[Audio] Thạch Kiếm
Tập 3: Đường công danh – Trảm Nhạn kiếm (c21-c30)
❮ sautiếp ❯Chương 21: Đường công danh
Trời hửng sáng, căn nhà hoang giữa rừng lau càng thêm tiêu điều, hiu quạnh.
Sương mù đọng trên mái chưa tan, gió sớm qua kẽ ván lùa hơi lạnh bên ngoài vào gian phòng trống trải. Mây xám giăng ngang bầu trời nặng trĩu và ảm đạm.
Thu đến rồi, đến thực rồi ! Nỗi u buồn bao trùm cả cảnh vật và len lỏi vào lòng người cô khách.
Đạo sĩ khất cái, lưng đeo sáo, tay xách bồ đoàn, chống gậy khập khiễng trở về, tấm vải gai khoác trên lưng ướt đẫm sương đêm. Đến cửa, lão dường như quá mệt, đặt bồ đoàn bên vách dựa lưng ngồi nghỉ, dáng thiểu não chẳng khác gì một linh hồn phiền muộn. Cơn gió lạnh thổi qua, đạo sĩ hắt hơi luôn mấy cái, mũi rãi ròng ròng chảy xuống bộ râu lốm đốm bạc lão cũng chẳng thèm lau, cứ ngồi thở dốc. Một lúc sau mới chống tay đứng dậy mở cửa bước vào nhà.
Việc đầu tiên lão nghĩ đến là hũ rượu, nhưng bước vào phòng, lão ngạc nhiên không thấy đâu. Trong cảnh tranh tối tranh sáng của gian phòng đổ nát chỉ có đống củi đã tàn, và bên cạnh, một người co quắp nằm ngủ. Đạo sĩ giật mình, định thần nhìn. Hũ rượu mẻ miệng và nồi cơm vất lăn lóc gần đó. Cúi xuống nhặt, lão ghé hũ sát vào tai lắc mấy cái:
không nghe tiếng gì, bình rỗng tuếch ! Chắc tên lang bạt này đã uống rượu của lão. Hừ ! Đáng giận thật ! Cơm có thể bỏ qua, nhưng có chút rượu để uống cho ấm bụng cũng tu hết thì thật tàn nhẫn. Không dằn được cơn tức, lão co cẳng đá anh chàng nằm ngủ một phát như trời giáng.
Mãn Hà Chí choàng dậy, nhìn lão đạo sĩ.
– Ngươi là ai, sao vào đây uống rượu của ta ?
Mãn Hà Chí tỉnh hẳn ngủ, hắn nhăn mặt:
– Thế ra rượu của lão đấy hử ?
– Không của ta thì còn của ai ? Ai cho phép ngươi uống rượu ấy ?
– Trót mất rồi, đạo sĩ tha lỗi.
– Này trót !
Và bồi thêm một cước nữa.
– Cha ! Lão này dữ quá ! Ta xin lỗi rồi mà !
– Xin lỗi không, không đủ !
– Vậy lão muốn gì ?
– Trả lại rượu cho ta !
Mãn Hà Chí cười hềnh hệch. Hắn vỗ vào bụng:
– Rất tiếc, ta không mổ bụng ra lấy rượu trả lại được.
Nhưng lão đạo sĩ không nghe, vươn cổ sát tận mặt hắn:
– Đồ ăn cướp ! Ngươi không biết ta phải vất vả đi từng nhà mới xin được một chút cơm và một chút rượu ! Ta già nhưng cũng phải sống chứ ! Ngươi đói, ta cho cơm, nhưng rượu, phải trả lại cho ta !
Trong cơn tức giận, giọng lão lạc đi, môi run run, nước bọt bắn cả vào mặt Mãn Hà Chí. Hắn phải quay đi, lê mình sang bên vách tránh.
– Này lão già, đừng có làm quá ! Đáng gì vài giọt rượu chua với chút cơm nguội, ta trót ăn rồi, đã xin lỗi ! Làm gì mà nhặng lên thế ?
– A, ngươi bảo ai nhặng ?
Đạo sĩ nắm tay áo Mãn Hà Chí. Hắn giật ra định đạp ông già xuống sàn thì lão đã nhanh nhẹn né tránh và thuận tay dùng một thế nhu đạo tung hắn qua cửa sổ. Mãn Hà Chí chưa kịp kinh ngạc về ngón đòn sử dụng một cách tinh thục này thì đã rơi ra ngoài hiên. Sàn hiên mục đổ đánh rầm, bụi bay mù mịt, kéo theo hàng lan can gỗ và tấm liếp phủ lên đầu Mãn Hà Chí. Hắn lúng túng như ếch nằm trong rọ, tay chân vướng vít không sao thoát ra được.
Đạo sĩ chạy lại nắm áo hắn lên giật liên hồi, sẵn gậy để bên, cầm bổ xuống đầu hắn như mưa bấc. Áo Mãn Hà Chí bị giật, tiền vàng trong bọc đổ ra rổn rảng. Lão già trố mắt:
– Chà chả ! Tiền đâu lắm thế này ?
Vớ được cơ hội tốt, Mãn Hà Chí vùng dậy. Hắn bị đánh đau, thở hổn hển, hằn học nhìn lão đạo sĩ:
– Lão khùng kia ! Thấy chưa ? Ta thừa tiền trả cho lão, nhưng lão đánh ta thì phải để ta đánh lại. Đánh bao nhiêu cái, ta phải đánh lại bằng ấy cho đủ số.
Đạo sĩ không đáp, mắt đăm đăm nhìn những đồng tiền vàng không chớp. Cơn giận dường đã nguội, lão đứng thừ người, tiền không nhặt mà cũng chẳng để ý gì đến gã thanh niên lão vừa đánh. Một lúc sau mới lẩm bẩm:
– Mê muội ! Ngần này tuổi đầu vẫn còn mê muội ! Hỉ nộ ái dục theo năm lỗ sáo bay đi, ta vẫn không nhớ ! Thật đáng xấu hổ ! Rượu ta không uống, người khác uống, hà cớ gì phải phân biệt của người, của ta ? Này anh kia, vào trong này sưởi ấm, ta không trách anh nữa !
Mãn Hà Chí ngạc nhiên vô hạn. Lão này tính nết thay đổi khó lường, cơn giận thoắt đến thoắt đi, chắc đã trải qua nhiều chuyện đau khổ. Hắn bất giác động lòng thương xót, nhặt mấy đồng tiền đặt vào tay lão. Đạo sĩ giật mình tỉnh mộng, rụt tay lại:
– Không, ta không lấy. Ta không cần tiền làm gì.
– Tiền bối dường như trong mình không được khỏe. Cần vãn bối giúp điều gì chăng?
– Không !
– Nghe giọng nói, hình như tiền bối quê quán ở miền tây …
– Ờ, ngươi nhắc ta mới nhớ. Ta sinh quán ở Himeji.
– Vãn bối ở Mimasaka.
– Mimasaka hả, làng nào vậy ?
– Miyamoto.
Đạo sĩ yên lặng, nét mặt thoáng buồn. Lát sau chậm rãi như nói với chính mình:
– Miyamoto ! Nơi đó có nhiều kỷ niệm. Đồn Hinagura, ta đã đóng quân … Chùa Tiểu Sơn …
Mãn Hà Chí ngạc nhiên:
– Xin lỗi, thế ra tiền bối trước đây là một kiếm sĩ ?
– Phải, ta là Hoa Kính Áo Đại …
Nhưng vội xua tay:
– Không, không phải ! Ta lẫn rồi, ngươi đừng để ý !
Rồi cúi xuống nhặt ống sáo và bồ đoàn:
– Ta đi đây, có lẽ mai mới về. Củi dưới bếp, nếu trời lạnh, lấy mà sưởi.
Nói xong, lom khom bước ra cổng, dáng đi phiền muộn khuất dần sau những rặng lau thưa.
Mãn Hà Chí ngồi một mình trong gian nhà trống trải. Gió lạnh đầu thu khiến hắn co ro, hai tay thủ bọc vẫn không đủ ấm. Hắn thèm chén trà nóng và một chút đường để lấy sức, nhưng trong cảnh này kiếm đâu ra. Nghĩ lan man, Mãn Hà Chí không biết vừa rồi hắn định lấy tiền của ngươi thanh niên tặng cho lão đạo sĩ có phải là một việc làm chính đáng không, nhưng hắn tặc lưỡi tự nhủ:
“Thì dù sao muốn trao tiền tận tay cho thân nhân gã cũng phải chi phí chút đỉnh chứ ! Mình không có tiền, hiển nhiên phải mượn của gã”õ. Hắn tự cho là phải và bằng lòng với lập luận ấy, tin rằng vong hồn người chết chắc không phản đối gì, miễn đừng tiêu nhiều quá. Có điều Mãn Hà Chí băn khoăn chẳng hiểu thân nhân Cát Xuyên Mộc là những ai và phải đi tìm bao lâu mới thấy !
Trong thời gian tìm kiếm, lỡ tiêu hết số tiền thì tính sao ? Mãn Hà Chí định dò hỏi Y Tô, người môn đệ kiếm phái Cổ Môn hắn nghe danh và cũng là nguồn hy vọng độc nhất giúp hắn phanh ra manh mối.
Mãn Hà Chí đứng dậy thu dọn quần áo, kiểm lại số vàng và bọc giấy dầu rồi vòng quanh căn nhà xem xét một lượt. Dưới trời thu ảm đạm, cảnh điêu tàn càng thêm rõ rệt.
Vết chân chồn cáo ngang dọc khắp nơi, cỏ dại cành gai mượn đường giậu đổ, leo lên tận mái. Nhìn cảnh hoang phế của căn nhà, Mãn Hà Chí liên tưởng đến sự trụy lạc của lòng người và cái chết của Cát Xuyên Mộc. Hắn thở dài ngao ngán. Đường đao kiếm chắc không phải là con đường dành cho hắn.
Mãn Hà Chí theo đường bộ đi từ Fushimi đến Osaka, không lữ quán nào là không tạt qua dò hỏi tin tức về Y Tô, nhưng không nơi nào biết.
Bữa kia, gặp kẻ đồng hành, hắn lân la làm quen, hỏi thăm Cổ Môn kiếm phái và Cát Đằng Cổ Tư Nhiễm Chúc.
– Ờ ờ … tại hạ cũng có nghe. Nhưng nếu Cát Đằng Cổ Tư Nhiễm Chúc còn sống thì bây giờ đã già lắm. Nghe đâu ông ta quy ẩn trong một làng nhỏ vùng sơn cước. Nếu các hạ muốn rõ thêm, cứ đến Osaka hỏi một người tên Sơn Tỉnh Môn làm quản giáo cho vệ binh trong phủ Hòa thì biết.
Lời chỉ dẫn mơ hồ quá nhưng Mãn Hà Chí phải theo vì không có cách nào khác.
Đến Osaka, hắn thuê một phòng nhỏ trong một lữ quán gần nơi thị tứ rồi hỏi thăm Sơn Tỉnh Môn. Chủ quán gật gù:
– Có nghe. Ở đây ai không biết Sơn Tỉnh Môn, cháu Cát Đằng Cổ Tư Nhiễm Chúc.
Ngài dạy kiếm cho vệ binh trong phủ, nhưng đã bỏ đi từ đầu năm ngoái, hình như lui về cố xứ, đâu như Echizen. Ờ phải, Echizen ! Khách quan cứ đến Echizen hỏi, nhưng bản quán không bảo đảm ngài còn ở đó đâu nhé !
Mãn Hà Chí lại hỏi thăm về Y Tô.
– Y Tô hả ? Cũng cùng môn phái với Sơn Tỉnh Môn đấy. Nghe danh thôi, không rõ ông ta ở đâu.
Lại đi hỏi thăm nhiều nơi khác. Có người nhớ mang máng đã gặp Y Tô ở một căn nhà nhỏ ngoại ô thành Kyoto, lâu lắm rồi, không biết bây giờ ra sao !
Mãn Hà Chí thất vọng quá, muốn tung hê tất cả. Giữa đô thị rộng lớn, náo nhiệt như Osaka này, ai dại gì phí thời giờ điều tra gốc gác một thanh niên đã chết. Cuộc sống rộn rịp ngoài kia như liều thuốc kích thích tinh thần hắn. Ở khắp nẻo đường, ca lâu tửu quán, bảng cáo yết dán chi chít những lời kêu gọi, tuyển mộ vệ binh cho phủ họ Hòa.
Bất cứ tay giang hồ kiếm khách nào đầu quân cũng được trọng đãi. Người ta tung ra nhiều tin tức lạ lùng, như tin những lãnh chúa thất trận trước đây đều quy tụ cả dưới cờ Hòa Giả Nghị, rồi tay anh chị khét tiếng, đầu sỏ hàng mấy trăm du đãng vùng bến tàu bây giờ đã cạo trọc đầu, cải danh hiệu là Đại Mộng, chỉ chờ dịp nổi dậy cùng đàn em phò giúp Hòa Giả Nghị dành quyền chính. Họ nói tụi này sống đế vương lắm, nhờ vào tiền trong phủ chu cấp.
Hai tháng trời ròng rã, Mãn Hà Chí rong chơi ở Osaka, ăn ngon mặc đẹp, thân thể đã béo tốt hồng hào, không còn như khi mới đến. Hắn phấn khởi tinh thần, chẳng quan tâm gì đến số tiền của người chết bị thâm lạm. Thấy trọ Ở lữ quán không tiện và đắt, hắn thuê một căn phòng nhỏ vùng ngoại ô, ban ngày ăn tiệm và rong chơi, rình rập cơ hội gặp người thần thế tiến dẫn vào trong phủ giữ một chức vụ gì kha khá.
Mãn Hà Chí nghe nhiều chuyện khiến hắn nuôi hy vọng lớn:
nào tên giang hồ lạo thảo này trước đây phải làm phu đổ rác trong tiệm ăn, được người đề bạt, nay võng lọng nghênh ngang, đi cáng bốn người khiêng, kẻ kia chỉ biết sơ sài vài thế kiếm nay cũng trở thành quản giáo lương bổng hàng năm trên ngàn gia. lúa. Chờ cơ hội mãi không gặp, đôi khi Mãn Hà Chí cũng thất vọng. Bây giờ người khôn của khó, cảnh phong lưu ở bên kia bức tường cao, đá ghép khin khít khó có kẽ nào mà chui lọt. Nhưng hy vọng vốn là lẽ sống của cuộc đời, ngày nọ qua tháng kia, chưa gặp dịp đấy thôi, hắn còn trẻ và khỏe mạnh, đâu đến nỗi. Huống chi số vàng tính ra mới vơi non nửa, nếu khéo tiêu cũng cầm cự được hàng năm nữa.
Trời mùa đông thế mà rét ngọt. Viễn ảnh mùa tuyết sắp đến làm cho mọi sinh hoạt vội vàng hẳn lên. Trên những bãi hoang ven đô, buổi sáng cỏ đã bắt đầu đóng giá. Đến trưa, những cửa hàng và những lều diễn tuồng rong cùng những quán lá tạm thời dựng lên để gá bạc đã phải trải chiếu trước cửa cho đỡ lầy lội. Càng về chiều, tiếng thanh la, tiếng trống, tiếng hò hét, chào mời càng hăng. Chỗ này chiếu bán thuốc, chỗ kia quán ăn. Mùi thịt nướng, mùi xì dầu xông lên ngào ngạt. Khi hoàng hôn chập choạng, hàng đoàn gái giang hồ phất trát như bôi vôi, tay áo kimono rộng thùng thình như những con bướm đêm, tản ra tứ phía.
Tại một quán rượu đầu phố có kê ghế đẩu ra tận hiên ngoài, hai kẻ trông ra vẻ thợ thuyền đang đấu khẩu, trước còn cãi vã, sau dùng tay chân đấm đá. Lúc Mãn Hà Chí đến, bọn người hiếu kỳ vây quanh đã có hàng chục. Hắn cũng tò mò đứng ngoài khoanh tay nhìn. Nhưng hoặc vì nhờ bộ quần áo sang trọng hắn mặc, hoặc nhờ thanh kiếm hắn đeo bên sườn mà hai kẻ kia e ngại, bỏ đi không đánh nhau nữa. Đám đông tản mát. Chủ quán chạy ra niềm nở:
– Đa tạ đại hiệp. Không có đại hiệp chắc chúng còn làm dữ, gãy cả đồ, vỡ cả chén. Xin mời đại hiệp quá bộ vào trong để thiểm quán kính cẩn tạ vài chung rượu.
Chủ quán cúi đầu mấy lượt, ân cần vồn vã lắm. Mãn Hà Chí thấy vui vui, tự cho mình quan trọng. Hắn hắng giọng:
– Thế nào ? Đông khách chứ ông quán ?
– Dạ, cũng khá. Gần cuối năm, ai cũng vội thành ra không mấy người ngồi lâu.
Chủ quán sai người hâm rượu ngon mang ra. Mãn Hà Chí tay bưng bát rượu, tự hỏi không biết mình lại bắt đầu uống rượu từ bao giờ. Hắn đã thề không đụng vào rượu khi rời Vân Nghê quán vào làm phu vác đá tại công trường Mokoyama, nay số mệnh run rủi làm sao vẫn còn rượu ngon uống, áo đẹp mặc. Không hẳn hoàn toàn phì mã với khinh cừu, nhưng cũng không đến nỗi quá tệ. Hắn sung sướng dùng đũa gõ nhịp, nghêu ngao hát. Bát nọ theo bát kia, mặt Mãn Hà Chí đỏ gay. Hắn lè nhè:
– Thì đôi lúc cũng phải có chén giải sầu chứ ! Nếu không, đời người còn gì là sinh thú …
– Hà hà, phải lắm ! Ở đời cứ đắc ý vui chơi, chớ để chén vàng trơ với nguyệt …
Người vừa nói là một thanh niên cao nhỏng, phục sức ra dáng giang hồ hiệp khách, lưng đeo trường kiếm nhưng quần áo bẩn thỉu gớm ghiếc. Y đẩy ghế đến bên bàn Mãn Hà Chí, nhìn hắn từ đầu tới chân, rồi buông sõng:
– Chào huynh đài !
Tiếp theo, tay ngoắc tửu bảo:
– Cho ta một bình, thứ tốt ! Đừng hâm nóng quá !
Mãn Hà Chí nhìn gã thanh niên, thấy y có vẻ như khách quen trong quán, bèn nói:
– Bằng hữu hãy dùng tạm rượu của tại hạ. Chờ hâm nóng xong cũng lâu đấy !
Thanh niên không khách sáo, tự rót rượu ra bát, uống một hơi cạn:
– Hà ! Rượu uống được lắm !
Rồi giơ tay cầm bình rót nữa, liên tiếp năm lần, không đổi sắc diện:
– Tửu lượng bằng hữu khá lắm nhỉ. Mỗi lần uống mấy bát ?
– Không biết nữa. Đệ không tính bát, nhưng chừng mười, mười hai bình gì đó.
– Chà, dữ vậy ? Tại hạ chỉ một bình là đủ.
– Đời bây giờ không say thì tỉnh làm gì ? Mấy anh cầm quyền đó tài ba gì đâu, chẳng qua chỉ nhờ vài thủ đoạn chính trị vặt mà lên, chẳng đáng cho ta phục.
Y lấy tay che miệng, ra vẻ như lỡ lời, nhưng lại ghé sát tai Mãn Hà Chí:
– Nếu Osaka lại chiến tranh với Edo lần nữa thì huynh đứng về phe nào ?
Mãn Hà Chí cũng say. Hắn nhớ trước đây đã chiến đấu dưới cờ Osaka nên đáp ngay không do dự:
– Osaka !
– Hoan hô ! Vậy mừng ông bạn mới !
Thanh niên vừa nói vừa lấy tay vỗ vào lưng Mãn Hà Chí, tay kia cầm bình rượu rót nữa:
– Đệ xin tự giới thiệu:
Điểu Sơn Minh, quận Isai. Chắc huynh đài từng nghe danh Điều Quang Trích Mộ, chưởng ấn quân nhu trong phủ ? Bạn đệ đấy ! Tướng quân Hà Quang Anh cũng là chỗ thân hữu, biết nhau từ thuở hàn vi. Mấy tay kia, Huỳnh Quan Phát, Bộ Mịch Lâm Phong, đoàn trưởng vệ binh trong phủ, biết cả, nhưng đệ ít giao du.
Tính họ không dễ dãi thoải mãi như anh em mình, giao du không sướng !
Uống xong bát rượu, anh chàng cao nhỏng tự xưng là Điểu Sơn Minh kia làm như hối hận đã tiết lộ nhiều điều không nên nói, lấy tay chùi mép:
– Nhưng huynh là ai ? Đệ chưa rõ quý danh tính …
Mãn Hà Chí tuy không tin, nhưng nghe những điều y vừa nói, cũng mừng gặp được tay quyền thế, bèn khoa trương:
– Bằng hữu có nghe danh Cổ Môn kiếm phái bao giờ chưa ?
Điểu Sơn Minh gật gù:
– Có nghe qua !
– Sư phụ tại hạ là Cát Đằng Cổ Tư Nhiễm Chúc, ba mươi năm trước danh trấn giang hồ. Bây giờ tiên sinh ở ẩn nhưng những đường kiếm bí truyền người tạo ra để truyền lại cho tại hạ hết …
– Quả không ngoa ! Đệ thoạt trông đã biết ngay huynh phải là tay kiếm sỹ có hạng! Cử chỉ khoan hòa nhưng ẩn tàng một phong cách hiên ngang. Dám hỏi tôn tính đại danh là gì ?
– Tại hạ là Cát Xuyên Mộc, đồng môn với Y Tô Gia Nghĩa.
– Chà, đây là Cát Xuyên Mộc đấy ư ?
Mãn Hà Chí thót ruột, định rút lại lời nói, thì gã thanh niên kia đã quỳ mọp xuống chân bàn, khấu đầu làm lễ:
– Dám xin các hạ tha lỗi cho kẻ ngông cuồng này đứng trước Thái Sơn mà không biết ! Qúy tính cao danh vang dội võ lâm, ai nghe cũng phải kính nể. Nhưng đây là lần đầu tiên tại hạ được bái yết tôn nhan, làm sao biết được ! Thật là đắc tội, đắc tội !
Mãn Hà Chí ngạc nhiên khoan khoái. Hắn không ngờ cái tên Cát Xuyên Mộc nổi danh đến thế ! Nếu anh chàng Điểu Sơn Minh này là bạn bè hay thân thích gì với Cát Xuyên Mộc thì thật khó xử, đến phải so kiếm, nhưng sự thể đã ra thế này, âu là trời định, bèn lên giọng kẻ cả:
– Bất tất phải đa lễ. Nếu bằng hữu khách sáo như thế thì làm bạn sao được.
– Xin đa tạ ! Mong rằng những lời nói ngông cuồng của tại hạ không làm rác tai các hạ.
– Thôi mà ! Bằng hữu cứ coi ta như bạn thiết, chuyện đó chẳng hề gì.
– Càng để ý càng thấy đại huynh đúng là tay cao thủ. Nhưng vẫn không hiểu sao đại huynh chưa có chức vụ gì quan trọng ?
– Ta dành thì giờ chú tâm vào việc luyện kiếm. Vả lại cũng ít giao du …
– Như vậy, đại huynh không muốn ai biết hoặc không thích giữ địa vị gì chăng ?
– Không hẳn thế … Ta cũng muốn mang tài ba ra giúp đời, nhưng chưa gặp cơ hội.
– Nếu chỉ có thế thì có gì khó ! Cổ Môn kiếm vang chấn thiên hạ, tiểu đệ lại quen biết nhiều, chỉ sợ đại huynh không ưng, chứ nếu muốn, tiểu đệ xin hết lòng giúp.
Mãn Hà Chí không nói gì. Chờ lúc sau, Điểu Sơn Minh lại tiếp:
– Chiều mai đệ có hẹn với Hà Quang Anh tướng quân. Đệ xin tiến cử đại huynh lên Hà tướng quân xem sao. Hà tướng quân là bạn cũ, chắc thế nào cũng thuận.
Mãn Hà Chí mừng thầm trong bụng nhưng bên ngoài ra vẻ lãnh đạm. Hắn gọi tửu bảo trả tiền. Điểu Sơn Minh lo lắng:
– Thế nào, đại huynh tính sao ?
– Chỗ này trống trải chả nên nói những chuyện ấy. Ta đi tìm nơi khác kín đáo hơn.
Điểu Sơn Minh thở phào nhẹ nhõm:
– Vậy xin đưa đại huynh đi.
Hai người tới một khu ăn chơi, đủ loại ca lâu tửu quán. Mãn Hà Chí muốn dẫn Điểu Sơn Minh vào một quán rượu sang trọng nhưng y gạt đi, nói những nơi đó đắt tiền mà không thoải mái. Y đề nghị đến cuối xóm, vào một khu thanh lâu mà thương vụ phát đạt, theo y, chỉ riêng đèn mỗi đêm tiêu thụ cũng đến hàng trăm thùng dầu thắp.
– Rồi đại huynh xem, chỗ này nhiều thứ lạ, đáng tiền lắm. Khách làng chơi vẫn gọi là Lạc Hoa Mộng.
Mãn Hà Chí vẫn ngại phải chi nhiều, nhưng thấy không khí phóng túng quyến rũ, nên tặc lưỡi theo luôn.
Họ vào một căn nhà làm trên bờ hào sát chân thành có rạch ăn thông ra biển. Mỗi khi thủy triều lên, nước tràn tới, đập vào những cột gỗ cắm làm kè phía sau nhà kêu phì phọp. Ở trên lầu nhìn xuống, nếu chú ý, người ta thấy cả những con cáy con còng, gọng đổ như son, chạy ngang dọc trên bùn tìm mồi. Mãn Hà Chí rùng mình ghê sợ, có cảm tưởng như đấy là những con nhện độc. Khu Lạc Hoa Mộng này đông dân thật ! Trời mới xế chiều mà đã thấy vô số các nàng nhộn nhịp trong ngõ. Đôi khi cũng bắt gặp một khuôn mặt trẻ trung, nhưng phần lớn đều xấp xỉ tứ tuần, phấn son không che dấu được nỗi buồn trong khóe mắt hay vẻ tiều tụy của thân hình.
Điểu Sơn Minh giải thích:
– Nhiều người đến đây chỉ cốt tìm hoa. Dĩ nhiên là thú vui xác thịt đầy dẫy ra đấy, nhưng nếu đại huynh muốn hưởng những thú vui tao nhã cũng không phải là không có.
Vào một đêm đông tuyết rơi đầy đất, ngồi với các nàng nghe thủ thỉ tâm tình thì cuộc đời các nàng cũng đáng thương lắm ! Đa số do hoàn cảnh đưa đẩy buộc phải làm nghề này, có người trước là phi tần trong cung lãnh chúa hoặc con em những kiếm khách danh tiếng một thời, vì cha anh thất sủng hoặc chết trận mà thành bơ vơ. Nhiều nàng tài hoa rất mực nhưng số kiếp long đong, thật đáng thương ! Nghĩ cho cùng, như đại huynh thấy đấy, ở đời này chố ô uế, rác rưởi thiếu gì những cánh hoa rụng !
Mãn Hà Chí mặc cho Điểu Sơn Minh gọi rượu và chọn những nàng chiêu đãi. Y xem ra nhiều kinh nghiệm và từng trải nên Mãn Hà Chí tin tưởng lắm.
Qua một đêm hoan lạc, sáng hôm sau cả hai dậy trễ. Mãn Hà Chí nghe mệt mỏi trong mình, có ý muốn về nhà trọ, nhưng Điểu Sơn Minh giữ lại:
– Đại huynh ở lại đến chiều đã.
– Để làm gì ?
– Đệ đã nói chiều nay có hẹn với Hà tướng quân, nhân thể tiến cử đại huynh.
Quên rồi sao ? Bây giờ đến thì sớm quá, vả đại huynh chưa cho biết điều kiện.
– Ta chẳng muốn đòi hỏi nhiều.
– Không nên ! Tay kiếm sĩ danh tiếng như đại huynh không nên nhún nhường quá.
Đòi ít, người ta coi thường đi. Đệ đòi ba ngàn gia. lúa một năm, đại huynh nghĩ sao ?
– Cũng được, tùy bằng hữu.
Buổi chiều trời mùa đông chóng tối. Xóm Lạc Hoa này ở ngay dưới chân thành, bị bóng thành che khuất nên người ta có cảm tưởng đêm đến mau hơn.
Mãn Hà Chí và Điểu Sơn Minh dẫn nhau ra khỏi xóm thì lác đác đã có nhà lên đèn. Qua cầu treo vào thành, đi một thôi đến khu gia cư thanh lịch, Điểu Sơn Minh chỉ một ngôi biệt thự lớn, tường cao vây kín, vườn cây rậm rạp bao quanh, bảo đó là tư thất của Hà tướng quân. Gió chiều trở lạnh, hơi men tan dần, cả hai rét run như cầy sấy.
– Hà Quang Anh trước cũng chẳng có gì, như đệ thôi, nhưng nhờ được người tiến dẫn, bây giờ thành công như thế ! Nào, bây giờ đệ xin vào yết kiến Hà tướng quân để tiến cử đại huynh. Nhưng … – Điểu Sơn Minh ngập ngừng – nhưng … phải có cái gì ra mắt chứ ?
Mãn Hà Chí biết rõ, cầu cạnh chuyện gì cũng cần chút lễ, nên không ngần ngại:
– Tất nhiên ! Tất nhiên !
Bèn rút túi tiền vàng trong bọc ra, đếm một số đưa cho Điểu Sơn Minh.
– Hà tướng quân địa vị cao trọng, đại huynh cũng nên liệu cái lễ thế nào coi cho được …
Mãn Hà Chí ngần ngừ. Điểu Sơn Minh vội trấn an:
– Xin cứ yên tâm. Nếu Hà Quang Anh không nhận, đệ sẽ mang lại trả đại huynh, lo gì. Vả lại đệ quen biết rất lớn, không người này thì người khác, ở đây thiếu gì kẻ giúp đỡ chạy việc, chỉ cần tiền trà nước phải chăng.
Mãn Hà Chí dốc số vàng ra tay, giữ lại một đồng, còn trao cả cho Điểu Sơn Minh:
– Đây, ta chỉ mang theo có thế. Bằng hữu gắng làm cho được !
– Đại huynh cứ yên tâm.
– Thế ta đứng đây đợi hay sao ?
– Đợi cũng được, nhưng không biết bao giờ mới xong. Đêm lạnh, hay đại huynh cứ về nghỉ, mai sẽ gặp.
– Ở đâu ?
Điểu Sơn Minh do dự một lúc.[Audio] Linh Vũ Thiên Hạ (dịch)
– Bãi đất trống vẫn dùng diễn trò và hát rong gần chợ cửa Nam, đại huynh biết chứ?
– Biết !
– Hay cứ chờ tiểu đệ trong quán rượu, chỗ gặp nhau hôm qua ấy.
– Cũng được.
Điểu Sơn Minh bỏ tiền vào bọc, giơ tay từ biệt. Y thong thả bước qua cổng ngôi biệt thự, dáng điệu đầy tự tin. Mãn Hà Chí gật gù, trong lòng không nghi ngờ gì nữa:
“Anh chàng này quả có quen Hà Quang Anh thật !”.
Và đêm hôm ấy, trong phòng trọ, hắn mơ thấy cảnh xa mã dập dìu.
Hôm sau Mãn Hà Chí lò dò đến bãi đất hoang vùng ngoại ô sớm lắm. Cỏ còn ướt sương. Gió sáng gây gây lạnh. Các chủ sạp trong chợ đã bắt đầu chuyển hàng từ những gian lều xiêu vẹo ra ngoài, xếp la liệt trên chiếu.
Mãn Hà Chí la cà quanh bãi đất trống, đảo mắt nhìn quanh, chú ý tìm anh chàng họ Điểu. Quán rượu mở cửa, hắn vào chọn một chỗ khuất trong góc ngồi nhìn ra ngoài, quan sát khách qua lại. Ngồi lâu không ăn uống gì bất tiện, hắn gọi một bình rượu nhỏ nhâm nhi, đợi mãi đến chiều vẫn không thấy Điểu Sơn Minh đến. Mãn Hà Chí hơi thất vọng, tự an ủi:
“Chắc bận chuyện gì, có lẽ mai hắn mới đến”. Hôm sau, Mãn Hà Chí lại tới quán, lòng thấp thỏm. Chờ đến khi mặt trời ngả bóng, uống hết hai bình rượu cũng không thấy Điểu Sơn Minh đâu, hắn chột dạ. Sự nghi ngờ bắt đầu nhen nhúm. Lúc phố chợ lên đèn và các quán trong bãi rục rịch che liếp, Mãn Hà Chí rầu rầu bước ra thất thểu về phòng trọ. Ngồi một mình trong phòng vắng đâm lo nghĩ vẩn vơ, đôi lúc hắn tự bắt mình lầm bầm nguyền rủa thằng lừa gạt và bực bội vì đã quá tin người, nhưng vẫn cố bám lấy tia hy vọng vẫn còn le lói:
“Hay nó ốm ? Chắc thế ! Thằng ấy xem ra cũng không đến nỗi nào !”.
Ngày thứ ba, Mãn Hà Chí lại mò đến quán rượu, loanh quanh bên ngoài một lúc rồi mới bước vào. Thấy chủ quán, hắn làm bộ vui tươi che nỗi ngượng nghịu:
– Rượu quán này ngon lắm ! Ta mê rồi đó !
– Khách quan đợi người quen ?
– Phải, một người tên Điểu Sơn Minh, mới quen ở quán này đấy.
– Có phải anh chàng cao và gầy như cây tre miễu không ?
– Chính thị.
Chủ quán hỏi thêm chi tiết, Mãn Hà Chí không giấu diếm.
– Thế hắn nói đi chạy việc cho khách quan rồi ăn cắp hết tiền ?
– Không, hắn không ăn cắp. Ta đưa cho hắn nhờ vận động giúp với tướng quân Hà Quang Anh, tìm một chân kha khá trong phủ đấy chứ ! Hắn bảo ta đợi ở đây chờ kế t quả.
Chủ quán nhìn Mãn Hà Chí, thương hại:
– Khách quan đợi hắn đến trăm năm cũng chẳng gặp !
Mãn Hà Chí nhướng lông mày:
– Sao lão biết ?
– Thì ở đây ai còn lạ gì ! Hắn lừa không biết bao nhiêu người rồi. Khu chợ này thiếu gì những kẻ như Điểu Sơn Minh. Trông dáng điệu và cách ăn nói của nó, tưởng quan khách cũng biết mà đề phòng rồi chứ ! Thật rủi, bây giờ biết đâu mà tìm ?
Mãn Hà Chí vừa buồn vừa thẹn. Chủ quán ái ngại:
– Thôi, khách quan cũng chẳng nên buồn. Của đi thay người, ai mà luôn luôn giữ miếng được ! Bạn bè còn không tin thì biết tin ai ?
Nhưng Mãn Hà Chí không phải chỉ buồn mà thôi. Hắn lo ngại thực sự. Cả số tiền coi như mất hết, kéo theo bao nhiêu hy vọng đặt vào đấy:
nào phì mã với khinh cừu, kẻ hầu người hạ, nghênh ngang trở về làng cũ. Bây giờ biết nói làm sao với mẹ, với Oa Tử ?
Nhìn những người qua lại chẳng khác gì những con rối trước mặt, hắn ngẩn ngơ như mất hồn.
– Còn cách này – Tiếng chủ quán kéo hắn về thực tại – nhưng không chắc gì kết quả. Khách quan thử tìm ở chỗ hay làm trò rong xem. Gần đấy có một sòng bài, tụi nó hay tụ họp, tên lưu manh ấy có tiền, thế nào cũng la cà vào đó sát phạt.
Mãn Hà Chí mừng rỡ đứng bật dậy:
– Phải lắm ! Cảm ơn lão quán. Khu trò rong ở về phía nào nhỉ ?
Mãn Hà Chí đi vòng ra phía sau chợ, đến một chỗ có hàng rào nứa vây quanh; Trên các cột trồng rải rác từng quãng, cờ đuôi nheo màu sặc sỡ treo tứ tung bay lật phật trước gió. Một cái cổng dựng sơ sài cạnh cây phướn cao, buộc tấm vải đỏ dài chừng ba sải tay viết la liệt những hàng chữ đen khoe sự lành nghề của nhà ảo thuật trứ danh nhất Osaka, những cọp những gấu mới bẫy được và bao nhiêu trò lạ khác. Bên cổng đặt cái trống lớn, một người cởi trần trùng trục chít khăn đầu rìu, đóng khố, tay cầm dùi đánh liên hồi lên mặt trống. Tùng … tùng … tùng … Đứng cạnh là một gã trạc tam tuần, da mặt sần sùi như vỏ cam sành, miệng lưỡi dẻo quẹo luôn mồm mời chào, níu người này kéo người nọ, thỉnh thoảng lại đưa tay thu tiền những kẻ hiếu kỳ vào xem và đẩy họ qua cổng.
Mãn Hà Chí đi qua đám làm trò rong, bọc về phía sau, thấy một khoảng đất vuông bằng cái sân nhỏ, quây chiếu tứ bề. Nhìn qua khe chiếu, vô số người ngồi đứng, chỉ trỏ cãi cọ Ồn ào. Tiếng chửi thề tục tĩu vang ra tận bên ngoài.
Đang phân vân, bỗng có kẻ đến đằng sau vỗ vai:
– Muốn chơi hả ?
Mãn Hà Chí giật mình quay lại. Tên kia cười hì hì, cầu tài:
– Đánh bạc không ?
Mãn Hà Chí gật đầu. Hắn trỏ một cái cửa hẹp, cũng có chiếu che, nếu không để ý thì không biết.
– Vào đi !
Bên tường, xung quanh tấm vải bố lớn, con bạc ngồi xổm thành vòng tròn lố nhố.
Thấy khách lạ, nhà cái ngừng tay quay ra. Mọi người ngoái cổ lại nhìn. Một người yên lặng đứng lên nhường chỗ. Mãn Hà Chí do dự rồi đánh bạo hỏi:
– Điểu Sơn Minh có đấy không ?
– Điểu Sơn Minh ? Cữ này không thấy hắn lại. Chuyện gì đấy ?
– Liệu hắn có đến không ?
– Mẹ ! Thằng này hỏi lẩn thẩn, bố ai mà biết được. Có chơi thì ngồi xuống.
Nghe giọng nói xách mé, Mãn Hà Chí ngại, ấp úng:
– Xin lỗi, xin lỗi … Ta … ta muốn tìm Điểu Sơn Minh … Xin lỗi !
– Không chơi hả ? Mẹ ! Mất thì giờ. Đi chỗ khác mà tìm !
Mãn Hà Chí giật lùi về phía cửa. Nhưng một tay anh chị đã chống tay đứng dậy tiến đến trước mặt:
– Ê, không được ! Đâu có dễ dàng thế ! Không chơi cũng phải trả tiền chỗ.
– Ta không có tiền.
– Không có tiền ? Vậy mày đến đây làm gì ? Định ăn cắp hả ? Không trả chúng ông đánh bỏ mẹ !
Mãn Hà Chí nóng mặt:
– Tụi này láo ! Ai ăn cắp ?
Và làm bộ để tay vào đốc kiếm. Tên anh chị cười hô hố:
– Thôi đi ! Nếu chúng ông sợ thì đâu còn sống đến ngày nay ở cái đất Osaka này !
– Này, ta không giỡn. Các chú có biết ta là ai không ?
Tiếng cười càng to, đầy chế giễu:
– Ai biết mày là thằng chó đẻ nào ! Là ai thì cũng phải trả tiền chỗ.
– Ta là Cát Xuyên Mộc, đệ tử chân truyền của đại kiếm sĩ Cổ Tư, chưởng môn kiếm phái Cổ Môn …
Mãn Hà Chí nói một hơi, tưởng xưng danh Cát Xuyên Mộc thì bọn kia phải ngạc nhiên bỏ ngay thái độ hỗn láo. Ngờ đâu, tên anh chị chẳng nói chẳng rằng, nhổ bãi nước bọt đánh bẹt một cái xuống đất, quay gọi đám đông:
– Ê, tụi bay coi thằng khùng này nó lắp bắp gì đây này ! Để xem …
Mãn Hà Chí rút kiếm đánh soạt, dùng đầu mũi kiếm chích vào mông tên anh chị, khiến hắn nhảy lên la hoảng:
– Á à … thằng này …
Mọi người nhốn nháo. Có kẻ vơ tiền trên chiếu bạc. Tiếng kêu la, tiếng chửi tục ồn ào như chợ vỡ. Thừa lúc lộn xộn, Mãn Hà Chí lẻn qua khe chiếu che, chuồn ra ngoài nấp sau một cái thùng rỗng. Bọn du côn chia nhau đổ đi tìm, may sao không để ý đến chỗ hắn nấp. Hắn nín thở ngồi thu lu ở đó, một lúc yên tĩnh trở lại mới hoàn hồn. Hắn để ý nghe ngóng, đưa mắt nhìn quanh, bỗng thấy một khe hở gần hàng rào nứa, cỡ con chó to chui lọt, đồ chừng mình cũng có thể chui được, bèn len lén bò vào. Bên trong tối thui. Thì ra đó là cái gầm sàn gỗ của bọn làm trò dạo. Hắn nép mình sát đất, cứ thế bò, một lát sau mới ra khỏi sàn gỗ.
Nơi này gần đống rác, vắng vẻ không có ai. Mãn Hà Chí đứng dậy phủi sạch quần áo, sửa lại đầu tóc rồi giả bộ như khách nhàn du, ung dung vừa đi vừa nhìn ngắm. Có điều hắn trông người đàn ông nào có dáng cao gầy gầy cũng từa tựa Điểu Sơn Minh cả !
Đứng trước một cái dàn tre căng tấm da hổ lớn Mãn Hà Chí dừng lại sau một đám đông.
Tấm da hổ dường đã cũ, nhiều chỗ trụi cả lông nhưng vẫn còn nguyên cả đầu và chân, nhe nanh giơ vuốt. Trong lều tranh tối tranh sáng, hình chúa sơn lâm tuy chỉ là tấm da nhưng cũng cho hắn một cảm giác ghê ghê rờn rợn. Bỗng có tiếng nói rất quen của hai ông bà già cách chỗ hắn đứng vài người làm hắn chú ý dỏng tai nghe.
– Con cọp này chết rồi phải không cậu ?
Tiếng ông già trả lời, ra vẻ hiểu biết:
– Dĩ nhiên chết rồi ! Đây chỉ là da nói. Mắt nó sáng thế kia nhưng là mắt thủy tinh, không phải thật !
– Thế sao ở bên ngoài hộ quảng cáo là cọp mới bẫy được ? Làm cứ như là còn sống!
– Ối dào ! Quảng cáo ấy mà ! Họ cũng thêm thắt đôi chút chứ !
– Đâu được ! – Bà già nói có vẻ tức giận – Thế là nó lừa mình. Ra đòi lại tiền.
– Thôi, bà đừng vẽ chuyện, người ta cười cho.
– Ai cười ? Mình làm gì mà họ cười ? Mình có phải là trẻ nít đâu mà để chúng lừa như vậy ! Cậu không đòi, ta đòi.
Bà già vùng vằng đi ra. Ông lão cũng quay lại. Vừa lúc tấm vải dùng làm cửa lều mở cho khách mới vào, ánh sáng bên ngoài chiếu rõ mặt hai ông bà lão. Mãn Hà Chí nhận ngay ra mẹ mình và cậu Ngô, vội quay đi để tránh nhưng không kịp nữa, cậu Ngô đã trông thấy hắn.
– Ai như thằng Mãn Hà Chí ! Phải Mãn Hà Chí đấy không ?
Bà Hồ Điểu ngạc nhiên tột độ, quay nhìn em:
– Cái gì ? Cậu nói cái gì thế ?
– Thằng Chí, Mãn Hà Chí, bà không thấy ư ?
– Đâu ? Đâu ? Cậu chỉ trông gà hóa cuốc !
Mãn Hà Chí nghe cậu và mẹ nói về mình, không biết nghĩ sao, cúi đầu thật thấp, lủi vào đám đông trốn mất.
– Tôi thấy nó rõ ràng mà ! Nó vừa đứng đây, nhưng sao bây giờ không thấy nữa !
Kìa, nó chạy kia kìa !
– Thật không ? Thật nó không ? Bớ Mãn Hà Chí !
Cậu Ngô vừa lôi chị vừa chạy ra cửa. Mấy năm sau này, bà Hồ Điểu lang thang đây đó tìm con, ăn ngủ thất thường lại gặp sương gió nên yếu đi, không còn được như trước.
– Khoan, khoan ! Cậu làm ta ngã chết bây giờ !
Mọi người nhìn hai ông bà già ngạc nhiên. Họ không biết ất giáp gì nhưng cũng chạy đến giúp, đỡ bà già ra cửa.
Mãn Hà Chí vừa chạy vừa quay lại nhìn, thấy mẹ và cậu đuổi theo, miệng gọi tay vẫy rối rít:
– Mãn Hà Chí ! Mãn Hà Chí ! Ta đây mà, sao lại chạy ?
Mãn Hà Chí phân vân. Hắn dừng lại một lát rồi nghĩ thế nào lại cắm cổ nhảy ra khỏi hàng rào nứa. Cậu Ngô nhất định đuổi theo, miệng không ngớt gọi tên hắn. Bà Hồ Điểu run rẩy chạy theo sau. Bỗng bà lấy hết sức, gân cổ gào lớn:
– Bớ làng nước ! Thằng ăn cắp ! Nó ăn cắp của tôi ! Bắt lấy nó !
Thế là người ta rầm rầm đuổi theo. Vài thanh niên khỏe mạnh rút bậy cây sào hoặc quơ vội cái cán chổi, chạy theo đám đông, ồn ào như bắt giặc. Mãn Hà Chí bị bao vây tứ phía. Họ nắm cổ hắn, dìm đầu xuống, tống cho vài quả thụi.
– Bắt được nó rồi ! Nó ăn cắp của bà lão cái gì ?
– Nó giật túi tiền. Bà già mất hết cả tiền.
Mỗi người nói một câu chờ bà lão đang lệt bệt chạy tới. Sẵn gậy, họ phang ngay cho tên ăn cắp một trận. Mãn Hà Chí kêu la, trần tình. Mặc ! Không ai nghe, không ai tin hắn !
Khi bà Hồ Điểu đến nơi, bà mệt nhoài thở không ra hơi, hổn hển ôm lấy Mãn Hà Chí:
– Con ! Con ! Mẹ đây mà ! Sao con lại chạy thế con ?
Ai nấy trố mắt kinh ngạc:
– Thằng này là con bà đấy à ?
Bà Hồ Điểu quay lại đám đông, dang hai tay ra như để che cho Mãn Hà Chí đứng sau lưng, trả lời đứt quãng:
– Dĩ nhiên … dĩ nhiên là con lão. Không con lão thì ai vào đấy !
– Thế sao bà lại hô hoán là thằng ăn cắp ?
– Lão không kêu thế thì sao bắt được nó ! Lão kêu bắt nó chứ có kêu đánh nó đâu ?
Các người thật vô duyên, vô tích sự !
Mọi người cười ồ. Cậu Ngô phải đứng ra cảm ơn, giải thích, đám đông mới giải tán, nhưng ai cũng cho bà lão nhiều mưu trí. Hú vía, chậm chút nữa thì Mãn Hà Chí không gãy tay cũng thành tật rồi !
Bà Hồ Điểu nắm cổ áo con trai, kéo vào ngôi đền gần đó. Hắn líu ríu đi theo, quần áo xốc xếch. Cậu Ngô thương hại bảo:
– Bà đừng làm thế ! Nó lớn rồi, đâu còn là con nít nữa.
Bà Hồ Điểu trừng mắt:
– Cậu biết gì ! Con ta ta phải dạy. Cậu lo việc của cậu ấy. Mãn Hà Chí, mày vào đây !
Cả ba vào sân đền. Đền vắng, ít người lễ bái, bỏ hoang lâu ngày, khe đá lót sân đã có rêu xanh và cỏ mọc. Bà ấn đầu Mãn Hà Chí bắt nằm dài ra sân rồi bẻ một cành cây mềm làm roi.
– Mãn Hà Chí ! Mày có còn là con ta nữa không ? Sao gặp mẹ và cậu lại chạy ?
Mày đâu phải ở lỗ nẻ chui ra ?
Nói xong bà quất roi vào lưng hắn. Mãn Hà Chí không thấy đau. Bà già yếu rồi, đánh như phủi bụi, nhưng nước mắt hắn tuôn ràn rụa. Hắn đã làm cho mẹ đau lòng nên không cầm được hối hận.
– Ta tưởng mày chết mất xác ở đâu rồi, không ngờ còn gặp tại Osaka này. Thật xấu hổ ! Đồ vô tích sự ! Mấy năm nay sao không về cúng giỗ ông bà, mà cũng không thư từ thăm hỏi gì người đã sinh ra mày ? Mày có biết cả nhà ai cũng lo lắng vì mày không ?
Sau mỗi câu, bà lại quất cho Mãn Hà Chí một roi. Hắn khóc như đứa trẻ:
– Xin mẹ tha tội. Con biết lỗi và hối hận lắm. Thật con không có ý muốn trốn mẹ và cậu nhưng bất ngờ quá, con sợ và xấu hổ không dám gặp mặt.
Bà Hồ Điểu mủi lòng, quay đi chùi dấu nước mắt. Tuy già nhưng lòng cương nghị vẫn không giảm, bà không muốn đứa nghịch tử biết sự mềm yếu của lòng mình.
– Hừ ! Mày nói có lỗi và xấu hổ không dám về nhà. Vậy chắc trong những năm qua, mày làm nhiều điều xằng bậy lắm ?
Cậu Ngô không nhịn được, xen vào:
– Thôi bà ! Bắt nó khai thì lại đau lòng thêm, ích gì cơ chứ ?
– Cái cậu này ! Đã bảo mặc xác ta, việc gì đến cậu ? Đàn ông mà nhu nhược thế thì dạy ai được ? Thân phụ nó qua đời, ta là mẹ phải biết giáo dục nó chứ ! Mãn Hà Chí, cho ngồi dậy, nhìn vào mặt ta đây !
– Dạ.
Mãn Hà Chí quần áo xốc xếch, mặt nhem nhếch những bụi đất và nước mắt, lồm cồm bò dậy nhưng hắn vẫn không dám nhìn thẳng mặt mẹ. Lòng sợ mẹ từ tấm bé khiến hắn coi bà là một thần linh, ra oai tác phúc thế nào cũng được. Sự thiếu sót bổn phận làm con trong gia đình và dòng họ khiến hắn cảm thấy tội nặng thêm và mặc cảm ấy làm hắn sợ hãi.
– Mãn Hà Chí ! Hãy kể ta nghe trong những năm xa nhà, mày ở đâu ? Làm những gì điếm nhục đến cha ông ? Nói cho thật, ta cấm mày không được bỏ sót.
– Dạ dạ …
Mãn Hà Chí kéo vạt áo lau nước mắt, sụt sịt kể chuyện đã qua, từ khi thua trận Sekigahara vào nương náu nhà Ôkô, rồi vì giết tên Chu Kế Phong, phải bỏ đi lưu lạc ở Ibuki, ăn nhờ ở đậu trong quán rượu của Ôkô, sau bị bạc đãi, uất hận ra đi như thế nào, nhất nhất kể lại hết. Tuy nhiên vẫn giấu không cho mẹ biết thời kỳ hắn làm phu vác đá cực khổ ở công trường, may vớ được món tiền rồi bị lừa ra sao. Kể xong hắn khóc sướt mướt, cảm thấy nhẹ nhõm sau khi thú tội.
Cậu Ngô nghe chuyện, thỉnh thoảng lắc đầu:
– Hừ … hừ … thật không ngờ …
Bà Hồ Điểu thương con tuy không lộ ra nét mặt:
– Mày làm những điều thật xấu xa, nhưng đã biết hối, thôi cũng được ! Thế bây giờ làm ăn gì ? Trông quần áo cũng không đến nỗi … Chắc có việc làm rồi chứ ?
– Dạ có.
Hắn đáp ngay không suy nghĩ, nhưng lại vô chữa:
– Ấy không ! Con muốn nói là không có việc đều đặn.
– Vậy lấy gì sống ?
– Con dạy võ, đánh kiếm.
Bà khách tỏ vẻ mừng rỡ, mặt tươi hẳn lên. Quay sang cậu Ngô, bà nói:
– Này cậu, cháu cậu có phải con giòng không ? Nó dạy đánh kiếm đấy !
Cậu Ngô vui vẻ gật đầu:
– Phải chứ ! Con nhà tông mà ! Dòng Hồ Điểu nhà ta, đời nào cũng có người khí phách. Lầm lỡ chút đỉnh, bỏ qua được.
Cả hai ông bà cười vui vẻ làm Mãn Hà Chí cảm thấy kiêu hãnh.
– Này con !
Giọng bà dịu hẳn lại.
– Dạ.
– Con học kiếm của ai ?
– Của Cổ Tư Nhiễm Chúc.
– Chà ! Đó là tay đại kiếm sĩ, sao nhập môn đó được ?
Nét mặt bà Hồ Điểu càng thêm rạng rỡ. Mãn Hà Chí muốn làm vui lòng mẹ, rút trong bọc ra tờ chứng thư, lấy ngón tay cái bịt tên Cát Xuyên Mộc đi rồi khoe:
– Mẹ coi đây này !
Bà Hồ Điểu chăm chú đọc hàng chữ, giơ tay định cầm lấy để xem cho rõ thì Mãn Hà Chí đã vội giấu ra sau lưng:
– Đấy, mẹ coi, mẹ cần gì phải lo lắng cho con.
Bà cười vui vẻ:
– Ừ, ta biết. Cậu Ngô xem, ta nói có đúng không ? Ngay từ khi còn nhỏ, ta đã bảo nó khôn lắm, có phần hơn cả thằng Thạch Kinh Tử và những đứa khác. Bây giờ kiếm sĩ rồi đó, có bằng cấp chứng minh hẳn hoi chứ đâu phải dở.
Bà sung sướng quá, nói văng cả nước bọt. Mãn Hà Chí cũng vui lây cái sung sướng của mẹ, quên dùng ngón tay để che tên, giơ tờ chứng thư đến trước mặt cậu. Cậu Ngô đọc giấy chứng nhận tên Cát Xuyên Mộc, lấy làm lạ, hỏi:
– Mà sao không đề tên mày lại đề Cát Xuyên Mộc. Cát Xuyên Mộc là ai ?
– À … à … đấy là biệt danh cháu !
Hắn ấp úng đáp.
Bà Hồ Điểu nhìn con:
– Cái tên Hồ Điểu Mãn Hà Chí không đủ danh giá sao mà phải lấy tên khác ?
– Dạ … dạ … Danh giá lắm chứ, nhưng … nhưng … – hắn nghĩ nhanh tìm cớ – nhưng vì con đã phạm nhiều tội quá, nêu danh ấy ra sợ mang tiếng.
– Ừ ừ … thôi được, thế cũng được ! Chúng ta tin mày. Từ khi mày đi đến giờ, mày biết chuyện gì xảy ra ở làng không ?
Hắn lắc đầu. Bà đem chuyện gia tộc nhà Hồ Điểu bị sỉ nhục ra sao, Oa Tử không về làm dâu bà, bỏ đi theo Thạch Kinh Tử làm bà và cậu Ngô suốt mấy năm nay phải đi tìm chúng rửa hận. Bà kể lại hết, lúc đầu còn ôn tồn sau không giữ được xúc động, giọng bà the thé, mắt đẫm ướt.
Ngồi nghe mẹ nói, đầu hơi cúi, Mãn Hà Chí thấy lòng xốn xang vô hạn. Điều hắn quan tâm nhất không phải là danh dự gia tộc hay kiếm phái tông môn mà chính là mối tình của Oa Tử đối với hắn. Như mẹ nói thì Oa Tử đối với hắn thật không còn tình nghĩa gì nữa, và Thạch Kinh Tử chỉ là thằng phản bạn. Sự ghen tị đã có từ lâu trong lòng hắn bây giờ lại được dịp bùng lên. Hắn nghiến răng nhìn mẹ:
– Có thể thế được sao ?
Bà Hồ Điểu cho rằng con mình vì thấy danh dự tông môn bị xúc phạm nên tức giận, lấy làm bằng lòng lắm. Bài học đã có kết quả, bà đăm đăm nhìn Mãn Hà Chí:
– Bây giờ mày đã rõ hết chuyện, và cũng hiểu tại sao chúng ta ở tuổi này đáng lẽ được quyền nghỉ dưỡng già lại phải bôn ba như thế này. Làm con phải hết sức rửa mối nhục của gia đình, tổ tiên. Chừng nào chúng ta không giết được hai đứa đó, chúng ta không trở về làng vì không còn mặt mũi nào đứng trước bàn thờ của dòng họ Hồ Điểu.
Mãn Hà Chí cúi đầu, thấm thía những lời nói đầy phẫn khích ấy.
– Còn con nữa. Không trả xong mối thù này con cũng không nên về Miyamoto làm gì.
– Con không về ! Con không muốn về làng nữa !
– Không phải chuyện ấy. Ý ta muốn nói con phải giết cho được hai đứa đó trước khi về cáo gia tiên. Nghe rõ chưa ?
Mãn Hà Chí lí nhí:
– Dạ dạ con xin làm.
– Xem chừng mày không lấy gì làm hăng hái lắm ! Sao ? Mày sợ không đủ sức hay sao ?
Cậu Ngô tiếp lời:
– Cháu đừng lo, cậu sẽ giúp một tay.
– Cả mẹ mày nữa. Ta già rồi nhưng còn đủ sức. Ta nguyền sẽ lấy đầu chúng nó mang về làng để mọi người cùng biết họ Hồ Điểu không dễ gì chịu nhục. Mày có thề rửa mối nhục ấy không, Mãn Hà Chí ?
– Dạ có.
– Vậy tốt ! Cậu Ngô, đứng ì ra đấy à ? Lại đây khen cháu cậu đi ! Nó thề sẽ giết chết thằng Thạch Kinh Tử và con Oa Tử để rửa hận đấy !
Cậu Ngô không biết nói gì, cứ nhắc đi nhắc lại như cái máy:
– Tốt ! Tốt ! Vậy tốt …
Xem chừng đã thỏa mãn, bà Hồ Điểu chống tay đứng dậy, nhưng bà nhăn mặt đau đớn:
– Ối, ối, đau quá !
– Gì vậy chị ?
– Ngồi lâu, đất lạnh và ẩm, phong thấp nó lại hành tôi đây !
Mãn Hà Chí nhìn mẹ. Trong một lúc, tình thương và lòng hiếu thảo dào dạt, hắn đến bên mẹ:
– Mẹ để con cõng.
– Con cõng ta ư ? Con tôi ngoan quá !
Hai tay bà ôm cổ con trai, nước mắt sung sướng tràn ra trên đôi má nhăn nheo, chảy xuống gáy Mãn Hà Chí:
– Đã lâu lắm, mấy năm rồi cậu Ngô nhỉ ! Cậu Ngô, con tôi nó cõng tôi đây này !
Mãn Hà Chí cũng sung sướng. Một cảm giác lạ lùng hắn chưa từng có bao giờ chạy khắp cơ thể. Hắn nhún nhảy bà lão trên lưng, nói:
– Mẹ nhẹ quá nhỉ ! Nhẹ quá ! Không như tảng đá ở công trường.
Chương 22: Trảm Nhạn kiếm
Con thuyền rẽ sóng lướt phăng phăng, những đợt sóng bạc đầu tung bọt trắng xóa. Xa xa, đảo Awaiji mờ dần trong màn sương trắng đục. Gió thổi mạnh, cánh buồm lớn kêu phần phật át cả tiếng sóng vỗ.
Vào một ngày trọng đông, vùng trung nam nước Nhật, chiếc thuyền đò chở đầy giấy bổi và chàm từ đảo Shikoku thẳng đường về bến Osaka. Trên thuyền, ngoài số hàng đăng ký, chắc còn hàng lậu, vì mùi thuốc lá tươi hăng ngai ngái phảng phất khắp chỗ.
Thuốc lá bấy giờ là món quốc cấm, nhưng được nhiều người chuộng và bán lời lắm.
Một số khách thương đi theo hàng, nhân dịp cuối năm trở về tỉnh cười nói râm ran:
– Đại huynh khá không ? Dạo này làm ăn ra sao ?
– Cũng không tệ. Nghe nói ở vùng Sakai hốt bạc. Muốn thử thời vận, nhưng để còn nghe ngóng …
– Chỗ đó cần nhiều tay thợ, đâu phải cánh mình. Nếu huynh biết nghề rèn binh khí hay làm áo giáp thì phất đấy !
Một người khác góp chuyện:
– Phải rồi ! Đệ có người bà con chuyên nghề rèn giáo và làm mộc, trước làm ăn khá lắm …
– Thế hả ?
– Nhưng bây giờ cũng trung bình thôi. Tụi nó học đếm rồi !
– Thế là thế nào ?
– Mình chỉ bán hàng cho tụi kiếm sĩ, nhưng tụi nó càng ngày càng khó tính và chi li. Trước kia, sau mỗi trận đánh, cứ đi mua lại những đồ sứt càng gẫy gọng của bọn lượm xác lột đồ về sửa chữa sơ sài, thế là đem bán có tiền. Xong một chuyến, đợi đến trận sau, những món ấy lại quay về mình. Bây giờ tụi nó đòi thế này thế nọ, còn đếm đủ số mới mua và trả giá cẩn thận lắm.
– Ấy cứ như mấy tay liều mạng lại hay ! Phải đi xa kiếm những món hàng lạ. Mạo hiểm một tí, nhưng có ăn.
– Tụi kiếm sĩ thế mà đáng thương ! Nhiều gã chẳng biết bữa cơm ngon là gì !
Nói xong hắn nhổ bãi nước bọt, lấy tay quệt ngang.
– Bọn quyền quý sống phè phỡn thật đấy, nhưng chóng chầy gì rồi cũng phải đánh nhau, tranh đất, tranh ruộng, chết để quạ rỉa thây, sướng gì phải không quý huynh ?
– Ừ, suy cho cùng, thời nay chỉ như chúng ta là phải. Phi thương bất phú. Có tiền, ta làm gì cũng được !
Có tiếng cười hề hề.
– Vậy mà cũng có lúc phải cúi đầu lạy chúng nó.
– Có sao ? Lạy đôi ba cái ăn nhằm gì ! Cứ ních vàng đầy túi là an ủi rồi ! Vả lại chúng dễ mua, phóng tiền ra việc gì chả xong.
Vài người mỉm cười gật gù. Bọn thương nhân này xem chừng buôn bán phát đạt, quần áo mặc toàn hàng lụa đắt tiền, tấm thảm họ ngồi cũng làm bằng lông cừu ngoại hóa.
Sau khi họ Hòa thua trận, tài sản của một số đầu mục bị thất tán, phần lớn chuyển qua tay giới doanh thương hơn là vào tay phe kiếm sĩ thắng trận. Lợi dụng nước đục thả câu, giới này phất dần. Bấy giờ, đến ngay những kẻ buôn bán cò con nhưng khéo léo, cũng giàu có chẳng kém gì, có khi còn hơn cả những tay kiếm sĩ bổng lộc hàng năm vài ngàn gia. lúa. Mà bấy giờ, vài ngàn gia. lúa mỗi năm đã là phong lưu lắm !
Chuyện gẫu mãi đã chán, rảnh rỗi chẳng biết làm gì, một người đề nghị:
– Buồn quá ! Hay đánh bài chăng ?
– Ừ, đánh thì đánh !
Thế là màn che được trương lên, rượu sa-kê mang đến, cỗ bàn bày ra. Họ ngồi quây quần trên thảm, chơi bài Umsummo, một kiểu chơi bài của Bồ Đào Nha mới du nhập. Từng cọc tiền vàng xếp đầy chiếc bàn thấp, giá gom lại cũng đủ cứu cho dân năm sáu làng khỏi chết đói, nhưng họ coi như rác.
Trong đám hành khách trên thuyền có một số thuộc thành phần mà bọn khách thương liệt vào hạng không biết thưởng thức khoái lạc ở đời:
một nhà sư, vài tay kiếm khách giang hồ quần áo tả tơi, một nho sĩ mắt lúc nào cũng dán vào quyển sách nát cầm trên tay cùng dăm tráng sĩ nhìn cách ăn mặc biết ngay là những kiếm sĩ chuyên nghiệp.
Họ ngồi rải rác trên thuyền, cạnh những cuộn thừng lớn hoặc dựa lưng vào các bồ giấy có phủ vải sơn, dáng trầm mặc.
Gần chiếu bạc, một thanh niên còn rất trẻ, lơ đãng bắt rận cho một chú khỉ nhỏ bế trên tay. Chú khỉ thật đẹp, lông vàng óng, luôn luôn cựa quậy kêu chíu chít. Thanh niên thỉnh thoảng vỗ nhẹ lên đầu cho nó ngồi yên hoặc mắng khẽ:
– Yên nào ! Để ta bắt rận cho !
Con khỉ dường như chưa thuần, không nghe lời chủ, nhảy tới nhảy lui, thoắt trên vai thoắt trên đầu, lăng quăng múa may, nhe răng ra như trêu chọc.
– Tráng sĩ mua chú khỉ này ở đâu thế ?
– Tại hạ không mua, tại hạ bắt nó trong rừng Awa lúc nó còn nhỏ.
– Thế ư ? Trông ngộ quá nhỉ !
– Tại hạ suýt mất mạng vì nó đấy ! Khi bắt nó, cả đàn xúm vào tấn công, nếu không nhanh tay nhanh mắt trốn vào hốc đá thì ngã xuống vực chết rồi còn gì !
Mọi người chú ý đến chàng thanh niên không phải chỉ vì con khỉ mà còn vì dáng dấp và cách phục sức của chàng ta khác thường lắm. Thanh niên mặc kimono màu xanh tươi, thêu chỉ kim tuyến vàng lóng lánh, bên ngoài khác một chiếc áo choàng đỏ như hoa lựu. Mặc dầu bấy giờ có phong trào ăn mặc sặc sỡ, nhưng cách phục sức như thế thật lòe loẹt quá đáng. Hơn nữa, đầu chàng cũng không cạo phía trước như phần đông các thanh niên đã trưởng thành mà buộc tóc thành cái chỏm tựa đuôi gà bằng một dải lụa cũng màu đỏ. Cách ăn mặc không khác gì trẻ thơ, tuy thế nhìn nét mặt thì trang nghiêm, cương nghị rõ ràng là của một thanh niên trạc ,. Làn da tươi sáng, mắt đen mà sắc, môi đỏ tựa thoa son, thân thể vạm vỡ tràn đầy sinh lực có một cái gì toát ra làm mọi người kiêng nể nhưng vẫn không giấu được vẻ ngây thơ của một thiếu niên mới bước vào đời.
Cũng không ai đoán được chàng ta thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Quần áo tuy sặc sỡ nhưng không phải là hàng đắt tiền, gã cũng mang dép cỏ như mọi người. Phong thái có uy nghi đĩnh đạt nhưng đối với hành khách trên thuyền, kể cả với những chân sào rách rưới, gã tỏ ra khiêm cung không có gì hách dịch. Người ta chỉ có thể tạm liệt gã thanh niên vào loại kiếm sĩ giang hồ nhưng thuộc hạng cao, có tư cách nhờ thanh kiếm dài quá khổ gã đeo sau lưng. Thanh kiếm đã cũ, đốc và chuôi lên nước bóng loáng như đồng đen. Kiếm tuy dài nhưng phần chuôi và phần lưỡi cân đối, trông không kỳ dị. Bao kiếm chạm trổ tinh vi. Người sành kiếm thoạt trông phải nhận ngay là một báu vật.
Hồ Định đứng gần chàng thanh niên không khỏi tấm tắc khen thầm. Thanh kiếm đẹp dường ấy dễ gì mua được ở Osaka này; ngay cả ở Kyoto, nơi sản xuất kiếm nổi danh cũng khó ! Hắn tò mò muốn biết chủ nhân nó là ai, thuộc hạng người nào.
Sau nhiều ngày du thuyết khắp vùng Osaka và Kyoto, Hồ Định thấy mệt mỏi. Tình hình tài chánh võ đường Hoa Sơn mỗi ngày một sa sút mà Hoa Sơn Sĩ Khánh chẳng lưu tâm gì đến. Trình sổ sách lên, Sĩ Khánh chỉ nói cho có lệ:
“Thế à ? Ta không ngờ tồi tệ quá !”. Vậy thôi, rồi bỏ đi chơi. Phòng trà tiệm rượu, không nơi nào là không có mặt. Số môn sinh đóng niên liễm không tăng mà nợ cứ chồng chất, viên chấp quản đề nghị cắt mười mẫu đất bán để trả nợ. Cứ như thế này, nếu không có biện pháp gì sửa đổi, tất phá sản mất.
Sau nhiều lần thảo luận, hàng huynh trưởng đồng lòng áp dụng một kế hoạch vừa kiếm được thêm tiền vừa mở rộng môn phái. Họ dự định phát quang khu vườn rộng lớn phía sau trại, xây thêm một võ sảnh nữa và cổ động rầm rộ để tuyển võ sinh mới. Nhưng muốn thi hành kế hoạch, phải có tiền. Hồ Định được cử mang thư của chưởng môn Sĩ Khánh đến các môn đệ cũ đã thành danh yêu cầu giúp đỡ.
Không biết số trời bắt Hoa Sơn chịu cảnh mạt kiếp hay sao mà kết quả không ra gì!
Đi đến đâu cũng vậy, Hồ Định toàn gặp những phản ứng tiêu cực. Mặc dầu đã trổ hết tài hùng biện, hắn chỉ nhận được những lời hứa suông:
“Để đệ xét xem” hoặc “tại hạ sẽ phúc đáp sau”, v.v … làm hắn chán nản. Thành ra số tiền quyên được không đáng là bao, chỉ đủ chi phí cho cuộc hành trình mà thôi.
Hồ Định là kẻ có lòng, nhưng trong cái không khí ăn chơi phóng đãng của phái Hoa Sơn thời bấy giờ, kể từ chưởng môn Sĩ Khánh trở xuống, một mình hắn không thể làm gì được. Hắn nghĩ đến Ôkô, tự hỏi không biết bức thư hắn nhờ chuyển cho nàng tuần trước đây đã đến tay nàng chưa. Nếu đến rồi tất Ôkô phải ra bến chờ hắn. Khuôn mặt Ôkô hiện ra trong trí. Nàng đã đứng tuổi nhưng trang điểm vào vẫn còn xinh đẹp lắm. Nhất là những kinh nghiệm chốn phòng the của nàng, hắn nghĩ mà xốn xang trong bụng.
Hồ Định đến gần gã thanh niên, cười cầu thân:
– Chào thiếu hiệp ! Thiếu hiệp đi Osaka ?
– Dạ phải. Kính chào đại hiệp.
– Chắc thiếu hiệp về thăm nhà ?
– Không. Gia đình tại hạ không ở đó.
– Vậy chắc ở Awa ?
– Không.
Lời đáp chắc nịch, xem chừng thanh niên không muốn bắt chuyện. Hồ Định quay đi nhìn trời. Vài con hải âu bay xa xa:
những chấm trắng trên nền mây xám vần vũ. Hắn thử gợi chuyện lần nữa:
– Thiếu hiệp có thanh kiếm đẹp quá ! Hẳn là báu vật ?
Thấy có người khen kiếm, thanh niên mau miệng hẳn lên:
– Cảm ơn đại hiệp. Kiếm này là vật gia bảo, tiên tổ phụ tại hạ vẫn dùng xung kích khi ra trận. Phải cái nó hơi dài nên tại hạ đến Osaka định tìm thợ khéo nhờ sửa lại đeo bên sườn cho tiện.
– Quả có hơi dài thật.
– Hơn ba thước cơ đấy. Nhưng tại hạ thiển nghĩ, đã gọi là kiếm sĩ thì không thể không biết dùng kiếm này !
– Dĩ nhiên rồi, kiếm dài hơn cũng dùng được. Tuy nhiên muốn sử dụng cho xảo diệu tất phải là tay tinh thục. Ngày nay có những kẻ đeo kiếm dài nghênh ngang, khinh thế ngạo vật, tài chẳng bằng ai, gặp chuyện gì nguy hiểm thường co cẳng chạy trước. Hà hà … Thế thiếu hiệp thuộc môn phái nào ?
Nói đến kiếm thuật, Hồ Định không giấu vẻ tự mãn. Hắn nhìn thanh niên ra dáng miệt thị, tuy không nói ra nhưng ý khinh rẻ lộ rõ trên khóe mắt.
– Tại hạ theo Vạn Mai kiếm.
– Vạn Mai kiếm dùng kiếm ngắn, đâu có dài như thế này !
Hồ Định hách dịch làm ra vẻ hiểu biết.
– Đúng ! Tại hạ theo kiếm chiêu Vạn Mai nhưng không dùng kiếm ngắn như đệ tử phái ấy. Thấy kiếm dài lợi thế hơn, tại hạ tập luyện bằng kiếm dài, bị sư phụ bắt được và trục xuất.
– Chà, thanh niên ưa phản kháng lắm nhỉ ! Rồi sao nữa ?
– Nghe nói vùng Echizen có Nhiễm Chúc là bậc dị nhân phát huy nhiều đường kiếm tinh diệu, bèn đến xin nhập môn. Sau bốn năm khổ luyện, tại hạ được sư phụ cho nhập võ lâm, vừa hành hiệp vừa thu thập kinh nghiệm.
– Hừ ! Cổ Tư Nhiễm Chúc ? Ông ta là người có chút danh vọng, sao cấp chứng chỉ bừa bãi thế ?
Nghe giọng khinh mạn của Hồ Định, thanh niên tức lộn ruột nhưng vẫn giữ bình tĩnh:
– Bình sinh, sư phụ tại hạ chỉ mới cấp chứng chỉ cho đệ nhất môn sinh là Y Tô Gia Nghĩa mà thôi. Tại hạ là người thứ hai được chấp nhận, thực ra chưa có chứng thư vì khi mới được phép thì có tin huyên đình lâm bệnh phải về săn sóc.
– Ở đâu vậy ?
– Ở Iwakumi, tỉnh Suo.
Nói đến đó, thanh niên ngừng lại, mắt lơ đãng nhìn ra xa, tay vuốt nhè nhẹ trên lưng con khỉ. Hồ Định đợi một lát, không thấy kể tiếp, bèn khẽ nhắc:
– Thiếu hiệp đang kể đến lúc về phụng dưỡng từ mẫu …
Thanh niên như chợt tỉnh:
– Ờ … Ờ … phải. Lưu lại quê nhà ít lâu, tại hạ thường giải khuây bằng cách ra bờ sông múa kiếm chơi và chém én bay thấp khi trời sắp dông bão hay tập chẻ đôi những nhành liễu nhỏ rũ ven bờ. Dần dần luyện thêm được nhiều chiêu kiếm đặc biệt riêng của tại hạ, rất tinh xác. Trước khi quy tiên, gia mẫu có lấy ra thanh kiếm này trao cho, dặn phải giữ gìn cẩn thận, vì nó do chính tay nhà luyện kiếm danh tiếng Tư Dưỡng Trai đặc chế.
Thanh niên tháo kiếm, đưa cho Hồ Định xem. Hắn cầm ngắm nghía, quan sát rất kỹ những nét chạm trổ trên bao rồi rút ra khỏi vỏ. Kiếm quang sáng lòa, ánh thép xanh biếc làm hắn tấm tắc:
– Tốt thật ! Tốt thật ! Nhưng sao không thấy khắc tên kẻ luyện kiếm ?
– Không khắc tên nhưng đích thực là kiếm Tư Dưỡng Trai đấy ! Ở vùng tại hạ, không ai còn hồ nghi gì. Nó còn có hỗn danh là “cây sào phơi”.
Chàng thanh niên lúc trước ít lời, bây giờ thao thao bất tuyệt, lan man kể cả những chuyện đáng lẽ không nên nói với người lạ buổi sơ kiến.
– Khi ở quê nhà, được tin sư phụ đau nặng rồi mất, tại hạ buồn rầu khôn tả. Cháu của người, tên Tử Kỳ, được giao phó trách nhiệm chuyển chứng thư và một số tiền cùng kiếm phổ đến tay tại hạ nhưng cho đến nay vẫn không thấy tin tức gì. Anh ta, ngoài kiếm thuật ra, còn nghiên cứu về kiến trúc. Không biết bây giờ lang bạt đâu, tại hạ đang để tâm tìm kiếm.
– Vậy ư ? Sao khi được tin lệnh sư mất, thiếu hiệp không tới chịu tang ?
– Sư phụ tại hạ ẩn cư tại một vùng hẻo lánh và xa xôi lắm. Vả bấy giờ cũng trùng vào dịp gia mẫu quy tiên nên không bỏ đi được. Thật ân hận. Thế còn đại hiệp, chắc ở Osaka ?
– Không, ta ở Kyoto.
Hai người đứng lặng hồi lâu, nhìn sóng biển rập rình đánh vào mạn thuyền, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Hồ Định là người đầu tiên phá tan sự yên lặng đó:
– Vậy ra thiếu hiệp có ý góp mặt với võ lâm, dùng kiếm đạo lập công danh đấy ?
Câu hỏi nghe như vô hại, nhưng trong giọng nói hàm ý khinh bỉ chế giễu. Mặc cảm gì đã làm Hồ Định có thái độ ấy, không ai biết. Phải chăng vì đã hai mươi năm phục vụ Hoa Sơn phái, hắn vẫn chưa lập được thành tích gì đáng chú ý ? Hay vì thấy thanh niên kia còn trẻ mà đã huênh hoang, nào kiếm chiêu nào kiếm phổ, hắn bực mình mỉa vài câu cho bỏ ghét ?
Thanh niên không đáp, chỉ đăm đăm nhìn màu nước biển xanh đen. Đột nhiên ngẩng lên nhìn Hồ Định:
– Đại hiệp ở Kyoto, vậy có biết Hoa Sơn kiếm phái không ? Nghe nói Sĩ Khánh, con trưởng Hoa Sơn Khổ Bích làm chưởng môn. Phái ấy còn hoạt động gì không ?
Hồ Định nhếch mép cười. Hắn muốn đùa thanh niên này chơi.
– Biết chứ ! Hoa Sơn kiếm phái đang thời hồi thịnh. Thiếu hiệp đã đến thăm bao giờ chưa ?
– Chưa, nhưng tại hạ mong có dịp tới Kyoto gặp Sĩ Khánh lãnh hội mấy chiêu kiếm xem sao !
Hồ Định giả vờ ho, đưa tay lên che miệng giấu nụ cười. Hắn thương hại gã thanh niên chẳng có kinh nghiệm giang hồ gì. Nếu biết hắn là ai và địa vị của hắn tại võ đường Hoa Sơn, chắc gã thanh niên sẽ hối hận vì nói câu ấy. Hồ Định vẫn nửa nạc nửa mỡ:
– Thiếu hiệp có chắc sau khi gặp Sĩ Khánh không bị sứt mẻ gì không ?
– Sao không chắc ?
Lần này Hồ Định không nhịn được nữa. Hắn phá lên cười ha hả.
Thanh niên không để ý, tiếp:
– Hoa Sơn là môn phái lớn và hình như Hoa Sơn Khổ Bích đã một thời danh chấn giang hồ. Nhưng hai người con ngày nay không ra gì cả. Phải thế không ?
– Chưa gặp thì làm sao biết được ?
– Ấy, tại hạ thấy kiếm sĩ khắp nơi đồn đại như vậy. Cũng không tin lắm, nhưng đa số cứ bảo là Hoa Sơn hết thời rồi.
Hồ Định muốn nói toạc ra cho thanh niên kia biết mình là ai nhưng nghĩ lại thôi.
Nói ra mất mặt. Hắn cố dằn cơn giận:
– Bây giờ chỗ nào cũng thấy những kẻ ra vẻ ta đây thạo tin nên không thể trách thiên hạ đã đánh giá quá thấp phái Hoa Sơn. Phái này đâu đến nỗi thế ! Nhưng thôi, ta nói chuyện khác thì hơn. Lúc nãy thiếu hiệp bảo vẫn dùng kiếm chém én đang bay để giải khuây, phải thế không ?
– Tại hạ quả có nói vì sự thật như thế.
– Bằng thanh kiếm dài này ư ?
– Đúng vậy !
– Nếu thế chắc thiếu hiệp cũng có thể dùng kiếm này hạ vài con hải âu đang bay để anh em coi chơi chứ ?
Thanh niên không đáp. Chàng vừa nhận ra ý mỉa mai của kẻ cùng thuyền nên đăm đăm nhìn thẳng không chớp vào mắt Hồ Định:
– Được, nhưng chém làm gì, vô ích !
Hồ Định phưỡn ngực, dằn giọng:
– Thiếu hiệp chưa biết phái Hoa Sơn mà đã giở giọng chê bai …
– Ồ, thì ra tại hạ đã làm đại hiệp giận.
– Ta đâu có giận gì. Nhưng là dân Kyoto, không ai muốn nghe những lời nói xấu Hoa Sơn phái.
– Tại hạ chỉ nhắc lại lời thiên hạ đồn đại đấy thôi. Tại hạ không có, hoặc chưa có ý kiến gì về phái này.
Hồ Định lên giọng kẻ cả:
– Này thiếu hiệp !
– …
– Ngươi hiểu câu “bất tri tự lượng” là thế nào không ? Tuổi trẻ hay khoe khoang, ta thông cảm mà tha thứ, nhưng cái gì cũng phải có giới hạn. Vì lợi ích cho ngươi, ta khuyên hậu sinh các ngươi đừng khoác lác thái quá. Ngươi tưởng ai cũng thộn cả hay sao? Cái gì mà chẻ liễu với chém nhạn, làm như không ai biết sử kiếm, chỉ một mình ngươi biết !
– Kìa, sao đại hiệp vội nóng quá thế ? Đại hiệp cho những lời tại hạ là khoác lác cả chăng ?
– Hẳn đi rồi chứ còn gì nữa ! Nghe chuyện ngươi, ta đã nhịn không muốn xưng danh. Bất quá ngươi chỉ là một thiếu niên miệng còn hôi sữa, chẳng chấp làm gì, nhưng thấy ngươi huênh hoang quá sức, mạt sát cả phái Hoa Sơn chúng ta nên phải cảnh cáo.
Ngươi biết ta là ai không ? – Hắn vừa nói vừa chỉ tay vào mũi – Hồ Định, đệ nhất cao thủ kiếm phái Hoa Sơn Kyoto đây ! Còn nói bậy, ta mổ ruột !
Cơn giận dồn ép từ nãy, bây giờ bùng ra ! Hồ Định mặt đỏ như gấc, nói một hơi không nghỉ, sùi cả bọt mép. Khách trên thuyền nghe to tiếng, dừng tay chơi bài, quay đầu nghểnh cổ về phía hai người chỉ trỏ.
Hồ Định bỏ đi, bước những bước dài ra đằng cuối thuyền, khoanh tay ngẩng mặt giương giương tự đắc. Thanh niên nín lặng một lúc rồi nghĩ sao, thong thả bước theo.
– Đại hiệp ?
– Gì ?
– Vừa rồi, trước mặt bá chúng, đại hiệp bảo tại hạ là khoác lác. Vì danh dự, buộc lòng tại hạ phải chấp nhận điều đại hiệp thách làm, mặc dầu thấy vô ích. Tại hạ muốn đại hiệp chứng kiến.
– Ta thách điều gì ?
– Đại hiệp quên rồi ư ? Nghe tại hạ nói vẫn dùng kiếm này chém nhạn chơi, đại hiệp có ý chế giễu và thách tại hạ chém một con hải âu đang bay.
– Ờ phải, vậy ngươi làm được không ?
– Nếu làm được, đại hiệp chịu thua chứ ?
– Ờ … Ờ … đương nhiên !
– Vậy tại hạ sẽ làm.
– Tốt lắm ! Hồ Định cười gằn ác độc. Nhưng nếu thất bại, ta mổ ruột ngươi !
Thanh niên không đáp, gật đầu. Rồi vụt một cái, gã nhảy phắt lên mặt chiếc thùng gỗ gần chỗ Hồ Định đứng, tay để vào đốc kiếm, hét lớn:
– Gọi hải âu xuống, ta hạ cho xem !
Hồ Định thấy mình như bị lừa, đưa cổ vào tròng làm trò cười cho thiên hạ. Hắn nhớ đến mẩu chuyện xưa của Vô Ngại thiền sư nội dung cũng tương tự, nên ấp úng:
– Vô lý ! Ngươi chém hải âu được thì cũng gọi hải âu được chứ ?
– Biển mênh mông hàng ngàn dặm, mà kiếm ta chỉ dài hơn ba thước, nếu hải âu không có, làm sao ta giết ?
Hồ Định bước tới một bước:
– Này cậu nhỏ kia, ta bảo thật:
Đừng hòng giở thói láu cá để tìm cớ thoát thân.
Nếu không giết được thì nói thẳng đi, quỳ xuống xin lỗi, ta tha cho không chấp.
Thanh niên cười ha hả:
– Sao không giết được ? Không có hải âu ta dùng vật khác. Trông đây !
Một tiếng soạt. Ánh kiếm lóe lên. Hồ Định cảm thấy lạnh ở đỉnh đầu vội trầm mình xuống. Lưỡi kiếm như một lằn chớp hình vòng cung phóng ra rồi lẫn ngay vào màu áo đỏ. Trong nháy mắt, thanh niên đã tra kiếm vào vỏ, chiếc áo bào tía chưa hết rung động. Kiếm dài ba thước mà thanh niên sử dụng nhanh không khác gì một lưỡi trủy thủ.
Hồ Định kinh hãi tột đỉnh. Hắn đưa tay lên sờ đầu, không thấy đau đớn. Nhưng quái lạ, một cảm giác kỳ dị khiến hắn đoán có sự khác thường xảy ra.
Đột nhiên Hồ Định để ý đến một vật nhỏ màu đen to bằng ngón tay cái nằm run rẩy bên đống dây chão, gió thổi như sắp hất xuống biển. Một đầu vật đó buộc sợi dây lụa đỏ. Hắn sờ tay lên đầu lần nữa, tóc bung ra:
chỏm tóc hắn đã bị lưỡi kiếm của gã thanh niên kia chém đứt ! Trời ơi ! Chỏm tóc yêu quý của hắn ! Chỏm tóc mà không một kiếm sĩ nào biết tự trọng không gìn giữ cẩn thận như gìn giữ chính sinh mạng mình. Hồ Định thét lên một tiếng đau đớn, tay để vào đốc kiếm.
Thình lình một cơn gió thổi mạnh làm rung chuyển cả thuyền. Tiếng chân người rầm rập, những tiếng kêu “Bắt nó ! Bắt nó !” cùng tiếng sóng vỗ rào rào, tiếng gió hú qua cách bành giấy bổi xếp hàng trên sàn, tiếng kẽo kẹt của dây chão căng như sắp đứt tung dưới sức mạnh của gió biển làm không khí trong thuyền sôi động hẳn lên.
Hồ Định tay để vào đốc kiếm, sắp rút gươm thì một ý tưởng vụt hiện. Sau cuộc hành trình vừa qua, hắn đã thấm mệt, nội lực hẳn nhiên sút kém. Lại gã thanh niên kia, tuy thân thế và tài năng chưa lộ hẳn nhưng đường kiếm trảm nhạn gã vừa thi triển đã chứng tỏ gã quả là tay địch thủ đáng ngại. Bậy hơn nữa, Hồ Định đã dại dột tiết lộ danh tính, cả thuyền đều nghe, chẳng may trong lúc giao tranh, nếu thất thế thì còn gì là thể diện phái Hoa Sơn nữa !
Hồ Định rất thực tế và biết tự lượng. Hắn ý thức rõ so kiếm với gã kia trong lúc này, bất cứ vì lý do gì, cũng là vọng động. Nắm ngay lấy cơ hội cả thuyền nhốn nháo, hắn to miệng mắng gã thanh niên hòng giữ thể diện:
– Giỏi lắm ! Lên bờ ta sẽ cho ngươi một bài học. Bây giờ xem chuyện gì đã !
Nói xong quay vội đi, nhưng không ra mũi thuyền mà bước xuống khoang dưới, kéo vạt áo lên đầu che chỏm tóc mới bị hớt.
Ngoài mũi thuyền, tiếng la hét, tiếng chân người chạy rầm rập vẫn không giảm.
Con thuyền chòng chành vì sóng lớn, bây giờ theo dòng người hỗn độn chạy dọc ngang càng chòng chành hơn. Có tiếng gọi chủ thuyền. Một người béo lùn chạy ra, thấy bọn khách thương đang la hét đuổi theo một con khỉ. Hỏi duyên cớ mới biết con khỉ đã nhân lúc mọi người vô ý, nhảy vào chiếu bạc ôm trọn cỗ bài chạy. Bây giờ nó đang ngồi trên cuộn dây chão kêu khẹc khẹc nhe răng ra hăm dọa bọn người đuổi bắt. Nó chuyền cỗ bài trên tay, bắt chước cử chỉ của những con bạc. Dáng điệu nó vụng về thật tức cười càng chọc giận thêm những người đuổi.
Đột nhiên con vật bỏ cuộn dây, tót lại phía cột buồm, thoăt thoắt trèo lên rồi ngất ngưởng đánh đu trên đó. Cột buồm cao có đến bốn năm trượng, gió thổi lồng lộng. Con khỉ con như không, lại còn ra vẻ thích thú, nhảy qua nhảy lại nhạo báng những kẻ đứng dưới.
– Á à ! Kìa, nó xé bài rồi ! Nó xé bài rồi !
– Chủ nó đâu ? Gọi nó xuống đi chứ !
Mọi người nhìn gã thanh niên, chờ đợi. Nhưng gã lờ đi như không nghe thấy. Chủ thuyền xem chừng cũng biết chủ nhân con khỉ là ai, nhưng không rõ vì ngại dáng dấp cao lớn của gã hay vì thanh trường kiếm gã đeo trên vai mà không nói gì, chỉ hỏi bâng quơ:
– Ai là chủ con khỉ đó ?
Không có tiếng trả lời. Thanh niên vẫn điềm nhiên đứng dựa bục gỗ, lơ đãng nhìn bọt nước.
– Vùng rừng núi Awaji nhiều loại khỉ lông vàng như con này lắm. Nếu không ai nhận là chủ, tất nó là dã hầu lạc đàn, ta sẽ có cách đối phó.
Bèn chạy vào khoang, một lát mang ra cây hỏa mai đã nạp đạn sẵn. Hắn vừa liếc nhìn thanh niên vừa khum tay mồi lửa, miệng phân bua:
– Đã nói rồi đấy nhé ! Các vị Ở đây làm chứng cho, thú vô chủ là dã thú, bắn chết đừng có trách !
Mọi người bớt ồn ào. Có người tỏ thái độ bất bình. Một số hồi hộp như sắp được xem màn kịch đến hồi gay cấn.
Chủ thuyền nâng súng đặt lên vai. Một tiếng “bùm !”, mùi thuốc súng bay tỏa khét lẹt. Nhưng viên đạn không trúng con vật. Gã thanh niên bào tía đã nhảy đến bên chủ thuyền từ lúc nào, đưa tay gạt chếch mũi súng:
– Thuyền chủ làm gì vậy ? Ngươi định bắn con khỉ bằng thứ đồ chơi này đấy hả ?
– Sao không ?
– Con khỉ có tội gì ?
– Nó lẫy cỗ bài của người ta.
– Lấy cỗ bài mà đáng tội chết ư ? Ngươi tàn nhẫn quá !
– Tàn nhẫn hay không, không cần biết. Ta đã cảnh cáo rồi. Tráng sĩ có phải là chủ con vật đó không ?
– Chính thị.
– Vậy phải đền cỗ bài.
Thanh niên cười ha hả:
– Này thuyền chủ ơi, đừng có hàm hồ ! Ta không xúi con khỉ lấy cắp cỗ bài. Nó là con vật, không biết phân biệt phải trái, nhìn người chơi thì cũng bắt chước, sự thiệt hại đáng là bao mà định giết nó ? Huống chi ngươi không phải là chủ cỗ bài, bắt ta đền sao được ? Mấy người kia chơi bài hay con khỉ chơi bài thì cũng thế ! Nào, ai là chủ cỗ bài, muốn ta bồi thường, nói lên !
Không nghe tiếng đáp. Toán khách thương trước đây miệt thị phái kiếm sĩ, bây giờ đứng im thin thít giữa tiếng cười gằn của gã thanh niên ngạo ngược. Chỉ duy viên nho sĩ khẽ nhếch mép mỉm cười rồi lại tiếp tục cúi đầu xuống trang sách bỏ dở, trong khi các chân sào rộn rịp sửa soạn để thuyền cập bến.
Chương 23: Vỏ ốc lú
Khi thuyền bỏ neo, trời đã chạng vạng tối. Mùi cá khô phơi chưa được nắng, tanh tanh mằn mặn phảng phất trong không khí. Dãy phố nhỏ trước bến đã lên đèn, ánh sáng vàng úa chiếu qua những khung cửa sổ vuông dán giấy như trong những bức tranh cổ.
Thuyền buôn đã về. Khu bến chợ rộn rịp hẳn lên. Đèn lồng không biết ở đâu túa ra vô số kể, trẻ con cầm lố nhố đứng trên bến. Trên mỗi lồng đèn đều có viết tên một quán trọ, một món ăn đặc biệt của nhà hàng hoặc có khi chỉ để quảng cáo một sản phẩm địa phương nào đó.
Tiếng chân sào la ơi ới, tiếng mời chào, cười nói, gọi nhau, trẻ con chí chóe tranh nhau từng bước trên tấm ván bắc lên thuyền. Vài người ra đón thân nhân đứng đằng xa giơ dù vẫy; những bóng đen khi ẩn khi hiện trong vùng ánh sáng mờ tỏ của lồng đèn ngang dọc.
– Công tử lệnh lang của ngài tổng trấn có trên đó không ?
– Công tử nào ?
– Trịnh Đức Nhị Lang.
– Không. Đi thuyền sau.
– Mời khách quan đến trọ Ở quán cháu. Có cửa sổ trông ra biển, đẹp lắm !
– Xin ngài đến quán Mỹ Sinh. Phòng rộng rãi, quý khách mang theo con khỉ không tính tiền.
– Không, ông khách này của tao. Mời khách quan theo cháu.
Nghe lời mời chào của hai đứa trẻ, thanh niên mặc bào tía chỉ mỉm cười. Gã nhẹ nhàng gạt tay chúng nắm áo, xốc lại hành trang, bế con khỉ lên vai rồi bước theo tấm ván xuống bến. Không ai đợi gã cả. Nhưng hình như đã có chủ định, gã xăm xăm đi tới, rẽ vào một ngõ tối khuất dạng.
Trên thuyền, đám khách thương vẫn còn hậm hực, vừa coi phu rỡ hàng vừa bực tức:
– Tên đó ngông nghênh quá đỗi ! Chỉ nhờ vài đường kiếm mà coi người chẳng ra gì… Đáng tiếc là cánh mình chẳng ai biết võ, chứ nếu không …
– Thôi, để tâm làm gì ! Kệ cho nó làm cha thiên hạ. Cao nhân tắc hữu cao nhân trị. Danh chẳng qua như cái hoa, nhường cho nó hưởng, mình ăn quả có hơn không ?
Chuyện hôm nay bỏ đi. Kìa, các em đã đến đón kìa !
Bọn kỹ nữ trèo lên thuyền, bước những bước nhanh và ngắn, vịn vào nhau cười khúc khích. Quanh ánh đèn lồng, trông các nàng không khác gì những con bướm đêm bu xung quanh ngọn nến.
Một trong những người rời thuyền sau chót phải kể Hồ Định. Chưa bao giờ hắn gặp một hoàn cảnh đáng buồn và đáng giận như thế ! Thật mất hết cả thể diện. Mặt mày bí xị, hắn lấy tâm khăn vuông choàng lên đầu che chỗ tóc bị cắt đứt, nhưng không sao giấu được vẻ ảo não và cau có trên mặt.
– Hồ lang ! Hồ lang ! Thiếp ở đây mà !
Thấy Hồ Định ở trên thuyền bước xuống, Ôkô vẫy gọi rối rít. Đứng ngoài trời khá lâu, và có lẽ cũng vì gió đầu đông thổi mạnh, Ôkô run rẩy như chiếc lá. Những vết nhăn trên mặt nàng hiện ra mờ mờ dưới ánh đèn và dưới lớp phấn trắng. Hồ Định nở nụ cười gượng gạo:
– Ôkô đấy à ? Tưởng nàng không đến chứ !
– Ô hay ! Sao nỡ nói vậy ? Chàng viết thư bảo thiếp ra đón mà !
– Ờ ờ … nhưng tưởng thư chưa đến kịp.
– Kỳ không ! Hồ lang có vẻ không muốn gặp thiếp. Có chuyện gì không vui mà trông mặt chàng như mặt thằng đánh dậm bị cua cắp vậy ?
Hồ Định đang buồn cũng phải phì cười:
– Thế nào là mặt thằng đánh dậm bị cua cắp ?
Ôkô che miệng rúc rích.
– Không, chẳng có chuyện gì đâu. Chắc tại ta say sóng nên hơi mệt. Ta lên xóm trên, đến quán Thu Nguyệt nghỉ một lát, nếu còn phòng thì trọ luôn. Quán ấy ở cũng được !
– Không, thiếp đã thuê cáng đến đón chàng. Phu cáng đợi ngoài kia.
– Ồ, chu đáo quá ! Thế đã giữ phòng chưa ?
– Rồi. Mọi người đang đợi chàng đấy.
Hồ Định ngạc nhiên:
– Mọi người ? Mọi người là những ai ?
– Thì anh em trong phái Hoa Sơn của chàng chứ ai ?
– Trời ! Nàng mời họ đến làm gì thế ? Ta tưởng chỉ có mình nàng với ta sống vài ngày với nhau ở một nơi vắng vẻ. Bây giờ hỏng hết chuyện rồi, làm thế nào đây ?
Hắn giơ tay bứt đầu bứt tai, luôn mồm kêu hỏng chuyện.
– Thôi, ta không tới đâu !
Ôkô rối rít xin lỗi:
– Thiếp đâu có biết, mà chàng cũng không nói rõ. Họ là bạn cả mà …
Ôkô đến sát bên Hồ Định. Hắn giận dữ đẩy nàng ra. Bao nhiêu bực dọc và bất lực cảm thấy trên thuyền bây giờ nổ bùng ra, hắn dồn cả lên đầu Ôkô như nước lũ:
– Ngu quá ! Trời ơi, nàng ngu quá ! Nàng về đi, bảo phu cáng về đi. Nàng chẳng hiểu gì cả, chẳng hiểu ta một tí gì cả !
Ôkô phục xuống, nắm vạt áo Hồ Định. Hắn giật mạnh ra, rảo bước bỏ đi. Ôkô chạy theo, bước chân xiêu vẹo suýt ngã. Cả hai đến phía sau chợ cá. Trời tối, chợ đã vãn, các quán đều đóng cửa. Trăng non mới mọc, vẩy cá rải rác đầy dẫy, lóng lánh dưới ánh sáng trăng như những mảnh ngọc trai nhỏ xíu. Khu chợ vắng teo, Ôkô ôm chặt lấy Hồ Định tỏ tình và lơi lả.
– Bỏ ra !
– Nếu chàng đi trọ chỗ khác thì họ sẽ nghĩ chàng với thiếp có chuyện gì …
– Mặc kệ ! Họ muốn nghĩ sao kệ họ !
– Hồ lang ! Sao chàng đối xử với thiếp như thế ?
Ôkô áp má mình vào má Hồ Định. Mùi thơm ngòn ngọt trên mái tóc Ôkô quyện với mùi phấn sáp trên môi, trên má nàng làm Hồ Định ngất ngây. Nỗi bực dọc cũng bớt đi được đôi phần. Ôkô nũng nịu:
– Thôi cho thiếp xin …
– Nàng không biết ta thất vọng chừng nào !
– Biết chứ ! Thiếp biết chứ !
– Thế sao nàng lại để cho nhiều người đến như vậy ? Nàng không muốn ở một mình với ta phải không ? Nàng không yêu ta như ta yêu nàng rồi !
Ôkô nhìn Hồ Định ra vẻ trách móc, mắt rơm rớm ướt:
– Đó ! Đó ! Lại nói vậy rồi !
– Thế tại sao ?
– Tại thiếp không từ chối được. Khi nhận được thư, thiếp đã quyết một mình đi Osaka để đón chàng, nhưng không may ngay tối hôm ấy Sĩ Khánh lại đến chơi cả đêm.
A Kế Mỹ lỡ miệng nói thiếp sẽ đi Osaka, thành thử Sĩ Khánh và các bạn chàng cũng đòi đi theo. Thiếp không từ chối được. Họ cùng đến đây cả thảy tời mười người.
Hồ Định nghe trần tình, biết Ôkô chẳng làm gì được, nên cũng nguôi ngoai đôi chút nhưng vẫn không vui. Hắn lo ngại phải tường trình những thất bại trong cuộc du thuyết, rồi còn mái tóc của hắn. Mái tóc ! Trời ơi, biết nói làm sao đây ! Hồ Định bối rối quá !
– Thôi được ! Ta bằng lòng đi với nàng. Gọi phu cáng lại đây !
Ôkô mừng quá, ôm cổ Hồ Định, áp má vào ngực hắn rồi chạy trở lại về phía bến.
Hoa Sơn Sĩ Khánh vừa tắm xong, choàng kimono ấm nằm dài trên nệm bông trong một phòng sang nhất quán trọ. Họ đợi Hồ Định và Ôkô. Chuyện vãn đã chán, một người đề nghị:
– Ta làm chút gì chăng ? Đại ca nghĩ thế nào ? Ngồi không mãi thế này buồn chết !
– Ừ thì bảo mang rượu đến.
Chén thù chén tạc, câu chuyện lan man đi đến mục nhảm nhí. Chẳng ai còn nhớ mình đang đợi Hồ Định nữa.
– Quán này không có kỹ nữ hay sao ?
Một người hỏi.
– Ừ nhỉ ! Sao không gọi chủ quán bảo cho mấy em đến ? Ông chủ đâu ?
Thế là chẳng bao lâu sau, ba bốn kỹ nữ mang đàn tới. Bữa rượu nhộn nhịp hơn trong tiếng cười đùa lơi lả, không còn phân biệt ai chưởng môn ai đồ đệ nữa.
Cũng như mọi lần, Sĩ Khánh uống rượu được một lúc thì say, ngồi thừ người trên chiếu nhìn đàn em vui chơi không mấy thích thú. Là người đứng đầu môn phái, tác phong hắn có phần đĩnh đạc hơn. Hắn không chịu được sự đùa cợt thô lỗ của đàn em.
Ưng Đằng ngồi bên ghé tai Sĩ Khánh nói thầm. Hắn gật gù ra vẻ ưng chịu. Dù sao, vào phòng riêng, bên lò than ấm, một mình với A Kế Mỹ cũng sướng hơn ngồi nghe tụi này pha trò thô tục.
Sĩ Khánh chống tay đứng dậy. Cả phòng chẳng ai để ý. Cuộc vui cứ tiếp diễn, bình rượu xếp đầy góc nhà, các ca kỹ thay phiên nhau hát nhưng bản huê tình đệm đàn samishen nhiều cái phím đã long, tàn tạ chẳng khác gì chủ nó.
Rượu đương nồng, một nữ tỳ bước vào thông báo có khách. Tiếng lè nhè vọng ra:
– Khách nào thế ? Khuya rồi, bảo mai đến !
– Vị khách này tên Hồ Định.
– Hồ Định … Hồ Định …
Á à, bấy giờ cả bọn mới nhớ ra là đang đợi Hồ Định. Vài người ngồi dậy khi Hồ Định và Ôkô bước vào, giơ tay vẫy, chào hỏi qua loa. Cả bọn không một ai còn tỉnh táo.
Rượu đã vẽ lên mặt họ những nét ngờ nghệch, biến họ thành những hình nhân ngu độn vây quanh mấy ả ca kỹ múa may như những con rối.
Hồ Định chán nản hết sức. Nghe lời Ôkô, hắn tưởng mình sẽ được đón tiếp long trọng, ngờ đâu … Hắn lắc đầu, gọi nữ tỳ dẫn sang phòng Sĩ Khánh. Nhưng hành động này không cần thiết, vì chưởng môn Hoa Sơn phái, nghe tin cánh tay phải của mình về, đã chạy vội ra đón. Sĩ Khánh say mèm, chân nam đá chân chiêu, mồm lắp bắp:
– Hồ Định đấy ư ? Ta đợi … đợi ngươi mãi. Lại đi vui thú với con mẹ này bây giờ mới tới chứ gì ? Không sao … không sao …
Hắn đến ôm vai Hồ Định nhưng tuột tay ngã xô về phía trước. Hồ Định giơ tay đỡ.
Sĩ Khánh níu vội lấy đầu Hồ Định. Không kịp nữa rồi ! Vuông khăn trên đầu hắn tuột ra.
– Ồ, cái gì thế này ? Sao tóc ngươi mất một mảng thế này ?
Hồ Định luống cuống, giật vuông khăn trên tay Sĩ Khánh quấn vội lên đầu:
– Không có gì ! Không có gì ! Tiểu đệ bị cái nhọt trên đầu phải cắt tóc đi cho dễ tri…..
Mọi người quay lại nhìn, đa số chẳng để ý. Có tiếng hỏi:
– Huynh trưởng đi quyên góp thế nào ? Có thu được khá không ?
– Cũng chẳng được bao nhiêu. Chuyện này sẽ giải thích sau.
– Ha ha … chắc lại chỉ có cái nhọt mang về làm kỷ niệm …
Cả bọn phá lên cười. Câu nói đầy châm chọc làm Hồ Định xám mặt. Hắn chẳng biết nói sao và xem chừng tuy say nhưng bọn này chẳng một ai tin lời hắn.
Sáng hôm sau, một số môn đệ phái Hoa Sơn tụ họp tại bãi cạnh quán. Họ đã tỉnh hẳn rượu. Mặt ai nấy đều tỏ vẻ nghiêm trọng. Ưng Đằng lên tiếng trước:
– Thật nhục nhã. Ta không ngờ xảy ra chuyện ấy !
– Đầu đuôi thế nào, xin huynh trưởng thuật lại cho anh em biết.
– Ta không được nhìn tận mắt, nhưng Hoàng Diệp nghe rõ. Hoàng Diệp ! Ngươi nghe thấy những gì, nói lại để anh em cùng biết.
– Dạ dạ ! Sáng nay tiểu sinh dậy sớm, cảm thấy mệt mỏi vì hôm qua thức khuya, uống rượu nhiều …
– Thôi nhanh nhanh lên, bỏ qua những đoạn không cần thiết …
– Dạ. Tiểu sinh đi tắm. Đang tắm thì có hai người ăn mặc ra dáng thương gia bước vào. Họ kể cho nhau nghe những chuyện xảy ra hôm qua trên thuyền giấy. Hình như có một kiếm sĩ thuộc phái Hoa Sơn ta bị một thanh niên lạ mặt mặc áo đỏ dùng kiếm hớt đứt mất chỏm tóc trên đầu, vậy mà kiếm sĩ đó không dám làm gì. Tiêu sinh nghĩ có lẽ đó là đại huynh Hồ Định.
– Bậy nào ! Ngươi lấy gì làm chắc ?
– Có thể lắm ! Này Hoàng Diệp, ngươi không nói láo đấy chứ ?
– Tiểu sinh đâu dám. Sở dĩ tiểu sinh ngờ như vậy vì một trong hai người còn nói:
“Tay kiếm sĩ kia tự xưng là cao nhân phái Hoa Sơn ở Kyoto. Nếu danh tính hắn đúng thì chẳng hóa ra Hoa Sơn dạo này bạc nhược lắm sao ! Không ngờ phái đó thế mà hữu danh vô thực !”.
Nghe đến đây, bọn đồ đệ phái Hoa Sơn không kềm được tức giận:
– Láo ! Láo ! Phải trị cho thằng đó một trận.
– Cắt tóc nó đi !
– Không ! Cắt tóc không đủ ! Cắt cổ nó !
Nhưng Ưng Đằng đã đứng dậy khoát tay:
– Khoan ! Khoan ! Anh em đừng nóng. Chuyện xảy ra như thế nhưng chúng ta chưa biết có phải kiếm sĩ ấy đích thực là huynh trưởng Hồ Định không ? Để ta vào hỏi cho ra nhẽ.
Cả bọn theo Ưng Đằng vào quán. Nhưng đến nơi mới biết Hồ Định đã cùng với Ôkô đi Kyoto từ sớm rồi. Tin này làm cả bọn không còn hoài nghi gì nữa. Sĩ Khánh còn ngủ, họ không đánh thức. Ưng Đằng được coi như người thay mặt Sĩ Khánh, cắt đặt mọi việc, chia anh em đổ đi khắp ngả tìm gã thanh niên áo đỏ.
A Kế Mỹ, áo vén cao, đứng trên bãi cát gần bờ biển chăm chú nhặt vỏ ốc. Mỗi khi tìm được một vỏ ốc lạ, nàng lại tò mò ngắm nghía hoặc để lên tai nghe. Từ sáng, cứ như vậy, nàng đã nhặt và vất đi hàng trăm con ốc.
Trời mới sang đông, khí hậu ven biển chưa lấy gì làm lạnh lắm. Mặt trời đã lên cao, nước biển xanh biếc, sóng nhè nhẹ vỗ vào ghềnh đá tung bọt trắng như những cánh hoa mai trước gió. Trên bãi vắng, một mình A Kế Mỹ trong bộ áo trắng, nhỏ bé trước cảnh bao la của trời nước, chẳng khác gì một con hạc khờ dại lạc bầy từ cảnh tiên nào đậu xuống.
Một môn sinh Hoa Sơn đi qua, thấy A Kế Mỹ, vội dừng lại:
– A Kế Mỹ ! Làm gì ngoài bãi sớm thế ?
– Tiểu nữ … tiểu nữ tìm vỏ ốc.
– Tìm vỏ ốc ? Đằng kia thiếu gì mà phải tìm ở đây ?
– Không. Vỏ ốc đặc biệt chỉ vùng Sumiyoshi này mới có.
– Gì mà quý thế ?
– Vỏ ốc lú.
Gã kia ngạc nhiên mở to mắt:
– Vỏ ốc lú ? Vỏ ốc lú là cái gì ?
– Là một thứ vỏ ốc khi người ta để vào tai nghe hay giữ trong mình thì quên được hết mọi sự.
Gã cười ha hả:
– Cô này điên rồi ! Vô tâm như cô chưa đủ hay sao mà còn đi tìm vỏ ốc lú ?
A Kế Mỹ lắc đầu cười gượng gạo:
– Tiểu nữ không điên, nhưng có những lúc muốn quên. Thế còn khách quan, khách quan đi đâu vội thế ?
– À, ta đi tìm một người.
– Tìm làm gì ?
– Tìm để trả hận.
A Kế Mỹ quay đi. Nàng không quan tâm đến sự tranh chấp của đàn ông mà nàng cho là tàn bạo, ích kỷ, ngoại trừ một người. Khi nghĩ đến người ấy, lòng nàng không khỏi rung động. Hình bóng người ấy luôn lởn vởn trong trí và trong những giấc mơ làm nàng bồi hồi không muốn tỉnh. Đôi lúc, bên những cuộc truy hoan của khách lạ tại quán Vân Nghê, nàng cũng muốn quên hết đi để nghĩ đến tương lai. Nàng tin rằng người nàng yêu mến không biết, hay chẳng quan tâm gì đến mối tình của nàng cả. Mối tình vô vọng ấy nàng thật tình muốn quên nhưng không sao quên được. Nếu quả có vỏ ốc lú, nàng sẽ sung sướng bao nhiêu khi tìm được nó.
Gã môn sinh Hoa Sơn nhìn nét mặt âu sầu của A Kế Mỹ không khỏi ái ngại. Thấy nàng không nói gì thêm, gã lặng lẽ bỏ đi.
A Kế Mỹ lơ đãng nhìn ra xa, khe khẽ ngâm bài thơ quen thuộc:
Nữ la, chàng là cỏ Thổ ti, thiếp làm hoa Cành mềm không đi nổi Nghiêng theo gió xuân qua, Nương mình thông trăm trượng Quấn quít nên một nhà Ai rằng dễ gặp mặt Núi biếc cách chia xa Nhìn nước biển trong xanh và sâu thẳm, A Kế Mỹ tưởng như đó là nguồn an ủi, sự giải thoát. Nàng trừng trừng nhìn những đợt sóng hiền hòa vỗ nhè nhẹ như ru vào ghềnh đá. Đứng trên ghềnh này, chỉ một cử động thôi, một cử động nhỏ, dễ dàng quá, nàng sẽ nằm trong lòng biển xanh, sóng yêu đương ru nàng vào một giấc mộng êm đềm không bao giờ dứt.
Tiếng chân người và tiếng gọi đột nhiên lôi A Kế Mỹ trở về thực tại.
– A Kế Mỹ ! A Kế Mỹ ! Đại ca đang chờ nàng đấy. Ra đây làm gì vậy ?
A Kế Mỹ giật mình, theo chân ả nữ tỳ trở về phòng trọ.
Bốn bề yên lặng. Gió sớm xào xạc trên cành thông. Đôi chim sâu lích chính trong bụi rậm trước cửa sổ. Sĩ Khánh ngồi một mình trong phòng, bên chiếc lò sưởi vừa nhóm.
Sau giấc ngủ vừa qua, hắn thấy trong người khỏe khoắn lạ thường, nhìn A Kế Mỹ bước vào, âu yếm hỏi:
– Buổi sáng lạnh, nàng ra ngoài làm gì thế ?
– Tiểu nữ không thấy lạnh. Ngoài bãi, nắng đẹp và ấm lắm.
– Nàng ra bãi làm gì ?
– Tiểu nữ tìm vỏ ốc.
Sĩ Khánh mắng yêu:
– Nàng làm như còn trẻ con lắm !
– Thì tiểu nữ vẫn là trẻ con.
– Đến tháng chạp này, nàng bao nhiêu tuổi biết không ?
– Tiểu nữ không để ý. Tiểu nữ vẫn tự thấy là còn trẻ con, có hại gì đâu ?
– Hại lắm chứ ! Nàng đã lớn rồi, phải nghĩ đến tương lai, như mẹ nàng muốn.
– Mẫu thân tiểu nữ ? Bà có nghĩ gì đến tiểu nữ đâu, bà vẫn tưởng bà còn trẻ.
– Nàng ngồi xuống đây.
– Xin khách quan tha lỗi. Trong phòng nóng quá, cho phép tiểu nữ ra sân.
– A Kế Mỹ !
Sĩ Khánh sẵng giọng, nắm cổ tay A Kế Mỹ kéo xuống.
– Hôm nay chỉ có mình ta với nàng. Mẹ nàng đi Kyoto rồi.
A Kế Mỹ nhìn đôi mắt đỏ ngầu của Sĩ Khánh. Nàng cong người vùng vẫy cố kéo ra, nhưng bàn tay Sĩ Khánh cứng như sắt chỉ làm cổ tay nàng đau thêm.
– Sao nàng tìm cách trốn ta ?
– Tiểu nữ không trốn.
– Sáng nay không có ai ở quán. Cơ hội tốt như thế này …
– Cơ hội gì ?
– Nàng đừng có giả vờ. Có đến hơn năm nay rồi, ta với mẹ con nàng quen nhau.
Nàng thừa biết lòng ta đối với nàng ra sao rồi, mà mẹ nàng cũng đồng ý. Mẹ nàng thường bảo tại ta vụng. Hôm nay xem ta có vụng không !
– Bỏ ra !
– Nàng thật không ưng ta phải không ?
– Bỏ ra, không ta kêu lên bây giờ !
Sĩ Khánh cười gằn, chua chát:
– Kêu đi ! Kêu đi ! Không có ai ở quán cả ! Ta đã ra lệnh không ai được làm rộn.
A Kế Mỹ vùng vẫy, tay đấm chân đạp.
– Bỏ ra, bỏ ta ra ! Ta không bằng lòng, để ta đi …
– Không được.
– Thân ta không thuộc về khách quan.
– Á à … Nàng lầm ! Hỏi mẹ nàng xem. Ta đã trả tiền …
– Mẹ ta bán ta, nhưng ta không chịu bán thân ta. Nhất là cho một tên hèn hạ đáng khinh như ngươi !
– Hỗn ! Nàng hỗn !
Sĩ Khánh giật sấp A Kế Mỹ xuống sàn, lấy chăn trùm kín. A Kế Mỹ kêu như điên dại, nhưng những tiếng kêu chỉ còn là những tiếng ú ớ tắc nghẹn.
– Kêu đi ! Kêu to nữa đi ! Không ai đến cứu nàng đâu !
Sĩ Khánh đè lên mình A Kế Mỹ.
Bên ngoài, cảnh vật vẫn điềm nhiên. Nắng sớm vô tình chiếu bóng cành thông lay động bên song cửa sổ. Xa xa, tiếng sóng biển rì rào đưa lại cùng với tiếng chim gáy hót sau nhà.
Sĩ Khánh bước vào phòng tắm, mặt tái xanh, tay trái giơ cao, những vết móng tay cào trên da còn rướm máu. Bỗng cửa phòng mở toang rồi đóng đánh rầm, bóng A Kế Mỹ chạy vụt ra ngoài. Sĩ Khánh kêu một tiếng khẽ, nhảy tới cản nhưng không kịp nữa. Hắn đưa mắt nhìn theo, trên môi nở nụ cười đắc thắng, nụ cười bằng lòng của một con thú vừa được thỏa mãn.
Chương 24: Vị nghĩa vong thân
– Cậu Ngô !
– Gì thế chị ?
– Cậu mệt rồi hả ?
– Vâng, cũng không được khỏe.
– Thảo nào trông thờ thẫn. Hai chân ta cũng mỏi nhừ, nhưng còn quãng nữa thì đến chùa Sơn Nhai. Gắng lên, chẳng lẽ tới đây không vào chùa lễ Phật, phải tội chết !
– A di đà Phật !
– Chùa này có xá lợi do vị cao tăng Tây vực mang đến cúng đã mấy trăm năm, lại trồng được cây bồ đề chiết từ gốc nguyên thủy lấy ở nơi đức Phật ngồi đắc đạo …
– Sao chị biết ?
– Thì người ta nói thế, sao ta lại không biết !
Bà Hồ Điểu và cậu Ngô đến gần tam quan. Cảnh chùa u nhã, tiếng chim rừng văng vẳng gõ thân cây, mùi hương trầm phảng phất giục lòng người trút bỏ hết niềm tục lụy. Cạnh tam quan thấy cắm vô số bảng lớn nhỏ, chữ viết chi chít.
– Họ viết gì trên bảng này thế chị ?
– À, họ bảo lấy lá bồ đề trong chùa nấu nước uống thì khỏi bệnh nghiến răng.
Cậu Ngô cười chế giễu:
– Nhảm nhí !
– Này đừng báng bổ, đức Phật ngài linh thiêng lắm !
Bỗng bà quay lại, nhớn nhác như tìm ai:
– Thằng Mãn Hà Chí đâu ?
– Chắc nó đi sau.
– Hay lại lạc rồi cũng nên !
Bà quay trở lại, thấy Mãn Hà Chí ngồi trên phiến đá thừ người chán nản. Đã mười ngày nay theo mẹ và cậu lang thang chùa này đền khác trong vùng Sumiyoshi, hắn mệt mỏi không hứng thú. Bản tính ham chơi, ưa chỗ đông người, bây giờ thiếu cái không khí ồn ào của trà đình tửu quán, hắn bực dọc. Đã nhiều lần Mãn Hà Chí nói với mẹ xin tách ra đi riêng tìm Thạch Đạt Lang thì mới hy vọng gặp nhưng bà Hồ Điểu không chịu. Bà nói:
“Tết sắp đến nơi rồi. Sáu bảy năm nay, mày đã không ở nhà lễ gia tiên, năm nay mẹ con sum họp, biết đâu chẳng là lần chót. Nhờ Trời Phật, nếu còn được lâu dài nữa thì hay, bằng không thì cũng không ân hận …”. Mãn Hà Chí biết không thể làm xiêu lòng mẹ được, đành thôi, nhưng nỗi buồn bực lộ hẳn ra nét mặt. Hắn nhất định sau Tết nguyên đán sẽ bỏ đi ngay, mặc bà muốn nói gì thì nói.
– Mãn Hà Chí ! Có đi nhanh lên không ? Con trai gì mà yếu như sên ấy !
Nghe mẹ quở, Mãn Hà Chí càng bực thêm. Hắn đứng lên, lầu bầu:
– Đi nhanh ! Đi nhanh ! Lúc nào cũng đi nhanh ! Nhanh để làm gì ? Chỉ la cà ở các chùa chiền, phí thì giờ !
– Mày nói gì ? Vào chốn tôn nghiêm, không biết kính Phật trọng tăng thì sa địa ngục đời đời không ngóc đầu lên được con ạ ! Ta không thấy mày lễ Phật bao giờ, rồi hối không kịp đấy !
– Thật là cái nợ !
– Mãn Hà Chí, mày nói ai là cái nợ ?
Giọng bà tức giận, the thé.
Mấy ngày đầu khi mẹ con gặp nhau, còn có đôi chút hòa khí, nhưng dần dần mối bất đồng ngày càng tăng. Bà Hồ Điểu lại khắc nghiệt, không tối nào không bắt con quỳ nghe bà thuyết giáo làm Mãn Hà Chí bực dọc không để đâu cho hết. Nể mẹ, hắn không cãi nhưng sự bực bội dồn ép mãi đến lúc nào đó phải xì ra. May mà hắn còn biết trong uy quyền của bà, chỉ đáp lại bằng những lời chế nhạo hoặc những tiếng lầu bầu bất mãn.
Cậu Ngô đứng bên, biết không tránh khỏi sự va chạm đưa đến cãi vã, nghĩ thầm:
“Thật mẹ nào con nấy !”. Để xoa dịu sự bực bội của hai người, cậu cố gắng lái câu chuyện sang hướng khác:
– Hình như chỗ ghềnh đá đằng kia có cái quán, ta ra đấy xem có gì uống cho ấm bụng chứ !
Nói xong, không đợi trả lời, cầm tay chị và cháu lôi đi. Không ai tỏ vẻ hoan nghênh nhưng cậu cũng kéo bằng được cả hai đến gần quán.
Quán nhỏ. Hàng rào sậy thưa ngăn quán với khu vườn hoang gió đánh tơi tả. Cả ba tìm một bàn bên ngoài ngồi nhìn ra bãi. Mẹ con bà Hồ Điểu buồn thiu, chẳng ai nói với ai lời nào. Cậu Ngô chạy vào trong đem bình rượu sa-kê mới hâm nóng ra rót vào chén mời bà lão:
– Chị uống một tí. Nó còn trẻ người non dạ, để rồi dạy dần dần mới được.
Bà Hồ Điểu hừ một tiếng, quay phắt đi, buông sõng:
– Không uống.
Bị tẽn, cậu Ngô đưa rượu cho Mãn Hà Chí. Đương cơn bực bội, hắn cầm chén rượu uống liền, nốc một hơi cạn sạch, rồi lại tự tay rót thêm, vừa uống vừa mời cậu, Mãn Hà Chí có ý trêu tức bà lão. Khi hắn cầm bình định rót lần nữa, bà Hồ Điểu quay mặt lại giận dữ quát lớn:
– Thôi ! Không phải lúc say sưa ! Chỗ này đâu phải chỗ vui chơi ! Còn cậu nữa, liệu hồn cậu ! Già đầu rồi thì phải biết điều hơn nó chứ !
Như đứa trẻ bị mắng, cậu Ngô khẽ dạ, bẽn lẽn đứng bên hàng rào nhìn ra biển.
Thấy sắc mặt đỏ gay và dáng điệu bất cần của con trai, bà Hồ Điểu giận uất, dùng ngón tay chỉ mặt Mãn Hà Chí, mắng như tát nước. Bà không còn e dè gì nữa, bao nhiêu tiếng xấu xa đem ra đổ hết lên đầu hắn, không lưu ý gì đến chủ quán và số thực khách ngồi ở bàn trong, nhìn ra khó chịu.
Mãn Hà Chí chỉ lặng thinh, lầm lì nhìn khay rượu. Chờ mẹ nói xong, hắn mới ngửng lên nhìn bà lão:
– Vậy con là đồ bất hiếu, bạc bẽo, không có liêm sỉ gì phải không ?
– Chứ còn gì nữa ! Cho đến bây giờ mày đã làm gì để rạng rỡ tổ tông, hoặc ít ra cũng tỏ ra là đứa con hiếu thảo ? Mày chỉ là đồ vô tích sự !
– Mẹ không hiểu …
– Sao ta lại không hiểu ! Biết con không ai bằng cha mẹ ! Ta xấu hổ đã sinh ra mày, làm nhục cả họ Hồ Điểu. – Bà thở dài ảo não – Càng nghĩ càng thêm xấu hổ …
– Nếu tôi vô dụng thì tôi theo bà làm gì nữa ! Tôi đi đây !
Mãn Hà Chí tức giận, dằn mạnh chén rượu xuống bàn, đứng lên đi thẳng.
Bà lão giật mình nhìn theo, trong cơn thảng thốt, miệng lắp bắp nói không nên lời.
Bà run run quơ chiếc gậy tre, nhưng rồi lại vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, quay đầu về phía em:
– Cậu Ngô ! Cậu Ngô !
Cậu Ngô như không nghe gọi, vẫn chăm chú nhìn ra bãi.
– Kệ nó ! Muốn đi đâu thì đi, không ai giữ !
Chẳng biết bà nói với ai, với cậu em hay với chính mình. Lát sau cậu Ngô mới lên tiếng, nhưng không phải để đáp lời chị:
– Kỳ thật ! Người con gái đằng kia định làm gì mà kỳ quá !
Rồi không đợi trả lời, cậu hối hả nhảy qua hàng rào thấp, chạy vội ra bãi.
– Cậu Ngô ! Cậu Ngô ! Đi đâu thế ? Thằng Mãn Hà Chí …[Audio] Khấu Vấn Thiên Đạo (dịch)
Chưa nói hết câu, bà đã lật đật đứng lên đuổi theo, chẳng may vấp phải đám rong ngã sấp mặt xuống đất. Chủ quán và một số thực khách chạy ra đỡ bà dậy, quần áo mặt mũi lem luốc những cát ướt. Bà gạt tay mọi người, phủi vội quần áo, mắt vẫn không rời bóng cậu Ngô trên bãi:
– Điên à ! Chạy đi đâu thế ? Nó đi về phía này mà !
Mọi người nhìn theo đều lấy làm lạ. Cậu Ngô chạy thẳng ra biển. Ghềnh đá ngược ánh mặt trời đen sẫm che khuất bóng cậu, một lúc sau mới thấy cậu hiện ra thì nước đã lên đến đầu gối. Trước cậu chừng vài trượng, một thiếu nữ đương vùng vẫy, áo, tóc xõa trên mặt biển loang loáng dưới ánh nắng.
Bà Hồ Điểu đến bờ nước, chạy tới chạy lui gọi em, giọng lạc đi trong gió lộng:
– Cậu Ngô ! Cậu Ngô !
Người trong quán ùa ra theo cũng phụ họa, nhưng không ai dám bước xuống nước.
Họ chỉ đứng bàn tán:
– Chỗ này sát ghềnh đá, ở đây thì thế nhưng qua chút nữa là hố sâu, vô ý hụt chân nguy hiểm lắm !
Bỗng có tiếng kêu. Nhìn ra không thấy bóng ông già và thiếu nữ đâu nữa.
– Chìm rồi ! Chết rồi, chìm rồi !
Bà Hồ Điểu lo sợ cuống cuồng. Không biết làm sao, bà giơ gậy đập mọi người làm họ chạy tán loạn.
– Nhảy xuống cứu đi ! Chết rồi ! Ông ấy chết đuối rồi !
Bà mếu máo:
– Các người bất nhân quá ! Thấy ông già sắp chết không cứu. Cậu Ngô ơi ! Cậu Ngô ơi ! Ai cứu em tôi !
Người ta vội vã đi gọi thuyền chài. Lặn ngụp hồi lâu mới vớt được cả hai lên. Thiếu nữ còn nắm chặt vạt áo cậu Ngô, nhưng cả hai mắt nhắm nghiền không thở nữa. Mọi người phụ vào gỡ ra và đặt nằm trên bãi cát.
– Anh em mỗi người một tay. Phụ nữ giúp cô bé còn chúng tôi lo cứu ông già. Ngồi lên bụng nhấn mạnh cho nước ộc ra mới được !
Thiếu nữ mặc kimono trắng, mặt còn nguyên son phấn nên trông còn có chút sinh khí, nhưng cậu Ngô thì trái lại, mặt xám ngoẹt, những sợt tóc thưa thớt, bạc và ướt nhẹp dán lên trán và hai bên thái dương. Bình nhật cậu không đến nỗi gầy, sao bây giờ trông hom hem quá ! Bà Hồ Điểu không cầm được xúc động, khóc òa lên.
– Yên nào bà già ! Làm người ta rối trí !
Những kẻ hiếu kỳ bu quanh thì thầm:
– Tự tử hả ? Tự tử vì tình hả ?
– Bậy nào ! – Có người cười đáp – Ông già cứu cô bé đấy chứ !
– Thiếu nữ này trông quen quen. Có phải cô bé nhặt vỏ ốc không ?
– Hình như thế ! Cô ta trọ Ở trong xóm !
Từ đằng xa, bốn năm người chạy lại. Hoa Sơn Sĩ Khánh gạt đám đông len lỏi đến gần nạn nhân. Nhìn cô bé nằm thiêm thiếp trên cát, mặt hắn tái đi. Hắn kêu khẽ:
– A Kế Mỹ !
Một người hỏi:
– Đại hiệp quen cô này hả ?
Sĩ Khánh không đáp chỉ đứng trừng trừng nhìn thiếu nữ. Người ta đập lưng móc miệng cô, nước và rãi rớt ộc ra ướt cả một khoảng cát. A Kế Mỹ thở mạnh rồi cựa quậy chân tay. Mọi người reo lên vui mừng:
– Sống rồi ! Cô bé sống rồi !
Họ tiếp tục hà hơi, vỗ lưng, lau mặt cho A Kế Mỹ. Sĩ Khánh lùi ra ngoài, ghé tai môn hạ nói nhỏ. Một lúc sau, cáng được mang đến, người ta vực cô bé lên đưa vào trong xóm.
Cậu Ngô vẫn nằm bằn bặt trên cát. Mọi người xúm vào làm đủ cách, cậu vẫn không tỉnh. Mắt nhắm nghiền, chân tay lạnh ngắt, da mặt mỗi lúc càng trắng bệch. Vài người lắc đầu:
– Ông già khéo hỏng mất !
Quả thật, thần chết đang rình rập đâu đây và có lẽ đã điểm cậu Ngô rồi ! Xấp xỉ lục tuần, cậu đã già, trước khi nhảy xuống nước cứu cô bé, cậu lại còn uống vài chén rượu thì làm sao mà đủ sức chống lại cái lạnh của nước biển về mùa đông ?
Bà Hồ Điểu ngồi bên em, miệng rên khe khẽ. Thấy không kết quả, số người cứu chữa lần lượt đứng lên dần:
– Hỏng rồi ! Trễ quá, không sao cứu được nữa !
Bà Hồ Điểu khóc rống lên, gọi tên em rồi quay ra hằn học với mọi người xung quanh:
– Hỏng là thế nào ? Hai người cùng mang lên một lúc, một người sống một người chết là sao ? Tại … tại các ngươi không hết sức !
Bà vừa gạt nước mắt vừa ôm lấy cậu Ngô, kéo tay bóp chân, giật tóc mai, không còn cách gì bà biết mà không làm. Lại lật đật mở bọc ra lấy lọ thuốc nhỏ, đổ vài viên vào mồm em. Nhưng cậu Ngô vẫn nằm trơ ra đó. Cậu đã ra người thiên cổ.
Ai ai trông thấy cũng ngậm ngùi. Có kẻ quay đi chùi vội nước mắt.
Trời đã về chiều. Ngoài biển xa, phía chân trời, chỉ còn vài vệt sáng hồng báo hiệu một ngày sắp tắt. Những kẻ hiếu kỳ bỏ đi gần hết. Vài người ở lại nhặt cành khô nhóm đống lửa nhỏ bên cạnh bà lão.
Trong cái yên lặng của buổi chiều quý đông nơi đất khách, bà Hồ Điểu ngồi ôm xác em, tiếng bà nức nở hòa với tiếng sóng rì rào thành một điệu nhạc bi ai tiễn đưa người anh hùng bất hạnh.
A Kế Mỹ nằm trong phòng thiêm thiếp, thỉnh thoảng lại giật tay chân, miệng kêu ú ớ. Sĩ Khánh ngồi bên trầm ngâm yên lặng. Nhìn cổ tay yếu ớt của cô bé có những đường gân xanh nổi rõ dưới làn da trắng bệch, hắn cảm thương vô hạn. Cầm tay nghe mạch, mạch nhẹ như tơ, Sĩ Khánh khẽ lắc đầu:
“Mạch yếu quá !”.
Trong thâm tâm, hắn tự trách mình đã tàn bạo và ngu xuẩn.
– A Kế Mỹ ! Tha thứ cho ta … Tình ta mãnh liệt làm nàng sợ hãi. Nhưng đàn ông nào cũng như thế …
Hắn lẩm bẩm nói một mình, không biết để tự bào chữa hay để cho A Kế Mỹ nghe, song lúc bấy giờ hắn thật là thành thực. Mới hay lòng người phức tạp; sáng còn như dã thú, chiều nặng những tình trắc ẩn.
Trời tối đã lâu. Ngọn đèn nhỏ tỏa ánh lờ mờ qua chiếc chụp giấy, vân giấy màu ngà nổi lăn tăn như mây vần trên nền trời sáng. Trong phòng yên lặng, cửa sổ khép kín không để lọt tiếng động bên ngoài. A Kế Mỹ khẽ cựa mình kêu lên thảng thốt:
– Bỏ ra, bỏ tôi ra !
Sĩ Khánh lay vai cô bé:
– A Kế Mỹ ! Đừng sợ ! Đừng sợ ! Hãy tỉnh dậy !
Có tiếng thở dài. A Kế Mỹ mở mắt lờ đờ nhìn lên trần, không ý thức chuyện gì xảy ra chung quanh, thều thào hỏi:
– Hôm nay là mấy rồi !
– Cái gì ? Nàng nói gì ?
– Hôm nay ngày mấy ? Còn bao lâu nữa thì hết năm ?
– Mười ngày nữa. Cứ yên tâm tĩnh dưỡng, khỏe rồi ta sẽ đưa nàng về Kyoto …
A Kế Mỹ mệt nhọc quay đầu lại nhìn. Dưới ánh đèn mờ, hình như vừa nhận diện được kẻ vừa nói, nàng kêu lên một tiếng kinh hoàng, ngất đi bất tỉnh.
Sĩ Khánh loay hoay đắp khăn ướt lên vầng trán nóng bỏng của cô bé. Hắn tránh không gọi tên, sợ làm nàng kinh hãi, chỉ cặm cụi làm. Thay khăn mấy lượt, mới thấy A Kế Mỹ hơi tỉnh. Trong cơn mê, cô bé gọi tên Thạch Điền Đạt Lang và lẩm bẩm những tiếng gì hình như là “Đại kiều đường Gojo …”. Sĩ Khánh nghe không rõ nhưng cái tên Thạch Điền Đạt Lang làm hắn chú ý. Thạch Đạt Lang … Thạch Đạt Lang … Không biết có phải là tên lãng tử trẻ tuổi đã từng đến làm náo loạn võ đường Hoa Sơn của hắn dạo nào ?
Sĩ Khánh nhìn môi cô bé, chờ đợi. Nhưng A Kế Mỹ không nói thêm lời nào nữa.
Nàng đã thiếp đi rồi !
Ngoài song, bóng cây lay động. Tiếng ngựa hí từ xa vẳng đến. Sĩ Khánh lắng tai nghe:
tiếng chân người bước vội và tiếng con hầu vọng vào:
– Đây ! Đại hiệp ở trong này !
Sĩ Khánh vội bỏ sang phòng bên, quàng tay ra sau khép cửa. Một môn đệ Hoa Sơn, trang phục theo lối lữ hành, nón nan, vai áo trắng bụi đường hối hả tiến vào. Thấy Sĩ Khánh, hắn vội vàng thi lễ.
– Chuyện gì thế ?
– Mời đại ca về ngay cho.
– Nhưng chuyện gì mời được chứ ?
Ở phòng bên, thình lình tiếng thét của A Kế Mỹ vọng sang, rõ mồn một:
– Bỏ ta ra ! Ta không ưng ! Đừng …
Tiếng thét pha lẫn sợ hãi làm gã đồ đệ Hoa Sơn đang mãi tìm thư trong bọc phải khựng lại, ngẩng đầu nhìn Sĩ Khánh.
– Không can gì ! Kẻ đó sốt, thỉnh thoảng nói sảng … Đâu ? Thư của ai ? Đưa ta coi !
– Dạ, của Thạch Điền Đạt Lang.
Sĩ Khánh sửng sốt. Hắn vừa nghe tên đó từ miệng A Kế Mỹ thốt ra, bây giờ lại nhận được thư, chẳng biết là điều gì, lành hay dữ. Một cảm giác lo sợ bâng quơ làm hắn ớn lạnh.
Sĩ Khánh cầm thư, lật đật đến bên chiếc bàn thấp, cạy niêm và ghé sát vào ánh sáng ngọn bạch lạp. Lời thư rõ ràng, không uẩn khúc:
“Trong thư trước, tại hạ đã hứa ngày trọng xuân sắp tới sẽ có mặt ở kinh thành.
Xin quý phái cho biết nơi và giờ hội ngộ. Tại hạ không sở trường đặc biệt về loại vũ khí nào nên để tùy quý phái ấn định.
Xin quý phái cho yết ngày giờ và địa điểm lên bảng cáo thị Ở chân Đại kiều đường Gojo trước tiết nguyên tiêu, tại hạ rất hân hạnh.
Hy vọng trong thời gian qua, quý kiếm pháp đã đạt mức trác tuyệt. Về phần tại hạ cũng có tiến bộ đôi chút, không dám để phụ lòng quý phái.
Thư bất tận ngôn, Thạch Điền Đạt Lang kính bái “ Vẫn cái giọng tuy lễ độ nhưng rất cao ngạo trong thư trước. Sĩ Khánh xem xong, tái mặt. Hắn thừ người suy nghĩ. Trác tuyệt cái gì ? Cả năm nay có luyện tập gì đâu mà trác với tuyệt ? Không những chỉ riêng hắn mà thôi, các môn đệ khác, nhưng tay được coi như trụ cột của môn phái, Hồ Định, Ưng Đằng … cũng thế. Bây giờ không phải là lúc đắm mình trong hoan lạc. Phải hành động và cấp kỳ đặt ngay kế hoạch. Càng nghĩ Sĩ Khánh càng thấy nguy cấp. Từ nay đến tiết nguyên tiêu chẳng còn bao lâu nữa, nếu hắn không trở về Kyoto ngay để thảo luận cùng anh em trong phái thì không kịp.
Thấy tên đồ đệ vẫn còn đứng xớ rớ ở góc phòng chờ lệnh, Sĩ Khánh giận dữ:
– Ra ngoài chờ ta. Gọi chủ quán đến đây. Lập tức !
Đồ đệ ra khỏi. Sĩ Khánh giở cuốn thư đọc lại. Những lời ngạo mạn ngụ ý châm chọc của Thạch Điền Đạt Lang khiến hắn giận run. Ngày hôm nay đối với hắn quả là một ngày buồn tủi, đáng giận. Chuyện A Kế Mỹ xúc phạm lòng tự ái của hắn chưa nguôi, nay lại Thạch Đạt Lang thách thức. Không do dự, Sĩ Khánh quyết ý trở về Kyoto, quay lưng lại nơi sầu thảm này, nơi không để lại một kỷ niệm gì vui tươi trong lòng hắn.
Chủ quán bước vào, Sĩ Khánh căn dặn săn sóc A Kế Mỹ chu đáo. Hắn mở tủ lấy một số tiền trao cho chủ quán và gọi đồ đệ:
– Thu xếp hành trang và để ngựa ta cưỡi, ngươi về sau.
Cả đêm hôm ấy Sĩ Khánh không chợp mắt. Vừa tinh sương, hắn đã lên ngựa bỏ đi như chạy trốn, mặc cho tên đồ đệ theo sau, đến đâu hay đó.
Chương 25: Giang biên liễu
– Thanh niên bế con khỉ lông vàng ? Dạ có, có thấy đi ngang qua đây hồi trưa.
– Đi về phía nào ?
– Phía cầu gỗ, nhưng không qua cầu. Hình như rẽ vào hàng bán đồ sắt.
Bọn đồ đệ Hoa Sơn hấp tấp bỏ đi, quên cả cám ơn bác nông phu làm bác ngạc nhiên nhìn theo, không hiểu chuyện gì.
Trời đã về chiều. Đường chân núi vắng vẻ ít người qua lại, hàng quán ven đường lục tục đóng cửa nhưng may làm sao gian hàng bán đồ sắt và lò rèn vẫn thấy còn người kéo bễ. Cả bọn ùa vào. Nhìn đoàn khách lạ Ồn ào, có dáng giận dữ, binh khí đeo bên sườn kêu rổn rảng, gã kéo bễ chột dạ, ngưng tay chạy vội ra.
– Hồi trưa có ai đến đây không ?
– Dạ có.
– Người thế nào ?
– Một thanh niên cao lớn mang bào tía, đeo trường kiếm, nhưng đầu không cạo như các kiếm sĩ khác thường thấy.
– Hắn ẵm một con khỉ nhỏ phải không ?
– Dạ phải.
– Đúng rồi ! Hắn có hỏi gì không ?
– Có. Thanh niên đòi xem võ khí chế tạo tại bổn tiệm, nhưng hình như không được vừa ý, vì thấy ý chỉ lắc đầu …
– Hừ …
– Lại tháo cả trường kiếm đeo trên vai xuống và hỏi ý kiến tiểu nhân nhưng tiểu nhân không dám đáp, vì thật ra tiểu nhân chỉ là thợ phụ không chuyên nghề rèn kiếm …
– Vậy bây giờ tên đó đâu ?
– Dạ, bỏ đi ngay sau khi biết chủ nhân bổn tiệm đi vắng.
– Đi về phía nào ?
– Về phía bến đò Temma.
Cả bọn lại ùa ra cửa, theo đường bờ sông trực chỉ bến đò Temma. Họ rảo bước, chẳng ai nói với ai lời nào, lầm lũi đi không nghỉ vì trời đã chạng vạng tối. Trăng hạ tuần chưa mọc, sương chiều bắt đầu bao phủ mặt nước làm mờ những ngọn cỏ lác ven sông và run rẩy các đốm lửa chài lúc ẩn lúc hiện tít tận đằng xa, phía bên kia bờ.
Gần đến bến, một người trong bọn kêu lên:
– Thôi rồi ! Nó trốn rồi !
– Sao ngươi biết ?
– Thì quán vắng ngắt, người ta đang xếp dọn bàn ghế. Vậy là thuyền mới nhổ sào, ta lỡ chuyến đò này rồi !
Thất vọng, cả bọn tản ra quanh bến, hỏi thăm người xung quanh thì được biết hồi chiều quả có một thanh niên với con khỉ lên thuyền đi đã hơn một khắc rồi. Tuy nhiên, theo họ, cũng chưa phải là trễ.
– Mùa này nước chảy xiết. Thuyền đi ngược dòng chậm lắm. Chư vị vào quán nghỉ chân một lúc đã, rồi cứ theo đường ven sông này đuổi theo đến bến Kurushi ắt là gặp vì thế nào thuyền cũng cập bến này đón khách.
Đồ đệ Hoa Sơn cho là phải, vào quán gọi bánh trà ăn uống, một lúc sau mới lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình.
Sông Temma là một phụ lưu của đại hà Yodo, về mùa nước lớn, ngã ba sông rộng mênh mông như biển. Bọn đồ đệ Hoa Sơn cứ cắm cúi theo đường mòn mà đi, răng nghiến chặt chống lại cái rét căm căm của gió bấc cuối năm. Trăng mọc đã lâu, trắng như sữa trên nền trời trong xanh không một vẩn mây và lạnh buốt. Bên đường, lá sậy khô đóng giá ánh lên dưới ánh trăng chẳng khác gì những lưỡi kiếm thép tí hon sáng lóng lánh.
Giữa sông, lẩn trong màn sương trắng đục, một khối xám lừ lừ tiến ngược dòng nước, ánh đèn chai thấp thoáng ẩn hiện.
– Thuyền kia rồi ! Đấy ! Thuyền ấy đấy !
Cả bảy người không ai bảo ai cùng rảo bước mau thêm. Sự khích động khiến họ quên cả lạnh. Chẳng bao lâu con thuyền hiện ra rõ hơn trước, tiếng mái chèo khua nước rào rào. Một người trong bọn nóng nảy bắc loa tay gọi lớn:
– Bớ thuyền ngoài kia ! Dừng lại !
Trên thuyền có tiếng đáp:
– Ai đó ?
– Dừng lại !
– Nhưng các vị là ai ? Muốn gì ?
– Ta muốn nói chuyện với một người khách mặc áo đỏ !
Lời nói vừa thốt ra, bọn Hoa Sơn thấy thật là dại dột. Đằng nào thuyền cũng ghé bến sắp tới. Thà cứ để yên như thế, bọn hắn chia nhau ra phục kích, chờ cho thuyền đậu, rồi bất ngờ nhảy lên tấn công, nếu không bắt sống thì cũng giết được tên trẻ tuổi xấc láo đó. Bây giờ làm náo động lên, nó nhảy xuống sông trốn mất hay ít ra cũng đã đề phòng. Sự tấn công thành ra mất một yếu tố quan trọng, khó khăn thêm ! Người đứng tuổi nhất trong bọn xem ra giận dữ lắm, bứt tóc giậm chân, tự trách mình ngu xuẩn.
Nhưng đã trót rồi, chỉ còn cách dọa và làm chủ đò sợ hãi.
– Chủ đò đâu ? Ghé thuyền vào bờ !
Không nghe tiếng đáp, chỉ thấy mái chèo vẫn đều đặn khua nước. Hiển nhiên trên thuyền, chủ và khách cho bọn này là thảo khấu bày chuyện để ăn cướp. Muốn an toàn, cách tốt nhất là cứ giữ cho thuyền đi giữa sông, gươm giáo nào đến gần được !
– Nếu không ghé vào bờ, đến bến ta lấy đầu chủ đò. Báo cho mà biết trước !
Trên đường mòn, cả bọn theo nhau đuổi con thuyền sát nút, thỉnh thoảng dừng lại nghe động tĩnh. Họ mang giầy cỏ, bước chân tuy êm nhưng vẫn làm đứt quãng những tiếng côn trùng kêu ri rỉ đều đều trong đám lau sậy.
Trời đã khuya lắm. Trăng sáng vằng vặc mà sương cũng bớt dần. Đò đến gần bến Kurushi, bọn Hoa Sơn chạy trước ra cầu tàu đón. Nhưng kìa lạ quá, sao thuyền không vào mà dừng lại ở giữa sông, quay hai ba vòng như do dự. Có lẽ trên thuyền đang có sự bất đồng ý kiến giữa hai phe hành khách, một phe muốn cập bến và một phe muốn thuyền đậu giữa sông chờ sáng hoặc đợi lính tuần đến bảo vệ.
– Gã tiểu tử hỗn láo mặc áo đỏ có đó không ?
Một người trong bọn Hoa Sơn hỏi lớn.
Tức thì thanh niên ôm con khỉ bước ra mũi thuyền:
– Bọn ngươi là ai ? Nếu không là giặc cướp thì cũng là đồ vô lại tùng tam tụ ngũ để làm bậy bắt nạt kẻ qua sông. Trong thuyền không có ai mặc áo đỏ , chỉ có ta. Vậy chắc bọn ngươi muốn gặp ta. Muốn cái gì ?
Tiếng xì xào nổi lên. Trẻ em và phụ nữ ngồi thu vào góc khoang niệm Phật. Trên bờ, một hai quán vội thổi tắt đèn, đóng cửa. Thời buổi nhiễu nhương, người dân thấp cổ bé miệng chỉ mong yên thân; đao thương không có mắt, kinh nghiệm đã dạy cho họ biết chẳng dại gì mà dính vào những chuyện tranh chấp không đâu.
– Tiểu tặc ! Hãy giữ mồm miệng. Chúng ta là người của Hoa Sơn đến hỏi tội ngươi đây !
– Muốn sống thì ghé thuyền vào bến, đừng để cho chúng ta phải trèo lên !
Thanh niên cười gằn:
– Đồ ngu ! Không biết tự lượng !
Chưa dứt lời, gã giật ngay cây sào trong tay người lái đò và chỉ đẩy vài cái, thuyền đã phăng phăng rẽ nước vào bờ. Con thuyền lướt tới càng lúc càng nhanh tưởng như sắp đâm sầm vào chân cầu gỗ. Mạn thuyền cọ vào chân cầu kêu rắc rắc, tiếng người la hét cùng với tiếng quang quác của những giống thủy cầm thấy động bay lên làm huyên náo cả khúc sông vắng.
Thình lình, một vật tròn đen xẹt qua ngọn lau, bắn thẳng vào vai tên đồ đệ Hoa Sơn đứng trước. Tên này luống cuống giật lùi vung gươm chém loạn. Cả bọn la hoảng.
Cầu tàu thì hẹp, bọn chúng lại đông, sự tháo lui vô trật tự khiến một tên trượt chân ngã lăn tòm xuống nước. Khi định thần nhìn kỹ lại thì mới biết đó là con khỉ. Chúng tức giận chửi bới om sòm.
Thanh niên áo đỏ đứng trên mui thuyền cười ha hả:
– Đây là chư vị kiếm sĩ Hoa Sơn đấy ư ? Giỏi quá ! Giỏi quá ! Ta chưa ra tay mà đã có kẻ uống nước rồi.
Nói vừa dứt câu, nhanh như cắt, thanh niên đã nhảy xuống cầu tàu, áo bào xòe rộng và lưỡi kiếm rút đánh soạt, lóe sáng dưới ánh trăng. Tên đệ tử Hoa Sơn đứng gần nhất chưa kịp trở tay đã bị lưỡi kiếm đâm suốt ngực. Rút kiếm ra, thân người chưa kịp đổ, thanh niên đã nghiêng mình né nhát gươm bổ xuống mạnh như vũ bão của tên Hoa Sơn thứ hai, đồng thời lia trường kiếm chênh chếch theo đường vòng cung từ trên xuống.
Một tiếng thét hãi hùng nhưng đứt quãng, đầu tên môn đệ Hoa Sơn thứ hai đã rơi tõm xuống nước. Mình gã còn quỳ trên cầu, hai tay nắm chặt chuôi kiếm và lưỡi kiếm chém vào thành gỗ vẫn bị giữ chặt ở đó. Máu từ cổ gã phun ra có vòi. Trước hai chiêu kiếm nhanh như chớp xẹt và chính xác cực độ của thanh niên áo đỏ, năm tên còn lại biết gặp phải tay ghê gớm, tản ra chung quanh như năm cánh hoa vây thanh niên vào giữa.
Chúng định lấy số đông áp đảo.
– Gi … ết !
Tiếng hét xung trận vừa được tung ra như sấm động, một tên đã nhắm hướng thanh niên đứng, chĩa kiếm đâm thẳng vào tựa tên bắn. Chỉ tiếc kỹ thuật còn kém lại không lường kịp phản ứng thần tốc của đối phương nên đường kiếm không trúng đích. Hắn quá đà chúi về đằng trước, chưa kịp gượng dậy đã bị thanh niên nhảy lên lưng đạp cho ngã sấp và dùng chiêu trảm nhạn hớt đầu tên đứng bên hữu khi tên này chưa kịp xuất thủ.
May sao, gã nhanh mắt, trầm mình xuống tránh khỏi, nhưng cũng bị thanh kiếm dài quá khổ chém xả vai. Tiếng rú thê thảm của hai đệ tử Hoa Sơn bất hạnh làm sởn gai ốc ba tên còn lại. Chúng hoảng hốt múa bậy vài chiêu rồi hè nhau bỏ chạy.
Thanh niên áo đỏ nhìn theo lắc đầu:
– Không biết Hoa Sơn còn cao nhân nào nữa không chứ nếu ai cũng thế này cả thì bất xứng quá ! Chả trách làm trò cười cho thiên hạ !
Vừa lúc đó, tiếng vó ngựa từ xa vẳng đến rồi thấy xuất hiện trên đê một kỵ mã, theo sau là một tên hầu chạy bộ. Ánh trăng khuya vằng vặc chiếu rõ trang phục của người cưỡi ngựa:
chiến bào màu vỏ dà viền kim tuyến, nón nan trên đầu, trường kiếm bên hông. Con ngựa ô khỏe mạnh đi nước kiệu, hơi thở phì ra đằng mũi như hai luồng khói trắng.
Ba đệ tử Hoa Sơn tháo thân chạy lên đê suýt đâm phải kiếm sĩ. Chúng khựng lại kịp, rồi đột nhiên cùng reo lên vui mừng:
– Đại ca !
Vì kiếm sĩ cưỡi ngựa đó chẳng ai khác hơn là Hoa Sơn Sĩ Khánh.
– Đi đâu thế này ? Sao lại ở đây ? Ta tưởng các ngươi phải còn ở nhà trọ chứ ?
– Dạ, xin đại ca xá lỗi. Bọn tiểu đệ ra đi từ sáng.
– Hừ ! Lại rượu chè ở đâu rồi ! Thật đáng phạt.
– Trình đại ca không phải thế. Vì bọn tiểu đệ được tin có một tên trẻ tuổi xấc láo phạm đến uy danh của bản phái, nên họp nhau truy nã.
– Đúng vậy không ?
– Bọn tiểu đệ đâu dám nói láo. Tiểu tặc đó ở gần đây. Nó tuy còn nhỏ tuổi nhưng dũng mãnh lắm. Đường kiếm của nó thần sầu quỷ khốc …
– Nói bậy ! – Tên tiểu đồ chạy theo ngựa của Sĩ Khánh vội cướp lời – Để mất lòng tự tin thì lâm trận thắng sao được ! Không đường kiếm nào thần sầu quỷ khốc bằng đường kiếm của đại ca !
Ba tên kia định kể thêm thì Sĩ Khánh ngăn lại:
– Thôi ! Ta biết rồi. Bây giờ tên đó đâu ?
– Dạ, ở đằng kia !
Và chúng chỉ tay về phía bến đò.
Vừa hay thanh niên áo đỏ đi tới. Dáng hắn lênh khênh, tay còn lăm lăm thanh trường kiếm mà hắn mệnh danh là “cây sào phơi”. Ánh trăng chiếu bóng và kiếm hắn đổ dài trên cỏ.
Ba tiểu đồ Hoa Sơn đưa mắt nhìn nhau, tên hầu ngựa Sĩ Khánh chạy vội tới trước, rút gươm quát lớn:
– Tiểu tặc này phải không ?
Và phóng chiêu ra liền. Thanh niên áo đỏ chỉ khẽ quay mình né tránh rồi thuận tay bổ xuống một nhát, tên hầu ngựa chúi về phía trước tưởng chết đến nơi, may sao chỗ đó gần bờ sông, đất lở khiến hắn rơi tòm xuống nước thoát được thế kiếm cực kỳ nguy hiểm. Lóp ngóp dưới sông, bùn và nước lạnh tràn cả vào mũi và miệng, hắn vừa sợ vừa tức. Nhìn lên thấy ba bạn đồng môn đang bị gã áo đỏ đánh tơi bời, hắn nằm im thin thít không dám chửi to, chỉ rủa thầm trong bụng. Kiếm hắn rơi đâu mất mà lòng tự tin của hắn cũng bỏ hắn rồi !
Trên bờ, bọn đệ tử Hoa Sơn chạy tán loạn không rõ về hướng nào. Thanh niên áo đỏ mắt sáng quắc lừ lừ tiến lại phía Sĩ Khánh. Tình thế khẩn cấp quá, Sĩ Khánh không ngờ cục diện thay đổi nhanh như thế. Lúc đầu hắn không sợ, vì dù sao phía Hoa Sơn cũng có tới bốn người không kể hắn. Bây giờ chỉ còn một mình hắn phải đơn độc chống với gã thanh niên dũng mãnh kia mà kiếm thuật của gã, hắn vừa được dịp quan sát, không phải là hạng tầm thường. Nhìn thanh trường kiếm dài quá khổ gã thanh niên áo đỏ sử dụng, đột nhiên Sĩ Khánh như sực nhớ ra điều gì. Một ý nghĩ vụt hiện, hắn gọi lớn:
– Giang Biên Liễu !
Rồi rút một chân khỏi bàn đạp để lên yên, tay hắn vỗ nhẹ vào đầu ngựa. Con ô câu hí một tiếng dài, co cẳng trước phóng qua đầu thanh niên trong khi Sĩ Khánh uốn mình như con tôm, lộn ngược lại phía sau đồng thời rút kiếm ra khỏi vỏ, đứng vững vàng cách thanh niên áo đỏ chừng non một trượng.
– Tuyệt hảo !
Lời khen nhiệt thành phát xuất từ một tấm lòng tri đắc, ngưỡng mộ làm Sĩ Khánh hả dạ. Là chưởng môn nhân một môn phái lớn, hắn quen được xưng tụng nhiều rồi, nhưng những lời xưng tụng ấy đều do thuộc cấp của hắn nói ra nên hắn coi thường. Giờ đây đứng trước một đối phương mà thành tích vừa qua làm hắn phải kiêng nể, đối phương ấy lại tỏ ra tâm phục hắn vì một xảo kỹ hắn vẫn thường tự hào thì bảo sao hắn không vui lòng cho được ! Và dĩ nhiên, Sĩ Khánh nắm ngay lấy lợi thế ấy. Bằng một giọng vui mừng, hắn gọi:
– Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc !
Thanh niên áo đỏ ngạc nhiên:
– Đại hiệp là ai, sao biết đến ngoại hiệu của tại hạ ?
Tiếng cười ha hả vang dội trong đêm vắng, tiếng cười vui vẻ, đắc thắng và pha chút hợm hĩnh. Sĩ Khánh vỗ đùi:
– Đại danh thiếu hiệp ai mà không rõ. Tại hạ được nhiều người cho biết uy danh đã lâu, bây giờ mới may mắn được gặp. Thật là đại hạnh !
– Nhưng đại hiệp là ai ?
– Tại hạ là Sĩ Khánh, chưởng môn phái Hoa Sơn, tri hữu của Y Tô khi ngài còn ngụ tại một căn nhà nhỏ ở ngoại thành Kyoto.
– Ồ thế ư ? Vậy đại hiệp là bạn của sư huynh tại hạ đấy !
– Đúng vậy !
– Nếu thế chúng ta là đồng đạo rồi, còn chống nhau làm gì nữa !
Và không chờ Sĩ Khánh phản ứng, thanh niên tra kiếm ngay vào vỏ.
Sĩ Khánh chỉ đợi có thế. Hắn cũng đút gươm vào bao, mở rộng tay nói:
– Hôm nay tại hạ hết sức vui mừng được gặp thiếu hiệp lại là huynh đệ của một bạn cố tri. Phải mời thiếu hiệp đến thăm tệ xá ở Kyoto mới được !
– Sẵn lòng lắm. Tiểu đệ hiện nay chưa có chủ đích gì, hơn nữa cũng muốn viếng Kyoto để cho sửa lại thanh kiếm. Vậy xin theo đại huynh.
– Thế thì còn gì bằng.
– À, có điều muốn hỏi sao đại huynh đoán được tiện danh, lại còn biết cả ngoại hiệu nữa ?
– Có gì đâu. Trong những lúc mạn đàm với Y Tô, ngài thường nhắc đến tên thiếu hiệp. Lại thường nói ngoại hiệu “liễu ven sông” do Cổ lệnh sư đặt cho thật đã lột tả được hết cái phong thái và kiếm thuật của thiếu hiệp nên tại hạ mới trông nhận ra ngay …
Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc vui vẻ cười thích thú. Lòng tự ái tuổi thanh niên được những lời ca tụng văn hoa của Sĩ Khánh thổi phồng lên bay bổng tựa diều gặp gió.
Hắn vỗ vai Sĩ Khánh cười ha hả:
– Hảo tri kỷ ! Hảo tri kỷ !
Thế là cả hai sánh vai nhau trở lại bến sông. Bọn đồ đệ bị đánh tan tác thấy tình thế đã yên, chưởng môn chúng cùng với thanh niên áo đỏ đi bên nhau ý hợp tâm đầu như đôi bạn lâu ngày thì lấy làm lạ nhưng yên bụng lắm. Cát Xuyên Mộc quay qua hỏi Sĩ Khánh:
– Tiểu đệ vẫn không hiểu chuyện gì làm quý phái sai người đuổi theo và tấn công tiểu đệ. Trộm nghĩ chắc chỉ do việc xích mích nhỏ trên thuyền buôn mà ra. Có phải thế không.
Sĩ Khánh vội gạt ngang để trấn an Cát Xuyên Mộc:
– Phải đấy. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Tại hạ thật rất ân hận về thái độ của Hồ Định. Để về Kyoto, tại hạ sẽ quở hắn.
– Không sao. Tiểu đệ nghĩ họ có một điểm hay là biết bảo vệ danh dự cho môn phái. Cái đó mới là chính. Kỹ thuật chưa cao thì trau dồi thêm, có gì đáng trách ? Thôi ta quên chuyện đó đi là hơn.
– Phải rồi, chẳng nên nói đến nữa.
Bèn hô bộ hạ tìm ngựa dẫn lại. Cát Xuyên Mộc cũng huýt sáo gọi. Con khỉ không biết từ đâu nhẩy đến ngồi trên vai. Cả bọn đến bến đò.
Nhìn thấy bọn đàn em, đứa nằm vắt trên cầu gỗ, đứa mắc vào đám sậy ven bờ, thân thể đã cứng đơ, lòng Sĩ Khánh thắt lại. Dẹp nỗi đau, hắn bảo bọn bộ hạ sống sót ở lại chữa thương và chôn cất những người xấu số, rồi cố lấy vẻ tươi cười mời Cát Xuyên Mộc lên ngựa. Nhưng Cát Xuyên Mộc từ chối:
– Đa tạ đại huynh, tiểu đệ đâu dám. Đại huynh chức vụ cao trọng xin cứ ngồi. Tiểu đệ niên kỷ cũng như danh phận đều kém đại huynh một bực, được đi cạnh cầm cương cũng đã hân hạnh lắm rồi !
Thấy không nài được Cát Xuyên Mộc, vả lại nghe hắn nói cũng phải, Sĩ Khánh trè o lên lưng ngựa nói:
– Vậy ta ngồi một lúc. Khi nào thiếu hiệp mỏi thì ta thay thế.
Trong thâm tâm, hắn mừng như mở cờ. Từ nay đến tiết nguyên tiêu không còn bao lâu nữa. Được tay kiếm tuyệt luân này giúp sức, Thạch Đạt Lang đâu còn là một đối thủ đáng sợ.
Chương 26: Đại bàng sơn
Vào hạ bán thế kỷ thứ mười lăm, những kiếm phái danh tiếng như Võ Đằng Tôn Các ở miền bắc, Bạch Hạc ở đông nam rất được võ lâm sùng mộ. Vùng Kyoto có Hoa Sơn, bấy giờ Khổ Bích còn giữ chức chưởng môn. Ở bang Kuwana, tướng quân Điền Quang Tĩnh nổi danh hào kiệt, vì không những ông là một danh gia kiếm sĩ mà còn là một nhà cai trị quyền uy và khôn khéo. Khi ông mất, dân chúng nhớ ơn người đã đem lại ấm no cho bang, lập đền thờ truyền tụng công đức ông mấy đời sau chưa dứt.
Điền Quang Tĩnh lúc còn trẻ là môn đệ Bạch Hạc phái. Nhờ có kiến thức và đức hạnh, Điền Quang Tĩnh được sư phụ đặc biệt yêu mến, truyền hết các bí quyết cho mà chính con ruột tiên sinh cũng không biết. Theo truyền thuyết thì sau khi sư phụ qua đời, Điền Quang Tĩnh đến lập nghiệp tại bang Kuwana, mở trường dạy võ. Sư huynh ông tới thăm, dùng mẹo hỏi về những chiêu kiếm kỳ bí ấy, Điền Quang Tĩnh chỉ điểm cho hết, song vì tư chất kém cỏi, vị sư huynh này không lý hội được, chỉ học có cái kỹ thuật bên ngoài còn cái tâm vốn là tinh hoa của Bạch Hạc kiếm thì lại sao lãng, nên Bạch Hạc kiếm miền đông nam không sao bằng được kiếm thuật của Điền Quang Tĩnh. Vì thế khi nói đến Bạch Hạc kiếm là phải đến bang Kuwana. Tiếc rằng từ sau khi Điền Quang Tĩnh chết đi, môn học ấy cũng thất truyền và bây giờ thì không còn mấy ai nhớ rõ những yếu quyết ấy nữa.
Trên đây là một trong những truyền thuyết cư dân vùng Kawana ưa kể lại cho khách vãng lai nghe khi học đặt chân đến vùng sơn cước này. So với các chuyện truyền ký khác nhuộm đầy vẻ thần bí phát sinh từ óc tưởng tượng của những người dân rất nặng lòng với mảnh đất quê hương trên đó họ đã cư ngụ hàng mấy mươi đời thì truyền thuyết này cũng không có gì xa sự thật mấy. Đền thời Điền Quang Tĩnh còn kia và danh ông vẫn còn lưu lại hậu thế như một nhà cai trị sáng suốt và một kiếm sĩ lỗi lạc.
Thạch Điền Đạt Lang nghe chuyện trên đây qua miệng người mã phu kể lại sau khi rời thị trấn Kuwana. Hắn chỉ gật đầu và thỉnh thoảng đáp vài tiếng nhát gừng lấy lệ.
Trời gần cuối năm, đang tiết đại hàn, gió tây bắc thổi lạnh buốt như cắt da thịt.
Thạch Đạt Lang mặc phong phanh có cái kimono mỏng, ngoài choàng một tấm áo khoác đã cũ nhàu nát và cáu bẩn, nhiều chỗ bụi đường bám loang lổ. Mặt hắn đen sạm, chiếc nón nan đội trên đầu tơi tả, giá có đánh rơi cũng không ai thèm nhặt. Tóc hắn buộc túm về phía sau, trông rõ ra cung cách kẻ giang hồ khất cái. Tuy nhiên đôi mắt sáng như sao, hàm răng trắng bóng, mỗi khi hắn ngước lên nhìn hay cười nghe chuyện người mã phu kể, khóe miệng cũng như tia mắt ấy có một cái gì ngây thơ tương phản hẳn với khuôn mặt khắc khổ sạm đen vì phong sương của hắn. Một cái gì rất hấp dẫn mà cũng rất quyền uy làm người đối thoại phải kính nể.
Người mã phu, khi nghe hắn gọi dẫn ngựa đến, đã có vẻ e ngại nhưng không cưỡng được. Bây giờ hắn đã ngồi trên lưng ngựa rồi, đi đã quá nửa đường, gã mã phu càng thấy khó có hy vọng đòi được tiền thuê của ông khách lại này ! Gã rụt rè nhắc:
– Thưa khách quan …
– Gì thế ?
– Chiều nay thì tới Kameyama, nhưng đến đêm chưa chắc đã tới làng Ujii được !
– Hừ …
Thạch Đạt Lang tuy nghe nhưng không để ý. Dường như hắn mãi ngắm cảnh vật xung quanh. Thực ra về mùa đông, rừng núi tiêu điều chẳng có gì đáng ngắm. Vài gốc cổ thụ trơ trọi đưa những cành đen khẳng khiu lên trời tựa những cánh tay gầy guộc, lá úa rụng đầy lối đi, những mảng rêu trên các tảng đá nứt nẻ đã đổi màu, chỗ vàng chỗ nâu sẫm. Duy chỉ có hàng tùng bách là vẫn xanh tốt, tàn lá sum sê không coi gió lạnh ra gì cả. Hàng tùng bách này hợp với tâm trạng hắn chăng mà sao hắn cứ quay đầu nhìn mãi?
– Ujii là một xóm nhỏ ở lưng chừng núi, vắng teo vắng ngắt, khách quan đến đấy làm gì ?
– Ta đến thăm một người.
– Chỉ có hai ba nông dân nghèo khổ ở đó làm rẫy cùng với mấy lão tiều phu già, chặt củi đốt than chứ có ai đâu …
– Tại Kuwana, ta nghe nói ở đó có tay giỏi nghề sử loại võ khí đặc biệt lắm.
– Chắc khách quan muốn nói Chu Kế Phong …
– Phải rồi, Chu Kế Phong. Nhưng đấy là họ, tên hắn là gì ?
– Tất Đạt.
– Ờ ! Chu Kế Phong Tất Đạt ! Phải rồi !
– Y làm nghề thợ rèn liềm và lưỡi hái. Y có chế ra một thứ võ khí giống như cái hái, lợi hại vô cùng, làm nhiều kẻ mất mạng. Thế ra khách quan cũng là kiếm sĩ đấy !
– Hừ … hừm …
– Khách quan là kiếm sĩ, hay để tiểu nhân dẫn đi Matsuzaka. Nơi đó có nhiều tay giang hồ hảo hán kiếm thuật nổi tiếng lắm.
– Những ai, kể ta nghe thử ?
– Trúc Vô Công Tử Hãn, Dương Nguyên Sinh chẳng hạn.
Thạch Đạt Lang gật đầu:
– Ta cũng có nghe tên những người ấy.
Hắn không nói gì thêm nữa khiến người mã phu tưởng ông khách lạ biết rõ, nhưng không lưu tâm. Cả hai, kẻ dẫn ngựa và người cưỡi ngựa theo đường núi gập ghềnh lầm lũi tiến về phía trước.
Đến Kameyama, Thạch Đạt Lang xuống ngựa, vào một quán ven đường ăn lót dạ.
Hắn bước khập khiểng vì vết thương ở gan bàn chân do cái đinh hắn dẫm phải khi còn ở trấn Kuwana bây giờ nung mủ làm hắn nhức nhối khó chịu. Hắn phải thuê ngựa cưỡi chứ không dám đi bộ. Thạch Đạt Lang xin chủ quán chậu nước, tháo dép ra coi, thấy chỗ vết thương đỏ ửng như quả hồng sắp chín, sờ vào nóng và đau lắm. Hắn rửa sạch, dùng vải buộc lại và tự trách đã vô ý để xảy ra chuyện đáng tiếc ấy.
Theo tiêu chuẩn của hắn thì như vậy là hắn thua cái đinh. Là kiếm sĩ, hắn đã không cảnh giác đến nỗi cái đinh nằm nhô đầu lên rõ ràng như vậy mà không tránh nổi:
giác quan của hắn chưa đủ linh mẫn. Tệ hơn nữa, sự phản ứng lại chậm chạp để đầu đinh xuyên qua dép và sâu trong gan bàn chân. Đáng lý ra hắn phải nhảy tránh ngay khi cảm thấy mũi đinh chạm vào da mới phải.
Thạch Đạt Lang bực bội về sự non kém ấy. Óc và toàn thân hắn chưa đồng nhất thì nội lực hắn dù có dồi dào đến đâu chăng nữa, những cảm nhận vẫn còn chậm chạp, xuất thủ không đủ thần tốc, chiêu kiếm sẽ vì thế mà kém phần uy mãnh.
Trên đường theo đuổi kiếm đạo, Thạch Đạt Lang luôn luôn bị ám ảnh bởi sự tận thiện tận mỹ, và những ám ảnh ấy đã làm hại đến lòng tự tin của hắn. Không lúc nào hắn không lo tự tu tự kiểm. Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua, nếu không được như thế, hắn cho là mình đang xuống dốc. Mặc dầu trong những năm gần đây, từ khi rời khỏi căn thạch thất, hắn đã giao đấu với nhiều người, một số là cao thủ võ lâm, nhưng vẫn chưa tìm được ai đáng gọi là người có khí phách, một người đủ nhân, trí, dũng xứng đáng là đối thủ của hắn.
Võ lâm tuy đông đảo, nhưng sự thiếu vắng mẫu người lý tưởng làm Thạch Đạt Lang thất vọng. Đôi khi hắn chỉ còn biết tự an ủi cho là vì mình chưa đủ từng trải nên chưa gặp. Những lúc ấy, hắn lại liên tưởng đến Đại Quán, nhà sư lạ lùng đã hé mở cánh cửa thiền, chỉ cho hắn thế nào là cái tâm của người cầm kiếm. “Đời người có số mệnh. Nếu số mệnh đã run rủi ta gặp Đại Quán thì ta phải cố gắng đừng để những lời ông chỉ bảo ta không mang lại kết quả”.
Thạch Đạt Lang tự nhủ. Đại Quán là một người khác thường. Không thể bảo ông là người bất trí. Quan niệm về nhân và dũng của ông cũng khác lạ. Nghĩ đến đây, hắn cảm thấy đau nhói ở cổ tay và cảm giác ấy lan dần ra khắp thân thể như cơn đau hắn cảm thấy khi bị treo lủng lẳng trên cành đại bách sau chùa Tiểu Sơn dạo nào. Cảm giác ấy phát sinh hoàn toàn trong cõi vô thức, hắn dùng ý chí dẹp đi và tự nhủ sau này sẽ tìm cách lừa và bắt Đại Quán trói vào cây đại bách như ông đã trói mình khi trước. Nghĩ như vậy, tuyệt nhiên hắn không có ý gì muốn trả thù, có lẽ chỉ muốn giải tỏa những ẩn ức. Nhưng ý nghĩ ấy khiến Thạch Đạt Lang mỉm cười. Đại Quán chắc không tức giận đâu, có lẽ ông chỉ mỉm cười mà nói:
“Đồ ngu. Cũng tiến bộ đôi chút đấy, nhưng làm thế để làm gì hở thằng ngốc ?.
Thạch Đạt Lang lạc trong những ý nghĩ mung lung ấy. Trong những lúc suy tư khắc khoải hoặc nghi ngờ khả năng của chính mình, hắn thường lên núi cao sống cảnh cô đơn tịch mịch giữa thiên nhiên. Hắn sống ra sao, chỉ có cây rừng, đá núi và hắn biết.
Lúc trở về, má hắn hõm, mặt hắn sạm đen, tóc cứng như rễ tre, quần áo lôi thôi lem luốc, nhưng mắt hắn sáng hơn, tựa như những hòn than hồng trong lò sẵn sàng tung ánh lửa ra xung quanh, thiêu đốt. Bấy giờ hắn không khác gì một con thú với sức mạnh vô biên, hung hãn, chỉ có hắn mới chế ngự được. Hắn ra đi, đông tây nam bắc, bất kỳ chỗ nào nghe nói có những quái nhân hay kiếm khách hơn người là hắn cũng tìm đến cho bằng được. Để tự chứng minh tài năng. Để củng cố lòng tự tin gần như ngạo mạn. Và cũng vì thế mà hắn có mặt tại sơn đạo ngày hôm nay.
Còn nửa tháng nữa mới đến tiết thượng nguyên, Thạch Đạt Lang không dằn lòng được khi nghe người ta nói đến Chu Kế Phong Tất Đạt nên nhất quyết đến vùng núi này tìm con chim lạ ấy:
Tất Đạt, một con người khí phách hay chỉ là giá áo túi cơm như muôn ngàn giá áo túi cơm khác hắn đã gặp trên bước đường hành hiệp ?
Thạch Đạt Lang và gã mã phu đến xóm Ujii thì trời đã khuya. Hắn cảm ơn, trả công xong, định vào trong xóm thì người mã phu giữ lại, rụt rè hỏi:
– Khách quan đến nhà ai ?
– Chu Kế Phong.
– Bây giờ khuya rồi, từ đây về đến trấn cũng hết đêm. Khách quan cho tiểu nhân theo được không ? Tiểu nhân ngủ ngoài hiên, tìm cái gì cho ngựa ăn, rồi sáng mai kiếm mối trở lại trấn, cũng được thêm chút tiền.
Nhìn gã mã phu, Thạch Đạt Lang thương hại. Thân thể gã gầy yếu, chiếc áo chẽn với sợi giây thừng thắt ngang lưng đã sờn rách, đôi dép cỏ mòn vẹt gót. Đêm nay lạnh, có thể có tuyết rơi, đi tắt đường nào thì cũng không về đến Kuwana trước khi trời sáng.
Hắn gật đầu:
– Vậy theo ta. Nếu không tìm được nhà Chu Kế Phong thì mình tìm chỗ khác !
Chu Kế Phong mở một lò rèn. Giá trời chưa tối, hỏi thăm quanh đấy chắc họ chỉ đường cho ngay, nhưng khuya khoắt thế này bất tiện quá. Trong thôn yên lặng, ngoài tiếng chày gỗ đập thình thịch đều đều, không còn nghe tiếng gì khác.
Thạch Đạt Lang đồ chừng có người còn giã gạo hay đậu gì đó, bèn cùng với người mã phu theo hướng tiếng chày mà đi tới. Một lúc sau thấy lập lòe ánh sáng qua lùm cây, rồi cả hai đến trước một căn nhà ngoài hiên than củi xếp ngổn ngang và lù lù một đống sắt vụn. Cánh cửa hé mở, ánh sáng vàng vọt của bếp lửa đặt giữa nhà bập bùng vẽ lên vách lem nhem mồ hóng những hình thù cổ quái đang nhảy múa. Trước bếp lửa, một người đàn bà ngồi xoay lưng ra ngoài, tay áo xắn cao, đang dùng một cái chày gỗ ra sức đập vào mớ quần áo để trên phiến đá.
Thì ra họ đã đến đúng cửa hàng lò rèn của Chu Kế Phong. Gã mã phu đẩy cửa bước vào. Người đàn bà giật mình kêu lên một tiếng ngắn.
– Chào bác. Trong này ấm quá nhỉ, bác cho sưởi nhờ chút.
– Ngươi là ai ? Hỏi gì ?
Gã mã phu đến ngồi xổm bên bếp, xòe hai tay ra đưa đi đưa lại trên ngọn lửa:
– Tôi là mã phu ở trấn dưới. Có khách quan đây muốn gặp bác Tất Đạt.
Người đàn bà quay ra, vừa lúc Thạch Đạt Lang bước vào. Nhìn y phục và dáng khập khiễng của hắn, thiếu phụ hơi cau mặt, giọng hách dịch:
– Đóng cửa lại ! Gió lùa làm thằng bé cảm bây giờ !
Thạch Đạt Lang lùi lại khép cửa rồi ra ngồi trên khúc gỗ cạnh vách. Phòng trong có tiếng động, thiếu phụ bỏ đống quần áo đang giặt, chạy vội vào. Thạch Đạt Lang nhìn theo thấy bà ta lật chăn, bế một đứa trẻ nhỏ lên cho bú.
Hắn đảo mắt nhìn quanh. Căn phòng hắn ngồi có lẽ là cửa hàng vì ở góc thấy có một cái bễ bỏ không, trên vách treo la liệt những lưỡi liềm, cuốc, dao phát và một vài nông cụ lặt vặt khác. Trần nhà mồ hóng bám đen, rủ xuống lòng thòng như thạch nhũ.
Gần cửa vào phòng trong, có treo một nông cụ hình thù quái dị hắn đoán chừng là món võ khí người mã phu nói đến hồi nãy. Mắt Thạch Đạt Lang sáng lên. Hắn để ý quan sát, quả là một thứ võ khí kỳ lạ, giống như cái gậy ngắn, rất tiện giắt thắt lưng, đầu có khoen, móc sợi dây xích sắt. Cuối sợi xích là một quả đầu tròn không biết làm bằng gì nhưng trông có vẻ nặng. Tiếng người đàn bà trong phòng vọng ra.
– Chắc khách quan cũng là một trong những lãng nhân giang hồ đi khất cái để tìm thầy học võ chứ gì ! May mà trượng phu ta đi vắng chứ nếu không thì hẳn không toàn thây ra khỏi chỗ này đâu !
Người mã phu tỏ vẻ bất bình. Gã nhìn vào phòng trong rồi liếc xéo Thạch Đạt Lang thấy hắn vẫn giữ vẻ điềm tĩnh. Thiếu phụ cười hích hích ra vẻ tự mãn và bằng lòng với câu nói này lắm. Không muốn để mất lòng người đàn bà, Thạch Đạt Lang hỏi:
– Thế ra Chu gia đi vắng hả ? Đi đâu vậy ?
– Đền Arakida.
– Đền Arakida ở đâu ?
– Đến Ise mà không biết đền Arakida thì lạ thật !
Tiếng thằng bé cựa quậy và khóc. Người đàn bà ru khe khẽ:
À ơi cái ngủ mày ngủ cho say Đừng theo những trẻ quấy ngày khóc đêm Cái ngủ mày ngủ cho bền Quấy nhiều khóc lắm chỉ phiền mẹ cha …
Tiếng ru nghe không rõ nhưng điệu ru thật quen thuộc. Nó gợi cho Thạch Đạt Lang nhớ lại những ngày tháng xa xôi thuở nào, khi hắn còn bé, bé lắm. Hắn ngồi im nhìn ngọn lửa bập bùng, lòng mềm hẳn lại, thèm khát một mái nhà êm ấm, một mối tình dịu dàng chưa bao giờ được hưởng.
Người đàn bà đặt đứa bé nằm yên, bước tới bên bếp lửa từ bao giờ và móc lên cái móc trên bếp một ấm nước rồi hỏi hai người:
– Uống trà nhá !
Thạch Đạt Lang không đáp, chỉ hất hàm về phía món võ khí treo bên cửa, hỏi thiếu phụ:
– Cái này của lệnh phu vẫn dùng đấy ư ?
– Phải ! Người đàn bà đáp với giọng hãnh diện. Trượng phu ta tự chế ra đấy.
– Ta coi một chút được không ?
– Được !
Thiếu phụ với tay tháo món võ khí trao cho Thạch Đạt Lang. Hắn nhấc thử quả cầu đúc bằng sắt to bằng quả cam thấy nặng chừng hai cân. Trong lúc giao đấu, vung cầu này lên trúng đầu địch thủ có thể làm vỡ sọ, trúng tay chân thì gãy tay gãy chân như chơi. Dọc cán cầm, có một cái rãnh và một nút bấm. Thạch Đạt Lang bấm nút, một cái lưỡi như lưỡi hái bật ra, cong cong tựa càng bọ ngựa, móc cũng được mà chém cũng được, thật là lợi hại.
– Loại võ khí này ghê gớm quá, nhưng không biết sử dụng ra sao !
Hắn cầm võ khí tay trái, tay phải giữ quả cầu sắt.
Tiếng người đàn bà cười hinh hích:
– Không phải thế ! Đưa ta chỉ cho.
Thiếu phụ nắm cán võ khí, thu sợi dây xích và quả cầu vào một tay, quay mình rồi xuất kỳ bất ý tung giây xích ra đánh rẹt. Sợi dây xích móc vào cây dao phát treo trên giá, cuốn luôn cây dao giật trở lại. Trong nháy mắt, cây dao đã nằm gọn trong tay trái thiếu phụ.
Thạch Đạt Lang và gã mã phu trố mắt nhìn. Gã mã phu xuýt xoa:
– Ghê thật !
Vợ Tất Đạt treo võ khí lên vách, nói:
– Công dụng của sợi dây xích là thế. Nó dùng để đoạt kiếm địch thủ. Nếu cần, bật lưỡi hái ra cắt tay địch thủ nếu hắn không chịu buông kiếm.
Thạch Đạt Lang trân trân nhìn người đàn bà. Đối với hắn, giờ đây thiếu phụ này là một người khác. Sau thủ pháp vừa rồi, bà ta không còn là một người tầm thường, đần độn nữa.
Vợ Tất Đạt ở lứa tuổi trung niên, da ngăm ngăm đen lại lùn, bình thường kể như vào hạng xấu. Nhưng sự khéo léo và nhanh nhẹn vừa qua, cách tung quả cầu ra và thu lưỡi dao về có một cái gì linh động, uyển chuyển khác thường làm hắn ngạc nhiên như vừa được xem một điệu vũ đặc biệt. Hắn hùa theo người mã phu:
– Ghê thật !
Và trong lòng hắn nghĩ không biết Tất Đạt ra sao, kỹ thuật sử dụng võ khí của y cao đến mức nào mà vợ y lành nghề như thế ! Ý tưởng này làm hắn càng háo hức muốn gặp Tất Đạt. Lợi dụng lúc thiếu phụ vào nhà trong lấy trà, hắn hỏi nhỏ người mã phu:
– Đền Arikida là đền gì, ở đâu ?
– Đó là đền xử nữ, thờ thần Thái Dương, ở cách đây mấy dãy núi. Dòng họ Arikida trông nom đền, trồng trọt lấy thóc lúa và hoa quả dùng vào việc cúng lễ.
– Vậy ta tìm Tất Đạt chắc cũng không khó.
Họ uống trà đến khuya. Khi vợ Tất Đạt vào nhà trong rồi, cả hai chia phiên nhau canh bếp lửa tới sáng.
Hôm sau, Thạch Đạt Lang trở dậy sớm. Vết thương ở chân hắn sưng to. Hắn lên cơn sốt không đi bộ được nữa nên lại phải thuê ngựa cưỡi đến trấn Yamada nghỉ tạm. Ở đó có chỗ trọ tử tế và may ra có lương y chữa trị. Thạch Đạt Lang ngỏ lời với người mã phu, được gã bằng lòng ngay vì thấy ông khách lạ này cũng sòng phẳng tử tế, và nhất là ở Yamada dễ tìm được khách thuê ngựa đi ngược trở lại trấn Kuwana hơn.
Qúa trưa, Thạch Đạt Lang đến Yamada, tìm chỗ trọ, trả tiền mã phu, rồi mượn người đến đền xử nữ hỏi thăm tin tức Tất Đạt.
Yamada là một thị trấn nhỏ hẻo lánh, về mùa đông lại càng vắng vẻ. Vài chục ngôi nhà gỗ nghèo nàn bên một sơn đạo, tuyết rơi đêm trước còn phủ trắng mái nhà và lấp kín những gốc cây đổ sau trận bão vừa rồi. Quán Thạch Đạt Lang ở trọ là một trà thất đơn sơ, hắn cũng lại là người khách duy nhất trong quán. Rủi cho Thạch Đạt Lang, trấn này trước đây vẫn có tiệm thuốc, nhưng nay vì vắng khách, không còn ai ở lại hành nghề nữa. Người hắn mướn đi hỏi tin tức cũng đã về, nói không có ai tên Tất Đạt ở đền Arikida cả, Thạch Đạt Lang thất vọng, đành ngồi trong phòng chuyên tâm vào việc trị thương. Nghe nói dùng quả muồng muồng giã nhỏ đắp vào chỗ đau có thể khỏi, hắn cũng làm theo. Mùi muồng muồng xông lên hắc và ngái khiến hắn buồn nôn và hối hận đã rẽ vào vùng này mà chẳng được việc gì. Chỉ còn vài ngày nữa hết năm, Thạch Đạt Lang đã viết thư gửi đi, hẹn tiết Nguyên tiêu trở lại Kyoto gặp Hoa Sơn phái, không lẽ bây giờ hủy bỏ cuộc gặp gỡ ấy chỉ vì cái chân đau. Lại còn việc hội ngộ với Mãn Hà Chí ở đại kiều đường Gojo nữa. Suy đi tính lại, việc quan trọng nhất bây giờ là phải làm sao cho vết thương ở chân được lành đã rồi rời nơi này ngay để đi Kyoto thì mới kịp.
Đêm ấy Thạch Đạt Lang sốt nặng. Chủ quán đến săn sóc cho hắn, lột bỏ lớp đậu muồng muồng đi và rửa sạch chỗ chân đau, buộc lại cẩn thận. Sáng hôm sau cơn sốt lui nhưng vẫn còn sưng và đau lắm. Hắn có cảm tưởng như đeo một cục chì. Trong đời, Thạch Đạt Lang chưa bao giờ bị bệnh nặng đến phải nằm liệt giường ba ngày liền, ngoại trừ một lần, lúc còn nhỏ bị cái nhọt trên đỉnh đầu.
“Bệnh hoạn thật là một kẻ thù đáng sợ mà ta không làm gì được ! Kẻ thù bên ngoài còn dễ đối phó, chứ kẻ thù từ trong ra, nó ăn ruỗng cơ thể và tâm hồn mình lúc nào không hay, khó mà lường nổi”. Nhưng nghĩ như thế, hắn lại thấy tâm thần khích động cho đó là một thách đố. Hắn tung chăn ngồi dậy, lẩm bẩm:
“Một vết thương nhỏ như thế này mà mình không quyết tâm khắc phục thì làm sao đương đầu với cả Hoa Sơn phái ?”.
Hắn nghiến răng chịu đau, thu chân lại ngồi theo thế kiết già, nước mắt chảy ràn rụa, tưởng ngất đi ngay trong lúc ấy. Nhưng sau một khắc tự chủ, hô hấp trở lại điều hòa, hắn thấy mắt bớt hoa, mạch máu hai bên thái dương dường như bớt đập mạnh và trong người thư thái hơn trước. Trước ý chí mãnh liệt của hắn, con quỷ đau đớn đã nhường bước, hắn nghĩ vậy. Thạch Đạt Lang nhắm mắt, hai tay để lên đùi, tập trung hết ý chí vào việc điều hòa kinh mạch, đẩy máu độc ra ngoài. Mồ hôi vã ra như tắm, hắn cảm thấy vết thương dưới chân đang nứt ra, lần vải buộc ướt nhớp nháp.
Một lúc sau dừng lại, hắn duỗi chân. Lại lần nữa sự đau đớn làm mặt hắn co rúm.
Thạch Đạt Lang thong thả cởi lần vải ngoài, quả nhiên máu mủ đã loang đầy mấy lần vải trong, ướt đẫm. Máu đen và mủ đặc vẫn tiếp tục ri rỉ chảy từ miệng vết thương ra, nhưng máu mủ chảy đến đâu, hắn thấy nhẹ người đi đến đấy. Hắn gọi người hầu lấy chậu nước, rửa sạch chỗ đau, buộc lại bằng vải mới, rồi ngồi xếp bằng nhìn ra ngoài.
Trước cửa sổ, rừng bách trải dài trên tuyết, gần đấy là đồi Mi Sơn, xế về phía đông, đồi Thạch Ấn nhô đầu khỏi hàng bách tuyết phủ trắng xóa. Giữa hai quả đồi là một ngọn núi cao, sườn dốc và trên đỉnh một tảng đá lớn nhô ra trông tựa mỏ chim. Trái núi giống con đại bàng nghiêng đầu nhìn cánh rừng trước mặt. Thạch Đạt Lang càng nhìn càng thấy giống, không ngờ chính ngọn núi ấy mang tên Đại Bàng sơn, một tên do dân địa phương đặt cho không biết tự bao giờ.
Trông ngọn núi ngạo nghễ, hắn nghĩ đến Trúc Mộ tiên sinh, từ trên mây nhìn xuống, chế giễu sự yếu đuối, vô dụng của hắn. Thạch Đạt Lang nóng nảy muốn đi ngay, làm một cái gì, không phải vì hiếu thắng mà vì muốn chứng tỏ với chính mình sự quyết tâm và ý chí khắc phục trở ngại. Nhu cầu ấy cấp thiết, từ trong cõi sâu kín nhất của tâm thức thôi thúc, không cho hắn trì hoãn, mặc dầu cơ thể hắn đang trải qua cơn đau đớn ê chề. Hắn gọi chủ quán đến tính tiền, gói cho một ít lương khô để ngày hôm sau đi sớm.
Hôm sau, mới đầu giờ mão, Thạch Đạt Lang đã trên đường dẫn đến đền Arikida.
Mỗi bước chân đi là một khó nhọc vô cùng, cơn đau dày vò làm hắn có cảm tưởng như chân sắp rời ra từng mảnh. Thạch Đạt Lang biết rõ chuyện đó từ khi rời khỏi quán, nhưng hắn nghiến răng mà đi vì đây là một thử thách. Lội qua nước suối lạnh buốt, sang đến bờ bên kia thuộc địa phận đền Arikida, hắn gục xuống bên gốc cổ tùng rễ nổi cao trên mặt đất. Không khí trong lành, phong cảnh tịch mịch quanh ngôi đền và từ xa, xa lắm mơ hồ vẳng lại tiếng sáo theo một điệu nhạc cổ làm hắn thiếp đi. Trong giấc mơ, dướng như hắn nghe tiếng chim hót và cả tiếng nghẹn ngào đứt quãng của những thiếu nữ hát đệm trong những buổi tế lễ xưa.
Thạch Đạt Lang tỉnh dậy, nắng đã chan hòa đổ trên các mảng tuyết chưa tan. Hắn chỏi mắt, lấy tay sửa lại chiếc nón rồi men theo bờ suối đi ngược lên, khó nhọc trèo qua những tảng đá rêu phủ trơn trượt. Được một quãng thấy bức tường đất chắn ngang, chỉ còn để lại một lối đi nhỏ, và gần đấy có cửa khép kín, Thạch Đạt Lang tháo kiếm và hành trang dựa cửa ngồi nghỉ. Hắn lấy lương khô ra ăn, múc nước suối uống rồi ngồi trên bờ suối cởi vết thương ra xem. Vết thương tuy còn đau nhưng đã đỡ nhiều, không sưng tấy lên như trước. Thò chân xuống nước lạnh, hắn lại thấy dễ chịu, nên nghĩ sao, cởi luôn quần áo nhảy xuống tắm. Hắn vùng vẫy, ngụp lặn dưới nước, tưởng như muốn để cho dòng nước trong sạch này rửa hết mọi nhơ bẩn của tâm hồn và thân thể cho hắn được thanh khiết hơn.
Nghe tiếng chim véo von, hắn cũng hòa theo mà ca hát. Giá có ai đi qua nhìn Thạch Đạt Lang tắm vào lúc này tất cho hắn là một thằng điên, vì hỗn hào bị thần linh quở phạt như trước đây đã phạt hóa điên một tên thợ săn vào bắn trộm chim trong đền.
Đối với Thạch Đạt Lang, sự tắm nước lạnh và dự định trèo lên đỉnh Đại Bàng sơn ngày hôm nay có một ý nghĩa đặc biệt. Cuộc giao đấu với Hoa Sơn phái là cuộc giao đấu sinh tử. Hắn không sợ chết, cũng không muốn chết anh hùng. Hắn muốn thắng một cách anh hùng nên hắn phải chuẩn bị. Để có một ý chí vững chắc như sắt đá. Để có một lòng tự tin không gì lay chuyển.
So sánh với Trúc Mộ tiên sinh, Ngộ Không lão tăng và Đại Quán thiền sư, rõ ràng hắn còn yếu đuối, chưa đủ trưởng thành để biết phải làm gì và làm vào lúc nào. Cho nên hắn phải học cái dũng của họ, cái dũng của kẻ chiến thắng bản thân trước khi chiến thắng ngoại vật.
Thạch Đạt Lang bơi sang bên kia suối, chui qua ngọn thác nhỏ, nước đổ xuống như trăm ngàn lưỡi dao bén chém vào da thịt. Da hắn đỏ au. Dưới chân hắn là vực sâu, bên kia, ngọn Đại Bàng sơn lừng lững đè lên hắn. Thạch Đạt Lang đã quyết tâm chưa, đủ nghị lực chưa ? Bây giờ là lúc quyết định. Hắn hét to, vang động cả sơn cốc:
– Ta sẽ thắng !
Tiếng vọng từ khắp các vách đá dội lại, thôi thúc, cổ võ:
– Ta sẽ thắng ! Ta sẽ th … ắng ! Ta sẽ th … ắng …
Nắm một dây leo dài, Thạch Đạt Lang đánh đu xuống vực rồi chuyền cành nọ sang cành kia, chẳng mấy chốc đã đứng dưới chân núi. Nhìn hắn trần truồng leo qua những cành cây, bám vào ghềnh đá mới thấy sự táo bạo vô biên của hắn. Chỉ một cái xẩy tay hay trượt chân là tan xác. Không khác một người tiền sử ra sức chế ngự thiên nhiên để tìm sự sống. Gió núi thổi ào ào, tai hắn ù đi. Mỗi lần bám vào vách đá cao để leo lên, hắn lại gọi tên người hắn muốn tranh thắng. Này Đại Quán này ! Này Ngộ Không này ! Này Trúc Mộ này ! Hắn trèo. Hắn đạp. Hắn bấu. Chỉ còn vài trượng nữa là tới đỉnh. Da hắn gai cào sứt đến rướm máu. Một chút cố gắng nữa ! Một chút nữa thôi !
Nói thì dễ nhưng làm thật khó. Chút cố gắng ấy chính là để phân định sự khác biệt giữa lưỡi gươm chiến thắng và lưỡi gươm chiến bại.
Thạch Đạt Lang và trái núi bây giờ là một, nhưng trái núi ngạc nhiên và không muốn người ta làm rộn nên thỉnh thoảng lại đổi xuống rào rào sỏi với đá, không kiên trì bám vào những bụi cây mọc chồi ra, có lẽ đã bị kéo văng xuống vực rồi !
Đột nhiên, trong một cố gắng phi thường, Thạch Đạt Lang rướn mình đi lên bám vào một phiến đá. Hắn nằm sấp trên phiến đá ấy, trông ra bốn bề không có gì ngăn cản, chỉ thấy trời xanh biếc. Bên dưới, mây nhẹ như khói bao phủ cả một vùng.
– Thắng rồi ! Ta thắng rồi !
Hắn đã lên tới đỉnh, bao nhiêu sức lực như sợi dây cung căng quá độ đứt phựt, bỏ hắn. Thạch Đạt Lang thở hắt ra, nhắm mắt, bất tỉnh.
Khi tỉnh dậy, hắn nhìn xuống chân. Máu mủ ở vết thương tuôn ra, Thạch Đạt Lang tưởng như đang kéo trôi tất cả những nhu nhược và mặc cảm của hắn. Trong cái thanh khiết chốn cao sơn dường như có mùi tinh lực con người, mùi dịu ngọt của phiền não đang tiêu tán.
Chương 27: Phù du trước gió
Buổi kinh sớm vừa xong, toán lễ sinh ôm sách theo nhau đến học quán. Họ toàn là xử nữ được tuyển dụng vào đền Arikida phụ giúp việc tế lễ và ca múa nên ngoài phần vụ hàng ngày, còn phải học thêm cổ thi và nhạc lý. Trong những buổi lễ chính thức, toán thiếu nữ lễ sinh vận đồng phục áo trắng, quần lụa ống rộng màu huyết dụ gọi là hakama, nhưng ngày thường, đồng phục của họ là kimono ngắn tay và hakama bằng vải trắng.
Đền Arikida ở biệt lập một khu trên ngọn đồi cao, kiến trúc đơn sơ nhưng cổ kính, trong một khung cảnh u tịch. Đền ở xa các sơn đạo nên ít khách vãng lai. Nếu có ai muốn đến chiêm bái thì phải gọi cổng, thủ đền đích thân ra hướng dẫn vào đại sảnh.
Quanh đền lũy đất đắp cao quá đầu người, chỉ để một cửa nhỏ thông ra suối.
Hôm ấy, phụ trách việc quẩy nước vào đền là hai thiếu nữ lễ sinh tuổi chừng đôi tám. Cả hai mang gàu tre từ nhà bếp đi ra chuyện trò ríu rít, bước chân ngắn và mau vẽ thành những vệt dài trên cỏ ướt.
Đến cổng sau, vừa mở cửa, nàng nhỏ tuổi nhất giật mình lùi lại đưa tay lên miệng giữ tiếng kêu khẽ. Vì cái túi vải không biết của ai để đó từ bao giờ, theo đà cửa mở, lăn vào trong thềm đá.
– Mô Phật !
Cả hai nhìn chiếc túi vải chằm chằm. Túi bằng vải khô màu chàm đã bạc vì mưa nắng, miệng sờn rách, đổ nghiêng đè lên một thanh kiếm gỗ, vỏ đen bóng như mun.
– Túi này của ai ?
Hai thiếu nữ phân vân nhìn nhau. Cô lớn lẩm bẩm:
– Đồ ăn trộm. Chắc đồ ăn trộm rồi ! Kẻ nào đem vào đây giấu …
Không ai bảo ai, họ thò đầu ra ngoài cổng nháo nhác nhìn quanh rồi bỗng nhiên ù té chạy về hướng bếp. Đến dãy nhà gỗ dùng làm phòng vãng lai cho khách, họ tranh nhau gọi:
– Cô nương ! Cô nương ! Ngoài cổng sau có vật gì lạ lắm !
Oa Tử bỏ dở quyển kinh đang chép, đặt vội xuống bàn chạy ra.
– Có cái túi vải của ai để ngoài cổng. Bọn tiểu nữ chắc là đồ ăn trộm.
– Sao không đem vào đưa cho lão quản ?
– Không biết bên trong đựng gì. Bọn tiểu nữ sợ lắm !
Oa Tử tò mò, định cùng ra cổng sau với hai thiếu nữ, nhưng thấy họ lộ vẻ hoảng hốt quá nên thôi. Nàng ân cần bảo:
– Vậy để ta coi. Các em vào làm việc khác đi vậy !
Nhìn chiếc túi vải nằm chơ vơ bên cánh cổng khép hờ, Oa Tử có cảm giác kỳ lạ.
Chiếc túi cũng cô đơn như nàng, cũng phiêu bạc như nàng. Chủ nó là ai, ở đâu, nàng không biết, nhưng trông cái màu chàm đã bạc, cái miệng túi đã sờn, nàng đoán chắc người mang nó cũng phong sương lắm. Oa Tử cúi xuống lấy tay nhấc thử thấy nặng quá, bèn dùng cây gươm móc vào miệng túi mà kéo lê trên cỏ.
“Nặng thế này mà cũng đeo được !”. Thế rồi động lòng trắc ẩn, nàng lại thương kẻ vô danh.
Đã hơn hai tháng nay, Oa Tử và Giang đến tá túc ở ngôi đền này sau khi lang bạt trên khắp các ngả đường đi tìm Thạch Đạt Lang. Bấy giờ là mùa đông, nhiều sơn đạo tuyết phủ kín, sức nàng yếu đuối chắc không thể nào tiếp tục được. Nhân một buổi trọ tại lữ quán kia, nàng đem sáo ra thổi cho vơi niềm u uẩn thì được một khách quan chú ý.
Không ngờ khách lại là một người có chức vị trong đền Arikida, mời nàng về dạy nhạc cho các xử nữ. Ở hoàn cảnh tứ cố vô thân như nàng bấy giờ, thôi thì đâu cũng là nhà, khác gì cánh phù du mùa đông mặc cho gió đưa đẩy. Nàng gật đầu ưng thuận.
Thế là Oa Tử và Giang được vị khách quan kia dẫn về đền. Chỉ phiền một nỗi Giang lại là con trai, mặc dầu còn nhỏ tuổi, nhưng theo luật lệ không được phép ở cùng một khuôn viên với các xử nữ. Vì thế người tá điền giao cho nó việc phụ giúp lão làm vườn và buổi tối cùng ngủ chung trong vựa củi với lão.
Thời gian trôi qua, Oa Tử càng ngày càng yêu cảnh u tịch của ngôi đền. Thông reo gió sớm, giọng chim lảnh lót lúc ban mai, và những buổi chiều tà, tiếng vạc kêu sương gợi cho nàng biết bao hoài cảm. Có những lúc ngồi lặng trước cảnh yên tĩnh của thiên nhiên, Oa Tử ngơ ngẩn xuất thần mặc cho hồn phiêu diêu ngược dòng thời gian trở về những năm tháng cũ. Nàng tưởng như đương ngồi trên bực đá ở thềm chùa Tiểu Sơn, lòng lâng lâng không vương vấn. Những lúc ấy, Oa Tử lại đem sáo ra thổi:
thanh ba tinh khiết của tiếng trúc dâng cao, lòng nàng quyện vào những âm thanh đó mỗi lúc một say sưa làm nàng ngây ngất.
Đằng xa, một vệt khói xanh bốc lên trong khu vườn hoang. Oa Tử nhớ đến Giang, tội nghiệp thằng bé đã phải lao động cực nhọc ở cái tuổi mà trẻ con chỉ biết chơi đùa.
Chắc bây giờ nó đang nhặt cành khô và đốt lá. Nàng bắc loa tay gọi lớn:
– Gi … ang ! Gi … ang ơi !
Có tiếng đáp và lúc sau, Giang chạy tới. Bộ mặt đen đủi lém lỉnh của nó loang loáng dưới ánh nắng qua khe những cành cây trong vườn. Giang lấy tay quệt mồ hôi trán, toét miệng cười:
– Ngỡ là ai. Cô nương gọi em làm gì vậy ?
Đột nhiên, Giang nhìn thấy cái túi vải Oa Tử để bên cạnh:
– Cái này của ai thế ?
Vừa hỏi, Giang vừa giơ tay định kéo cái túi, nhưng Oa Tử ngăn lại:
– Không được ! Không biết của ai. Để ta gọi người mang lên giao cho lão quán.
Không được đụng đến đấy !
Bỗng từ xa, một lễ sinh chạy tới trước mặt Oa Tử:
– Xin mời cô nương về ngay. Viện chủ muốn gặp.
– Thế à. Ta về ngay đây. Nhân thể nhờ em mang cái túi này trao cho lão quản, để hễ có ai đến hỏi thì hoàn lại cho họ.
Giang nhìn cái túi vải và thanh gươm người thiếu nữ lôi đi, mắt nó buồn và môi bậm chặt. Nắng sáng rọi qua cành thưa, vài chiếc lá khô còn sót lại rủ bóng loang lổ lên mặt Giang khiến miệng nó trông như mếu. Oa Tử nhìn Giang lo lắng hỏi:
– Chuyện gì thế em ? Em nhìn gì vậy ?
Giang lắc đầu buồn bã:
– Không ! Em trông cái túi và thanh gươm, lại nhớ đến thầy em !
Nghe Giang nói, Oa Tử không nén được xúc động, mắt đỏ hoe. Nghe lời Đại Quán, nàng đã cố quên con người ấy, nhưng hình ảnh Thạch Đạt Lang vẫn luôn luôn ám ảnh. Lời nói của thằng bé khơi dậy sự nhớ thương mãnh liệt làm Oa Tử đau khổ vô cùng.
Nàng có cảm tưởng nó như cơn đau răng, lúc bận quên đi thì thôi, nhưng hễ ai động đến thì nhức nhối. Nỗi đau nhọn sắc tựa gai đâm sâu vào vết thương chảy máu. Đại Quán chưa yêu, hay không biết yêu là gì, hiểu thế nào được tâm trạng của nàng lúc ấy. Nàng đưa tay áo lên chùi nước mắt, lầm lũi bước đi. Có lẽ nàng phải bỏ nơi này, dù gian nan đến mấy cũng chịu, chỉ cốt nhìn mặt người yêu, ghé đầu vào ngực người nàng thương nhớ. Vui buồn lẫn lộn, nước mắt lại trào ra, hình ảnh Thạch Đạt Lang nhòe nhoẹt. Như trong giấc mơ, ảo tưởng làm Oa Tử quên cả thực tại khiến hai lần Giang phải chạy đến lo ngại hỏi:
– Cô nương ! Cô nương làm sao thế ?
Mãi khi thằng bé kéo áo, ngập ngừng:
“Cô nương giận em đấy à ?”. Oa Tử mới sực tỉnh. Nàng gượng cười với thằng bé:
– Không. Ta có tâm sự buồn. Thôi em đi làm đi, ta lên xem viện chủ bảo gì, đến bữa chiều sẽ lại gặp em.
Viện chủ Arikida gọi văn phòng của ông là Văn Mặc Viện, nơi ông vừa tiếp khách, vừa hội họp và nghiên cứu cổ thư để soạn thảo văn liệu cho đền. Sát với viện là một ngôi nhà gỗ dùng làm trường học cho các lễ sinh, đồng thời cũng là nơi dạy dỗ một số các trẻ nhỏ trong mấy quận lân cận. Ông có ý dạy cho phái thiếu niên biết về cổ sử Nhật, một điều mà các nhà giáo dục thời bấy giờ cho là vô ích. Nhưng ông, ông nghĩ khác. Đa số dân chúng thường có khuynh hướng liên kết quốc gia với lịch sử các triều đại, nên chỉ giữ lòng trung với một triều đại nào đó thôi mà quên mất lòng trung với quốc gia. Hưng vong của giai cấp, họ cho là hưng vong của cả dân tộc, họ chỉ biết xả thân cho giai cấp, vì vậy cảnh tương tàn phe phái làm quốc gia suy yếu. Cho nên ông đi tìm cái gốc, dạy cho trẻ hiểu đâu là nguồn, hy vọng sau này sự tha thiết với nguồn gốc sẽ đơm hoa kết trái để dân tộc còn mãi với thời gian.
Với lòng thành khẩn, kiên trì, ông san định lại cổ thư, phả vào đó luồng sinh khí mới để phái thiếu niên dễ cảm thông với cổ nhân hơn. Ông làm việc ấy cả mười năm rồi, tuy chưa đáng gọi là có kết quả gì đặc biệt nhưng dân trong vùng đã giác ngộ:
triều đại này suy vi, triều đại kia hưng thịnh thì đó cũng chỉ là những chuyển biến của quốc gia, tỷ như những ngôi sao lúc mọc, lúc lặn, ánh sáng mờ nhạt không thể bì với ánh thái dương, tiêu biểu cho dân tộc được.
Viện chủ Arikida vừa ra khỏi phòng học thì một lễ sinh đã đến trình với ông là Oa Tử đang chờ ở viện. Ông sực nhớ ra, có vẻ bối rối:
– Ờ, ta quên khuấy đi mất đấy.
Bèn vội vã vào văn phòng. Gặp Oa Tử, ông nhã nhặn xin lỗi:
– Để cô nương phải chờ, lão phu thật đắc tội. Cô nương tới đã lâu chưa ?
– Dạ, tiện nữ cũng vừa đến. Viện chủ cho gọi có việc gì ?
– Không quan trọng lắm, nhưng có đôi chút liên quan đến cô nương. Cô nương dùng trà đã.
Vừa hay, lão quản bước vào, nói nhỏ với viện chủ điều gì. Ông nghiêm sắc mặt, khẽ gật. Quay sang Oa Tử, ông hỏi:
– Cô nương có nghe lão quản vừa nói gì với ta không ?
– Dạ, tiện nữ đâu dám vô lễ.
– Một cái túi vải và thanh kiếm vừa được tìm thấy trong khuôn viên đền. Chắc không phải do khách thập phương đến chiêm bái để lại.
– Tiện nữ đã biết.
– Cô nương biết rồi ?
– Dạ ! Chính tay tiện nữ kéo vật đó từ cổng sau vào và đã nhờ một em lễ sinh mang giao cho lão quản.
Viện trưởng lặng thinh, nhìn Oa Tử, lúc sau mới nói:
– Chắc lại của một kiếm sĩ nào đó muốn chọc ghẹo người trong đền thôi.
– Viện chủ nghi có kẻ đột nhập đền xử nữ này chăng ?
– Có thể lắm. Nhân chuyện này, ta cũng muốn nói đến việc của cô nương.
– …
– Thật là bất đắc dĩ. Cô nương hẳn hiểu ta không có ý gì …
– Xin viện chủ giải thích thêm, tiện nữ quả không biết rõ.
Viện chủ Arikida thở dài, vẻ bối rối ra mặt:
– Chuyện không quan hệ, nhưng không nói thẳng để cô nương biết thì không được.
Nhiều người xầm xì về việc ta để cô nương ở trong đền cùng với các xử nữ. Cô nương biết đấy, vì tiếng tăm của viện …
– Thưa viện chủ, tiện nữ đã làm gì …
– Không ! Không ! Cô nương đừng giận. Ta không trách, trái lại còn rất cảm ơn. Cô nương đã giúp rất nhiều cho viện. Nhưng … nhưng … Ông bối rối gãi râu … Cô nương đã từng trải, trên bước đường lịch lãm, hẳn không tránh được việc gặp gỡ phái nam. Cô nương tha thứ cho, hoàn cảnh cô nương không hợp với tiêu chuẩn của bản viện, nên có điều …
Mặc dầu viện chủ đã rào trước đón sau, dùng những mỹ từ để che giấu điều khó nói, Oa Tử nghe vẫn khó chịu. Nàng bực bội. Quả thật, Oa Tử đã đi nhiều nơi, làm nhiều nghề độ nhật, lại luôn luôn mang hình bóng một người đàn ông trong tim, nhưng thật nàng vẫn còn là xử nữ. Bông hoa trên suối, theo dòng nước cuốn đi, ai biết đâu vẫn còn phong nhụy !
Hai hàng nước mắt trào ra, vừa thương phận mình, vừa giận người, Oa Tử cảm thấy tắc nghẽn ở cổ họng.
Viện chủ Arikida còn nói nhiều, nhưng nàng có nghe gì đâu. Nàng cũng chẳng muốn trần tình, chỉ ghê cho miệng lưỡi thiên hạ. Thôi thế cũng xong, lòng nàng tuy lưu luyến nơi này nhưng sự ra đi chẳng phải do nàng đề nghị. Phù du đâu quản gió đông, một lần nữa lưu lạc, biết đâu may mắn chẳng gặp người nàng mong ước ?
– Tiện nữ xin đa tạ viện chủ đã cho tá túc và không dám ở lại làm phiền quý viện thêm nữa. Vậy ngay từ bây giờ, xin bái biệt, viện chủ cho tiện nữ tạ lỗi để về thu xếp hành trang ….
– Ồ. Gì mà vội thế, cô nương !
Tuy nói vậy, nhưng ông vẫn đứng dậy mở tủ, lấy một ít vàng gói vào một phong bao nhỏ. Nhìn ra cửa, thấy Giang đứng lấp ló, ông vẫy tay gọi vào. Giang khép nép đến bên Oa Tử.
Viện chủ cầm phong bao đưa cho nàng:
– Có chút quà mọn, lão phu trả ơn cô nương …
Nhưng Oa Tử từ chối. Nàng nói:
– Tiện nữ không dám. Đáng lẽ tiện nữ phải trả tiền ăn ở mới phải chứ đâu dám lấy công vài điệu sáo tầm thường ấy.
Khẩn khoản thế nào cũng không nhận. Sau viện chủ Arikida phải cười bảo:
– Cô nương bướng bỉnh quá. Thế lão phu muốn nhờ một việc, cô nương có chịu làm cho chăng ?
– Viện chủ cứ dậy, tiện nữ đâu dám từ chối.
– Làm việc này hộ lão phu cũng tốn công sức. Hay là để lão phu đưa tiền cho cháu Giang đây làm lộ phí, rồi cháu giúp lão phu. Cô nương chỉ giám sát thôi cũng đủ.
Nói xong, ông đưa phong bao cho Giang. Thằng bé giơ tay ra nhận liền, nhưng nghĩ sao, lại để xuống bàn quay lại hỏi Oa Tử:
– Em lấy nhé ?
Dáng điệu của nó khiến mọi người mỉm cười. Trước sự đã rồi, Oa Tử đành gật đầu và cảm ơn lão viện chủ.
– Điều lão phu muốn nhờ là xin cô nương cho phép cháu bé mang vật này đến biếu ngài Tả Xuyên Hầu Lưu Cát ở Kyoto.
Ông với tay lên kệ lấy cái ống tre, rút ra một cuốn giấy trải trên bàn. Thì ra là một bức thủy thái họa khá lớn:
– Hai năm trước, ngài Tả Xuyên Hầu có cậy lão phu vẽ cho một bức tranh, ngài sẽ đề thơ bình chú để dâng lên hoàng thượng. Vì vậy lão phu không muốn giao cho bất cứ ai sợ tranh bị hư rách. Cậy đến cô nương xin hết lòng cẩn trọng cho.
Viện chủ giở dần bức tranh. Tranh họa một cảnh triều đình cổ. Vì lời bình chú chưa đề, nên Oa Tử không rõ đời nào, nhưng nhìn những nét thanh nhã và các chi tiết được ghi lại rất trung thực và chính xác, nàng thấy tác giả có óc nhận xét thật tinh tế.
Nó có vẻ đẹp riêng, tuy nhiên so với lối họa của Trúc Mộ tiên sinh, nàng cho nét bút của viện chủ kém phần phóng khoáng.
– Cô nương ! Cô nương ! Lửa này vẽ đẹp quá, trông bập bùng như thật !
Giang vừa khen vừa toan giơ tay sờ vào chỗ vẽ.
– Giang ! Không được mó vào ! Xem thôi, sờ vào hư mất !
Trong khi mọi người mãi mê xem tranh, một gia nhân đến gần viện chủ ghé tai nói thầm. Viện chủ gật đầu, đáp lại:
– Thôi thế cũng được. Nếu người ta đã xác nhận được túi và gươm là của người ta thì trao cho họ cũng không hề gì. Nhưng giá bảo họ biên nhận thì hơn.
Nghe tin Oa Tử ra đi, toán lễ sinh trong viện xôn xao hẳn lên. Mấy tháng nay Oa Tử dạy sáo và nhạc cho họ, họ rất thích thú và quý trọng. Nàng luôn luôn như người chị cả tài hoa, không những từng trải việc đời mà còn khéo léo tế nhị, hướng dẫn họ trong mọi việc và cách cư xử hàng ngày. Đôi khi có sự bất hòa, nàng đứng ra dàn xếp, mọi người đều vừa lòng và hoan hỉ.
Tan giờ học, bọn lễ sinh kéo nhau đến phòng Oa Tử, ríu rít hỏi thăm:
– Cô nương đi thật đấy à ?
– Cô nương có trở lại không ?
– Sao cô nương lại bỏ đi. Chúng em nhớ lắm. Biết bao giờ mới lại có thầy dạy nhạc được như cô nương.
Nhiều thiếu nữ lộ vẻ rầu rĩ vì phải xa Oa Tử. Họ đến ôm nàng, cầm tay bịn rịn. Vài người giúp Oa Tử thu xếp hành trang. Hành trang nào có gì đâu, mấy bộ quần áo, gương lược linh tinh thu gọn vào vừa một gói Oa Tử đeo trên lưng. Cuộc đời lưu lạc sông hồ, mang nhiều theo càng thêm bận. Đối với Oa Tử, buổi ra đi hôm nay sao lạ kỳ, nàng phân vân vui buồn lẫn lộn. Một cảm giác vừa như lưu luyến vừa như được giải thoát đến xâm chiếm tâm hồn, Oa Tử thở dài nghĩ thầm:
“Sự thay đổi nào mà không nhiều sầu muộn ?”.
Cả đoàn lễ sinh theo Oa Tử ra khỏi phòng. Mắt mọi người đỏ hoe, vài thiếu nữ không cầm được xúc động, sụt sịt khóc.
Oa Tử cố lấy giọng bình tĩnh, khuyên giải:
– Thôi thì chẳng nên buồn phiền. Ở đời, ly biệt là sự thường. Có hợp thì có tan. Rồi một ngày ta sẽ gặp lại các em. Hãy bảo trọng lấy thân và trau dồi tài đức …
Nàng nói mà trong lòng áy náy vì dư biết lần này ra đi là vĩnh biệt. Làm gì còn có cơ hội nào trở lại đây nữa.
Một lễ sinh đề nghị tất cả cùng đi tiễn Oa Tử ra tận chân cầu Isuzu. Gió đông thổi se sắt luồn vào tay áo ngắn, các nàng cảm thấy lạnh, nép vào nhau run rẩy.
Bước xuống thềm, Oa Tử đưa mắt nhìn Giang, đã thấy thằng bé ngồi chờ ở đó từ lúc nào. Nó trả lại đền bộ đồng phục trắng, mặc chiếc kimono ngắn cũ trước kia, vai đeo thanh kiếm gỗ dài cùng chiếc ống tre viện chủ giao cho nó mang đi. Trong túi vải nhỏ bên sườn còn chiếc mặt nạ và bộ áo để thay đổi.
Thấy Oa Tử, Giang phụng phịu:
– Sao cô nương lâu thế ?
Oa Tử cười, hỏi lại:
– Thế em làm gì trong lúc chờ ta ?
– Chả làm gì cả. Em ngắm cảnh đồi. À, em thấy một người trông giống thầy em lắm, đi về phía chân núi.
– Trời ! Em thấy Thạch Đạt Lang sao ?
– Giống thôi, nhưng nhìn kỹ có lẽ không phải vì ông này đi khập khiễng.
Oa Tử thở dài, im lặng. Trong cuộc hành trình cùng với Giang, sự nhầm lẫn như vậy xảy ra rất thường:
khi thì người mang gươm cưỡi ngựa trên quan lộ, lãng nhân đội nón nan bên cửa lữ điếm, khi thì kiếm sĩ vừa bước xuống đò … hai cô cháu trông ai cũng thấy Thạch Đạt Lang, đến gần mới biết là không phải. Hy vọng lóe lên rồi vụt tắt, chuyện xảy ra có lẽ đến hàng chục lần, bây giờ Oa Tử không còn hồi hộp cuống quýt nữa. Nàng chỉ yên lặng an phận. Và thở dài.
Giang lon ton đi trước. Một thiếu nữ hỏi nhỏ Oa Tử:
– Em bé là con cô nương đấy à ?
Oa Tử ngạc nhiên nhìn thiếu nữ. Đột nhiên nàng hiểu, hơi đỏ mặt:
– Sang năm ta mới hăm mốt, làm sao có con lớn như vậy được !
– Thế mà người ta cứ đồn …
Oa Tử nhớ lại những lời viện chủ nói, nhưng nàng tự trấn an ngay, nghĩ rằng Thạch Đạt Lang chắc chẳng tin những lời dèm pha đồn đại ấy.
Đến cuối vườn, Oa Tử rẽ vào phía miếu thờ Đức Thái Dương thần nữ.
– Cô nương lầm đường rồi. Ra cổng phía này kia mà !
– Không, ta muốn vào lễ Đức Bà.
Đến trước cửa miếu, nàng chắp tay kính cẩn đọc một bài kinh ngắn và cúi đầu lâm râm cầu nguyện.
Đi một quãng, không thấy Oa Tử, Giang quay trở lại. Thấy nàng ở trước cửa miếu, nó đứng sững nhìn. Một lễ sinh bảo nó:
– Sao em không vào lễ với cô nương ?
– Em không lễ. Việc gì em phải lễ ?
– Đây là Đức Bà thần nữ, thủy tổ và cai quản muôn loài, không phải như những thần linh khác. Vào lễ đi, Đức Bà phù hộ cho.
– Không. Em không lễ. Ngốc thế !
Cả bọn sững sờ vì thái độ cục cằn khiếm nhã của thằng bé. Oa Tử lễ xong quay ra, thấy vẻ bất bình trên mặt họ, bèn hỏi nguyên do. Nàng cau mặt mắng Giang:
– Giang hỗn lắm nhé. Nếu em không tin thì cũng phải trọng tín ngưỡng của kẻ khác chứ. Nhưng em nên lễ là phải.
– Tại sao ?
– Vì Đức Bà là thủy tổ giống nòi ta, ta phải biết ơn và tôn kính. Vả lại có phải chính em đã nói với ta lúc ở cánh đồng hoang Hannya, em cũng cầu Trời lạy Phật cho thầy em thoát nạn mà. Em lạy Đức Bà đi, Ngài sẽ phù hộ cho chóng gặp thầy.
Giang cúi đầu, một lúc sau mới nói:
– Nhưng các cô này cứ nhìn em …
– Ừ thì chúng ta sẽ quay mặt đi. Vào lễ đi.
Giang đến vội cửa miếu, chắp tay lại mấy cái thật nhanh rồi ù té bỏ chạy, chiếc ống quyển và thanh gươm đập vào lưng nó lịch bịch.
Chương 28: Cái chong chóng
Thạch Đạt Lang ngồi yên lặng đợi đò ngang dưới mái hiên hẹp của một quán bán hải vị trông ra biển.
Ăn xong đĩa nghêu luộc mà người hắn nhờ đi mua dép cỏ vẫn chưa về, sốt ruột, hắn cởi miếng vải buộc vết thương ở chân ra. Chỗ đau đã xẹp nhiều, da xung quanh bàn chân bây giờ màu tím hồng và hơi nhăn. Không bị vướng víu khó chịu như trước, Thạch Đạt Lang đứng dậy đi ra phía ghềnh đá vốc nước rửa. Buộc lại vết thương xong, trở về quán, hắn đã thấy dép và xà-cạp mới mua để ở đó từ bao giờ, bên túi hành trang chỗ hắn ngồi cũ.
Chủ quán nướng nghêu trong bếp, trông ra nhắc:
– Bác chân sào tìm khách quan đấy. Thuyền sắp rời bến rồi.
– Ồ vậy ư ? Để ta trả tiền và ra ngay bây giờ. Hôm nay ngày mấy rồi quán chủ ?
Chủ quán cười:
– Khách quan thật là hạnh phúc. Nghe hỏi, biết ngay chẳng nợ nần ai. Hôm nay hăm bốn, sắp hết năm rồi còn gì.
– Chà ! Thế mà ta cứ tưởng muộn, hăm bảy hăm tám gì đó !
Chủ quán lắc đầu:
– Thanh niên có khác, vô tư quá !
Thạch Đạt Lang trả tiền xong, xỏ chân vào đôi dép mới, buộc vội dây xà-cạp rồi hối hả chạy ra bến. Hắn thấy dễ chịu quá, có thể đi bộ thêm được đến vài chục dặm. Từ tình trạng tàn tật bỗng nhiên trở thành khỏe mạnh, hắn yêu đời hẳn lên. Nhất là sự thành công của hắn trên đỉnh Đại Bàng sơn ngày hôm qua khiến hắn vô cùng tin tưởng vào ý chí mãnh liệt hắn có. Thạch Đạt Lang hít mạnh một hơi dài:
không khí dường như nhẹ và thơm hơn, những bước chân trên cát của hắn vững vàng như những bước chân con tuấn mã.
Đò đã đầy người nhưng bác chân sào vẫn cố xếp cho hắn một chỗ ngồi gần mũi.
Biển lặng. Mặt nước trong xanh phẳng lỳ tựa tấm gương soi phản chiếu vài cụm mây lờ lững. Thạch Đạt Lang nhìn về phía bến:
dẫy quán ven bờ, ngôi chợ cũ khuất dần trong tàn trắc xanh đen và xa xa là sơn đạo đi Matsuzaka, ngoằn ngoèo giữa những đám tuyết trắng chưa tan. Giá có thì giờ, có lẽ hắn cũng đi gặp Trúc Tử Hãn ở Matsuzaka, nhưng bây giờ thì muộn mất rồi. Hắn cần phải về Kyoto trước tết nguyên tiêu, nên tự hẹn sẽ tìm gặp vị kiếm sỹ này vào một dịp khác.
Vừa từ trên thuyền bước xuống, Thạch Đạt Lang chú ý tới ngay một gã đàn ông trung niên đi trước, lưng giắt đoản côn, ngang hông đeo kiếm bao bằng da trâu. Gã trạc độ bốn mươi bốn hai, mày rậm, mắt lồi, mặt lại rỗ chằng chịt. Mớ tóc đỏ quạch buộc ngược về phía sau thành một túm, dáng điệu dữ dằn. Nếu không có thằng bé trạc độ trên mười tuổi vác túi đồ nghề thợ rèn theo sau thì ai cũng ngỡ là kẻ cướp.
Thằng bé má còn dính vệt than và mồ hóng, chắc là thợ phụ. Chân nó ngắn, đuổi không kịp bước của thầy nên thỉnh thoảng phải chạy. Chiếc túi vải gai đeo trên lưng to gần bằng mình nó kêu lịch kịch theo bước đi. Mỗi khi chạy, nó phải lấy tay đỡ túi cho khỏi va vào lưng. Đột nhiên thằng bé khựng lại la hoảng:
– Ý ! Thầy đợi con với. Con quên cái búa rồi !
Thạch Đạt Lang phì cười. Nhưng gã đàn ông quay lại trừng mắt:
– Thật hay bỡn ?
– Dạ thật ! Con để quên trên thuyền.
– Hà ! Bây giờ mày lại quên cả đồ nghề độ nhật nữa. Muốn sống đi lấy ngay ! Bận sau mà quên nữa thì chết với ông !
Đứa bé líu ríu vâng lời, cắm cổ chạy.
Con đường từ bến tàu đến chợ chẳng thiếu gì quán bán các vật dụng linh tinh, nhất là đồ kỷ niệm. Thằng bé đi tìm búa quay trở lại không thấy thầy đâu, lo lắng nhìn quanh. Khi thấy gã đàn ông trong tiệm bán đồ chơi bước ra, tay cầm cái chong chóng bằng giấy sặc sỡ, mắt nó sáng lên vui sướng.
– Hứa Hoành !
Nghe gọi, thằng bé chạy vội lại.
– Mang cái này cho ta ! Có tìm thấy búa không.
– Dạ có. Con để trong túi rồi !
– Thầy mua cho bé Hồ nhi đấy à ?
– Ừ.
Hai thầy trò gã thợ rèn đi trước Thạch Đạt Lang tuồng như dẫn đường cho hắn, vì hắn thấy hắn định rẽ phía nào thì họ cũng đã rẽ trước về phía ấy. Trông dáng điệu, y phục và những đồ nghề thằng bé mang theo, Thạch Đạt Lang đoán mười phần chắc chín gã đàn ông là Chu Kế Phong Tất Đạt, người thợ rèn xóm Ujii, nổi tiếng về ngón đòn với thứ võ khí cổ quái như cái hái do gã chế ra.
Muốn kiểm chứng và nhân thể tìm cơ hội làm quen, hắn rảo bước đến gần, niềm nở hỏi:
– Chào đại hiệp. Đại hiệp cũng đi Ujii đấy à ?
– Phải. Ngươi hỏi gì ?
– Phải chăng đại hiệp là Tất Đạt ?
– Chính thị. Thế ngươi là ai ?
– Tại hạ tên Thạch Điền Đạt Lang, đi tìm thầy học võ. Mới đây qua quý xá, có được gặp lệnh khổn …
– Á à ! Vậy ngươi đã gặp chuyết kinh đấy. Thế ngươi có phải là khách trọ Ở Yamada không ?
– Phải Tất Đạt mỉm cười ngạo mạn:
– Có người cho biết ngươi muốn tìm ta để học vài ngón sở trường. Vô ích ! Vô ích !
Thủ pháp của ta ngươi chẳng dùng được vào việc gì đâu.
– Sao vậy ?
– Vì vừa nhìn ra thì ngươi đã thành người thiên cổ rồi ! Ta phát lạc nhanh lắm !
Gã nói xong cười ha hả. Tiếng cười vang động cả khu rừng vắng. Thạch Đạt Lang đã từng nghe vợ Chu Kế Phong thốt ra những lời như vậy, tuy lời không hẳn là thế, nhưng ý khinh miệt tương tự. Mụ vợ có vẻ hống hách, song chồng mụ xem ra còn kiêu căng hơn nhiều.
Hắn muốn dạy gã thợ rèn này một bài học ngay tại đây, nhưng nghĩ lại chẳng việc gì mà vội. Đại Quán đã cho hắn kinh nghiệm đầu tiên về cuộc đời:
đừng tưởng mình là nhất, gầm trời này thiếu gì kẻ hơn ta. Tự cao tự đại chỉ chuốc lấy những thất bại đau đớn. Trước khi thử sức với ai, hãy tìm hiểu và đánh giá kỹ địch thủ.
Nghe tiếng cười ngạo mạn của Chu Kế Phong vang động bên tai, Thạch Đạt Lang chỉ lặng thinh. Lát sau hắn mới khiêm tốn:
– Tại hạ đã hiểu. Nhưng may mắn được gặp đại hiệp ở đây, tại hạ không muốn để lỡ dịp hạnh ngộ. Chỉ xin chỉ bảo cho vài điều về thứ binh khí kỳ dị.
– Ha ha ! Vậy ra ngươi cũng đã biết đến thứ võ khí ấy của ta sao ? Ai dạy ngươi biết ?
– Lệnh khổn đã chỉ cho một chiêu …
– Được lắm ! Ta cũng thương ngươi thật lòng cầu học. Nếu chỉ muốn nghe ta nói thôi thì về nhà, ta nói rõ cho nghe.
– Đa tạ đại hiệp. Và cũng xin cho tá túc qua đêm.
– Được ! Nhưng ngươi phải ngủ trong bếp với thằng Hứa Hoành. Nhà ta không có chỗ dư.
Trời chiều đỏ rực, cả ba đến chân núi Suzuka. Xóm Ujii hiền lành nằm ở cuối con đường nhỏ, ráng hoàng hôn nhuốm hồng các mái tranh như trong một bức cổ họa.
Hứa Hoành chạy vội về nhà báo tin trước nên khi Chu Kế Phong đến ngõ đã thấy vợ bế con nhỏ ra cửa đứng đón, tay cầm chiếc chong chóng gió thổi quay tít.
Vợ Tất Đạt vừa nựng con vừa chỉ vào chồng:
– Hồ nhi ! Bố kìa ! Bố đã về kìa !
Chu Kế Phong nhìn đứa bé, nét mặt tươi hẳn lên, vẻ thô lỗ kiêu căng biến mất. Gã bế đứa nhỏ trong tay, đong đưa rồi rúc đầu vào nách nó. Nó cười khanh khách. Chu Kế Phong cầm cái chong chóng dứ dứ trước mặt con. Nó nhoài người ra, tay quơ chân vẫy, và người mẹ cũng cười như nắc nẻ. Gã bế đứa nhỏ đi vào nha trong, vợ theo sau, để mặc cho Thạch Đạt Lang đứng một mình ở ven cổng.
Cảnh gia đình êm ấm, tiếng cười rộn rã hồn nhiên của vợ con người thợ rèn làm hắn vui lây, nhưng sao hắn cảm thấy lẫn lộn một chút gì chua xót. Hình như trong tiềm thức, hắn đã được hưởng cảnh này. Kiếp này hay tiền kiếp, hẵn cũng không biết nữa.
Thấy trong nhà gần bếp lò có lửa, Thạch Đạt Lang bỏ nón, tháo túi đeo lưng tiến đền gần ngồi sưởi. Cửa hàng vẫn thế, vẫn những nông cụ lặt vặt để trên kệ, vẫn những dây mồ hóng đen rủ lòng thòng từ trên trần xuống như thạch nhũ. Bên ngoài bóng tối phủ đầy. Ánh lửa bật bùng của khúc củi gần tàn chiếu bóng Thạch Đạt Lang rung rinh trên vách.
Chu Kế Phong tắm gội xong sắp ăn cơm mới sực nhớ đến người khách trẻ. Gã gọi vợ:
– Dọn thêm phần nữa cho khách. Ở nhà ngoài ấy, ta ra bây giờ !
Vợ Tất Đạt bưng khay rượu ra. Mụ đặt bình sa-kê lên hâm trên bếp than, liếc nhìn Thạch Đạt Lang rồi đi vào trong nhà, lầu bầu khó chịu:
– Lần trước đã tới rồi, giờ lại tới nữa.
Chu Kế Phong đến ngồi bên bếp. Bộ mặt rỗ của gã trông hiền hậu hơn, không biết vì mới tắm xong hay vì ánh lửa không soi rõ hết những vết lồi lõm. Gã hất hàm hỏi Thạch Đạt Lang:
– Uống chút rượu nhá ?
– Vâng, đại hiệp đã cho thì xin nhận.
Chu Kế Phong cầm bình rượu rót ra đĩa đưa Thạch Đạt Lang. Hắn uống một hơi cạn, mím môi lại chép chép miệng. Rượu hơi chua nhưng hắn cũng cảm thấy dễ chịu.
Máu nóng chạy râm ran trong người. Hắn vui vẻ:
– Để tại hạ rót mừng đại hiệp một lần.
– Không sao. Ta có đĩa riêng đây rồi !
Cả hai im lặng ngồi nhìn lửa và những cục than hồng trong lò. Lúc sau, Chu Kế Phong mới hỏi:
– Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi ?
– Hăm hai.
– Quê quán ở đâu ?
– Mimasaka.
Mắt Chu Kế Phong đột nhiên lộ vẻ chú ý. Gã quan sát Thạch Đạt Lang từ đầu đến chân rồi nói:
– Lúc nãy ngươi bảo tên ngươi là gì nhỉ ?
– Tại hạ là Thạch Điền Đạt Lang.
– Hừ. Thạch Điền. Họ Thạch như Thạch Kinh Tử chứ gì ?
Vừa lúc ấy vợ Tất Đạt mang thức ăn ra, một bát canh, một đĩa cá muối, một liễn cơm, mụ đặt cả vào cái khay lớn trên chiếu. Mụ nói với Thạch Đạt Lang, không khách sáo:
– Ăn đi.
Thạch Đạt Lang cúi đầu cảm ơn. Chu Kế Phong vẫn thắc mắc, nhưng gã làm bộ tự nhiên rót thêm sa-kê vào đĩa:
– Uống chút rượu nữa đã. Thế khi còn nhỏ người ta gọi tên ngươi là gì. Phải Thạch Kinh Tử không ?
– Dạ phải.
– Tên đó ngươi giữ cho đến khi mười bảy mười tám chứ gì ?
– Đúng vậy.
– Năm mười bảy, ngươi có dự trận Sekigahara cùng với một thanh niên nữa cùng trạc tuổi ngươi phải không ?
Đến đây thì Thạch Đạt Lang ngạc nhiên thật sự. Hắn chậm rãi đáp:
– Phải. Sao đại hiệp biết ?
Chu Kế Phong cười xòa:
– Ta biết nhiều chuyện vì ngày đó ta cũng dự trận Sekigahara. Thảo nào trông ngươi quen quen, có lẽ chúng ta đã gặp nhau ở trận tiền.
Bản tính trung trực, Thạch Đạt Lang tin ngay và trong lòng chớm nở một mối hảo cảm với gã thợ rèn.
– Chắc đại hiệp thuộc cánh quân của Uất Tảng ?
– Phải rồi. Ta ở gần đó nên đầu quân với các kiếm sĩ địa phương. Không may mà phe mình thua trận.
Hai người nhìn nhau, mỗi người một ý nghĩ.
– Thế người bạn đồng ngũ với ngươi bây giờ đâu ?
– Cũng không rõ vì đã lâu không gặp lại.
– Ngay từ sau trận chiến ấy sao.
– Không hẳn thế. Tại hạ với nó phải lẩn trốn một thời gian tại vùng chân núi Ibuki chờ vết thương lành thì chia tay. Về sau nó đi đâu, tại hạ không biết.
Chu Kế Phong gọi vợ lấy thêm rượu nhưng người đàn bà đã vào nằm với con ở trong phòng. Mụ nói vọng ra:
– Hết rượu rồi !
– Hết thì đi mua, ta muốn uống nữa.
– Sao bữa nay uống nhiều thế ?
– Có chuyện vui muốn uống, được không ?
– Bây giờ khuya rồi, tiệm đầu xóm đã đóng cửa, mua khó lắm.
Chu Kế Phong lộ vẻ tức giận, cao giọng gọi:
– Hứa Hoành !
Không nghe tiếng đáp. Gã gọi lần nữa, to hơn. Một lát mới thấy cửa sau mở, Hứa Hoành thò đầu ra hỏi, giọng ngái ngủ:
– Thầy gọi con ?
– Ờ, chạy đến nhà Hòa San vay bình rượu mang về đây ! Bảo nhà có khách.
Thạch Đạt Lang đã say. Hắn không uống được nhiều nên gạt đi:
– Thôi thôi, nếu vì tại hạ mà đi vay rượu thì chẳng nên.
– Không được. Phải uống với ta thêm vài bình nữa. Vả lại ta chưa cho ngươi chút biết những điều ngươi hỏi ta mà.
Hứa Hoành mang rượu về. Chu Kế Phong đặt lên bếp. Trong khi đợi rượu nóng, gã thao thao kể lại những võ công đã trải ở chốn giang hồ, không quên thêm thắt cho câu chuyện được hứng thú. Rồi rượu rót ra, gã vừa uống vừa ép Thạch Đạt Lang, thành ra tuy đã cẩn thận, đề phòng, hắn cũng không thể từ chối được.
Khi luận đến thứ võ khí cổ quái gã chế ra, Chu Kế Phong say, nói không còn gãy gọn. Tuy vậy Thạch Đạt Lang chú ý theo dõi cũng hiểu được đôi phần:
nào cách dùng quả cầu sắt ném vào mặt địch thủ, dùng dây xích đoạt võ khí, dùng lưỡi hái móc tay chân …Lại thuật phối hợp dây xích với quả cầu làm địch hoa mắt để dễ bề giương đông kích tây cùng các yếu quyết và phương vị của chân đứng, tay ném …
Nghe những lời Chu Kế Phong dẫn giải, Thạch Đạt Lang nghĩ thầm gã thợ rèn này cũng khá, đã cố công nghiên cứu và chắc khai triển được nhiều chiêu thức lợi hại. Người ta có hai tay, nếu lúc chiến đấu chỉ sử dụng một tay cầm kiếm thì uổng phí. Để rồ i có dịp hắn sẽ lưu tâm học thêm song kiếm.
Bình rượu mới mang về chẳng mấy chốc đã cạn. Cả hai cùng say mèm. Trong đời Thạch Đạt Lang chưa bao giờ say đến thế. Chu Kế Phong lè nhè gọi vợ:
– Này mẹ nó ! Bế con vào ngủ ở phòng trong đi. Để giường cho khách.
Vợ Tất Đạt không trả lời. Mụ nghe rõ lời chồng, song không muốn rời chỗ ấm.
Tiếng lè nhè của Chu Kế Phong lớn hơn:
– Nghe ta nói không ? Khách mệt rồi, phải để cho người ta nghỉ. Bế con vào phòng trong !
– Sau không để chú ấy ngủ ngoài đó ?
– Đừng nhiều chuyện. Ta bảo phải nghe.
Nói xong, gã chống tay đứng lên, đi vào phòng lôi vợ dậy. Tiếng gã thở khò khè.
Mụ Tất Đạt cau có buộc lại tóc trong khi gã thợ rèn bế đứa nhỏ nói vọng ra:
– Ngươi nghỉ tạm đây nghe ! Nếu khát, có sẵn ấm nước trên bếp và trà ở đầu giường ấy.
Thạch Đạt Lang ngồi bên bếp lửa, trí óc tan loãng không còn suy nghĩ gì được nữa.
Hắn với tay cầm ấm nước, rót một chén uống. Nước trà nguội ngắt, chan chát đắng làm hắn tỉnh đôi chút. Hắn nghe tiếng đàn bà văng vẳng:
– Vào trong phòng ngủ đi. Ta mang gối mới …Trượng phu ta say chắc. Mai dậy trễ…làm bữa sáng nóng cho ăn.
Thạch Đạt Lang lẩm bẩm “cảm ơn, cảm ơn” rồi đi vào trong phòng. Hắn quên cả cởi dép. Ngồi trên chiếu, hắn mới sực nhớ ra, đưa tay tháo dép, ngả mình lên giường và kéo chăn trùm kín mặt. Hơi chăn ấm lẫn với mùi sữa thơm thoang thoảng khiến đầu óc hắn lâng lâng. Trước khi nhắm mắt, hình như Thạch Đạt Lang thoáng thấy mụ Tất Đạt thổi tắt đèn và lẩn vào trong bóng tối sập xuống dầy đặc.
Thạch Đạt Lang có cảm giác như ai đã dùng vòng sắt đánh đai vào đầu mình và siết chặt. Đầu hắn nhức vô cùng, mạch máu hai bên thái dương đập thình thịch. Muốn ngồi nhưng chân tay rời rã, hắn không còn làm chủ được những cử động của chính mình nữa. Ánh sáng từng vòng, vàng, đỏ, xanh lẫn lộn thi nhau nhảy múa trước mặt.
Giữa lằn biên giới của tỉnh thức và hôn mê ấy, Thạch Đạt Lang bỗng thấy hiện ra một thiếu phụ, hắn không nhìn rõ dung nhan, nhưng dáng đi nhẹ nhàng như những vệt sương trên sóng nước.
“À ơi …Cái ngủ mày ngủ cho say …”. Điệu ru quen thuộc văng vẳng bên tai đưa hắn trở về dĩ vãng:
một căn nhà gỗ nhỏ, bức tường đá rêu phong với những dây leo, rễ bám chằng chịt mang nhiều chùm hoa tím nhỏ li ti. Cạnh hàng rào, rặng cây rậm rạp cành rủ la đà, mỗi khi đêm xuống, ôm ấp bao nhiêu bí mật. Mẹ hắn bế hắn trên tay, hát ru khe khẽ. Ngọn đèn trên vách, ánh sáng không đủ chiếu khắp gian phòng, nhưng cũng cho thấy những giọt nước mắt long lanh trên gò má mẹ hắn. Mặt bà hiện ra lờ mờ trong ký ức, trắng lắm mà lại phơn phớt xanh, như màu hoa lê mới nở.
Từ phòng trong, giọng ông Mưu Ni Sai, cha hắn, vọng ra giận dữ:
“Cút đi ! Cút về nhà mày đi !”. Mẹ hắn nấc lên, áp má hắn vào mặt. Những giọt nước mắt nóng hổi chả y vào miệng hắn, mằn mặn. Hắn cũng khóc theo. Khối óc thơ ngây ấy không đoán được chuyện gì đã xảy ra trong gia đình và ngay đến bây giờ hắn vẫn không hiểu tại sao cha hắn lại đuổi mẹ hắn đi. Hắn thấy mẹ Ôm chặt mình vào lòng, chạy ra ngoài. Gió thổi ào ào bên tai làm hắn khóc to hơn. Mẹ hắn càng ôm chặt. Đến một nơi hình như là bờ sông, hắn nghe tiếng mẹ hỏi trong nức nở:
“Thạch Kinh Tử ! Con là con mẹ hay con cha?”. Mẹ hắn đặt hắn xuống ven sông, bên những hòn đá cuội. Bà lội ra giữa dòng, mặc hắn gào thét giữa bụi cỏ hoang, cạnh những đám bồ công anh hoa vàng lấm tấm. Cơn gió lạnh thổi, hắn rùng mình, mở mắt.
Thạch Đạt Lang ú ớ trong miệng, khẽ cựa mình. Thiếu phụ ấy là ai, có phải mẹ hắn không ? Hắn cố vận dụng ký ức để nhớ lại nhưng vẫn không sao mường tượng được nét mặt của bà. Qúa mệt mỏi, Thạch Đạt Lang lại thiếp đi trong bóng tối.
Bóng người thiếu phụ hiện ra lúc xa lúc gần, lãng đãng. Bà giơ tay vẫy. Ô hay ! Sao đêm nay, hắn mộng thấy mẹ hắn luôn vậy ! Hắn gọi, nhưng tiếng gọi tắc nghẹn trong cổ họng. Hắn vùng vẫy, và đột nhiên mở mắt.
Cơn say đã tan. Miệng khô đắng, Thạch Đạt Lang nằm yên nhìn lên trần. Lửa phòng ngoài tắt từ lâu, ánh than hồng hắt lên các vì kèo loang lổ mồ hóng mang một vẻ mơ hồ quái dị.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng ấy, đột nhiên Thạch Đạt Lang chú ý đến cái chong chóng giấy cắm trên trần. Mùi da thịt, mùi sữa thơm ngòn ngọt của đứa trẻ và mẹ nó còn như quyện vào chăn gối. Chiếc chong chóng quay nhè nhẹ. Chong chóng quay thì có gì lạ vì người ta làm chong chóng để cho …nó quay. Nhưng muốn quay phải có gió. Thạch Đạt Lang nằm yên, đoán chắc có người vừa mở cửa.
Quả nhiên, hắn nghe tiếng cửa khép nhẹ, rất nhẹ rồi những bước chân rón rén mỗi lúc một xa. Cái chong chóng thôi quay.
Trong một thoáng, Thạch Đạt Lang ý thức ngay được nguy cơ sắp xảy ra. Hắn đã hiểu tại sao vợ chồng người thợ rèn lúc đầu tỏ vẻ lãnh đạm thờ ơ, sau lại vồn vã với hắn, để hắn ngủ trong căn phòng êm ấm kín đáo như thế này. Hắn đã hiểu tại sao người chồng nhất quyết đòi mua thêm rượu và phục cho hắn uống say. Hắn tự giận mình không cảnh giác sớm để suýt nữa thì mất mạng.
Thạch Đạt Lang tỉnh rượu hẳn. Bản năng tự vệ thức dậy, hắn lắng nghe động tĩnh như một con sâu nằm dưới lá nghe thời tiết xung quanh. Hệ thần kinh bén nhạy của hắn căng thẳng cực độ. Thạch Đạt Lang tự hỏi:
Đây là đâu, ổ đạo tặc hay hắc điếm ? Gã thợ rèn này có thù gì với mình ? Soát lại ký ức, hắn chắc chắn chưa bao giờ gặp gã này. Vậy lý do gì … Nhưng bây giờ không phải lúc tìm hiểu, suy luận. Phải phản ứng ngay, khẩn cấp lắm rồi.
Thạch Đạt Lang trườn mình xuống cuối giường, khều đôi dép xỏ vào chân, buộc quai, sửa lại chăn đắp cho ra vẻ vấn còn người nằm ngủ rồi len lén cầm thanh kiếm lẩn vào trong bóng tối dày đặc sau đống củi, than xếp hỗn độn.
Tàn nén hương, đã nghe tiếng chân người bước ngoài hiên và tiếng xì xào khe khẽ.
Cánh cửa lùa hé mở. Dưới ánh sáng lờ mờ của bếp than gần lụi, cái chong chóng quay tít.
Bên tấm màn cửa mỏng, đôi mắt trắng dã của một kẻ mặc y phục lối dạ hành ló ra, tay lăm lăm lưỡi kiếm tuốt trần. Theo sau là một người cao lênh khênh, cầm giáo. Cả hai men theo vách, đến trấn hai đầu giường. Gã thợ rèn vào sau chót, một tay cầm lưỡi hái, một tay giữ quả cầu.
Chúng đưa mắt nhìn nhau, rồi như cùng theo một mật hiệu, quát lớn:
– Thạch Kinh Tử !
Đồng thời phóng chiêu ra như chớp xẹt. Giá Thạch Đạt Lang còn nằm đó chắc trở tay không kịp mà có chết cũng chẳng toàn thây. Nhưng không một ai trông thấy phản ứng gì hết. Ba loại võ khí đã đánh vào quãng không, hay đúng ra, đã đánh vào một đống chăn gối bỏ không. Tiếng thét làm rung chuyển căn nhà gỗ chỉ đánh thức đứa nhỏ dậy làm nó khóc ré lên ở trong phòng.
Gã thợ rèn phóng cước đá tung chiếc chăn đắp. Không thấy Thạch Đạt Lang, gã chửi thề một câu tục tĩu, chạy vội ra ngoài:
– Bọn ngươi đứng đây có thấy nó trốn không ?
– Không ! Sao ! Nó trốn rồi à ?
– Còn hỏi gì nữa ? Toàn đồ ăn hại, không được việc gì hết.
– Nhưng nó trốn đi đâu ? Bọn tiểu đệ canh ở đây ngay từ khi đại ca bảo, có thấy gì đâu !
– Kia kìa, cái cửa mở hé kia kìa. Đồ ngu, ở đó chứ đâu nữa !
Chu Kế Phong giận sùi bọt mép, đi đi lại lại bên bếp lửa như con thú dữ trong cũi.
Gã cao giọng:
– Anh em lại đây ! Tất cả ! Ta nói chuyện !
Mọi người tề tựu xung quanh gã, lố nhố có đến chục tên chứ không ít. Gã thợ rèn tiếp tục:
– Thằng này nguy hiểm lắm, tên Thạch Kinh Tử. Nó khỏe vô địch. Trước đây năm năm, chém bào huynh ta là Thử Mạch một kiếm vỡ sọ trên đồi Ibuki. Mà bào huynh ta thì các ngươi đã biết, đâu phải kém cỏi gì ! Bây giờ nó trốn rồi. Chỉ có hai đường về trấn, ta phải chia ra thành hai toán, đuổi bắt bằng được. Tên này có súng – gã chỉ một người vác cây hỏa mai – dẫn đầu toàn năm người đi về hướng nam, còn lại bao nhiêu theo ta qua cầu, hướng đền Irakida. Gặp nó, bắn phát súng làm hiệu, chúng ta sẽ đến giúp sức.
Mọi người y kế thi hành, rầm rộ ra đi, đuốc thông đốt khét lẹt. Tụi này chính là tay chân của Chu Kế Phong Cố Hải, em Chu Kế Phong Thử Mạch, tên tướng cướp bị Thạch Đạt Lang giết khi hắn còn ẩn náu tại nhà Ôkô trên đồi Ibuki năm nào. Cố Hải giờ đổi tên là Tất Đạt, tuy bên ngoài làm ra vẻ làm ăn lương thiện, nhưng vẫn cùng lâu la tụ tập giết người cướp của. Khách vãng lai vô ý sa vào ổ chúng thường bị thủ tiêu, xác vất cho quạ rỉa trong rừng sâu hoặc bên khe suối.
Đêm mỗi lúc một khuya. Căn nhà gỗ tối đen, vắng lặng, đìu hiu như cảnh vật xung quanh. Gà đã hai lần gáy, vẫn chưa thấy toán nào trở lại.
Mãi sau, lâu lắm, khi sương đã xuống mờ mờ bao phủ cả vùng rừng núi, khí hậu bắt đầu lạnh buốt và các vì sao cũng run rẩy ở trên cao, mới thấy chúng lục tục kéo nhau về. Đầu tiên là toán của tên mang súng hỏa mai, sau đến Tất Đạt và đồng bọn. Chúng lẳng lặng mở cửa vào nhà, ngồi la liệt trên sàn, gây lửa cháy to thêm. Mệt nhọc và chán nản lộ trên nét mặt, Tất Đạt là người đầu tiên lên tiếng:
– Thằng nào đi lấy rượu uống chứ !
Một kẻ chạy đi. Cả bọn lại đăm đăm ngồi nhìn ngọn lửa.
– Thằng đó thật hên. Nếu ta tóm được …
– Đại ca chắc nó là Thạch Kinh Tử không ?
– Sao lại không ? Ta đã hỏi kỹ lai lịch. Vả trông vóc dáng cao lớn và trạc tuổi thì đúng nó. Có lẽ hương hồn bào huynh ta đã run rủi cho nó tới …
– Bây giờ đại ca tính sao ?
– Còn tính sao nữa ? Ta chỉ tiếc đã không ra tay ngay. Vì muốn ăn chắc nên gọi anh em đến giúp sức.
Chu Kế Phong rót hết chén này đến chén khác. Bình rượu lớn cạn dần. Mặt xám lại, đôi mắt lạc thần nhìn ngọn lửa như bị thôi miên, gã có vẻ muốn gục xuống chiếu.
Bọn đàn em xúm đến đơ, gã gạt tay ra, lè nhè:
– Thôi bọn ngươi về cả đi. Để mặc ta. Chưa say …chưa say mà …
Trời sắp sáng. Tiếng gà văng vẳng trong khe núi. Nhiều bóng người từ căn nhà lò rèn bước ra, lầm lũi tản mát trên các đường mòn trong xóm. Chu Kế Phong ngủ thiếp trên chiếu rượu, tiếng ngáy vang làm rung động cả những dây mồ hóng rủ trên trần.
Ngoài hiên, lẩn sau bóng tối của đống than, gỗ chất cao lên đến tận nóc, một cái áo vải sơn đen bỗng nhiên chuyển động. Cái áo vươn cao từng chút, từng chút, rồi khuôn mặt đen nhẻm của Thạch Đạt Lang lộ ra, đôi mắt long lanh như mắt vọ.
Thì ra Thạch Đạt Lang vẫn còn đây, chưa lúc nào rời căn nhà gỗ. Sau khi bước khỏi giường, hắn đã cẩn thận mở hé cánh cửa hông, núp ngay sau đống than ngoài hiên, dùng chiếc áo vải sơn treo ở đó ngụy trang và lắng nghe hết mọi động tĩnh trong nhà.
Êm như ru, hắn rón rén đến gần bếp. Chu Kế Phong vẫn ngáy như sấm.
Thạch Đạt Lang đứng lặng nhìn gã thợ rèn, mỉm cười thương hại. Trong cuộc gặp gỡ này, rõ ràng hắn thắng. Tuy nhiên, gã thợ rèn có một điểm đáng khen, đã vì mối thù giết anh mà ra tay. Vậy có nên giết gã không ? – Thạch Đạt Lang tự hỏi – Nếu không, có thể còn nhiều hậu hoạn. Khôn ra thì phải giết. Nhưng một câu hỏi khác lại được đặt ra:
Gã có đáng giết không ? Thạch Đạt Lang cứ phân vân mãi. Lúc sau, hắn nghĩ được một cách cho là hay nhất. Với tay lấy món võ khí quái dị treo gần đó, hắn bật nút bấm cho lưỡi bung ra, dùng giẻ bọc lại rồi đặt nó gần cổ gã thợ rèn, quả cầu một bên và lưỡi hái một bên.
Hắn giật lùi lại ngắm công trình của mình. Khi thức giấc, gã thợ rèn chắc phải ngạc nhiên lắm, nhưng lưỡi hái đã được bao lại rồi cũng như cái chong chóng đã bọc lại thì còn quay sao được ! Năm năm về trước, khi giết Chu Kế Phong Thử Mạch, Thạch Đạt Lang đang trong cơn say máu. Hắn như con thú hoang, giết là một bản năng tranh sống, nhưng nay, đứng trước gã thợ rèn nằm im vô hại dưới chân, hắn thấy thật vô ích. Và biết đâu, nếu giết gã, tiểu chủ nhân của chiếc chong chóng kia sẽ lại để cả đời mình đi tìm hắn trả thù cho bố. Oan nghiệt sẽ chập chồng, bao giờ mới dứt ?
Đứng trước căn phòng ấm cúng, mùi sữa mẹ còn như thoang thoảng từ trong chăn gối bay ra, Thạch Đạt Lang cảm thấy ghen tức và hơi tiếc vì phải từ giã nơi này.
Hắn nói thầm trong bụng:
“Ta xin lỗi đã làm rộn. Xin cứ ngủ bình yên”.
Rồi nhẹ nhàng mở cửa bước ra.
Chương 29: Con ngựa bay
Đến đồn kiểm tra gần biên giới quận thì trời đã tối, Giang và Oa Tử vào nghỉ chân qua đêm tại một quán trọ. Hôm sau, mới hửng sáng, sương mù chưa tan, nàng đã đánh thức Giang dậy để lên đường sớm, tránh cái nắng gay gắt buổi trưa.
Đường đèo khấp khểnh, nhưng không khí tươi mát lúc ban mai làm hai người dễ chịu. Trên bầu trời trong phớt xanh, các vì sao thưa dần rồi những dải mây hồng ở đỉnh núi đằng xa bắt đầu vàng ánh lên như mới được rắc một lượt kim nhũ. Mặt trời hiện ra đỏ rực làm bừng sáng cả một khu sơn lĩnh.
Oa Tử đứng sững trước cảnh thiên nhiên mới tỉnh giấc, lòng nôn nao, rộn rã. Nàng cho rằng đây là một trong những lúc kỳ diệu nhất tạo hóa đã ban cho chúng sinh, kể cả những sinh vật nàng vẫn thường gọi là vô tri vô giác như cây cỏ. Tự nhiên nàng thấy sung sướng và hãnh diện được sống trên thế gian này.
Nhìn mặt trời to và đỏ như cái đèn lồng lớn do một bàn tay vô hình nào đó thắp lên, lừ lừ hiện ra khỏi rặng núi xanh lam, Giang vui mừng nhảy cẫng, vỗ tay reo:
– Đẹp quá ! Cô nương trông kìa, đẹp quá !
Oa Tử khẽ suỵt, bảo Giang đừng kêu lớn, dường như sợ sự vui vẻ thái quá của thằng bé làm mất vẻ trang trọng của cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Hai cô cháu đứng lặng ngắm cảnh mặt trời mọc, một lúc lâu Giang mới lên tiếng:
– Cô cháu mình là người đầu tiên đi trên đường ngày hôm nay đấy !
– Sao em biết ?
– Cô xem có ai đi trước mình đâu !
– Ừ nhỉ. Nhưng đi đầu thì ích gì ? Đường ngắn hơn chăng ?
– Không phải. Nhưng khỏi đi sau ngựa với cáng, đỡ hít bụi !
Oa Tử liếc nhìn Giang thấy thằng bé quả nhiên láu thật.
– Hơn nữa, đi đầu thích thú hơn chứ. Vì chẳng có ai trên đường, em có cảm tưởng như cả con đường thuộc về em, muốn làm gì thì làm, sướng lắm !
Oa Tử mỉm cười. Để chọc thằng bé, nàng nói đùa:
– Vậy sao em không tự coi như một tướng quân quyền uy, được mọi người trọng vọng đương cưỡi ngựa đi thị sát lãnh thổ của mình ? Ta đóng vai người hầu dắt ngựa.
Giang cười phụ họa:
– Ờ phải đấy ! Phải đấy ! Em làm tướng công, cô nương dắt ngựa. Cô nương đi trước đi !
Oa Tử ngó quanh không thấy ai, bèn bẻ cành tre làm roi chỉ sang hai bên đường, vừa đi vừa nhại giọng lính tuần vệ:
– Qùy xuống ! Tất cả quỳ xuống ! Giang tướng công đi tuần sát !
Giang tháo ống quyển trên vai, cười lên giả làm ngựa và cười như nắc nẻ. Nó nhảy chân sáo, dường như cái trò chơi giản dị này đã cho hai cô cháu những phút vui hồn nhiên và sung sướng thật sự.
Nghe tiếng léo nhéo bên ngoài, một ông già mở hé cửa ra nhìn. Oa Tử hơi thẹn, vất roi xuống đất, lầm lũi đi. Giang ngạc nhiên:
– Ô hay, sao cô nương làm thế ? Cô nương không sợ tướng công giận có thể phạt chém đầu à ?
– Thôi, không chơi nữa.
– Sao vậy ? Mình đang chơi vui mà !
– Thôi ! Kỳ quá ! Có người ở quán nhìn kia kìa. Chắc họ cho mình là hai đứa khùng!
Giang quay lại thấy một quán ăn nhỏ, vách ván đã cũ, bên một đống rơm lớn, người dân vùng sơn cước thường đắp lên dành cho gia súc ăn về mùa đông. Cạnh đó buộc một con ngựa.
Nhìn quán ăn, Giang bống thấy đói bụng.
– Cô nương, hay ta vào quán nghỉ đi.
– Vào làm gì ?
– Em đói ! Ta vào uống trà rồi lấy cơm nắm ra ăn.
– Khoan đã. Mới đi được vài dặm mà đã đói. Cứ thế này thì phải ăn năm bữa một ngày chắc.
Giang giận dỗi:
– Nhưng em chạy bộ chứ đâu được cưỡi ngựa như cô nương !
– Thì hôm qua ta mới thuê ngựa đi một lần, chỉ vì trời tối mà mình lại vội. Nếu em không bằng lòng thì hôm nay ta đi bộ với em cả ngày.
– Không ! Hôm nay đến phiên em cưỡi ngựa.
– Trẻ con không cưỡi ngựa được !
Giang phụng phịu:
– Nhưng em muốn tập !
– Để lúc khác. Hay chốc nữa, khi nào mệt hãy hay. Bây giờ còn đi được, thuê ngựa cưỡi phí tiền.
Giang không đáp mà cũng chẳng nói gì thêm. Nó cung cúc đi trước, bỏ mặc Oa Tử lẽo đẽo theo sau.
– Giang ! Em giận ta đấy à ?
Giang đứng lại đợi. Một lúc au, khi Oa Tử đến gần, nó mới nói:
– Cô nương thừa biết em đi bộ cả ngày cũng chẳng mệt. Đợi mệt thì bao giờ mới có ngựa cưỡi !
Oa Tử cười làm lành:
– Ừ thì cưỡi, nhưng một lần này thôi nhé !
Giang chỉ đợi có thế. Nó mừng rỡ chạy ngược lại, đập cửa quán rầm rầm. Chủ quán mở cửa thò đầu ra, thấy Giang, gắt:
– Cái gì mà ầm lên thế ? Hỏi gì ?
– Cô nương ta cần một con ngựa đi Minakuchi, bao nhiêu tiền ? Nếu giá phải chăng, ta mướn đến tận Kusatsu.
– Mày con cái nhà ai ?
– Con bố mẹ ta !
Giang vênh mặt đáp.
– Ta tưởng mày con bà La Sát !
– Chắc vợ lão là bà La Sát còn lão là ông Thiên Lôi. Sao lão dữ quá thế ?
– Dữ hay không dữ ta không cần biết. Ngựa ta không cho thuê.
Muốn thuê ngựa, Giang đành phải làm lành:
– Thôi, lão trượng cho cháu thuê đi. Cháu trả tiền đàng hoàng mà !
– Không được !
– Sao không được ?
– Không có mã phu đi kèm dắt về.
Vừa lúc ấy, Oa Tử tới. Nàng hỏi rõ sự tình, đề nghị xin trả tiền trước rồi khi đến Kinakuchi sẽ nhờ người dắt ngựa hoàn lại tử tế. Thấy Oa Tử có dáng nhu mì thực thà, chủ quán phân vân một lúc rồi nói:
– Thôi cũng được. Nể cô nương lắm đấy, xong việc nhớ trả lại ngựa cho lão.
Nàng hỏi giá, trả tiền rồi cầm cương dắt ngựa đi. Ra đến đường, Giang vẫn chưa nguôi cơn tức:
– Lão già dịch !
– Ô hay Giang ! Sao hỗn thế ? Lão ta có làm gì em đâu ?
– Cô nương không biết, lão coi em như rác, nhất định không cho thuê ngựa. Thế mà thấy cô nương đến lại bằng lòng ngay. Thấy con gái đẹp thì híp mắt lại …
Oa Tử cười thầm trong bụng. Nàng cảnh cáo thằng bé:
– Này, nói nho nhỏ chứ. Con ngựa này nó nghe hết đấy. Nó dám hất ngã em để trả thù cho chủ nó lắm !
– Thật hả cô ? Để em thử …
Dứt lời, Giang trèo lên ngựa.
– Em không biết cưỡi ngựa phải không ?
– Biết chứ ! Em thấy người ta cưỡi nhiều lần rồi !
– Thế sao em lại trèo đằng sau ?
Giang thẹn nói chữa:
– Tại cái bàn đạp này cao quá. Cô đỡ em chút !
Oa Tử xốc nách bế Giang ngồi lên yên. Con ngựa đi bước một, Giang hơi nghiêng ngả theo nhịp bước chân ngựa, nhưng nó hài lòng lắm. Mặt tươi rói, nó lấy vẻ nghiêm trang, một tay giữ bờm ngựa, một tay chống nạnh, nhìn Oa Tử mỉm cười.
– Cô nương đi trước đi.
– Nhưng em ngồi chưa vững, ta phải đi bên cạnh …
– Không sao, em để chân được vào hai bàn đạp mà. Cái yên vải bố này tuy hơi ráp nhưng buộc chắc lắm !
Oa Tử đi trước, tay cầm cương. Tiếng lộp cộp của chân ngựa đạp trên đá lẫn với tiếng nhạc ngựa long cng bấy giờ đối với Giang thật là một tiết điệu vui tai lần đầu tiên nó được hưởng.
Mặt trời đã lên cao nhưng trên con đường đèo, nhiều chỗ sương còn đọng từng mảng mờ mờ xám nhạt. Đi được chừng một quãng khá xa, bỗng nghe phía sau có tiếng chân người vội vã và tiếng gọi lớn. Hai cô cháu nép vào vệ đường. Giang lo lắng hỏi:
– Hình như họ gọi chúng ta !
– Không biết có phải không. Chờ xem.
Lúc sau, thấy hiện ra mờ mờ trong màn sương một bóng người. Bóng đó rõ dần và khi còn cách Oa Tử một trượng thì cả hai nhận ra đấy là một người đàn ông trung niên, mặt rỗ và dữ dằn, chân quấn xà cạp, đi hài xảo bằng cỏ bện. Xung quanh gã còn như bọc một lớp sương gã kéo theo từ đêm, chiếc áo dày gã mặc bên ngoài ướt nhẹp.
Gã đàn ông đến gần Oa Tử, giật mạnh dây cương từ tay nàng làm Oa Tử chúi xuống suýt ngã rồi quát như sấm động:
– Tiểu tử này ! Xuống !
Con ngựa nghe tiếng quát giật mình lùi lại giơ hai cẳng trước hí một tiếng dài.
Giang sợ quá, suýt bị hất xuống đất, vội nắm chặt lấy bờm ngựa. Hoàn hồn, nó tức giận đáp:
– Bác này ! Làm gì kỳ vậy ? Ngựa của ta thuê mà !
– Mặc kệ, có xuống không ?
– Không ! Tráng sĩ là ai ?
– Ta là Chu Kế Phong Tất Đạt ở xóm Ujii, bên kia ranh quận. Ta cần ngựa để đuổi theo một người tên Thạch Đạt Lang. Hắn đi về phía này từ sớm. Đưa ngựa đây.
Gã nói nhanh như bắp rang, vừa nói vừa thở hổn hển. Trong sương sớm lạnh, những giọt nước nhỏ li ti đọng trên râu và chân tóc gã bắn ra cùng một lúc với hơi thở mờ mờ như khói. Trên cành khô, sương còn đọng giá, vậy mà cổ hắn bóng nhẫy mồ hôi, mạch máu ở hai bên cổ nổi cao lên như hai chiếc đũa.
Oa Tử đứng lặng tựa trời trồng, mặt tái mét, dường như bao nhiêu máu đã bị đất dưới chân nàng hút đi mất cả. Môi nàng run run, nàng muốn hỏi lại cho rõ những điều vừa nghe được, nhưng chẳng thốt ra lời nào.
– Tráng sĩ nói đi tìm Thạch Đạt Lang à ?
Giang hỏi mà tay run lập cập, chân để vào bàn đạp không còn vững nữa.
Chu Kế Phong hình như không để ý đến dáng điệu kỳ lạ của cả hai người, chỉ gắt:
– Có xuống ngay không ? Nếu không ta nắm cổ lôi xuống.
– Không ! Ngựa này cô nương ta thuê.
– Mặc kệ cô nương mày. Ta nói tử tế vì thấy chúng mày chỉ là đàn bà con nít. Ta vội nên mượn tạm …
– Cô nương ! Em nói có phải không ? Ngựa này mình thuê, sao cho ông ấy mượn được …
Oa Tử muốn ôm lấy Giang. Điều nàng quan tâm nhất không phải là chuyện thuê con ngựa mà chính là không muốn cho gã này có phương tiện đi nhanh hơn, đuổi kịp được Thạch Đạt Lang, gây khó cho chàng. Oa Tử bèn đáp ngay:
– Đúng vậy ! Ngựa bọn ta thuê. Tráng sĩ vội thì chúng ta cũng vội, không nhường cho tráng sĩ được !
– Em nhất định không xuống ! Chết cũng không xuống !
– À, tiểu tặc chó đẻ này ! Mày nhất định không xuống phải không ?
Vừa nói, Chu Kế Phong vừa nắm chân Giang định lôi nó xuống ngựa. Đây là cơ hội hãn hữu để Giang dùng đến thanh kiếm gỗ đeo trên lưng, nhưng trong lúc bối rối, nó quên mất. Vả cả hai tay nói còn bận ôm chặt cổ ngựa nên dù có nhớ cũng không làm gì được. Chỉ còn cách đánh miếng võ nó vẫn thường sử dụng là nhổ nước bọt vào mặt địch thủ. Nghĩ đến, làm liền. Giang bụm một bãi nước bọt lớn, ra sức bình sinh nhổ đánh bẹt một cái vào mắt Chu Kế Phong, đồng thời thuận chân đạp mạnh vào ngực gã. Chu Kế Phong bị tấn công bất ngờ, giơ tay ôm mặt. Mất thăng bằng, gã ngã ngồi xuống đất.
Gã chửi thề một tiếng tục. Vừa lúc ấy, Oa Tử rút thanh gươm ngắn nàng vẫn mang theo để tự vệ ra khỏi vỏ, xông tới đâm Chu Kế Phong. Gã lăn một vòng tránh. Oa Tử mất đà chúi về đằng trước, nhưng vẫn cảm thấy hình như múi gươm chạm phải vật gì. Oa Tử ngã sóng soài bên vệ đường, một tia máu phun vào mặt rồi tiếng con ngựa hí vang. Thì ra lưỡi gươm Oa Tử đâm trượt Chu Kế Phong nhưng lại chạm vào mông ngựa. Con vật giơ cao hai chân trước hí một tiếng dài nữa, lao đi như tên bắn. Trên lưng nó, Giang hết cả hồn vía, hai tay giữ chặt cổ ngựa, chân quặp vào bất cứ sợi dây gì nó khều được ở dưới yên, miệng la như mất cướp:
– Cô nương cứu em ! Cô nương …cứu …u …u …
Chu Kế Phong đuổi theo, định ghìm con ngựa lại nhưng không kịp. Ngựa bị đau, phóng ào ào xuống núi, bất kể cây cối, trở ngại ; trên lưng nó Giang đeo cứng, tựa như cái hình nộm mới bị đứt giây, vật vờ theo gió.
Chu Kế Phong lảo đảo trở lại chỗ Oa Tử ngã, thì không thấy nàng đó nữa. Nháo nhác nhìn quanh, chỉ thấy thanh gươm ngắn nàng dùng định đâm gã lúc nãy lăn lóc bên bụi gai, gã nhặt lên, ngắm kỹ, chùi vết máu rồi giắt vào thắt lưng. Một ý tưởng thoáng hiện ra trong trí. Gã đoán nàng này hẳn có liên hệ gì với Thạch Đạt Lang, nếu tìm bắt được, dùng nàng làm cái mồi dụ hắn sa bẫy thì tốt lắm. Hay ít ra cũng biết hắn đi đường nào hoặc trốn ở đâu.
Bèn sục sạo khắp nơi. Đến một trang trại nghèo, không có ai, ngoài một bà lão còng đang quay tơ, gã chạy vào hỏi, kéo cả màn cửa, lật cả đống củi ra tìm, làm bà lão sợ chết khiếp. Không thấy Oa Tử, gã thất vọng giận dữ bước ra. Vừa đi khỏi ngõ, chợt thấy bóng một thiếu nữ thoáng lẩn vào rặng bách xanh um, Chu Kế Phong kêu một tiếng mừng rỡ, đuổi như bay, chẳng mấy chốc đã gần bắt kịp. Quả nhiên là Oa Tử.
Oa Tử sợ cuống cuồng, chân ríu lại, ngã lăn ra. Đám cỏ lún xuống như một cái hố.
Kinh hãi, nàng kêu thất thanh, may có cái rễ lớn đâm ngang, vội bám chặt lấy. Dưới kia là vực thẳm tối đen, sâu bao nhiêu nàng cũng chẳng biết. Oa Tử nhờ bám vào rễ cây lơ lửng trên vực. Sỏi, đá, đất đổ rào rào trên đầu. Ngẩng lên, thấy Chu Kế Phong đã tới, đôi mắt hung dữ chăm chú nhìn nàng. Gã cười gằn độc ác:
– Hà ! Thử xem cô em có thoát khỏi tay ta không nào !
Nhìn xuống, Oa Tử chỉ thấy tối đen. Nếu muốn khỏi bị bắt, nàng buông tay ra là xong, nhưng buông tay ra là chết. Tâm thần bất định, Oa Tử mê đi. Nàng nhìn thấy Thạch Đạt Lang. Hình ảnh Thạch Đạt Lang rõ ràng lắm, sáng như vầng trăng trong một đêm giông bão.
Chu Kế Phong không đợi phản ứng, quỳ xuống bờ vực kéo tay Oa Tử lôi lên. Oa Tử vùng vẫy kêu cứu, nhưng những tiếng kêu thất thanh của nàng chỉ làm gã thợ rèn giữ nàng thêm chặt. Gã lôi Oa Tử khỏi vực, vứt xuống cỏ như vứt một mớ giẻ. Giận dữ và tuyệt vọng ứ nghẹn cổ, Oa Tử ngất đi, trên gò má trắng bệch, xanh xao, vết gai cào còn rướm máu.
Tiếng gọi Chu Kế Phong và tiếng chân người rầm rập chạy trên triền núi. Gã thợ rèn bắc loa tay hét lớn:
– Hồ, Tích ! Xuống cả đây ! Ta ở dưới này !
Bọn lâu la ào ào đổ dốc như đàn lợn rừng đuổi mồi, thở hồng hộc, đao kiếm đeo bên sườn chạm nhau loảng xoảng. Đến gần chủ soái, chúng khựng lại, ngạc nhiên nhìn Oa Tử nằm thiêm thiếp trên cỏ. Chu Kế Phong kể qua tự sự rồi ra lệnh:
– Trói nó lại. Còn chúng bay, có được tin tức gì của thằng đó không ?
– Có. Lão chủ điếm trà bảo sáng nay có một kiếm khách đến mua cơm sớm lắm rồi đi ngay. Chắc là hắn. Hắn đi về phía quận Tsuchi. Nhưng không hề gì, đi đường nào cũng thế, vì hai đường Fusuka và Tsichi sẽ gặp nhau ở ngã tư Ishibe. Nếu ta nhanh chân đến trước mai phục ở Ishibe thì thế nào cũng gặp.
– Được rồi. Ta đi tắt đến đấy ngay bây giờ. Bọn ngươi canh chừng con bé đừng để nó chạy thoát.
Nghĩ một lúc, gã nói tiếp:
– Sẽ gặp nhau ở Yasugawa. Bọn ngươi cứ đường thẳng mà đi, nhớ để ý đến những thằng cao lớn có dáng dấp lãng tử.
Dứt lời, Chu Kế Phong xốc lại áo, chạy như bay lên núi. Một loáng đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
Trên đường đồi khấp khểnh, con ngựa phi nước đại vùn vụt, vó nện lộp cộp, bụi cát bay mù. Vết thương ở mông nó cùng những tiếng kêu thét của Giang hình như kích thích nó chạy nhanh hơn. Gió thổi ù ù, mấy lần Giang tưởng bị hất ngã vì những cành cây thấp chắn ngang, nhưng nhờ nhanh trí, nó cúi xuống tránh được.
Giang càng kêu, ngựa càng chạy khỏe. Khản cổ, lạc giọng, tiếng kêu của nó sau chỉ còn là những tiếng rên đứt quãng. Nó ôm chặt cổ ngựa, áp má vào bờm, nhắm chặt mắt mặc cho số phận. Dần dần Giang nhận ra rằng nếu mình cứ nằm bò trên lưng ngựa rồi nhấp nhỏm theo đà ngựa chạy thì đỡ ê đít, nhưng chẳng thú vị gì. Nhớ lúc trước khi đòi cưỡi ngựa, nó mong làm sao được ngồi trên lưng một con tuấn mã, giật cương cho phóng như bay, băng rừng băng suối mới thật sướng ! Bây giờ có sướng gì đâu, chỉ thấy sợ.
Loáng một cái, đã đến làng Mikumo. Thấy có người đi ngược chiều, Giang tiếp tục kêu cứu. Nhưng ngựa chạy nhanh, người bộ hành tưởng là khoái mã của quan quân, nép vào vệ đường tránh vạ. Qua làng, gà kêu quang quác, chó sủa râm ran, vài người hé cửa nhìn nhưng chẳng ai giúp được gì. Tâm lý chung, chẳng ai muốn dính vào những chuyện không đâu, nhất là lại nguy hiểm như chuyện ghìm một con ngựa bất kham, không chết người cũng bị thương tật.
Đường đèo vắng vẻ. Nắng đã lên cao, người ngựa mồ hôi nhễ nhại. Xa xa một cây sồi cổ thụ vươn cành thấp xòe ra che cả lối đi. Giang nhìn thấy. Sống chết ở lúc này. Nó chuẩn bị. Khi lá sồi vừa chạm mặt, Giang lập tức níu ngay lấy, đánh đu lên như con nhái bén bám cành tre, cả người lủng lẳng đong đưa cách mặt đất chừng ba thước. Ngựa tiếp tục phóng đi, dường như không chú ý gì đến kỵ mã tí hon bất đắc dĩ vừa rời khỏi lưng nó.
Giang nhìn xuống đất. Sâu thăm thẳm, nó không dám bỏ tay ra, chỉ vùng vẫy co chân cố quắp lấy cành đu lên, định bụng sẽ chuyền vào thân cây. Không ngờ cành nhỏ gãy cái “rắc”, kéo theo nó ngã lăn ra đất.
Giang ngạc nhiên thấy không đau đớn gì, chỉ hơi ê ẩm. Đứng dậy phủi quần áo, sực nhớ đến Oa Tử, nó vội chồm lên, chạy ngược lại con đường đã qua, mắt tìm nháo nhác. Cứ chạy một quãng nó lại dừng lại gọi:
– Cô nương ! Cô nương ! Cô nương ở đâ …âu …
Sự bấn loạn lộ trên nét mặt ngơ ngác của nó.
– Không biết cô ấy có thoát được không ? Nếu bị thằng giặc đó bắt thì khổ quá !
Giang lo lắng, tự trách đã không bảo vệ được người thiếu nữ yếu đuối. Mồm nó méo xệch, vừa đi vừa lấy tay áo chùi nước mắt. Bỗng có người từ ven rừng bên trái đi đến. Tới gần thì ra là một thanh niên, tuổi chừng hăm bảy hăm tám, da ngăm ngăm đen, vận y phục lữ hành, chân đi giầy cỏ, lưng đeo kiếm. Thanh niên nhìn Giang hỏi:
– Bé này con cái nhà ai, phải ở làng Mikumo không ? Sao lại vừa đi vừa khóc ?
– Cháu lạc mất cô cháu !
– Cô ngươi là ai ?
– Oa Tử ! Đại hiệp ở phía rừng lại có thấy cô cháu không ? Cô cháu trạc hai mươi tuổi, nhỏ nhắn, vận áo chẽn …
– À …à …có ! Nhưng tay bị trói, có hai nông dân lực lưỡng dẫn đi.
– Đi với hai nông dân ? Không ! Chúng cháu bị một tên mặt rỗ cướp ngựa. Cô cháu mặc áo chẽn trắng chấm đen …
– Vậy đúng rồi. Ta chắc đây là bọn Chu Kế Phong. Hắn làm thợ rèn ở quận gần đây, nhưng nghe nói thỉnh thoảng có tụ tập lâu la đi ăn cướp.
– Thế thì cháu phải đi ngay cứu cô cháu mới được !
– Khoan ! Cả hai cô cháu người đi chung với nhau hay sao ? Câu chuyện thế nào kể ta nghe.
Giang bèn thuật lại. Thanh niên gật đầu:
– Vậy chúng làm loạn quá rồi, chẳng coi quan quân ra gì nữa. Nhưng bọn chúng dữ lắm, chớ nên khinh xuất. Ngươi còn bé, không làm gì được đâu, để ta giúp …Oa Tử…mphải tên cô ngươi là Oa Tử không ?
Tự nhiên Giang thấy tin người thanh niên lạ mặt. Nó gật đầu, ngây thơ hỏi:
– Đại hiệp bắt chúng giao cô Oa Tử lại cho cháu hay sao ?
Thanh niên mỉm cười:
– Ừ, để ta xem. Cứ đợi ở đây, nấp vào bụi đằng kia, đừng làm ồn lên, thế nào chúng cũng đi qua. Ta sẽ liệu.
Giang nghe lời, chạy vào ẩn trong bụi nhìn ra thấy chàng thanh niên theo đường dốc đi xuống núi.
Đợi mãi mà không thấy gì, hơi sốt ruột, nó thầm nghĩ tráng sĩ kia muốn đánh lừa nó, chỉ nói vậy cho qua rồi chuồn êm chứ chắc gì cứu được Oa Tử. Giang định bụng nhảy ra, tự mình đi tìm lấy. Đột nhiên nghe tiếng chân lạo xạo trên lá khô, nó dừng lại.
Bóng ba người hiện ra:
hai nông dân dáng lực lưỡng, râu ria xồm xoàm kèm một thiếu nữ mặc áo trắng bị trói tay đi ở giữa.
Đúng là Oa Tử rồi không còn hồ nghi gì nữa. Giang định cất tiếng gọi, bỗng sực nhớ đến lời khuyên của chàng thanh niên, khựng lại kịp. Nó còn nhỏ quá, không những không giúp ích được gì cho cô nó mà còn nguy hiểm nữa.
Đợi cả ba đi khuất, Giang mới len lén bò ra theo hút, vừa đi vừa lẩn vào các thân cây mọc rải rác trong rừng thưa.
Thình lình, chàng thanh niên ban nãy, lần này đội nón nan che kín mặt, tay cầm gậy ra vẻ một khách bộ hành đi đường xa, ở chân núi hiện ra. Thanh niên vừa đi vừa nói khá lớn, dường như cốt để cho Oa Tử và hai kẻ kia nghe rõ:
– Ghê quá ! Thật đáng sợ !
– Chuyện gì mà đáng sợ ?
– Dưới chân núi có một tên kiếm khách giang hồ tự xưng Thạch Đạt Lang đứng chắn lối, gặp ai cũng nhìn, kiếm tuốt trần, mắt dữ tợn trông phát khiếp.
– Thật hả. Thế sao ngươi đi thoát ?
– Hắn gọi ta lại, hỏi tên tuổi. Khi biết ta là Sảnh Trung thì cho đi. Hắn nói hắn chỉ cần tìm giết Chu Kế Phong Tất Đạt và lâu la của gã thôi. Không biết thù hằn gì mà ghê thế !
– Hai nông dân lực lưỡng đưa mắt nhìn nhau. Oa Tử mặt trắng bệch, run rẩy muốn ngất tại chỗ.
– Nhà ngươi có chắc như vậy không ?
– Thì chính mắt ta nhìn thấy, chính tai ta nghe, sao lầm được. Các bác phải cẩn thận, nên đi đường khác !
Nói xong gã chống gậy lầm lũi đi, miêng còn lẩm bẩm:
– Không biết thù hằn gì mà ghê thế !
Hai tên lâu la của Chu Kế Phong kéo Oa Tử vào ngồi bên đường bàn nhau khe khẽ.
Lúc sau, một đứa trở lại canh chừng Oa Tử, đứa kia chạy theo gọi Sảnh Trung.
Chúng ta muốn nhờ ngươi giúp một tay.
– Sao phải nhờ ta giúp ? Sảnh Trung đáp. Các bác là đàn em Chu Kế Phong hả ?
– Không. Chúng ta muốn bắt tên cướp hỗn láo đó !
– Chịu thôi. Ta không giúp được. Trông dáng dấp nó khỏe lắm, bốn người chưa chắc địch nổi chứ đừng nói ba. Nhất là lại còn cô này vướng chân vướng cẳng, làm gì được ?
– Thế ngươi bảo bây giờ phải làm sao ?
– Theo ta nghĩ thì chỉ có cách này là thượng sách. Trói cô bé vào gốc cây đằng kia rồi hai bác với ta xuống núi tìm mẹo mà bắt nó. Xong việc trở lại dẫn cô bé này đi.
Hai tên gật gù cho là phải. Bèn sẵn dây, trói Oa Tử vào gốc cây. Một tên còn cẩn thận xé vạt áo bịt miệng để nàng khỏi kêu cứu.
– Thôi được rồi. Đi mau mới kịp.
Dứt lời, cả ba theo nhau xuống núi.
Giang chờ cho cả bọn đi khuất mới chạy ra. Nó ôm lấy Oa Tử, nước mắt tràn đầy má:
– Cô nương ! Cô nương !
Đôi mắt Oa Tử cũng sáng lên vui mừng nhưng nàng chỉ ú ớ. Bấy giờ Giang mới sực nhớ, vội cởi miếng giẻ bịt miệng và dây trói Oa Tử ra. Hai cô cháu ôm nhau. Giang khóc tấm tức, Oa Tử vỗ lưng nó nhè nhẹ. Trong đời Giang, chưa lúc nào nó thấy sung sướng bằng lúc ấy. Nó lẩm bẩm một câu cảm ơn đức Phật linh thiêng học mót được khi còn ở đền Arakida. Oa Tử nghe, thấy sai, cười thầm trong bụng, định sửa lại cho nó, nhưng lại thôi. “Ồ, hà tất ! Miễn lòng thành thực thì đức Phật ngài cũng chứng giám”.
Chương 30: Bướm đông
A Kế Mỹ tung chăn ngồi dậy. Phòng trọ vắng vẻ, ánh chiều nhạt dần. Bóng một cành thông thấp thoáng lay động in lên khugn giấy vàng úa trên song cửa, và con chim gáy sau nhà cũng thôi không còn buông những tiếng kêu cúc cu đều đều buồn bã.
Một mình trong phòng, A Kế Mỹ cảm thấy cô đơn tràn ngập. Vết thương Sĩ Khánh để lại trong lòng nàng thật sâu đậm, A Kế Mỹ càng nghĩ càng tủi thân, khóc rấm rứt.
Thôi thế là hết. Tấm thân giữ gìn bấy lâu nay, giờ đây hoen ố, nàng biết làm sao giải thích cho người yêu trong mộng.
Vừa thoát chết, A Kế Mỹ mất hết can đảm, không dám nghĩ đến chuyện ra bãi biển lần nữa. Với tay lấy cái lược chải sơ mái tóc, thắt lại chiếc “obi” rồi bò ra khỏi chiếu nằm, nàng kéo cửa lùa rón rén bước khỏi phòng trọ.
Gió lạnh bên ngoài làm A Kế Mỹ dễ chịu. Cơn nóng trong người đột nhiên giảm bớt, nàng có cảm tưởng như vừa được uống một chén nước lạnh.
Như con chim mới sổ lồng còn e sợ không dám vỗ cánh bay cao, A Kế Mỹ dựa lưng vào hàng hiên, ngồi suy nghĩ. Đi đâu ? Về đâu ? Mẹ nàng đã bỏ đi theo Hồ Định, nàng chẳng tìm làm gì, mà ví dù có tìm được, nàng cũng quyết không để cho mẹ bán mình lần nữa. Tứ cố vô thân, cánh bướm mong manh lạc giữa mùa đông, biết nơi nào an toàn mà nương tựa. A Kế Mỹ kéo vạt áo lau nước mắt, đứng dậy:
Thôi thì cũng liều ! Và men theo hàng giậu thấp, lẻn ra cửa sau trốn.
Ở bến đò, người đi lại tấp nập, gồng gánh chen đẩy. A Kế Mỹ nhìn đám đông, trông ai cũng thẹn, tưởng như họ đều đã biết rõ cảnh ngộ mình. Giống như chim bị tên sợ cây cong, nàng né tránh hết mọi người và ngồi ẩn trong một bụi rậm chờ trời tối.
Những ngày cuối năm, tại bến đò chỗ nào cũng đông nghẹt khách vãng lai thuộc đủ mọi giai tầng xã hội:
tăng lữ, kiếm sĩ, thương nhân, kẻ chợ người quê, chen nhau mua sắm hoặc đáp thuyền về quê quán.
A Kế Mỹ chẳng biết đi đâu. Bầu trời xám nặng như chì, nước sông cuồn cuộn chảy.
Lòng nàng còn nặng gấp mấy bầu trời, mà khối nước của dòng sông kia giá đem rửa những vết nhơ trên thân thể nàng thì cũng khó mà sạch. Mối tình u uẩn của nàng, tuy Thạch Đạt Lang không hay biết, nhưng đã ăn sâu vào tâm khảm người thiếu nữ. Nó là bông hoa dại, khi ở đồi Ibuki mới còn là nụ, theo năm tháng nay đã đến độ mãn khai, được chăm bón bằng thương yêu, mong nhớ và cảm phục. Thân nàng dù bị dày xéo, bông hoa yêu đương vẫn nguyên vẹn. Nàng chỉ tiếc nó chẳng được hoàn toàn như lòng mong ước.
Nghĩ đến Thạch Đạt Lang, A Kế Mỹ sực nhớ đến lời chàng nhắn Mãn Hà Chí qua miệng tên tiểu đồ:
chân đại kiều đường Gojo, ngày nguyên đán. Một tia hy vọng lóe lên, A Kế Mỹ lau vội nước mắt. Tay run run, nàng lấy trong bọc ra cái túi đựng số bạc vụn dành dụm bấy lâu nay, lẩm nhẩm tính, rồi cả quyết theo chân bọn khách thương bước xuống thuyền đi Kyoto.
Đối với A Kế Mỹ, Kyoto chẳng xa lạ gì. Ở bến tàu bước lên, trời đã chạng vạng tối.
Nàng không muốn về xóm cũ, nơi có quán Vân Nghê của mẹ nàng khi trước, sợ gặp người quen, nên theo đường nhỏ vòng ra phía cổ thành đến khu Teramachi. Ở đó nhiều đền miếu, A Kế Mỹ hy vọng tìm được ngôi chùa nào có vị trụ trì nhân từ cho nàng tá túc qua đêm, rồi sáng hôm sau hãy tính.
Giữa hàng liễu úa, cành rủ lưa thưa, A Kế Mỹ lủi thủi đi. Gió sông thổi lạnh căm, nàng xuýt xoa run rẩy kéo vạt áo giữ hơi ấm.
– Cô em ! Này cô em, đi đâu vội thế ?
A Kế Mỹ giật mình quay lại. Một người vừa gầy vừa cao, không đoán được tuổi, quần áo rách rưới bẩn thỉu, theo chân nàng từ bao giờ. Râu tóc gã lởm chởm gớm ghiếc, bên hông đeo song kiếm, dáng điệu nửa hành khất, nửa giang hồ lãng tử. A Kế Mỹ hơi sợ, cắm cúi đi, chân bước nhanh hơn.
– Cô em ! Giải “obi” của cô tuột rồi đó, có muốn thắt lại, ta giúp !
Nàng không nói gì, chỉ rảo bước. Qua mấy năm sống ở Cổ thành, nàng nghe đồn có nhiều tên du đãng nghèo đói thường hay la cà ở các quán rượu, hoặc núp tại các khu đường vắng chờ khách cô thế đi qua xông ra ăn cướp. A Kế Mỹ đoán tên này chắc cũng thuộc vào loại ấy.
– Xinh đẹp như vậy sao không bới tóc cho cao, đến những nơi thanh lịch chứ ở chỗ hoang vắng này làm gì ? Hay chán cảnh gia đình rồi bỏ nhà đi hoang đấy ? Để ta đưa về…
– …
– Em nên cẩn thận, đêm khuya thân gái, thiếu gì đứa vô lại rình mò, nó bắt đem bán cho lái buôn, gái Kyoto có giá lắm ! Ở Edo bây giờ nhiều thanh lâu, hay em về ở với ta, mình tính kế làm ăn …
Gã cười hô hố, lúc đe dọa lúc dụ dỗ. A Kế Mỹ bực mình vì những lời lải nhải, gắt:
– Ngươi là ai ? Đi đi, ta không dễ gì dụ dỗ.
– Á à ! Nói thật đó. Ta thương cô em, thật tình muốn giúp …
– Cút đi !
Bị mắng, gã chỉ cười, hàm răng khấp khểnh cáu bẩn trông gớm chết.
– Cút đi ! Không ta ném hòn đá này thì bỏ mạng.
Tuy bên ngoài nói cứng nhưng trong lòng A Kế Mỹ sợ lắm. Ven đường cây cỏ um tùm. Thấy lẩn trong những bụi cây cỏ ấy, vài gốc tùng trắc mọc hoang, lùn tè, trong bóng tối, mới dâng, có thể tạm làm chỗ ẩn thân được, A Kế Mỹ cúi xuống vờ nhặt hòn đá, vung tay ném, gã kia né tránh. Thừa dịp tốt, A Kế Mỹ lẩn ngay vào bụi rậm. Trên cao, nền trời sẫm xuống dần. Vài ngôi sao mới mọc lấp lánh. Tiếng ễnh ương lẻ loi kêu trong đám cỏ. Con đường mòn ven sông vắng vẻ mờ mờ sau màn sương mỏng xanh lam, nhẹ như khói.
A Kế Mỹ cúi rạp người, như một con chồn, lủi giữa các bụi cây thấp. Chỗ này chắc xưa kia cũng là vườn tược của đền chùa chi đây, bây giờ hoang phế, nhưng thỉnh thoảng vẫn còn di tích những lối đi lát gạch. Nàng thở thật khẽ, cố di chuyển nhẹ nhàng như bơi giữa biển lau sậy.
Đột nhiên, một bóng người từ trong bụi cây vụt nhảy ra đẩy nàng ngã sấp. A Kế Mỹ chỉ kịp kêu một tiếng ngắn, bóng đen đã đè lên người nàng, ôm chặt, một tay bịt miệng, một tay giật dải thắt lưng. A Kế Mỹ vùng vẫy, chân đạp tay tát.
Thì ra gã du đãng lúc nãy. Nó thông thuộc đường lối khu này nên nấp sắn một chỗ đón đầu, chờ đợi.
Gã thở hổn hển. Mùi rượu và mùi hôi thối từ miệng gã xông ra nồng nặc làm A Kế Mỹ muốn ngất xỉu. Những sợi râu ngắn cứng đâm vào má, vào cổ nàng như những cái gai nhọn sắc. A Kế Mỹ đau muốn kêu cứu nhưng những tiếng kêu chỉ là những tiếng ú ớ trong cổ họng.
Tên này gầy mà sao khỏe quá, nàng dùng tay cố đẩy mặt gã ra khỏi mặt mình nhưng không nổi. Trong lúc bối rối, bất ngờ một ngón tay nàng thò vào lỗ mũi nó. Nàng chọc mạnh một cái.
– Á !
Tiếng kêu ngạc nhiên đau đớn của tên du đãng làm A Kế Mỹ giật mình. Gã lăn người sang bên, hai tay ôm mặt.
– Đồ chó đẻ ! Ông giết mày !
A Kế Mỹ ngồi dậy, chống hai tay giật lùi về phía sau. Thấy chỗ rắn, nàng đoán chừng là một hòn đá, dựa lưng vào đó thở hổn hển. A Kế Mỹ kinh hãi tột độ. Vạt áo nàng rách toạc một miếng, để lộ lần áo lót bên trong và phần ngực trần, trắng nõn dưới ánh sao đêm. A Kế Mỹ chỉ kịp làm một phản ứng tự nhiên:
kéo vạt áo kia che lại rồi hai tay giữ chặt lấy ngực, tự vệ. Nàng lắp bắp:
– Ngươi …ngươi muốn gì ?
Gã kia đã đứng lên, cười gằn độc ác. Nhìn người thiếu nữ yếu đuối trước mặt, không cách gì thoát khỏi nanh vuốt của gã, gã khoái trá, đi đi lại lại, tựa như con mèo vờn con chuột trước khi ăn thịt.
– Muốn gì ? Hề hề …Muốn gì thì nàng biết đấy !
Và chồm tới định đè sấn nàng xuống.
A Kế Mỹ nhanh mắt, lăn một vòng tránh được. Gã vồ hụt, ngã sóng soài. Cái ngã này làm gã đau điếng, vì sau tiếng “hự” va vào đá, không thấy gã trở dậy nữa.
A Kế Mỹ lóp ngóp đứng lên, hai tay giữ áo, chạy thục mạng. Trong đêm tối, như một bóng ma, tà áo trắng bay phần phật giữa những bụi đỗ quyên và tử dương hoa đã tàn và lá xơ xác.
A Kế Mỹ vừa chạy vừa kêu:
– Trời ơi ! Cứu tôi ! Cứu tôi với !
Tiếng kêu đứt quãng của nàng lạc trong hơi gió. Trong cái hoang tịch của cánh đồng Teramachi đêm đó, mảnh trăng hạ tuần cũng chưa mọc. Một tiếng cú rúc xa xa nhại lời kêu cứu của nàng và càng làm tăng thêm vẻ hoang vu, vắng lặng.
Tên côn đồ tỉnh dậy, giận uất người. Nghe tiếng kêu của A Kế Mỹ, gã loạng choạng đuổi theo, miệng lầm bầm chửi rủa. Gã đuổi theo mỗi lúc một nhanh, những tiếng chửi tục tằn càng ngày càng gần lại và tiếng chân chạy nặng nề của gã làm A Kế Mỹ rối ruột. Bước chân A Kế Mỹ không còn vững, nàng thở hồng hộc, đến bên một vũng lầy thì kiệt sức quỵ xuống. Lá lau khô cứa vào mặt vào môi, nàng thấy xót và ở miệng có vị mằn mặn.
A Kế Mỹ thở dốc tuyệt vọng. Lạnh, lạnh quá. Máu trong người nàng dường như chảy đi đâu hết. A Kế Mỹ nhìn những ngôi sao lấp lánh đằng xa như trong giấc mơ, nhỏ dần, nhỏ dần rồi bóng tối chụp xuống toàn thân nàng, đen và sâu thăm thẳm. Nàng không còn biết gì nữa.
Tiếng gọi văng vẳng bên tai làm A Kế Mỹ sực tỉnh. Chân tay nàng lạnh giá và trên mặt hình như có ai lấy nước lã vã vào. A Kế Mỹ mở mắt lờ đờ nhìn xung quanh. Một bóng đen đang cúi xuống, giật tóc mai nàng và gọi khe khẽ:
– Cô nương ! Cô nương ! Tỉnh dậy !
A Kế Mỹ cựa mình, thở dài. Tiếng người kia vui mừng:
– Mô Phật !
Và tiếp theo, giọng ái ngại:
– Ngươi khát không ?
– Đây là đâu ? Phải bãi biển Symiyoshi không ?
Bóng đen lắc đầu:
– Hãy còn mê sảng. Giá có lửa sưởi thì tốt.
Đoạn cởi áo ngoài đắp lên mình A Kế Mỹ. Nhưng nàng vùng dậy, hốt hoảng:
– Không ! Không !
Ngươi đừng sợ ! Tên đó chết rồi !
Và lấy tay chỉ người nằm cách đấy chừng một thước.
A Kế Mỹ nhìn xác chết, giật lùi lại rồi nhìn người ngồi bên cạnh không hiểu. Giữa bóng đen âm u của những lùm cây rậm rạp, nàng không phân biệt được người đó thuộc thành phần nào trong xã hội, nhưng theo giọng nói, đoán chừng thuộc loại trung niên trở lên, và nghèo khổ. Tấm áo người ấy vừa đắp lên mình nàng làm bằng vải gai, chỉ những người bần cùng hoặc giai cấp đạo sĩ mới mặc.
– Lão …lão là ai ?
– Ta là Áo Đại Môn đi khất thực qua đây, nghe tiếng cô nương kêu cứu, chạy lại thì đúng lúc tên côn đồ này định làm hỗn. Ta đập gậy lên đầu nó, tưởng đâu dọa cho nó bỏ, nào ngờ trúng chỗ phạm làm nó chết tốt.
– Mô Phật. Đa tạ lão trượng đã cứu tiểu nữ.
– Thế còn cô nương ? Nhà ở đâu ? Đêm hôm khuya khoắt đến chỗ này làm gì ?
– Thưa lão trượng …
– Gọi ta là đạo sĩ. Ta là kẻ tu hành.
– Thưa lão đạo sĩ, tiểu nữ không có nhà và cũng không thân thích. Tiểu nữ ở xa đến, trời tối, không tìm được nơi quán xá nào hợp với túi tiền nên định vào khu Teramachi, xem cảnh chùa nào rộng cho tiện nữ ở qua đêm thì tá túc. Không ngờ …
– Cô nương thật bất cẩn. Vùng Kyoto bây giờ nhiễu nhương lắm, bọn đãng tử hoành hành khắp nơi, đàn bà con gái ban ngày còn không dám ra chỗ vắng, huống chi ban đêm.
Nghe giọng nói và xem cách xử sự của đạo sĩ, A Kế Mỹ yên tâm phần nào. Tuy nhiên nàng vẫn dè dặt:
– Gần đây có ngôi chùa nào không, lão đạo sĩ ?
– Không ! Ngôi chùa gần nhất cũng cách đây chừng một dặm. Cô nương sức còn yếu, không đi nổi đâu. Hay cô nương đến ngụ tạm chỗ ta ở ?
A Kế Mỹ không nói gì, lòng lo lắng. Biết rõ ý nghĩ của nàng, đạo sĩ trấn an:
– Ấy là ta khuyên như thế, còn tùy cô nương quyết định.
– Thưa, thế nhà lão đạo sĩ ở đâu ?
Lão già mỉm cười:
– Ta cũng như cô nương, không có nhà. Ta ở nhờ một ngôi đền gần đây, cùng với một lão khất cái nữa. Nếu cô nương chẳng chê là hủ lậu thì cứ tự tiện.
– Đa tạ lão đạo sĩ.
– Vậy cô nương ngồi nghỉ, chờ ta một lát. Ta đọc bài kệ vãng sinh và lấy đá lấp cái xác kia lại, kẻo để quạ rỉa tội nghiệp.
Khi đạo sĩ làm xong việc thì trời đã khuya. Mảnh trăng lưỡi liềm vàng úa nhô lên khỏi đám tùng bách đen sẫm. Một con chim đêm bay ngang, cánh vỗ phành phạch, tiếng “quác” buông khô khan trong đêm tối vắng lặng.
Lão đạo sĩ đưa cho A Kế Mỹ mượn cây thiền trượng chống tạm, rồi cả hai, kẻ trước người sau, theo con đường hẹp đi sâu mãi vào cảnh hoang dã.
Đến một nơi lau sậy rậm rạp cao quá đầu người, đạo sĩ dừng lại nói:
– Sắp đến rồi !
Nhưng A Kế Mỹ nhìn trước nhìn sau chẳng thấy nhà cửa gì cả, chỉ thấy bốn bề lau lách mọc đầy, tiếng côn trùng ri rỉ trong đám cỏ. Nàng ngạc nhiên hỏi:
– Lão đạo sĩ ở đây sao ?
– Sau rừng kia là ngôi đền ta ở. Đối với cô nương chắc chẳng đủ tiện nghi, nhưng đối với ta thế cũng đủ.
Đi hết rừng lau, quả nhiên thấy một căn nhà. Một căn nhà gỗ hoang tàn, đổ nát hơn là một cảnh đền miếu. Lão đạo sĩ trèo lên thềm. Hàng lan can gỗ nghiêng ngả từ khi Mãn Hà Chí bị lão dùng thế nhu đạo hất ra ngoài, vẫn còn nguyên đó, không sửa chữa.
Lão già kéo tấm liếp sang bên, đàn dơi thấy động bay tới tấp. A Kế Mỹ giật mình, do dự không dám bước vào.
– Không sao đâu, bên trong ấm hơn nên dơi làm tổ. Chúng sinh cả, mình trọng nó, nó chẳng hại mình. Ta với nó sống hòa hợp chẳng bên nào cảm thấy phiền lụy. Để ta mồi chút lửa cho ấm.
Đạo sĩ nói đoạn đánh đá vào bùi nhùi, bẻ cành khô gây lửa. Chẳng bao lâu, gian phòng sáng hẳn lên, ngọn lửa vàng tươi bập bùng, nổ lách tách, tàn bắn ra xung quanh như những chiếc pháo bông nhỏ xíu.
– Cô nương có sợ ta giống như tên côn đồ lúc nãy không ?
A Kế Mỹ lắc đầu. Đạo sĩ Áo Đại Môn này hình dung kỳ dị, nhưng phong cách nhân hậu, vả dưới ánh lửa trông lão già lắm, có lẽ đến ngoài sáu mươi. Râu tóc bạc nhiều, da mặt nhăn nheo, dáng dấp mang một vẻ gì phiền muộn, chắc ở tuổi thanh niên lão gặp nhiều đau khổ.
Nàng đưa mắt nhìn quanh phòng. Cảnh bần hàn không còn có thể nào hơn được, nhưng những đồ dùng cần thiết hàng ngày lão thu góp để hỗn độn làm nàng ngạc nhiên:
hai cái nồi đất, một cái đã mẻ miệng, cái hỏa lò, vài chiếc bát đĩa, mấy đôi đũa cắm trong cái ống tre treo trên vách. Gần đấy là một manh chiếu cũ, một cái gối cáu bẩn.
– Để ta đi nấu cháo. Chắc cô nương cũng đói rồi.
– Cảm ơn đạo sĩ, tiểu nữ không đói. Chỉ thấy sốt và mệt.
– Cảm hàn rồi đấy. Cô nương ra chỗ kia nằm nghỉ đi. Nghỉ là cách tốt nhất giữ sức khỏe chống bệnh. Đợi ta nấu cháo xong, ăn bát cháo nóng là khỏi.
A Kế Mỹ cảm động. Nàng thấy lão đạo sĩ này dễ thương quá và đột nhiên nhìn căn phòng dơ bẩn của lão không còn ghê tởm nữa.
Lão đạo sĩ đổ gạo, nước vào nồi, bắc lên bếp rồi lấy ở góc nhà ra một mảnh gỗ. Lão tìm được ở đâu mấy cọng hành lá, rút dao găm ra, dùng mảnh gỗ làm thớt thái hành trên đó. Thái xong, lão trút vào bát, lau thớt đặt sang bên, lẩm bẩm:
– Để làm cái khay cũng tiện.
A Kế Mỹ xin phép đi nằm nghỉ. Đạo sĩ mỉm cười:
– Vẽ. Mệt thì đi ngủ. Có cái màn rách đắp tạm, khi nào cháo được ta gọi dậy ăn.
A Kế Mỹ không nề hà, nàng ngả mình xuống chiếu, định quơ tấm màn đắp thì một con vật gì nhảy vụt ra. A Kế Mỹ giật mình ôm mặt kêu lớn. Lão đạo sĩ chồm dậy:
– Gì thế ? Cái gì thế ?
– Không biết vật gì trong đống chăn nhẩy ra.
– Chắc là chuột.
– Không phải. Nó to như con mèo, màu vàng …
– Vậy chắc là con sóc. Khu này nhiều sóc và cầy cáo …Thảo nào ta thấy gạo vương vãi.
A Kế Mỹ vẫn còn lo sợ, đảo mắt nhìn quanh:
– Kia kìa ! Nó kia kìa ! …
Lão đạo nhìn theo tay chỉ, trông lên cái kệ xiêu vẹo gần nóc nhà, thấy có đôi mắt tròn xoe, long lanh nhìn xuống không chớp. Đôi mắt nấp sau pho tượng Phật cụt đầu, loang lổ và ám khói mang một vẻ gì vừa tinh nghịch vừa chế nhạo làm pho tượng trở nên sinh động một cách kỳ dị. Lão vỗ tay, dậm chân, đôi mắt bỏ bức tượng chạy sang bên.
Thì ra đó là một con khỉ nhỏ. Nó đánh đu vào xà nhà, đuôi quắp lên xà gỗ, bỏ thõng mình đu đưa, nhe răng kêu khèn khẹc, da mặt nhăn nheo như quả táo phơi nắng.
– Cái con quỷ này không biết ở đâu đến. Từ trước ta có thấy nó bao giờ đâu ?
– Trong rừng không có khỉ à ?
– Đây là rừng lau, làm gì có. Chắc của ai nuôi đi lạc. Không sao đâu, ngươi cứ nằm nghỉ. Để cho nó vài cái hạt dẻ. Chúng sinh cả, chẳng nên đuổi nó làm gì !
– Nó phá lắm đấy !
– Trông thì cũng có vẻ thuần rồi, không ngại.
Lão đạo sĩ đem mấy quả thông và hạt dẻ ra để lên kệ rồi ngồi xuống mở nồi cháo ra khuấy nhè nhẹ. Mùi cháo nóng bốc lên thơm nức, tỏa khắp gian phòng. Lão hít hà, nuốt nước bọt ừng ực. Trông lão bấy giờ sung sướng, bồn chồn, tưởng như nồi cháo hoa kia chứa đựng tất cả cái tuyệt đích của khoái lạc trong cõi nhân sinh mà lão sắp được hưởng.
Chuông chùa Kiyomi từ xa vọng đến. Năm cũ sắp qua, năm mới gần kề, trong tháng này, chùa nào cũng thỉnh chuông lúc sang canh như để cảnh tỉnh chúng sinh ôn việc đã qua, tránh cảnh trầm luân trong biển u mê, hư vọng. Tiếng ngân nga theo gió thoảng đưa, êm êm như những tiếng vỗ về từ cõi cao cả xa xôi nào vọng tới, thay lời đức Phật từ bi xoa dịu nỗi đau khổ trong lòng người thiếu nữ. A Kế Mỹ lắng nghe tiếng chuông, thiêm thiếp dần rồi đắm mình vào giấc mộng.
– Đồ súc vật ! Bỏ ta ra !
Tiếng kêu thất thanh của A Kế Mỹ trong giấc chiêm bao khiến đạo sĩ giật mình bỏ dở bài kinh. Lão đến bên chiếu, lay thiếu nữ. Nàng ngồi dậy ngơ ngác. Nỗi sợ hãi còn như ngưng lại trên đôi mắt lạc thần và trên đôi môi run rẩy trắng bệch của A Kế Mỹ.
– Sao vậy ? Chuyện gì kinh động ngươi quá vậy ? Nói ta biết, họa chăng ta giúp ngươi được gì chăng ?
A Kế Mỹ khóc òa. Đạo sĩ khẽ vỗ lưng nàng:
– Chuyện gì rồi cũng qua. Cứ nói đi. Nói đi thì vơi được sầu khổ. Ngẫu nhiên ta gặp ngươi, âu cũng là tiền định. Biết đâu những kinh nghiệm của ta chẳng giúp ngươi được phần nào.
A Kế Mỹ lắc đầu thổn thức.
– A di đà Phật ! Xin đấng Vô Lượng cứu vớt chúng sinh.
– Đạo sĩ có thương con không ? Đạo sĩ khuyên con phải làm gì bây giờ ?
Thì ngươi phải nói cho ta biết chuyện gì chứ ?
A Kế Mỹ cắn môi. Nàng đã tự nhủ không hở chuyện này cho ai biết nhưng sao đêm nay, cái đêm gần hết năm, chấm dứt một chặng đường trong cõi vô thủy vô chung, nàng không còn can đảm một mình mang gánh nặng tội lỗi và khổ đau ấy trên vai nữa.
Nàng muốn làm lại tất cả. Cũng như cây cỏ sang xuân đâm chồi nảy lộc, nàng thấy cần phải trút bỏ hết mọi ưu phiền cũ để cho dòng nhựa mới luân lưu trong cơ thể.
Nghĩ thế, A Kế Mỹ lau nước mắt. Và nàng kể hết cho Áo Đại Môn nghe cuộc đời của mình, những chuyện xảy ra từ khi còn thơ ấu trên đồi Ibuki, phải vâng lời mẹ lột xác chết trên bãi hoang bán lấy tiền cung phụng mẹ, rồi gặp Thạch Kinh Tử, theo mẹ mở trà thất, sông những năm sa đọa ở Kyoto, bị Hoa Sơn Sĩ Khánh cưỡng hiếp, nàng tự tử và được cứu sống ra sao, nhất nhất thuật lại. Nhiều đoạn không dằn được xúc động, A Kế Mỹ nức nở.
Lão đạo sĩ ngồi nghe, không nói gì chỉ thỉnh thoảng lắc đầu. Nước mắt A Kế Mỹ thấm ướt vạt áo gai trên đùi lão. Thương cho A Kế Mỹ bao nhiêu, lão không khỏi không ghen tức với Sĩ Khánh. Ôi chao ! Lòng trần còn nặng, dứt đi thật khó. Nhìn đầu A Kế Mỹ gục trên gối mình, phô làn da gáy trắng ngần, mịn màng. Áo Đại Môn giơ tay vuốt nhè nhẹ. Lão tự nhủ lòng:
“À thì ra da thịt này hắn đã làm chủ !”.
Mùi thơm da thịt quyện mùi phấn sáp thoang thoảng đưa lên ngây ngất. Hơi thở Áo Đại Môn nặng nề hơn. Đã lâu lắm lão không ngửi mùi này, bây giờ gần A Kế Mỹ, lòng ham muốn của lão trỗi dậy. Tấm thân suy nhược tưởng khô cằn, giờ đây sống lại.
Một ý tưởng tội lỗi vụt hiện. Nhưng lão vẫn ngồi yên, vẻ trầm mặc, mục quang dán vào làn gáy đầy, trắng có những sợi tóc đen mướt chải thẳng hàng của A Kế Mỹ. Trong phút hôn mê của lý trí ấy, màu trắng dường như mở rộng mãi ra, bao bọc lấy lão làm lão ngộp thở.
Một tiếng “kịch” ở đằng sau. Lão đạo sĩ quay lại. Con khỉ đã ngồi đấy từ bao giờ, loay hoay đang tìm cách mở nồi cháo. Đạo sĩ như tỉnh giấc, đẩy đầu A Kế Mỹ ra, đến bên bếp lửa. Tưởng có người đến đuổi, con khỉ chạy vội ra hiên. Lão quỳ xuống, đầu cúi rạp, miệng lẩm bẩm chẳng hiểu là một đoạn kinh, một bài sám hối hay một lời cảm tạ.
Lúc sau, lão quay vào, A Kế Mỹ vẫn còn phủ phục trên chiếu. Lão ôn tồn nói:
– Con ạ, đời người là bể khổ. Nhưng cái khổ của con so với cái khổ của bao nhiêu người khác vẫn chưa phải là to lớn. Đức Phật từ bi thương xót tất cả, cứu vớt tất cả. Con chỉ là nạn nhân của dục vọng. Quan trọng là tấm lòng. Tấm lòng con trong trắng thì con vẫn trong trắng. Múc cháo ăn đi con, cháo có lẽ khê rồi đó.
Nói xong, lão đạo sĩ nhặt bồ đoàn, cầm gậy lặng lẽ bước ra cửa. Đêm tàn, trăng lụn. Một tiếng vạc trên từng không vọng xuống, báo hiệu bình minh sắp rạng.
Cuối đông, vùng hoang địa quanh khu Teramachi lạnh buốt. Sương mù chỗ xanh lam, chỗ trắng đục, trên những ngọn lau khô còn vương vất chưa tan mặc dầu bấy giờ là cuối giờ thìn sang giờ tỵ.
Một tiếng “choét” sắc, gọn, vài cái lông rơi lả tả, tiếng vỗ cánh bay đi của con chim cắt. Thế là hết. Cuộc đời một sinh vật vừa được cáo chúng. Cắt tha mồi bay đến đậu trên cườm tay của Cát Xuyên Mộc. Hắn giơ con mồi lên, quay gọi Sĩ Khánh:
– Đại huynh ! Bữa nay mình đi săn thế là hên đấy chứ ! Mới sáng mà đã được chú chim gáy này rồi. Cắt này khá lắm !
Con chó săn theo sau, cất tiếng sủa vang, đuôi ve vẩy.
Cát Xuyên Mộc bỏ mồi vào bị đeo bên hông, lấy tay đập nhẹ nhẹ lên đầu chim cắt, đậy chiếc mũ da nhỏ xíu che mắt nó lại rồi tiếp tục len lỏi giữa hàng lau.
Hôm qua cũng gần chỗ này đây, con chó cắn đuôi con khỉ khiến nó bỏ chạy.
Không biết bây giờ đâu, đệ đoán nó trốn ở trong tàn cây đằng kia thôi …
Không nghe trả lời. Ngạc nhiên, Cát Xuyên Mộc ngoái cổ nhìn, không thấy Sĩ Khánh đâu, bèn quay trở lại.
Nửa tháng nay, ngụ tại võ đường Hoa Sơn, Cát Xuyên Mộc chẳng có việc gì làm, bày trò tiêu khiển, thường cùng với chưởng môn nhân Hoa Sơn mang cắt đi săn bắn. Bữa trước qua đây, chẳng may con khỉ của hắn sợ hãi bỏ đi, bữa nay hắn muốn trở lại tìm.
Sĩ Khánh chẳng có lòng dạ nào đi săn, chỉ vì cần đến võ tài Cát Xuyên Mộc mà hắn phải chiều. Hai tuần chung sống với gã thiếu niên, nhiều khi hắn bực mình thấy rõ sự trưởng thành không đi đôi với tuổi trẻ. Cát Xuyên Mộc ưa rong chơi, tính nết phóng đãng gần như buông thả, y phục sặc sỡ không ra thế nào. Sĩ Khánh đôi khi dùng lời bóng gió nhắc nhở, Cát Xuyên Mộc chỉ cười, không để ý.
– Tiểu đệ còn trẻ, để khi nào lập gia đình, sống vào khuôn phép cũng còn kịp chán.
Nhìn Sĩ Khánh cau có, buồn rầu ngồi trên tảng đá, Cát Xuyên Mộc đến bên vồn vã:
– Đại huynh trong người không được khỏe chăng ?
– Không, tại hạ vẫn bình thường.
Một lát lại nói:
– Dạo này ta với thiếu hạ làm điều đó thật lầm.
– Điều gì ?
– Đi săn. Cứ rong chơi mãi chẳng luyện tập, ngày nguyên tiêu gần đến rồi, sao đủ sức địch với hắn !
Cát Xuyên Mộc cười để lộ hàm răng trắng bóng:
– Không sao. Theo ý đệ, ta chẳng nên lo lắng vô ích.
– Nhưng thiếu hạ phải biết hắn là tay ghê gớm, chẳng nên khinh thường. Binh pháp có nói không bao giờ được khinh địch. Trước khi tranh đua, phải chuẩn bị và tập luyện kỹ càng.
– Đệ biết chứ. Nhưng bây giờ trễ rồi. Cách tốt nhất là giữ cho lòng bình thản thoải mái. Thắng địch tùy thuộc nhiều yếu tố …
Tuy nói thế, nhưng trong thâm tâm Cát Xuyên Mộc coi thường Sĩ Khánh lắm. Hắn cho Sĩ Khánh hẹp hòi, không biết nhìn xa trông rộng và thiếu những dự phóng tương lai.
Tài năng lại kém cỏi, mấy lần thử so gươm với Sĩ Khánh, hắn lấy làm lạ một người như vậy mà giữ chức chưởng môn một môn phái danh tiếng. Chả trách gì Hoa Sơn càng ngày càng lụn bại.
Theo ý riêng hắn, có lẽ em Sĩ Khánh là Điền Chính nhiều khả năng hơn, nhưng nghe nói Điền Chính rượu chè be bét, lại vô trách nhiệm, việc gì cũng phó mặc ông anh nên chưa chắc Điền Chính bảo vệ được gia phong. Vả có muốn tìm cũng khó. Hạc nội mây ngàn, biết tung tích hắn đâu mà tìm về cho kịp.
Cát Xuyên Mộc lắc đầu, thương hại Sĩ Khánh và cả phái Hoa Sơn. Nếu chưởng môn nhân Hoa Sơn đọc được những điều Cát Xuyên Mộc đang nghĩ, chắc hắn mất tinh thần lắm.
Có tiếng chó sủa dữ dội đằng xa. Cát Xuyên Mộc nói:
– Chó thấy mồi rồi. Để đệ ra xem sao.
– Thiếu hiệp cứ đi săn, nếu muốn. Ta về đây !
Cát Xuyên Mộc sửng sốt định nói gì, nhưng nghĩ lại thôi. Hắn mặc kệ Sĩ Khánh, theo hướng chó sủa, vạch lau xăm xăm đi tới.
Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần. Đến nơi, thấy con chó săn đứng trước thềm một căn nhà đổ nát, vươn mình sủa dữ dội. Hắn đá con chó một cái, ghé mắt nhìn vào trong nhà tối như hũ nút. Hắn giơ tay kéo liếp. Con chó nhảy xổ vào nhanh như tên bắn. Tiếng kêu thét hãi hùng, tiếng chó sủa ủng oẳng, đồ đạc đổ vỡ rầm rầm lẫn với tiếng la hét thất thanh của một thiếu nữ làm căn vách ván rung rinh như sắp sập.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng, Cát Xuyên Mộc nhìn con chó đè lên hình thù một người nằm trên chiếu. Mõm nó ngoạm vào cánh tay người ấy, lắc đi lắc lại định rứt đứt tay áo. Con khỉ lông vàng của hắn nhảy choi choi trên cái kệ gỗ, nhe răng kêu khẹc khẹc.
Không suy nghĩ, Cát Xuyên Mộc nhẩy xổ đến, hai tay nắm hai hàm răng con chó bửa mạnh. Một tiếng rắc, tiếp theo là những tiếng ằng ặc, máu tuôn xối xả, bắn cả vào mặt mũi hắn. Con chó dẫy đành đạch, máu lẫn với rãi rớt phun ra ướt đầm mảng lông cổ trước ngực. Một lát sau thì tắt thở hẳn.
Cát Xuyên Mộc quỳ bên A Kế Mỹ nằm thiêm thiếp. Hắn vạch tay áo nàng lên, vết răng chó cắn sâu vào tận trong thịt, máu loang ướt cánh tay trần. Áng sáng bên ngoài hắt qua khe liếp hé, trông nàng như một đóa phù dung bị xéo nát.
Cát Xuyên Mộc ghé miệng hút máu từ vết thương ra, nhổ đi mấy lần, rồi xé vạt áo buộc lại. Hắn lượm xác con chó vất ra sân, đoạn xốc A Kế Mỹ lên vai.
Gió lạnh bên ngoài làm hắn rùng mình. Hắn kéo vạt áo che cho người thiếu nữ.
Đến khuya, lão đạo sĩ trở về. Cảnh hoang vắng của căn nhà thê lương hơn và tự nhiên lão linh cảm có một chuyện gì ghê rợn vừa xẩy ra. Lão hốt hoảng gọi:
– Cô nương ! Cô nương còn đấy không ?
Không có tiếng trả lời. Chỉ thấy lão hành khất già ở phía sau lê bước tới.
– Nàng bị bắt đi rồi.
– Ai bắt ?
– Một tráng sĩ cao lớn còn trẻ lắm, mặc áo đỏ viền xanh, đeo trường kiếm.
– …[Audio] Tranh Bá Thiên Hạ (dịch)
– Chà ! Con người mới khỏe và đẹp làm sao ! Đẹp trai hơn ta và lão nhiều ! Sức lão chẳng giữ được nàng đâu !
Nói xong như rất vừa ý về câu pha trò đó, lão hành khất cười hềnh hệch.