nhẹ như chiếc lá rụng. Ưng Đằng bồn chồn. Hắn sửa lại y phục, xắn cao tay áo, buộc cổ tay bằng hai sợi dây da cho gọn rồi nói:
– Ta nóng ruột quá ! Giờ hẹn qua đã lâu …
– Huynh trưởng có nghĩ là đại ca ở phía gần giếng không ? Mình hẹn gặp nhau ở khu Đại Tỉnh Môn mà !
– Có thể lắm. Đứa nào chạy ra đó coi xem sao !
Nhưng chẳng ai động tĩnh, vì chẳng ai muốn một mình làm chuyện nguy hiểm ấy mà Ưng Đằng xem ra cũng không có chủ ý gì nhất định. Cả bọn vẫn ngồi lẳng lặng nhìn ngọn lửa lụi dần, khói đen cuồn cuộn bốc cao rồi tản theo chiều gió. Một đứa nói bâng quơ:
– Không biết đại ca bảo đợi ở đây hay bên ấy ?
– Ở đây ! Chắc chắn ở đây !
Xác nhận xong, Ưng Đằng đưa mắt nhìn thuộc hạ:
– Thằng Đạt Lang đó bây giờ ở chỗ nào thì mình không biết, nhưng đại ca bảo mình đợi ở đây thì cứ đợi ở đây. Chúng ta không thể phân tán ra nhiều nơi được, nguy hiểm lắm. Vả cũng không nên đi tìm, giang hồ sẽ bảo mình ỷ chúng hiếp cô, còn gì là danh dự của bản phái ?
Ngồi yên một lúc, hắn lại tiếp:
– Mà thằng đó là cái gì mà mình phải quan tâm ? Chẳng qua chỉ là một tên nhà quê có chút sức mạnh. Dù nó có học mót được vài đường kiếm thì cũng khó mà địch được đại ca …
Tuy một số trong bụng không đồng ý vì đã chứng kiến trận đấu kiếm năm trước giữa Thạch Đạt Lang và môn đệ bản phái tại võ trường Hoa Sơn, nhưng lời nói của Ưng Đằng tựa như liều thuốc an thần, nếu không làm phấn khởi bọn đàn em thì nhất thời cũng giữ vững được tinh thần của chúng.
Vẻ mặt đa số bây giờ trông tươi hơn. Chúng bàn tán xôn xao:
– Ưng lão huynh nói phải lắm …
– Phải rồi ! Chúng ta nên nhớ trong cuộc tỷ võ này, đại ca sẽ cho thằng ấy một bài học để nó câm cái mõm chó má của nó lại, đừng huênh hoang khoác lác nữa.
– Lần này võ lâm thế nào cũng có người theo dõi. Ta phải cẩn thận lắm mới được.
Nếu không trực tiếp trợ giúp đại ca ta cũng nên đi theo để cổ võ …
– Đại ca đã căn dặn đợi ở đây. Dù sao cũng cứ chờ lệnh đã.
Mặt trời lên cao. Giờ thìn qua từ lâu, sang đến giờ tỵ, rồi cuối tỵ mà Sĩ Khánh vẫn chưa đến. Thạch Đạt Lang cũng chẳng thấy tăm hơi đâu. Vẻ lo lắng hiện trên nét mặt của cả bọn.
Dọc theo sơn đạo đi Nara, ở ven suối cũng như trong các lùm cây rải rác đã thấy lỗ nhố bóng người. Đấy là những kẻ hiếu kỳ nghe nói có cuộc tỷ võ thì đến coi cho biết.
Tiếng bàn tán theo gió thoảng đưa đến tai bọn đồ chúng Hoa Sơn:
– Thạch Đạt Lang đâu ?
– Không biết ! Cả Sĩ Khánh hình như cũng không có mặt.
– Lạ nhỉ ! Thế đám ngồi kia là những ai ?
– Nếu không phải là phen bên này thì cánh bên kia. Đến để ủng hộ chứ gì ?
– Lạ ! Tỷ kiếm gì mà đối thủ chả thấy đâu, chỉ thấy có người cổ võ.
Ưng Đằng và thuộc hạ nghe những lời bàn tán tiếng còn tiếng mất không rõ ràng nhưng cũng đoán được ý chính. Hắn bực lắm, định bảo một tên đàn em ra đuổi bọn đó đi nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Dù sao, những điều họ nói ra đều là sự thật. Vả chăng, họ cũng khôn ngoan đứng ở phía xa, nấp sau bụi cây nói lén, mình đến dọa nạt chỉ tổ mua cười cho thiên hạ. Đám người hiếu kỳ mỗi lúc một đông thêm, thấp thoáng có cả bóng phụ nữ.
Giang cũng là một trong số những kẻ hiếu kỳ đó. Nó đội nón nan rộng vành, chữ “giường cho thuê” viết trên đó nay đã nhạt màu, trông lờ mờ không rõ nét. Chân nó đi đôi hài xảo cũ, lưng đeo kiếm gỗ, dài như cái đòn gánh, bên hông lủng lẳng túi hành trang vải thô lớn trông thật tức cười, nhưng ra phết giang hồ lãng sĩ lắm. Giang len lỏi đi từ toán người này đến toán người khác, chú ý nhìn khắp mặt phụ nữ.
“Quái nhỉ, cô Oa Tử đâu sao không thấy ? Cô cũng đã đọc bảng cáo yết rồi mà !
Hay là bà cụ già lại không cho đi !”.
Hôm nay Giang ra đây, hy vọng thế nào cũng tìm được sư phụ. Nó không sợ sư phụ nó gặp nguy hiểm vì nó đã mấy lần chứng kiến tài năng của ông, khi ở cánh đồng Hannya cũng như khi giao đấu với ba đại hiệp nhà Trúc Mộ. Nó tin tưởng vào sức mạnh cũng như những chiêu kiếm thần tốc của thầy nó, những chiêu kiếm mà Giang ước mong một ngày nào rảnh rỗi, thầy nó sẽ truyền thụ lại cho nó. Điều làm Giang lo lắng nhất là sự không có mặt của Oa Tử. Nó không biết nàng đang gặp những trở ngại gì.
Trong trí tưởng tượng ngây thơ và phong phú của nó, Giang hình dung ra Oa Tử bị yếu đau không ai săn sóc. Bà già kia tuy nói là mẹ nhưng không làm nó yên tâm. Không hiểu sao Giang linh cảm bà tìm cách lừa dối và ly gián cô cháu nó. Thâm tâm, Giang coi bà già kia nhưng một con mẹ phù thủy nham hiểm hiện ra để bắt cô Oa Tử đi, như trong các chuyện thần tiên nó đã thường được nghe kể, những bà lão mũi khoằm răng vổ bắt các thiếu nữ xinh đẹp đem đi giết chết. Nghĩ đến Oa Tử bị giết chết, Giang sợ hãi quá chừng. Nó kêu lên một tiếng nhỏ rồi tự trấn an:
“Chắc không có chuyện ấy đâu !”.
Nhưng rồi nó vẫn lầm bầm nguyền rủa bà già độc ác.
Mãi suy nghĩ không để ý, Giang đâm sầm vào một thanh niên cao lớn. Nó giật mình, lí nhí một lời xin lỗi. Thanh niên kia nhìn nó từ đầu đến chân, nói:
– Hà ! Bé con ! Mấy hôm nay sao ta không thấy mày ở đầu cầu đường Gojo ?
Giang ngạc nhiên, trố mắt:
– Tráng sĩ là ai, sao gặp cháu ở đó ?
Nhưng nói xong, nó đã sực nhớ ra ngay người vừa gọi nó:
– À, phải rồi. Tại hôm nay tráng sĩ không mặc áo đỏ nên cháu không nhận ra !
Thanh niên mỉm cười:
– Ờ ! Hôm đó ta gặp mày đi với một thiếu nữ kia mà. Thiếu nữ đâu rồi ?
– Đấy là cô Oa Tử.
– Thiếu nữ đó tên Oa Tử à ?
– Dạ phải.
– Có bà con gì với Thạch Đạt Lang không ?
Nghe hỏi, Giang bực mình, đáp lơ lửng:
– Dạ, dạ …
– Dạ dạ cái gì ? Nàng là em họ Thạch Đạt Lang phải không ?
– Dạ không.
– Em gái ?
– Cũng không phải.
– Vậy bà con ra sao ?
– Cô Oa Tử yêu Thạch Đạt Lang.
– Vậy là ý trung nhân hả ?
– Cháu không biết. Thạch tiên sinh là sư phụ cháu.
Lần đầu tiên Giang gọi Thạch Đạt Lang bằng tiên sinh vì cô Oa Tử đã dạy nó phải trọng thầy. Nó vênh mặt nhìn gã thanh niên. Gã nhìn lại nó, quắc mắt:
– Thảo nào mày ra đây. Sư phụ mày đâu, sao không thấy. Mọi người đang chờ.
Giang tức giận thật sự:
– Sao tráng sĩ hỏi vậy ? Cháu không biết, cháu không cùng đi với sư phụ.
Chợt một bọn ba người chạy đến, dẫn đầu là Ưng Đằng. Nhìn gã thanh niên, hắn reo lên:
– Cát Xuyên đại hiệp ! Chà ! Bữa nay mới thấy đại hiệp đấy !
– Ưng lão huynh ! Tại hạ cũng vừa tới.
Ưng Đằng mừng rỡ dắt tay thanh niên đến bên đống lửa. Đồ đệ Hoa Sơn đứng cả dậy thi lễ.
Thấy mọi người vây chung quanh một trang thanh niên dáng cao lớn, đeo trường kiếm, khách bàng quan truyền miệng nhau ra vẻ hiểu biết:
– Chắc là Thạch Đạt Lang. Trông người khí phách đấy chứ !
– Chắc không ?
– Thì còn ai vào đấy nữa ?
– Ờ, dáng dấp hiên ngang thế kia. Phải cái y phục hơi diêm dúa !
– Không ! Không phải Thạch Đạt Lang đâu. Giang vội cải chính. Thạch Đạt Lang gì mà ăn mặc như kép tuồng vậy.
Mọi người cười ồ, chưa rõ thằng bé này là con cái nhà ai thì Giang đã phưỡn ngực đáp:
– Ta là học trò của Thạch tiên sinh !
Đám đông xúm lại hỏi han, Giang hãnh diện tả hình dáng sư phụ, nhưng đến khi bị hỏi sư phụ đâu, sao không đến, nó lúng túng chẳng biết trả lời làm sao. Mọi người bán tín bán nghi, nghểnh cổ nhìn. Có kẻ kiên nhẫn chờ, có kẻ chán nản bỏ về không quan tâm đến vụ tỷ thí nữa.
Cát Xuyên Mộc đến ngồi bên Ưng Đằng. Từ sau ngày nguyên đán, hắn không còn lui tới võ đường Hoa Sơn, mà Sĩ Khánh thì buồn bực có ý giận ông khách kém nhã nhặn và vô tâm nên cũng chẳng sai người đi tìm. Phần Cát Xuyên Mộc, hắn chẳng chú ý đến cuộc tranh chấp nữa, vì kể từ khi gặp Thạch Đạt Lang dưới chân cầu đường Gojo, đối phó với tia mắt đầy hung quang và quyết liệt của gã, Cát Xuyên Mộc đã biết kết quả ra sao rồi. Nhìn bọn đồ đệ Hoa Sơn, kể cả những tay trụ cột trong phái như Ưng Đằng chẳng hạn, ngồi ỳ ra bên đống lửa chờ lệnh, Cát Xuyên Mộc đem lòng thương hại. Hắn đã định chẳng nói ra nhưng không dằn được bất nhẫn:
– Thạch Đạt Lang không đến, thật là phúc cho Hoa Sơn lắm. Các vị còn ngồi đây làm gì. Sao chẳng chia nhau ra đi đón đại ca các vị dẫn về võ đường thôi, kẻo mà mất mạng sớm !
Mọi người ồ lên một tiếng. Có người giận quá định cất tiếng thóa mạ thì Cát Xuyên Mộc đã chặn ngang:
– Tại hạ nói như vậy cũng chỉ có ý mưu cầu an lạc cho chưởng môn quý phái chứ chẳng có hậu ý gì khác. Trong cuộc giao đấu này, Sĩ Khánh không thủ thắng được. Nếu y không bị Thạch Đạt Lang giết thì cũng mang thương tật suốt đời.
Ưng Đằng đứng phắt dậy, tay để vào đốc kiếm, trừng mắt hét lớn:
– Thằng con nít này, sao dám buông những lời ngông cuồng quá sức, không coi ai ra gì cả ?
Cát Xuyên Mộc cười khẩy:
– Tại hạ biết những lời nói thẳng của tại hạ sẽ làm quý vị mếch lòng. Trung ngôn nghịch nhĩ. Nếu quả thật các vị không ưa, tại hạ xin rút lại lời nói ấy vậy ! Có điều, tại hạ cũng xin kiếu, không thể tiếp tay các vị được !
– Ai nhờ ngươi tiếp tay ?
– Thì Hoa Sơn Sĩ Khánh và cả các vị nữa. Các vị đã mặc nhiên có thái độ ấy !
– Láo !
– Vậy nếu không thì tại sao các vị lại đãi ngộ tại hạ như đã làm trong mấy tuần nay?
– Đó chỉ là vì lòng hiếu khách. Chúng ta muốn xử tốt với ngươi. Thế thôi !
– Ha ha ! Nếu chỉ có thế thì tại hạ cám ơn ! Nhưng này, tại hạ cảnh cáo:
nếu các vị bỏ ngoài tai lời tiên đoán của tại hạ, các vị sẽ hối không kịp. Thạch Đạt Lang không phải con người tầm thường. Y rất nguy hiểm. Nguy hiểm không những cho chưởng môn các vị mà còn cho cả phái Hoa Sơn nữa. Tại hạ đã có dịp nhìn đôi mắt y, quyết liệt vô cùng mà cũng tàn nhẫn vô cùng …
– Thôi ! Đủ rồi ! Giờ này không phải lúc để ngươi nói những lời làm nhụt nhuệ khí bọn ta !
Nhưng Cát Xuyên Mộc làm như không nghe tiếng. Hay hắn chẳng coi những lời ấy vào đâu. Hắn tiếp, còn cay độc hơn nữa:
– Những kẻ trong cảnh suy tàn thường không chịu nhận lời nói thẳng.
Và chế giễu:
– Tấm cáo thị các vị cho cắm dưới chân cầu là bảng cáo phó của phái Hoa Sơn !
Thật đáng buồn tại hạ phải chứng kiến cảnh trụy lạc của một môn phái vẫn được coi là có nhiều hảo thủ.
Ưng Đằng nhổ bọt vào Cát Xuyên Mộc và soạt một tiếng, đã rút kiếm ra khỏi vỏ.
Đồ chúng Hoa Sơn cũng nhất tề đứng dậy, đao kiếm cầm tay, mặt đằng đằng sát khí.
Nhưng như cắt, Cát Xuyên Mộc phóng cước đá đống lửa bắn tung, xoay mình một vòng. Người ta chỉ thấy tấm thanh bào của hắn rung động, lưỡi kiếm dài như cây sào phơi đã lăm lăm trong tay, ngân quang lấp lánh và lưng hắn đã dựa vào gốc cổ thụ gần đó.
Cát Xuyên Mộc cười gằn. Hiển nhiên nếu bọn Hoa Sơn cùng xông lại công kích thì hắn đã sẵn sàng.
Nhìn cục diện đột nhiên biến chuyển, người tinh ý biết ngay gã thanh niên tuy trẻ người mà mánh lới thâm độc. Hắn đã dùng những lời khiêu khích để, trước mặt bọn đồ đệ Hoa Sơn và bao nhiêu khách bàng quan gần đó, có cơ hội chứng tỏ tài năng. Nếu cần, hắn sẽ ra tay tàn sát hầu làm lu mờ và áp đảo cả phái Hoa Sơn lẫn Thạch Đạt Lang.
Thật là một hành động cao ngạo và liều lĩnh, nhưng là một sự liều lĩnh có tính toán.
Cát Xuyên Mộc chậm rãi đưa tay kiếm lên ngang mặt, mũi kiếm trỏ thẳng về đằng trước.
Giữa lúc ấy, tiếng một thiếu nữ vang lên lanh lảnh từ phía sơn đạo:
– Cát Xuyên Mộc !
Mặt gã thanh niên vẫn lạnh như tiền. Gã chăm chú nhìn bọn Hoa Sơn, không bỏ sót một cử chỉ. Ưng Đằng đứng trước mặt hắn, hai tay nắm chuôi kiếm, lưỡi kiếm chênh chếch chúc xuống, mũi kiếm chĩa vào hông địch thủ. Thế kiếm thật vững vàng, thủ không sơ hở mà lúc công chỉ cần xoay nhẹ cườm tay, mũi kiếm đã sát bên sườn, làm địch thủ lúng túng.
Tiếc thay, thế kiếm không thi triển được, vì đột nhiên hàng ngũ Hoa Sơn rối loạn.
Một môn sinh vừa chạy tới vừa kêu thảng thốt:
– Các vị hãy dừng tay ! Ưng lão huynh ! Mau đi cứu đại ca. Nguy lắm.
Mọi người quay cả lại. Môn sinh này tên Tạ Minh Chí, là võ sinh mới nhập môn được Sĩ Khánh cho theo hầu để sai vặt. Tạ Minh Chí vừa chạy đến trước mặt Ưng Đằng đã phục xuống. Gã thở hổn hển:
– Ưng lão huynh ! Đại ca nguy rồi !
– Làm sao ? Chuyện gì ? Đại ca bây giờ ở đâu ?
Đứng trước cảnh bối rối của nội bộ Hoa Sơn, Cát Xuyên Mộc không nói và cũng không có hành động gì. Hắn thong thả tra kiếm vào vỏ rồi lui ra xa chừng và i trượng đến gặp thiếu nữ vừa gọi tên hắn:
– A Kế Mỹ ! Nàng đến đây làm gì ?
Thiếu nữ chẳng những không đáp còn hỏi ngược lại:
– Thạch Đạt Lang đâu ?
Cát Xuyên Mộc trừng mắt:
– A Kế Mỹ, ta đã bảo nàng không được đến đây, sao còn đến ?
– Ngươi là gì của ta mà có quyền cấm ?
– Câm mồm ! Về ngay nhà trọ đường Quan Ngoại chờ ta ở đấy !
– Không về ! Ta muốn gặp Thạch Đạt Lang, ngươi đừng tìm cách ngăn cản, vô ích!
Cát Xuyên Mộc khó chịu. Càng bảo, A Kế Mỹ càng bướng mà người hiếu kỳ, thấy to tiếng xúm lại mỗi lúc một đông. Hắn đấu dịu:
– Thôi được. Tùy nàng muốn làm gì thì làm. Để ta đến nghe tin tức Sĩ Khánh xem sao.
Đồ chúng Hoa Sơn với Ưng Đằng quây xung quanh Tạ Minh Chí mới nghe được vài câu đã mặt cắt không còn hột máu, rầm rập kéo nhau chạy về hướng bắc như đàn mãnh thú trốn lửa cháy rừng. Cát Xuyên Mộc cũng đi theo. Hắn đoán sơ sơ chắc Sĩ Khánh trúng thương nặng, nhưng không hiểu Thạch Đạt Lang thế nào. Dù sao, Sĩ Khánh cũng là chưởng môn nhân một phái, tất phải thi triển một vài chiêu kiếm. Hai cọp đánh nhau, cọp này thương tích nặng thì cọp kia cũng chẳng vẹn toàn. Cứ đến xem sao, tùy cơ ứng biến, nếu diệt được cả hai thì càng tốt. Nghĩ đến đây, Cát Xuyên Mộc khoan khoái, cười thầm trong bụng.
Ưng Đằng và bọn thuộc hạ chạy chừng một quãng khá xa đến ven bờ giếng cạn.
Cỏ cháy vàng loang lổ bao quanh, loạn thạch đủ cỡ đủ màu, ngổn ngang xếp thành vô số hình cổ quái. Tới chân một đồng đất nổi lên như cái gò, cỏ gianh cao tới vai, Tạ Minh Chí vạch cỏ cúi xuống gọi:
– Đại ca !
Đồ đệ Hoa Sơn kẻ trước người sau cũng vừa tới. Nhìn Sĩ Khánh nằm dài thiêm thiếp, mặt gục trên đám cỏ khô, chúng vừa kinh ngạc vừa đau lòng. Sĩ Khánh mặc kimono hoa xanh, tay áo xắn cao buộc bằng hai sợi dây da màu nâu thẫm, đầu quấn giải lụa trắng viết hai chữ “Hoa Sơn”. Hắn như bất tỉnh, không còn cử động gì, hơi thở thoi thóp. Trên đầu cũng như ngực áo không có vết máu, nhưng sắc mặt Sĩ Khánh trắng bệch, môi tái nhợt mang vẻ đau đớn vô hạn.
– Còn thở mà !
Một người để tay lên mũi Sĩ Khánh, hơi thở nhẹ như tơ, không đủ làm rung động sợi chỉ mảnh.
– Còn, nhưng yếu lắm.
– Đỡ đại ca ngồi dậy !
Tạ Minh Chí quỳ xuống cùng với một tên đồ đệ nhấc tay Sĩ Khánh lên định quàng vào vai mình thì Sĩ Khánh choàng mở mắt. Mắt hắn lạc thần, da mặt co rúm lại, mồ hôi ra lấm tấm trên trán.
– Ôi chao, đau !
Hắn chừng muốn kêu to, nhưng người ngoài nghe tiếng hắn như tiếng dế. Đôi con ngươi lờ đờ nhìn phía trước. Hai giọt nước mắt hiện ra lăn dài trên má. Sĩ Khánh rướn người lên, đầu ngoẹo sang bên rồi im lặng, bất động. Hắn đã hôn mê mất rồi !
– Phải kiếm cái gì làm cáng khiêng đại ca về. Ngươi chạy đi mời y sư ngay, nói đại ca bị nội thương nguy kịch lắm.
Ưng Đằng vừa ra lệnh vừa cởi áo đắp lên mình người chưởng môn thất thế. Đồ chúng hối hả chạy đi chặt cành cây, Ưng Đằng cạy miệng Sĩ Khánh bỏ vào mấy viên chỉ thống đơn rồi quỳ bên cạnh nghe động tĩnh.
Một lúc sau, sắc mặt Sĩ Khánh đã bớt nhợt nhạt, bắp thịt bên mép giật liên hồi.
Ưng Đằng thở dài như vừa trút được gánh lặng:
– Đại ca ! Đại ca có nhận ra đệ không ?
Sĩ Khánh từ từ mở mắt. Hắn khẽ chớp hai hàng mi như nhận biết người vừa gọi rồi nhắm mắt lại.
Cáng được mang đến, làm bằng hai cành phong xỏ vào tay chiếc kimono bằng vải dày của một tên đệ tử. Mọi người xúm lại nhấc Sĩ Khánh để lên cáng, cánh tay phải hắn lủng lẳng tựa một vật thừa sắp rời khỏi thân thể. Sĩ Khánh cau mặt nghiến răng không kêu la nhưng ai cũng thấy rõ hắn đang cố vật lộn với sự đau đớn. Mồ hôi ở chân tóc và trên mép chảy rỏ giọt, Ưng Đằng phải dùng khăn thấm bớt. Nhiều người quay mặt đi không dám nhìn cảnh ấy, vì nó thương tâm quá và sợ xúc phạm đến vị chủ soái họ hằng kính trọng.
Bốn người khiêng chiếc cáng bước đi, theo sau là đồ chúng Hoa Sơn lặng lẽ và buồn thảm như một đám tang.
Nhờ mấy viên thuốc, Sĩ Khánh đã tỉnh đôi chút. Hắn rên khe khẽ:
– Đau quá ! Trời ơi đau quá ! Đứa nào chặt tay này đi cho ta ! Đau quá.
Phu cáng đi nhanh hơn. Đường đất đỏ gập ghềnh. Sĩ Khánh càng nhăn mặt:
– Chặt tay này đi ! Trời ơi ! Ta bảo đứa nào chặt tay này đi hộ ta nếu không ta chết mất !
Một đệ tử chạy trở lại nói với Ưng Đằng:
– Ưng lão huynh ! Đại ca đau quá không chịu nổi, bảo phải chặt tay đi. Bây giờ làm thế nào ?
– Đồ ngu. Đại ca đau nhưng không chết. Nếu chặt tay mà không có thuốc rịt thì máu chảy ra hết, đại ca sẽ chết ngay. Thôi đi đi, đừng có nhiễu sự. Tốt hơn là ngươi ba chân bốn cẳng chạy về võ đường bảo y sinh đem thuốc cầm máu đến đây lập tức để rồi ta liệu !
Thấy có người lố nhố trong những bụi cây đằng xa, Ưng Đằng bực tức bảo:
– Gọi anh em đuổi những tên kia đi. Đừng để đại ca làm trò cười cho chúng !
Bọn đồ đệ chạy đi rồi, Ưng Đằng vẫy Tạ Minh Chí lại. Gã đồ tử họ Tạ tưởng huynh trưởng mình quở phạt, len lén đến bên dập đầu xin lỗi.
– Ngươi đi với đại ca từ sáng sớm phải không ?
– Dạ.
– Đại ca gặp Thạch Đạt Lang ở đâu ?
– Dạ, vừa tới chân gò thì Thạch Đạt Lang xuất hiện.
– Thạch Đạt Lang đi một mình hay với nhiều người khác ?
– Dạ, hắn đi một mình.
– Chuyện xảy ra thế nào, kể lại ta nghe ! Đại ca biết chúng ta chờ ở gần sơn đạo mà !
Thấy Ưng Đằng ôn tồn, Tạ Minh Chí bớt lo.
– Trước khi đến đồng Đại Tỉnh, đại ca có nói nếu vạn nhất đại ca bị bại về tay họ Thạch thì phải đem xác đại ca đến chỗ các huynh trưởng chờ ở đồng bên cạnh. Đại ca không muốn đệ cho ai biết trước khi cục diện ngã ngũ. Đại ca nói có những lúc người lãnh tụ phải biết nhận trách nhiệm và không muốn cho võ lâm chê cười mình đã dùng những hành động nhơ nhuốc và hèn hạ để thủ thắng. Đại ca có vẻ buồn nhưng rất dũng cảm và tự tin.
– Rồi sao nữa ?
– Lúc Thạch Đạt Lang đột xuất, hắn hơi mỉm cười. Đệ tử trông rõ lắm tuy lúc bấy giờ sương chưa tan hẳn. Hai bên cúi chào nhau, không ai nói một lời. Bỗng có tiếng thét, thanh kiếm của đại ca bắn tung lên, đại ca ngã chúi xuống cỏ, còn Thạch Đạt Lang nhảy lùi lại, đứng trên một phiến đá trong đám loạn thạch, tóc dựng đứng.
– Sao lúc bấy giờ ngươi không nhảy vào đỡ đại ca ?
– Dạ, vì nhanh quá. Vụt một cái, không đầy nháy mắt. Sau đó, tên kia nhìn đệ tử, mắt hắn đỏ như rực lửa, đệ tử sợ quá. Quay lại, không thấy hắn đâu nữa !
Tạ Minh Chí kể xong như trút được gánh nặng. Ưng Đằng mắt đăm đăm nhìn về phía xa, vẻ tư lự. Chòm râu lão lốm đốm bạc, gió thổi dạt quấn cả vào mang tai.
Cát Xuyên Mộc đứng bên A Kế Mỹ dưới gốc thông già, nhìn bọn đệ tử Hoa Sơn khiêng chủ soái đi qua. Một niềm trắc ẩn hiển lên thay cho nụ cười khinh mạn trên môi hắn, nhưng nghe tiếng rên rỉ của Sĩ Khánh, hắn cau mặt.
Hắn bước đến bên cáng. Đồ đệ Hoa Sơn khựng lại thủ thế. Cát Xuyên Mộc tới gần khẽ gọi:
– Hoa Sơn đại huynh !
Sĩ Khánh nhọc mệt hé mắt. Nhìn thấy Cát Xuyên Mộc, hắn nở nụ cười héo hắt:
– Trễ mất rồi !
Cát Xuyên Mộc trông bàn tay phải xám ngoẹt của chưởng môn nhân phái Hoa Sơn, lắc đầu:
– Gẫy xương bả vai. Thế là cánh tay này bị phế bỏ …Đại huynh chẳng nên nằm, máu dồn lên óc không tốt.
– Ối chao ! Đau ! Giá ai cắt cánh tay này hộ ta …
– Trước sau gì thì cánh tay này cũng phải bỏ. Nếu tâm phế không bị chấn động tất còn cứu vãn được. Đại huynh còn cánh tay trái, thiết nghĩ nên bảo tồn lấy tính mệnh và giữ vững hào khí. Khi bình phục sẽ tìm cách rửa hận.
Sĩ Khánh chớp chớp mắt, ra vẻ đồng ý.
– Bây giờ đừng để tâm đến nỗi đau vật chất nữa …
Sĩ Khánh cau mặt:
– Túc hạ …túc hạ …không ở địa vị ta …
– Tại hạ biết lắm chứ. Nhưng phải khắc phục. Quan trọng là nỗi đau tinh thần.
Đại huynh phải nghĩ đến danh dự và lòng kỳ vọng của môn phái, của cha ông. Có thể nào đại huynh cứ nằm thế này cho môn đệ khiêng về Kyoto, dưới mắt khinh rẻ và chế giễu của mọi người được à ?
Sĩ Khánh quay hẳn đầu sang nhìn Cát Xuyên Mộc. Ánh kiêu ngạo lóe lên trong khóe mắt nhưng tắt ngay. Hắn rên rỉ.
– Nếu cần, tại hạ xin giúp …
Tiếng Sĩ Khánh thều thào:
– Phải rồi ! Các người để ta xuống. Túc hạ đỡ ta …
Cát Xuyên Mộc giơ tay dìu Sĩ Khánh. Hắn rú lên:
– Trời ơi ! Đau ! Chết mất. Cho ta mượn lưỡi kiếm. Ưng Đằng đâu, chặt cái tay vô dụng này đi !
Nhưng Cát Xuyên Mộc đã rút cây chủy thủ trong áo:
– Nếu đại huynh không ngại …
– Ờ ! Túc hạ giúp ta …
Xoẹt ! Cánh tay Sĩ Khánh đứt lìa đến tận bả vai. Máu tuôn xối xả. Hắn gục xuống ngất đi.
Vừa hay hai khoái mã mang thuốc phong tới như bay. Đồ chúng xúm quanh rịt thuốc rồi lấy vải buộc chặt vết thương. Sĩ Khánh tỉnh lại, muốn một mình trở về võ sảnh đường Tân Hổ, nhưng mới đi được vài bước đã quỵ xuống. Đồ đệ vực hắn lên ngựa, cắt y sinh ngồi giữ. Hắn cũng chẳng con hơi sức đâu mà phản kháng nữa.
Cát Xuyên Mộc trở lại bên gốc thông, đến bên A Kế Mỹ:
– Nàng nhìn rõ không ? Chắc nàng vui lòng lắm !
A Kế Mỹ mặt tái xanh, nghẹn họng không nói nên lời. Nàng thấy hắn tàn ác và bất nhân. Chưa kịp phản ứng, Cát Xuyên Mộc đã tiếp:
– Nàng vẫn nói nếu trả thù được y, sẽ sung sướng lắm. Bây giờ y như thế, nàng đã toại nguyện chưa ?
A Kế Mỹ nhướng mắt nhìn Cát Xuyên Mộc. Không hiểu sao, lúc này nàng thấy ghê tởm hắn. Xem ra, tâm địa hắn còn đáng khinh và đáng sợ hơn Sĩ Khánh nữa. Sĩ Khánh đã làm hại đời nàng, nhưng không đến nỗi là một con người độc ác. Tên Cát Xuyên Mộc này, dưới cái lớp vỏ trẻ trung dễ thương, thật là giống ngạ quỷ nham hiểm. Hắn không phạm những điều lầm lỗi mà thế nhân thường phạm, không gian dối, không ăn cắp, không tà dâm, nhưng là một con quỷ gian ác có những ý nghĩ lệch lạc, thấy người khác đau khổ thì thích thú, khoái chí. Hắn còn nguy hiểm hơn những kẻ tội lỗi thường tình nhiều. A Kế Mỹ muốn chạy trốn, thoát khỏi sự kềm tỏa của giống ác quỷ này nhưng không đủ can đảm.
Cát Xuyên Mộc kéo tay nàng, nàng líu ríu theo sau. Con hoàng hầu trên vai Cát Xuyên Mộc quay lại nhe răng kêu khèng khẹc chế giễu. Nàng muốn mắng nó nhưng không thể. A Kế Mỹ có cảm tưởng nàng và con khỉ kia cùng chung số phận. Nàng ghét Sĩ Khánh và Cát Xuyên Mộc nhưng hai người đó sao cứ thu hút nàng như ngọn lửa thu hút những con thiêu thân đến gần để đốt chết.
Chương 35: Hương trà
Thạch Đạt Lang men theo bờ suối tìm đường ra khỏi đồng Đại Tỉnh. Lau sậy cao quá đầu người, dầy chi chít, hắn phải vạch lối mà đi, chân đạp lên những lớp lá khô nghe rào rạo.
Một con chim nhỏ trong bụi bay vụt lên, bụng trắng phau như bụng cá thoáng quẫy trong đám rong trước khi lẩn đi biệt tích.
Đạt Lang không ngờ cuộc tỷ đấu dễ dàng và kết thúc nhanh như vậy. Quay nhìn gò đất cao gần đám loạn thạch, hắn lẩm bẩm:
“Mình mới phóng một chiêu, sao y không đỡ. Lẽ nào chưởng môn một danh phái mà tồi tàn đến thế !”. Nhưng nghĩ cho cùng, hắn chẳng lấy làm lạ. Ở đời kẻ bất tài thường hay huênh hoang. Khi may mắn được thừa hưởng cái hào quang của đảng tộc để lại, họ được đàn em đua nhau xu nịnh, lâu ngày lộng giả thành chân, họ tưởng mình có tài cán thật. Sống trong ảo tưởng như thế, đến khi hữu sự, họ không ngờ mình quá kém và đã phải trả giá đắt sự ngu dại của mình. Trường hợp Hoa Sơn Sĩ Khánh này là một. Y không huênh hoang nhưng nhu nhược. Vì không có một khả năng gì đáng kể, y đã làm cho chính bản thân và cả môn phái y thân bại danh liệt.
Rút mộc kiếm ra xem kỹ, Thạch Đạt Lang không thấy một vết máu, một chỗ trầy nào. Lưỡi kiếm đạo đen như mun vẫn bóng mịn, chuôi kiếm nằm trong tay hắn chắc, gọn. Hắn có cảm tưởng lưỡi kiếm với thân thể hắn là một, sinh động, vững vàng, sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách.
Nhớ lại lúc mới gặp nhau, Sĩ Khánh hơi giật mình. Phản ứng đó tuy rất nhẹ nhưng không qua được tia mắt sắc bén của Thạch Đạt Lang. Hai bên cúi chào. Dáng điệu Sĩ Khánh rụt rè, có đôi chút hoa mỹ, rõ ràng là phong thái của người chỉ tập luyện trong võ sảnh, ít bôn tẩu giang hồ. Dưới mắt Thạch Đạt Lang, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã tố giác võ công và ý chí của Sĩ Khánh.
Sau đường kiếm độc nhất làm Sĩ Khánh quỵ ngay tại chỗ, Thạch Đạt Lang thất vọng vô cùng. Hắn mong đợi một đối thủ khá hơn, ít nhất cũng thi triển được vài cao chiêu để hắn mở rộng kiến thức và không uổng công chuẩn bị. Nhưng đối thủ ấy đã không nhiệt thành, mà ngay đến lòng tự tin cũng không có. Nếu biết trước, có lẽ hắn đã tìm cách hủy bỏ cuộc gặp gỡ. Hắn chỉ muốn có cơ hội thử nghiệm tài năng chứ đâu phải muốn tìm hư danh trong cuộc tranh chấp.
Thạch Đạt Lang bất giác sinh lòng lân mẫn:
“Thật đáng tiếc !”. Nhưng đã muộn.
Mũi tên bắn đi không thu về được nữa. Hắn thở dài, ngồi xuống tảng đá bên bờ suối, cúi đầu thành tâm cầu cho Sĩ Khánh không đến nỗi tử thương. Và rút quyển sổ nhỏ, lẳng lặng ghi niềm hối tiếc đầu tiên trong năm về một hành động hắn cho là vô ích.
Trời gần trưa, Thạch Đạt Lang lầm lũi đi. Con suối cạn về mùa đông, giờ đây tuyết tan, đã có nước chảy róc rách. Gặp phiến đá chắn ngang, nước phân ra hai dòng, đổ bọt trắng phau, kéo theo cành gãy lá khô bít cả một quãng lòng suối.
Tần ngần nhìn nước chảy miên miên, Thạch Đạt Lang liên tưởng đến cuộc đời hắn, những trở ngại hắn đã vượt qua như phiến đá kia ngăn chặn dòng nước và rồi còn bao nhiêu trở ngại trong tương lai nữa.
Dòng nước chảy đi đâu ? Có lợi ích gì cho ai không ? Nhìn dòng nước, hắn nhớ đến lời Lão Tử trong Đạo Đức Kinh đọc được khi còn ở thạch thất:
“Bậc thượng thiện giống như nước, làm lợi cho vạn vật mà không tranh. Bản thể của Đạo cũng như nước, không làm gì cả mà kỳ thực không có gì là không do cái làm của nó mà ra”. Trước đây, hắn không hiểu ý ấy, bây giờ có lẽ đã lý hội được phần nào.
Bước chân Thạch Đạt Lang rào rạo trên đường sỏi làm một bà lão đang lúi húi hái rau giật mình ngửng đầu lên. Bà lão người bé nhỏ, tay xách giỏ tre đan, mặc một bộ kimono đơn giản, bên ngoài khoác chiếc áo ngắn màu nâu sẫm. Y phục bà là y phục của người thế tục, nhưng bà lại trùm trên đầu một vuông khăn xám như các ni sư. Bà già có dáng thanh tú của những người sống ở thị thành, quen nhàn nhã từ tấm bé.
Thạch Đạt Lang xuất hiện thình lình khiến bà mở to mắt kinh hãi. Một tay để lên ngực, những ngón tay nhỏ, trắng xanh run run, mặt bà tái đi. Chuỗi tràng hạt đeo bên mình theo nếp áo rung động.
Thạch Đạt Lang cũng không ngờ chỗ này có người, nhưng trấn tĩnh được ngay.
Hắn tươi cười hỏi:
– Lão bá làm gì thế ?
Bà già không trả lời, ngó trước ngó sau, quay đầu chạy, chiếc giỏ tre rớt xuống cỏ bà cũng không biết. Bà vừa chạy vừa kêu:
– Cổ Huy Đạo ! Cổ Huy Đạo !
Thạch Đạt Lang chẳng hiểu sao bà lão lại sợ mình đến thế, đứng ngẩn ngơ nhìn theo. Rồi cúi xuống nhặt chiếc giỏ tre lên. Trong giỏ toàn một thứ rau khúc, chắc do bà già hái được từ sớm. Sợ bỏ đi thì uổng, hắn xách lẵng rau rảo bước theo sau.
Đến một khu rừng thưa trên sười đồi thoai thoải, chợt thấy bóng hai người đàn ông, một người ngồi trên tấm vải thay chiếu trải lên cỏ và một hình như đang lúi húi nhóm lửa. Vài sợi khói lam tỏa nhẹ lên cao trong bầu thinh không trong vắt. Khung cảnh thật yên tĩnh và êm đềm một cách lạ !
Thạch Đạt Lang đến gần. Bên tấm vải, bày la liệt những đồ dùng để uống trà, nào khay, nào chén, nào ấm sành. Trên bếp lửa lại treo sẵn một cái ấm sắt đun nước. Rõ ràng đây là cuộc du ngoạn của một nhóm người thấy trời đẹp, cảnh trí vui tươi thì dừng lại pha trà thưởng thức.
Người đàn ông ngồi trên tấm vải dường như đang vẽ tranh. Ông trạc ngũ tuần, nước da mịn và trắng hồng nhưng tóc đã lốm đốm bạc. Nhìn Thạch Đạt Lang, ông không tỏ vẻ gì ngạc nhiên. Dáng điệu vẫn bình tĩnh và ung dung, ông lên tiếng:
– Có chuyện gì thế, tráng sĩ ?
– Vãn bối mang hoàn lại giỏ rau.
Ông vội bỏ bút, cúi đầu thi lễ:
– Giỏ rau này của gia mẫu. Người đã có tuổi, chắc bỏ quên. Xin đa tạ tráng sĩ.
Thạch Đạt Lang vội quỳ xuống:
– Vậy té ra là lệnh đường. Vãn bối thật đắc tội, đã làm lão bá sợ hãi. Vãn bối đột nhiên đi tới, lão bá kinh hãi đánh rơi giỏ rau nên vãn bối mang lại trả chứ không có chuyện gì.
Vừa hay người lão bộc dẫn bà cụ đến. Trông thấy giỏ rau, mặt bà tươi hẳn lên.
– Mẫu thân ! Tráng sĩ đem trả giỏ rau đây này !
Bà cụ cúi đầu cảm tạ:
– Già thật hồ đồ quá. Xin cảm ơn tráng sĩ.
Người đàn ông trung niên tự giới thiệu:
– Tiện danh là Cổ Huy Đạo, nhà ở ngõ Kim Phong.
Nghe tên Cổ Huy Đạo, Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Trên giang hồ, hắn đã nghe nhiều người nhắc đến tên này. Ông không phải là kiếm sĩ, nhưng nổi danh suốt một dải trung nam nước Nhật là một nhà luyện kiếm vô song. Học lực về kiếm phổ của ông uyên bác, đức hoàng đế có khi còn phải triệu ông vào cung để hỏi xuất xứ và tiểu sử của những thanh kiếm lạ. Riêng về tài năng này, giới học giả và kiếm sĩ cầm quyền rất khâm phục. Nghe nói trước đây, lãnh chúa họ Hòa, thân phụ Hòa Giả Nghị, đã viết di chúc dặn người thừa kế phải trích ra hàng năm ba ngàn gia. lúa để tặng gia đình ông chi dụng.
Với số lợi tức ấy, ông thừa sức sống phong lưu. Căn nhà ông ở tại ngõ Kim Phong của tổ phụ để lại, rộng như một trang trại, thiết bị đủ thứ dụng cụ để đúc và mài dũa gươm quý.
Nhưng quan trọng và đầy đủ nhất, phải kể cái thư khố đựng toàn sách chuyên môn về kỹ thuật luyện kiếm và kiếm phổ do tổ phụ Ông sưu tập và truyền lại. Không những thế, Cổ Huy Đạo còn là một nghệ sĩ tài hoa về nhiều phương diện. Ông làm đồ gốm và đồ sơn mài, vẽ tranh thủy mặc, viết bút thiếp và hiểu biết rất sâu rộng về cổ họa Nhật.
Kim Phong Cổ Huy Đạo vang danh khắp nơi đến nỗi nhiều kẻ hậu sinh quá ngưỡng mộ Ông, khi đi qua ngõ Kim Phong, tự động xuống ngựa để tỏ lòng cung kính.
Tuy vậy mà nếp sống của ông rất giản dị. Ông không ưa lụa là, cái ăn cái mặc chỉ vừa đủ cần thiết. Cùng với bà mẹ già xấp xỉ bảy mươi, ông thích du ngoạn đó đây, hòa mình với thiên nhiên và như hôm nay, dùng nơi hoang vu này làm bối cảnh cho một buổi uống trà và vẽ tranh để di dưỡng tính tình.
Lần đầu diện kiến, nếu ông không xưng danh, có lẽ Thạch Đạt Lang không ngờ con người trung niên có cái dáng quan chức ngồi kia lại là Cổ Huy Đạo, nhà kiếm học và nghệ sĩ tài danh lừng lẫy.
Thạch Đạt Lang hỏi lại:
– Phải chăng tiên sinh chính là nhà luyện kiếm nổi tiếng tại ngõ Kim Phong ở cố đô.
Cổ Huy Đạo mỉm cười:
– Đa tạ tráng sĩ quá khen. Lão phu chẳng qua nhờ phúc trạch mà nên, có tài cán gì. Tiện danh bất quá chỉ được một số ít bằng hữu biết đến.
Đoạn tươi cười nói với bà mẹ:
– Lúc nãy, mẫu thân có vẻ kinh hãi. Con thấy tráng sĩ đây rất thuần nhã, có gì đáng e ngại đâu !
Bà lão vui vẻ, lấy tay che miệng:
– Nói ra thì xấu hổ. Lúc bấy giờ nhìn tráng sĩ đột nhiên xuất hiện, ta thấy sát khí bừng bừng, nên sợ quá. Già này hồ đồ, tráng sĩ thứ lỗi.
Trực giác hết sức linh mẫn của bà lão khiến Thạch Đạt Lang kinh ngạc. Bà đã nhìn rõ hơn, hay đúng hơn, cảm thấy nội lực phi thường toát ra từ thân thể hắn, y như là trước kia, Ngộ Không lão tăng ở vườn rau chùa Quanh Minh đã cảm thấy. Gần một năm rồi, công lực sung mãn ấy vẫn chưa kiềm chế được, trách gì chẳng làm cho bà sợ hãi.
Cổ Huy Đạo có lẽ cũng có được sự cảm nhận mẫn nhuệ như thế, nhưng ông điềm tĩnh hơn và có lẽ ông đã chỉ chú ý đến khía cạnh tốt, cái phần thiện trong con người Thạch Đạt Lang mà thôi. Ông giơ tay mời:
– Tráng sĩ vừa chiến đấu xong, hãy lưu lại nghỉ một chút cho thoải mái. Trời trong và đẹp như thế này, cảnh trí lại tịch mịch, vội gì ?
Thạch Đạt Lang đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thế ra ông cũng đã rõ mình vừa tỷ kiếm với Sĩ Khánh. Sao ông không có phản ứng gì. Có lẽ ông cho đó là những sinh hoạt của một giới khác với giới của ông chăng. Hắn nghĩ thế, nhưng không để lộ ra, chỉ vắn tắt cảm ơn rồi tháo dép ngồi xuống:
– Vãn bối tên Thạch Điền Đạt Lang ở Myamoto.
– Lão phu cũng đã đoán biết vậy.
Bà cụ thân mẫu cũng ngồi xuống hỏi han gia cảnh và sở học của hắn. Bây giờ bà vui vẻ tươi cười, coi Thạch Đạt Lang như một đứa cháu nên hắn thích thú vô cùng. Hắn đem tâm sự ra kể, những thất vọng và kinh nghiệm đã trải qua cùng những ước mơ hắn thường ấp ủ.
Không biết cơ duyên nào đưa đẩy cho hắn gặp hai mẹ con nhà kiếm học Cổ Huy Đạo ngày hôm nay, nhưng hắn có cảm tưởng hai người này cảm thông với hắn từ bao giờ và tự nhiên hắn tin cậy họ. Không phải vì Cổ Huy Đạo danh vọng lẫy lừng mà hắn có cảm tưởng ấy. Giá ông đừng xưng danh, có lẽ hắn còn thấy thoải mái hơn.
Bà cụ hỏi con trai:
– Con thử đoán xem Thạch tráng sĩ bao nhiêu tuổi ?
Cổ Huy Đạo nhìn Thạch Đạt Lang, mỉm cười đáp:
– Khoảng hăm lăm hăm sáu.
Thạch Đạt Lang vội chữa:
– Vãn bối năm nay mới hăm ba.
– Chà ! Thế ra lão phu trông tráng sĩ già hơn tuổi ! Chắc phong sương nhiều cho nên thế ! Nhưng không sao, những vết phong sương ấy là chứng tích của sự từng trải đấy!
Mọi người cười ồ, vui vẻ.
Chuyện vãn hồi lâu, Cổ Huy Đạo ngỏ ý muốn ra bờ suối vẽ tranh còn bà cụ giúp người lão bộc làm bánh lá khúc.
Một mình Thạch Đạt Lang ngồi ngó mông lung ra phía xa. Trời đã quá trưa.
Nắng không còn thịnh nhưng khí hậu ấm áp. Tuy nhiên mới là đầu xuân, cây cỏ chưa xanh tốt, du ngoạn lúc này quả hơi sớm. Hắn nghĩ hai mẹ con Cổ Huy Đạo phải là người yêu thích thiên nhiên lắm, bị bó cẳng suốt mùa đông không ra ngoài được nên mới vội vàng thế. Riêng đối với thanh niên hiếu động như hắn, ngồi mãi cũng chán. Hắn bèn đứng dậy đi quanh.
Một gốc mai già khẳng khiu mọc nghiêng bên bờ suối. Đầu cành, có bông mai độc nhất nở, trắng muốt, rung rinh theo gió. Hắn nhìn cành mai, thấy đẹp vô cùng, đứng sững ngắm không biết chán. Không biết cái cảnh “trúc phong, mai vũ” như thế nào, nhưng bông mai độc nhất trong cái khung cảnh hoang vu ngày đầu xuân này khích động hắn lạ thường.
Men theo bờ suối, đến gần chỗ Cổ Huy Đạo ngồi, Thạch Đạt Lang lẳng lặng nhìn nhà nghệ sĩ dùng ngọn bút lông ghi lại những nét động của dòng nước đương chảy.
Ông vẽ nhiều lần, nhưng có lẽ không lần nào vừa ý nên tranh để la liệt bên cạnh.
Vẽ xong một bức, cho là chưa được, ông lại vẽ lại, không nản chí.
Hừ, Thạch Đạt Lang nghĩ thầm. Vẽ cũng không phải là dễ. Ngọn bút trong tay nghệ sĩ chỉ là dụng cụ, cũng như thanh gươm trong tay kiếm sĩ. Quan trọng là cái tâm, phải để tâm mình hòa hợp với thiên nhiên thì mới diễn tả được thiên nhiên. Phải cảm thông trước đã. Cũng như hắn, khi chiến đấu, kiếm và tâm hợp nhất thì mới đạt tới mức siêu hóa. Ông vẽ nước chảy mà vẫn coi nước là đối nghịch thì không thể nào thành công được.
Thạch Đạt Lang lững thững trở về chỗ cũ. Sợ nhàn rỗi quá thành ra u trệ, hắn ngỏ ý cáo từ hai vị chủ nhân. Cổ Huy Đạo giữ lại:
– Tráng sĩ lưu lại chút nữa, chờ uống trà với lão phu. Trà là thứ di dưỡng tình tình tốt nhất.
Nghỉ một lúc ông lại nói:
– Vả lại theo thiển ý, động là cao điểm của tĩnh. Tráng sĩ muốn giữ cao điểm mãi cũng không thể được. Có động thì có tĩnh. Tĩnh bây giờ để chuẩn bị cho cái động về sau.
Chắc tráng sĩ hiểu ý lão.
– Đa tạ tôn ý. Nếu quả vãn bối không làm phiền gì thì xin ở lại.
Cổ Huy Đạo thu xếp giấy bút và đậy nắp bình mực. Vàng, bạc ánh lên cùng với xà cừ cẩn trên nắp bình lóng lánh làm Thạch Đạt Lang chú ý. Hắn xin phép cầm xem.
Nắp bình mực sơn then bóng lộn, vẽ hai bông cúc bên một hàng giậu nhỏ. Nét vẽ xương kính, cánh bố cục chặt chẽ. Tuy là tranh tĩnh vật nhưng hai bông hoa sinh động lạ thường, nhờ cách rắc bột vàng và bạc, điểm những miếng xà cừ và cách mài sơn tuyệt khéo.
Cổ Huy Đạo nhìn Thạch Đạt Lang. Hắn không giấu lòng thán phục, hai tay bưng bình mực trả chủ nhân và nói:
– Đẹp quá ! Tác giả tạo nên bảo vật này là ai, tiền bối có biết không ?
– Bảo một mình lão phu làm thì không đúng hẳn, vì cũng còn một người nữa là Vương Tích đề thơ và tự tay viết thủ bút, cho nên phải nó Vương tiên sinh và lão phu cùng làm mới phải.
– Vương Tích có liên hệ gì với Vương Trung, quan nhiếp chính đại thần tiền triều không ?
– Vương tiên sinh chính là trưởng tử quan đại thần Vương Trung.
– Chả trách được ! Vãn bối có được nghe đại danh ngài là người viết bút thiếp nổi tiếng nhất kinh thành.
Thân mẫu Cổ Huy Đạo đặt bộ đồ trà lên chiếu vải, nói:
– Già chẳng có gì đãi tráng sĩ, chỉ lưu tráng sĩ lại dùng trà.
Đoạn, mở nắp hộp, lấy trà cho vào bát, dùng gáo tre đong nước sôi, đánh trà nổi bọt. Cử chỉ của bà gọn gàng và chính xác, chứng tỏ bà rất thành thạo. Những ngón tay nhỏ nhắn thoăn thoắt lướt trên các đồ dùng, nhẹ nhàng linh hoạt mà vẫn thanh lịch tự nhiên một cách lạ. Tuổi đã thất tuần, dáng điệu bà không có vẻ già, vẫn nhanh nhẹn, trang nhã và kín đáo, thật đáng tiêu biểu cho vẻ đẹp phụ nữ cùng lứa tuổi.
Càng nhìn hắn càng thấy cảm mến. Nói theo ngôn ngữ kiếm đạo thì những thủ pháp của bà hoàn toàn, không chỗ nào sơ hở. Khi bà giơ cao chiếc gáo nhỏ đong nước vào bát, hắn có cảm tưởng nhìn một tay kiếm tuyệt luân vừa xuất thủ. Hắn nghĩ thầm:
“Đó mới chính là đạo, đó mới là tinh hoa của nghệ thuật, luôn luôn tìm sự tận thiện, tận mỹ !”.
Thạch Đạt Lang ngồi yên quỳ gối, hai tay để lên đùi, trịnh trọng ngắm bà lão bưng trà và xếp bánh ra đãi khách. Ở giữa chốn hoang vu, những chiếc bánh mướt xanh như ngọc thạch trên tấm lá màu nõn chuối đã được cắt vuông vắn để trong cái khay sơn then, trông sao mà ngon mắt thế ! Hắn tưởng mình đang ngồi trong trà thất của một đại gia mà chủ nhân, tuy ưa thích cảnh thiên nhiên nhưng vẫn còn lưu luyến với những nghi lễ của trà đạo. Hắn đâm ngại.
Nhìn Cổ Huy Đạo và bà thân mẫu uống trà, đĩnh đạt, thư thả, hắn lúng túng:
– Vãn bối sinh trưởng nơi cô lâu, không rõ lề lối uống trà ở kinh đô, chẳng biết phải làm thế nào ?
Bà cụ cười mà nói:
– Già này thật mến cái tính ngay thẳng của tráng sĩ ! Thì có gì quan trọng đâu !
Nghệ thuật uống trà chẳng bí mật hay phiền toái gì. Tráng sĩ sinh trưởng ở nhà quê thì cứ uống như người nhà quê …
– Lão bá nói như vậy, ra uống trà dễ lắm sao ?
– Dĩ nhiên ! Chân lịch sự phát xuất tự trong lòng. Nếu ta quá chú trọng đến cái vỏ bề ngoài thì mất thú đi. Muốn tận hưởng hương vị của trà, cứ để cho lòng ta thoải mái tự nhiên. Cũng như khi sử kiếm, tráng sĩ đâu có giữ cho thân mình quá gò bó. Làm thế, sự hòa hợp giữa kiếm và người không còn nữa, phải vậy không tráng sĩ ?
– Dạ thưa phải.
Bà già lại cười, tiếng trong như thủy tinh:
– Ấy đấy ! Già này lại lộng ngôn rồi. Tráng sĩ tha lỗi, đáng lẽ ta chẳng nên bàn về cách sử kiếm là một môn ta chẳng biết gì cả …
– Nhưng Thạch Đạt Lang đã cúi đầu, hai tay nâng bát trà lên:
– Vãn bối xin thất lễ.
Vị trà đắng ngắt. Dù có lịch sự đến đâu, hắn cũng không thể cho là ngon được.
Không hiểu tại sao bao nhiêu người đua nhau ca tụng cái hương vị mà họ gọi là thanh lương ấy. Chắc trong cách pha trà, uống trà phải có những điều gì khác cao quý, hắn còn ít tuổi chưa tìm ra hoặc chưa biết thưởng thức, chứ nếu không, sao nó lại được coi như một triết lý sống và được nâng lên hàng trà đạo ? Hắn nghĩ đến Trúc Mộ và Đại Quán, hai người trọng cách uống trà lắm. Đại Quán tán dương đức tính thâm trầm của nó, còn Trúc Mộ thì dành những năm tàn của mình trong việc nghiên cứu trà đạo.
– Tráng sĩ dùng thêm chút nữa ?
– Đa tạ lão bá, xin đủ.
Thạch Đạt Lang miên man nghĩ đến vị dật sĩ dùng kiếm cắt cành mấu đơn dạo nào và đột nhiên chú ý nhìn bát trà trước mặt, hắn ngạc nhiên và khích động đến cùng cực. Không biết lúc đó hắn có thốt ra tiếng kêu nào không ?
Cầm chiếc bát sành lên ngắm nghía, mắt hắn sáng rạng rỡ:
chiếc bát cân đối, màu men tươi, không tì vết, nét vẽ sắc sảo, giản dị mà không tầm thường. Dưới trôn bát, chú ý nhìn những vết bay gọn gàng, vững mạnh của người nghệ sĩ đã tạo ra nó, hắn như lại được nhìn thấy một lần nữa sự tinh vi, sắc bén khác thường của đường kiếm Trúc Mộ.
Thật là sản phẩm của một vị kỳ nhân, hàm chứa niềm giao cảm huyền diệu giữa tâm linh và vật chất. Hắn không hiểu tại sao, chỉ cam thấy như vậy. Có lẽ trực giác của hắn bén nhậy hơn trực giác của những người khác chăng ? Thạch Đạt Lang vuốt ve thành bát. Hắn muốn được tiếp xúc lâu hơn nữa với mỹ tác tuyệt kỹ này.
– Tiền bối ! Vãn bối không biết gì về cách uống trà và những đồ dùng để uống trà, nhưng đây là một chiếc bát hết sức tinh xảo. Ai làm ra nó hẳn phải là một nghệ sĩ siêu đẳng.
– Sao tráng sĩ lại nói thế ?
Lời Cổ Huy Đạo dịu dàng nhưng nghiêm trang. Ông nhìn chàng thanh niên, hình như trên mặt ông thoáng một chút kiêu hãnh.
– Vãn bối không giải thích được, chỉ nói ra điều mình cảm thấy.
– Tráng sĩ cảm thấy đích thực những gì ?
Đạt Lang suy nghĩ một lát rồi nói:
– Vãn bối không thể nói rõ được. Nhìn những vết bay dưới trôn bát thì cảm thấy có một cái gì phi thường làm khích động vãn bối vô cùng.
– Hừ …
Cổ Huy Đạo là một nghệ sĩ tài hoa, ai cũng biết. Ông lại nhã nhặn nữa nên ai cũng mến yêu. Nhưng dưới cái lớp vỏ nhã nhặn ấy, ông vẫn tự cho không mấy người hiểu được nghệ thuật của ông. Thạch Đạt Lang này chắc gì hơn những người khác. Ông cắn môi:
– Những vết bay ấy thế nào ?
– Mạnh và sắc. Rất sắc.
– Có thế thôi ư ?
– Không …Còn nữa, còn có một cái gì cao cả và táo bạo như muốn vươn lên, thoát ra ngoài khuôn sáo.
– Gì nữa ?
– Người làm nó có một kinh nghiệm và hiểu biết sâu xa về mỹ thuật nên đã đem sở học và tài thiên phú ra tạo nên chiếc bát, toàn thể đẹp thanh thoát như thế này. Trông thì giản dị mà thật ra rất cầu kỳ. Nhìn những vết bay quét ngược, vãn bối còn thấy người này kiêu ngạo, mục hạ vô nhân, có thể rất danh tiếng mà cũng có thể cô đơn lắm. Tiền bối mua bát này ở đâu hay có biết ai đã tạo ra nó chăng ?
Cổ Huy Đạo cười ha hả:
– Biết ! Tên người tạo ra nó là Cổ Huy Đạo. Nhưng lão phu chỉ làm đồ gốm để tiêu khiển những khi rảnh rỗi mà thôi.
Thạch Đạt Lang nghe đồn nhà chuyên môn về kiếm học này nhiều tài năng, nhưng không ngờ môn gì ông cũng hơn người. Hắn hơi hối đã nói thẳng ra những điều hắn nghĩ, vì có vài ý xúc phạm. Hắn lúng túng:
– Vì tiền bối hỏi nên vãn bối thưa thực. Tiền bối tha lỗi nếu có điều gì chẳng lọt tai.
– Chà ! Chàng thanh niên này khách sáo quá ! Có gì mà không lọt tai ? Xem ra tráng sĩ cũng ưa đồ gốm lắm nhỉ ?
– Trước vẻ đẹp, ai mà không xúc động. Tuy nhiên, vãn bối chẳng biết gì mấy về đồ gốm.
– Dĩ nhiên rồi. Tạo nên một tác phẩm đắc ý, có khi phải dùng đến kinh nghiệm cả đời người. Làm sao mong tráng sĩ biết nhiều về kỹ thuật ấy được ? Nhưng tráng sĩ quả có khiếu thẩm mỹ, một sự hiểu biết về mỹ thuật thiên bẩm. Luyện kiếm đã giúp tráng sĩ phát triển khiếu này, có đúng không ?
Ông dừng lại, không nói thêm mà Thạch Đạt Lang cũng không hỏi gì nữa.
Trời sắp chiều. Hai chiếc bánh nhỏ không đủ dằn bụng một thanh niên đang tuổi lớn. Thể chất và tinh thần hắn đều cần đến những thực phẩm bổ dưỡng hơn, tuy nhiên hôm nay dừng chân trên khu đất hoang dã này, hắn đã được dịp thưởng thức hương vị thanh đạm của một nếp sống xa lạ đối với hắn. Có lẽ hắn còn phải học hỏi nhiều ở Cổ Huy Đạo và Cổ bà. Thạch Đạt Lang quay lại cáo từ hai vị chủ nhân:
– Bây giờ cũng đã muộn. Xin nhị vị cho vãn bối được kiếu. Vãn bối đa tạ lòng yêu mến của nhị vị và những lời chỉ bảo hai vị đã ban cho.
Bà lão nhìn Thạch Đạt Lang trìu mến:
– Nếu có dịp nào tráng sĩ qua ngõ Kim Phong, xin nhớ ghé thăm tệ xá.
– Phải đấy ! Cổ Huy Đạo tiếp. Chúng ta sẽ nói chuyện nhiều.
Ông thêm:
– Có nhiều thứ lão phu tin chắc tráng sĩ sẽ rất ưa thích.
Đi một quãng xa, Thạch Đạt Lang còn quay lại nhìn hai người ngồi trên tấm vải.
Con đường gai góc hắn quyết theo chắc không bao giờ đưa đến cảnh giới bình yên như hai người đang sống.
Nét mặt đăm chiêu, hắn lặng lẽ đi trong đồng cỏ hoang như một chiếc bóng.
Chương 36: Được mất
Trong quán rượu ven đô, mùi cá nướng nồng nặc bốc lên lẫn với mùi củi đun khét lẹt.
Quán rượu tồi tàn:
nền đất nện, mồ hóng với bụi lâu năm đóng lem nhem trên vách. Vài cái ghế đẩu đặt không hàng lối xung quanh một tấm ván mộc kê làm bàn trên đôi ngựa gỗ. Sát bếp, chiếc tủ cũ đựng đủ thứ linh tinh, nào đũa tre, bát sành, khay trà, chén ấm phần nhiều đã sứt mẻ, thô kệch.
Ngoài kia ráng chiều đỏ khé. Về phương đông, ngọn tháp chuông chùa Kiyomi đen sẫm nổi như cắt trên nền trời sáng rực tựa có đám cháy. Vài con quạ bay lượn quanh tháp:
những đốm đen nhỏ li ti như những tàn than gió thổi bốc cao trong bầu trời dữ dội.
Trong quán, hai gã đàn ông trung niên dáng khách thương ngồi uống rượu. Bốn gã khác xúm nhau đánh cò quay ở một góc. Cò quay là thanh gỗ có cái đinh đóng lên mặt tấm ván có viết chữ và vẽ những hình thô sơ. Chiếu bạc tuy nghèo nhưng cũng đủ làm khích động người chơi. Họ nói to, cãi nhau, vỗ đùi, đập tay cười ha hả.
Tít trong cùng, một du tăng cúi đầu ngồi yên lặng dường như không quan tâm gì đến việc chung quanh. Gần bếp là một bóng đen dựa lưng vào đống củi ngáy khò khò.
Bóng đen ngồi ngược sáng, lại bị đống củi khá lớn che khuất nên chẳng ai để ý.
Bỗng tiếng một khách thương gọi to, hách dịch:
– Quán ! Mang thêm rượu !
Sau tiếng “dạ” khan, tiếng chén hũ va chạm lách cách, chủ quán bước ra, hai tay bưng khay rượu. Chủ quán vừa lùn vừa mập. Giải khăn rằn ri vắt trên vai buông dài tới gối không làm cho gã trông cao hơn chút nào. Người ta vẫn thấy gã giống như quả dưa bở.
– Tối quá ! Sao không có đèn đóm gì cả thế này quán chủ ? Chẳng biết rượu đưa vào mồm hay vào mũi nữa.
Bọn đánh bạc cười ồ, quay ra phụ họa:
– Ờ phải đấy, tối quá rồi ! Đốt lửa lên chứ.
Lật đật đặt khay rượu lên bàn, chủ quán cơi lửa trong bếp cho bốc cao hơn rồi mang ra một đĩa đèn dầu thông đặt lên giá gỗ. Ngọn lửa vàng khè tỏa khói đen khét lẹt.
Gian quán ấm hơn. Câu chuyện bắt đầu râm ran vui vẻ. Hai gã khách thương nói chuyện làm ăn:
– Năm ngoái đi đòi nợ Hoa Sơn. Con mẹ nó, đã không lấy được đồng nào còn bị nắm cổ tống ra ngoài. Tổ cha quân khốn kiếp.
– Bác không tính kỹ. Ta ấy à, chỉ mất một lần, thấy không trả được thì thôi liền không bán chịu nữa.
– Ai biết đâu ! Tưởng võ đường bề thế như vậy, ngờ đâu toàn đồ ăn quỵt !
Rồi như sực nhớ ra điều gì, gã hạ thấp giọng:
– Này ! Nghe nói Sĩ Khánh chết rồi phải không ?
– Ủa vậy hả ? Sao bác biết ?
Gã chưa kịp đáp đã có tiếng cắt ngang:
– Đâu có ! Chưa chết !
Mọi người cùng quay lại nhìn về phía kẻ vừa nói, ai nấy đều tỏ ra khích động hết sức.
– Phải, chưa chết. Chính mắt ta trông thấy người ta khiêng hắn từ đồng Đại Tỉnh về. Máu loang ra tận áo ngoài, hắn vẫn còn rên rỉ. Nghe đâu gãy tay, chắc tàn tật suốt đời rồi. Võ công thế là bị phế !
– Đáng kiếp ! – Gã khách thương nhổ đánh bẹt bãi nước bọt xuống đất – Nó ăn quỵt thì trời phạt nó !
– A di đà Phật ! Vị du tăng bỗng lên tiếng. Các vị đừng nói thế phải tội. Những việc xảy ra kiếp này đều là quả nghiệp kiếp trước. Có nhiều căn duyên lắm. Nếu chỉ vì ăn quỵt mà suốt đời tàn phế, chẳng hóa ra hình phạt của Trời Phật nặng quá ru ?
– Dù sao, như vậy cũng là rồi đời phái Hoa Sơn.
– Như bảng cáo yết nói thì hắn tỷ kiếm với Thạch Đạt Lang. Bác biết Thạch Đạt Lang là ai không ?
– Nghe đồn là một tay kiếm khách giang hồ còn trẻ mà công lực ghê gớm lắm.
Hắn đả bại Sĩ Khánh bằng một kiếm, cái mới làm cho Hoa Sơn thêm nhục.
Cả quán im lặng bùi ngùi. Tin ấy như gợi ở họ một chút tình thương xót. Họ đăm đăm nhìn lửa cháy, sau mới có người lên tiếng:
– Thế đồ đệ Sĩ Khánh tính sao ?
– Còn tính sao nữa. Phải trả thù chứ, mất mặt quá mà !
– Hoa Sơn còn ai nữa mà trả thù ?
Chủ quán từ trước vẫn dỏng tai nghe, đứng trong bếp nói vọng ra góp chuyện:
– Còn chứ ! Còn Điền Chính !
Đang uống rượu, khách bỗng ho sặc sụa phun cả rượu ra ngoài. Khách dằn mạnh chén lên bàn, cười hăng hắc:
– Con mẹ nó ! Điền Chính thì làm gì được ! Thằng đó ngỗ nghịch, rượu chè bê tha, vùng này ai còn lạ ! Nó chỉ dựa tiếng tổ phụ để lừa đảo vay mượn.
– Ấy thế mà là tay khá nhất đấy – Chủ quán đáp, giọng nghiêm trang – Hắn tuy là út nhưng có khí phách và võ nghệ lại còn cao hơn Sĩ Khánh, phải cái ham hưởng lạc quá!
Bóng đen bên đống củi ngồi đã lâu không động tĩnh, bỗng cựa mình. Bóng đen này vào quán từ chiều, ít nói, gọi rượu uống say túy lúy mà chủ quán không thắc mắc.
Gần đây thiếu gì những bậc kỳ nhân, cao thủ chán cảnh bon chen hoặc bị thất sủng, đi phiêu bạc giang hồ qua lại vùng này như cơm bữa. Gặp những người tính tình kỳ lạ, chủ quán cũng cho là thường. Vả cũng ngại, lỡ dây vào tay hung hãn thì chỉ thiệt thân, cho nên cùng lắm mới dám hỏi vài câu cần thiết.
Nhìn áo bóng đen sắp chạm vào lửa trong bếp, gã đến bên lay dậy:
– Khách quan ! Khách quan !
Bóng đen mở mắt đỏ ngầu nhìn. Gương mặt hốc hác, ánh lửa bập bùng soi hai má trũng sâu càng làm đôi gò má cao thêm. Bóng đen đáp buông sõng:
– Gì ?
– Khách quan ngồi tránh ra một chút. Lửa bén vào áo bây giờ !
Bóng đen vén áo, đổi cách ngồi. Dưới ánh lửa sáng, bây giờ mặt bóng đen trông rõ từng nét, phô ra một gương mặt còn trẻ, nhưng gầy và da mặt đen xạm. Nhìn kỹ thì là Mãn Hà Chí, nhưng một Mãn Hà Chí chán nản và bệ rạc vô cùng, trán hằn nhiều vết nhăn, mắt lờ đờ đục ngầu đờ đẫn vì rượu.
Chủ quán hơi giật mình, hỏi giọng lo lắng:
– Khách quan sao vậy ? Trong mình có được khỏe không ?
– Không. Ta không sao.
– Trông khách quan xanh quá.
– Đã bảo không sao mà ! Đem cho ta bình rượu nữa.
Nói xong, Mãn Hà Chí gục đầu xuống ngực. Hắn thấy nóng, chẳng biết vì ngồi lâu gần lửa hay vì uống nhiều rượu. Bèn phanh áo ra nhưng vẫn không hết bực bội. Lòng hắn chán nản và buồn rầu không kể xiết.
Từ Osaka, nghe tin Thạch Đạt Lang sẽ tỉ đấu với Sĩ Khánh, hắn lần mò tìm tới để xem cuộc đấu ra sao và cũng hy vọng gặp thằng bạn cũ. Nhưng đến nơi đã muộn. Trên đường đi, ở quán, điếm nào cũng thấy có người nói đến tin Sĩ Khánh bị thương hoặc chết và tài sử kiếm thần tốc của Thạch Đạt Lang. Mãn Hà Chí đã cạn tiền, lại thấy mình thua kém bạn quá sức, càng tỏ ra buồn phiền ganh tị. Lòng đố kỵ đưa đến sự căm ghét, hắn mong phái Hoa Sơn trả thù.
“Hoa Sơn đông người, toàn những tay cao thủ. Thằng Kinh Tử kiêu ngạo quá, thế nào cũng có lúc bị hạ. Ai cũng cho nó là kiếm sĩ, nhưng kiếm sĩ thì làm cóc gì. Cốt là có tiền. Có tiền mới hơn người. Ta sẽ làm ra tiền bất cứ bằng cách gì. Nó với ta còn trẻ, con đường còn dài, ai biết sau này ai sẽ hơn ai !”. Nghĩ đến đây, Mãn Hà Chí cảm thấy tinh thần phấn khởi hơn đôi chút. Nhưng sao miệng hắn khô và đắng quá. Hắn liếm môi:
– Khát quá !
Bèn đứng dậy vịn tay lên vách men ra chỗ để khạp nước múc uống ừng ực. Chiếc gáo tre run run trên tay, nước lạnh làm hắn dễ chịu. Nỗi buồn rầu dường như tiêu tan, hắn thấy trong người sảng khoái hơn, bèn đến bên cửa vén màn bước ra, chân vẫn còn loạng choạng.
Trong bếp, chủ quán đảo mắt nhìn quanh, ngạc nhiên không thấy khách. Nhìn ra ngoài, sương buông mờ mờ. Đằng xa, bóng một người chân nam đá chân chiêu, nghiêng ngả đi trong màn sương giữa những hàng cây âm u như ẩn như hiện.
– Khách quan ! Khách quan !
Không có tiếng trả lời. Bóng người cứ lầm lũi đi. Chủ quán chạy theo:
– Khách quan ! Khách quan chưa trả tiền !
– Hả ? Cái gì ?
– Khách quan quên …
– Quên gì ? Chẳng quên gì hết !
– Khách quan quên chưa trả tiền rượu.
– Vậy hả ? Nhưng ta không có tiền !
– Không có tiền !
Chủ quán tức giận lập lại.
– Ừ. Không có ! Không có một đồng dính túi.
– Nói bậy ! Không được ! Không tiền sao dám vào quán ?
Chủ quán đổi giọng, nhảy tới nắm áo Mãn Hà Chí. Nhưng hắn nhanh chân đã nhảy lùi lại mấy bước, thò tay lấy cái hộp đựng kim đơn trong bọc ném tới trước mặt người chủ quán. Hộp kim đơn này hắn đoạt được của người thanh niên lẹm cằm chết trên đồi Mokoyama ngày trước.
– Này giữ lấy ! Ta trả tiền rượu đó !
Không may, cái hộp đập trúng ngay vào mặt chủ quán. Gã ôm mặt kêu váng lên.
Mọi người chạy ùa ra bao quanh lấy Mãn Hà Chí.
Cũng như phần đông các sâu rượu khác, thấy kẻ nào uống quỵt thì phẫn nộ làm như kẻ đó làm mất danh giá của giới lưu tinh, hai khách thương cũng xông ra hoa tay múa chân chửi rủa rầm rĩ.
Mãn Hà Chí sợ hãi tỉnh rượu nhưng vẫn làm ra vẻ anh hùng, hắn để tay vào đốc kiếm hét lớn:
– Chúng mày biết ta là ai không ?
Có tiếng cười gằn, chửi thề:
– Là đồ ăn quỵt chứ còn ai nữa !
– Ta là Cát Xuyên Mộc, thuộc kiếm phái Cổ Môn, đồng đạo với Y Tô, học trò Cổ Tư Nhiễm Chúc.
Mãn Hà Chí nêu một hơi những danh tính hắn cho là lừng lẫy võ lâm, hy vọng làm bọn kia phải sợ hãi mà tháo lui. Không ngờ chỉ nghe tiếng cười và chế giễu đáp lại:
– Đó là những tên chó nào, chúng ta không cần biết. Anh em ! Xông vào bắt lấy nó!
Một kẻ nhảy đến định ôm Mãn Hà Chí. Hắn rút gươm đánh soạt, thuận tay chém một nhát. Lưỡi gươm hớt qua tay kẻ kia, máu tuôn xối xả. Gã bèn lùi lại kêu ầm ĩ:
– Trời ơi ! Nó chặt cụt tay ta rồi !
Nghe tiếng kêu, trông máu chảy, cả bọn sợ hãi tưởng đâu chính máu mình tuôn ra.
Không ai bảo ai, tất cả cùng tản ra xa đến hàng trượng.
Mãn Hà Chí được thể vác gươm xông tới, đâm dứ người này một chiêu, chém giả kẻ kia một nhát. Cả bọn hè nhau chạy như vịt.
– Ha ha ! Chúng mày tưởng ta không phải Cát Xuyên Mộc chăng ? Cát Xuyên Mộc là ta đây ! Vô địch ! Vô địch !
Hắn vung kiếm veo véo, chém dọc phạt ngang, đắc ý như chưa bao giờ được thế, rồi ngửa mặt nhìn trời cười khanh khách, răng trắng bóng dưới ánh sao. Đột nhiên lòng hắn buồn rười rượi, miệng cười mà hai hàng lệ chứa chan. Hắn vụng về tra kiếm vào vỏ, loạng choạng bước.
Dưới đất, chiếc hộp sơn then nằm trơ trọi. Miếng xà cừ cẩn trên nắp hộp phản chiếu ánh sao, lóe sáng như con đom đóm.
Tò mò, lão du tăng nhặt cái hộp lên. Lão ngạc nhiên, tay mân mê chiếc hộp sơn then rồi trở ngược lại quán, ghé vào chỗ ánh sáng gần cửa, quan sát kỹ.
– Hừ ! Hộp này là hộp đựng kim đơn của sư huynh ta đây mà. Triện son đóng dưới đáy còn rõ. Nhưng ông chết rồi, sao cái hộp lại ở đây ?
Bèn chạy theo Mãn Hà Chí:
– Cát Xuyên Mộc ! Cát Xuyên Mộc !
Mãn Hà Chí vẫn thản nhiên đi. Trong cơn chán nản, hắn chẳng nhớ tên mình đã mạo nhận là gì nữa. Cho đến khi lão tăng ở đằng sau kéo áo hắn mới sực tỉnh:
– Đại sư muốn gì ?
– Ngươi có phải là Cát Xuyên Mộc không ?
Giọng vị tăng nghiêm nghị khiến Mãn Hà Chí chột dạ:
– Phải. Ta là Cát Xuyên Mộc.
– Ta muốn hỏi một câu, ngươi phải nói thật.
– …
– Ngươi lấy hộp kim đơn này ở đâu ?
– Hộp kim đơn nào ?
Mãn Hà Chí làm bộ lơ đãng.
– Hộp này.
Vừa nói, lão tăng vừa giơ chiếc hộp sơn then cẩn xà cừ ra trước mặt, tay kia nắm chắc cây thiền trượng. Chiếc nón nan hất ngược về phía sau, gương mặt lão dưới ánh sao tuy trông không rõ nhưng rắn rỏi, gương mặt của một tráng niên chứ không phải của một người tu hành đã có tuổi.
Mãn Hà Chí giật mình:
– Ngươi là ai ?
– Không cần nói tên … Hãy trả lời câu ta hỏi:
Hộp này ngươi lấy ở đâu ?
– Không ở đâu cả. Ta vẫn mang trong mình từ trước.
– Nói láo ! Ngươi không thú nhận hả ?
Mãn Hà Chí ra vẻ ngây thơ:
– Thú nhận cái gì ?
– Ngươi không phải là Cát Xuyên Mộc !
Câu nói vừa dứt, cây thiền trượng đã vụt đánh véo một cái. Tránh không kịp, Mãn Hà Chí bị trượng đập trúng, ngã lăn quay. May không trọng thương, hắn bật dậy cắm đầu chạy.
Du tăng đuổi, nhặt gậy phóng theo. Chiếc thiền trượng lướt qua tai hắn rớt xuống đất. Mãn Hà Chí kinh hãi, gia tăng cước lực. Hắn cứ chạy như thế, chạy thục mạng, chẳng biết phương hướng trời đất gì nữa. Đằng sau, nhà sư đuổi theo phóng gậy liên tiếp. Theo những ngõ hẻm ngoằn ngoèo, may mắn hắn mấy lần tránh được chiếc gậy phóng tới.
Đến một chỗ cỏ rậm cao, nhà cửa thưa thớt, quay lại nhìn không thấy ai, hắn mới liều ngồi xuống thở dốc. Mãn Hà Chí bị một phen vừa mệt vừa sợ. “Ghê quá ! Cây trượng thật lợi hại. May nhờ mấy cái hẻm mình mới tránh được. Chẳng biết tên hòa thượng giả đó là ai, có thù gì với mình. Thời buổi này, quả không còn biết tin ai nữa !”.
Mãn Hà Chí khát quá. Bả vai đau, hắn đưa tay nắn, không thấy có triệu chứng gì gãy xương, chỉ ê ẩm, chắc bầm bắp thịt vai thôi. Mừng thầm, hắn đi sâu vào trong ngõ, chú ý tìm nước. Gặp cái giếng lộ thiên, thành xây đá ong cao tới bụng, lại sẵn gầu để gần, hắn thả gầu xuống múc nước uống một hơi rồi lấy nước vã vào mặt.
Mồ hôi nhễ nhại, nước lạnh làm hắn rùng mình khoan khoái. Đã khát, Mãn Hà Chí ngồi nghỉ, dựa lưng ngay vào thành giếng. Nhìn lên trời, sao thưa lấm tấm. Sương chiều tan từ bao giờ. Mảnh trăng thượng tuần nhô lên khỏi đầu hồi căn nhà gỗ, chiếu ánh sáng mờ đục trên mái ra. tồi tàn vào những khung cửa sổ nhỏ xíu dán giấy.
Đám mây đen kéo qua mặt trăng trông như hình người, rìa đám mây vàng úa. Mãn Hà Chí mường tượng nhìn thấy bộ mặt hấp hối của người thanh niên lẹm cằm, đôi mắt lạc thần, cái miệng méo xệch trông thật ghê sợ và dòng nước rãi lẫn máu trào ra bên khóe mép. Hắn lấy tay dụi mắt, lắc lắc đầu như để xua đuổi hình ảnh thương tâm vừa hiện ra. Hắn hối hận đã tiêu hết cả số tiền của người chết, nhưng tự hứa khi nào thành công sẽ hoàn lại đủ số cho gia đình kẻ bất hạnh và sẽ dựng cho y một bia mộ bằng đá nữa.
Liên tưởng đến tờ chứng thư đề tên Cát Xuyên Mộc, hắn đưa tay vào bọc tìm cuộn giấy dầu, thấy nó vẫn còn ở nguyên đó thì yên dạ. Dù sao, tờ chứng thư và cái tên giả cũng đã giúp hắn rất nhiều. Mấy tháng gần đây, hắn thường lang thang đến các nhà giàu xứ quê, trưng tấm chứng thư ra hoặc dùng cái tên Cát Xuyên Mộc bịp những anh ngốc nghếch muốn học võ để kiếm bữa ăn và chỗ ngủ qua ngày.
“Tấm giấy này thế mà đắc dụng đáo để !”. Hắn tự nhủ, “Tội gì mà bỏ !”. Mãn Hà Chí nhìn những căn nhà tồi tàn trong xóm. Dân khu này nghèo quá, nhà cửa xập xệ, đổ nát, mái ra. lồi lõm chắc đã lâu không được lợp lại, chẳng biết có đủ che mưa che nắng không. “Nhưng họ cũng còn hơn ta, ít nhất họ cũng có một chỗ trú !”. Hắn nghĩ vậy.
Qua khung cửa sổ, một gia đình đang ngồi ăn cơm. Hai vợ chồng, mấy đứa con cùng bà mẹ già quây quần xung quanh cái liễn sành độc nhất đựng món ăn trong ngày !
Người nghèo hình như lại càng thương nhau hơn, hắn nhận thấy vậy. Nghĩ đến mẹ già hắn đã giận dữ bỏ lại một mình trong cái quán nhỏ bên bờ biển vào một chiều lộng gió, hai hàng nước mắt hắn lại chực tuôn rơi. Hắn thế mà nhiều tình cảm lắm. Bà cụ nóng tính nhưng thương hắn vô cùng. Hắn còn kém cả những người nghèo kia, tuy nghèo mà vẫn nặng tình người và vẫn còn được xum họp. Bất giác, hắn đưa tay lên chùi nước mắt !
Mãn Hà Chí nhớ lại lời mẹ dặn, những khi buồn rầu hay thất vọng hãy đến cầu đức Phật Bà Quan Âm, ngài sẽ phù hộ cho qua cơn đau khổ. Mẹ hắn thường lui tới cửa Phật. Tối nay chẳng biết ngủ nhà ai, hay là hắn cũng đi tìm một ngôi chùa nào đó để tá túc, nhân thể lễ Phật cầu xin và biết đâu lại gặp được mẹ.
Men theo những ngõ tối trong xóm, Mãn Hà Chí bị hai ba con chó đói theo sau gầm gừ, thỉnh thoảng sủa những tiếng vu vơ. Quen với sự xua đuổi, hắn cũng chẳng thèm để ý, cứ mặc kệ.
Hết ngõ hẻm, ra chỗ thoáng, đến ven một cái miễu nhỏ với nhiều lùm cây rậm rạp, âm u, đen sẫm, lại có đàn chó nữa vây quanh một gốc cây lớn.
Sao nhiều chó thế. Chúng chạy lui chạy tới, sủa ẩm ĩ. Con thì quào chân trước vào thân cây định trèo, con tung mình nhẩy lên. Mấy con chó theo hắn cũng bỏ đi nhập bọn với lũ chó dưới gốc cây, thi nhau sủa, hú vang động cả một vùng.
Tò mò, Mãn Hà Chí đến gần nhìn lên. Trên cây dường có người mà hình như là một thiếu nữ. Hắn nhặt hòn đá ném đàn chó. Chúng cúp đuôi chạy tản ra xa, nhưng vẫn quay đầu lại sủa. Chẳng bao lâu lại trở lại xúm quanh Mãn Hà Chí, sủa còn dữ dội hơn trước. Mãn Hà Chí nhặt đá ném lia lịa. Chẳng ăn thua gì. Đàn chó đuôi cúp vào bụng, nhe nanh gầm gừ. Mãn Hà Chí trông rõ lông chúng dựng đứng, thân hình gầy guộc, xương sườn phô ra từng rẻ như sóng gợn.
Nghe nói tụi chó đói này khó đuổi lắm. Muốn trị chúng, phải bắt chước chúng đi bốn chân và sủa như chúng. Mãn Hà Chí bèn quỳ xuống thử hành ngay ý định, nhưng cũng không kết quả. Tiếng sủa của hắn lạc lõng chẳng giống tiếng sủa của lũ chó thật kia chút nào. Một lúc, hắn bỗng thấy mình khôi hài và trơ trẽn. Mình làm cái gì thế này ? Ít ra cũng là một kiếm sĩ mang song kiếm, sao lại quỳ mà hú như chó ? Thiếu nữ trên cây nhìn xuống còn coi mình ra gì nữa ? Bèn vùng dậy, rút trường kiếm phóng một chiêu vào con chó gần nhất. Chiêu kiếm trượt. Chó vụt chạy. Lại phóng chiêu nữa vào con chó thứ hai. Lần này trúng, con chó ngã lăn ra, kêu oẳng một tiếng, giãy đành đạch. Những tiếng thở hằng hặc, rồi khò khè của con vật sắp chết làm đồng loại nó sợ hãi chạy xa nhưng vẫn không ngớt sủa.
Mãn Hà Chí dậm chân đuổi xong con này đến con khác, một lúc sau chúng mới tản hết. Quay lại gốc cây nhìn lên, Mãn Hà Chí vẫn thấy thấp thoáng còn bóng người.
– Ai ở trên đó, xuống được rồi đấy !
Không nghe đáp. Chỉ thấy tiếng nhạc khánh mơ hồ kêu lanh canh như giọt nước rơi vào vại sành.
– Ồ, ai như A Kế Mỹ ! Phải A Kế Mỹ không ?
– Ai đấy ?
– Mãn Hà Chí. Nàng không nhận được tiếng ta sao ?
– Ồ, Mãn Hà Chí. Thúc thúc đi đâu thế ?
– Nàng làm gì trên ấy. Sợ chó hả.
– Không !
– Vậy xuống đi.
Ở trên cây, A Kế Mỹ đưa mắt nhìn bốn phía. Trăng suông mờ mờ. Cây cỏ chỗ nào cũng như phủ đầy sương khói, nhưng trong những bụi rậm ở ven đường dẫn đến miếu, giá có ai ẩn nấp thật khó mà biết.
– Thúc thúc đi đi. Đừng đứng đấy, nó thấy. Nó đang tìm tiểu nữ.
– Nó là ai ?
– Một người thúc thúc không biết đâu. Năm ngoái nó giúp tiểu nữ nhưng tiểu nữ không ngờ nó làm thế chỉ để lợi dụng. Nó hành hạ tiểu nữ đủ điều. Không chịu nổi tiểu nữ phải trốn đi.
– Ai ? Hồ Định hả ?
– Không phải. Người đó thì tiểu nữ chả sợ. Ối ! Kìa, nó đã tới kia kìa …Chạy đị..Thúc thúc chạy đi …Nó thấy thì khốn.
A Kế Mỹ rối rít, luống cuống. Từ trên cây tiếng nhạc khánh vang xuống nhanh và rõ mồn một:
lanh canh, lanh canh …rồi bỗng ngưng hẳn. Có lẽ nàng đã tìm cách buộc chặt chùm khánh nhỏ vào tay áo.
– Đừng sợ ! Sao phải chạy ? Ta không bảo vệ được nàng ư ?
Vừa khi ấy, một bóng đen hiện ra trên đường hẻm. Mãn Hà Chí mặc kệ A Kế Mỹ trên cây, xốc kiếm xăm xăm đi tới.
– Ai ?
Tiếng hét đồng thanh cùng thoát ra một lúc trên cửa miệng hai người. Bóng đen vừa tới nhìn lưỡi kiếm tuốt trần còn dính máu trên tay Mãn Hà Chí, hỏi lớn:
– Ngươi là ai ? Muốn gì ?
Mãn Hà Chí lặng thinh. Lúc nãy, nghe giọng nói cuống quýt của A Kế Mỹ hắn có đôi chút e ngại, nhưng bây giờ nhìn kỹ bóng đen mới đến, hắn thấy không có gì đáng sợ.
Bóng đen cao lớn thật nhưng dáng điệu không hiên ngang, quần áo sặc sỡ như con nít, chắc chẳng tài cán gì. Nhà sư vừa rồi còn làm hắn hoảng chứ với tên thiếu niên này hắn đâu ngán ! Bèn lấy bộ mặt khinh mạn, cười khẩy mà không đáp.
Bóng đen quát hỏi lại:
– Ngươi là ai ?
Mãn Hà Chí cười trêu cợt:
– Ta ấy à ? Ta là người.
– Ha ! Là người ! Một tên vô danh. Được lắm, nếu danh tính ngươi xấu xa, nói ra phải hổ thẹn …
– Đừng láo ! Ta không muốn nói chỉ vì chẳng muốn xưng danh với đứa tiểu tốt.
– Này, hãy giữ mồm miệng, đừng để ta nổi giận. Bây giờ thì chờ đấy, ta đến chỗ kia kéo con bé trên cây xuống đã.
– Ha ha ha …Mãn Hà Chí cười khanh khách – Ngươi tưởng dễ lắm sao ? Ta là dượng nó, động đến nó ta băm nát thịt.
Bóng đen nhìn Mãn Hà Chí từ đầu đến chân, gằn giọng:
– Hừ ! Ra thế đấy ! Nhà ngươi muốn chơi trò hiệp sĩ ? Nhưng này, ta bảo thật:
cây sào phơi trên lưng ta đây đã lâu chưa được uống máu ai. Nó khát lắm đó. Mà ta cũng cần thử xem nó còn sắc không. Bấy giờ thì cẩn thận, ngươi chạy không kịp đâu !
Mãn Hà Chí nghe mà không lường được tầm nghiêm trọng của câu nói. Hắn không ngờ bóng đen đứng trước mặt hắn tuy nhỏ tuổi nhưng là một kỳ tài trong võ lâm, kiếm thuật tinh vi và thần tốc đến độ chỉ một cái vẫy tay nhẹ, chưa đầy nháy mắt, đã có thể chém bay đầu hắn lăn lông lốc. Vì không ngờ nên hắn vẫn lên giọng kẻ cả:
– Khoan ! Chú bé hãy nghĩ kỹ. Bây giờ còn kịp, tạ lỗi đi, ta sẽ cho chạy thoát.
Chậm chút nữa đừng trách ta tàn nhẫn.
Bóng đen mở tròn mắt ngạc nhiên. Không biết tên này là ai mà có thái độ mục hạ vô nhân ngu xuẩn đến thế. Nhưng thấy trò chơi hay hay, tính trẻ nít nổi dậy, hắn chỉ buồn cười không giận. Lại cũng tò mò muốn trêu chọc địch thủ, bèn đổi giọng lễ phép:
– Cám ơn các hạ. Nhưng biết tạ lỗi ai, ít ra các hạ cũng phải cho tại hạ biết quý danh tính là gì chứ ? Đó là lề luật võ lâm, chắc các hạ rõ.
– Cũng được. Nhưng ta nói tên, ngươi chớ có giật mình.
Bóng đen cười như nắc nẻ:
– Dĩ nhiên, dĩ nhiên ! Nhân thể các hạ cũng nên cho biết thuộc môn phái nào ?
Kiếm sĩ mà lắm mồm như tên này chắc chẳng đáng sợ. Mãn Hà Chí càng đánh giá địch thủ thấp hơn nữa.
– Ta theo Cổ Môn kiếm pháp.
Bóng đen sửng sốt:
– Cổ Môn kiếm có chiêu thức gì đặc biệt ?
– Tất nhiên phải có. Như chiêu Mãn Thiên Hoa Vũ và Trảm Nhạn Kiếm chẳng hạn.
– A !
Thấy bóng đen thốt kêu có vẻ ngạc nhiên, Mãn Hà Chí cho là mình đã áp đảo được tinh thần địch thủ. Bèn hỏi ngược lại:
– Còn ngươi ? Theo môn phái nào ?
– Khoan ! Những thế kiếm vừa rồi như Hoa Vũ và Trảm Nhạn ngươi được ai truyền thụ ?
– Sư phụ ta chứ còn ai nữa.
– Tôn sư tên gì ?
– Cổ Tư Nhiễm Chúc ! Cát Đằng Cổ Tư Nhiễm Chúc.
Bóng đen tỏ ra phân vân cực độ:
– Thế ngươi có biết Y Tô Gia Nghĩa không ?
– Dĩ nhiên là biết. Y Tô là sư huynh ta, tuy đồng môn nhưng thuộc hàng tiền bối vì niên kỷ y cao hơn ta nhiều. Sao ngươi hỏi thế ?
Bóng đen lờ đi như không nghe tiếng. Gã nghiêm giọng:
– Vậy tên ngươi là gì ?
– Cát Xuyên Mộc.
– Là gì ?
Mãn Hà Chí vênh mặt:
– Thằng này điếc. Ta là Cát Xuyên Mộc !
Bóng đen trừng trừng nhìn Mãn Hà Chí.
– Tại sao ngươi nhìn ta như vậy ? Ngạc nhiên lắm chăng ?
– Có lẽ.
– Vậy cút đi cho rồi, đứng đấy làm gì nữa ?
Bóng đen vẫn không rời mắt khỏi Mãn Hà Chí. Bỗng gã phá lên cười, tiếng cười thoải mái nhưng đầy vẻ chế giễu. Gã đã hiểu.
– Này các hạ, từ khi bôn tẩu giang hồ đến nay, chưa bao giờ ta được chứng kiến một chuyện quái gở như chuyện này ! Ha …ha …ha … ! Thật là hãn hữu. Bây giờ ta biết tên các hạ rồi, vậy bằng hữu hãy đoán tên ta là gì ?
Mãn Hà Chí chột dạ. Nhưng hắn vẫn tin Cát Xuyên Mộc thật chết rồi, gã lẹm cằm rỗ mặt có bản chứng thư hắn còn giữ trong bọc đây, không thể nào là tên này được. Hắn nói cứng:
– Ai biết tên ngươi là gì ? Ngươi định nhạo ta chăng ?
– Không. Ta hỏi đứng đắn. Tên ta là gì ?
– …
– Nếu ngươi không biết, ta sẽ nói cho biết. Tên ta cũng là Cát Xuyên Mộc, ngoại hiệu Giang Biên Liễu.
Nói xong hắn cười ha hả. Mãn Hà Chí mồ hôi vã đầy trán.
– Ha ha ! Ta với ngươi thế là cùng danh tính. Vậy hãy kết làm bằng hữu.
Rồi tiến đến bên Mãn Hà Chí, giơ tay vỗ vai hắn. Nhưng Mãn Hà Chí nhảy vội ra xa, vung gươm chém xuống.
“Vù !”. Lưỡi gươm của Mãn Hà Chí bị cước của Cát Xuyên Mộc đá bắn tung và trong tay gã ỡ cây sào phơi ữ đã được rút ra từ bao giờ, hàn quang lấp lánh.
Cát Xuyên Mộc cười gằn:
– Ngươi mà chạy là mất mạng !
Tiếng gã sắc như dao, nhọn như kiếm xoáy vào tai Mãn Hà Chí. Mồ hô Mãn Hà Chí thấm ướt áo trong, toàn thân hắn run lẩy bẩy. “Xoẹt” ! Cây trường kiếm tựa con rắn bạc phóng tới bay qua đầu hắn. Hắn cảm thấy đau nhói sau lưng, đồng thời một sức mạnh vô hình đẩy hắn bắn đi, rơi xuống như chiếc lá gió thổi bay lúc trời giông bão.
Hắn lăn ra đất bất tỉnh.
Thanh trường kiếm của Cát Xuyên Mộc đã được tra vào vỏ.
Đến dưới gốc cây lớn, Cát Xuyên Mộc nhìn lên. Chẳng có ai. A Kế Mỹ lại một lần nữa vuột khỏi tay gã.
Xa xa, tiếng chó tru vọng lại dưới ánh trăng suông.
Cát Xuyên Mộc đi sâu vào trong miếu. Tàng cây ẩm ướt, âm u dưới ánh trăng khuya, sương mờ đục khiến miễu có không khí rờn rợn như trong truyện liêu trai.
Tìm mãi không thấy A Kế Mỹ, Cát Xuyên Mộc trèo lên cây thông cao, ngồi dựa lưng vào thân cây, đảo mắt nhìn tứ phía. Gió đêm thổi nhẹ rì rào đưa hắn vào giấc mộng. Thế là con chim non tưởng như đã nhốt được trong lồng, giờ đây bay mất. Cát Xuyên Mộc nhớ lại những giờ khắc êm đềm bên cô bé. Nàng đa cảm và đam mê, nhưng cũng bướng bỉnh làm sao ! Đôi mắt ngây thơ che giấu những ý nghĩ phức tạp gì, hắn không rõ, nhưng quả đã huyễn hoặc hắn, làm hắn như ngây như dại. Hắn dâng cả tình yêu nồng nàn nhất của tuổi trẻ cho cô bé. Vậy mà trời ơi, sao nàng không hiểu ? Hay trong cơn say mê, có lẽ hắn đã quá thô bạo, có những hành động khiến con chim non ấy phải sợ hãi chăng ? Nhưng biết làm sao khác ? Bản tính hắn thế. Ngay từ khi hãy còn là môn sinh của Nhiễm Chúc, Cát Xuyên Mộc đã tỏ ra là một thiếu niên tàn nhẫn, lì lợm.
Lúc giao đấu, hắn chỉ cần thủ thắng, không quan tâm gì đến phương cách mà hắn chẳng phân biệt thế nào là phải, trái nữa, cho nên nhiều lần đã dùng những thủ thuật đê hèn mà không biết.
Một bữa kia, bấy giờ hắn mới nhập môn, vì có thái độ khinh bạc nên bị bạn đồng môn lớn tuổi ghét, xúm lại đánh cho một trận thừa sống thiếu chết bên bìa rừng. Một người trong bọn thương tình cứu tỉnh, đem về rịt thuốc cho, nhưng hắn đã thừa cơ đoạt gươm của người ấy, xuất kỳ bất ý giết chết ân nhân tại đương trường không hối hận.
Chuyện đó tới tai tôn sư. Ông không nói nhưng cũng không đuổi Cát Xuyên Mộc đi, vì tiếc một môn sinh có tài. Hơn nữa, lại có chủ ý coi sự lì lợm của Cát Xuyên Mộc là đức tính kiên trì cần thiết cho người học kiếm. Bọn đồng môn cũng dần lảng tránh, không ai muốn tranh thắng với Cát Xuyên Mộc làm gì vì thắng hắn là tự chuốc lấy thù hận cả đời.
Chẳng biết rồi đức tính kiên trì ấy đi đôi với bản năng tàn ác, ưa áp chế của Cát Xuyên Mộc sẽ đưa hắn tới danh vọng, chức vị gì trong võ lâm, nhưng ở tình trường, hắn thất bại. Không tiếp xúc nhiều với nữ phái, hắn thiếu kinh nghiệm nên vẫn chưa hiểu tại sao A Kế Mỹ không ưa hắn.
Ngồi trên cây, mãi suy nghĩ miên man, Cát Xuyên Mộc không để ý đến một bóng đen đang đi tới miễu.
Nhìn xác người nằm sóng soài trên cỏ, bóng đen tiến lại gần lật lên. “A ! Thằng uống rượu quỵt đây mà ! Sao nó lại nằm đây ?”. Thì ra gã du tăng đuổi theo Mãn Hà Chí khi nãy.
Nghe tiếng kêu, Cát Xuyên Mộc bừng tỉnh. Hắn đưa mắt nhìn xuống nhưng vẫn giữ im lặng. Du tăng vạch áo Mãn Hà Chí ra xem và lẩm bẩm:
“Không sao ! Thân thể còn nóng, chắc mới bị điểm huyệt”. Bèn liên tiếp phóng chỉ, giải những huyệt đạo khả nghi bị bế tắc. Quả nhiên lát sau, Mãn Hà Chí đã cựa quậy được, miệng ú ớ.
Du tăng vực Mãn Hà Chí lên vai, đem đặt dưới gốc cây, đá cho một cước rồi lại bồi thêm nhát gậy để nạn nhân mau tỉnh. Đức Phật bao dung ngài trông thấy cảnh ấy chắc cũng không bằng lòng về cách hành xử của người đệ tử.
– Đứng dậy !
Mãn Hà Chí lờ đờ mở mắt, ngơ ngác nhìn không biết đang ở âm ty hay dương thế.
Nhà sư rút trong bọc ra sợi dây lòi tói, bẻ quặt hai tay gã về phía sau thân cây buộc chặt lại, rồi như một phán quan lên án tội nhân, y chống nạnh đứng trước mặt gã, nghiêm khắc hỏi:
– Hà, thằng này ! Nhận ra ta là ai không ? Ngươi làm ta đuổi theo hụt hơi.
Mãn Hà Chí lặng thinh, nét mặt đờ đẫn.
Nhà sư nắm tóc gã, đập đầu vào gây nghe cộp cộp.
– Ngươi lấy hộp kim đơn ấy ở đâu ? Khai thật, không ta giết chết !
Mãn Hà Chí không nói, chỉ lặng lẽ cúi đầu. Hình như gã vẫn chưa ý thức được rõ ràng cảnh huống gã đương phải chịu.
– À, thằng này gan ! Này gan !
Nhà sư đưa hai ngón tay thọc vào mũi Mãn Hà Chí cấu mạnh. Gã thét lên một tiếng đau đớn, nước mắt ràn rụa. Nhìn gã thở hổn hển, nhà sư mới buông tay. Dưới ánh trăng, hai dòng nước đen ở mũi trào ra rỏ giọt xuống ngực áo. Mãn Hà Chí liếm môi cảm thấy mằn mặn.
– Có nói không ?
– Dạ dạ …Xin đại sư nhẹ tay, tiểu nhân xin nói …Giọng Mãn Hà Chí lạc đi, lắp bắp. Số là …số là …mùa hè năm ngoái khi tiểu nhân còn làm phu vác đá ở công trường Mokoyama …
Và gã đem chuyện gặp tráng sĩ mặt rỗ kể lại, lúc tráng sĩ ấy bị ném chết ra sao, trước khi chết gã lấy túi tiền thế nào, nhất nhất tường thuật đầy đủ.
– Trong túi tiền còn có hộp kim đơn và một chứng thư …
– Bản chứng thư ấy bây giờ ở đâu ?
– Dạ, ở áo tiểu nhân.
Lão tăng thò tay vào bọc Mãn Hà Chí, lôi cuộn giấy dầu mở ra. Trăng mờ không để lão trông rõ nét chữ nhưng dấu triện son lớn đúng là triện của Cổ Môn kiếm phái kèm theo thủ bút của Cát Đằng Cổ Tư Nhiễm Chúc.
– Tiểu nhân thật đắc tội. Vậy xin hoàn lại bản chứng thư, còn tiền thì phần đã trót tiêu hết, phần bị lừa, không có ngay được, xin đại sư cho khất, tiểu nhân sẽ trả sau.
– Những điều ngươi nói có thật không ?
– Dạ, tiểu nhân đâu dám nói dối.
Trút hết những điều u uẩn giữ trong lòng bấy lâu nay, Mãn Hà Chí cảm thấy nhẹ nhàng như người có vết thương nung mủ vừa mới vỡ. Gã khoan khoái cho là đã thoát nạn, hay ít ra cũng tưởng thế.
Lão tăng yên lặng, nét mặt tư lự. Lát sau mới lên tiếng:
– Nhà ngươi tên gì ?
– Dạ, Mãn Hà Chí.
Đột nhiên nghe soạt một tiếng, ánh bạc lóe lên, nhà sư đã lăm lăm cây đoản kiếm.
– Đại …đại sư làm gì thế ? Định giết tiểu nhân chăng ?
Du tăng thong thả gật đầu:
– Phải ! Ngươi phải chết.
– Tiểu nhân đã nói hết sự thật và hoàn lại bản chứng thư. Đại sư không tin sao ?
Du tăng điềm tĩnh:
– Tin ! Nhưng ta ở vào cái thế khó xử. Tử Kỳ là huynh trưởng ta. Tử Kỳ là danh tính của tráng sĩ rỗ mặt ngươi đã gặp. Còn ta tên Tỉnh Quang, tuy mặc tăng bào nhưng ta chính là một kiếm sĩ được ủy thác cho đi điều tra về cái chết của Tử Kỳ.
Mãn Hà Chí cuống quýt lo sợ. Gã van lạy:
– Đại sư …à …à …đại hiệp ! Xin đại hiệp tha mạng. Tiểu nhân biết đã làm bậy, nhưng quả thật không giết Tử Kỳ, chỉ đoạt số tiền và mạo danh để kiếm sống. Đại sư …
đại hiệp cởi trói cho, tiểu nhân xin làm giấy cam kết …
Tỉnh Quang thở dài. Hình như y cũng có đôi phần xúc động và phân vân, nhưng nghĩ một lúc y vẫn lắc đầu:
– Ta chẳng quan tâm đền tiền bạc và cũng rất tiếc phải giết ngươi. Trước khi gặp ngươi, ta đã đến lâu đài Fushimi dò la tin tức, quả đúng như lời ngươi nói, huynh trưởng ta bị ném đá chết.
– Dạ, đúng như vậy.
– Nhưng gia đình ông không tin như thế đâu ! Tử Kỳ là một kiếm sĩ kinh nghiệm, tài ba vào bậc thượng thừa, sao lại có thể chết về tay những người thợ tầm thường được ?
Ông chết không chiến đấu thì còn ra thể thống gì nữa ?
– Dạ dạ. Xin đại hiệp xét kỹ, tiểu nhân không giết Tử Kỳ.
Tỉnh Quang mỉm cười:
– Ngươi không giết nhưng Cát Xuyên Mộc giết. Ta mang cái đầu ngươi và bản chứng thư này về để làm tin …
Mãn Hà Chí sợ run người. Gã thều thào:
– Tiểu nhân tên là Mãn Hà Chí, không phải Cát Xuyên Mộc !
– Ngươi phải giúp ta. Vả chăng ngươi sống cũng bằng vô dụng mà thôi. Uống rượu đã không có tiền trả thì lấy đâu mà tự chu cấp trong cái xã hội nghiệt ngã này được. Ta cho ngươi nằm xuống nghỉ ngơi để khỏi chết vì đói khát. Rồi ta sẽ gửi tiền về giúp đỡ cha mẹ ngươi trong việc ma chay, hơn nữa còn dựng cho ngươi cái bia mộ bằng đá …
Mãn Hà Chí nghe không chịu nổi. Gã tức giận rống lên:
– Đại … đại hiệp … Ta không cần tiền ! Không muốn chết ! Thả ta ra ! Ai cứu ta với!….Cứu ta … t … a … a …
Tiếng kêu của gã vang xa trong đêm tịch mịch cùng với tiếng chó tru ở bìa rừng dội lại. Tỉnh Quang cười hăng hắc:
– A di đà Phật ! Muốn hay không, ta cũng sẽ cho ngươi tiêu diêu miền lạc cảnh.
Hãy cứ coi đây như là chuyện được, mất ở đời !
Nói đoạn, y lùi ba bước, thanh đoản kiếm nắm chắc trong tay sẵn sàng đâm tới.
– Khoan !
Tiếng thét đột nhiên, sắc và cực mạnh từ trên cao vọng xuống làm Tỉnh Quang khựng lại.
– Ai ?
– Cát Xuyên Mộc !
Tỉnh Quang nhảy vội ra xa rút trường kiếm:
– Cát Xuyên Mộc ! Lại Cát Xuyên Mộc nữa ! Ngươi có giả mạo không đấy ?
Tiếng cười khanh khách vang lên, nửa đứng đắn nửa giễu cợt:
– Không ! Ta chính là Cát Xuyên Mộc thật ! Tỉnh Quang, ngươi định chặt ta ra làm hai đoạn chăng ?
– Đúng ! Nếu ngươi là tên giả mạo thì hãy coi chừng lưỡi gươm của ta !
– Hay lắm ! Nhưng ngươi sẽ không phân biệt được chân giả đâu. Vì khi “cây sào phơi” này ra chiêu, ngươi đâu còn ở dương thế !
Nghe nói đến “cây sào phơi”, Tỉnh Quang chột dạ:
– Nếu đúng là Cát Xuyên Mộc thì ngươi làm gì trên đó ?
– Chuyện còn dài, sẽ nói sau !
Vừa dứt lời, một bóng đen đã phi thân như chớp xẹt, đáp xuống gần chỗ Tỉnh Quang đứng, êm như lá rụng, kéo theo cành khô và lá thông rơi lả tả.
Lại một lần nữa Cát Xuyên Mộc xuất hiện bất ngờ làm Mãn Hà Chí co rúm người lại vì sợ hãi. Gã rủa thầm số mệnh khốn kiếp, run rủi gã gặp cả hai tên này một lúc thì thoát làm sao được !
Gã lầm rầm khấn đức Phật Bà Quan Âm phù hộ, mong mẹ đến cứu. Trong lúc vô tình, tay gã cựa quậy, nhưng chỉ thấy sợi dây lòi tói quá chặt cứa vào da thịt đau rát.
Nhìn thanh niên đứng trước mặt, Tỉnh Quang ngạc nhiên. Y không rõ đây có phải là Cát Xuyên Mộc thực không, vì theo chỗ hắn biết, môn đồ Cổ Môn kiếm phái sống cuộc đời khổ hạnh, quần áo thường mặc chỉ là vải gai, không như thanh niên này, sang trọng và diêm dúa quá. Nhưng nhìn thanh trường kiếm quá khổ đeo trên vai thì có thể là Cát Xuyên Mộc lắm, vì thanh kiếm mệnh danh “cây sào phơi” này rất phù hợp với lời đồn đại trong võ lâm; và ngoài Cát Xuyên Mộc ra, không ai xử cây kiếm dài như thế, vừa không chính xác lúc công lại vừa không gọn lúc thủ.
Tỉnh Quang phân vân hỏi lại:
– Thiếu hiệp quả thật là Cát Xuyên Mộc, biệt danh Giang Biên Liễu đấy chăng ?
Cát Xuyên Mộc cười:
– Đã không tin thì trả lời cũng vô ích.
Bèn tự động ngồi xuống một gốc cây, tháo kiếm để bên và mời Tỉnh Quang ngồi cạnh. Thấy thế, Tỉnh Quang không do dự gì nữa, lập tức làm theo. Cát Xuyên Mộc lên tiếng trước:
– Tại hạ ngồi trên cây đã nghe hết mọi chuyện. Được biết huynh đài đi điều tra về cái chết của Tử Kỳ, mà Tử Kỳ là bạn đồng môn của tại hạ thì huynh đài và tại hạ cũng coi như bằng hữu. Huynh đài có ý giết tên chó má kia, tại hạ cho là vô ích. Nếu quả huynh đài vì sợ gia đình Tử Kỳ không tin, cần phải có bằng chứng thì để tại hạ xin viết một lá thư nói rõ đầu đuôi. Như thế vừa xác nhận những điều huynh đài đã điều tra được mà cũng tránh cho tại hạ khỏi phải dính vào chuyện này, sinh thù oán, mặc dầu cái tên tại hạ chỉ là do sự mạo danh mà ra.
Tỉnh Quang gật gù khen phải. Y cho câu chuyện đã có người thứ ba biết rồi thì khó mà che đậy được, nên đồng ý với Cát Xuyên Mộc.
– Còn tên mạo danh tại hạ, huynh đài hãy nhường cho tại hạ xử trí.
Thấy lời yêu cầu hợp lý, Tỉnh Quang không phản đối.
– Vậy tùy thiếu hiệp. Chuyện này như vậy là giải quyết xong.
Cát Xuyên Mộc đứng dậy đeo kiếm lên vai.
– Tại hạ có chút việc cần, chờ dịp khác sẽ tương hội.
– Thiếu hiệp quên gì không ?
– Chẳng có gì quên …Huynh đài có ý gì vậy ?
– Bản chứng thư …
Tỉnh Quang vừa nói vừa lấy cuộn giấy dầu ra trao cho Cát Xuyên Mộc.
– Nghĩ cho cùng, có lẽ anh linh sư huynh tại hạ đã run rủi để chúng ta gặp nhau ở đây và hoàn lại thiếu hiệp bản chứng thư …
Nhưng Cát Xuyên Mộc mỉm cười:
– À, bản chứng thư ! Huynh đài cứ giữ lấy.
Tỉnh Quang ngạc nhiên:
– Sao vậy ?
– Tại hạ không cần.
– … ?
– Tại hạ chẳng dùng mảnh giấy ấy vào việc gì được !
– Coi kìa ! Sao thiếu hiệp lại nghĩ thế ? Lệnh sư trong lúc lâm chung đã quyết định cấp cho thiếu hiệp bản chứng thư này, lại sai Tử Kỳ trao tận tay thiếu hiệp. Chẳng may dọc đường ông ấy tử nạn. Bấy nhiêu là ưu ái, thiếu hiệp phải biết ơn chứ !
– Sư phụ quyết định những gì, tại hạ đâu biết. Tại hạ có những hoài bão riêng.
– Trời ơi ! Sao thiếu hiệp lại có những ý tưởng khinh mạn như thế ?
– Huynh đài đừng hiểu lầm ý tại hạ. Tại hạ chỉ nói là có hoài bão muốn tiến xa hơn Cổ sư phụ, thế thôi. Chưởng môn một kiếm phái vô danh nơi lậu hạng không phải mục đích tại hạ.
– Thiếu hiệp không nói chơi đấy chứ ?
– Tại hạ nói hoàn toàn đứng đắn.
Tỉnh Quang lắc đầu như không tin lời mình vừa nghe.
– Tại hạ biết ơn tôn sư nhưng quả thật thấy tờ chứng thư này vô dụng. Y Tô Gia Nghĩa nhận chứng thư do tôn sư cấp nhưng sau đó đã khai triển nhiều chiêu kiếm lạ. Tại hạ cũng có ý ấy và muốn lập một kiếm phái riêng:
Giang Liễu Kiếm. Rồi đây huynh đài sẽ nghe danh Giang Liễu Kiếm lừng lẫy. Cho nên tại hạ không cần bản chứng thư này.
Phiền huynh đài mang về trả cho Cổ Môn phái, bảo họ lưu trữ cùng với những sổ bộ khai sinh, khai tử tại đền.
Nghe Cát Xuyên Mộc giương giương tự đắc nêu những tham vọng của hắn ra mà không một lời khiêm tốn hoặc nhún nhường, Tỉnh Quang không còn biết nói sao nữa.
– Huynh đài chuyển đến gia đình Tử Kỳ lời phân ưu của tại hạ. Sau này có dịp, tại hạ sẽ tới thăm huynh đài.
Lời hắn kiêu ngạo, hàm ý bao bọc che chở. Tỉnh Quang không vui, muốn trách hắn mấy câu, nhưng nghĩ kỹ lại thôi vì thấy vô ích. Y bỏ cuộn giấy dầu vào bọc, xốc túi hành trang lên vai, nhặt thiền trượng bỏ đi sau lời từ biệt khô khan.
Cát Xuyên Mộc nhìn theo, không giấu nụ cười chế nhạo. “Chắc y giận lắm !”.
Đến gần gốc cây, hắn nhìn Mãn Hà Chí vẫn còn bị trói, gục đầu ủ rũ:
– Còn thằng này ! Đồ vô tích sự ! Ngươi mạo danh ta làm điều xằng bậy, thật đáng hổ thẹn. Ngươi muốn nói gì không ?
Mãn Hà Chí lặng thinh. Dĩ nhiên, hắn chẳng có gì để nói.
– Ta đã nghe ngươi xưng danh là Mãn Hà Chí. Nhưng họ gì ?
– Hồ Điểu.
– Có phải là lãng nhân kiếm sĩ không ?
– Dạ phải.
– Để ta dạy ngươi bài học. Ngươi đã trông ta trả lại bản chứng thư đấy. Nếu một kẻ mệnh danh là kiếm sĩ mà không đủ kiêu hãnh để tự lập, tự tạo cho mình một cái tên thì kẻ đó kể như vất đi, không đáng nói tới. Ngươi hèn hạ mạo danh ta thì còn gì đáng khinh bỉ hơn nữa.
Cát Xuyên Mộc lấy mũi kiếm hất cằm Mãn Hà Chí lên:
– Ngươi nên nhớ:
cáo đội lốt hùm ở đâu cũng chỉ là cáo.
– Dạ dạ ! Từ nay tiểu nhân xin nhớ.
– Ta chẳng giết ngươi làm gì, bẩn gươm. Kệ ngươi ở đây cho chó nó ăn thịt. Làm sao thoát được thì làm !
Hắn định bước đi, nghĩ sao lại rút đoản kiếm phạt một miếng vỏ cây trên đầu Mãn Hà Chí.
– Ta cần bút mực, ngươi có không ?
– Dạ, trong bọc áo tiểu nhân.
Cát Xuyên Mộc mài mực, chấm bút viết lên thân cây:
“Tên này mạo danh ta đi khắp nơi làm nhiều điều vô sỉ. Ta bắt trói nó ở đây cho mọi người phỉ nhổ. Ta, Cát Xuyên Mộc, ngoai hiệu Giang Biên Liễu, quyết định trừng phạt nó để cảnh cáo những kẻ mạo danh ta”.
Hắn bỏ bút xoa tay đắc ý.
Đêm đã khuya. Gió thổi mạnh qua tàn thông và cành khô rào rào như nước triều đổ vào ghềnh đá. Tiếng chó tru dữ dội hơn trước.
Cát Xuyên Mộc mắt đổ lửa, rảo bước biến vào màn sương dầy đặc tựa con báo đen mất hút trong rừng rậm.
Chương 37: Đãng tử
Chiếc cáng do bốn người khiêng chạy phăng phăng trong đêm, dự trù tới giờ dần thì có thể đến rừng tùng đầu đường Tân Hổ. Cáng là một phương tiện di chuyển có từ lâu, nhưng trước đây chỉ dùng cho các bậc quyền thế và phụ nữ. Sau này, nó được phổ cập trong dân gian, nhà giàu không mấy ai là không có cáng và phu cáng riêng để dùng khi cần đến.
Bây giờ chỗ nào cũng có cáng. Ở kẻ chợ cũng như thôn quê gần các trấn không lấy gì làm sầm uất, nếu vội hay mệt mỏi không muốn đi bộ, khách du vẫn có thể thuê cáng hai hoặc bốn người khiêng tùy theo túi tiền mình có. Cáng thuê thường xấu và thô sơ, đan bằng mây hoặc đóng bằng ván mỏng treo dưới cái đòn tre. Trong cáng, lủng lẳng nhiều sợi dây da sống để khách giữ cho khỏi ngã. Phu cáng đi nhanh thường hát những bài hát bình dân cho bước chân đều nhịp và quên mệt nhọc. Khách ngồi cáng không muốn bị xóc phải giữ chặt những sợi dây da treo ấy và nhún nhảy theo.
Chiếc cáng này đã bốn người khiêng lại còn thêm tên bộc đeo ống tre, mang đèn lồng và bốn phu dự phòng chạy theo. Cả bọn thở hồng hộc. Mặc dầu chiếc đèn lồng mang tên hiệu của một thanh lâu nổi tiếng vùng Osaka, người ta không thấy dấu hiệu gì khác chứng tỏ khách ngồi cáng là một gái giang hồ. Trong đêm lạnh, hơi thở của họ trắng như khói.
Bỗng có tiếng từ trong cáng vọng ra:
– Quách Minh ! Đem rượu !
Tên bộc vội vã chạy vượt lên, tháo ống tre khoác trên vai đưa vào.
– Còn sớm. Hãy dừng chân nghỉ chút đã.
Không ai bảo ai, bốn phu cáng đều chậm bước. Đến chỗ khoảng khoát, họ dừng cả lại, để cáng xuống, rút khăn lau mồ hôi nhễ nhại trên trán.
Trong cáng, Hoa Sơn Điền Chính nằm dài, đầu gối lên chiếc gối nhỏ, xung quanh quần áo ngổn ngang lẫn lộn với nhiều ống tre đựng rượu mới uống hết.
– Chà, sương lạnh quá. Đây là đâu thế ?
– Đồng Matsubara rồi ! Còn chừng mười dặm nữa thì đến đại kiều đường Gojo.
– Nhanh đấy. Bây giờ mới đầu giờ sửu.
– Sĩ Khánh đại ca đang nóng ruột chờ. Xin huynh trưởng gấp cho.
Mới tu được vài hớp, rượu đã hết, Điền Chính vứt ống tre xuống đất. Hắn trút cơn bực dọc lên đầu tên bộc:
– Biết rồi ! Đã bảo mua kha khá rượu vào mà chỉ được có chút thế này !
Hoa Sơn Điền Chính, em Sĩ Khánh, uống rượu như cái hũ chìm, càng uống mặt càng tái đi. Tính hắn nóng như lửa, khác xa với tính tình Sĩ Khánh, nhưng kiếm thuật của hắn cũng tinh vi hơn Sĩ Khánh một bậc. Lúc còn sinh thời Hoa Sơn Khổ Bích, có người dám cả gan so sánh kiếm kỹ của hắn với của lão nhân gia và thấy nhiều chỗ kiếm chiêu của hắn, nếu được khai triển và luyện tập công phu hơn, còn có phần ảo diệu hơn cả của Khổ Bích. Trong võ đường, khi hai anh em giao đấu với nhau, Điền Chính đôi lúc nhường Sĩ Khánh mà Sĩ Khánh không biết. Điều đó khiến hắn kiêu ngạo. Khi Hoa Sơn Khổ Bích quy tiên, giao võ đường lại cho Sĩ Khánh, Điền Chính không bằng lòng, nhưng chỉ để bụng và từ đấy thôi không tham gia vào bất cứ sinh hoạt gì của phái Hoa Sơn nữa.
Hắn bỏ mặc, phủi tay coi mình không có trách nhiệm, vung tiền rong chơi những nơi trà đình tửu quán, có khi vắng mặt hàng năm không lai vãng gì đến đường Tân Hổ.
Năm ngoái, sau khi rời khỏi vùng Nara, hắn đến ngụ tại một khách điếm thuộc tỉnh Yamato. Tin Sĩ Khánh bị hạ nhục tại đồng Đại Tỉnh làm hắn vô cùng tức giận và dù bất mãn với anh, hắn cũng lập tức trở về võ đường, xem sự thể ra sao để tìm cách rửa hận.
Điền Chính thuê cáng đi bất kể ngày đêm, thay đổi phu cáng đã mấy lần. Mỗi khi tinh thần bị căng thẳng hoặc chấn động như thế, hắn lại phải mượn rượu trấn an. Lần này có lẽ vì tửu lượng không đủ nên sự nóng nẩy đã bắt đầu ló dạng.
Tiếng chó sủa gần bìa rừng về phía miễu mỗi lúc một nhiều. Phu cáng có người lấy làm lạ. Điền Chính nói:
– Khiêng ra đấy coi xem chuyện gì !
Sau khi Cát Xuyên Mộc bỏ đi, Mãn Hà Chí vùng vẫy tìm hết cách cởi dây trói.
Nhưng sợi dây buộc quá bền chặt mà cách trói của tên du tăng giả kia quả đã tinh tế, gã không làm sao thoát ra được. Thấy vắng người, đàn chó đến mỗi lúc một đông, vây xung quanh gã, xù lông nhe nanh, sủa rầm rĩ.
Mãn Hà Chí càng sợ càng vùng vẫy, mồ hôi toát ra như tắm. Đêm nay, Mãn Hà Chí đã hai lần suýt chết trong gang tấc, nay bị trói cả tay chân, bất lực trước đàn chó đói này, gã thấy tình thế còn nguy ngập hơn gấp mấy lần.
Như đánh hơi được mồi ngon, đàn chó xông vào càng lúc càng gần. Có con nhảy tới cắn xé áo, gã phải hét lên nó mới lui ra gầm gừ. Tay chân bị trói chặt, không còn cách gì khác, Mãn Hà Chí chỉ còn bộ mặt là cử động được. Gã trợn mắt, lè lưỡi, gào bằng mọi thứ giọng của dã thú mà gã tưởng tượng ra lúc bấy giờ, kể cả những câu chửi rủa tục tằn để mắng nhiếc ba đời giống chó. Máu ở lỗ mũi tuôn ra, Mãn Hà Chí chẳng biết đau là gì, nhưng chảy vào mồm làm phiền gã quá. Gã sủa ăng ẳng, gâu gâu rồi hú lên, hy vọng đàn chó sẽ lầm gã với đồng loại. Chẳng biết đàn chó có lầm không, nhưng lúc ấy gã sủa hăng quá tưởng chỉ còn thiếu mọc đuôi ra mà vẫy.
Điền Chính và bọn phu cáng đến gần miễu. Mãn Hà Chí vẫn còn sủa, nhắm mắt vào mà sủa. Trông Mãn Hà Chí thật thảm hại:
chân tay trói quặt vào gốc cây, quần áo xốc xếch rách bươm, mặt mũi đầy máu, mồm há hốc ra mà gào, tiếng ằng ặc trong cổ họng không ai phân biệt được là tiếng người hay tiếng chó nữa.
Phu cáng đuổi chó đi, đến bên gốc cây. Gã đã ở trong tình trạng gần như hôn mê rồi. Cắt dây, vã nước vào mặt một lúc, Mãn Hà Chí mới tỉnh.
– Ai như chồng bà chủ quán Vân Nghê đây mà !
– Chồng Ôkô hả ? Ôkô làm gì có chồng !
– Ờ ờ ! Điền Chính đáp. Ta nghe nói nàng ở với Hồ Định !
Mãn Hà Chí mệt nhọc lắc đầu. Ai hỏi gì, gã cũng mặc kệ. Gã không còn hơi sức đâu mà xác nhận hay chối cãi điều gì nữa chứ đừng nói đến giải thích.
Mọi người chán quá, để yên gã ngồi dựa gốc cây. Họ có việc cần kíp phải làm, chỉ khuyên gã cẩn thận đừng để chó tới gần nữa. Điền Chính bước vào cáng. Y thèm rượu, bảo phu cáng chạy nhanh cho chóng đến Kyoto rồi nhắm mắt thiu thiu ngủ, quên hẳn chuyện vừa qua như không có việc gì xảy ra cả.
Sĩ Khánh mở mắt. Cây đèn cạnh chỗ nằm, qua chiếc lồng giấy màu xanh nhạt, tỏa ánh sáng mờ dịu làm căn phòng thêm ấm cúng. Sĩ Khánh cảm thấy dễ chịu.
Đã bốn ngày nay, Sĩ Khánh nằm liệt giường. Hết mê lại tỉnh, bây giờ sốt đã bớt nhưng cơn đau vẫn còn râm ran, đôi khi buốt nhói đến tận óc. Bốn bề vắng lặng. Tiếng ngáy nho nhỏ của một võ sinh túc trực ngoài cửa vọng vào càng làm tăng sự yên tĩnh.
Không biết giờ này là giờ gì, đêm khuya hay sắp sáng, Sĩ Khánh định gọi gia nhân hỏi nhưng lại thôi.
Y sinh chữa cho hắn nói vết thương quan trọng nhất vào những ngày đầu. Xương bả vai vỡ vụn, nếu chỗ dập nát ấy có triệu chứng làm độc thì khó cứu lắm. Một nửa mình bên phải hắn cuốn băng kín mít, vết máu loang ra tận ngoài đã khô thành từng mảng nâu thẫm trên nền vải trắng.
Sĩ Khánh run run giơ tay kéo tấm chăn đắp lên ngang ngực. Cử động nhỏ ấy cũng làm hắn đau xét thịt, hắn cắn răng giữ cho khỏi kêu, nước mắt ràn rụa.
“Thôi thế là hết ! Nhưng còn tổ phụ, còn môn phái ! Trời ơi !” Sĩ Khánh hét lên căm phẫn, nhưng tiếng hét dường như tắt nghẹn lại trong cổ họng.
Gà gáy sang canh. Ngọn đèn dầu lụi dần rồi tắt phụt trong tiếng”xèo” của dây bấc rớt vào lòng đĩa. Gian phòng tối sầm lại, khung cửa sổ dán giấy trắng hơn. Hình như bên ngoài trời đã bắt đầu hửng sáng. Sĩ Khánh nằm lặng nhìn trần nhà. Hồi tưởng lại lúc đối diện Thạch Đạt Lang ở đồng Đại Tỉnh, hắn còn như trông thấy trước mặt đôi mắt dữ đội đỏ như hổ phách của địch thủ.
“Đáng lẽ chẳng nên gặp hắn. Ta chưa sẵn sàng. Giá tránh mặt một thời gian và luyện tập thì may ra còn có cơ hội cứu vãn được thanh danh. Ta vội quá !” Lại nghĩ đến những năm dài mê mãi truy hoan, Sĩ Khánh hối hận vô cùng, tự giận mình ươn hèn và đánh giá quá thấp địch thủ.
Những bước chân di động ngoài hiên cùng với nhiều tiếng ồn ào cắt đứt dòng tư tưởng của hắn. Hắn đưa mắt nhìn ra cửa. Người võ sinh túc trực bên ngoài bước vào, nét mặt hết sức khích động:
– Đại ca ! Thiếu gia đã về !
Nỗi vui mừng hiện lên nét mặt, Sĩ Khánh chớp chớp mắt nhìn bọn gia nhân chạy nhốn nháo, đổ thêm than vào lò và thay đèn mới. Than chưa kịp bắt lửa đã nghe Điền Chính oang oang:
– Thế nào ! Đại ca tỉnh chưa ?
Sĩ Khánh vừa mừng vừa tủi. ”Rồi ! Giờ khắc trông đợi đã đến !” Hắn mong được gặp em, muốn nói mấy câu mừng rỡ nhưng lại vô cùng ngần ngại. Mặc dầu chính hắn là người ra lệnh cho đi gọi Điền Chính về nhưng trong thâm tâm hắn sợ, chẳng biết giải thích ra sao về sự thất bại này, nhất là đối với Điền Chính, người em đã nhiều lần coi thường hắn. Nỗi mừng gặp em không che lấp được sự lo lắng ấy. Gương mặt Sĩ Khánh trông thiểu não.
– Hà ! Đi suốt đêm mệt quá ! Đại ca thấy chưa, khi gặp khó khăn thì thằng đãng tử này đâu có bỏ đại ca ! Bây giờ tiểu đệ đã về đây rồi, thách đứa nào dám đụng đến bản phái.
Sĩ Khánh mỉm cười hài lòng. Điền Chính đến ngồi bên, xoa tay hơ lên mặt lò sưởi.
Nhìn tên gia nhân bưng trà đến, gã cau mặt:
– Gì thế ?
– Dạ, xin mời thiếu gia dùng trà !
– Ta không uống trà ! Hâm cho ta bình rượu !
Ngắm Sĩ Khánh nằm dài trên chiếu, da mặt xanh như tàu lá, Điền Chính mủi lòng.
Xa nhau mới hơn một năm, gã thấy anh mình già đi có đến hàng chục tuổi. Gã hỏi, giọng thương cảm, nhưng không giấu vẻ kiêu ngạo che chở:
– Sao đại ca lại để đến nỗi thế này ? Khi gặp nó đại ca sử chiêu kiếm gì ? Thằng ấy chỉ là một tên vô danh, sao để nó tập kích thình lình như vậy ?
Gia nhân mở hé cửa thò đầu vào:
– Trình thiếu gia, rượu đã hâm xong.
– Đâu ?
– Tiểu nhân để ở phòng bên. Xin thiếu gia đi tắm rồi giải khát.
– Ta không cần tắm. Mang rượu vào đây !
– Vào phòng đại ca đang dưỡng thương hay sao ?
– Chứ còn gì nữa ! Đồ ngu ! Bao lâu nay ta không gặp anh ta, bây giờ hàn huyên, để ta uống với anh ta một chút rượu không được à ?
– Dạ dạ …
Rượu bưng vào, Điền Chính hối hả rót, uống, rót, uống …
– Khà ! Cái này đáng gọi mỹ tửu đây. Đại ca dùng một chút không ?
Sĩ Khánh mệt nhọc lắc đầu, khe khẽ nói:
– Hiền đệ …Hiền đệ đừng uống rượu trước mặt ta được không ?
– Đại ca bảo gì ?
– Hiền đệ đừng uống rượu. Rượu gợi cho ta nhiều kỷ niệm không vui …
– Chà, đại ca không đùa đấy chứ ?
Sĩ Khánh nghiêm mặt:
– Ta nghĩ đến tiên nghiêm. Nếu người còn sống, chắc chẳng muốn chúng ta sống buông thả thế này đâu !
Điền Chính cười ha hả:
– Đại ca sảng rồi !
– Không, ta không sảng. Bây giờ hiền đệ chưa thấy, còn ta, ta thật hết sức hối tiếc những việc đã làm.
Điền Chính nhếch mép cười chế giễu:
– Đấy là ý riêng đại ca. Đại ca tính tình đa cảm, chí không quyết thì hỏng việc.
Uống vài chung rượu, sao gọi là buông thả ?
Rồi nghiêm giọng, gã tiếp:
– Nếu đại ca muốn biết sự thật thì đây đệ xin nói:
Đại ca giao chiến với Thạch Đạt Lang là lầm lẫn. Không phải vì nó giỏi giang gì nhưng vì đại ca không có máu kiếm sĩ.
Đã nhiều lần, đệ yêu cầu đại ca phong kiếm quy ẩn, để chức chưởng môn lại cho đệ, nhưng đại ca không nghe, cứ khăng khăng bảo đó là nghiêm mệnh. Bây giờ nếu võ đường này giao cho đệ xử lý thì đoan chắc với đại ca, nó sẽ phát triển gấp mười lần lúc trước …
Điền Chính dốc ngược bình rượu, rót những giọt cuối cùng vào chén.
Sĩ Khánh nhăn mặt:
– Điền Chính !
Hắn gượng ngồi dậy, nhưng đau quá phải dùng tay trái nắm cổ tay em:
– Này ! Đổ rượu bây giờ !
Điền Chính giữ tay Sĩ Khánh, chuyển chén rượu sang tay kia. Sĩ Khánh thều thào:
– Thì ta …thì ta sẵn sàng nhường võ đường lại cho ngươi. Bây giờ còn biết làm sao khác được ! Ngươi thay ta điều khiển bản phái, cố làm rạng danh …
Chưa nói hết câu, dường như không chịu nổi mệt nhọc, Sĩ Khánh để rơi đầu xuống gối, quay đi tránh tia mắt em, hai giọt lệ lăn trên đôi gò má xanh xao.
Im lặng nặng nề bao trùm cả gian phòng. Một lúc lâu mới nghe Điền Chính cất tiếng:
– Được ! Nếu đại ca chỉ muốn có thế …
– Hiền đệ ! Đừng coi thường lời ta nói. Hiền đệ nên nghĩ kỹ, địch thủ của chúng ta rất lợi hại. Nếu hiền đệ lại tái phạm vào những lỗi lầm ta đã phạm thì thà đóng cửa võ đường còn hơn. Ta …ta không muốn danh dự tiên phụ bị Ô nhục thêm lần nữa.
– Đại ca yên tâm. Tiểu đệ không như đại ca đâu.
– Hiền đệ hứa tu tỉnh chứ ?
– Tu tỉnh cái gì ? Nếu phải bỏ rượu thì tiểu đệ không nghe lời đại ca được. Đại ca miễn chấp, khi nào cần, đại ca không thể không có rượu …
Sĩ Khánh thở dài:
– Ừ, thôi cũng được. Miễn điều độ. Vả lại rượu chẳng phải là lỗi lầm duy nhất.
Điền Chính hơi mỉm cười:
– Nhược điểm của đại ca là nữ sắc, đệ biết rồi. Khi nào bình phục, có lẽ đại ca nên lập gia đình đi là vừa, để sống vào khuôn phép …
– Không ! Ta không còn muốn bon chen gì trên trường danh lợi thị phi, nhưng lấy vợ lập gia đình thì chưa phải lúc.
Nghĩ một lúc, hắn tiếp:
– Thế nhưng có một người ta nghĩ ta có trách nhiệm phải cưu mang. Nếu người đó sung sướng thì thật ta không còn mong gì hơn nữa. Ta sẽ sống cuộc đời tàn còn lại, đơn độc, trong một gian nhà cỏ ở ven rừng cũng đủ …
– Ai thế ?
– Ngươi biết mà làm gì ? Đấy là chuyện riêng, ta sẽ gắng chuộc lỗi. Thôi, ra ngoài đại sảnh gặp anh em đi, ta muốn nằm nghỉ.
– Đại ca yên tâm. Đệ hứa sẽ trả mối thù không đội trời chung này. Thằng Đạt Lang bây giờ ở đâu ?
– Điền Chính ! Sĩ Khánh chằm chằm nhìn em. Thì ra hiền đệ vẫn chưa hiểu ý ta sao ? Ta vừa cảnh cáo ngươi đừng phạm vào những lỗi lầm ta đã phạm …
– Thằng đó là kẻ thủ không đội trời chung với bản phái. Chính đại ca sai người đi tìm tiểu đệ về, nếu không phải để rửa hận ngay thì tại sao lại phải vội vàng thế ?
Sĩ Khánh lắc đầu, nghiêm giọng:
– Không hấp tấp được. Lúc này …lúc này …ta cấm hiền đệ giao đấu với nó …
Điền Chính ngạc nhiên, bực tức. Sự cấm cản của người anh trong thâm tâm gã không phục chỉ làm gã khó chịu.
– Tại sao ?
– Vì ngươi không thắng được nó !
Điền Chính mặt xám lại:
– Tại sao không ? Một kiếm phái lẫy lừng như Hoa Sơn phái mà không thắng nổi tên vô danh tiểu tốt ấy à ?
– Không !
Thanh âm Sĩ Khánh tuy nhỏ nhưng đầy xác tín và bi phẫn.
Điền Chính cười ha hả, rung động cả hai vai. Gã uống nốt chén rượu, chống tay đứng lên, đá chiếc bình không lăn lông lốc trên sàn, hét lớn:
– Mang bình rượu khác vào đây. Hết rồi !
Người nhà mang rượu đến, nhưng Điền Chính đã bỏ đi. Sĩ Khánh nằm nghiêng, đầu lệch sang bên. Tên người nhà hoảng hốt quỳ xuống đỡ đầu chủ đặt ngay ngắn lên gối và kéo chăn đắp. Sĩ Khánh mệt nhọc bảo:
– Thiếu gia đâu, mời trở lại, ta còn muốn nói câu chuyện.
Yên tâm vì tình trạng Sĩ Khánh không có gì đáng ngại, tên người nhà lùi ra ngoài đi tìm Điền Chính.
Ngoài đại sảnh, bọn Ưng Đằng, Tích Quang, Hạ Nguyên Cát và hai ba người khác vào hàng cao cấp của phái Hoa Sơn đang họp nhau bàn bạc, nét mặt nghiêm trọng.
Thấy Điền Chính đến, cả bọn đứng dậy thi lễ.
– Thiếu gia đã gặp đại ca chưa ?
– Ta vừa ở đó ra.
– Đại ca có vui mừng được tái ngộ thiếu gia không ?
– Cũng vậy thôi. Ta với anh ta tính tình xung khắc, ít khi đồng ý về việc gì, nên gặp nhau mà chẳng mãn ý.
– Đại ca nói những gì về chuyện bản phái ?
– Đại ca trao quyền chưởng môn cho ta. Hiện nay bào huynh ta còn mệt, chắc sẽ có văn thư sau …
– Thế còn việc trả hận ? Chúng đệ phải làm gì ?
– À …à …việc đó chưa quyết định rõ ràng …và cũng chính là điều bất đồng ý kiến giữa anh em ta.
Mọi người yên lặng, mỗi người theo đuổi một ý kiến riêng. Ưng Đằng lấy tư cách người có niên kỷ cao nhất trong bạn, đưa ra lời khuyên:
– Thiếu gia với đại ca tính tình xung khắc ai cũng biết. Nhưng chẳng may đại ca thương tích trầm trọng chưa hồi phục, thiển nghĩ thiếu gia chẳng nên tranh luận làm gì…
Điền Chính hơi bực mình nhưng nể Ưng Đằng, gã chỉ ôn tồn vỗ vai lão:
– Ưng đệ không biết, bào huynh ta có ý chê ta không đủ tài thắng tên đó nên cấm ta giao đấu với nó …
Ưng Đằng gật gù:
– Đệ hiểu.
Điền Chính chăm chú nhìn lão:
– Hiểu là hiểu thế nào ?
Ưng Đằng không giải thích nhưng rõ ràng lão cho Sĩ Khánh nói phải. Bầu không khí trở nên ngột ngạt.
Vừa may tên người nhà mở cửa bước vào:
– Xin mời thiếu gia trở lại. Đại ca có lệnh muốn được đàm đạo thêm với thiếu gia.
Điền Chính cau mặt:
– Rượu đâu ?
– Dạ ! Để ở phòng đại ca.
– Mang đến đây !
Tích Quang ngập ngừng:
– Thế thiếu gia không muốn trở lại xem đại ca muốn …
Gã chưa kịp nói hết câu, Điền Chính đã cắt ngang:
– Không cần !
Rồi quay sang hất hàm bảo tên người nhà:
– Đi lấy rượu ! Đứng đấy à ?
Mọi người nhìn nhau, vẻ ngạc nhiên hiện trên nét mặt. Điền Chính giận dữ:
– Các ngươi sao thế ? Sợ tên khốn kiếp ấy cả chăng ?
Mấy ngày nay, đồ chúng Hoa Sơn họp nhau lại từng nhóm, bàn tán rất nhiều về mối nhục thất trận của chưởng môn. Không ai không uất hận, nhưng đến khi tìm cách trả thù thì ý kiến chia thành hai phái:
một phái muốn giết Thạch Đạt Lang ngay. Phái này có những phần tử cực đoan, đòi hạ thủ hắn ngay tức khắc, dù bằng những phương tiện không chính thống, không được võ lâm coi trọng, tỷ như dò la chỗ ở của Đạt Lang rồi đặt người phục kích quăng lưới bắt sống, hoặc lấy câu liêm giật cho ngã. Thậm chí có kẻ còn đề nghị dùng ngụy kế lừa gạt và đầu độc nữa. Phái kia ôn hòa hơn, chủ trương rửa hận trong danh dự, kêu gọi anh em nhẫn nhục một thời gian để cải tổ và tập luyện cho hoàn chỉnh rồi mới hành động. Đứng đầu phái này là Tích Quang, có Ưng Đằng ủng hộ và chưởng môn Sĩ Khánh mặc nhiên chấp thuận.
– Bào huynh ta nhát như cáy ngày, trúng thương một lần đã rụt vòi lại. Chim bị tên sợ cây cong, chẳng nói làm gì, nhưng ta đâu phải kẻ khiếp nhược mà phải nghe lời bào huynh ?
Rượu mang đến, Điền Chính tự tay rót uống rồi đẩy khay sang cho mọi người.
Không khí cởi mở hơn.
– Ưng đệ có mặt tại đồng Đại Tỉnh ngày hôm đó, thấy những gì kể lại ta nghe.
– Thưa thiếu gia, ngày hôm đó tuy đệ có mặt ở đồng Đại Tỉnh thật nhưng không được tận mắt mục kích trận đấu. Tuy nhiên theo lời tên võ sinh Tạ Minh Chí theo hầu đại ca thì dường như đại ca bị tập kích.
Và Ưng Đằng thuật lại hết những chuyện đã xẩy ra như lời Tạ Minh Chí nói.
– Hừ ! Điền Chính gật gù. Bào huynh ta rõ ràng bị tập kích rồi, nhưng bảo là bị đánh lén thì cũng không đúng. Hai bên đã trực diện nhau. Bào huynh ta chí không quyết nên bị sơ hở.
Hắn cầm chén rượu uống cạn:
– Ta sẽ tìm Thạch Đạt Lang quyết tử với nó.
Tích Quang vội cất tiếng can:
– Thưa thiếu gia ! Không ai ngờ vực tài năng của thiếu gia, nhưng …
Vừa định rót thêm rượu, Điền Chính khựng lại:
– Nhưng cái gì ?
– Theo thiển ý, giao đấu với Thạch Đạt Lang không phải là chuyện quan trọng.
Quan trọng là danh dự của môn phái nằm trong kết quả của sự giao đấu ấy. Xin thiếu gia nghĩ đến hiểm họa …
Điền Chính dằn mạnh chén rượu xuống bàn:
– Hiểm họa ! Hiểm họa ta thua nó chăng ?
– Tiểu đệ không có ý nghi ngờ …Tích Quang lắp bắp. Tiểu đệ xin rút lại …[Audio] Thiếu Niên Ca Hành (dịch)
Nhưng mũi tên đã bắn đi, hậu quả không ngăn lại được nữa. Điền Chính đứng phắt dậy nắm áo Tích Quang đẩy mạnh vào tường.
– Cút ! Đồ hèn. Ta không muốn có những tên đồ đệ nhát như cáy. Cút đi cho khuất mắt.
Mặt Tích Quang xám lại vì ngạc nhiên và căm giận. Nhưng gã tự kềm chế. Gã chỉ xốc lại áo, cúi đầu điềm đạm:
– Xin đa tạ thiếu gia đã lưu tình.
Rồi đến trước bàn thờ tổ ở cuối phòng thắp hương làm lễ và lặng lẽ bỏ đi.
Không ai nói câu gì. Bầu không khí trong phòng tưởng như có phiến đá ngàn cân đè nặng. Điền Chính một mình ngồi rót rượu uống hết chén này đến chén khác, một lúc lâu mới cất tiếng:
– Nào, chúng ta cùng nâng chén rồi giải tán thôi. Ta chắc thằng Đạt Lang chưa rời khỏi Kyoto này đâu. Nó còn quanh quẩn đâu đó để khoe khoang thành tích. Anh em hãy trở về võ đường dượt lại và hướng dẫn võ sinh tập luyện. Bảo họ phải hết sức và nói cho họ biết ta sẽ không nhẹ tay như bào huynh ta đâu !
Đúng một tuần sau, một võ sinh hớt hải về báo cáo:
– Đã biết chỗ nó trốn rồi !
Trong thời gian ấy, Điền Chính cũng không xao lãng việc luyện tập. Buổi tối, gã ôn lại những bí kíp võ công, những chiêu thức bí mật chỉ truyền cho người cầm đầu môn phái. Ban ngày, sau ba bữa rượu thường lệ, gã ra võ đường tiếp cận đại sảnh cùng với đồ chúng Hoa Sơn dượt lại những chiêu kiếm của môn phái. Sức mạnh của gã cùng cách sử dụng tinh xác những chiêu kiếm bình thường này mà hàng ngày võ sinh vẫn đem ra tập luyện với nhau làm mọi người ngạc nhiên và hãnh diện vô cùng. Mọi hy vọng phục thù đều đặt trong tay Điền Chính.
Điền Chính ngưng tập dượt. Gã gác kiếm lên giá, gỡ mặt nạ, lau tay, quay ra hỏi tên võ sinh đứng cúi đầu chờ lệnh.
– Hay lắm. Ngươi thấy nó ở đâu ?
– Trình thiếu gia, ở ngõ Kim Phong. Thạch Đạt Lang tới ngõ Kim Phong thì đi thẳng vào tư thất Cổ Huy Đạo.
Điền Chính nhìn về phía trước, mặt đăm chiêu:
– Quái ! Sao tên quê mùa ấy lại biết Cổ Huy Đạo ?
– Tiểu nhân không rõ.
– Thôi được, đi ra !
Đoạn Điền Chính quay ra nói với mọi người:
– Anh em chuẩn bị ! Ta đến ngõ Kim Phong bây giờ !
Nhưng Ưng Đằng và Hạ Nguyên Cát vội chạy theo:
– Thiết nghĩ làm thế không ổn. Người ngoài sẽ cho mình sinh chuyện gây hấn. Nếu có thắng cũng không tránh khỏi dị nghị.
– Cần quái gì ! Nghi lễ là để dùng ở võ đường. Trên chốn giang hồ, trong những cuộc tranh phong, kẻ nào thắng là thắng, xá gì đến nghi lễ.
– Đúng vậy ! Nhưng xin thiếu gia nghĩ kỹ, tên đó đâu có thắng đại ca bằng cách ấy. Mình là chưởng môn một danh môn chính phái phải thủ lễ chứ. Thiếu gia khoan đã, hãy gửi cho nó một phong thư định ngày tháng và nơi hẹn, rồi đường đường chính chính mà thắng nó chẳng hơn ư ?
– Ừ, Ưng đệ nói có lý. Chúng ta làm thế cũng được !
Đoạn thêm:
– Ưng đệ bảo người viết thư ngay. Mà ta không muốn bào huynh ta hay bất cứ người nào ngăn cản ta làm việc này. Ta nhất định phải giết nó, không trì hoãn lâu được !
– Thiếu gia không ngại.
Hạ Nguyên Cát nói trấn an:
– Chúng đệ sẽ không để xảy ra chuyện như vụ Tích Quang và Hồ Định. Thiếu gia thấy có cần phải trình đại ca về việc này không ?
– Dĩ nhiên phải cho đại ca biết. Nhưng chuyện đó để ta làm.
Cả hai theo chân Điền Chính. Đến phòng Sĩ Khánh, họ đứng ngoài chờ, thầm cầu nguyện cho hai anh em nhất trí hành động, đừng mỗi người một ý. Một lúc sau thấy vẫn im lặng, đồ chừng câu chuyện đã dàn xếp xong, Ưng Đằng và Hạ Nguyên Cát bắt đầu bàn bạc về ngày giờ thuận tiện nhất cho cuộc gặp gỡ. Thì bỗng nghe tiếng Điền Chính gọi lớn:
– Ưng Đằng, Hạ Nguyên Cát, vào cả đây ! Cần lắm !
Cả hai đẩy cửa ùa vào, thấy Điền Chính đứng sững giữa phòng, mặt tái mét. Gã cầm phong thư dài, tay run run cố kìm sự giận dữ chỉ chực nổ tung:
– Này ! Các ngươi xem ! Thật u mê cực độ ! Ra lệnh chỉ cấm ta và toàn phái đối đầu với nó lúc này. Đóng triện son rồi bỏ đi không biết nơi nào nữa. Hèn nhát thế này thì làm sao nghe lời được.
Chương 38: Người mẹ
Oa Tử đặt giỏ khâu xuống lắng nghe. Hình như có tiếng chân người bước nhẹ ngoài vườn.
– Ai đó ?
Nàng đứng dậy đẩy cửa nghiêng đầu nhìn ra. Bên ngoài vắng lặng, chỉ thấy gió thổi xào xạc và tiếng những chiếc lá phong khô theo nhau lăn nhanh trên sàn gỗ.
Oa Tử quay trở vào, buồn bã. Đã mấy ngày nay, nàng đợi Giang nhưng không thấy tăm hơi thằng bé, không biết chuyện gì đã xảy ra cho nó ? Bà Hồ Điểu rời khỏi nhà trọ từ sáng sớm. Cuộc đời của bà bây giờ chỉ còn quanh quẩn ở mấy việc:
tìm Thạch Đạt Lang, gặp lại con trai và đi chùa lễ Phật.
Một mình trong phòng vắng, nỗi cô đơn và phiền muộn bao quanh, Oa Tử không còn lòng dạ nào chú tâm đến việc kim chỉ.
Làng Sơn Ninh này thuộc trấn Kiyomi thật là hẻo lánh. Khách phần đông vãng lai chỉ vì mục đích hành hương và viếng thăm cổ tích. Con đường băng qua làng gập ghềnh khó đi, mùa đông tuyết phủ đến mắt cá chân, mùa xuân lầy lội. Tuy vậy cảnh Sơn Ninh quyến luyến lòng người, vì sau con đường lầy lội ấy là những căn nhà tranh gọn ghẽ lẩn bên giậu trúc xanh với những khóm trà đơm hoa trắng, đỏ. Cuối xuân, hoa mận hoa mơ rụng đầy. Cảnh vật kém phần tươi đẹp nhưng mang một sắc thái riêng, gây cho khách du một nỗi buồn man mác.
Bà Hồ Điểu không lần hành hương nào qua trấn Kiyomi mà không đến trọ Ở quán Đại Lộc trong làng Sơn Ninh. Chủ quán biết ý khách ưa tĩnh, bao giờ cũng dành cho bà một căn thảo ốc riêng biệt phía sau vườn, bên gốc đào cổ thụ. Bấy giờ mới chưa hết tháng giêng, hoa đào đang rộ nở, rực rỡ vô cùng. Những cánh hoa mỏng run run trước gió, cạnh mấy cái mầm non mới nhú ở đầu cành xanh như ngọc.
Mùa xuân trở lại, đáng lẽ phải vui tươi, nhưng sao Oa Tử cảm thấy bồn chồn lo lắng quá. Nàng ngồi thừ người bên chiếc giỏ khâu nghĩ ngợi, không để ý đến vợ người chủ quán từ dưới bếp gọi vọng lên. Mãi sau, nghe tiếng đập cửa, nàng mới giật mình.
– Gần ngọ rồi, cô nương muốn dùng cơm chưa để cho người mang tới ?
– Ô ! Đã đến giờ ăn rồi đấy ! Thôi ta đợi lão bá về ăn một thể.
– Lão bá dặn hôm nay về trễ. Cô nương chẳng đợi được đâu !
– Nhưng ta không đói.
– Không đói cũng phải ráng, chứ ngày một bữa thì sao đủ sống ?
– Cảm ơn bác, thật tình ta không đói mà.
Sau nhà, bác thợ gốm đã đốt lò. Khói củi thông bốc cao, cuồn cuộn đen trong bầu trời trong vắt. Mùi nhựa thông thơm và hơi cay thoang thoảng đưa vào tận phòng Oa Tử.
Ngoài đường, tiếng ngựa hí, tiếng chân người đi lẫn với những tiếng cười nói lao xao.
Cùng với những câu chuyện buôn bán trong vùng, chuyện thờ cúng ở đền miếu còn cả chuyện Điền Chính, kẻ đãng tử mới trở về làm chưởng môn Hoa Sơn phái. Oa Tử chú ý lắng tai nghe. Hôm xảy ra cuộc giao đấu ở đồng Đại Tỉnh, nàng đã cố tìm cách đến đó nhưng không được. Bà Hồ Điểu đi, giao nàng cho vợ chồng chủ trọ canh giữ. Mỗi khi nàng cất bước ra ngoài hoặc chỉ mở cửa nhìn ra đường cũng đã có người trông chừng để mắt dòm ngó.
“Cô nương đi đâu ? Có về ăn cơm trưa không ?” hoặc “Hôm nay trời lạnh, cô nương phải cẩn thận đừng ra ngoài !”. Lời nói xem ra tự nhiên, nhưng Oa Tử đã hiểu ngụ ý.
Nàng muốn viết phong thư gửi cho Giang ở lâu đài tướng công Lưu Cát nhưng lại thôi, vì dự đoán thế nào rồi thư cũng bị chận lại, chắc gì đến tay nó được.
Dân làng Sơn Ninh thuần hậu, cả tin và bảo thủ. Họ cho lão bà Hồ Điểu giữ con dâu ở đây tất có lý do chính đáng nên không dám trái ý bà, một người đối với họ là tượng trưng của uy quyền đảng tộc.
Oa Tử thở dài. Nàng nghĩ đến Thạch Đạt Lang. Như con chim bị nhốt, nàng bất lực. Sự so sánh tình trạng hiện nay với con chim bị giam giữ, nàng thấy thật chua chát.
Oa Tử nghĩ đến thân phận mình, phải rồi, nàng còn bị giam trong cái lồng lễ giáo nữa, vì mặc dầu bị từ hôn, xã hội vẫn coi nàng là con dâu nhà Hồ Điểu.
Oa Tử mang chiếc áo lụa của bà cụ ra khâu những đường chỉ sứt và xếp gọn lại. Có bóng người thấp thoáng ngoài song rồi tiếng nói trong trẻo của một thiếu nữ:
– Chẳng biết phải đây không ?
Thiếu nữ trạc hai mươi, đôi mắt đẹp não nùng, đứng bên hàng giậu trúc phía vườn sau. Thấy Oa Tử, nàng hỏi vọng vào:
– Nhà này phải quán trọ không tỷ tỷ ?
Oa Tử nhìn, ngạc nhiên. Nàng đã nhận ra cô bé này trong vòng tay Thạch Đạt Lang dưới chân cầu đường Gojo mà Giang gọi tên là A Kế Mỹ thì phải. Kỷ niệm đau thương nổi dậy làm nghẹn lời, Oa Tử trừng trừng nhìn A Kế Mỹ không chớp. A Kế Mỹ tưởng mình lầm, xin lỗi và hỏi chữa:
– Thưa tỷ tỷ có biết quán trọ chỗ nào, chỉ em …
Nhìn cây đào nở rộ, nàng suýt soa:
– Trời ơi đẹp quá ! Tỷ tỷ ở đây thật thích.
Một nữ tỳ chạy đến:
– Cô nương tìm chỗ trọ ?
– Phải.
– Vậy mời cô nương đi lối này. Cổng vào ở phía trước.
– Quán này trông ra đường à ?
– Vâng, nhưng yên tĩnh lắm.
– Ta thích ở chỗ xa mặt đường riêng biệt, đi về không ai để ý. Căn nhà nhỏ này dễ thương quá, có cho thuê không ?
– Dạ có, nhưng nhà đã có người thuê rồi.
– Cô nương ngồi kia đó hả. Để ta ở chung với cô được không ?
– Chắc không được đâu, vì còn bà mẹ già nữa. Bà cụ khó tính lắm. Nhưng bây giờ bà đi vắng, để khi về cô nương hỏi xem.
– Vậy cho ta mướn căn phòng ở tạm. Ngươi dẫn ta đến gặp chủ nhân.
– Vâng. Cô nương theo cháu.
Cả hai thoăn thoắt men hàng rào ra phía đường, để Oa Tử ngồi ngẩn ngơ tiếc đã bỏ lỡ dịp tốt hỏi thiếu nữ vài câu. Nàng thẫn thờ tự trách:
“Mình thật chậm chạp. Cơ hội thế mà bỏ qua. Bận sau phải nhanh trí hơn mới được !”.
Để dẹp những ý tưởng ghen tuông nhen nhúm, Oa Tử đã nhiều lần tự nhủ Thạch Đạt Lang chẳng phải người trăng hoa. Chàng gặp A Kế Mỹ dưới chân cầu chưa chắc đã là vì có tình ý. Nhưng bây giờ … bây giờ … nhìn A Kế Mỹ, những điều nàng tự nhủ hầu như sụp đổ. Cái dáng đi quyến rũ ấy, đôi mắt buồn não nùng ấy, làm sao mà Thạch Đạt Lang có thể vô tình được ! Nàng lại khôn khéo hơn ta. Trời ơi ! Và Oa Tử đột nhiên như thấy muôn ngàn cây kim đâm vào tim đau nhói. “Chẳng qua mình không đẹp bằng, mình lại là đứa mồ côi, không gia đình thân thuộc, hy vọng gì Thạch Đạt Lang để ý.
Thật là mơ ước hão huyền !”. Hơn lúc nào hết, Oa Tử mong găp Giang vì bây giờ, nàng nghĩ, chỉ có nó là người có thể giúp nàng được mà thôi.
Hồi tưởng đến ngày còn ở chùa Tiểu Sơn và khi cứu Thạch Đạt Lang khỏi cây đại bách trong một ngày dông bão, Oa Tử thở dài, hai hàng nước mắt rưng rưng. Nàng kéo tay áo lên thấm:
“Mình nhiều tuổi rồi, chẳng còn vô tư như nó mà cũng không còn can đảm làm gì nữa”.
– Oa Tử ! Ngươi có trong phòng không ? Làm gì mà để tối thui không thắp đèn đóm gì cả thế này ?
Tiếng bà Hồ Điểu the thé ngoài hiên khiến Oa Tử giật mình. Hoàng hôn xuống từ bao giờ nàng cũng chẳng hay. Nàng vội vàng đi thắp đèn, mang lại đặt bên cạnh chỗ ngồi của bà Hồ Điểu. Bà nhìn nàng, lạnh lùng.
– Hôm nay chắc bà mệt. Bà gặp Mãn Hà Chí không ?
– Ngươi trông ta khắc biết, hỏi gì nữa.
Bà nhăn mặt kêu đau. Oa Tử vội quỳ xuống:
– Để con bóp chân cho.
– Không, chân không đau, nhưng vai thì mỏi lắm. Có lẽ tại trời ẩm, bệnh thấp nó hành. Ngươi bóp vai cho ta.
Oa Tử vòng ra sau lưng, dùng tay bóp và đấm nhè nhẹ lên vai bà lão. Bà thở ra khoan khoái, cười nói:
– Con dâu ta khéo quá !
Nhưng trong thâm tâm, bà nghĩ:
“Chẳng còn bao lâu đâu con ạ. Chờ ta tìm được thằng Mãn Hà Chí rồi mày sẽ biết”.
– Bắp thịt trên vai bà sao cứng thế ! Bà thở có thấy đau ngực không ?
– Ờ đau. Đôi khi như có cục đá đè lên. Chắc ta cũng sắp hết lộc trời rồi.
– Chỉ nói gở. Bà còn khỏe lắm, thanh niên cũng chẳng hơn đâu !
– Ở đời biết thế nào được. Như cậu Ngô đấy, hôm trước mạnh hôm sau đã ra người thiên cổ. Nên ta phải cố tìm thằng Thạch Kinh Tử trước khi ta chết.
Thấy bà Hồ Điểu nhắc đến Thạch Đạt Lang, Oa Tử rụt rè hỏi dò:
– Con xem ra Thạch Đạt Lang cũng không phải là người xấu.
Bà Hồ Điểu khẽ nhếch mép, liếc nhìn Oa Tử:
– Hừ ! Cô thương nó hơn thằng Mãn Hà Chí phải không ?
– Không phải thế !
– Thế sao lại ruồng rẫy con ta ?
Oa Tử lặng thinh. Nàng chẳng muốn nhắc đến thư từ hôn của Mãn Hà Chí làm gì vì biết nói ra, bà Hồ Điểu cũng chẳng tin nào.
– Ta sẽ tìm thằng Mãn Hà Chí dẫn về đây rồi tùy nó và ngươi định liệu. Về làng cáo gia tiên xong, chúng bây muốn đi đâu thì đi. Nhưng ta chắc ngươi và nó lại đi rêu rao kể xấu ta khắp nơi chứ gì ?
– Sao bà ngờ con vậy ? Con đâu phải hạng người như thế. Khi ở làng bà đối với con thế nào con nhớ chứ !
– Cha ! Các cô thời nay ăn nói khéo quá. Ta cổ hủ thật nhưng thật thà nghĩ sao nói vậy. Này ta bao thật, nếu ngươi lấy thằng Thạch Kinh Tử, ta sẽ không đội trời chung với ngươi, bấy giờ thì đừng trách.
Oa Tử lặng thinh.
– Sao ngươi khóc ?
– Con khóc đâu ?
– Thế nước gì rỏ vào gáy ta thế ?
– Con xin lỗi. Con không cầm được cảm xúc.
– Ừ thôi, bỏ chuyện ấy đi. Đừng nghĩ đến nữa. Bóp mạnh mạnh lên một chút, phía bả vai ấy.
Ngoài vườn, thấp thoáng ánh đèn. Oa Tử ngỡ con hầu giờ này thường mang cơm tới, nhưng khi ánh đèn đến gần thì ra là một nhà sư. Trên lồng đèn nhà sư cầm thấy đề chữ “Sơn Thần Miếu”.
– A di đà Phật.
Bà Hồ Điểu chạy ra.
– Xin cho bần tăng hỏi thăm, quý thí chủ phải chăng là Hồ Điểu lão bá ?
– Dạ phải, đại sư có điều chi dạy bảo ?
– Bần tăng ngụ Ở miếu Sơn thần. Chiều nay có kiếm khách đến hỏi thí chủ. Biết thí chủ thường lên lễ miếu, vị đó để lại thư này nhờ chuyển cho thí chủ. Nhân có việc vào thành, bần tăng mang đến giao cho thí chủ đây.
Nói đoạn, móc trong bọc ra một cuộn giấy niêm kỹ đưa cho bà Hồ Điểu. Bà cúi đầu đỡ cuộn giấy, mời nhà sư vào trong nhà dùng trà. Nhưng nhà sư thoái thác, viện lẽ trời tối, sợ vào thành khuya quá rồi lui bước.
“Chẳng biết thư của ai đây ?”. Bà Hồ Điểu vào phòng, cởi dây buộc và bật dấu sáp niêm. Bà ghé thư vào ánh đèn đọc. Càng đọc mặt bà càng tái nhợt, tay cầm tờ giấy mỏng run lật bật.
– Oa Tử !
– Con đây ! Tiếng nàng đáp từ trong phòng vọng ra.
– Thôi khỏi cần pha trà. Nhà sư đi rồi !
– Con pha xong rồi đây. Nếu khách đi rồi thì bà con ta uống.
– Hừ, con này hỗn. Ta có phải là cái ống cống đâu mà ngươi muốn đổ nước gì vào thì đổ. Để trà đấy, mặc áo đi với ta.
Oa Tử ngạc nhiên:
– Đi đâu ?
– Đi giải quyết cái việc ngươi đang mong chứ đi đâu !
– À thế thư là của Mãn Hà Chí đấy hả bà ?
– Không việc gì đến ngươi !
Oa Tử tiu nghỉu. Nàng không hiểu sao bà Hồ Điểu đối với nàng hay giận dữ như thế. Nàng cho là vì tuổi già, bà dễ buồn bực.
– Để con gọi người dọn cơm.
– Vậy ngươi chưa ăn cơm à ?
– Chưa, con đợi bà về.
– Ta ăn cơm ngoài tiệm rồi. Thật con này ngu chẳng ai bằng. Vậy xuống bếp bảo họ dọn cơm mà ăn. Mà nhanh nhanh lên đấy.
Oa Tử mở cửa bước ra, bà còn gọi với:
– Đêm nay chắc lạnh. Ngươi đã khâu xong áo cho ta chưa ?
– Dạ xong cái kimono rồi.
– Ta không nói cái kimono. Ta nói cái áo khoác ngoài kia. Ta đã lấy ra để ngươi khâu cùng một lúc với chiếc kimono mà. Lại còn đôi bít-tất nữa, giặt chưa ? Và chiếc quai dép cũng sắp đứt rồi, bảo họ đi mua cho ta đôi khác …
Những lời sai bảo của bà Hồ Điểu đổ lên đầu Oa Tử dồn dập như mưa bấc, đến trả lời còn không kịp, nói gì làm xong. Oa Tử vâng dạ liên hồi. Lòng sợ hãi bà Hồ Điểu bắt nguồn từ khi nàng còn ở làng khiến nàng tê dại không còn biết phản ứng ra sao, chẳng khác gì con ếch nhỏ bị thôi miên trước đôi mắt sắc lạnh của con rắn.
Cơm dọn ra, Oa Tử không còn muốn ăn nữa. Nàng nhịn luôn. Tàn nén hương, bà Hồ Điểu ở trên nhà đã giục lên đường. Oa Tử mang áo khoác, gậy và dép của bà đặt trước cửa.
– Thế đèn đâu ?
– Phải mang đèn nữa ư ?
– Mô Phật ! Sao lại có người ngu đến thế ! Tối thu thế này mà ngươi để ta lần mò trên núi không đèn đóm gì hay sao ?
– Con quên mất. Để con đi lấy.
Oa Tử không dám hỏi bà Hồ Điểu đi đâu, về hướng nào, sợ lại làm bà nổi giận.
Nàng chạy đi mượn chiếc đèn lồng rồi cắm cúi đi trước, theo con đường nhỏ dẫn đến chân núi Sơn Ninh. Cả hai lặng lẽ bước. Sương đêm lùa vào áo. Oa Tử lạnh nhưng trong lòng nàng mừng rỡ vì sắp gặp Mãn Hà Chí. Trước mặt bà Hồ Điểu, nàng sẽ mạnh dạn trình bày những điều u uẩn, những điều ray rứt nàng bấy lâu nay và sẽ giúp nàng giải quyết êm đẹp vấn đề tình cảm của hai người, Mãn Hà Chí và nàng. “Xong rồi, ta sẽ đến lâu đài Lưu tướng công gặp Giang. Ta phải gặp nó mới được”.
Nghĩ đến đây Oa Tử vui hẳn lên, không thấy lạnh và cũng không còn đói nữa.
Đêm khuya trèo núi thật chẳng dễ gì, nhất là đối với một bà già và một thiếu nữ yếu đuối như Oa Tử. Cả hai phải thận trọng từng bước để khỏi ngã trẹo chân hay sa xuống hố.
Thỉnh thoảng tiếng cú rúc đằng xa làm đêm vắng càng thêm tịch mịch. Trời cao đen thẫm, vài ngôi sao thưa nhấp nháy.
Đi được một lúc khá lâu, bà Hồ Điểu dừng lại lắng tai nghe. Hình như có tiếng rì rào, gió đưa vẳng tới khi xa khi gần, không phân biệt được về hướng nào.
– Oa Tử ! Tai người còn thính, nghe phải tiếng suối không ? Về phía nào vậy ?
Oa Tử chú ý rồi lấy tay chỉ:
– Về phía này.
– Đúng rồi. Ta chắc đấy là suối sau phía miếu Sơn thần.
Quả nhiên đi một thôi nữa, tiếng suối nghe rõ mồn một. Suối không lớn nhưng tiếng kêu rào rào của dòng nước đổ vào ghềnh đá trong đêm vắng nghe gần như chỉ cách chỗ hai người đứng chừng vài chục trượng. Bà Hồ Điểu và Oa Tử lại cắm cúi đi. Đến bên một cây anh đào thật lớn cành xòe ra như tán, hoa rụng đầy đất, thấy chiếc bảng gỗ lợp mái. Oa Tử giơ đèn soi, thấy trên bảng viết sáu chữ:
“Sơn thần miếu, anh đào thụ”. Bà Hồ Điểu giằng lấy đèn trên tay Oa Tử, kề sát bảng đọc cho rõ.
Đọc xong bà gọi, tiếng vang động cả sơn lũng:
– Mãn Hà Chí ! Mãn … Hà … Chí í í … Mẹ đây !
Bà run run chứng tỏ bị khích động đến cùng cực. Sắc mặt bà nhợt nhạt nhưng ánh mắt long lanh. Lòng mẹ thương con toát ra trên khắp cơ thể bà, từ cánh tay gầy guộc run rẩy vịn vào tấm bảng bên gốc đào đến những lời lắp bắp bà nói, chẳng biết với Oa Tử hay với chính bà:
– Nó bảo đợi ta ở đây mà ! Mãn … Hà … Chí í …
Oa Tử gần bà Hồ Điểu đã lâu nhưng chưa bao giờ thấy bà bị khích động sâu xa đến thế.
– Oa Tử ! Chớ để đèn tắt.
Bà đưa đèn cho Oa Tử cầm, bảo nàng đi vòng quanh thân cây rồi theo bà trèo những bậc thềm đá lên miếu.
– Trong thư nó nói sẽ đợi ta cạnh gốc anh đào gần miếu Sơn thần.
– Mãn Hà Chí nói đợi bà tối nay sao ?
– Không nói tối nay mà cũng chẳng nói rõ tối nào cả. Cái thằng ! Bao giờ cũng như con nít, có lớn mà chẳng có khôn. Không hiểu tại sao nó không đến gặp ta tại nhà trọ ?
Oa Tử kéo tay áo bà lão:
– Yên ! Con nghe hình như có người đang đi lên.
Bà Hồ Điểu run rẩy:
– Con trai ta đấy ư ?
Rồi xăm xăm bước xuống. Nhưng người đi lên không phải Mãn Hà Chí. Đó là một thanh niên cao lớn, y phục màu xanh, vai đeo trường kiếm. Gã bước nhanh qua mặt hai người, vòng ra sau miếu, một lát lại trở lại chỗ hai người đứng.
– Lão bá và cô nương có gặp một thiếu nữ ở trên này không ?
Bà Hồ Điểu lắc đầu. Oa Tử nhìn gương mặt thanh niên khi mờ khi tỏ dưới ánh đèn thì ngờ ngợ đã gặp ở đâu mà không nhớ.
– Thiếu nữ tại hạ đang tìm cũng trạc tuổi cô nương, nhưng thấp hơn cô nương một chút và gương mặt tròn hơn. Nàng tên A Kế Mỹ, trước làm tại một phòng trà ở ngoại thành. Lão bá và cô nương có thấy thiếu nữ ấy quanh vùng này không ?
Cả bà Hồ Điểu lẫn Oa Tử đều lắc đầu.
– Quái lạ. Có người nói nàng trốn ở miếu sơn thần.
Nói đoạn, thanh niên hối hả rẽ sáng ngả khác. Bà Hồ Điểu nhìn theo lẩm bẩm:
– Lại một thằng vô tích sự ! Lưng đeo trường kiếm trông ra vẻ kiếm khách lắm nhưng đêm tối đi săn gái.
Oa Tử cúi đầu đăm chiêu. Nàng không nói gì với bà Hồ Điểu về việc người thiếu nữ hồi chiều đến tìm chỗ trọ Ở quán Đại Lộc, nhưng nàng đoán mười phần chắc chín chính là A Kế Mỹ. A Kế Mỹ đang tìm cách trốn chạy khỏi tay gã này. Đột nhiên nàng sực nhớ ra. Gã thanh niên vừa rồi là người đứng cạnh gốc liễu dưới chân cầu đường Gojo hôm Tết. Nhưng nàng không hiểu A Kế Mỹ, gã thanh niên ấy và Thạch Đạt Lang có liên quan gì với nhau. Nàng tự nhủ sẽ hỏi lại Giang cho rõ khi có dịp.
Đi quanh quẩn một lúc bên gốc đào, không thấy Mãn Hà Chí ló mặt, bà Hồ Điểu thất vọng cùng Oa Tử xuống núi. Trên đường về quán trọ, cả hai lại gặp gã thanh niên áo xanh đi lên. Gã trừng trừng nhìn bà và Oa Tử. Bà quay mặt đi:
– Đôi mắt nó dữ quá ! Như mắt thằng Kinh Tử.
Bỗng bà linh cảm hình như có người đang theo dõi rình rập. Đôi lúc, bà nghe sột soạt, khi thì bên trái, khi bên phải.
Trong đêm tối, bóng chiếc đèn lồng Oa Tử cầm đi phía trước lung lay theo nhịp bước. Vòng ánh sáng nhỏ, vàng úa hắt lên những cành cây thấp giống như những cánh tay quỷ sứ đen đủi, khẳng khiu lúc vươn ra, khi thu lại làm bà nổi gai ốc. Một tiếng cú rúc rất gần. Bà Hồ Điểu quay lại, bỗng giật nẩy mình. Một bàn tay từ sau gốc cây thò ra vẫy.
– Mãn Hà Chí ! Mô Phật !
Bà vội đưa tay lên miệng cho khỏi kêu to. Con bà chắc chỉ muốn gặp riêng bà thôi nên nó đợi Oa Tử đi trước xa xa mới bắt chước tiếng cú rúc làm hiệu. Bà vội gọi Oa Tử:
– Ngươi cứ cầm đèn đi trước đi. Đợi ta chỗ ngã ba rẽ về quán, ta có chút việc, sẽ gặp lại ngươi sau.
Đoạn chạy ngay tới gốc cây:
– Mãn Hà Chí, mày đấy ư ?
– Vâng, con đây.
Bà Hồ Điểu nắm chặt lấy tay con trai:
– Mày làm gì dưới gốc cây thế ? Mô Phật ! Sao tay con lạnh thế này con ?
Sự ân cần của bà làm Mãn Hà Chí cảm động. Hắn ghé tai mẹ thì thầm:
– Con phải trốn cái thằng mặc áo xanh vừa lên núi, mẹ trông thấy chứ ?
– Gã đeo trường kiếm trên lưng ấy hả ?
– Vâng !
– Con biết nó à ?
– Biết. Tên nó là Cát Xuyên Mộc.
– Cái gì ? Ngoại hiệu của mày là Cát Xuyên Mộc mà ?
– …
– Ở Osaka, mày đưa ta coi bản chứng thư đề tên Cát Xuyên Mộc. Mày bảo ta mày lấy ngoại hiệu là Cát Xuyên Mộc phải không ?
– À à … con bảo thế hả ?
– Còn gì nữa. Cả cậu Ngô cũng nghe thấy …
Mãn Hà Chí lấp liếm:
– Không phải. Thằng đeo kiếm trên lưng mới là Cát Xuyên Mộc. Mấy ngày trước đây nó suýt giết chết con, bây giờ gặp nó thì khốn …
Bà Hồ Điểu ngạc nhiên đến sững sờ. Nhưng sờ má con trai, thấy nó gầy quá. Quần áo Mãn Hà Chí ban đêm bà trông không rõ nhưng bà đoán cũng chẳng lành lặn gì, bất giác quá thương cảm, bà ôm lấy con mà khóc. Bà cũng không muốn hỏi thêm, chỉ nói:
– Thôi chẳng hề gì. Này Mãn Hà Chí, con có biết cậu Ngô mất rồi không ?
– Cậu Ngô ? Cậu Ngô mất rồi hả ?
– Ừ ! Ngay sau khi mày bỏ đi trên bãi biển Sumiyoshi. Cậu mất vì sao mày biết không ?
– …
– Cậu mất trên đường đi trả hận. Cậu Ngô với ta già rồi, đáng lẽ được quyền ở nhà nghỉ ngơi, thế mà vẫn phải bôn ba. Chắc mày đã hiểu sao rồi !
– Đã ! Mẹ đã cho con biết khi ở Osaka.
– Vậy tốt ! Mày đã nhớ. Giờ ta có tin vui cho mày.
– Tin gì vậy ?
– Tin con Oa Tử.
– Người cầm đèn đi với mẹ lúc nãy là Oa Tử đấy ư ? Bây giờ lớn thế rồi đó ? Để con đi gặp nó.
Chưa dứt lời Mãn Hà Chí định vùng chạy đuổi theo. Nhưng bà Hồ Điểu đã giữ hắn lại:
– Khoan. Ta dẫn nó lên đây là để mày gặp nó. Nhưng ta muốn biết khi gặp nó mày sẽ làm gì ?
– Con sẽ bảo nó con rất tiếc đã để nó phải chờ đợi lâu và mong nó tha lỗi.
– Rồi sao nữa ?
– Con hứa sẽ không bao giờ để xảy ra chuyện như thế nữa. Mẹ ! Mẹ cũng bảo nó như thế hộ con …
– Rồi sao ?
– Rồi sao hả ? Ờ … Ờ … rồi … rồi lại vẫn như xưa. Con với nó sẽ về làng làm lễ cưới.
Mẹ tính nó có bằng lòng không ?
Bà Hồ Điểu giơ tay tát đánh bốp vào mặt Mãn Hà Chí:
– Thằng ngu độn, vô sỉ.
Mãn Hà Chí xoa má. Hắn không hiểu tại sao mẹ hắn lại đột nhiên giận dữ như thế, nhưng chưa kịp hỏi, bà Hồ Điểu đã the thé:
– Ta bảo mày xin lỗi nó bao giờ ? Sao mày lại có thể có ý tưởng đi cưới một đứa đã ruồng bỏ mày để đi với thằng khác về làm vợ ? Sao mày ngu thế ? Ta sẽ cho mày gặp nó nhưng không phải để xin lỗi nó. Nghe chưa ?
Bà nắm vai áo Mãn Hà Chí lắc mạnh:
– Mày khóc hả ? Mày còn thương cái con bé đĩ thõa ấy đến độ khóc vì nó được hả?
Như vậy mày không phải là con ta !
Nhưng mắng Mãn Hà Chí, bà cũng không ngăn được nước mắt mình ràn rụa. Hai mẹ con ôm nhau phục xuống gốc cây âm thầm khóc cùng với những tiếng côn trùng than vãn xung quanh.
Lát sau, giọng bà Hồ Điểu bình tĩnh hơn:
– Này con ! Mẹ chẳng còn sống bao lâu nữa. Rồi khi mẹ nằm dưới ba tấc đất, con có muốn nói với mẹ câu gì hay làm vui lòng mẹ cũng chẳng được. Mãn Hà Chí, nghĩ kỹ đi con, Oa Tử chẳng phải là đứa con gái độc nhất trên đời này …
Tiếng bà càng dịu dàng:
– Con chẳng nên quyến luyến đứa phản bội ấy làm gì. Con ưng ai, mẹ sẽ đi hỏi cho, dù phải trăm lần nghìn lần mang lễ vật đến cầu cạnh, dù phải đi đi về về đến kiệt sức …
Nhưng Mãn Hà Chí vẫn ngồi yên lặng ủ rũ.
– Mãn Hà Chí ! Con hãy quên nó đi. Dù tình cảm con thế nào, nó cũng không xứng đáng được chấp nhận vào dòng họ Hồ Điểu. Nếu thật con còn thương nhớ nó thì giết ta đi cho rồi. Sau đó làm gì thì làm chứ chừng nào mẹ còn sống …
– Mẹ im đi !
Bà Hồ Điểu sửng sốt:
– A ! Thằng này láo ! Dám lớn tiếng với ta hả ?
– Con hỏi mẹ:
mẹ lấy vợ hay con lấy vợ ?
– Thằng này điên ! Sao mày hỏi vậy ?
– Thế tại sao con không được tự chọn lấy người con ưa thích. Mẹ đòi hỏi quá đáng!
Sự bất hòa giữa hai mẹ con đã diễn ra. Lần nào cũng thế, nó bắt đầu bằng những thành kiến, những ý kiến đối kháng va chạm nhau, rồi tính bướng bỉnh của bà Hồ Điểu, cảm tưởng uất hận vì bị chèn ép của Mãn Hà Chí thêm vào khiến hai người chỉ sau vài câu đã trở thành thù nghịch.
– Qúa đáng ? Tiếng bà Hồ Điểu rít lên the thé. Qúa đáng chỗ nào ? Mày là con ai, ở chỗ nào chui ra, thằng kia ?
– Cái đó không quan hệ. Con muốn cưới Oa Tử. Con yêu nó !
Mãn Hà Chí tự thấy mình liều hết sức. Hắn không dám nhìn mẹ, hắn ngước mắt lên trời.
– Mày nói thật không, thằng kia ?
Bà Hồ Điểu rút phắt thanh kiếm nhỏgidấu trong bọc ra, quay ngược mũi kiếm lại dí vào cổ họng. Mãn Hà Chí hét lên:
– Mẹ làm gì thế ?
– Ta không nhịn được nữa rồi. Mày có thương ta thì đâm cho ta một nhát. Ta không còn muốn sống nữa !
Mãn Hà Chí ôm chầm lấy bà:
– Mẹ ! Mẹ ! Mẹ đừng làm thế. Con là con của mẹ đây mà. Mẹ bảo gì con cũng xin nghe hết.
– Vậy mày có bỏ con Oa Tử không ? Bỏ ngay lập tức ?
– Nếu mẹ muốn thế, sao lại dẫn nó đến đây ? Con không hiểu …
– Mô Phật ! Tại vì … tại vì ta giết nó thì dễ, nhưng nó đã làm nhục mày, ta muốn để chính tay mày trả thù. Mày phải ơn ta mới phải chứ !
Mãn Hà Chí trợn mắt, giật lùi:
– Mẹ muốn con giết Oa Tử ?
– Ừ ! Nếu mày không chịu thì nói ngay. Chịu hay không chịu ?
– Mẹ ! Mẹ !
– Vậy là mày không chịu. Cũng được. Mày không phải là con ta nữa. Nếu mày không đủ can đảm cắt đầu con bé trơ tráo khả ố ấy thì hãy cắt đầu ta đi ! Cắt đầu ta đi !
Mãn Hà Chí đờ đẫn cả người. Con cái thường gây phiền lụy cho cha mẹ, nhưng đây chính mẹ hắn lại đặt hắn vào một tình trạng đau thương và khó xử nhất đời ! Sự tàn ác đến dã man của bà Hồ Điểu làm hắn rùng mình. Mãn Hà Chí thấy ớn lạnh đến xương tủy. Hắn lẩm bẩm một mình:
– Con sẽ làm ! Con sẽ làm ! Con sẽ giết nó !
Bà Hồ Điểu nắm vai hắn cười thỏa mãn. Đoạn tra kiếm vào vỏ, bà nói:
– Thế mới đáng mặt con ta, đáng mặt truyền nhân họ Hồ Điểu. Tổ tiên nhà ta sẽ hãnh diện …
Mãn Hà Chí ôm đầu, thiểu não:
– Mẹ có chắc không ?
– Con đi ngay đi. Nó đợi dưới kia … Nhanh lên.
– Hừ …
– Để ta viết sẵn phong thư. Khi chặt đầu nó xong, gửi ngay về làng. Mối hận nhà ta thế là trả được nửa. Còn thằng Kinh tử nữa, được tin con Oa Tử chết, thế nào nó cũng tìm đến. Thật là Trời Phật giúp ta, anh linh cậu Ngô phù hộ … Nhanh lên con … Nhanh lên, đừng để nó chạy mất.
– Mẹ đợi ở đây hả ?
– Không, ta theo mày nhưng không để nó biết. Ta mà lộ diện nó lại khóc lóc xin xỏ và bảo ta trái lời hứa với nó, không được.
– Nó yếu đuối, không có gì tự vệ, giết nó dễ quá mà – Mãn Hà Chí vừa nói vừa thong thả đứng dậy – Mẹ cứ ngồi đây, con sẽ chặt đầu nó mang lại.
– Mày dại lắm. Phải đề phòng chứ. Nó tuy là con gái nhưng thấy dao đâm tất cũng biết phản ứng. Cứ để ta đi sau trông chừng.
Mãn Hà Chí chậm rãi xuống đồi. Bóng cây chỗ đậm chỗ nhạt, lòng hắn rối bời, chẳng biết xử trí ra sao.
– Nhớ đấy ! Phải cẩn thận.
Mãn Hà Chí dừng lại.
– Ngã ba đường mãi tít dưới kia. Sao mày đi chậm thế ?
– Mẹ cứ để yên, con biết rồi. Nếu mẹ muốn đi, sao không đi đi. Con người ta chứ đâu phải con chó con mèo mà giết dễ dàng. Phải tìm kế chứ.
– Được rồi ! Ừ thì mày tìm kế. Ta ngồi đợi đây vậy.
Một con chim lợn bay ngang, kêu “éc”. Vài tiếng cú rúc đằng xa. Mãn Hà Chí lặng lẽ lẩn vào bóng tối.
Oa Tử ngồi đợi ở ngã ba đường. Vòng ánh sáng chiếc đèn lồng để bên soi rõ tảng đá chỗ nàng ngồi và làm đêm tối xung quanh nàng càng sâu thẳm. Mượn cơ hội này, nàng định bỏ trốn, nhưng thấy hành động như thế chẳng giải quyết được gì, lại uổng công chờ đợi bao nhiêu ngày nay để gặp Mãn Hà Chí, nên thôi.
Một mình nghĩ miên man, Oa Tử nhớ đến Thạch Đạt Lang, hồi tưởng lúc còn ở trên đồi Nakayama và bên cầu Hanada. Dễ có đến bốn năm năm qua rồi, nhưng mối tình của nàng đối với Thạch Đạt Lang không phai nhạt, có phần còn sâu đậm hơn. Mặc dầu đôi khi Oa Tử buồn giận vì tưởng như bị ruồng rẫy, nhưng trong thâm tâm, nàng vẫn hy vọng và tin tưởng vào lòng chung thủy của người yêu. Sự tin tưởng ấy giúp nàng thêm can đảm, nhờ vậy lúc này ngồi giữa rừng trong đêm tối, nàng không chút sợ hãi. Mối tình của nàng đối với Thạch Đạt Lang chẳng khác gì những vì sao kia, mây âm u dù có che khuất, nhưng vì sao vẫn còn đó.
– Oa Tử !
Oa Tử giật mình:
– Ai đó ?
Nàng nhớn nhác nhìn quanh. Đêm đen vẫn dày đặc. Nàng cầm đèn giơ cao, banh mắt soi mói từng lùm cây trong bóng tối. Không thấy gì khác lạ mà cũng không có tiếng đáp. Oa Tử tưởng mình mê và tiếng gọi vừa rồi chỉ là ảo giác. Tuy vậy nàng cũng cứ hỏi lại:
– Ai đó ?
– Mãn Hà Chí ! Hồ Điểu Mãn Hà Chí !
Oa Tử thở phào mừng rỡ:
– Mãn Hà Chí hả ? Chàng ở đâu, tối quá chẳng thấy gì hết !
– Oa Tử quên giọng nói của ta rồi sao ?
– Quả có khác. Chàng đứng đâu, sao không ra chỗ đèn sáng này ?
Tiếng thở dài rồi một bóng người từ sau gốc cây bước tới:
– Ta thẹn quá, chẳng muốn gặp. Không biết Oa Tử có tha thứ cho ta không ?
Oa Tử không đáp. Nàng trừng trừng nhìn Mãn Hà Chí:
– Chàng gầy đi nhiều nhỉ ? Chàng đã gặp bá mẫu chưa ?
– Đã. Bà đang đợi trên kia. Ta nhớ Oa Tử lắm, không ngày nào không nghĩ đến nàng.
– Bá mẫu có nói chuyện gì cho chàng biết không ?
– Có, nói cả rồi.
Oa Tử mừng thầm. Như vậy, Mãn Hà Chí đã biết ý định của nàng, khỏi phải giải thích lôi thôi và tránh được bối rối cho cả hai người. Nàng vui vẻ:
– Thế thì hay lắm. Chúng ta quên chuyện cũ đi, chẳng qua đó chỉ là điều nhầm lẫn lúc thiếu thời …
– Oa Tử ! Sao nàng lại nói thế ?
Mãn Hà Chí ngạc nhiên lắc đầu và hơi nghi mẹ đã không kể hết cho mình nghe những điều xảy ra. Tuy vậy, hắn cứ tiếp:
– Làm sao quên được ! Hình ảnh nàng luôn luôn hiện ra trong trí óc ta. Cả khi ngủ, ta cũng chiêm bao thấy nàng !
Oa Tử cúi đầu, nhỏ nhẹ:
– Mãn Hà Chí ! Chàng với thiếp không cùng một tâm sự. Chàng nên hiểu. Hai ta cách biệt nhau xa quá.
– Ừ ! Năm năm rồi còn gì, thời gian ấy chẳng bao giờ trở lại.
– Phải rồi ! Đã năm năm. Chúng ta không còn những tình cảm như xưa nữa.
– Không ! Nàng lầm ! Chúng ta vẫn có thể tìm lại được những tình cảm như xưa chứ, nếu ta muốn. Năm năm qua, thôi coi như bỏ, bây giờ hãy bắt đầu lại …
– Không được. Sợi dây đứt nối lại vẫn còn có cái gút. Tình yêu không còn nữa, vĩnh viễn không còn. Thiếp nói đến cách biệt không phải chỉ thời gian mà là cái hố sâu, cái vực thẳm nó ngăn cách chàng và thiếp, không tài nào lấp được, không cầu nào bắc qua được.
– Ta hiểu nàng còn giận ta lắm. Ta có lỗi với nàng rất nhiều, nhưng tuổi thanh niên bồng bột, mấy ai không thế !
Oa Tử thở dài.
– Oa Tử ! Oa Tử ! Ta xin lỗi. Ta là nam nhi mà phải quỳ xin lỗi nàng như thế này, nàng chẳng thương ta ư ?
Nhìn con người không có khí phách quỳ bên cạnh, lòng khinh rẻ khiến Oa Tử lúng túng.
– Là nam nhi mà chàng xử sự không đáng nam nhi.
– Oa Tử ! Ở đây nói chuyện lâu không tiện. Nàng hãy theo ta, trốn bà cụ đi, chúng ta đến một nơi khác làm lại tất cả …
Nói đoạn cầm tay Oa Tử, nhưng nàng giật ra:
– Đừng chạm vào thiếp ! Thiếp thà chết …
Trước lời nói quyết liệt và nét mặt lạnh lùng của Oa Tử, Mãn Hà Chí sửng sốt, nghẹn lời. Cơn giận tràn đến.
– Nàng nhất định không đi ?
– Không !
– Không theo ta ?
– Không.
– Vậy nàng yêu thằng Kinh Tử hả ?
– Dĩ nhiên ! Mẫu thân chàng đã nói cho chàng biết rồi. Ta yêu Thạch Kinh Tử ở kiếp này và còn ở những kiếp sau nữa, mãi mãi …
Mãn Hà Chí run bần bật, mặt tái nhợt:
– Nàng sẽ hối hận vì câu nói ấy.
Một lúc sau, lấy lại được bình tĩnh, hắn tiếp:
– Có phải Thạch Kinh Tử bảo nàng nói câu ấy cho ta biết không ?
– Lầm ! Thạch Kinh Tử không bảo ta phải làm gì hết.
– Oa Tử ! Sự kiên nhẫn nào cũng có giới hạn. Nó có lòng tự ái thì ta cũng có lòng tự ái. Ta cấm nàng gặp nó.
– Quyền gì ngươi cấm ?
– Nàng là con dâu nhà Hồ Điểu. Cả làng Miyamoto, ai cũng biết.
– Thế a ? Vậy ai gửi thư từ hôn năm năm trước ?
– Ta không biết. Ta đâu có viết thư gì ! Đấy là Ôkô tự tay viết rồi gửi.
– Mãn Hà Chí ! Không ngờ ngươi vô sỉ, hèn mạt đến thế. Một trong hai lá thư rõ ràng mang bút tích và chữ ký của ngươi, bảo ta quên ngươi đi và hãy lấy người khác.
– Bằng chứng đâu, đưa xem …
– Vất đi rồi. Đại Quán đọc xong lấy hỉ mũi và vất thùng rác rồi !
– Vậy là vô bằng cớ ! Cả làng đều biết nàng là vị hôn thê của ta. Nàng phải là vợ ta !
– Mãn Hà Chí ! Ngươi tự hào là nam nhi mà gian dối bất nghĩa. Không người đàn bà nào muốn lấy một đứa gian dối làm chồng !
– Nàng hãy giữ mồm miệng !
Rồi nắm vạt áo Oa Tử.
– Bỏ ra !
Mãn Hà Chí rút kiếm. Khi kiếm đã rút khỏi vỏ, hắn không còn tự chủ được nữa.
Mắt lộ hung quang, Mãn Hà Chí tựa con thú dữ, vung tay chém xuống. Oa Tử vô cùng kinh hãi, giật mạnh vạt áo, lưỡi kiếm chém hụt dội vào thân cây tuột khỏi tay hắn. Cây đèn tắt ngấm. Bóng tối như tấm màn che chụp lên mọi vật. Nhất thời không ai trông thấy gì cả, chỉ nghe tiếng Mãn Hà Chí văng tục, cành khô gãy rào rạo và tiếng chân sột soạt.
Khi Mãn Hà Chí nhặt được kiếm lên thì Oa Tử đã biến mất.
Theo con đường đá dốc, bà Hồ Điểu lật đật chống gậy xuống núi, gặp con trai đang hớt hải trèo lên, tay còn lăm lăm cây kiếm.
– Mày chưa giết được nó à ?
– Nó chạy mất rồi.
– Thằng vô tích sự ! Đồ vô dụng !
Vừa hét bà vừa vung gậy đánh Mãn Hà Chí. Mãn Hà Chí trốn sau gốc cây. Thấy có bóng đen thấp thoáng giữa những lùm bụi, nhanh mắt, hắn trông thấy la lớn:
– Kìa ! Nó kia kìa ! Con đuổi theo, mẹ đón đầu nó phía này.
Bóng đen phân vân, đổi hướng. Cả hai mẹ con lại hè nhau đuổi, bỗng mất hút không thấy bóng đen đâu nữa.
Chỗ ấy cành nhỏ dày chi chít, cỏ gianh mọc cao đến gần đầu mà đất lại ẩm ướt.
Có lẽ là bờ suối vì tiếng nước đổ ào ào nghe gần lắm. Đột nhiên bà Hồ Điểu reo lên:
– Mãn Hà Chí ! Đúng nó đấy ! Cái gì trăng trắng sau mày đấy ?
Mãn Hà Chí quay lại, quả nhiên thấy có hình người nằm sóng soài bên đám sậy.
– Giết đi ! Phóng gươm ra còn đợi gì nữa, thằng vô tích sự !
Mãn Hà Chí như cái máy, nắm đốc kiếm vào hai tay đâm mạnh xuống. Phụp !
Máu phun có vòi bắn cả vào mặt.
Hắn rút kiếm đâm thêm nhát nữa.
– Này hèn ! Này bất nghĩa ! Quân yêu nữ ! Dâm phụ !
Cứ mỗi câu, Mãn Hà Chí lại đâm một nhát. Hắn say máu, phóng kiếm loạn xạ không còn biết vào những chỗ nào nữa.
Hình người nằm dưới đất chẳng phản ứng gì mà cũng chẳng kêu la. Chỉ nghe tiếng bà Hồ Điểu hô:
“Giết ! Giết !” và tiếng hắn thở hổn hển. Đến khi tay hắn tê chồn và thanh kiếm gẫy đôi, Mãn Hà Chí mới ngưng lại.
Toàn thân hắn run lẩy bẩy, mắt đổ hào quang. Mãn Hà Chí trừng trừng nhìn cái xác dưới chân. Thế là hết. Xong.
Bà Hồ Điểu cũng không một lời. Im lặng. Im lặng hoàn toàn, không cả tiếng côn trùng khóc dưới cỏ. Đêm sâu càng thêm sâu và trên trời, sao vẫn nhấp nháy.
Lát sau, khi bà Hồ Điểu tìm được cây nến đánh lửa châm lên, Mãn Hà Chí mới như người tỉnh mộng. Nhìn tay và ngực áo nhớp nháp, mùi máu tanh nồng nặc, hắn kinh sợ lạc thần:
– Trời ơi ! Oa Tử ! Oa Tử ! Ta giết nàng rồi !
Rồi vứt kiếm, bưng mặt khóc rưng rức.
Con gió thổi qua, ngọn nến tắt phụt. Bà Hồ Điểu rùng mình. Trong một thoáng, nhìn Mãn Hà Chí ôm mặt bê bết máu đứng dưới ánh lửa giữa đêm sâu, bà có cảm tưởng như vừa thấy quỷ hiện hình. Bất giác bà lẩm nhẩm một câu chú, khi định thần lại mới lên giọng nói cứng:
– Cái thằng này, nhát như thỏ đế. Giết nó là tốt còn khóc nỗi gì ? Nó phá hạnh phúc, danh dự của mày thì mày phải giết chứ ! Này, cầm lấy gươm, cắt đầu nó đi cho ta!
Nhưng Mãn Hà Chí vẫn đứng im như phỗng. Đêm tối, có lẽ bà không nhìn thấy những nét hằn học trên mặt con nên bà vẫn tiếp tục đay nghiến.
– Mày không xứng đáng với dòng họ. Mày không cắt đầu nó thì ta cắt !
Đoạn xăm xăm vạch cỏ cúi xuống.
– Mẹ làm gì vậy ? Mãn Hà Chí hét lớn.
– Cái gì ? Nó không đáng bị lấy đầu hay sao ? Mày còn thương nó hả ?
– Giết nó chưa đủ, bà còn định cắt đầu nó ư ? Sao tàn nhẫn dã man đến thế ?
Bà lão rít lên, sấn lại đánh Mãn Hà Chí. Hắn tránh khỏi, phẫn nộ la lớn:
– Bà nhân danh những điều đẹp tốt mà giết người, hành động như đồ mọi rợ. Bà cắt đầu nó đi, mang về làng mà lấy tiếng. Tôi đi đây, tôi không nghe bà nữa.
– Mô Phật ! Mãn Hà Chí ! Mày điên rồi ! Ta vì danh giá nhà mày mà trả thù. Tao sẽ cắt đầu nó để rồi mày xem có khác gì đầu đứa khác không. Chỉ xương với da chứ có gì đâu mà sao mày mê muội đến thế ?
Mãn Hà Chí định giằng thanh kiếm trong tay mẹ, bỗng khựng lại. Thấp thoáng đằng xa có ánh đèn giữa những lùm cây, tiếng gậy khua và tiếng gọi nhau í ới. Hắn hoảng sợ, lau mau tay vào vạt áo rồi bỏ bà lão, vội vã lẩn vào bóng tối.
– Mãn Hà Chí ! Mày đi đâu ?
Bà Hồ Điểu chạy theo, nhưng nghĩ sao lại quay lại. Hối hả quỳ xuống chân cái xác người bà lờ mờ thấy nằm sóng soài trong đám cỏ bị dẫm nát lẫn với lá khô, cành gẫy. Bà lẩm bẩm:
– Oa Tử, đừng oán ta. Bây giờ ngươi đã về cõi vô minh thì ta với ngươi không còn thù hằn nữa. Ta cầu cho vong hồn ngươi được siêu sinh tịnh độ. A di đà Phật !
Rồi tay nắm tóc, tay cầm kiếm, bà cắt ngay lấy thủ cấp người bạc mệnh.
Tiếng chân người mỗi lúc một gần. Lính quýnh không biết xoay sở ra sao, bà Hồ Điểu đứng lên xách chiếc thủ cấp chạy. Nhưng đã muộn. Mới vài bước đã có kẻ trông thấy, rồi ba bốn bóng đen đuổi theo vây quanh lấy bà kêu lớn:
– Đây rồi ! Có người trên này. Mang đèn lại đây mau !
– Cái gì thế ? Bà Hồ Điểu quát. Tránh ra ! Các ngươi làm gì vậy ?
– Ủa, ai nhưng tiếng lão bá trọ Ở quán ?
– Chính thị.
– Lão bá làm gì trên này ?
Người mang đèn tới, theo sau là một nhà sư dáng quắc thước, áo chùng màu nâu già, nón nan che kín mặt.
– A di đà Phật ! Bà Hồ Điểu ở Miyamoto đó phải không ?
– Đại sư là ai, sao biết tên ta ?
Nhưng thay vì trả lời, nhà sư lại hỏi:
– Oa Tử đâu ?
Nghe nhắc đến tên Oa Tử, bà Hồ Điểu mới sực nhớ. Trông xuống, tay bà vẫn giữ chiếc thủ cấp máu còn rỏ giọt. Chiếc thủ cấp da mặt xám ngoét, mắt trắng dã, loang lổ những máu và đất. Mọi người giật mình kinh hãi lùi xa mấy bước.
Bà Hồ Điểu giơ cao thủ cấp lên, nhếch mép định nói câu gì, bỗng ngừng bặt trợn mắt:
– Ối ! Không phải đầu con Oa Tử.
Rồi vất thủ cấp xuống, bà trừng trừng nhìn theo run lẩy bẩy:
– Mãn Hà Chí ! Lầm rồi ! Lầm rồi ! Người này là ai thế này ?
Tiếng bà lẫn trong hơi thở khò khè như người suyễn. Bà nhìn lên. Nhà sư đã bỏ nón ra từ bao giờ, sừng sững đứng trước mặt. Ông nghiêm khắc hỏi:
– Thí chủ nhận ra bần tăng là ai không ?
Như kẻ mất hồn, bà ú ớ:
– Đại Quán ! Sao thầy lại ở đây ?
– A di đà Phật ! Bần tăng ngẫu nhiên đi qua làng Sơn Ninh này và tình cờ cũng được biết thí chủ và Oa Tử cùng ở quán Đại Lộc. Thí chủ dẫn Oa Tử đi đâu, phải chăng có ý định giết nàng.
– Phải.
– A di đà Phật ! Lòng từ bi của Đức Phật vô bờ, nhưng tội nghiệt này của thí chủ thật khó tha thứ. Lấy oán báo oán, oán ấy chập chồng. Thí chủ hãy nghĩ kỹ:
giết Oa Tử có vãn hồi được danh dự của thí chủ không, hay chỉ làm cho danh dự ấy thêm nhơ nhuốc ? Giết Oa Tử có mang lại hạnh phúc cho con thí chủ không hay chỉ làm cho nó thêm đau khổ ? Ý định sát nhân của thí chủ không phải là phương cách vẹn toàn, huống chi còn gây thêm cái chết tức tưởi cho kẻ vô tội này nữa. A di đà Phật ! Bần tăng xin Đức Phật nhiệm mầu ban ơn soi sáng để thí chủ sơm hối ngộ.
Lời thuyết nghiêm nghị của Đại Quán thiền sư vang lên trong đêm tịch mịch khiến mọi người im lặng cúi đầu. Nhưng chẳng lung lạc được bà Hồ Điểu. Quan niệm về gia đình, hạnh phúc, danh dự đảng tộc là những thành kiến thâm căn cố đế, nó đã ăn sâu vào tâm thức bà từ nhỏ, không thể nhất đán một sớm một chiều bỏ đi được. Thạch Đạt Lang và Oa Tử, hai kẻ đã xâm phạm vào bức thành trì kiên cố ấy, đã làm nhục dòng họ bà, bà coi như kẻ thù không đội trời chung. Nên bà phản ứng quyết liệt:
– Xì ! Thầy biết gì về gia đình với hạnh phúc ? Thầy có gia đình không ? Ở thì ở chùa, ăn cơm thí, ỉa đồng, áo quần vá táp nham tứ thời một manh, thầy biết gì về tình mẹ con, về danh dự gia tộc mà nói ? Có bao giờ thầy biết đến những khó khăn của người dân mang cơm cho thầy ăn đâu ! Trước khi thuyết cho người khác nghe, thầy hãy tự kiếm sống lấy cái đã. Nói thì hay lắm, nhưng vô tích sự.
Lời đối đáp của bà Hồ Điểu làm mọi người mỉm cười, kể cả Đại Quán. Tuổi tác đã không làm bà bớt đi sự ác độc trong lời nói. Bà vẫn cay nghiệt như xưa. Đại Quán lắc đầu bảo người trong bọn:
– Bác nào dẫn bà lão về quán. Nhớ cầm đèn theo kẻo vấp ngã.
– Cám ơn, ta không cần. Ta về một mình cũng được. Cho ta mượn cái đèn.
Một số người ở lại, bọc chiếc thủ cấp, rồi lần theo vết máu tìm đến thi thể kẻ bất hạnh.
– Quán chủ có biết người này là ai không ?
Đại Quán hỏi.
– Bây giờ còn tối không rõ được. Nhưng trông dáng dấp gầy mà cao thế này thì có lẽ là tên say rượu vẫn đến ngủ nhờ ở cổng ngoài miếu sơn thần. Hắn tên Điểu Sơn Minh, trước sống ở chợ, ngoại thành Kyoto, ưa lừa đảo ăn quỵt nên ai cũng ghét.
– Chúng sinh thật nhiều oan nghiệt, không hiểu vì cớ gì lại để cho bà Hồ Điểu cắt đầu như vậy. Quán chủ hãy vì bần tăng cho người khiêng giúp lên miếu, sáng mai ta sẽ xin vị trụ trì một cái lễ và chôn cất hắn tử tế kẻo tội nghiệp.
Bỗng có tiếng kêu rối rít:
– Đại sư ! Đại sư ! Đậy lại có xác chết nữa !
Mọi người lật đật cầm đèn chạy đến.
– Ô ! Một thiếu nữ. Nàng chết rồi à ?
– Không. Chưa. Chỉ mới ngất đi thôi.
Chương 39: Ánh tuyết
Thạch Đạt Lang đi bộ dọc theo bờ sông, lững thững hướng về phía Kyoto. Hắn nghĩ tới lời cha dặn. Cho đến lúc chết, cha hắn, ông Mưu Ni Sai luôn luôn nhắc hắn phải ghi nhớ công nghiệp hiển hách của tiền nhân. “Ta tuy chỉ là kiếm sĩ quê mùa ở một làng hẻo lánh miền chân núi, nhưng con chớ quên con thuộc dòng dõi Yết Mân, một dòng dõi đã từng nêu nhiều chiến tích anh dũng và góp phần xây dựng nên xứ sở này. Con nên tự hào về công nghiệp ấy và phải cố noi theo”.
Những lời trối trăn ấy của cha lúc lâm chung còn như vang vọng bên tai Thạch Đạt Lang vừa bùi ngùi vừa cảm khái. Lại nghe nói tại ngã ba sông Kogawa, chỗ hợp lưu của hai dòng suối lớn trước khi đổ vào đại hà chảy ra biển, còn lưu lại di tích một căn nhà và một ngôi cổ miếu. Căn nhà này thuộc dòng họ Yết Mân do tổ phụ hắn dựng lên đã lâu đời, có đến hàng mấy trăm năm trước.
Tiện dịp qua đây, hắn muốn viếng thăm cảnh cũ để biết thêm về nguồn gốc của mình, xem những di vật của tiền nhân và vào miếu thắp hương tưởng niệm. Nhưng đến nơi chẳng thấy nhà cửa gì. Hỏi thăm, không ai rõ. Có lẽ nhà xưa, miếu cũ, không chịu nổi sự tàn phá của thời gian, đã sụp đổ rồi; người ta dọn dẹp cày bừa san bằng thành ruộng.
Sự thay đổi sao mà nhanh chóng quá ! Cả một quá khứ oai hùng tan đi không dấu vết. Còn lại, họa chăng chỉ mình hắn, kẻ thừa kế độc nhất và cô đơn của một dòng họ bị quên lãng.
Thạch Đạt Lang tần ngần đứng nhìn dòng nước chảy miên man. Rồi thất vọng, hắn bỏ đi, tiếp tục men theo đường ven sông đến khu ngoại thành, không chủ đích.
Lững thững tản bộ trên những con đường ngoại ô vắng vẻ, Thạch Đạt Lang đảo mắt nhìn quanh. Rặng liễu trông bên con lạch nhỏ thưa dần. Thay vào đấy, một vài căn nhà gỗ ẩn hiện sau những mảnh vườn xinh xắn bên hàng dậu xanh hoặc sau những cây tùng thấp lè tè thân uốn éo như trong tranh vẽ.
Đến gần một gốc liễu to mọc trên bờ lạch, rễ xù xì bò ngoằn tựa đàn rắn, Thạch Đạt Lang tháo hành trang ngồi nghỉ.
Cuối xuân, lá liễu dài xanh biếc rủ xuống trước mặt như tấm mành. Cơn gió thoảng qua, mành liễu rung động. Một mình ngồi không biết làm gì, hắn phóng kiếm cắt từng lá liễu, trước chậm sau mau, rồi xoay cườm tay hươi kiếm ngược lên chẻ đôi nhành liễu. Bất giác hắn nghĩ đến chiêu “hiết liễu kiếm”, một chiêu kiếm được truyền tụng trên giang hồ, do một cao thủ phát huy và khai triển. Nếu quả thật có chiêu kiếm như vậy thì cũng đáng công nghiên cứu lắm, vì nếu ta coi những nhành liễu rung động kia là kẻ địch bao vây tứ phía thì chẻ đôi chúng ra đúng lúc mà chính xác chẳng phải dễ dàng gì. Hắn tự hứa có dịp sẽ tìm hiểu rõ hơn về chiêu thức ấy và người đá phát minh ra nó.
Nhìn con lạch nông, nước lờ đờ chảy dưới chân, Thạch Đạt Lang ngạc nhiên.
Nước con lạch như phân đôi ra hai luồng, bên trong bên đục. Hắn đồ chừng phía thượng nguồn có người làm nghề phiếu lụa hoặc mài kiếm nên xả nước đục ra như vậy.
Đang phân vân, bỗng thấy một bà lão đi qua. Hắn nhận ra thân mẫu Cổ Huy Đạo, nhà luyện kiếm đã gặp và cùng uống trà trên đồng Đại Tỉnh ngày nào. Vừa hay, bà cụ cũng nhận ra hắn. Bà mừng rỡ kêu lên:
– Ồ tráng sĩ ! Hân hạnh quá ! Chắc tráng sĩ đương muốn tìm ngõ Kim Phong ?
Bà tưởng Thạch Đạt Lang muốn đến thăm bà và Cổ Huy Đạo, nên không để cho hắn kịp đáp, bà tiếp ngay:
– Tệ xá cũng gần đây thôi. Mời tráng sĩ theo lão.
Trước sự ân cần ấy, hắn không muốn và cũng chẳng có lý do gì từ chối, bèn cúi đầu cảm ơn rồi vui vẻ đeo hành trang lên vai theo bà cụ.
Trại Kim Phong bên ngoài trong khiêm nhượng, nhưng bên trong càng vào sâu càng rộng. Ngay cổng vào là một khu vườn trồng toàn trúc xanh, tùng biếc lẫn với những hàng phong, cành dày chi chít đan nhau như một khu rừng nhỏ. Bấy giờ, trên cành, lá non mới nhú, nhưng theo lời bà cụ, đến mùa thu lá phong rực rỡ ánh lên dưới nắng, trông chẳng khác gì rắc vàng. Bởi thế mới có tên “Kim phong hạng” (ngõ phong vàng) và chủ nhân trại còn được gọi là Kim Phong tiên sinh.
Trong trại có nhiều nhà, chia thành từng khu vực thuộc gia đình Cổ Huy Đạo và gia đình các biểu huynh, biểu đệ Ông. Họ quây quần với nhau, cùng làm nghề đúc và mài kiếm.
Một con suối từ chân núi chảy sát khuôn viên, Cổ Huy Đạo lợi dụng tiện nghi ấy, khơi thêm nhiều mạch nước dẫn quanh co khắp trại. Mạch dùng lấy nước pha trà, mạch dùng nấu ăn tắm giặt, mạch dùng cho lò luyện kiếm.
Kiến thức luyện kim của Cổ Huy Đạo thâm diệu, kinh nghiệm của ông ít người bì kịp, ông lại có tài tổ chức, nên tuy khách đặt hàng nhiều mà ông vẫn đủ thì giờ rảnh rỗi, lúc uống trà, khi ngắm cảnh, đọc sách. Cũng như phần đông các nhà kỹ nghệ và thương gia đương thời, ông xuất thân từ một gia đình kiếm sĩ. Trong cuộc tranh chấp sứ quân, vì không muốn đứng hẳn về phe phái nào, một số kiếm sĩ đã rửa tay treo kiếm, theo đường doanh nghiệp. Riêng Cổ Huy Đạo chọn kỹ thuật luyện kim và chuyên hẳn về ngành đúc kiếm.
Lẽ dĩ nhiên, làm nghề tự do thì địa vị xã hội không được bằng địa vị kiếm sĩ, nhưng cuộc sống đỡ bấp bênh và nguồn lợi dồi dào hơn. Vả nhờ tại học và tiền bạc, đám thương gia tuy không nắm được những địa vị then chốt, lại rất có thế lực và được trọng nể.
Thấy mẹ dẫn Thạch Đạt Lang vào, Cổ Huy Đạo chạy ra nghênh tiếp. Hàn huyên xong, ông tạ khách:
– Tráng sĩ thứ lỗi. Lão phu hiện đương bận trông thợ đúc một thanh kiếm đặc biệt nên xin để mẫu thân hướng dẫn tráng sĩ đi xem trang trại. Xin tráng sĩ cứ tự nhiên, chiều nay xong, ta tha hồ chuyện phiếm.
Lời nói của Cổ Huy Đạo thành thật, khách dù dễ mếch lòng đến đâu cũng không thể giận.
Thạch Đạt Lang theo Cổ lão bà, đi một vòng quan sát xưởng đúc kiếm, xưởng nung đồ gốm, thư khố, phòng làm sơn mài. Hắn rất thích thú, không ngờ danh bất hư truyền, Cổ Huy Đạo là người đa tài mà ngành gì ông cũng tỏ ra xuất sắc.
Bà cụ còn pha trà, làm bánh, vừa làm vừa trò chuyện với hắn, coi hắn như người nhà. Trong bầu không khí cởi mở ấy, hắn thấy dễ chịu vô cùng. Những lời thân mật đầm ấm của Cổ lão bà gây trong lòng hắn một cảm giác yên vui, cái cảm giác hắn chỉ có xưa kia khi còn ở bên cạnh mẹ và chị.
Thấm thoắt đã bốn ngày trôi qua, Thạch Đạt Lang ở trại Kim Phong. Ban ngày sau buổi tập dượt sáng, hắn ưa ra vườn tản bộ, vào thư khố đọc sách hoặc có khi đến xưởng luyện kim xem xét và đàm luận kiếm học với Cổ Huy Đạo. Kiến thức của hắn vì thế cũng phong phú thêm, và điều làm hắn sảng khoái hơn cả là luôn luôn hắn có sự quân bình về tinh thần với thể chất.
Nhưng sợ Ở lâu không tiện, Thạch Đạt Lang ngỏ ý cáo từ. Thì Cổ Huy Đạo đã khoát tay ngăn lại:
– Trạng sĩ chẳng nên làm thế, phụ lòng hiếu khách của lão phu. Nếu tráng sĩ ở đây thấy buồn, muốn ra đi, lão phu chẳng dám giữ. Nhưng nếu không chê nơi này hủ lậu, xin lưu lại ít lâu nữa. Trên kệ thư phòng còn nhiều sách đáng đọc. Vài ngày nữa, lão phu lại định nung đôi cái bát sành để thử nghiệm chất men mới chế. Tráng sĩ ở lại mà xem.
Nặn đồ gốm cũng thú vị đáo để, chẳng kém gì rèn kiếm. Nếu muốn, tráng sĩ cũng nên làm vài cái cho vui.
Ai mà có thể từ chối những lời mời mọc chí tình đến thế ? Thạch Đạt Lang chỉ còn biết cúi đầu vâng lệnh.
Trong thư phòng treo nhiều tranh đẹp, cổ họa thời Kamakura, liễn mang thủ bút của Vương Hi Chi đời Tấn. Có một bức, Thạch Đạt Lang ngắm mãi không chán. Bức tranh nhan đề “Hạt dẻ” do Tống Lương Khải vẽ. Nó nhỏ thôi, chỉ bằng cái mặt bàn thấp, giấy cũ, có lẽ trước đây màu vàng nhưng bây giờ đã thành nâu sẫm. Nhưng Thạch Đạt Lang thích quá chừng, gần như bị mê hoặc. Hắn nói với Cổ Huy Đạo:
– Tiền bối vẽ tranh, chưa chắc mấy người được bằng. Riêng tại hạ, chỉ mong sao có được những nét bút đơn giản như trong tranh này mà thôi.
Cổ Huy Đạo cười:
– Lão phu lại nghĩ khác. Tranh lão phu, ai học cũng có thể vẽ được, miễn tập cho thuần. Nhưng riêng nét bút của Tống Lương Khải thì khác lắm. Tập không được mà phải có thiên phú. Nét vẽ Tống Lương Khải sinh động vô cùng mà ý tưởng thâm trầm, dùng kỹ thuật không, không đạt được.
Thạch Đạt Lang xem lại bức tranh. Trên tranh vẽ một con sóc trầm ngâm nhìn hai trái hạt dẻ, một trái còn nguyên vỏ, một trái vỏ đã nứt đôi để hở nhân bên trong. Con sóc dáng sợ hãi, phân vân. Nỗi băn khoăn của nó lộ trên đôi mắt đen nhánh, đôi chân trước chụm vào nhau và cái đuôi dựng ngược. Bộ lông mềm gió tạt sang bên. Tất cả những ý đó được thể hiện bằng vài nét thủy mặc đơn sơ, thoạt trông thì ngây ngô, nhưng càng nhìn càng linh hoạt và buộc người xem phải suy nghĩ về ý nghĩa tác giả muốn phô diễn.
Thạch Đạt Lang gật gù:
– Tiền bối nói rất phải !
Hôm sau, Cổ Huy Đạo vào thư phòng, lại bắt gặp hắn đang ngồi trước bức tranh ấy. Ông cười:
– Vẫn còn mê bức tranh của Tống Lương Khải ? Có vẻ tráng sĩ thích họa phẩm này lắm ? Vậy lão phu xin tặng đấy, khi nào đi thì cuốn lại mang theo.
Thạch Đạt Lang phản đối:
– Tiền bối nói đùa. Đây là một tác phẩm vô giá, không chừng là vật gia bảo, tại hạ đâu dám vô lễ thế.
Nhưng Cổ Huy Đạo nghiêm trang:
– Lão phu nói thật. Tráng sĩ thích thì cứ lấy. Thực ra lão phu còn nhiều tranh khác.
Tranh phải để cho người thích thưởng ngoạn nó sở hữu mới đúng. Lão phu chắc họa sĩ khi vẽ tranh này cũng muốn thế.
– Vậy tại hạ lại càng không nên lấy – Hắn cười – thích thì có thích nhưng thì giờ đâu mà ngắm và treo ở đâu mà ngắm ? Tại hạ chỉ là một lãng tử nay đây mai đó, chẳng biết đâu là định sở, đến thân này còn không chắc bảo toàn được thì một họa phẩm quý giá như tranh kia mang đi càng thêm bận !
Cổ Huy Đạo thở dài ảo não:
– Có lẽ tráng sĩ chẳng muốn điều gì hệ lụy. Ở tuổi tráng sĩ, chắc cũng chẳng muốn có nhà làm gì, nhưng theo ý lão phu, ai cũng nên có một chỗ ở riêng biệt, dù đó chỉ là một túp lều. Không có nó, ta sẽ cảm thấy trơ trọi, như bị ruồng bỏ. Sự trơ trọi về vật chất cũng có thể dồn ta vào sự cô đơn tinh thần đấy …
– Tại hạ chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy. Ước mong của tại hạ là được đi đây đi đó, khắp nơi trên xứ sở này, ngủ dưới bóng cao sơn, nằm trên bờ đại hải, trau dồi kiếm đạo và khi cần, đem chút tài mọn của mình ra giúp người cô thế. Có lẽ trong thâm tâm, tại hạ chỉ muốn làm một kẻ suốt đời phiêu lãng.
– Cũng là thường tình ! Tuổi trẻ nào mà chẳng vậy. Nhưng không nên tưởng rẳng giấc mơ của mình chỉ thực hiện được ở những vùng xa xôi, chân trời góc bể. Nếu nghĩ như thế, ta sẽ xao lãng việc giải quyết ngay những vấn đề trước mắt. Đa số thanh niên đều có những ý tưởng không thực tế, lão phu sợ rằng vì thế mà khi thất bại, họ bất mãn với cuộc sống.
Rồi Cổ Huy Đạo cười ha hả:
– Lão phu e đã lạm bàn mất rồi ! Thôi ta quên chuyện ấy đi. Hôm nay lão phu đến đây là có ý muốn mời tráng sĩ đi giải sầu một chút.
– … ?
– Tráng sĩ đã đến kỹ viện bao giờ chưa ?
– Kỹ viện ở ngoại ô thành Kyoto này ư ?
– Phải. Lão phu có người bạn tên Hải Chính Hành. Ông ta đã có tuổi nhưng tính tình còn trẻ trung ưa đùa cợt. Mới nhận được thư ông ấy hẹn tối nay xuống xóm Rokyjo.
Tráng sĩ đi không ?
– Không, tại hạ không hứng.
– Nếu tráng sĩ không muốn đi, lão phu chẳng ép. Nhưng thiển nghĩ chỗ đó cũng có cái hay.
Cổ lão bà mới bước vào, nghe chuyện, lên tiếng:
– Sao không đi ? Đi đi chứ ! Đi cho biết những điều mình chưa biết ! Hải Chính Hành vui vẻ cởi mở nhưng phong nhã, không làm tráng sĩ thất vọng đâu !
Giọng bà vừa như thúc giục vừa như bắt buộc. Bà sang phòng bên mở tủ lấy hai ba chiếc kimono khác nhau kèm theo thắt lưng hợp với màu áo mang sang. Thường thì các bậc già cả không muốn con cháu mình đến vui chơi ở những nơi trà đình, kỹ viện, nhưng Cổ lão bà khác hẳn, lại có vẻ hân hoan. Bà háo hức hỏi:
– Nào, mấy màu này tráng sĩ thích màu nào ? Cái này được không ?
Thạch Đạt Lang lúng túng:
– Vì lão bá và tiên sinh đã muốn, tại hạ không dám trái ý. Nhưng xin cứ để cho vận y phục cũ. Tại hạ quen rồi, mặc thế này thoải mái hơn.
– Không được ! Tráng sĩ thấy thoải mái, nhưng phải nghĩ đến người khác nữa chứ.
Trong chốn ăn chơi như thế, phải làm như mọi người. Ai đến đó cũng là để quên những điều buồn bực, họ muốn mọi thứ xung quanh đều đẹp mắt, vui tai. Không ai muốn thấy những gì luộm thuộm. Tráng sĩ đừng cho đây là một sự giả trá để che đậy giấu diếm con người thật của mình. Vả lại, những bộ quần áo này có gì là diêm dúa ? Chỉ sạch và đứng đắn thôi. Tráng sĩ mặc vào cho lão coi thử.
Khi Thạch Đạt Lang ở phòng ra, Cổ lão bà cười hớn hở. Bà nghiêng cổ ngắm nghĩa, đi quanh hắn một vòng rồi nói:
– Được lắm. Trông điển trai lắm rồi !
Bà đưa hắn một cây kiếm vỏ nạm ngọc, một cái túi gấm đựng mấy đồng tiền vàng và bỏ vật gì vào tay áo hắn không rõ. Đoạn đẩy hắn ra cửa.
Cổ Huy Đạo thắp hương trên bàn thờ tổ, vái mấy vái rồi cũng ra theo. Cổ lão bà tiễn chân hai người đến tận sân.
Ngoài hiên, họ xỏ chân vào dép mới do Cổ lão bà để sẵn và gọi gia nhân ra chờ đóng cổng. Tên gia nhân đến gần lão bà nói nhỏ. Bà giật mình ngước mắt nhìn Cổ Huy Đạo.
– Có chuyện gì vậy thưa mẫu thân ?
– Có ba người ăn mặc theo lối kiếm sĩ đứng chờ ở đầu cổng. Liệu đáng ngại gì không ?
Cổ Huy Đạo nhìn Thạch Đạt Lang có ý hỏi. Hắn đáp:
– Không sao. Chắc họ Ở võ đường Hoa Sơn. Có thể họ chờ tấn công tại hạ, nhưng tiên sinh thì không can gì. Để tại hạ ra trước.
Tên gia nhân nói thêm:
– Lúc nãy, một trong ba người có hỏi dò tiểu nhân về Thạch tráng sĩ …
Cổ Huy Đạo nhướng lông mày:
– Thế ngươi bảo sao ?
– Dạ, theo lệnh chủ nhân, tiểu nhân đáp ở đây không có ai tên vậy. Hắn tỏ vẻ giận dữ thì một kẻ trong bọn vội kéo ngay hắn đi, vừa đi vừa bàn với nhau những chuyện gì không rõ.
Thạch Đạt Lang đề nghị:
– Vậy để tại hạ đi sau một quãng. Nếu xảy ra chuyện gì liên luỵ đến tiền bối, tại hạ thật ân hận lắm !
Nhưng Cổ Huy Đạo gạt ngang:
– Khách sáo ! Tráng sĩ đừng quan tâm. Bọn đệ tử đường Tân Hổ ấy, lão phu chẳng coi vào đâu đâu ! Thôi ta đi kẻo trễ.
Trời về chiều còn sáng. Cả hai thong dong trên đường nhỏ, men theo lạch nước đến bờ sông chẳng gặp chuyện gì bất trắc. Gió xuân nhẹ mơn man. Mặt nước gợn sóng lăn tăn phản chiếu ráng chiều tím nhạt, hàng liễu xanh biếc, rủ lá tha thướt ven sông, thanh bình và diễm lệ. Cảnh trí tươi mát gây lòng khoái hoạt, Cổ Huy Đạo hát một bài, liên tưởng đến Hải Chính Hành, con người lúc nào cũng vui vẻ cợt đùa như cánh nhạn mùa xuân. Bèn hỏi người bạn trẻ:
– Tráng sĩ nghe danh Hải Chính Hành bao giờ chưa ?
– Chưa. Chỉ mới được tiền bối cho biết lúc nãy. Vị đó thân thế ra sao ?
– Ông ta là bạn của lão phu, tính tình phóng khoáng không câu chấp. Lại ưa đùa cợt và sính làm thơ nữa.
– Ồ ! Vậy ra là một thi sĩ ?
Cổ Huy Đạo mỉm cười:
– Gọi như vậy cũng được, nhưng ông ta không sống bằng nghề cầm bút. Ông ta xuất thân từ một gia đình buôn bán và cũng làm nghề ấy. Nói cách khác, ông ta là lái buôn !
– Cái tên Hải Chính Hành không mang nghĩa đó. Chính hành là làm việc chính đính, hành vi của người quân tử …
– Thì ai cũng nghĩ thế, nhưng hành đây là hành thương. Âu cũng là tiền định. Tổ phụ Ông mang hàng hóa đi bán đây đó và đặt cho ông tên ấy. Ông giữ nghiệp cũ, gặp cơ may, phất lên và tích lũy được một gia sản khá lớn. Bây giờ ông thôi không hoạt động thương mại nữa, mặc cho con cái tự ý điều khiển cơ nghiệp, lui về làm thơ, chơi cây cảnh. Gần đến nhà ông ta rồi đấy. Cái cổng đá lớn bề thế kia chính là cổng nhà Hải Chính Hành.
Mãi trò chuyện với Cổ Huy Đạo, Thạch Đạt Lang không ngờ có bọn chừng bốn năm người, y phục ra dáng kiếm sĩ đi xa xa phía sau theo dõi. Ngẫu nhiên ngoảnh lại hắn mới để ý bọn họ chạy nấp vào gốc liễu. Gió chiều bỗng trở lạnh và ẩm. Phía đông, mây đen từng đám đùn lên báo hiệu một sự thay đổi thời tiết đột ngột. Áo hai người bộ hành bay phần phật. Thạch Đạt Lang ngạc nhiên thấy tay áo bên trái của hắn không nhẹ nhàng tung bay như tay áo bên phải. Nó nặng nề dường như có đựng vật gì ở trong.
Hắn thò tay vào áo lấy ra một sợi dây da thuộc màu nâu mềm, thứ dây da các kiếm sĩ vẫn dùng để buộc cửa tay trước khi lâm chiến. Hắn sực nhớ đến Cổ lão bà khi trao áo cho hắn, đã bỏ vật gì vào đó. Chắc là cái này đây. Chỉ có bà mới tế nhị như thế. Lòng yêu thương và sự ân cần của bà khiến hắn cảm động. Nhìn Cổ Huy Đạo, ông vẫn điềm nhiên trò chuyện, Thạch Đạt Lang quay lại phía sau mỉm cười bâng quơ với những kẻ theo dõi.
Đến trước nhà Hải Chính Hành, Cổ Huy Đạo gọi cổng. Một tiểu bộc tay còn cầm cái chổi bước ra, mời vào. Ông theo tên bộc đi một quãng ngắn, bỗng có cảm giác khác lạ, quay lại thấy Thạch Đạt Lang đang bị bốn kẻ lạ mặt bao vây. Ông dừng lại gọi.
– Tiên sinh cứ đi trước, đừng chờ. Tại hạ theo vào ngay đây !
Cổ Huy Đạo nhíu mày. Nhưng nhìn Thạch Đạt Lang, ông chỉ đáp gọn:
– Vậy lão phu đợi tráng sĩ trong nhà. Khi dàn xếp xong việc riêng, xin cứ đi thẳng vào đại sảnh.
Bọn kia gườm gườm nhìn vóc dáng cao lớn của nhà kiếm sĩ trẻ tuổi.
– Các ngươi là ai, muốn gì ?
Thạch Đạt Lang điềm tĩnh hỏi.
Một kẻ nói:
– Phải chăng ngươi là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto ?
– Phải.
– Ta là Hạ Nguyên Cát, phái Hoa Sơn. Chúng ta đến gặp ngươi không có ý định thù nghịch, chỉ muốn trao cho ngươi phong thư của Hoa Sơn thiếu gia.
Đoạn đưa một cuộn giấy niêm sẵn.
Thạch Đạt Lang đón cuộn giấy, đôi mắt sắc như mắt chim ưng không ngớt dò xét bốn kẻ đứng vây quanh và tay không rời đốc kiếm. Hắn bật niêm, mắt liếc nhanh trên những cột chữ lớn rồi gật đầu:
– Được lắm !
– Ngươi phúc đáp ngay để ta về bẩm với thiếu gia.
– Dĩ nhiên ta nhận.
– Ngươi nhận ? Chắc không ?
Thạch Đạt Lang quắc mắt:
– Ngươi cho là chuyện này là đùa chăng ?
Thái độ Thạch Đạt Lang làm Hạ Nguyên Cát không nghi ngờ gì nữa. Gã thêm:
– Ngươi nên biết từ bây giờ đến lúc ấy chẳng còn bao lâu …
– Ta sẵn sàng ! Ngay bây giờ cũng được !
– Vậy tốt ! Tối nay cuối giờ tuất, Hoa Sơn thiếu gia sẽ gặp ngươi tại cổng này.
– Không được ! Ta không muốn làm phiền những người bạn tốt trong nhà này. Vả chăng, ta cũng sắp đến xóm Rokyjo giải trí.
Hạ Nguyên Cát ngạc nhiên:
– Xóm Rokyjo ?
Nhưng Thạch Đạt Lang đã điềm nhiên đi thẳng qua cổng. Câu nói sau của môn đệ Hoa Sơn chỉ làm hắn mỉm cười.
– Nếu ngươi sai hẹn hay bỏ trốn, đừng mong trở lại Kyoto này nữa !
Tư thất của Hải Chính Hành là một thế giới khác biệt hẳn với thế giới xô bồ náo nhiệt ở đô thị. Lối đi từ cổng vào đến tiền đình trải toàn một thứ đá vân đen, xếp đặt công phu nhưng lại có một vẻ tự nhiên như đã được tạo hoá tình cờ đặt lên đó. Hai bên lối đi là những hàng trúc đằng ngà thân thẳng và cao cắt tỉa gọn ghẽ xen lẫn với những bụi trúc đen lùn, lá reo xào xạc mỗi khi gió thổi. Rặng thông cổ thụ xanh um làm bối cảnh phía sau khiến lối đi quanh co càng thêm mát và u tịch. Đi trong khuôn viên một tư thất mà Thạch Đạt Lang có cảm tưởng lạc vào một trang viện hay một ngôi chùa cổ kính nào. Mái nhà đại sảnh hơi cong lợp ngói men xanh như bềnh bồng trôi trên những tàn lá. Thật là chỗ ở thần tiên của một cư sĩ giàu có mà sự mưu sinh không còn là một vấn đề phải quan tâm nữa.
Tự sân sau, vang lên những tiếng kêu “bộp bộp” của vợt gỗ đánh vào quả cầu vải trong một trò chơi mới tên là Kemari, được du nhập rất gần đây trong giới quý tộc. Thạch Đạt Lang nghĩ, thương gia Hải Chính Hành cũng chơi trò này tất có nhiều liên hệ với giới ấy.
Trong nhà đã lên đèn. Tiểu bộc dẫn khách vào đại sảnh. Nữ tỳ mang trà bánh để lên cái kỷ trước mặt hắn và Cổ Huy Đạo.
– Trời lại trở lạnh nhỉ !
Cổ Huy Đạo định đứng lên khép cửa, nhưng thấy Thạch Đạt Lang mãi ngắm nhìn cành mai nở muộn ngoài song nên lại thôi. Ông nhìn ra ngoài:
– Mây đen phủ kín đỉnh Hoài Sơn rồi. Mà gió bấc thổi cũng dữ. Tráng sĩ không lạnh à ?
Thạch Đạt Lang cười hồn nhiên:
– Không, tại hạ không lạnh. Nhưng cành mai ngoài kia không khéo gió làm rụng mất !
Người nhà mang lò sưởi tói và khép cửa. Không khí ấm hẳn lên, Thạch Đạt Lang cảm thấy thoải mái như khi còn ở nhà Cổ Huy Đạo. Hắn không đả động gì đến chuyện vừa qua mà ông bạn vong niên của hắn cũng không hỏi. Lúc sau, giọng oang oang của chủ nhân đã từ ngoài hiên vọng vào:
– Kim Phong tiên sinh đã đến đấy ư ? Đệ chờ mãi.
Hải Chính Hành bước vào giơ tay khép cửa. Thấy Thạch Đạt Lang, ông bỗng khựng lại xin lỗi.
– Lỗi về phần ngu đệ đã không thông báo trước.
Cổ Huy Đạo nói.
Nhưng chủ nhân đã khoát tay và với giọng tự nhiên, vồn vã, ông quay sang hỏi ngay Thạch Đạt Lang:
– Tráng sĩ là bạn của Kim Phong tiên sinh thì cũng như bạn của lão phu, đừng nề hà gì. Xin cho biết quý danh tính.
Cổ Huy Đạo đỡ lời:
– Tráng sĩ đây là Thạch Điền Đạt Lang, họ Yết Mân, quán ở Miyamoto. Cũng có liên hệ với Mã Xuyên trong phủ ngày trước.
Hải Chính Hành gầy như hạc, tóc bạc phơ, vóc dáng còn khỏe mạnh nhanh nhẹn.
Ông nói cười sang sảng, giọng ấm và thân mật, không như giọng Cổ Huy Đạo, ôn nhu và hơi kéo dài.
– Ồ thế ư ? Lão phu cũng có biết ông Mã Xuyên khi còn phải ra vào trong phủ.
Chẳng hay dạo này Mã tiên sinh ra sao ?
Trong chuyện thăm hỏi, Thạch Đạt Lang chỉ đáp cho đủ lễ, vì hắn cũng chẳng biết gì hơn ngoài lần gặp mặt ngắn ngủi với người chú dượng đêm trừ tịch. Lần tiếp xúc ấy đã để lại trong lòng hắn một kỷ niệm chua chát về tình cốt nhục, hắn chưa quên. Qua câu chuyện với thương gia Hải Chính Hành, hắn lại biết thêm dượng hắn khi làm việc trong phủ, còn là một trong số rất nhiều nha lại đứng ra môi giới giữa giới cầm quyền với các tay phú thương bên ngoài nữa.
Hàn huyên một lúc, Hải Chính Hành xin lui vào nhà trong thay áo.
– Bây giờ đã trễ. Lão phu định đi từ sớm nhưng trông mãi không thấy Cổ tiên sinh đến. Tối nay trời lạnh hơn bình thường, ta phải dùng cáng chứ không đi bộ được. Để lão phu sửa soạn rồi ta khởi hành là vừa.
Bèn gọi gia nhân khiêng cáng đến.
Lát sau, cả ba người đã ngồi trên ba chiếc cáng do sáu tên phu lực lưỡng khiêng, trực chỉ xóm Rokyjo. Đây là lần đầu tiên trong đời, Thạch Đạt Lang ngồi cáng.
Đến trường đua ngựa thì trời tối hẳn. Phu cáng dừng lại thắp đèn. Ba chiếc đèn lồng treo trên đầu cáng đong đưa theo nhịp bước, và gió mạnh khiến ngọn lửa mấy lần chực tắt.
Hơi thở của phu cáng đã bắt đầu tỏa ra trắng đục như khói.
– Chà, lạnh dữ !
– Tháng ba gì mà lạ quá ! Chẳng ai bảo là mùa xuân phải không bác ?
Thạch Đạt Lang hé rèm nhìn ra ngoài. Xa xa, ánh đèn xóm yên hoa lập lòe ẩn hiện giữa những lùm cây, hắt lên cao thành một vòng sáng mờ mờ dưới bầu trời vần vũ.
Cổ Huy Đạo gọi:
– Thạch tráng sĩ, chúng ta đến chỗ có ánh sáng đó.
Rồi bảo phu cáng đi chậm lại, song song với cáng của Thạch Đạt Lang, ông giải thích:
– Ba năm trước, xóm này ở phố Hoà Ninh gần hoàng cung, nhưng vì ban đêm quá ồn, làm mất trật tự, phiền nhiễu đến hoàng gia nên phải dời ra đây. Xóm này là nơi ăn chơi bậc nhất đô thành, ca nhân kỹ nữ toàn hạng chọn lọc, những kiểu áo thời trang và những bài ca thời thượng phần lớn đều bắt nguồn từ đó cả. Có thể nói đấy là cái nôi của một trào lưu văn hóa mới.
Nói xong, cười ha hả làm Thạch Đạt Lang cũng háo hức và mỉm cười vì lời so sánh.
Gần đến nơi đã nghe tiếng sênh phách đàn ca lẫn tiếng cười nói râm ran theo gió vọng tới.
– Thạch tráng sĩ ! Có nghe tiếng đàn không ? Shamisen đó ! Đấy là loại nhạc khí mới được canh tân, rập theo kiểu tam huyền mộc cầm ở đảo Ryukyu. Nhiều bản nhạc sáng tác đặc biệt cho loại đàn này rất được ưa chuộng, lão phu đi những trấn xa, hẻo lánh đôi khi cũng nghe thấy, đủ biết nó phổ cập chừng nào và ảnh hưởng của cái xóm yên hoa này quả là mạnh !
Ba chiếc cáng dừng lại bên một con đường lớn, khách qua lại tấp nập. Đèn đủ màu, đủ kiểu la liệt treo trên những cành liễu, phản chiếu qua rèm lá xanh non, tỏ a ra một thứ ánh sáng lung linh kỳ ảo trên khắp mọi chỗ, nhà cửa đường phố, trên cả y phục và diện mạo của mọi người. Tuy tên gọi là Rokyjo nhưng khu này, từ khi được dời đến đây vẫn còn mang danh cũ là Yanagimachi nghĩa là Xóm Liễu. Chả là vì từ ngàn xưa, liễu vẫn được liên kết với những nơi ăn chơi xa hoa và hành lạc !
Ba người bước qua một cái cổng gỗ to, hai bên treo hai cái đèn lồng thật lớn viết ba chữ Lạc Thiên Quán. Cổ Huy Đạo với Hải Chính Hành cùng là khách quen, chủ nhân chạy ra, các kiều nữ bao quanh chào đón nói cười hân hoan không sao tả xiết. Ở đây, mỗi người đều có một biệt danh, do các nàng đặt ra căn cứ trên những nét riêng hoặc những điểm đặc biệt nơi họ cư trú. Như Cổ Huy Đạo, các nàng gọi là Kim Phong tiên sinh vì ở ngõ Kim Phong; còn Hải Chính Hành có tên là Bạch Phát thi sĩ, nhà thơ tóc bạc. Nếu Thạch Đạt Lang là khách quen, chắc chẳng bao lâu thế nào cũng có tên mới.
Lạc Thiên Quán cùng với Phong Nguyệt Lâu là hai nơi giải trí sang trọng nhất xóm Liễu. Chủ nhân quán Lạc Thiên là tay doanh thương giàu có và thế lực. Ngoài quán này ra, ông còn nhiều cơ sở làm ăn khác nên rất được vì nể, nhưng ở nơi ăn chơi này, người ta thường chỉ biết ông qua biệt danh Lạc Thiên mà thôi.
Xóm Liễu có hai ả ca kỹ tài sắc vẹn toàn, một tên Yến Nương tiếp khách tại Lạc Thiên Quán, còn người kia tên Bạch Hải Đường, làm ở lầu Phong Nguyệt. Danh tiếng hai ả này vang dội vùng cố đô, các bậc phong lưu và khách làng chơi không ai không biết. Thạch Đạt Lang lần đầu tiên đến một nơi ăn chơi phù phiếm nên không khỏi bỡ ngỡ. Hắn cố giữ bình thản, nhưng đôi khi không giấu nổi ngạc nhiên trước những sự bài trí cực kỳ xa hoa và tráng lệ tại nơi này. Trần nhà và những rui kèo chạm trổ tinh vi, hàng lan can uốn cong cánh phượng, đồ cổ ngoạn trong tủ kính, họa phẩm quý giá treo trên vách, nhất nhất cái gì cũng đẹp mắt và cầu kỳ, Thạch Đạt Lang tưởng trong vương phủ cũng chỉ đến thế !
Cuối phòng chính, bên ngoài chiếu ngồi lại có một khu vườn nhỏ bài trí theo kiểu của nhà họa cảnh vườn danh tiếng Kobori Eushu để quan khách thưởng ngoạn. Khu vườn trải toàn sỏi vụn bao quanh một phiến đá đen có những chỗ đã mòn nhẵn, có chỗ điểm những vết trắng lấm tấm. Sỏi được cào thành luống mỗi ngày, những vết cào làm người xem có cảm tưởng đứng trước một cảnh biển, sóng đập vào thành đá tung bọt trắng như trong bức tranh sơn thủy của một danh họa đời Tống.
Cổ Huy Đạo kêu lạnh, ngồi co ro trong góc. Bạch Phát lão gia xếp gối cạnh chiếc bàn thấp, ngồi xuống và kéo Thạch Đạt Lang ngồi cạnh. Nữ tỳ mang rượu hâm nóng vừa đúng độ đến, ca kỹ theo vào, đàn phách rộn ràng ngay từ cửa.
Thạch Đạt Lang mãi ngắm những đồ cổ ngoạn quên cả uống rượu, Hải Chính Hành phải nhắc:
– Kìa, tráng sĩ uống rượu đi chứ ! Để nguội mất ngon !
Chén đầy, chén cạn, hai ông già mạn đàm đủ thứ chuyện, Thạch Đạt Lang chỉ ngồi yên nghe hát hoặc nhìn ngắm vu vơ. Thấy người bạn trẻ có vẻ đăm chiêu, Hải Chính Hành nhắc khéo:
– Tráng sĩ uống ít rượu lắm nhỉ ! Đến đây phải vui lên chứ, giữ lễ quá mất thú !
– Đa tạ tiên sinh, vãn bối không uống được nhiều !
– Tráng sĩ hình như chẳng phải là đại kiếm khách !
– Hẳn thế rồi !
Thạch Đạt Lang cười vui vẻ, xoay câu nói có ý chế nhạo thành lời đùa cợt !
– Nếu tráng sĩ sợ uống nhiều rượu làm mất nhuệ khí hoặc giảm ý chí luyện tập không thành danh được thì quả không có phong độ của một kiếm khách.
Ông vừa nói vừa cười ha hả.
– Không phải thế. Thạch Đạt Lang đáp. Chỉ vì vãn bối nhiễm phải một tật …
– Tật gì ?
– Cứ say rượu thì buồn ngủ.
– Ngỡ gì ! Say đi rồi ngủ ngay tại đây có sao ! Chẳng ai nói gì đâu.
Quay sang các nàng nghệ giả chiêu đãi, ông chỉ Thạch Đạt Lang:
– Chuốc rượu cho tráng sĩ đi. Chừng nào say, bế tráng sĩ vào giường đi ngủ.
Tiếng cười lại ha hả cất cao, xen lẫn với những tiếng hinh hích của các nàng chiêu đãi cười thầm trong tay áo.
Không khí đã có chiều lơi lả. Các nàng làm ra vẻ bạo dạn hơn.
– Để thiếp chuốc rượu !
Một kỹ nữ lại ngồi sát bên Thạch Đạt Lang mặt đỏ như gấc, chẳng biết vì say hay vì thẹn. Có kẻ lên tiếng:
– Không được ! Nương nương đây là tiểu thiếp của Bạch Phát lão gia, để thiếp bồi tiếp công tử.
Tráng sĩ bây giờ đổi thành công tử. Nhưng mọi người, kể cả Thạch Đạt Lang, chẳng ai chú ý đến sự thay đổi cách xưng hô nhỏ mọn ấy. Khách và kỹ nữ ngồi lẫn lộn với nhau trên chiếu, bá vai kề vế uống rượu, sự nghiêm chỉnh ban đầu không còn nữa.
Cổ Huy Đạo xem chừng cũng say rồi. Ông nói:
– Yến Nương đâu ? Sao không thấy Yến Nương ?
– Ờ ! Cuộc vui thế này mà không có Yến Nương ngâm thơ thật phí !
– Đi tìm nàng đến. Để ta giới thiệu với tráng sĩ trẻ tuổi đây …
– Khó lắm, thưa tiên sinh. Nàng đang bận tiếp khách bên Đông sảnh. Nàng đâu có phải để giới thiệu với ai cũng được !
– Cứ bảo có ta đợi, nàng sẽ sang ngay. Nàng biết rõ ta mà, không ngại !
Một người chạy đi tìm tì nữ của Yến Nương dẫn đến. Cổ Huy Đạo hỏi:
– Cháu là tì nữ của Yến Nương phải không ?
– Dạ phải.
– Vậy đi mời cô nương đến đây ngay. Nói có Kim Phong Cổ Huy Đạo đợi.
Mắt cô bé chớp chớp ra vẻ ngần ngại. Tì nữ này mới khoảng mười một mười hai mà hai má đã hây hây, mắt đen láy, trong dáng ngây thơ có pha chút tinh nghịch của thiếu nữ sớm dậy thì. Trưởng thành ở những nơi lầu hương gác tía, sau này chắc cô bé cũng kiêu sa chẳng kém gì nàng Yến. Cổ Huy Đạo giục:
– Đi ! Đi ngay đi, ta sẽ có thưởng …
Cô bé tần ngần một lát rồi lui khỏi phòng. Mới vài bước đã thấy ả vỗ tay reo gọi rối rít. Ai nấy đổ xô ra hành lang. Cổ Huy Đạo cũng mở song cửa.
Một cảnh đẹp vô cùng bày ra trước mắt mọi người. Tuyết đã xuống từ bao giờ, phơi phới như ngàn ngàn triệu triệu cánh mai theo nhau rụng. Mặt hoa viên trắng bông. Trên những cành tùng, tuyết đọng nặng chĩu, đong đưa theo làn gió nhẹ.
Các nàng kỹ nữ, ca nhân đứng chật hành lang, bàn tán xôn xao không biết tuyết có còn giữ được thế này đến ngày mai không.
Hải Chính Hành sốt ruột, chờ mãi không thấy Yến Nương lại, bèn sai một nữ chiêu đãi khác đi tìm.
Lúc sau, trở về nói nhỏ:
– Yến Nương muốn tới lắm, nhưng không được. Khách không cho.
Cổ Huy Đạo trợn mắt:
– Khách nào vậy ? Nàng Yến đâu phải người thường, nàng muốn làm gì mà chả được ! Hay bây giờ lại ham tiền quá rồi !
– Không ! Nàng nói ông khách này quyền thế lắm. Mấy lần xin cáo biệt mà không được !
Hải Chính Hành gật đầu:
– Dĩ nhiên. Ai lại muốn để một người như Yến Nương đi khỏi khi đang ngồi với mình. Khách nào vậy ?
– Thưa, Tôn Điền đại gia.
– Tôn Điền đại gia ? Ngài đi một mình à ?
– Không. Với vài thân hữu khác nữa.
Hải Chính Hành ngồi thừ người buồn bã:
– Thật đáng tiếc. Tuyết đẹp như thế này, rượu ngon như thế này mà không có Yến Nương để ta làm bài thơ cho nàng phổ vào đàn Shamisen dạo lên nghe có phải tuyệt không. Thật đáng tiếc !
Bỗng ông vỗ đùi:
– Hay thế này:
Tôn Điền đại gia cũng là thi sĩ. Chúng ta làm bài thơ gửi tới, chắc ông sẽ cảm thông với hoàn cảnh chúng ta, để Yến Nương tạm sang đây một lúc. Đại huynh nghĩ thế nào ?
Cổ Huy Đạo mỉm cười:
– Chưa chắc. Nếu muốn Tôn Điền thuận, bài thơ phải thật xuất sắc. Xoàng xoàng chỉ tổ làm trò cười.
– Đại huynh lại chê tiểu đệ rồi. Hay chúng ta cùng góp sức làm một bài. Ngắn thôi, chừng bốn câu cũng đủ.
– Hà hà ! Cũng được, nhưng phải cái đệ thơ dở lắm. Xin hiền huynh khởi xướng.
– Hừ … Nàng nào mang cho ta văn phòng tứ bảo ra đây. Để xem …
Bút mực mang đến. Ngẫm nghĩ một lúc ông viết:
Ngoài song, hoa tuyết bay Chim lẻ ước gặp bầy …
Rồi đưa cho Cổ Huy Đạo. Nhà luyện kiếm tìm mãi không ra vận, hỏi Thạch Đạt Lang:
– Thế nào, tráng sĩ có ý kiến gì không ? Giúp lão phu với.
Thạch Đạt Lang chữa thẹn:
– Quả tình vãn bối từ trước đến nay chẳng làm thơ bao giờ. Sợ làm hỏng việc của nhị vị tiên sinh. Xin thứ cho.
Mãi sau, Cổ Huy Đạo mới tiếp:
Mai già run cánh mỏng Khí lạnh ngút từng mây …
Hải Chính Hành đọc, khen tạm được. Ông cũng nhận là trong lúc này khó tìm ý tưởng đặc biệt. Tuy nhiên, những điều chính đã nói hết trong hai câu “mai già run cánh mỏng” và “chim lẻ ước gặp bầy” rồi. Vậy ta cứ gửi.
Bèn chép vào giấy hoa tiên, niêm phong cẩn thận và trao cho một kỹ nữ:
– Các nàng khác không ai có được phong thái như nàng. Hãy vì ta đưa thư này cho Cô Lãnh đại gia và đừng để đại gia giận …
Cô Lãnh là biệt danh của Tôn Điền Tùng Cương ở đây, có nghĩa là ngọn núi đứng biệt lập, ý nói về quyền thế của Tôn Điền.
Rượu chừng vài tuần nữa mới thấy người kỹ nữ mang thư phúc đáp về để trong một cái hộp sơn mài cực kỳ mỹ lệ.
Cổ Huy Đạo chột dạ, nói:
– Chắc Tôn đại gia ngạc nhiên lắm, không ngờ lại gặp chúng ta ở đây đêm nay.
Lần sau phải cẩn thận hơn mới được !
Ông thong thả mở hộp, lấy tờ thư ra. Trước nét mặt ngỡ ngàng của cả ba người, phong thư chỉ là một tấm hoa tiên vân màu ngà, trên không có chữ nào cả.
Ông quay sang hỏi người kỹ nữ:
– Thế này là thế nào ? Nàng có chắc không đánh rơi mất thư phúc đáp của Tôn gia chứ ?
– Tiện thiếp đâu dám cẩu thả. Chính tay đại gia đưa cho tiện thiếp hộp này bảo mang về trình tiên sinh.
Hải Chính Hành vẻ tư lự, lúc sau mỉm cười nói:
– Hay Tôn gia không tìm được tứ nào hợp ý, kéo cờ trắng rồi. Không có chữ gì, thư để trắng tức là đầu hàng.
Hải Chính Hành có tính hay suy diễn mọi việc như vậy để lấy lợi cho mình.
Nhưng Thạch Đạt Lang nói:
– Vãn bối không nghĩ thế. Chắc ngài muốn nhị vị tiên sinh đọc lời phúc đáp …
– Đọc tờ giấy trắng này ?
– Chính thế. Màu trắng là màu tuyết. Và rượu sa-kê cũng trắng.
Cổ Huy Đạo gật gù:
– Tráng sĩ nói phải. Nếu ta đọc, thư này có nghĩa:
“Hãy uống rượu ngắm tuyết … “ Rồi vỗ vai Bạch Phát thi sĩ, ông nói tiếp:
“Và đừng nghĩ đến chim yến, chim nhạn làm gì cho thêm bận !”.
Hải Chính Hành không vừa ý, cau mặt nhìn ra ngoài trời. Tuyết vẫn rơi phơi phới, phủ trắng phau cả những mái lầu và những mầm mẫu đơn mới nhú.
Cổ Huy Đạo say rồi. Ông nằm yên trong góc, mắt lim dim. Cảnh mãn thiên mai vũ chẳng biết có gợi thêm ý gì cho nhà thơ không, chỉ thấy Bạch Phát lão thi sĩ, uống hết chén này đến chén khác, nét mặt không vui. Các nàng kỹ nữ cũng thu dọn đàn địch sênh phách, tô điểm lại nhan sắc.
Thạch Đạt Lang yên lặng đứng dậy, kéo cửa khẽ lẻn ra ngoài. Chẳng ai hỏi gì đến hắn. Hắn chọn thời điểm rút lui thật vừa đúng lúc.
Phía sau các phòng tiếp khách, nhiều hành lang hẹp đan vào nhau như những lối đi dọc ngang trong một mê thất mà ánh sáng yếu ớt của một vài ngọn đèn nhỏ treo ở mỗi khúc quanh không đủ soi tỏ hết mọi chỗ. Thạch Đạt Lang men theo những lối đi lờ mờ ấy, tránh mọi cửa mở hé để lọt ánh sáng ra ngoài. Đến một chỗ có mùi thức ăn bốc ra, đồ chừng là bếp, hắn đẩy cửa bước vào.
Trong phòng xếp la liệt thực phẩm. Gạo, ngô, rau, đậu, thịt cá, bát đĩa để đầy kệ.
Thì ra đó là một căn phòng kho. Cuối phòng, một cô bé trạc mười một mười hai đang lúi húi xếp dọn. Thấy có người vào, cô bé ngẩng lên:
– Khách quan là ai ? Vào làm gì ? Chỗ này chỉ dành cho người làm.
Thạch Đạt Lang nhận ra ngay cô bé là tì nữ của nàng Yến, nhưng giờ đây không có cái vẻ dịu dàng ngây thơ như lúc hắn gặp trong phòng khách nữa. Mắt cô bé sắc như dao, đôi lông mày cau lại.
– Ta không được vào đây hay sao ?
– Không.
– Không.
Cô bé tiến đến trước mặt Thạch Đạt Lang:
– Chắc khách quan muốn tìm phòng tắm. Xin đi theo tiểu nữ, phía đằng này.
Cô bé cúi đầu, toan nắm tay Thạch Đạt Lang dẫn đi. Hắn vội nói:
– Không. Ta không say và cũng không cần phòng tắm. Ta muốn nhờ cô một việc.
– … ?
– Dẫn ta đến một căn phòng trống và mang cho ta chút gì ăn lót dạ.
– Vậy xin khách quan cứ trở về phòng, tiểu nữ sẽ gọi người mang thức ăn tới.
– Không. Mọi người đang vui đùa và uống rượu, không ai muốn ăn. Làm phiền họ, ta không thích.
Cô bé gật đầu:
– Vậy khách quan ngồi đây cũng được. Khách quan muốn dùng thứ gì ?
– Chẳng có gì đặc biệt. Mang cho ta liễn cơm trắng với chút củ cái muối là đủ.
Nữ tì ngạc nhiên, giương mắt nhìn, nhưng không nói gì, lẳng lặng đi lấy những thứ ông khách muốn.
Ăn cơm xong, Thạch Đạt Lang đứng dậy, toan mở cửa ra ngoài thì nghe tiếng hỏi:
– Khách quan đi đâu ?
Hắn không ngờ cô bé vẫn còn quanh quẩn gần đó, rình rập.
– Ta ra ngoài có chút việc. Sẽ trở về ngay.
– Xin khách quan nhớ quay trở lại. Nếu không, tiểu nữ bị trách phạt.
Thạch Đạt Lang cười rộ, lộ hàm răng trắng bóng. Vẻ mặt tươi cười của hắn làm cô bé yên dạ.
– Nhất định rồi. Nếu các vị trong phòng có hỏi thì bảo ta đến khuôn viên Kim Các Tự, vãn cảnh chùa ngắm tuyết, rồi trở lại.
– Vâng.
Cô bé đi trước, mở cổng vườn sau. Trên mái cổng, tuyết đóng dày hàng tấc. Lối vườn sau ngoắt ngoéo, vắng vẻ, không đèn đóm gì nhưng nhờ ánh tuyết hắt lên vẫn đủ sáng. Những vết chân của Thạch Đạt Lang in hằn trên nền tuyết tinh khiết như những vết chân dã thú đi tìm mồi trong đêm hoang lạnh.
Đến trước một tiệm bách hóa, hắn bước vào hỏi mua một đôi dép cỏ, thứ tốt dùng để đi tuyết, nhưng không có. Tiệm này phần lớn chỉ bán nón nan rộng vành cho khách đến tiêu khiển ở xóm Liễu nhưng lại muốn che mặt không để người khác biết. Hắn phải nhờ chủ nhân sai người đi mua hộ. Trong lúc chờ đợi, Thạch Đạt Lang mượn giấy bút viết một bức thư ngắn, cởi áo ngoài gấp lại cẩn thận, bỏ thư vào tay áo đã gấp rồi đưa cho chủ nhân mà nói:
– Tại hạ ra đi có chút việc, không tiện mặc áo này. Nếu đến đầu giờ tý không thấy về, phiền chủ nhân cho người mang áo đến quán Lạc Thiên tìm Kim Phong tiên sinh trao lại giùm.
Chủ nhân thắc mắc toan hỏi, Thạch Đạt Lang vội gạt ngang:
– Mọi chi tiết, tại hạ đã viết trong thư, xin cố giúp cho.
Đồng thời lấy ra ít bạc vụn đưa tặng. Chủ nhân cười vui vẻ bỏ ngay vào bọc, mặt tươi như hoa:
– Được mà ! Được mà ! Khách quan khỏi quan tâm, lão sẽ làm giúp.
Thạch Đạt Lang lại mua một cái nón nan. Khi người nhà mang dép về, hắn thay dép mới, buộc quai chằng lên đến cổ chân, thử đi thử lại nhiều lần, khi thấy vừa phải không chặt mà cũng không lỏng quá mới sửa lại áo và kiếm đeo bên sườn, đội nón che kín nửa mặt và rời khỏi cửa hàng bách hóa.
Tuyết vẫn rơi đều đều không ngớt. Những bông to và nhẹ hơn cả cánh hoa mai rụng.
Ven bờ sông, trông sang đường Tân Hổ, còn ánh đèn thưa thớt. Nhưng về phía đông gần rừng, ngoài mấy vòng tròn sáng vàng úa từ những cây đèn đá tỏa ra, không có dấu tích gì chứng tỏ có sự sinh hoạt của cư dân. Khu này bình nhật đã ít người qua lại, ban đêm tuyết xuống càng vắng lặng. Sự yên lặng càng rõ rệt hơn khi những mảng tuyết dầy đọng trên cành quá nặng rớt xuống. Tiếng rớt “bịch” ngắn, gọn, không một âm vang, gợi cho người nghe cái cảm giác bực bội như niềm hy vọng đột nhiên bị bóp nghẹt.
Trước thềm tòa cổ miếu ven sông, cổng đóng im ỉm, chừng hai chục người quỳ gối cúi đầu khấn nguyện. Chuông từ xa vẳng lại năm tiếng, báo hiệu giờ dậu đã qua. Đêm nay, tiếng chuông nghe trong và mạnh, như đâm thấu tâm can, khiến mọi người hồi hộp, vô tình xích lại gần nhau. Họ mong tìm được thêm từ người bên cạnh chút hơi âm hay một niềm an ủi.
Hoa Sơn Điền Chính đứng dậy trước tiên:
– Anh em ! Như vậy đủ rồi ! Đã đầu giờ tuất, ta đi là vừa !
Cả bọn lục tục làm theo, xốc lại áo và buộc lại giày cỏ. Một người nói:
– Đêm nay lạnh lắm đấy, đừng buộc quai dép chặt quá, dễ đứt. Trời thế này, lẽ ra mang giày quai vải mới phải.
Điền Chính đã chuẩn bị kỹ ngay từ nhà, đầu thắt băng vải đen, tay đeo bao da mềm hở ngón để sử kiếm cho tiện. Cả bọn nối đuôi nhau theo chủ soái, lặng lẽ bước những bước vội vàng trên nền tuyết xốp. Bốn bề yên lặng, chỉ nghe tiếng thở đều đều và hơi thở của họ bốc ra thành từng vệt khói trắng đục.
Khu xóm Liễu chỗ nào cũng đông đúc, duy chỉ có cánh đồng trống rỗng sau Kim Các Tự là vắng vẻ. Ở đó ít lùm cây rậm rạp, chỉ có vài gốc thông trơ trọi và cỏ gianh cũng thấp, không làm cản trở cuộc giao đấu bằng bất cứ loại võ khí gì nên cả hai bên dù không ước hẹn, đều ngầm hiểu và cùng hướng về phía đó trước tiên.
Giờ tuất quả có quá sớm. Tuy nhiên Hoa Sơn đã chọn và Thạch Đạt Lang chấp nhận. Điền Chính nóng lòng trả hận, trì hoãn lâu e kẻ địch trốn mất nên gã quyết định hành động càng sớm càng tốt. Hạ Nguyên Cát thì được lệnh lảng vảng gần nơi cổng đá nhà Hải Chính Hành với một võ sinh giữ việc liên lạc. Cho nên khi bọn Thạch Đạt Lang lên cáng đến xóm Rokyjo, Điền Chính đã được tin báo tức khắc.
Đi được một quãng còn cách Kim Các Tự khoảng chừng vài chục trượng, thấy có lửa lập lòe sau một bức tường đổ nát trên nền nhà cũ bỏ hoang, thầy trò Hoa Sơn ngạc nhiên khựng lại:
– Ai ?
– Phải Điền thiếu gia không ?
Thì ra Ưng Đằng và Tích Quang.
Điền Chính hơi bực. Gã rất tin vào kiếm thuật của mình nên thấy đàn em đến đông, gã tưởng họ coi thường mình, nhất là những người đó lại là hai tay xem ra bản lãnh có phần cao nhất phái. Gã buông sõng:
– Đến đây làm gì ?
– Chúng đệ sốt ruột quá, ở nhà không yên nên đến đây xem thiếu gia có điều gì sai phái chăng ?
Lời nói khéo của Ưng Đằng làm Điền Chính bớt giận. Tuy vậy gã cũng vẫn không thoải mái:
– Ta đến nhiều người quá. Nếu giết được nó mà giang hồ biết ta đông thế này, tất sẽ bảo ta ỷ chúng hiếp cô, mang tiếng.
– Không hề gì. Đây còn cách Kim Các Tự đến vài chục trượng, chúng đệ ngồi cả đây phòng bất trắc để một mình thiếu gia tới đó trừng phạt nó.
– Cũng được !
– Chắc thiếu gia đi đường lạnh, ngồi đây sưởi ấm cái đã. Còn sớm, bây giờ mới khoảng giữa giờ tuất, vội gì !
Điền Chính đến gần đống lửa, Ưng Đằng nhích sang bên nhường chỗ. Đồ chúng lục tục theo sau, quây quần bên ngọn lửa bốc cao. Điền Chính cởi bao tay, giơ ra trước mặt sưởi, bẻ đốt ngón tay kêu răng rắc. Ánh lửa hắt lên mặt hắn làm vằn lên những tia máu trên mặt và làm mặt gã đỏ ửng.
– Gần đây có hàng quán gì không ?
Điền Chính hỏi.
– Có, có một quán ở gần đây.
Điền Chính quay lại bảo người vừa nói:
– Vậy đi mua cho ta bình rượu.
– Mua rượu bây giờ ?
– Chứ gì ! Trời lạnh thế này, có chút rượu vào cho ấm bụng !
– Chắc gì họ còn mở.
– Cứ đập cửa lâu lâu vào, thế nào cũng được.
Đồ chúng Hoa Sơn biết vị chưởng môn mới của họ thích rượu. Sáng, trưa, chiều, tối, không mấy khi là không thấy Điền thiếu gia chuếnh choáng. Mãi rồi họ cũng chấp nhận, cho đấy là một cái tật vô hại. Bữa nay, trước khi ra đi, Điền Chính chỉ uống chút ít. Gã cũng biết cuộc giao chiến đêm nay hết sức quan trọng, không những cho tính mệnh của gã mà còn cho cả danh dự và tương lai môn phái nữa. Nhưng trời lạnh, ngồi bên đống lửa ấm áp, gã thấy thèm rượu hết sức.
Khi người ta đã muốn điều gì thì luôn luôn có đủ lý lẽ biện minh hầu thỏa mãn ý muốn ấy. Tính Điền Chính lại nóng, ai cản cũng không được, chỉ làm gã tức giận và bướng bỉnh thêm, cho nên đồ đệ Hoa Sơn ngồi đầy ra đó mà im như thóc.
Ưng Đằng liếc mắt hất hàm bảo người vừa nói:
– Thiếu gia đã muốn uống rượu thì ngươi đi mua đi. Một chút cũng chẳng sao, còn hơn để tay chân tê cóng !
Lát sau rượu mang về, hâm vừa đúng độ. Điền Chính ôm vào lòng, tu một hớp, khà ra khoan khoái:
– Hà ! Đây là bạn thiết và là người thân thích nhất của ta đây !
Gã cười ha hả, nhưng Ưng Đằng thì nuốt lệ. Hắn thầm mong cho vị chưởng môn của hắn uống ít hơn mọi bữa.
Quả nhiên, sau chừng chục lần đưa bình rượu lên môi, Điền Chính thôi không uống nữa. Gã trao bình cho một đồ đệ gần đấy và bảo:
– Ngươi giữ nó cho ta. Để xong việc, ta sẽ hỏi đến !
Tuy làm ra bộ thản nhiên, Điền Chính cũng biết sinh mệnh mình nằm trong cái bình ấy.
Có tiếng sột soạt. Mọi người như cành cây cong đột nhiên được buông ra, đứng bật dậy.
– Ai ? Thạch Đạt Lang hả ?
Mọi người lắng tai, tay để vào đốc kiếm. Im lặng như tờ. Không động tĩnh. Tiếng củi khô nổ lách tách. Lúc sau mới thấy một bóng đen từ phía sau nền nhà đổ hiện ra giơ tay vẫy.
– Anh em còn ngồi cả đây à ?
Bóng đen mặc y phục dạ hành, quần bó chẽn để dễ di động nhưng không giấu được vẻ chậm chạp của một người nhiều tuổi. Khi bóng đen đến gần vùng ánh sáng đống lửa, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.
– Ngỡ ai, hóa ra là Cảnh Môn lão trượng. Lão trượng đến đây làm gì thế ?
Hoa Sơn Cảnh Môn là em Hoa Sơn Khổ Bích, vào hàng thúc bá của Sĩ Khánh và Điền Chính. Ông đã già nhưng vẫn còn lưu tâm đến vận mệnh bản phái và vẫn thường khuyên nhủ thiệt hơn Sĩ Khánh khi hắn còn giữ chức chưởng môn.
Điền Chính thấy chú, tỏ vẻ ngạc nhiên. Gã không mong một sự trợ giúp nào ở ông chú già yếu ấy. Khác với Sĩ Khánh, những lời nhắn nhủ của ông chỉ làm gã bực mình nhưng vì là hàng dưới, gã chỉ vâng dạ cho xong chứ không để vào tai.
– Điền Chính ! Ta nghe nói ngươi sẽ giao đấu với thằng Đạt Lang tối nay phải không ?
– Thưa thúc thúc, tiểu điệt đã định đến thỉnh ý thúc thúc, nhưng vì gấp quá …
– Còn phải thỉnh ý gì nữa. Anh mày bị nó đánh cho tàn phế, danh dự cả phái Hoa Sơn bị nhấn xuống bùn nhơ, mày không trả thù ấy thì ai đứng ra cáng đáng ?
– Dạ chính thế. Tiểu điệt đã nhất quyết.
– Phải lắm. Ta đến đây cũng vì lẽ ấy. Trời lạnh mà ta không ngại chỉ vì muốn nói với mày một câu. Mày biết câu gì không ?
– Dạ, tiểu điệt xin lắng nghe.
– Danh dự bản phái là trọng, thân ta không đáng kể. Nhưng không phải vì thế mà hành động bừa bãi được. Đừng vội vàng hấp tấp, hãy bình tĩnh cháu ạ. Ta nghe thằng ấy kiếm pháp chẳng phải tay vừa.
Ngừng một lúc, ông lại nói:
– Nếu chẳng may cháu có mệnh hệ nào, ta sẽ lo mai táng chu tất.
Điền Chính cười lớn:
– Thúc thúc quá lo xa. Tiểu điệt đâu phải như Sĩ Khánh.
Đoạn dắt tay chú đến ngồi bên đống lửa, hô mang rượu ra để ông uống. Rượu được vài ngụm, Hoa Sơn Cảnh Môn nói:
– Lúc này cũng gần đến giờ rồi. Sửa soạn đi là vừa. Ta nghĩ các anh em khác nên tránh mặt, cả ta nữa. Hãy đứng ở phía xa xa, kẻo giang hồ họ lại nói cuộc chiến không công bằng, rồi đồn đại mất cả hùng khí bản phái.
Mọi người nghe theo, đứng dậy rảo bước ẩn vào sau những gốc thông lân cận, để một mình Điền Chính ngồi bên đống lửa.
Gã đeo bao tay, xốc lại kiếm. Vết chân đồ chúng Hoa Sơn tản mát ra từ phía in lên nền tuyết trắng những vệt dài đen sẫm.
Không gian vắng lặng, chỉ nghe tiếng củi nổ lép bép. Đôi lúc một cành cây khô gẫy dưới sức nặng của tuyết đọng, vang lên khô khan. Điền Chính đảo mắt dò xét bóng đêm xung quanh.
Chuông từ xa vẳng lại thong thả buông sáu tiếng. Giờ tuất đã qua, vân không thấy Thạch Đạt Lang. Điền Chính đã tỏ vẻ bồn chồn nóng nảy.
Từ xa, một bóng đen rảo bước đi đến, nhanh như chạy.
Điền Chính vội vàng phóng chân đá tuyết, dập cho lửa tắt rồi rút vào ẩn dưới một tàn thông. Tiếng bóng đen chạy đến nói trong hơi thở hổn hển:
– Thiếu gia ! Nó sắp tới rồi !
– Hạ Nguyên Cát ! Ngươi thấy nó ở đâu ?
– Đệ mai phục gần chùa, rõ ràng thấy nó bước lên tam cấp. Nó đi một mình, nhưng có vẻ phòng bị kỹ, vừa đi vừa ngoái cổ trông tứ phía, lại tránh những bụi cây rậm.
Thiếu gia sẵn sàng chưa ?
– Rồi ! Để mặc ta. Ngươi tìm chỗ ẩn đi !
– Anh em đâu cả ?
– Họ tản ra quanh đây thôi. Ngươi cũng thế, dừng đứng lớ ngớ ở đó, vướng chân vướng cẳng ta, vô ích.
Hạ Nguyên Cát trở gót. Y làm bộ nghe lệnh, nhưng thực ra thừa lúc Điền Chính quay đi, lẩn ngay xuống sân ngôi cổ tự nấp ở đấy. Y đã có chủ ý. Ở đó y có thể nhìn rõ cuộc đấu và khi cần, tập kích địch thủ nếu có dịp. Đêm khuya vắng vẻ như thế này, ngoài anh em Hoa Sơn ra còn ai biết ?
Thu hình dưới sàn gỗ, trong bóng tối ẩm thấp. Hạ Nguyên Cát cảm thấy lạnh thấu xương. Mồ hôi trong lần áo lót bốc hơi, lấy bớt đi nhiệt độ, y càng lạnh, răng đánh vào nhau lập cập. Hạ Nguyên Cát mong đó chỉ là cái lạnh bên ngoài chứ không phải vì sợ.
Đến sân sau chùa, Điền Chính đứng lại sửa dây da buộc cổ tay, rồi gác chân lên rễ một gốc cây đổ, đợi. Mắt gã dán vào hàng cột lớn dọc theo hành lang Kim Các Tự.
Trong chùa vắng lặng. Thỉnh thoảng mới có tiếng băng nhũ rơi trên mái xuống đánh bộp một cái.
Điền Chính sốt ruột, đổi thế đứng rồi đi đi lại lại, vết chân hằn sâu trên tuyết, vẻ bực bội. Sự chờ đợi làm gã khó chịu, nhất là bây giờ hơi rượu đã tan hết. Gió lạnh thổi vào mặt gã, nhôn nhốt như kim châm. Hạ Nguyên Cát cũng sốt ruột không kém. Y nhẩy từ chỗ nấp ra. Điền Chính giật mình rút gươm:
– Ai ?
– Tiểu đệ !
Điền Chính cau mặt mắng:
– Ngươi làm gì trong đó ? Thạch Đạt Lang đâu ?
– Không biết ! Đệ quả đã trông thấy nó vào chùa. Sao đến bây giờ vẫn chưa thấy mặt.
– Hay thằng khốn kiếp ấy trốn rồi ! Ngươi nhìn phía đó, để ý mọi tiếng động, nhất là ở những chỗ tối. Ta coi phía này.
Đoạn cả hai chia nhau quan sát. Lúc sau vẫn không thấy động tĩnh gì, Điền Chính bắt đầu mất bình tĩnh, cho là Hạ Nguyên Cát đã hoảng báo. Đột nhiên có ánh đèn lập lòe về phía hàng lang chùa. Gã đưa tay gạt Hạ Nguyên Cát và nói nhỏ, bảo y hãy nấp vào sau gốc thông.
Ánh sáng dường như của một chiếc đèn bão, lắc lư theo nhịp bước, từ trong chùa đi ra. Đèn lúc ẩn lúc hiện sau hàng cột lớn, mờ tỏ soi phần dưới bộ y phục nâu sồng của một nhà sư.
Nhà sư đi một mình hay với người nào khác, Điền Chính trông không rõ vì tối quá.
Không dằn được tò mò, gã nhẩy ba bước đến sát hàng hiên. Ngọn đèn đột nhiên tắt phụt.
Trong cái lúc tranh tối tranh sáng, mắt người chưa kịp điều tiết để thích ứng với mọi sự thay đổi chung quanh ấy, Điền Chính bỗng nhiên hét lớn:
– Thạch Đạt Lang !
Nhưng lập tức, gã cũng ý thức ngay được sự nhầm lẫn chiến lược của mình.
Điền Chính đứng dưới thềm chùa, thấp hơn Thạch Đạt Lang có đến năm sáu bộ. Ở một vị trí như vậy, dù có giở tuyệt kỹ của Hoa Sơn kiếm phái ra chăng nữa cũng không công được, mà thủ cũng khó. Nhảy lên hiên cho ngang với hắn, sẽ chậm đi một chút, đường kiếm mất đi sự thần tốc, dũng mãnh. Và biết đâu sau hàng cột tối kia chẳng có kẻ ẩn nấp.
Nói thì lâu nhưng phản ứng của Điền Chính rất nhanh. Gã tung mình nhảy lui năm bước ra chỗ khoảng khoát giữa sân. Sau gã là tuyết, là gió, không có gì cản trở, gã có thể mặc sức tung hoàng. Vừa vững vị trí, Điền Chính đã hô lớn:
– Thạch Đạt Lang, xuống đây !
Trên hiên, Thạch Đạt Lang vẫn không lộ hình tích. Không ai biết hắn đứng đâu.
Ven tường ? Sau cột ? Hắn thận trọng tối đa. Chỉ nghe từ trên thềm vọng xuống:
– Điền Chính ! Ngươi sẵn sàng chưa ?
Giọng Thạch Đạt Lang bình tĩnh. Câu hỏi tầm thường ấy không ngờ lại có tác dụng mạnh mẽ tựa gáo dầu sôi đổ vào tâm trạng hừng hực của Điền Chính.
Từ trước, Điền Chính vẫn coi Thạch Đạt Lang chẳng qua như một tên lực sĩ quê mùa, nhờ tuổi trẻ và nhanh nhẹn mà thắng được bào huynh gã. Không theo một môn phái chính thống nào, kiếm pháp Thạch Đạt Lang sao bì được với những đường kiếm Hoa Sơn, cho nên gã vẫn thường không dấu sự khinh miệt. Thế mà nay tên quê mùa cục cằn ấy lại lên giọng mỉa mai hỏi gã đã sẵn sàng chưa, chỉ vì hắn chiếm được vị trí tốt làm gã phải nhảy lui mấy bước.
Giận uất, Điền Chính hét lớn:
– Thằng hèn nhát. Nếu thực mày có giỏi, hãy xuống đây so kiếm với ta. Đứng trên đó, ta chỉ coi mày là đồ chuột nhắt.
Thạch Đạt Lang không ngờ nhược điểm của Điền Chính lộ ra nhanh như vậy.
Trong cuộc giao tranh, kẻ nào không kềm chế được giận dữ, kẻ đó coi như chắc chắn thất bại.
Thạch Đạt Lang đã chuẩn bị. Điền Chính cũng đã chuẩn bị. Nhưng sự chuẩn bị của Điền Chính khác với sự chuẩn bị của Thạch Đạt Lang nhiều lắm. Về mặt vật chất, Điền Chính đã sẵn sàng, nhưng về mặt tinh thần, gã chưa có gì cả. Còn Thạch Đạt Lang, hắn đã sẵn sàng từ lâu. Ở trong chùa, hắn đã nhìn ra ngoài, quan sát đường đi nước bước của đồ chúng Hoa Sơn và Điền Chính. Hắn đã hỏi han và uống trà với nhà sư giữ chùa. Sự chậm trễ, cố tình gây trì hoãn ấy làm địch thủ bồn chồn, trí óc căng thẳng là một đòn tâm lý có lợi cho hắn.
Trước khi giao đấu, Thạch Đạt Lang lại chọn địa điểm xuất hiện tại hàng hiên:
đứng trên cao, lưng dựa vách với bóng tối che chở, tương đối an toàn ở phía sau và hông, hắn có thể tập trung sự chú ý về phía trước mà không sợ sơ hở.
Sự chuẩn bị thật hoàn hảo. Quả nhiên Thạch Đạt Lang đã đoạt thượng phong về cả mặt tinh thần lẫn vật chất trước khi ra chiêu. Điền Chính biết thì đã muộn, nói khích để hắn bỏ vị trí ấy, nhưng Thạch Đạt Lang dễ gì để bị vào tròng. Hắn dè dặt. Những điều thu thập được qua sách vở hiện ra trong óc, rõ ràng tựa làn chớp lóe trong đêm đen:
“Chiến thắng giống bóng trăng dưới nước, chỉ là ảo ảnh. Thấy bóng trăng, nhảy xuống ôm bừa, có khi chết đuối”, cho nên hắn yên lặng chờ.
Điền Chính nổi xung, thóa mạ không tiếc lời. Thạch Đạt Lang vẫn yên lặng.
Không ai biết hắn đứng chỗ nào mà cũng không nghe hắn thở.
Bỗng vút một cái, nhanh như tên bắn, Thạch Đạt Lang phóng ra từ cuối hàng hiên.
Hắn rớt xuống bên hông Điền Chính, cách chỗ gã đứng chỉ chừng chục bước. Ánh gươm lóe lên đâm thẳng vào sườn địch thủ. Điền Chính chẳng phải tay vừa. Trong lúc xuất kỳ bất ý, thế mà gã cũng tránh được đòn trí mạng ấy, vung kiếm theo đường vòng cung chém chênh chếch lên đầu Thạch Đạt Lang theo thế Phi Dương Hoành Phóng, một thế kiếm đặc biệt do Hoa Sơn Khổ Bích phát minh khi nhìn giải lụa phơi bay theo chiều gió.
Biết đâm trượt, Thạch Đạt Lang trườn mình xuống thấp. Gió kiếm vụt qua đầu, Hắn thấy lạnh hai tai. Nhưng sau chiêu kiếm đầu tiên ấy, hai đối thủ đều gườm nhau thật sự.
Bây giờ Điền Chính và Thạch Đạt Lang cùng đối đầu nhau trên mặt tuyết. Yếu tố bất ngờ không còn nữa, chỉ còn ý chí, sự bình tĩnh bà khôn ngoan đểâ phân thắng bại.
Cả hai cách nhau chừng năm bước, cùng yên lặng, cùng bất động. Mũi gươm của Điền Chính đưa thẳng ra phía trước mặt, ngang tầm mắt. Gươm Thạch Đạt Lang cũng ở thế ấy, nhưng nhìn kỹ, tay hắn hơi co lại, không cứng như tay Điền Chính, dễ xoay trở hơn, đâm thẳng, đưa ngược lên, chém hay đỡ cũng đều dễ dàng cả.
Còn Điền Chính. Gã lại phạm vào một điểm lầm lỗi nữa, nhưng lần này về kỹ thuật. Gã tự giận mình sao lại đưa kiếm ngang mắt. Trong Hoa Sơn kiếm phổ, mỗi khi công, kiếm phải cao hơn trán để khi chuyển động, cánh tay không che mất nhãn giới.
Gã toan đổi cách cầm nhưng sợ quá mạo hiểm, địch thủ chỉ chờ lúc ấy để tấn công thì rất nguy hiểm cho gã.
Tuyết lại bắt đầu rơi, càng lúc càng dầy. Những bông tuyết đọng trên trán Điền Chính tan thành nước, rỏ từ lông mày xuống là gã khó chịu nhăn mặt. Gã cố trấn tĩnh.
Thạch Đạt Lang mắt như đổ lửa. Nhãn tuyến hắn đã chuyển sang màu hổ phách.
Không những hắn muốn thắng mà hắn cần phải thắng. Thạch Đạt Lang có cảm tưởng hắn đã trải qua hoàn cảnh này ở đâu rồi. Một bên là sống, một bên là chết. Như người đi dây giữa vực thẳm, hắn thấy lâng lâng và thân thể nhẹ như bông tuyết rơi trên đầu, trên ngực. Vũ trụ dường như là sự nối dài của chính hắn và hắn tan vào vũ trụ. Hắn có cảm tưởng mình là hư không và bỗng thấy minh mẫn lạ lùng.
Nhìn thế kiếm của Điền Chính, Thạch Đạt Lang biết không phá vỡ được, nếu Điền Chính bất động. Thế thủ như vậy là tuyệt hảo, rất chính thống, không hổ danh Hoa Sơn kiếm phái. Thạch Đạt Lang không thể nào chỉ dùng cường lực mà công kích. Cho nên hắn chờ. Chờ sự nóng nảy làm Điền Chính manh động để mà thủ thắng.
Quả nhiên, đầu kiếm Điền Chính đã bắt đầu hơi run. Gã không đủ kiên nhẫn để tự trấn tĩnh.
Một bóng đen vụt ra từ phía cây thông, sau Thạch Đạt Lang. Một tiếng thét ghê rợn. Tuyết bắn tung, ánh thép tỏa ra trong không gian thành vệt sáng dài, xanh bạc. Một cái đầu, không, một mảng đầu rớt xuống như trái sung rụng. Đồng thời tiếng thét thứ hai vừa kịp phát ra đã tắt ngấm. Xác Hạ Nguyên Cát đổ xuống như một thân cây vừa bị đốn.
Xác Điền Chính phục xuống theo, trong khi Thạch Đạt Lang nhảy vọt lên cao. Nhanh và hỗn loạn đến nỗi nếu không tinh mắt, không phân biệt được ai vừa ngã xuống, ai vừa nhảy lên nữa.
Điền Chính úp mặp xuống tuyết, chân tay giật liên hồi. Máu tươi chảy ra loang sẫm một khoảng tuyết bằng cái nong, trong khi những bông tuyết mới rơi, ánh lên trên hai cái xác còn nóng hổi.
Đồ chúng Hoa Sơn từ bốn phía chạy lại.
– Điền Chính !
– Thiếu gia !
– Nguy rồi ! Anh em vực thiếu gia dậy. Mang cáng và bình rượu đến đây, mau lên !
Hoa Sơn Cảnh Môn lật đật chạy tới. Lão ôm xác Điền Chính khóc òa.
– Ta đã bảo mà … Nó không phải tay vừa. Mày phải cẩn thận chớ hấp tấp.
Nhưng trông kỹ vết thương, ai cũng biết chẳng làm gì được nữa. Hai thi thể còn nóng, nhưng một người bị chém mất nửa mặt và người kia một mảng sọ. Chỉ trong chớp mắt và chỉ với một đường gươm, tân chưởng môn và một trong những cột trụ của Hoa Sơn phái đã ra người thiên cổ.
– Thạch Đạt Lang đâu ? Một người hỏi.
Bấy giờ mọi người mới như sực tỉnh.
– Thạch Đạt Lang ? Thạch Đạt Lang ?
Nhưng chẳng ai động tĩnh. Yên lặng ghê người. Sự yên lặng len lỏi vào tâm não tất cả đồ chúng Hoa Sơn, già cũng như trẻ, không biết do căm thù hoặc do sợ hãi, hay cả hai, đã làm họ tê dại.
Trong khi ấy, ẩn vào bóng tối hàng cột gỗ lớn của Kim Các Tự, Thạch Đạt Lang tự hỏi:
“Chúng có tấn công không ?”. Và khi không thấy ai theo dõi, lẩn vào trong chùa, mất dạng.
Chương 40: Yến nương
Hải Chính Hành đã say. Mặt lầm lì tái ngắt, ông đăm đăm nhìn tờ giấy hoa tiên không chữ để trước kỷ, lẩm bẩm:
– Thế này thì quá lắm ! Cậy có quyền thế muốn làm gì cũng được sao !
Hải Chính Hành chống tay toan đứng dậy, nhưng lảo đảo ngã ngồi xuống. Cúc Nương, ái thiếp ông, che miệng cười khúc khích. Ông nhìn nàng, chữa thẹn:
– Nàng cười ta say chăng ? Chưa, ta chưa say, nhưng có say cũng chẳng hề gì. Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh. Phải thế không, ái nương ?
Nàng Cúc mỉm cười. Những cảnh này nàng đã chứng kiến nhiều lần. Khách đến đây giải trí, mặc sức say sưa vì ở đa số, cơn say của họ vô hại. Quan niệm chung, rượu cũng là một thứ giải trí tao nhã, miễn người uống vẫn giữ được vẻ phong lưu, đĩnh đạt.
Hải Chính Hành là nhà buôn, nhưng có máu nghệ sĩ, ưa đùa cợt. Ông biết hài hóa những tật xấu của mình thành ra dễ gây hảo cảm. Rồi vì dư dả tiền bạc, mua chuộc kết thân với giới quyền quý, nên được kính nể chẳng khác gì các bậc vương tôn khác.
Nhưng đêm nay ông không hài lòng vì không được Yến Nương chiếu cố, mặc dầu đã cho người ân cần mời mọc. Điều ấy làm Hải Chính Hành cảm thấy như bị cự tuyệt.
Ông buồn rầu bảo người kỹ nữ:
– Sao vắng vẻ thế này ? Họ đi đâu cả ?
Cúc Nương không đáp, kéo tấm chăn mỏng choàng lên vai ông, ân cần khuyên giải:
– Khuya rồi, tiên sinh đi nghỉ, bận tâm làm gì ?
Nhưng ông không nghe, gạt tay nàng ra, gượng đứng dậy lảo đảo một lúc mới vịn được vào vách.
– Tiên sinh định đi đâu ?
– Ta đến phòng Cô lãnh đại gia.
Qua dãy hàng lang đèn sáng lờ mờ, Cúc nương dìu ông đến trước một gian đại sảnh, rồi gõ cửa. Tiếng đàn ca, sênh phách bên trong ồn ào vọng ra tận ngoài. Gõ mấy lần mới thấy cửa mở. Một tráng niên vóc dáng trung bình, đầu cạo trọc dáng tựa thiền sư nhưng trang phục lại theo lối thế tục, bước ra.
Tráng niên nhìn Hải Chính Hành, ông cũng trố mắt nhìn lại. Bỗng nhiên cả hai cùng phá lên cười ha hả:
– Ha ha ! Đại Quán ! Ngươi làm gì ở đây thế này ?
– Mô Phật ! Ngỡ ai hóa ra lão huynh. Thì ra lão huynh đặt thương điếm ở đây đấy hả ?
– Chứ sao ! Chốn này lạc cảnh, nếu dung được đệ tử của nhà Phật thì hẹp gì chẳng có chỗ cho thương điếm của tại hạ !
Nói xong lại cười ngất. Sự ngạc nhiên thích thú làm Bạch Phát lão thi sĩ tỉnh cơn say quên cả mối sầu trước đó.
Hàn huyên một lúc, mãi đến khi Đại Quán hỏi Hải Chính Hành đến đây làm gì, ông mới sực nhớ mục đích của mình. Ghé tai nhà sư, ông hỏi nhỏ:
– Tôn đại gia có trong ấy không ?
– Ngài về rồi. Chỉ còn tướng công Lưu Cát và ngài Từ Miễn.
Lưu Cát và Từ Miễn đều thuộc hoàng tộc. Lưu Cát, tước Tả Xuyên Hầu, giữ chức vụ lớn tại đế kinh, bổng lộc cao hàng mấy vạn gia. lúa đồng niên nhưng vẫn chẳng đủ tiêu dùng. Lưu Cát tướng công tính phóng túng, ưa vui chơi, thích được mỹ nữ chiều chuộng nên ít khi có mặt tại công đường. Hình như chỉ ở những chỗ như thế này, thoát khỏi mọi ràng buộc của chức vụ, ông mới thoải mái. Lưu Cát chẳngiấu gì điều ấy. Có lần ông đã nói:
Chức vụ cao mà làm gì. Bình sinh ta chỉ muốn luôn luôn ngồi bên người đẹp, mùa xuân ngắm hoa, mùa thu thưởng trăng, rồi nếu có phải chết đi thì được lìa trần với bát rượu trên tay, thế là mãn nguyện.
Bởi tiếp Lưu tướng công là danh kỹ Yến Nương, tuy đã gấp hai tuổi trăng tròn mà phong tư dung mạo còn rất tươi đẹp, thiếu nữ đôi tám chưa chắc đã ăn đứt.
Mặt hoa hơi cúi dường e thẹn, môi mọng đỏ như trái anh đào, mái tóc đen mượt chải cầu kỳ làm tôn màu trắng phớt hồng của làn da nhồi phấn trang điểm theo lối đương thời, trông nàng chẳng khác gì pho tượng quý.
Nghe cười ha hả ở phòng ngoài, Lưu tướng công quay hỏi nàng Yến:
– Phải chăng Bạch Phát thi sĩ đấy ?
Yến Nương cắn môi khẽ gật, mi mắt chớp mau. Nếu ông già này đến kéo nàng đi thì quả thật nàng chẳng còn biết xử trí ra sao nữa. Hai bên cùng là khách quý, cùng hào sảng như nhau, nàng chẳng muốn vì bên này mà bên kia phải mất lòng.
Đang bối rối, Đại Quán đã khoác vai Hải Chính Hành nghiêng ngả bước vào. Yến Nương toan đứng dậy thi lễ, Lưu tướng công kéo áo nàng nói nhỏ:
“Bất tất”, rồi với giọng làm ra vẻ thành thật:
– Chà ! Lâu lắm không gặp tôn huynh. Hôm nay sao may mắn thế này, thật là đại hạnh !
Hải lão công kính cẩn đáp lễ rồi không khách sáo, tiến đến trước mặt Lưu Cát và Từ Miễn ngồi ngay xuống:
– Đa tạ tướng công. Lão phu cũng thế, không ngờ được diện kiến tướng công lại còn may mắn gặp ông bạn cố tri này nữa.
Hải Chính Hành vừa nói vừa chỉ tay vào Đại Quán.
Nữ tỳ mang thêm rượu. Chén thù chén tạc, sau những lời chúc tụng thường lệ, trong câu chuyện đôi khi đã có ngụ ý châm chọc, khích bác.
Hải Chính Hành rót rượu cho Đại Quán, nói:
– Trong cuộc đời ô trọc này, thiền sư thế mà là người khôn ngoan nhất. Không bị ràng buộc lợi danh mà vẫn luôn luôn hưởng lạc thú, như thế chẳng phải là điều đáng mong ước lắm sao ?
– Phải lắm. Lưu Cát xen vào. Như phái quý tộc ta mới đáng buồn. Danh cương lợi tỏa, làm gì cũng phải nhìn trước ngó sau, thật chẳng vao giờ được thỏa chí.
Hải Chính Hành cười ra vẻ không tin:
– Tướng công nói quá. Quyền thế như tướng công muốn gì chẳng được. Chẳng hạn nàng Yến đây nếu không sợ Oai tướng công, đâu có thích ngồi chỗ này mãi.
Tiếng cười khỏa lấp ý chế giễu, làm như chỉ là nói đùa. Nhưng Lưu tướng công khó chịu. Ông hơi đỏ mặt:
– Đấy là Yến Nương tự chọn đấy chứ. Dĩ nhiên trong cuộc vui chơi, chẳng ai muốn ngồi bên một ông già lẩm cẩm.
– Vị tất đã đúng. Để xin hỏi nàng Yến.
Nàng Yến chỉ lặng thinh. Vẻ bối rối hiện trên khuôn mặt. Sự ganh tị giữa hai ông khách đã đến lúc gay go, cần được giải tỏa. Đại Quán vội nói:
– Hai vị đều là những bậc phong lưu nhã khách cả. Bần tăng đề nghị cách này, hai vị nghĩ sao ?
Mọi người lặng yên chú ý.
– Ta đặt một trò chơi, hai vị đấu với nhau, người nào thắng, nàng Yến sẽ chuốc rượu.
Tiếng vỗ tay hưởng ứng rào rào. Từ Miễn cũng thêm:
– Vậy xin mời đại sư làm trọng tài khảo sát. Như thế mới công bằng.
– Nhưng chơi trò gì mới được chứ ?
– Vi kỳ.
– Ồ, vi kỳ mệt trí. Tìm trò gì thoải mái hơn, chỗ này vui chơi chẳng nên gò bó quá !
Bàn tán một lúc, mọi người đều đồng ý thi uống rượu. Mặc dầu Bạch Phát thi sĩ đã say khướt nhưng ông vẫn tự cho đủ sức thắng đối phương nên không phản đối.
Hai bình rượu lớn được bưng ra. Đại Quán kiểm soát dung tích và nồng độ, rồi để mặc các đối thủ tự rót uống. Chén đầy chén cạn, chẳng bao lâu, mắt Hải Chính Hành và Lưu Cát đều đỏ hoe, giọng nói lè nhè. Đã đến lúc rượu đối với họ không còn mùi vị gì nữa, chỉ đắng ngắt. Yến Nương mượn cớ vào nhà trong, bỏ đi từ lúc nào.
Thạch Đạt Lang trở lại Lạc Thiên quán sau khi tạt qua cửa hàng bách hóa lấy chiếc áo đã gửi. Căn phòng cũ vắng hoe, trên kỷ trơ khay rượu với hai cái chén nhỏ. Hắn ngồi xuống rót rượu uống một mình.
Bỗng cửa xịch mở. Một nữ tỳ bước vào. Trông ra thì là tiểu tỳ hầu hạ Yến Nương, đã cho hắn ăn cơm khi nãy.
– Khách quan đã về đấy ư ?
– Ừ, ta vừa về.
– Khách quan đi lối nào vậy ?
– Cửa sau.
– Cửa sau đóng khóa mà. Sao vào được ?
Thạch Đạt Lang không đáp, chỉ mỉm cười hỏi lại:
– Họ đi đâu hết ? Sao phòng vắng tanh thế này ?
– Các vị ấy sang đông sảnh, đang cùng Lưu tướng công chơi trò thi uống rượu.
– Cả Kim Phong tiên sinh nữa ?
– Không. Không thấy Kim Phong tiên sinh đâu.
– Có lẽ tiên sinh về nhà rồi. Nếu thế thì ta cũng về thôi.
– Không phải. Tiểu nữ không tin ngài đã về. Mà quý khách cũng không tự tiện về được. Lệ Ở đây ai về, cô nương cháu cũng đến cáo biệt.
– Lệ gì khắt khe thế ?
– Nếu không, lần sau cô nương cháu không tiếp đâu.
– Chà ! Cô nương ngươi khó quá nhỉ !
Lần đầu tiên đến chốn ăn chơi, tiếp xúc với giai cấp thượng lưu, Thạch Đạt Lang gặp nhiều điều phiền toái. So với nếp sống giang hồ của hắn, muốn đến là đế n, muốn đi là đi, không gì kềm tỏa, hắn thấy chẳng sung sướng bằng. Hắn cau mặt:
– Có lẽ ta phải phá lệ này mất !
Vừa hay Đại Quán ở ngoài bước vào.
– Thạch Đạt Lang ! Nghe tiếng quen, quả là ngươi. Đến đây hồi nào thế ?
Vừa nói vừa vỗ vai hắn, thân mật. Thạch Đạt Lang ngạc nhiên lui khỏi bàn rượu, chống hai tay xuống chiếu, rạp đầu kính cẩn:
– Đại Quán ! Không ngờ con cũng gặp thầy ở đây !
Nhưng Đại Quán đã cúi xuống nâng dậy và nói:
– Đừng ! Chỗ này là nơi giải trí, đến đây cốt để mua sự thảnh thơi, chẳng nên có những nghi lễ phiền phức. Nghe nói Cổ tiên sinh ở phòng này, ta muốn gặp. Tiên sinh đâu sao không thấy ?
– Lúc nãy còn ngồi ở đây, không biết bây giờ đâu.
– Thạch Đạt Lang ! Ta nghe nhiều chuyện về ngươi, muốn nói với ngươi vài điều, nhưng chỗ này không tiện. Thôi để khi khác. Giờ hãy tìm Cổ tiên sinh đã.
Dứt lời, đẩy tấm bình phong, đi ra phía sau. Thì thấy Cổ Huy Đạo bình thản nằm ngủ trong góc.
Đại Quán không tiện đánh thức, toan lui ra, nhưng Cổ Huy Đạo đã cựa mình mở mắt. Nhìn thiền sư, ông ngạc nhiên nhỏm dậy có ý hỏi. Đại Quán giải thích về sự có mặt của mình nhân đến thăm và cùng đi với tướng công Lưu Cát. Ra phòng ngoài, Cổ Huy Đạo nói:
– Nếu có Lưu tướng công thì lão phu cũng sang bên ấy vấn an nhân thể.
Rồi quay về phía Thạch Đạt Lang:
– Cả tráng sĩ nữa ! Về làm gì vội, sáng mai về cũng chưa muộn.
Thế là cả ba bỏ sang đại sảnh phía đông.
Đến nơi, Hải Chính Hành và Lưu Cát không còn ai uống rượu nữa. Cả hai ngồi yên lặng nhìn nhau, đờ đẫn như đắm chìm trong một nỗi buồn vạn cổ. Bọn kỹ nữ cũng đã bỏ đi, chỉ còn Cúc nương ủ rũ trong góc, tay vẫn ôm đàn, thỉnh thoảng nhấn một cung, nghe nghẹn ngào và xót xa như tiếng nức nở.
Cổ tiên sinh nhìn cảnh này không khỏi lẩm bẩm:
– Tịch mịch quá ! Hay ta về quách !
Mọi người phân vân. Nghĩ cho cùng, thế cũng phải. Kéo dài thêm cái không khí “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” này ra làm gì, mất hứng thú. Bèn chẳng ai bảo ai, lục tục đứng dậy sửa mũ áo.
Bỗng có tiếng gõ cửa. Một tỳ nữ bước vào vừa thở dốc vừa nói:
– Xin quý khách lưu lại chút nữa. Cô nương cháu muốn mời quý khách quá bộ lại tư thất.
– A ! Ai thế ? Phải Yến Nương chăng ?
– Dạ phải. Cô nương cháu xin tạ lỗi và xin quý tôn khách thông cảm cho cô cháu chẳng thể chiều lòng riêng một ai. Nếu bồi tiếp Lưu tướng công thì Bạch Phát tiên sinh buồn, mà chiều Bạch Phát tiên sinh thì để Lưu tướng công ngồi một mình sao đành dạ !
Nên cô nương cháu xin thỉnh tất cả quý tôn khách đến tư thất để cô nương cháu được hân hạnh hầu tiếp.
Mọi người, trừ Thạch Đạt Lang ra, nhìn nhau ngạc nhiên, không tin điều ả thị tỳ vừa nói. Vì Yến Nương là danh kỹ đất thần kinh, rất được sủng ái, từ trước đến nay không tiếp ai tại tư gia bao giờ, dù người đó là bậc công khanh có thế lực đến đâu đi nữa. Nay lại mời cả bọn về nhà là có ý gì ?
Nhưng dịp may chẳng muốn bỏ lỡ, ai cũng vui vẻ nhận lời. Lưu Cát và Hải Chính Hành tỉnh hẳn rượu, bảo ả tỳ nữ:
– Nhà cô nương ngươi gần đây không ?
– Dạ cũng không xa, ngay cuối trang viện này. Xin quý khách theo tiểu nữ.
Thạch Đạt Lang không có ý kiến, nhưng nghe lời Cổ Huy Đạo khuyên cũng đi. Bèn gọi người mang giày cỏ để đi tuyết đến, rồi cả năm người theo chân ả nữ tỳ ra ngoài.
Tuy là khách quen. Hải Chính Hành và Cổ Huy Đạo không biết chỗ ở của Yến Nương. Cả hai đoán nàng sẽ đãi trà vì được biết Yến Nương cũng là một đệ tử trung thành của trà đạo. Phải rồi ! Giời lạnh thế này, ngồi uống trà trong phòng ấm với mỹ nhân, còn gì thú hơn nữa.
Quanh co mãi, khỏi đường lớn, đến một khu đất cây cối lưa thưa, tuyết phủ đầy, vẫn chưa thấy nhà cửa gì, Hải Chính Hành sốt ruột hỏi:
– Ngươi dẫn chúng ta đi đâu mà đến chỗ toàn gai góc thế này ?
– Không phải gai đâu, thưa khách quan. Đây là vườn mẫu đơn. Tư thất của cô nương cháu ngay sau vườn này. Đến cuối xuân, mẫu đơn nở, chúng cháu thường hay bắc ghế ra ngoài vườn ngồi ngắm hoa, thích lắm.
– Ờ ! Nhưng giờ khác. Trời thế này mà cứ ở ngoài lạnh lỡ cảm hàn thì khốn.
– Dạ cũng gần đến rồi.[Audio] Bất Diệt Thần Vương ( Vương Đạo Chí Tôn )
Quả nhiên lát sau đã thấy một căn nhà gỗ hiện ra. Trước nhà có miếng vườn nhỏ.
Cây đèn đá trong góc tỏa vòng ánh sáng tròn chiếu mấy khóm mẫu đơn đã bắt đầu trổ nụ. Bên hiên, cây tùng nghênh khách đứng nghiêm chỉnh, tuyết còn nặng trĩu trên cành chưa rụng.
Cả bọn năm người bước lên thềm, tháo giày cỏ rồi lần lượt theo ả nữ tỳ vào phòng.
Phòng bài trí thật đơn sơ, không ai ngờ đây là tư thất của một danh kỹ đương thời.
Trong góc, lò sưởi cháy bập bùng. Xà nhà màu nâu gụ, có lẽ dựng đã lâu nên nhiều chỗ nứt nẻ và khói ám đen nhưng được giữ rất sạch sẽ. Không có bàn ghế gì, chỉ có sáu cái bồ đoàn và một cái kỷ thấp dùng làm chỗ ngồi chơi. Trên vách, đối diện với chiếc kỷ, treo bức thư họa, vẽ đôi chim nhạn đang bay, nét chữ trên bài thơ cực kỳ xương kính.
Phía dưới đặt lọ hoa nhỏ men xanh, cắm độc nhất một bông trà. Bên cạnh, dựa vào vách là cây đàn tỳ đã cũ.
Chủ nhân bước ra, mặc kimono vàng nhạt, thắt lưng lụa đen. Nàng trang điểm rất giản dị, mái tóc cầu kỳ không còn nữa, làn suối mun được buông lơi, thả tự nhiên cho chảy xuống lưng và chỉ buộc hờ bằng một sợi dây lụa đỏ. Phấn hồng phớt nhẹ trên má và mắt nàng để tự nhiên, long lanh như nước hồ thu, nét đan thanh không bút nào tả xiết.
– Ồ ! Yến Nương ! Sao duyên dáng và yêu kiều đến thế !
– Đẹp lắm ! Mà cũng tân kỳ nữa. Nàng định mời chúng ta gì đây ?
Trong khung cảnh này, quả thật chẳng cần phấn son và trang phục rườm rà, Yến Nương đã gây xúc động. Cổ Huy Đạo là người khó tính cũng phải khen:
– Khéo lắm ! Chủ nhân thật có khiếu thẩm mỹ.
Yến Nương khiêm tốn cảm tạ. Phân ngôi chủ khách xong, nàng gọi con hầu sửa soạn đồ trà, rồi nói:
– Tiện nữ mời tôn khách đến đây cốt để tạ lỗi. Tệ xá nghèo nàn chẳng có gì trân quý kính dâng, chỉ có lửa ấm và trà ngon. Thiển nghĩ tôn khách chẳng nỡ từ chối vì lửa ấm cũng như lòng thành trong một đêm lạnh như đêm nay thì người nghèo cũng như người giàu ai ai cũng mong ước cả.
Mọi người gật gù, tán thưởng. Hơi ấm trong lò tỏa ra phả vào mặt, Cổ Huy Đạo nghĩ đến lần đạp tuyết vừa qua, càng cảm thấy ấm áp hơn, như người đang đói được dự một bữa tiệc thịnh soạn. Chắc đó cũng là chủ ý của Yến Nương. Càng nghĩ ông càng thấy nàng quả là một thiếu phụ đặc sắc và tế nhị.
Thạch Đạt Lang ngồi trên chiếc bồ đoàn trong góc. Bản tính hắn vốn e thẹn trước mặt đàn bà con gái, vả lúc sơ kiến hắn chẳng muốn có những hành động sỗ sàng.
– Đại hiệp nữa ! Xin mời đại hiệp lại gần đây sưởi ấm.
Hắn chỉ ậm ừ. Lần đầu tiên tiếp xúc với một người mà cả đất thần kinh coi như đệ nhất danh kỹ, trong một không khí phong lưu, thanh lịch cùng với các bậc tiền bối hắn ngưỡng mộ, Thạch Đạt Lang dè dặt trịnh trọng. Hắn mang mặc cảm tự coi mình quê mùa, không lấy làm thích thú như lúc được ngồi trong một quán nhỏ ven đường, bên chiếc bàn gỗ tạp, ăn uống tự do.
Mời mọc mấy lần, Yến Nương phải đến kéo hắn tới bên lò sưởi, hắn mới làm theo, miễn cưỡng giơ tay ra trước ngọn lửa. Nhìn tay áo Thạch Đạt Lang, Yến Nương thấy một vết loang đỏ. Nhân khi mọi người mãi chuyện vãn, nàng rút khăn ra lau vết loang ấy.
– Đa tạ cô nương.
Nếu Thạch Đạt Lang im lặng đừng cảm ơn thì chẳng ai để ý. Nhưng nghe hắn nói, mọi người quay nhìn. Mắt mở lớn ngạc nhiên, Lưu tướng công hỏi:
– Máu phải không ?
Yến Nương mỉm cười:
– Không. Chỉ là cánh mẫu đơn nở sớm.