1. Home
  2. Truyện Kiếm Hiệp
  3. [Audio] Thạch Kiếm
  4. Tập 2: Mãnh hỗ quần hồ – Quang Minh hội (c11-c20)

[Audio] Thạch Kiếm

Tập 2: Mãnh hỗ quần hồ – Quang Minh hội (c11-c20)

❮ sau
tiếp ❯

Chương 11: Mãnh hỗ quần hồ

Thật là một mối nhục lớn. Trong lịch sử lập phái, Hoa Sơn chưa bao giờ phải chịu một sự thất bại nặng nề đến thế !

Hai bên hành lang võ đường, võ sinh ngồi bất động, mặt cúi gầm, bàn tay nắm chặt để lên đùi, đốt ngón tay nhợt nhạt chứng tỏ sự tức giận đến cùng cực. Trong phòng kế cận, một số huynh đệ họp bàn, tiếng tranh luận qua khe cửa lọt ra ngoài nghe không rõ, nhưng âm thanh đầy căm phẫn.

Trời đã xế chiều. Giờ này, thường ngày họ ngưng luyện tập, chuẩn bị đi uống rượu hay mua vui ngoài phố, nhưng hôm nay chẳng ai nghĩ đến chuyện ấy. Không khí yên lặng, nặng nề; thỉnh thoảng một tiếng kẹt cửa càng làm tăng vẻ thê lương của gian đại sảnh rộng lớn.

– Đại ca đã về đấy hả ?

– Không, chưa thấy gì cả.

Mẩu đối thoại của người trong phòng với võ sinh đứng đợi ở cửa sổ suốt buổi chiều, vang dội qua dãy hành lang. Mọi người ngẩng nhìn ra ngoài, nhưng rồi lại cúi mặt xuống, không giấu được thất vọng. Vài tiếng nói nhỏ từ trong phòng lọt ra nghe loáng thoáng:

– Có lẽ đại ca không ở đó đâu. Người đã đi tìm những chỗ khác chưa ?

– Dạ chưa, nhưng đã sai người đi khắp các trà thất. Vẫn không được tin tức gì.

Trên bàn thờ chưởng môn tiền bối, nến cháy leo lét. Mọi người không ai ngăn được những ý tưởng chua chát cho rằng anh em Sĩ Khánh thật bất xứng với tổ phụ. Lúc sinh thời, Khổ Bích không bao giờ vắng mặt ở võ đường quá một ngày, chứ đừng nói để bị sỉ nhục như vậy.

Hoa Sơn Khổ Bích xuất thân từ một gia đình bình dân làm nghề thợ nhuộm. Lúc còn trẻ, vì hàng ngày phải làm những động tác nhịp nhàng trong nghề nhuộm lụa như giặt, vắt, phơi, xếp, ông nảy ra ý nghĩ khi học võ, đem áp dụng những động tác ấy vào việc luyện kiếm. Khổ Bích thụ huấn kiếm pháp của một danh tăng ở Kyoto, về sau tự trau dồi, tôi luyện mãi thành kiếm pháp biến ảo khôn lường. Nhiều chiêu thức đặc biệt do ông phát minh đã khiến kiếm kỹ của ông trở thành độc đáo. Ông nổi tiếng đương thời và nghiễm nhiên giữ một địa vị cao trong trong chốn giang hồ, trở thành giảng sư về kiếm thuật cho một số lãnh chúa, và sau đó sáng lập ra phái Hoa Sơn, thu dụng đồ đệ.

Suốt đời, Hoa Sơn Khổ Bích đã tỏ ra là một kiếm sĩ gan dạ và tài trí. Hai con trai ông, Sĩ Khánh và Điền Chính, cũng được khổ luyện ngay từ khi còn nhỏ, nhưng sau thời kỳ nghiêm phụ mất, tinh thần và kiếm thuật của họ dần dần sa sút. Có người bảo có lẽ vì họ đã được hưởng một gia tài và một danh vọng quá lớn.

Ai cũng gọi Sĩ Khánh là đại ca hay Hoa Sơn chưởng môn, nhưng so về kiếm kỹ và đức độ, hắn còn xa mới được như thân phụ. Vì vậy số môn đệ không được đông đảo như trước. Người ta nhập môn Hoa Sơn chỉ vì háo danh, bởi làm đồ đệ Hoa Sơn cũng đủ bảo đảm một chỗ đứng khiến giang hồ phải e dè và kính nể.

Trong những thập niên gần đây, sau vụ thất trận của lãnh chúa Hoàng Giả, võ đường Hoa Sơn không còn được trợ giúp dồi dào như thời sinh tiền Khổ Bích, nhưng nhờ nếp sống giản dị và cần kiệm của lão chưởng môn, các con trai ông ngày nay vẫn dư dật. Ngoài ra do sự đóng góp của môn đệ phần nhiều thuộc thành phần giàu có, Hoa Sơn phái không mất đi chút nào vẻ phong lưu ngày trước. Nhưng vì thế mà nói rằng đó là một võ đường giá trị bậc nhất thì không đúng. Về kiếm thuật, Hoa Sơn ngày nay chỉ còn là một bóng mờ, một môn phái hữu danh vô thực.

Thế giới bên ngoài bức tường cao, sơn trắng kia đã thay đổi nhiều, nhưng những người bên trong vẫn không hề hay biết hoặc lưu ý. Họ đã quen khoe khoang những chiến tích cũ, ngủ yên trên những chiến tích ấy mất rồi nên ăn chơi buông thả, sao lãng việc luyện tập cho mãi đến hôm nay mới mở mắt bừng tỉnh, ê chề, bất lực trước những hành động hạ nhục của một kiếm khách vô danh, chẳng biết từ đâu đến.

Bấy giờ là khoảng trước giờ ngọ, gia nhân gác cửa vào thông báo có một kiếm khách tự xưng Thạch Điền muốn được tiếp kiến. Khách có vẻ quê mùa, chừng hăm hai hăm ba tuổi, vóc người cao lớn, tóc không chải, buộc túm về phía sau, màu đỏ quạch vì phơi nắng và bụi bặm. Bên hông đeo một cái túi bằng da sống, thứ túi các tay kiếm khách giang hồ thường dùng mỗi khi phải lang bạt nay đây mai đó. Bộ kimono cũ và rách, đã bạc phếch, không biết trước đây màu gì, đen hay nâu nữa.

Khách nói quê quán ở Miyamoto, vùng Mimasaka. Trông dáng điệu và y phục, đúng là loại kiếm sĩ lang bạt không nơi nương tựa, thấy nhan nhản ở khắp thôn quên cũng như thành thị thời ấy. Thạch Điền Đạt Lang trông còn có vẻ tệ hơn:

hình như hắn không lưu tâm gì đến chuyện phục sức bề ngoài, chỉ chú ý vào việc luyện võ. Mắt hắn sắc như dao, dáng đi ngang tàng, nên tuy quần áo rách rưới, tên gia nhân cũng giật mình lui bước.

Nếu hắn chỉ làm một kiếm sĩ lỡ độ đường đến nhờ tá túc hoặc xin bữa ăn lót dạ thì không nói làm gì. Đằng này lại muốn gặp chưởng môn Hoa Sơn Sĩ Khánh để tỷ kiếm.

Cái đó mới làm mọi người ngạc nhiên cười ha hả.

Viên quản gia định đuổi thằng điên đó ra ngoài, nhưng có người tò mò muốn biết hắn thuộc môn phái nào và sư phụ của hắn là ai nên đã sai người ra hỏi lai lịch. Thạch Đạt Lang chỉ vắn tắt trả lời hắn không có sư phụ, tự học kiếm trong những năm qua, và suốt năm vừa rồi đã ở trong rừng trau dồi kiếm thuật cùng với cỏ cây và muông thú, tạo nên những đường kiếm riêng biệt. Hắn không xuất thân từ môn phái nào nhất định và muốn được so kiếm với các bậc cao thủ ngày nay như Hoa Sơn Sĩ Khánh để lãnh giáo những cao chiêu. Mục đích và tham vọng của hắn chỉ có thế. Mặc dầu hắn tự cho còn nhiều khuyết điểm nhưng hắn ước mong phái Hoa Sơn không làm hắn thất vọng.

Tên gia nhân trở vào trình lại, còn nhại giọng nói nhà quê của địa phương hắn để tăng vẻ khôi hài làm mọi người cười lăn lộn:

– Chà chà ! Thằng đó điên hẳn rồi ! Cái gì mà tự tạo nên những đường kiếm riêng, coi người bằng nửa con mắt như thế !

Bèn lại sai đầy tớ ra hỏi một cách giễu cợt:

– Bản phái có lệ không an táng những kẻ đến làm rộn võ đường. Vậy quý khách đã chỉ định ai là người đến mang xác quý khách đi chưa ?

Thạch Đạt Lang thật thà đáp:

– Nếu chẳng may tại hạ bị thất thế, xin cứ vất xác xuống sông hay để cho dòi bọ đục rỉa, không quan hệ. Thế nào cũng được, tại hạ không phiền lòng.

Lần này thì cả võ đường không cười nữa. Hiển nhiên hắn đã thách thức một cách đứng đắn và mang sinh mạng ra đánh cuộc.

Bàn tán một hồi, những người thuộc hàng huynh trưởng ra lệnh:

– Dẫn nó vào !

Trong phút đầu, họ tưởng để một vài tay em ra dậy tên điên khùng đó một bài học cũng đủ, nhưng mới qua đường gươm thứ nhất, họ đã kinh hãi cực điểm. Thạch Đạt Lang không phải là một tay kiếm tầm thường.

Bình tĩnh đứng giữa phòng, sau một tiếng thét, hắn đã chém môn đệ Hoa Sơn lăn long lóc trên sàn, cánh tay cụt đến khuỷu, bàn tay văng vào góc tường giật liên hồi vẫn còn nắm chặt thanh đoản kiếm.

Hai người khác luân phiên nhau xông ra, một trong hai người thuộc hàng cao thủ, nhưng Thạch Đạt Lang nhanh như chớp xuống tấn tránh lưỡi kiếm chém ngang đầu, thuận tay đưa ngược gươm từ bụng lên cổ người đó. Rút kiếm ra, máu phun như tưới trên mình hắn, Thạch Đạt Lang nhăn mặt, quay lại tiếp chiêu ngay, vừa kịp gạt bắn tanh kiếm đâm xéo hông đã đá người kia một cái như trời giáng lăn xuống sàn, lộn vào chân tường, giãy đành đạch.

Mọi người sửng sốt, hét lên phẫn nộ, cùng rút kiếm ra khỏi vỏ. Tình hình không còn là một cuộc so tài thử sức nữa mà là một cuộc nhất tề xông tới lấy số đông áp đảo giết cho được Thạch Đạt Lang. Nhưng hắn như con cọp dữ, đâu có để cho dễ bắt. Hắn chém đông, gạt tây, đâm, phát; kiếm quang loang loáng dưới ánh chiều xuyên qua cửa sổ. Thạch Đạt Lang hét lên những tiếng ghê rợn, mỗi nhát kiếm lia tới đâu là có người ngã tới đó, không chết thì cũng thương tích trầm trọng.

Môn đệ Hoa Sơn đã bắt đầu e ngại không dám xông xáo như trước. Thạch Đạt Lang đưa mắt nhìn quanh, nhận rõ tình hình, bèn nói lớn, thanh trường kiếm vẫn nắm chắc trên tay, máu nhỏ giọt.

– Như vậy đã đủ, không nên để chết thêm nhiều người nữa. Ta muốn tỷ kiếm với Sĩ Khánh chứ không phải với các ngươi.

Môn đệ Hoa Sơn yên lặng vây quanh Thạch Đạt Lang, tuy không nói ra nhưng trong lòng ai cũng kinh hãi. Gờm nhau một lúc, tất cả đều đồng ý tạm dứt cuộc tỷ võ, dẫn Thạch Đạt Lang ra nhà khách để gia nhân khiêng những xác chết và người bị thương đi, dọn dẹp võ đường chờ Sĩ Khánh trở về quyết định.

Mặt trời lặn đã lâu, tiếng xôn xao và tiếng chân người bước rầm rập ở cổng ngoài mới nghe rõ. Từ trong hành lang, toán võ sinh ngồi bất động từ trước vội đứng dậy ra đón, dẫn chưởng môn Hoa Sơn và hai huynh trưởng Hồ Điểu cùng Ưng Đằng vào hậu sảnh. Chưa kịp an tọa, Hồ Định hỏi ngay:

– Sao ? Chuyện gì vậy ? Kể qua cho đại ca nghe.

Giọng hắn gay gắt nhưng không dấu nổi xúc động. Một võ sinh quỳ bên thi thể bạn đồng môn, quay lại hằn học trách:

– Lỗi ở huynh trưởng đã dẫn đại ca xuống xóm. Tên đó đến làm loạn võ đường như thế này, huynh trưởng phải chịu trách nhiệm.

– Im mồm ! Ngươi nói láo ta cắt lưỡi.

– Khi sinh tiền, lão chưởng môn chưa bao giờ bỏ võ đường đi đâu lâu đến thế !

– Đại ca cần giải trí. Chúng ta đi xem tuồng Kabuki, ngươi là cái thá gì mà dám hạch hỏi ?

– Xem tuồng Kabuki đâu cần phải vắng mặt suốt ngày đêm, huynh trưởng tất phải biết chứ !

Hồ Định gầm lên nhảy đến định chẹt cổ tên võ sinh hỗn láo. Trong khi mọi người đang tìm cách can gián thì một tiếng nói nhỏ đầy bi phẫn làm ai cũng phải chú ý:

– Bây giờ đại ca đã về, không phải lúc đổ lỗi cho nhau nữa. Xin đại ca cứu vãn danh dự cho bản phái, không thể để tên đó thoát khỏi đây mà không trừng trị !

Những người bị thương, tay chân buộc vải đẫm máu, mặt ủ rũ buồn thiu ngồi rải rác khắp phòng. Có người khóc, có người căm giận chửi rủa. Họ là nhân chứng hùng hồn tỏ rõ sự bất lực của môn phái và mặc nhiên bảo ngầm cho Sĩ Khánh biết địch thủ dũng mãnh đến bực nào.

Trong giới kiếm sĩ, điều hệ trọng nhất là danh dự. Các môn phái tranh nhau hơn kém cũng vì danh dự. Cho tới những năm gần đây, các chính phủ đương quyền đều có đặt ra luật pháp để thống nhất việc cai trị và xét xử, nhưng thời bấy giờ, ngay cả ở Kyoto, luật lệ chẳng có gì nhất định. Tất cả sinh hoạt trong nước đều chiếu theo phong tục, tập quán là những thứ luật bất thành văn mà mọi người, từ thứ dân đến sĩ phu đều chấp nhận. Môn phái Hoa Sơn cũng vậy, tuy gồm nhiều võ sinh vô học, lỗ mãng nhưng không phải là những kẻ vô liêm sỉ không có căn bản đạo đức gì. Vì thế, sau trận thất bại nhục nhã vừa qua, điều họ nghĩ đến trước tiên là danh dự ; danh dự của tông môn, của sư phụ và của chính họ. Lời người vừa nói nhắc họ nhớ đến danh dự ấy, gạt hết mọi hiềm khích cá nhân và có tác dụng như chất keo gắn họ liền với nhau trong niềm tủi hổ.

Tất cả đứng dậy theo Hồ Định vào phòng trong, cùng Sĩ Khánh bàn cách đối phó.

Nhưng thật không may, đúng vào lúc này, sau một ngày đêm truy hoan hưởng lạc, chưởng môn phái Hoa Sơn cảm thấy mỏi mệt, tâm trí rời rã, bao nhiêu nhuệ khí như tiêu tan hết. Tuy nhiên, Sĩ Khánh không thể làm gì khác hơn là chấp nhận cuộc thách đấu.

Hắn xắn tay áo lên, dùng dây da buộc cho gọn rồi hất hàm hỏi:

– Thằng đó đâu ?

– Thưa ngồi ở bên nhà khách, phía vườn sau.

– Bảo nó đến đây !

Sĩ Khánh thấy môi se, cổ khô. Hắn nuốt nước bọt, bước ra đại sảnh ngồi vào ghế giữa, sửa soạn nhận lễ tiếp kiến theo nghi thức với tư cách chưởng môn. Thanh trườ ng kiếm do một đồ đệ lấy ở giá xuống dựng bên cạnh.

Ba bốn võ sinh định ra vườn sau mời Thạch Đạt Lang thì Hồ Định và Ưng Đằng vội cản lại. Hai người muốn thảo luận thêm tìm cách bắt giết cho được Thạch Đạt Lang.

Họ dẫn nhau vào phòng, nhiều huynh trưởng trong phái cũng đi theo, gây nên một cuộc bàn cãi sôi nổi. Sau cùng đa số đồng ý là hồi này đại ca không được khỏe, kiếm thuật cũng không có những chiêu thức gì xuất sắc hơn kiếm thuật của những người mới bị đánh bại, nếu cứ để một chọi một thì nguy hiểm lắm. Số thương vong vừa rồi cũng đã đủ làm mất mặt phái Hoa Sơn, huống chi để chưởng môn bị thua nữa thì còn gì là danh dự, hiểm họa to lớn không biết chừng nào và hậu quả ghê gớm lắm chứ không phải tầm thường.

Giá Điền Chính còn ở nhà thì không ngại, vì so về kiếm kỹ, Điền Chính có phần hơn Sĩ Khánh một bậc. Hắn đáng mặt chưởng môn hơn, nhưng là con thứ không có trách nhiệm gì nặng nề, Điền Chính thường hay bỏ đi chơi xa, mặc anh lo liệu. Mới cách đây mấy hôm, hắn cùng vài người bạn lên đường đi du ngoạn miền tây, chẳng bảo cho ai biết bao giờ về cả.

Hồ Định đến gần Sĩ Khánh nói nhỏ:

– Bọn tiểu đệ có một kế mọn …

Và ghé tai Sĩ Khánh, hắn thì thầm trình bày cái kế hoạch hắn và đồng bọn đặt ra để bắt Thạch Đạt Lang.

– Thế là đánh lừa nó hả ?

Hồ Định khoát tay ra hiệu bảo đừng nói lớn, nhưng Sĩ Khánh không nghe:

– Không được ! Ta không khi nào chấp nhận một hành động như vậy ! Hèn lắm !

Nếu chuyện đó đồn đại ra ngoài thì còn gì thanh danh phái Hoa Sơn nữa ! Họ sẽ cho mình vì sợ một tên giang hồ lạc thảo mà phải dụ nó vào bẫy …

– Ấy chơ ! Đại ca đừng …đừng …

Nhưng mặc cho Hồ Định cản, Sĩ Khánh vẫn tỏ vẻ bất bình, mặt đỏ gay, thốt ra những lời phản đối. Hồ Định phải đánh trống lấp:

– Đại ca để đàn em lo liệu …Đại ca cứ yên tâm !

– Ngươi tưởng Hoa Sơn Sĩ Khánh này, chưởng môn kiếm phái Hoa Sơn lại chịu thua tên …tên Thạch Điền gì đó …ở Mimasa hả ?

– Không ! Không ! Tiểu đệ đâu có ý ấy ! Đại ca ở bậc cao trọng, can chi phải hạ mình đối địch với một tên mãi võ vũ phu tầm thường như vậy ? Chuyện này xin đừng nói lớn, người ngoài biết không tốt. Vấn đề quan trọng là đừng để nó thoát !

Trong khi ấy bọn môn đệ Sĩ Khánh đã dần dần phân tán gần hết, lặng lẽ rút êm như một đàn mèo, không một tiếng động. Người ra vườn sau, kẻ nấp trong những xó kẹt hoặc biến đi như tan vào bóng tối của khu trang tại rậm rạp. Một lúc sau không còn thấy ai, Hồ Định mới rút gươm, giọng cương quyết:

– Đại ca, giờ này không nên chần chừ nữa.

Và hắn thổi tắt đèn.

Một mình ngồi trong bóng tối, giữa bầu không khí hoang vắng và căng thẳng đến rợn người, Sĩ Khánh đột nhiên cảm thấy cô đơn và buồn khôn tả. Dù cao ngạo đến đâu, hắn cũng đã nhận rõ đồ đệ hắn coi võ công hắn chẳng ra gì, không đủ sức bảo vệ thanh danh môn phái. Từ khi thân phụ quy tiên đến nay, hắn quả đã sao lãng việc luyện tập, giữ được những đường kiếm uy mãnh như xưa cũng đã khó, nói gì đến việc bồi dưỡng hay khai triển.

Sĩ Khánh buồn rầu thở dài đứng lên đi ra gần cửa sổ. Qua khung giấy mỏng, hắn nhìn sang phía vườn sau, chỗ Thạch Điền ngồi, thấy có ánh sáng chập chờn leo lét. Đó là ngọn đèn độc nhất còn thắp sáng trong trại.

Ngoài kia, bao nhiêu cặp mắt khác cũng đương chú mục vào ngọn đèn ấy. Những bóng đen nằm rạp xuống đất, nín thở bò lại gần từng chút, từng chút, lắng tai nghe ngóng động tĩnh.

Hồ Định tuy là con người thích hưởng lạc, nhưng khi cần hành động hắn cũng tỏ ra có bản lãnh và khôn ngoan. Hắn tự đặt mình vào địa vị Thạch Đạt Lang, tự nêu nhiều câu hỏi và tự giải đáp:

“Thạch Đạt Lang là kẻ vô danh, vùng này không ai biết, nhưng phải nhận là hắn khỏe và có võ công thượng thừa. Nếu không, sao chỉ trong khoảnh khắc đã đả thương được tới năm sáu cao thủ Hoa Sơn. Hắn lại nhiều mưu lược, biết tiến thoái khi cần để giữ sức. Nếu ta là hắn, ta sẽ làm gì ? Không lẽ cứ ngồi nhà khách chờ chưởng môn về ? Hắn ngu gì mà không biết hắn có thể bị bao vây như chuột trong rọ.

Vậy chắc giờ này hắn đã chuẩn bị kỹ, sắn sàng nghênh chiến. Nhưng sao hắn không thổi tắt đèn đi để gây hỗn loạn trong bóng tối mà nắm phần thắng chứ ? À, phải rồi !

Hắn để đèn lừa ta, tưởng hắn không chuẩn bị, rồi nấp đâu đó xuất kỳ bất ý …Đúng rồi !

Phải rồi ! Ở địa vị hắn, ta cũng làm vậy !” Hồ Định nhìn chung quanh. Dưới ánh sao lờ mờ, môn đệ Hoa Sơn như những âm binh lom khom từ khắp vườn tiến tới. Đến gần cửa phòng, Hồ Định lên tiếng.

– Thạch Điền ! Xin lỗi để các hạ phải chờ lâu. Chưởng môn Hoa Sơn muốn được tiếp kiến !

Không nghe trả lời. Hồ Định đồ chừng Thạch Đạt Lang án binh bất động, nằm phục đâu đó chờ lúc thuận tiện đánh ra. Hắn đưa mắt lần nữa, thấy bộ hạ đã tề tựu đông đủ, bèn quát như sấm động:

– Giê …ết !

Đồng thời lấy chân đạp toang cửa. Cánh cửa bằng gỗ mỏng vỡ tung, bay vào trong phòng làm tắt ngọn đèn độc nhất đặt trên kỷ. Căn phòng tối om. Đồ đệ Hoa Sơn mạnh ai nấy hét, phá cửa sổ nhảy vào như vũ bão, đao kiếm cầm tay chặn hết các lối.

Nhưng phòng trống không, Thạch Đạt Lang đã đi đâu mất ! Mọi người nhìn nhau lao xao, nổi lửa châm đèn, ngạc nhiên đến cực điểm. Quái lạ, ấm trà vẫn đây, chén trà rót ra vẫn còn nguyên chưa ai động đến. Người canh cửa bên ngoài nói có trông thấy Thạch Đạt Lang cách đây chừng vài khắc đi vào phòng tắm, sao bây giờ đã mất dạng ?

Tiếng chân bước rậm rịch khắp nơi vang động cả khu vườn yên tĩnh.

– Nó là ma à ? Thoát ra đường nào được ?

– Lạ thật !

Hồ Định nổi nóng sai bộ hạ sục sạo không thiếu chỗ nào, vừa văng tục vừa dọa nạt. Bỗng có tiếng reo hò mừng rỡ:

– Đây rồi ! Hắn trốn chỗ này !

Tất cả đổ xô vào buồng tắm, thấy sàn nhà bị gỡ một mảng lớn vừa người chui lọt.

Hiển nhiên Thạch Đạt Lang đã chui qua lỗ này trốn ra ngoài.

Hồ Định ra lệnh:

– Nó mới thoát đây thôi ! Anh em đuổi theo tức khắc !

Ai ai cũng hoan hỉ. Vậy Thạch Đạt Lang là một thằng hèn, đã không dám ở lại tỷ đấu với chưởng môn, thế thì còn đáng sợ gì nữa ! Mọi người thấy cơn nguy hiểm đã qua, đều lên tinh thần và can đảm, hùa nhau từng tốp ào ra cổng ngoài bắt gian khách.

Được vài bước đã có người chỉ trỏ kêu rầm rĩ:

– Kia kìa ! Nó kia kìa !

Một bóng đen từ trong bụi rậm gần cửa sau vọt ra, lẩn vào đường hẻm bên hông trại. Môn đệ và gia nhân Hoa Sơn la hét đuổi theo. Khi bóng đen chạy gần đến bãi hoang thì bị toán phục kích ở đó đổ ra chận bắt làm hắn ngã sóng soài. Nhưng bóng đen đã nhanh nhẹn đứng ngay dậy được và chống trả kịch liệt làm ba đệ tử Hoa Sơn phải lui bước.

Bọn đuổi theo chạy đến nơi trông thấy hắn vội nói:

– Không phải tên này ! Nhầm rồi !

Đương phân vân thì Hồ Định tới:

– Á à ! Ta biết tên này. Nó đâu phải Thạch Điền …gì đó !

– Huynh trưởng biết hắn hả ?

– Ừ, ta thấy hắn ở quán Vân Nghê.

Mãn Hà Chí, vì chính hắn là Mãn Hà Chí, đứng ngây người nhìn Hồ Định. Không ai nói câu gì. Mãn Hà Chí vụng về buộc lại tóc và sửa lại bộ áo xốc xếch.

– Hắn là chủ quán Vân Nghê hả ?

– Không. Ôkô bảo không phải. Hắn chỉ là kẻ ở đậu.

– Trông khả nghi lắm. Hắn rình rập ở cửa sau làm gì thế ?

Nhưng Hồ Định đã quay gót đi và dặn bộ hạ:

– Bỏ thằng đó đấy, mất thì giờ vô ích. Chia hai ra, cánh tả lên phía bắc, cánh hữu xuống phía nam. Nếu không bắt được nó, ít ra cũng biết nó trú ngụ Ở đâu.

Xôn xao một lúc, chúng chia thành hai nhóm làm theo lệnh Hồ Định.

Mãn Hà Chí ngồi trên phiến đã trông đám gia nhân phái Hoa Sơn chạy đi chạy lại vội vã. Thấy người tới gần, gã giữ lại hỏi.

– Ngươi muốn gì ?

– Anh chàng tên là Thạch Điền gì đó chừng bao nhiêu tuổi ?

– Làm sao ta biết được !

– Cỡ trạc tuổi ta không ?

– Để coi nào …Ừ, cũng đại khái vậy.

– Hắn nói ở làng Miyamoto, tỉnh Mimasaka à ?

– Ừ.

– Chắc Thạch Điền cũng là Thạch Kinh Tử đấy thôi. Viết khác nhưng đọc cũng tương tự.

– Sao ngươi hỏi ta những câu ấy ? Bạn ngươi hả ?

– À không. Muốn biết vậy thôi mà !

– Này ta bảo thật, lần sau gặp những chuyện như thế này, nên tránh ra xa kẻo lụy vào thân đấy !

Nói xong rảo cẳng bước đi.

Mãn Hà Chí cũng đứng dậy, men bờ lạch đi về phía bắc. Thỉnh thoảng ngước lên nhìn trời đầy sao lấp lánh, hắn tự nhủ:

“Nghĩ cho cùng, ta cũng chẳng nên gặp hắn làm gì, chỉ thêm xấu hổ. Nhưng để cho tụi Hoa Sơn bắt được thì chúng giết chết. Không biết hắn trốn đâu ! Bạn bè, ít ra mình cũng phải báo cho hắn biết để đề phòng” …

Chương 12: Gặp gỡ trên đạo

Con đường đá dốc gồ ghề dẫn lên chùa Phổ Quang ngoằn ngoèo tựa rắn lượn.

Hai bên đường lác đác vài căn nhà xiêu vẹo, vách ván nhô ra thụt vào như hàm răng khểnh. Trước thềm, cỏ dại mọc đầy, rêu phong loang lổ cả trên mái. Dưới ánh nắng gay gắt ban trưa, mùi cá phơi bốc nồng nặc.

Từ trong một căn nhà ven phố, tiếng la hét tục tằn vang lên, tiếp theo là bát đĩa ném ra cửa rơi vỡ loảng xoảng. Một gã đàn ông trạc trung niên từ trong nhà vùng chạy ra, mặt nhăn nhó, mụ vợ đuổi theo sau, tay cầm chổi, tóc chưa kịp búi, áo xốc xếch, đôi vú mướp lộ ra thỗn thện như vú bò.

– Mày chạy đi đâu, thằng già khốn nạn kia ? Đi rượu chè bỏ vợ con đói khát giờ còn vác mặt về hả …hả ?

Trong nhà có tiếng trẻ khóc. Vài người hàng xóm thò mặt ra cửa nhìn nhau bàn tán chỉ trỏ.

Thạch Đạt Lang mỉm cười. Hắn đã quen với cảnh đó từ khi đến tạm trú ở vùng này chừng hơn một tháng. Đứng trước một cửa hàng xiêu vẹo bán đồ gốm, hắn tò mò nhìn hai người thợ đang chăm chú làm việc cạnh chiếc bàn xoay, mặt ngay ra, say mê như đứa trẻ. Hai người thợ không để ý gì đến hắn, mãi miết chân đạp tay nặn, cả người như hòa đồng với khối đất sét đặt trên bàn.

Thạch Đạt Lang thích làm đồ gốm lắm. Ngay từ khi còn nhỏ, hắn đã say mê mọi thứ công việc bằng tay chân, nhất là những việc cần đến sự khéo léo và mỹ thuật. Hắn mong ước làm được một chén trà bằng đất nung, và bây giờ, đúng lúc này, hắn thấy người thợ già đang chăm chú làm một chiếc chén như thế. Nhìn người thợ gọn gàng phối hợp những động tác, chân đạp bàn xoay, tay giữ chén đưa đẩy cho thành hình, hắn ngạc nhiên không ngờ muốn làm một đồ vật giản dị như thế mà cũng cần đến một kỹ thuật tinh vi nhường ấy !

Tự nhiên hắn thấy tôn trọng những con người nghèo khó trước mặt đã đem hết khả năng, nghệ thuật và tấm lòng vào những việc làm tầm thường hàng ngày. Thạch Đạt Lang kính cẩn đứng nhìn. Trên chiếc kệ thô sơ ghép bằng gỗ tạp treo ở góc phòng; chén, bát, ấm trà mới nung xếp thành hàng, dưới đất ngổn ngang đất sét, thùng nước và những vật dụng linh tinh khác.

Cửa hàng tồi tàn, hai người thợ quần áo nhem nhếch nhưng làm việc với vẻ mặt đầy vui thích. Những ấm chén họ làm ra bán chẳng được bao nhiêu, nhiều lắm là một vài đồng, cho khách thập phương qua lại lên chùa lễ Phật. Thạch Đạt Lang chẳng biết với số tiền khiêm nhượng thu được họ có đủ ăn không, đời sống ngày càng đắt đỏ, không dễ dàng gì ! Trước nỗi cực nhọc và sự kiên nhẫn của hai người thợ, Thạch Đạt Lang cảm thấy con đường hắn đi còn dài và gian khổ; sự cần cù của họ là tấm gương để hắn noi theo, cho hắn sức mạnh để không nhụt chí.

Suy nghĩ miên man, hắn nhớ đến những ngày ở thạch thất, vụ thách đấu với phái Hoa Sơn, rồi mới đây những lần đến thăm viếng một vài môn phái tại Kyoto, đâu đâu hắn cũng toàn thắng, không nơi nào dạy cho hắn được một bài học đáng nhớ. Thạch Đạt Lang băn khoăn không biết vì sở học mình cao hay vì kiếm pháp những người kia còn thấp, không đáng tay đối thủ. Hay hắn quá khắt khe với mình ? Có lẽ nào ! Kyoto là nơi tập trung nhiều danh gia, sao lại tồi tệ đến thế ? Thạch Đạt Lang thất vọng. Nếu tất cả chỉ tầm thường như vậy thì nền võ nghệ xứ này chẳng hóa ra đáng buồn lắm sao ? Thạch Đạt Lang hít mạnh một hơi, khoan khoái và kiêu hãnh. Nhưng đột nhiên hắn nghĩ đến lời nói của người xưa trong sách hắn đã đọc và rùng mình kinh hãi:

“Không gì giết chết tài năng nhanh chóng bằng lòng kiêu ngạo !”. Hắn quay nhìn lần chót người thợ già đang chăm chú vào công việc, tay chân nhem nhuốc bùn đất, rồi lặng lẽ bước đi theo con đường đá lên chùa.

Được một quãng, bỗng có tiếng gọi từ dưới chân núi:

– Này tráng sĩ mang kiếm !

Thạch Đạt Lang quay lại:

– Ngươi gọi ta ?

Nhìn người gọi mình tay cầm cây đòn dài, mặc áo chẽn đệm bông ở hai vai, chân trần đi dép cỏ đã vẹt gót, Thạch Đạt Lang đoán chừng anh ta là một phu xe hoặc phu cáng. Anh ta đáp bằng một giọng lễ phép ít thấy ở giới thấp kém như vậy trong xã hội:

– Vâng. Tráng sĩ có phải là Thạch Điền Đạt Lang xã Miyamoto không ?

– Phải.

– Cám ơn tráng sĩ.

Nói xong bước thẳng về phía cuối phố. Thạch Đạt Lang nhìn theo thấy người phu cáng bước vào một tiệm trà. Sực nhớ sáng nay khi qua phố, hắn thấy có một đám xa phu ăn mặc như vậy đứng ngồi lố nhố trong tiệm. Không hiểu chuyện gì nhưng thấy người gọi, Thạch Đạt Lang cũng đứng đợi, chừng tàn nén hương, không ai chạy ra hắn mới bỏ đi, thong thả leo lên núi.

Dọc đường, Thạch Đạt Lang dừng lại nhiều lần trước những ngôi đền nhỏ rải rác, mỗi lần dừng chân lại khấu đầu làm lễ cầu xin thần Phật phù hộ cho chị hắn. Có nơi hắn còn xin thần linh giúp cho đủ nghị lực và khôn ngoan để trở nên một kiếm sĩ xứng đáng như lòng mong ước. “Nếu chẳng được như nguyện, xin đừng cho đệ tử hưởng lộc trời”. Thạch Đạt Lang lâm râm khấn nguyện, hy vọng lòng thành của hắn làm các đấng thiêng liêng xúc động. Gần đỉnh núi, Thạch Đạt Lang tìm một phiến đá nhẵn nhụi ngồi nghỉ, chiếc nón lá để bên. Nhìn giải thung lũng chạy dài dưới chân, phong cảnh tươi đẹp như trong tranh vẽ, hắn cảm thấy hãnh diện vô cùng vì còn được sống và thưởng ngoạn. Niềm biết ơn dâng lên dào dạt trong lòng, ơn Trời Phật, ơn các đấng sinh thành, ơn Đại Quán thiền sư đã chỉ cho hắn con đường mà ngày nay hắn đang theo đuổi.

Thạch Đạt Lang nghĩ đến một chuyện cổ tích về thế kỷ thứ mười, có hai anh chàng tên Mã Tử Kiên và Sùng Mạch, cả hai cùng tham vọng ngút trời, cùng nhau hợp tác, hẹn nhau nếu bá chủ được võ lâm sẽ chia hai sơn hà, hùng cứ mỗi người một phương. Chuyện thật khó khăn như trong huyền thoại, nhưng xét cho cùng giấc mơ của hai người ấy so với ước vọng của hắn bây giờ không khác nhau là mấy. Lại như tướng Y Đằng và Hòa Giả Nghị với những trận chiến ghê hồn trong thập niên vừa qua cùng với mưu đồ thống nhất nước Nhật của họ chẳng phải là những toan tính, mưu lược và kiên trì đáng cho hắn phải ngưỡng phục sao ?

“Ta sinh chẳng gặp thời. Bây giờ không phải lúc dùng đao kiếm để mưu cầu sự nghiệp, nhưng chẳng hề gì, ước vọng của ta khác”. Hắn nhủ thầm và đưa tay vuốt ve thanh kiếm đeo bên sườn. Trông giây phút, trực giác mẫn nhuệ của hắn lóe lên như một tia sáng giữa đêm sâu giúp hắn nhận chân được đâu là tinh hoa của kiếm đạo và càng làm hắn vững ý chí.

Mãi suy nghĩ, Thạch Đạt Lang không để ý đến tên phu cáng lại vừa xuất hiện trên sườn núi, miêng kêu tay chỉ:

– Kìa, Thạch Điền Đạt Lang kia kìa !

Theo sau là một toán xa phu vừa vạch lau vừa trèo lên phía hắn. Định tránh mặt, Thạch Đạt Lang đứng dậy, đến gần tấm bảng gỗ vờ đọc những lời yết cáo trên đó, nhưng vẫn ngấm ngầm đưa mắt quan sát. Hắn thấy có một toán xa phu nữa cầm gậy xuất hiện chặn lối lên và tìm cách bao vây hắn vào giữa. Thạch Đạt Lang định thét một tiếng thật lớn cho đám xa phu sợ mà bỏ chạy, nhưng nghĩ cho kỹ, hắn thấy không cần. Hắn chưa hiểu ất giáp ra sao và cũng tò mò muốn biết họ vì lý do gì lại tìm cách gây hấn với hắn.

Thạch Đạt Lang không muốn sát hại đám người nghèo khổ ấy. Chắc có sự hiểu lầm, nếu mọi chuyện sáng tỏ, họ sẽ bỏ đi. Nghĩ thế nên hắn yên tâm đứng đợi.

Thấy ồn ào ở cổng ngoài, một số tăng ni chạy ra sân chùa thập thò sau hàng rào gỗ. Khách vãng lai hiếu kỳ cũng dừng lại mỗi lúc một đông, lẫn lộn trong đám xa phu, hoặc đứng ngồi rải rác chờ động tĩnh.

Từ xa xa, tiếng chân người rậm rịch đi tới, dường như đang khiêng một vật gì nặng, ì ạch lên núi. Đến gần, thì ra là bốn xa phu khiêng một chiếc cáng nghèo nàn, kiểu hai người ngồi đã cũ, sơn bên ngoài loang lổ nhiều chỗ. Họ đặt cáng xuống khoảng đất trống cạnh chùa. Một bà lão mặc áo chẽn nâu đã bạc màu cùng với một ông già trang phục lối kiếm sĩ thôn quê vén rèm bước ra. Cả hai trạc độ sáu mươi, sáu lăm, tuy đã trọng tuổi nhưng còn quắc thước mặc dầu có vẻ mỏi mệt. Bà lão nheo mắt, lấy tay che cho khỏi chói, quay nhìn về phía Thạch Đạt Lang rồi nói với ông già:

– Lần này thì đừng để nó thoát, nghe không cậu Ngô !

Thì ra đây là hai chị em bà Hồ Điểu. Cậu Ngô gật đầu:

– Chị đừng lo, để mặc tôi !

Rồi quay sang hỏi người phu cáng kế bên:

– Đâu ? Nó đâu ?

Họ chỉ Thạch Đạt Lang đứng trước tấm bảng gỗ ở đằng xa đang mãi mê đọc cáo thị như không để ý gì đến xung quanh. Cậu Ngô nhổ nước bọt vào tay, nắm đốc kiếm hùng dũng rẽ đám đông đi thẳng đến phía Thạch Đạt Lang đứng. Theo sau, bà Hồ Điểu khấp khểnh bước, chân hãy còn tê dại vì ngồi quá lâu. Có tiếng ai gọi với:

– Cẩn thận, lão trượng ! Nó khỏe lắm đó !

Vài người khác hùa theo dặn dò:

– Lão bá cứ thong thả, chuẩn bị kỹ là hơn, đừng vội !

Mọi người giương mắt nhìn, theo dõi cuộc tranh hùng sắp tới mà họ cho là sẽ hào hứng lắm. Họ cười nói ồn ào như sắp được xem một màn kịch ít khi xảy ra tại một nơi hẻo lánh như vậy.

– Bà lão liều quá ! Tuổi bà đáng lẽ phải ở nhà vui với con cháu mới phải !

– Ờ …ờ …Nhưng cũng đáng phục lắm chứ ! Danh dự gia đình là trọng …

– Nghe đâu con dâu bà bỏ đi theo thằng đó đấy !

Một người cầm gáo nước chạy theo:

– Lão bá ! Lão bá ! Uống chút nước đã !

Bà Hồ Điểu dừng lại cầm gáo nước uống một hơi, lấy tay chùi mép rồi đưa cho em:

– Này cậu, giải khát đi. Hình như nó có học võ chút đỉnh, nhưng theo ta, nó vẫn chỉ là thằng con nít, không bằng cậu đâu !

Qua cổng chùa, bà Hồ Điểu nhìn vào. Thói quen kính ngưỡng thần Phật làm bà khựng lại rồi không biết nghĩ sao, bà quỳ xuống ngay trên bực đá trước cổng, mở bọc lấy tràng hạt ra nhắm mắt lâm râm khấn khứa. Cậu Ngô cũng dừng lại phía sau chắp tay yên lặng.

Sự việc xảy ra vừa bất ngờ vừa mang vẻ khôi hài làm mọi người bỡ ngỡ. Có người che miệng khúc khích, nhưng cũng có người tán thưởng.

– Phải lắm. Có gì mà cười ! Trước khi đối đầu với một tên hung dữ như thế, xin thần Phật phù hộ cho là phải chứ ! Lão bà đi khắp nơi không gặp kẻ thù, nay thấy nó ở đây, tất do cơ duyên hãn hữu, cám ơn Trời Phật là đúng lắm !

Tiếng khen chê nổi lên, mỗi người một phách, nhưng tựu trung ai cũng cho bà già can đảm.

– Nếu bà lão không bắt được nó giải về làng, ta phải giúp !

Một người nói.

– Ờ. Không có lý gì mà những trai tráng như chúng mình lại không can thiệp !

Khách bàng quan khi biết rõ lý do gì đã khiến hai chị em bà Hồ Điểu phải ra tay như thế đều tỏ lòng kính phục. Họ còn khuyến khích đám xa phu tiếp sức nữa.

Thạch Đạt Lang vẫn yên lặng, bất động. Hắn đứng dựa lưng vào tảng đá lớn suy nghĩ nhưng vẫn chưa tìm ra được cách phản ứng thế nào cho phải.

Đại Quán đã một lần cảnh cáo hắn trên đường hành hiệp thế nào cũng có lúc gặp hai chị em Hồ Điểu, nhưng không ngờ câu chuyện lại xoay ra thế này. Chưa bao giờ hắn có ý tưởng là hắn đã làm tan nát gia đình nhà họ Hồ. Hắn luôn luôn coi Oa Tử là vị hôn thê của bạn, có thân chăng cũng chỉ như người em gái nhỏ đã một lần cứu hắn, hắn biết ơn, thế thôi ! Bây giờ chẳng biết làm sao, dù phải tự vệ, hắn cũng không thể nào rút gươm chống lại hai người già kia, nhất lại là thân mẫu và cửu phụ của bạn mà hắn biết chắc là võ công không thể nào là đối thủ của hắn được.

Thạch Đạt Lang đứng nhìn đám đông bao vây trước mặt, bối rối không tìm ra cách giải quyết thỏa đáng. Mọi người đều về phe Hồ Điểu, coi hắn như một tên sát nhân đáng ghê sợ và xấu xa, hắn không có cách gì biện minh được. Phải chi Mãn Hà Chí có mặt ở đây, may ra mới hy vọng hóa giải được sự hiểu lầm này.

Bà Hồ Điểu lần xong chuỗi hạt, đã đứng dậy, giọng run run nhưng dáng điệu cương quyết, nói với đám xa phu:

– Ta vừa khấn Trời Phật phù hộ ta và cậu Ngô bắt tên nghịch tử này. Giờ ta cám ơn tất cả anh em. Ta không cần ai giúp mà anh em cũng đừng nhiều lời. Nếu chẳng may ta và cậu Ngô có mệnh hệ nào, xin anh em cứ đưa thi thể chúng ta về Miyamoto, sẽ có người đền công xứng đáng.

Dứt lời, rút thanh đoản kiếm gia bảo do tổ phụ để lại mà bà đã cẩn thận giắt theo trước khi lên đường, bà Hồ Điểu hướng về phía Thạch Đạt Lang nói lớn:

– Thạch Kinh Tử ! Mày là Thạch Kinh Tử ở Miyamoto phải không ? Nghe nói mày mới đổi tên gì hay lắm, nhưng ta không cần biết. Đối với ta, mày vẫn là thằng Thạch Kinh Tử dẫn con ta đi mất tích và còn dụ dỗ dâu ta nữa ! Bốn năm nay, giờ mới gặp ! Ta với mày một còn một mất. Hãy rút kiếm ra, thằng kia ! Ta đợi !

Cơn giận làm mặt bà đỏ gay, tiếng nói lạc đi, giọng cao the thé như xoáy vào tai, những nếp nhăn dưới cằm rung động, cổ bà bạnh ra tựa cổ rắn. Hiển nhiên bà muốn trút hết niềm căm phẫn dồn nén từ lâu lên đầu địch thủ trước khi giết hắn để trả hận.

Thạch Đạt Lang không nói gì. Hắn chẳng muốn phân trần, chỉ đứng yên như pho tượng nhìn hai người. Cậu Ngô điềm tĩnh hơn. Tay cầm kiếm, cậu nói với bà chị:

– Để tôi …[Audio] Tinh Thần Biến (dịch)

– Không được ! Giọng bà Hồ Điểu dứt khoát. Thần Phật đã phù hộ ta, tiền nhân đã ứng vào lưỡi gươm này, ta phải đích thân lấy đầu thằng nghịch tử. Mày không rút kiếm ra cũng không cần, trông đây !

Bà vừa nói vừa giơ đoản kiếm chạy đến trước mặt Thạch Đạt Lang. Nhưng rủi thay, vì quá vội, bà vấp ngã sóng soài chỉ trước mặt hắn có vài bước, thanh kiếm văng sang bên cạnh. Mọi người kinh hãi, kêu lên:

– Chết rồi ! Nó giết bà lão mất !

Cậu Ngô sợ quá, đứng lặng như trời trồng. Một số xa phu vừa định ùa tới thì may sao bà lão đã lồm cồm bò dậy, nhặt thanh kiếm chạy vội về phía em. Bà hơi ngượng, nhưng lấy giọng giận dữ khỏa lấp:

– Cậu chẳng được cái tích sự gì ! Rút gươm ra cầm chơi đấy à, sao không chạy lại đâm cho nó một nhát ?

Thạch Đạt Lang bên ngoài mặt lạnh như tiền, nhưng trong lòng không khỏi xúc động. Hắn thương bà lão và ông già, nạn nhân của bao nhiêu ràng buộc, của những quan niệm hẹp hòi và lễ nghi phiền phức. Hắn tiếc chẳng đủ thì giờ cùng uy tín đánh tan những ngộ nhận giữa hắn và gia đình Hồ Điểu. Một ngày kia, biết đâu một ngày kia, cơ may nào đó cho hắn được dịp biện bạch, thù hận sẽ qua đi, chỉ còn lại tình người nồng ấm như thuở nào lúc còn thơ ấu, hắn vẫn sang chơi nhà Mãn Hà Chí, ăn cơm và làm giúp mẹ bạn những công việc lặt vặt trong nhà.

Thạch Đạt Lang lắc đầu tự nhủ:

“Không được ! Ta không thể làm thế được !”. Hắn hét lên một tiếng to như sấm động, mọi người giật mình, vòng vây vô tình dãn ra đôi chút. Hắn đi thẳng tới trước. Bà Hồ Điểu lắp bắp:

– Thạch Kinh Tử, mày đi đâu vậy ?

– Nó trốn đấy ! Nó trốn đấy !

Bà Hồ Điểu hoảng hốt:

– Rút kiếm ra, Thạch Kinh Tử ! Ta đợi đã bốn năm …

Nhưng Thạch Đạt Lang lắc đầu. Trong dáng đi và trên vẻ mặt hắn có một cái gì kiêu hùng làm mọi người phải kính nể, e dè không dám ngăn cản. Đến gần nơi ghềnh đá dốc, cỏ cao ngập đầu người, bỗng nhiên hắn nhảy xuống nhanh như tên bắn, một loáng đã mất dạng trong những lùm cây, không còn dấu tích gì nữa.

Chương 13: Tên tiểu đồ

Cơn mưa trái mùa tầm tã đổ xuống ngoại ô vùng Kyoto. Tiếng mưa rào rào cùng với tiếng chày giã gạo trong xóm quyện vào nhau tạo nên một âm thanh đều đều buồn tẻ làm tăng vẻ tiêu điều của những căn nhà ảm đạm, mái ra. sũng nước và cửa gỗ mục nát không đủ ngăn cơn gió phũ phàng từ đồng không thốc tới.

Đây là một xóm nhỏ nghèo dựng trên một khu đất bỏ hoang ở ven cổ thành, cư dân chỉ độ vài chục người, tay làm hàm nhai, vất vả lẳm mới kiếm đủ sống. Có những ngày hoàng hôn tắt đã lâu, sương chiều bắt đầu xuống làm mờ những mái ra. mà bếp núc trong xóm vẫn lạnh tanh, chỉ lác đác vài căn nhà có khói bốc lên chứng tỏ có cơm tối.

Trước một căn lều trông tiều tụy chẳng kém gì những căn khác, khách vãng lai nhìn chiếc nón nan cũ rộng vành treo bên cửa, trên đề mấy chữ vụng về thì mới biết đó là một cái quán. Nhưng quán mới xơ xác làm sao ! Đồ đạc chả có gì, vài chiếc chiếu trải ngay trên mặt đất dùng làm giường ngủ cho khách trọ qua đêm. Góc quán cũng có ổ rơm, nhưng ai muốn nghỉ lưng phải tra thêm tiền nên ít khi có khách sang dám đụng tới món hàng xa xỉ ấy. Xế vào phía trong, gần cửa ra sân sau là một cái bệ đất đắp cao tới đầu gối, giữa khoét sâu xuống vừa dùng làm bếp vừa dùng làm lò sưởi.

Một đứa bé trai trạc mười, mười một tuổi đứng dựa lưng vào bệ đất. Tóc nó ướt sũng nước mưa, những giọt nước chảy đầy trên cổ, trên trán xuống chiếc kimono rộng thùng thình, bùn đất bắn lên đến tận gáy. Bụng nó quấn sợi dây thừng lớn thay dây lưng, mặt mũi đen đủi nhem nhếch, trông chẳng khác gì một con thủy quái vừa rẽ nước sông lên như thường thấy vẽ trên các bức tranh dân gian bán ngoài chợ.

Đứng một lúc, nó cất tiếng gọi:

– Có ai ở nhà không ?

Trong quán vắng, giọng nó vang át cả tiếng mưa rơi bên ngoài.

– Thằng Giang đấy hả ? Tiếng chủ quán trong phòng vọng ra.

Giang là đứa bé hầu bàn ở quán rượu gần đấy, được chủ nuôi để sai vặt.

– Vâng. Hôm nay ông có lấy rượu không ?

– Không. Ông khách chưa về. Hôm nay khỏi.

– Ngộ Ông khách muốn về uống thì sao ? Để cháu cứ mang sang như thường lệ.

– Ông ấy uống ta sẽ đi lấy.

Giang tiu nghỉu. Nó bước vào phòng, đưa mắt nhìn quanh rồi tò mò hỏi:

– Ông làm gì đấy ?

– Tao viết thư để kịp gửi xe ngựa ngày mai đi Kuruma. Mà khó viết quá, ngồi mãi đau cả lưng.

– Ông già vậy mà chưa biết viết hả ? Lạ nhỉ !

– Im mồm ! Đi chỗ khác chơi. Đừng làm rộn !

– Ông để cháu viết giúp được không ?

– Mày mà viết gì !

– Được, cháu viết được.

Giang bước đến sau lưng chủ quán nhìn ông già gò lưng trên tờ giấy, tay lem nhem những mực. Nó chăm chú dò từng chữ đã viết rồi bật cười như nắc nẻ:

– Sai rồi ông ơi ! Chữ “than” đâu có nét này. Nếu có thành ra “thang” à ? Ông muốn gửi than hay thang cho người ta ?

– Ờ …ờ …tao muốn gửi than.

– Vậy phải xóa nét này đi. Ông đưa chau đọc xem nào …Thế này không được, ông viết lăng nhăng khó hiểu quá !

– Mày giỏi viết thử tao coi !

Lão quán đưa bút cho Giang:

– Lau cái đầu đi đã ! Nước rỏ ướt hết giấy bây giờ !

– Thôi bỏ tờ này đi, để cháu lấy lau đầu. Ông lấy tờ khác cháu viết hộ. Nào đọc đi !

Giang ngồi xuống, lăn bút vào nghiên mực rồi thoăn thoắt viết theo lời ông già nói.

Thư viết xong thì ông khách trọ cũng vừa về. Đã hơn nửa tháng nay, Thạch Đạt Lang đến trọ Ở quán, thấy chủ quán thật thà chất phác rất hợp ý, vả chỗ trọ cũng vừa túi tiền nên hắn cứ nấn ná mãi. Để nón ngoài hiên, hắn vắt khô những chỗ áo ướt:

– Mưa to quá, rụng hết cả hoa mận.

Hắn vừa nói vừa nhìn cây mận ngoài sân, hoa trắng rơi đầy đất, lẫn với bùn và nước. Mưa tuy đã bớt nặng hạt nhưng thỉnh thoảng vẫn còn cơn gió mạnh lay cành làm cánh hoa rơi lả tả.

Vào trong bếp, Thạch Đạt Lang ngạc nhiên thấy thằng bé vẫn mang rượu đến cho mình đang ngồi cạnh ông già chủ quán chăm chú viết. Hắn đứng sau lưng đọc và mỉm cười.

Giang ngẩng đầu lên, thấy Thạch Đạt Lang, bèn quơ vội lá thư và cây bút giấu sau lưng:

– Xấu lắm ! Xem trộm như vậy là xấu lắm !

– Đưa ta xem ngươi viết gì vậy.

– Không !

Thạch Đạt Lang muốn trêu thằng bé:

– Cứ đưa ta xem chút nào !

– Ông mua rượu cháu mới cho xem.

– À ra thế ! Được rồi, ta mua rượu.

– Ba xị nghe ?

– Nhiều quá.

– Vậy hai xị.

– Không, ta không uống nhiều thế đâu !

– Vậy bao nhiêu ? Kẹo thế !

– Ta nghèo, tiền đâu mà dám tiêu phí.

– Thôi được, đây ông xem đi. Nhưng đừng quên kể chuyện như ông đã hứa đấy.

Thạch Đạt Lang mỉm cười gật đầu. Hắn cầm tờ thư lẩm nhẩm đọc trong khi Giang kéo áo che đầu chạy ra khỏi quán. Đọc xong, hắn ngạc nhiên quay sang hỏi ông lão:

– Thằng Giang viết thư này đấy hả ?

– Phải, nó viết đấy. Nó có vẻ rành lắm.

Thạch Đạt Lang gật gù đi vào trong nhà rửa mặt thay áo, khi ra ngoài đã thấy chủ quán treo xong ấm nước lên móc trên bếp và đương lấy cơm cùng cải muối chua sắp ra đĩa. Hắn ngồi bên bếp lửa, tiếp tục câu chuyện bỏ dở khi nãy:

– Ông biết nó bao nhiêu tuổi không ?

– Hình như mười một. Tôi nhớ có lần nó bảo vậy.

– Có vẻ khôn sớm, phải không ông ?

– Thì làm ở đó từ năm lên bảy, tiếp xúc với đủ mọi hạng người, gì mà chẳng khôn sớm !

– Ờ ờ …chữ nó viết còn non nhưng dáng cách khoáng đạt, lời thư chân thật. Thằng ấy chắc sau này sẽ khá.

– Vậy hả ?

Lão quán mở nắp ấm, bỏ trà vào:

– Hừ ! Quái lạ. Đến giờ này vẫn chưa mang rượu sang. Lại la cà ở đâu rồi !

Vừa lúc ấy Giang bước vào, tay cầm bình rượu.

– Sao lâu thế ? Mày làm ông khách đợi.

– Cháu phải hầu bàn. Có ông khách mới tới hỏi nhiều chuyện mất thì giờ lắm.

– Chuyện gì ?

– Chuyện về Thạch Điền Đạt Lang.

– Này giữ mồm giữ miệng, nói bậy chết đó con !

– Cháu biết chứ, nhưng cần gì. Ở đây ai cũng rõ chuyện xảy ra hôm nọ Ở trên chù a.

Chị Tiểu Khê và cô con gái ông thợ sơn hôm ấy cũng ở đó mà ! Họ biết hết.

Thạch Đạt Lang lắng tai nghe nhưng cả hai yên lặng không nói thêm gì nữa.

Thằng Giang cứ quanh quẩn trong quán, nó nhìn Thạch Đạt Lang như dò xét và có ý muốn hỏi điều gì.

– Ông khách này !

– Hả ?

– Cháu có chuyện muốn nói. Cháu ở lại đây với ông một lúc được không ?

– Được chứ, nhưng phải xin phép ông chủ cháu trước đã.

– Không sao, hôm nay trời mưa vắng khách, cháu cũng rảnh.

– Vậy được !

– Để cháu đi hâm rượu.

Và nó nhanh nhẹn để bình rượu lên bếp, một lúc sau rượu nóng, bày ra khay gọn gàng trước mặt ông khách trọ. Thạch Đạt Lang nhìn thằng bé lăng xăng trong quán, thấy vui bụng và quyến luyến.

– Ông thích rượu sa-kê không ?

– Thích.

– Nhưng nghèo không có tiền uống phải không ?

– Ờ.

– Cháu thấy kiếm sĩ phần nhiều giàu lắm mà. Lương cao, bổng hàng nghìn gia. lúa.

Ở quán, cháu nghe có người nói như tướng quân Bình Cảnh Hồ đi đâu cũng hàng năm sáu chục gia nhân theo hầu, ngựa xe thật nhiều, lại mang chim cắt để săn mồi nữa …

– Đúng đấy.

– Rồi tướng Sơn Hoành, thuộc hạ của lãnh chúa Hòa Giả Nghị, bổng lộc mỗi năm năm chục ngàn gia. …

– Đúng.

– Vậy sao ông nghèo thế ?

– Ta còn đang học.

– Bao giờ thì ông có đồ đệ ?

– Không biết. Chắc chẳng bao giờ có.

– Sao vậy ? Võ nghệ Ông dở lắm phải không ?

– Cháu đã nghe người ta nói về ta, hôm ở trên chùa. Dù sao đi nữa, ta là kẻ chạy trốn …

– Phải rồi ! Mọi người đều bảo ông hèn, cháu nghe thật tức.

– Hà hà …Việc gì mà tức, họ có nói cháu đâu ?

– Nhưng tức hộ Ông. Mà sao ông bỏ chạy ? Phải đánh lại chứ ! Bây giờ thì trễ rồi, nhưng ở gần đây có cái sân rộng, hàng ngày con ông tiệm giày, con ông thợ đẽo guốc và cả con ông thợ sơn nữa, thường hay tụ tập ở đấy để luyện võ. Ông ra đấy đánh một đứa đi để lấy tiếng chứ !

Thạch Đạt Lang cười:

– Cũng được, nếu cháu muốn ta sẽ làm.

Thạch Đạt Lang không muốn làm phật ý thằng bé. Hắn còn trẻ, rất hiểu tâm trạng những đứa trẻ giống như hắn trước kia ; hơn nữa trong thâm tâm cảm thấy yêu mến thằng bé, muốn chiều chuộng nó như trước kia hắn vẫn mong được người lớn chiều chuộng.

– Thôi, nói chuyện khác. Bây giờ đến phiên ta hỏi cháu vài câu nhé. Cháu sinh ở đâu ?

– Ở Himeji.

– Vậy là vùng Harima rồi.

– Đúng. Ông ở Mimasaka phải không ? Người ta bảo thế.

– Ờ, ta ở Mimasaka phải không ? Thế bố cháu làm gì ?

– Bố cháu là kiếm sĩ. Kiếm sĩ thứ thiệt, có lính hầu đàng hoàng !

Thạch Đạt Lang không ngạc nhiên. Thảo nào thằng bé biết đọc và biết viết khá.

– Bố cháu tên gì ?

– Hoa Kính Áo Đại Môn. Bố cháu có bổng hàng ngàn gia. lúa, nhưng khi cháu lên bảy thì bố cháu bỏ đi và dẫn cháu đến Kyoto này. Tiêu hết tiền, ông gửi cháu ở tiệm rượu rồi vào chùa tu. Cháu chả muốn làm ở tiệm rượu, cháu muốn học làm kiếm sĩ như bố cháu và học đánh kiếm như ông. Ông nghĩ có phải không ?

Nghỉ một chút, nó nhìn Thạch Đạt Lang giọng say sưa:

– Cháu muốn như ông, đi khắp nơi học đánh kiếm. Hay ông cho cháu theo làm đồ đệ ?

Thằng bé có cái vẻ bướng bỉnh, muốn làm gì phải được. Nó nhìn Thạch Đạt Lang, kiên nhẫn chờ câu trả lời và không ngờ đã xin làm học trò một người trước đây gây ra sự bất hạnh cho bố nó. Thạch Đạt Lang chẳng biết đáp ra sao, vì vấn đề không phải là nhận hay không nhận. Hắn chẳng biết có nên kể cho Giang nghe lai lịch cùng những sự liên hệ giữa hắn với Áo Đại Môn hay không. Hắn thương thằng bé và cảm thấy có trách nhiệm đối với nó. Con đường người kiếm sĩ theo đuổi thật nhiều bất ngờ, không phải chỉ giản dị có giết người hoặc bị người giết. Tấm gương Hoa Kính Áo Đại Môn và những bon chen của cuộc sống, trách nhiệm cá nhân đứng trước xã hội, cá nhân với cá nhân làm vầng trán hắn nhăn lại.Vài chén rượu uống trước đây không đủ làm Thạch Đạt Lang lên tinh thần mà chỉ làm hắn thấy cô đơn hơn. Hắn cần suy nghĩ.

Giang ngồi bên cạnh, thấy Thạch Đạt Lang mặt lầm lì không nói thì hơi sợ. Nhưng bản tính bướng bỉnh, nó cố hỏi. Lão quán chạy ra đuổi không cho làm rộn khách, nó vùng vằng đáp lại. Nó nắm tay, kéo áo Thạch Đạt Lang, sau cùng òa lên khóc.

Thạch Đạt Lang không còn cách gì, bao giờ hắn cũng thấy lòng mềm lại trước nước mắt:

– Được rồi, được rồi ! Ta sẽ thu cháu làm đồ đệ, nhưng cháu phải xin phép chủ đã!

Giang mừng rỡ, chạy ù ra cửa.

Sáng hôm sau, Thạch Đạt Lang dậy sớm nói với chủ quán:

– Ông sắp giùm ta một ít món ăn nguội mang đi, nhân thể tính tiền trọ. Mấy ngày nay ở đây thật dễ chịu, nhưng không nấn ná mãi được. Ta phải đi Nara bây giờ.

Ngạc nhiên, lão quán không ngờ Thạch Đạt Lang lại có quyết định ấy. Lão hỏi:

– Khách quan không ở đây nữa ư ? Hay tại thằng nhỏ làm phiền đấy ?

– Không. Ta có ý định đi Nara từ lâu để tham quan phép xử trường thương của Quang Minh hội. Nghe nói có nhiều ngón đặc sắc lắm !

Phút sau, hắn tiếp:

– Còn thằng Giang. Đêm qua không thấy lại. Nếu sau khi ta đi, nó đến làm phiền ông điều gì thì cũng xin bỏ qua cho nó.

– Chậc ! Có gì mà phiền ! Con nít bất quá la hét khóc lóc một hồi rồi quên ngay ấy mà !

– Ta nghĩ chủ nó chẳng cho đi đâu ! Ông vào làm thức ăn hộ, ta đợi.

Cơn mưa bữa trước đã tạnh hẳn. Buổi sáng tươi mát hứa hẹn một ngày rực rỡ. Gió thổi hây hây, nhẹ như mơn trên da thịt. Nước sông Kamo dâng cao, đục ngầu. Đằng kia, chỗ ngã ba đầu cầu bắc qua sông đi Nara, một toán tuần cảnh đang ồn ào xét hỏi những người qua lại. Họ kháo nhau vì sắp có quan đầu lãnh tới kính lý nên lính tuần phải có trách nhiệm giữ an ninh cho ngài. Thạch Đạt Lang cũng bị gọi lại khám xét, nhưng thấy không có gì khả nghi nên được phép qua cầu.

Câu chuyện tình cờ nhắc hắn nghĩ đến thân phận những kiếm sĩ giang hồ như hắn, lang thang không biết đâu là định sở và cũng không có lãnh chúa nào để thần phục. Năm năm trước, Thạch Đạt Lang cùng với Mãn Hà Chí đầu quân dưới trướng hệ phái Osaka cũng vì lòng trung thành cố hữu của gia đình hắn đối với hệ phái ấy. Cha hắn làm quản giáo cho Yết Mân bấy giờ là thuộc hạ thân tín của đảng tộc họ Hòa ở Osaka nên chỉ biết có họ Hòa. Lúc còn nhỏ trong những khi ngồi gần bên bếp lửa, nghe cha thuật lại các chiến công hiển hách của đảng tộc, hắn hết sức thán phục. Lòng ngưỡng mộ ấy còn lưu lại trong ký ức đến ngày nay và làm hắn có thành kiến coi những lãnh chúa khác như những phe phản loạn. Thân phụ Hòa Giả Nghị cũng như Yết Mân tuy đã khuất, nhưng bây giờ ai hỏi hắn là người của phe nào, hắn chẳng ngần ngại nói hắn thuộc dòng họ Yết.

Những năm lang bạt làm hắn khôn lớn và chính chắn hơn. Hắn thấy những điều hắn làm trong tuổi niên thiếu thật vô ích và rồ dại. Phụng sự chủ soái đâu phải chỉ là nhắm mắt xông bừa ra trận, giết cho được nhiều người, mà phải có khả năng, tận tụy và trung thành, nhất là trung thành cho đến chết. Bấy giờ hắn và Mãn Hà Chí không hiểu và cũng không có một chút ý niệm gì về lòng trung thành. Hai đứa mới chập chững vào đời, hăm hở đi tìm công danh, không ngờ suýt nữa vong mạng trong tăm tối. Thiền sư Đại Quán dạy cho hắn biết thân mình là quý, không ngờ vì thiếu suy xét, hắn đã mang cái mạng sống trân quý ấy đổi lấy chút hư danh bèo bọt.

Trời đã gần trưa, sắp tới thị trấn Daigo, trán lấm tấm mồ hôi, hắn định dừng lại nghỉ mệt. Bỗng có tiếng gọi sau lưng làm hắn quay lại.

– Ông ơi ! Ông đợi cháu !

Thạch Đạt Lang nhận ngay ra là Giang, thằng bé làm ở quán rượu. Nó chạy theo, thở chẳng ra hơi, vừa chạy vừa gọi, miệng la tay vẫy rối rít. Đến gần, chưa kịp yên chỗ, nó đã trách:

– Ông nói dối cháu ! Ông nói dối cháu ! Sao ông làm vậy ?

Mặt đỏ gay, lời nói đứt quãng, câu trách móc thật nghiêm khắc nhưng trông vẻ mặt nó thiểu não như sắp khóc. Nó ăn mặc mới thật nực cười. Bộ quần áo hầu bàn cũ lem luốc nay được thay bằng một chiếc kimono mới, nhưng chiếc kimono lại quá ngắn, tay áo chỉ đến khuỷu và gấu áo chỉ vừa quá bụng được một chút. Nó đeo bên sườn thanh kiếm gỗ dài hơn người và sau lưng một cái nón nan thật lớn to như cái dù.

Thạch Đạt Lang nhìn thằng bé không khỏi phì cười. Hắn ôm lấy Giang và lấy vạt áo chùi những giọt nước mắt bắt đầu chảy xuống đôi má đen sạm của nó. Thằng bé hình như vẫn chưa vừa lòng, còn sụt sịt ấm ức:

– Ông người lớn mà ông nói dối cháu, không biết xấu hổ ! Ông nhận cháu làm đồ đệ rồi lại bỏ đi, không đợi. Người lớn nào cũng nói dối như thế sao ?

– Ta thật không phải. Thôi ta xin lỗi.

Giang nhoẻn miệng cười.

– Ta không có ý định nói dối cháu đâu, nhưng vì cháu còn bố cháu, còn chủ quán… Tối qua không thấy cháu sang, ta tưởng chủ cháu không bằng lòng.

– Thì ít nhất ông cũng phải chờ để cháu nói cho biết chứ !

– Vì vậy ta xin lỗi. Thế chủ cháu có bằng lòng không ?

– Có.

Giang với tay hái chiếc lá dâu bên vệ đường hỉ mũi. Nó nói:

– Ông chủ bảo cứ đi, không có võ đường hay một kiếm sĩ nào biết tự trọng lại thu dụng cháu làm đồ đệ. Cháu bảo cháu theo ông thì ông chủ phá lên cười. Ông bảo:

“Thằng đó nhận mày là đúng rồi. Mày theo mang gươm cho nó chứ làm gì !”. Ông ấy còn cho cháu thanh kiếm này làm quà đấy !

Thạch Đạt Lang mỉm cười.

– Cháu chạy qua quán chỗ ông trọ, không thấy ai. Chủ quán không có đấy, cháu giật luôn cái nón này đội đầu.

– Bảng hiệu của người ta mà mày lấy đội đầu. Mày biết chữ gì viết trên đó không ?

“Giường cho thuê” đó !

– Mặc kệ. Khi mưa đội cũng đỡ lắm chứ !

Thái độ của thằng bé bấy giờ rõ ràng là bất cần. Điều quan trọng đối với nó là gặp Thạch Đạt Lang, được hắn cho thờ làm thầy để học võ. Cảm thấy vậy, Thạch Đạt Lang không muốn nói thêm gì làm cho nó bối rối. Hắn nghĩ có lẽ đây là điều tạo hóa đã an bài để hắn săn sóc thằng bé, đền lại phần nào những bất hạnh mà bố nó phải chịu.

Thấy Thạch Đạt Lang vui vẻ, không có ý xua đuổi, Giang rụt rè:

– Từ nay cháu sẽ gọi ông bằng thầy.

Thạch Đạt Lang mỉm cười gật đầu. Thằng bé yên bụng, mặt tươi hẳn lên. Bỗng sực nghĩ đến chuyện gì, nó nói:

– Ấy quên ! Có cái này cho ông …à cho thầy …

Giang thò tay vào áo lấy cuộn giấy đưa ra. Thạch Đạt Lang ngạc nhiên:

– Gì thế ? Thư ai vậy ?

– Thầy nhớ không ? Hôm qua con đã nói có ông khách đi ngang vào uống rượu hỏi con nhiều chuyện lắm. Ông ấy đưa thư này bảo con chuyển cho thầy. Ông ấy uống rượu như hũ chìm.

Thạch Đạt Lang không đoán ra là ai, cậy khằn đóng trên bì thư, mở ra nhìn xuống chữ ký ở dưới mời biết là của Mãn Hà Chí. Hắn càng ngạc nhiên. Chữ viết nghiêng ngả, tuồng như người viết đã say lắm. Thạch Đạt Lang thong thả đọc từng chữ, thấy ý tứ lộn xộn, câu kệ không rõ ràng, nhưng cũng hiểu đại lược:

“Từ khi bỏ mày ở Ibuki, tao vẫn không quên làng cũ, không quên mày. Tao nghe nói đến tên mày ở gần võ đường Hoa Sơn. Chúng tìm mày đó. Tao muốn gặp mày, mà thôi, chẳng cần. Tao uống rượu ở quán này. Say quá !” Đến đây thì một hàng chữ bị nhòe, có lẽ vì rượu đổ vào.

“ … bị giữ trong thành lâu, sa đọa quá lắm. Năm năm vô công rồi nghề, chẳng biết làm gì. Nghe nói mày thành công, tao mừng cho mày. Có người nói mày là tay kiếm vô địch, nhưng ở đây người ta cho mày là thằng hèn. Giỏi hay hèn, tao cóc cần, miễn là mày làm cho người ta nói tới là tao sướng. Mày đã có danh, còn tao chỉ thụt lùi trong vũng bùn nhơ nhớp. Tao chẳng muốn gặp mày đâu, xấu hổ lắm. Nhưng đời còn dài, mày ạ. Sau này ai biết ai ! Còn mày còn tao. Chúc mày mạnh khỏe”.

Góc thư còn mấy câu tái bút, dặn dò:

“Bảo trọng lấy thân, đừng chết uổng. Thành danh thì phải sống để làm gương cho tao. Sẽ có dịp gặp mày kể nhiều chuyện”.

Thạch Đạt Lang đọc xong thư, cuốn lại, lòng buồn man mác.

– Giang ! Con có hỏi ông ấy ở đâu không ?

– Không.

– Ở quán có ai biết ông ấy là ai không ?

– Chắc không ai biết.

– Ông ấy đến quán uống rượu thường không ?

– Không. Lần đầu con thấy.

Thạch Đạt Lang tự nhủ nếu biết địa chỉ của Mãn Hà Chí, có lẽ hắn sẽ đến thăm.

Hắn muốn an ủi, khích lệ người bạn cũ, đưa bạn trở về con đường lành mạnh, nếu không bạn hắn dám phẫn chí tự hủy hoại cuộc đời lắm ! Hắn muốn dẫn Mãn Hà Chí về làng gặp mẹ để đánh tan những hiểu lầm của bà Hồ Điểu đối với hắn.

Hai thầy trò yên lặng bước trên con đường núi gập ghềnh dẫn đến thị trấn Daigo, chẳng bao lâu đã thấy ngã tư đầu thị trấn hiện ra trước mặt. Thạch Đạt Lang tạt vào ven rừng ngồi nghỉ. Hắn quay nói với đồ đệ:

– Giang ! Ta muốn nhờ con một việc.

– Dạ.

– Con mang cho ta bức thư.

– Mang đi đâu vậy thầy ?

– Đi Kyoto.

– Trở lại à ?

– Ừ. Con mang thư đến võ đường Hoa Sơn đường Tân Hổ.

Giang không nói gì. Nó lấy chân đá những hòn cuội ở ven đường. Thạch Đạt Lang nhìn thẳng vào mặt nó:

– Con không muốn đi phải không ?

Giang ngập ngừng đáp:

– Không phải con không muốn đi, nhưng ngộ thầy lại bỏ con thì sao ?

Thạch Đạt Lang hối hận. Vì một quyết định sai lầm, hắn đã làm mất lòng tin của thằng bé:

– Không. Thầy đã nhận con làm đồ đệ, thầy không bỏ. Lấy danh dự một kiếm sĩ, thầy nói với con như thế. Thầy rất tiếc đã có chuyện hiểu lầm ban sáng, thầy xin lỗi.

– Vậy con đi.

Đến ngã tư, cả hai cùng vào quán, gọi trà và cơm. Thạch Đạt Lang mua giấy, thảo thư gửi cho chưởng môn Hoa Sơn:

“Sĩ Khánh chưởng môn nhân nhã giám, Tại hạ được biết quí phái đang cho người đi tìm. Hiện nay, tại hạ trên đường đi Yamoto, có ý định lưu lại vùng Iga và Ise chừng một năm để nghiên cứu thêm về kiếm pháp.

Tại hạ ân hận không được tiếp kiến huynh đài, người mà tại hạ hằng ngưỡng mộ đại danh, để trau dồi thêm sở kiến. Nhưng sang năm, vào ngày trọng xuân, thế nào tại hạ cũng trở lại kinh thành. Từ nay đến đó, hy vọng tiện kỹ sẽ xứng đáng với quý phái hơn và cũng mong quý phái đừng để tại hạ thất vọng.

Thư bất tận ngôn, kính mong huynh đài lượng thứ.

Yết Mân Thạch Điền Đạt Lang kính bái.” Bức thư lễ độ nhưng cũng thật cao ngạo, đầy tự tin, không những có ý thách thức chưởng môn Hoa Sơn mà còn cả mọi người trong phái.

Viết xong, Thạch Đạt Lang buông bút, niêm phong lại giao cho đồ đệ.

– Con để thư ở ngoài cổng được không ?

– Không. Phải đích thân giao tận tay cho người giữ cửa.

– Dạ.

– Còn điều nữa ta muốn nhờ con làm nhưng hơi khó.

– Chuyện gì vậy thầy ?

– Ta muốn con tìm ông khách đến uống rượu ở quán đưa thư cho con trước đây.

Tên ông ta là Hồ Điểu Mãn Hà Chí. Ông ấy là bạn cũ của ta.

– Việc ấy dễ lắm.

– Con làm sao nói ta nghe thử.

– Thì con cứ đi một vòng hỏi thăm tất cả các quán rượu là thấy ngay chứ gì !

Thạch Đạt Lang cười ha hả, khen thằng bé lém lỉnh.

– Ý kiến hay, nhưng theo thư thì hình như ông ta có quen ai ở Hoa Sơn. Con thử hỏi dò tại đấy xem.

– Thế khi gặp, con phải nói những gì ?

– Con bảo sang năm, nội trong bảy ngày đầu xuân, ngày nào ta cũng đến đợi ở chân đại kiều đường Gojo, mời ông ấy đến gặp ta.

– Còn gì nữa không thầy ?

– Bảo ta muốn gặp ông ấy lắm.

– Dạ. Vậy khi trở về, con sẽ tìm thầy ở đâu ?

– Đến Nara, con tìm Quang Minh hội. Hội này ở một ngôi đền lớn lắm, nổi tiếng về môn sử trường thương, không ai là không biết.

– Thật nhé ! Thầy đợi con đấy !

– Con không tin ta hả ? Lần này không thấy ta, con cứ chặt đầu ta đi.

Hai thầy trò Thạch Đạt Lang cùng cười lớn, bước ra khỏi quán. Đến ngã tư, chia tay mỗi người một ngả, Thạch Đạt Lang đi Nara, còn tên tiểu đồ trở lại Kyoto theo đường cũ.

Nơi ngã tư đông nghẹt khách thương hồ, kẻ mua người bán tấp nập, ngựa hí vang rân. Trên trời, én nhỏ như mũi kim, gió thổi qua hàng vi lô xào xạc.

Giang quay nhìn Thạch Đạt Lang, thấy sư phụ cũng đang ngoái cổ lại nhìn mình, nó toét miệng ra cười, giơ tay vẫy.

Chương 14: Chim trời cá nước

A Kế Mỹ ngồi cạnh bờ sông, vừa giặt áo vừa khe khẽ hát một khúc tình ca học được khi xem tuồng Kabuki ở đường Tân Hổ. Lời ca nhẹ nhàng, tiết điệu êm ái ru nàng vào ảo tưởng như được cùng đong đưa với làn gió xuân bên những cành đào nở đầy hoa vẽ trên nền lụa mỏng.

Gió xuân, kìa gió xuân lơi.

Thoáng nhẹ trên đồi.

Phất phơ tung áo, bồi hồi lòng em …

Gió xuân có nặng bên rèm.

Sao lòng em nặng …

Giang đứng bên bờ sông nhìn thiếu nữ giặt áo và hát. Trong khung cảnh thanh bình êm đềm ấy, nó bỗng thấy vui lây và tuy chẳng hiểu gì cũng mỉm cười:

– Cô nương hát hay quá !

A Kế Mỹ giật mình quay lại, ngạc nhiên nhìn thằng bé, nhỏ và đen đủi, đeo thanh kiếm gỗ dài hơn người và đội một cái nón lớn rộng vành trông như cái nấm.

– Em là ai vậy ? Sao gọi chị bằng cô nương ?

Khi nói, A Kế Mỹ vô tình để một chiếc áo tuột tay trôi theo dòng nước. Bắt không kịp, nàng kêu lên:

– Trời ơi ! Trôi mất cái áo rồi !

– Để em vớt hộ.

Giang chạy trên bờ sông, cầm kiếm gỗ chận áo rồi khều lên. Nó cười vui vẻ:

– Ít ra thanh kiếm này cũng không đến nỗi vô dụng !

A Kế Mỹ cười theo, thấy thằng bé dễ thương và nhanh nhẹn.

– Tên em là gì ?

– Giang.

– Em ở đâu, muốn hỏi chị điều gì thế ?

– Chị biết gần đây có trà thất nào tên là Vân Nghê quán không ?

– Biết chứ ! Nhà chị đấy ! Ở ngay trong khu vườn đằng sau chỗ em đứng đó !

– Vậy hả ! Thật là may. Thế mà em đi tìm mãi.

– Em tìm làm gì ? Em ở đâu tới ?

– Ở đằng kia.

Nó lấy tay khua khua chỉ phía trước mặt, không rõ ràng nhất định vùng nào.

– Đằng kia là chỗ nào ?

– Em cũng không biết nữa.

A Kế Mỹ mỉm cười:

– Thôi khỏi cần. Thế em muốn tìm nhà chị làm gì ?

– Em muốn tìm một người tên Hồ Điểu Mãn Hà Chí. Em hỏi ở võ đường Hoa Sơn, người ta bảo cứ đến quán Vân Nghê thì thấy.

– Ông ấy không ở quán.

– Chị nói dối !

– Không, chị không nói dối đâu ! Trước kia ông ấy có ở quán nhưng nay đi rồi.

– Đi đâu ?

– Chị cũng không biết.

– Nhưng ở quán, chắc phải có người biết chứ ?

– Không. Mẹ chị cũng không biết. Ông ấy trốn đi chẳng để lại tin tức gì.

– Lạ quá nhỉ ? Sao lại thế được ?

Giang ngồi xuống cỏ, mắt đăm đăm nhìn dòng nước chảy, chẳng biết phải làm thế nào.

– Ai sai em đến đây ?

– Sư phụ.

– Sư phụ em là ai ?

– Thạch Điền Đạt Lang.

– Em có mang thư gì của thầy em không ?

Giang lắc đầu:

– Không.

– Thằng này thật kỳ ! Mang tin gì mà không biết ở đâu đến lại chẳng có thư từ gì cả là thế nào ?

– Sư phụ em chỉ dặn miệng thôi.

– Dặn điều gì cho chị biết được không ? Có thể ông ấy không trở lại nữa, nhưng nếu gặp, chị sẽ chuyển lời cho.

– Không biết em có nên nói cho chị biết không ? Chị nghĩ thế nào ?

– Tùy em, chị chẳng nghĩ gì cả.

Ngồi yên một lúc, Giang mới mở miệng:

– Sư phụ em muốn gặp ông Mãn Hà Chí nên bảo em tin cho ông ấy biết thầy em sẽ đợi ông ở Đại Kiều đường Gojo trong vòng bảy ngày đầu năm tới. Sư phụ em muốn gặp ông ấy lắm !

A Kế Mỹ che miệng cười ngặt nghẽo:

– Thật chưa bao giờ chị thấy chuyện lạ vậy ! Bây giờ thầy em sai đi tìm một người, bảo đợi đến sang năm mới cho gặp. Thầy em cũng kỳ cục chẳng kém gì em cả !

Và nàng lại che miệng cười như nắc nẻ. Giang tức giận:

– Ô hay ! Sao chị cười hoài vậy ? Chuyện có gì đáng cười đâu !

– Em giận chị đấy hả ?

– Chứ gì nữa ! Em hỏi chị tử tế, nhờ chị giúp em một việc mà chị lại cười chế giễu!

A Kế Mỹ bình tĩnh lại:

– Thôi chị không cười nữa. Ừ, để khi nào gặp chị sẽ nói cho ông Mãn Hà Chí biết.

– Thật nhé.

– Thật.

Nhưng A Kế Mỹ vẫn không nhịn được cười. Nàng cắn môi một lát mới hỏi:

– À, thế em nói lúc nãy tên sư phụ em là gì ?

– Thạch Điền Đạt Lang, chị chóng quên quá !

– Viết thế nào ?

Giang nhặt một cành tre khô viết chứ Thạch Điền lên cát.

– Ô, đấy là họ Thạch, họ của Thạch Kinh Tử mà !

– Sư phụ là Thạch Điền, không phải Thạch Kinh Tử !

– Họ Thạch cũng viết thế.

– Nhưng không phải là Thạch Kinh Tử.

A Kế Mỹ lặng thinh, không cãi. Nàng nhìn chữ Thạch viết trên cát, tâm hồn như để tận đâu đâu. Một lúc sau mới ngẩng lên nhìn Giang, ngắm nghía nó từ đầu đến chân và dịu dàng hỏi:

– Sư phụ em có phải ở vùng Mimasaka không ?

– Phải. Chị biết à ? Em ở Harima còn sư phụ em người làng Miyamoto, cũng gần đấy.

– Ông người cao lớn khỏe mạnh, tóc trên đầu không cạo hết như kiểu các kiếm sĩ phải không ?

– Đúng rồi ! Vậy chị có biết ông ấy ?

– Chị nhớ có lần sư phụ em nói vì cái sẹo lớn ở đỉnh đầu nên không muốn cạo hết tóc.

– Sư phụ nói với chị như vậy à ? Lúc nào thế ?

– Năm năm rồi còn gì, bấy giờ chị mới mười sáu.

– Chị biết sư phụ em lâu thế kia à ?

A Kế Mỹ không đáp. Những kỷ niệm ngày xưa ấy nay lại hiện lên, rõ ràng và thân thiết như mới xảy ra hôm qua làm nàng bồn chồn không yên. Nghe thằng bé nói, không còn hồ nghi gì nữa, sư phụ nó chính là Thạch Kinh Tử. Nàng không lạ gì nếp sống phóng đãng của mẹ, lại chứng kiến tận mắt sự trụy lạc của Mãn Hà Chí nên khi chọn Thạch Kinh Tử, nàng càng vững tin ở sự chọn lựa của mình. Tư cách Thạch Kinh Tử khác tư cách Mãn Hà Chí bao nhiêu ! Rất may nàng chưa lấy ai, mặc dầu ở trà thất đã có nhiều người lui tới xin cưới nàng làm vợ. Đối với những khách làng chơi say sưa và khả ố ấy, nàng thường tỏ vẻ khinh bỉ. Bên cạnh họ, Thạch Kinh Tử thật là con người lý tưởng, thường hiện ra trong những giấc mơ êm ái nhất của nàng và trong những lúc nàng hát những bài diễm tình cố ý dâng cho người trong mộng.

Thấy A Kế Mỹ không trả lời, Giang nói:

– Nhé …Chị đừng quên đấy ! Nếu gặp ông Mãn Hà Chí, chị nói hộ em.

Và bỏ cô thiếu nữ ngồi mơ mộng bên dòng sông, nó nhanh nhẹn chạy vào trong xóm.

Chiếc xa bò chất đầy ngô, gạo và các thổ sản khác đang ì ạch leo dốc. Trên nóc xe, một tấm biển chữ đen viết đậm nét:

“Công đức khách thập phương cúng chùa Đại Từ ở Nara” rung rinh theo nhịp bánh xe quay cút kít.

Giang theo sau xe, vừa đi vừa huýt sáo, thỉnh thoảng nhặt viên sỏi ném vào bụi rậm hoặc cuốn lá làm kèn thổi te … te … Bỗng nhiên mắt nó sáng lên như vừa tìm được điều gì thú vị. Nó chạy theo xe, bám lấy tấm ván phía sau lấy đà đánh đu leo lên, nhẹ nhàng như một con mèo nhảy trên mái ngói.

Ngồi yên trên một bao gạo thấp, chân bỏ thõng đong đưa theo nhịp xe đi, Giang sung sướng nhìn cây cối hai bên đường như chạy lùi trước mặt. Xa xa, những giải đồi tròn trặn trồng toàn trà xanh uốn éo trải dài đến tận chân trời rồi lẩn vào màn sương mờ trắng đục. Vài cây anh đào nở muộn còn hoa lấm tấm hồng, đây đó hai ba nông dân mặc áo chàm lúi húi làm rẫy. Cảnh vùng Yamoto bấy giờ thật thanh bình và tươi đẹp.

Gió mát hây hây thổi, đôi mắt Giang nặng trĩu. Nó cố giữ cho khỏi buồn ngủ nhưng thiếp đi lúc nào không hay. Chiếc xe va phải hòn đá lớn chao mạnh làm Giang giật mình tỉnh giấc. Nó ước giá đường gồ ghề hơn chút nữa để đỡ buồn ngủ, sợ đến Nara không ai đánh thức.

Xe qua dưới một tàn cây, Giang đưa tay ra hái lá kẹp vào hai hàm răng thổi một điệu nhạc nó vẫn thường nghe trong các đám hát dân dã. Tiếng kèn làm gã xa phu chú ý, dừng xe lại. Ngó hai bên không có ai, gã làm lạ bèn vòng ra phía sau thấy Giang đang ngồi trên bao gạo. Tức giận, gã túm lấy nó lớn giọng hỏi:

– Ranh con ! Mày làm gì trên đó ?

– Tôi có làm gì đâu !

– Ai cho mày trèo lên xe tao ?

– Tôi đi nhờ mà ! Mà ông có phải kéo xe đâu, bò nó kéo chứ !

– A thằng này hỗn.

Vừa nói gã vừa nắm cổ áo Giang xách lên ném xuống đất, thuận chân đá nó một cái vào mông đau điếng. Giang ngã chúi vào gốc cây, nhưng biết phận chẳng dám ta thán, chỉ lẩm bẩm nhìn gã xa phu vừa nguyền rủa vừa đánh xe đi khuất, tiếng lọc cọc của cỗ xe trên đường gồ ghề còn vọng lại như chế giễu.

Ngồi một lúc, bỗng sực nhớ ra chuyện gì, Giang đứng bật dậy dáo dác tìm quanh.

Nó sờ lên cổ, lục trong tay áo, nét mặt càng lúc càng tỏ ra lo lắng. Nó vừa nghĩ đến chiếc ống quyển đựng thư phúc đáp của võ đường Hoa Sơn bảo nó mang về đưa sư phụ.

Nó nhớ rõ đã cẩn thận buộc ống quyển đó bằng một sợi dây gai đỏ, bây giờ không biết rơi đâu mất. Giang chạy ra chỗ chiếc xe bò dừng lại lúc nãy rồi lại trở về bên gốc cây, vòng ra xa, lấy ta gạt những đám cỏ cao để tìm cũng không thấy. Nó tỏ ra bối rồi thật sự.

Nhìn vẻ mặt hoảng hốt của thằng bé, một thiếu nữ trang phục theo lối lữ hành đi qua chợt dừng lại:

– Em đánh mất vật gì phải không ?

Qua chiếc nón rộng vành, Giang ngước nhìn thiếu nữ, gật đầu.

– Tiền hả ?

Giang không nói, chỉ lắc đầu rồi lại cúi xuống tiếp tục tìm quanh quẩn.

– Vậy chắc là cái ống tre dài chừng ba tấc, buộc dây đỏ phải không ?

Giang giật mình cuống quít:

– Phải rồi ! Phải rồi ! Sao cô nương biết !

– Vậy em đúng là thằng bé đã chọc cho ngựa chạy ở gần trại Mã Phố rồi ! Em đánh rơi ống quyển ở đó, có người nhặt được gọi trả mà em cứ chạy hoài !

– Em lại tưởng họ đuổi theo bắt ! Cô nương trông thấy ai nhặt được ?

– Một vị ăn mặc theo lối kiếm sĩ, người cao lớn.

– Cô nương chắc không ?

– Chắc.

– Vậy em phải trở lại.

Nhưng mới chạy được vài bước, Giang đã nghe tiếng thiếu nữ gọi:

– Thôi đừng trở lại nữa. Ông ấy kia kìa, ở phía cánh đồng, đang đi đến đây đấy !

Giang mở to mắt nhìn. Một tráng sĩ cao lớn trạc ba mươi lăm, bốn mươi tuổi bước những bước dài vội vã đến gần chỗ nó đứng. Cái gì ở ông ta cũng khác với người thường:

vai nở, lưng rộng, râu rậm và đen mọc gần kín cả mặt, tay để trần to lớn, chân đi dép cỏ đã cũ nhưng y phục còn tươm tất lắm. Trông dáng dấp, Giang chắc đây phải là một kiếm sĩ có danh vọng, bổng lộc đến ngàn gia. lúa chứ không ít. Nó hơi ngại, giật lùi lại phía sau, không dám hỏi.

May sao tráng sĩ lên tiếng gọi nó trước:

– Bé con ! Có phải mày đánh rơi cái ống đựng thư này gần trại Mã Phố không ?

– Dạ phải.

Tráng sĩ đưa ống quyển, Giang vội vàng giật lấy.

– À há …Không biết cám ơn à ?

Giang lí nhí:

– Dạ, cảm ơn ông.

– Thư quan trọng mà mày không giữ gìn cẩn thận để rớt dọc đường, thật đáng đánh đòn.

– Dạ.

Chợt nghĩ không biết sao ông này lại biết là thư quan trọng, Giang vội hỏi:

– Ông mở ống ra xem thư đấy à ?

– Dĩ nhiên ! Nhặt được cái gì thì phải mở chứ ! Nhưng ta không xem thư đâu, vẫn còn nguyên niêm đấy. Mày kiểm lại đi !

Giang mở ống quyển, ghé mắt nhìn vào thấy phong thư vẫn còn nguyên vẹn thì yên dạ, đậy nắp lại đeo lên cổ. Nó tự nhủ:

– Lần này mình phải cẩn thận hơn mới được !

Thiếu nữ thấy thằng bé lúng túng, vội đỡ lời:

– Cảm ơn tráng sĩ. Giá không có tráng sĩ thì cuốn thư chắc bị mất rồi.

Tráng sĩ cười:

– Thằng bé này đi với cô nương đấy à ?

– Không. Tiểu nữ mới gặp nó ở đây thôi.

– Nó đội cái nón gì lạ quá, lại có chữ viết “giường cho thuê” là thế nào ?

Thiếu nữ cũng cười:

– Tiểu nữ cũng không hiểu, nhưng thấy nó có vẻ lo lắng, tội nghiệp quá !

Quay sang Giang, nàng hỏi:

– Em định đi đâu ?

Tìm lại được ống thư, Giang yên tâm vui vẻ đáp:

– Em đi Nara, đến Quang Minh hội. Cô nương cho em đi cùng nhé ?

Thiếu nữ gật đầu. Bước sau người con gái, Giang bỗng chú ý đến một cái túi nàng giắt ngang lưng, đựng một vật dài như ống tre nó đương đeo trên cổ. Giang tò mò hỏi:

– Cô nương cũng mang thư đấy à ?

– Không. Sao em hỏi thế ?

– Thế cái gì cô nương giắt ở thắt lưng đó ?

Thiếu nữ mỉm cười:

– À, cái sáo !

– Cái sáo ?

Giang bước vội đến gần hơn, không ngần ngại ghé sát mắt vào lưng thiếu nữ nhìn cây sáo. Đột nhiên nó có cảm giác là lạ. Tuy còn bé, nó cũng biết thế nào là một người đẹp và bản năng của nó mơ hồ cho biết đây là một thiếu nữ còn thanh khiết. Giang ngẩng lên nhìn thiếu nữ, xúc động trước vẻ dịu dàng và cao quý của gương mặt nàng. Nó lùi lại, nửa e thẹn nửa sợ hãi, không dám nhìn nữa, tự nhủ:

“Chà ! Cô nương này sao đẹp quá ! Mình có người bạn đồng hành như thế này từ đây đến Nara thật là may !” Nó ấp úng:

– Em thấy cái sáo rồi. Cô nương biết thổi sáo à ?

Tiếng “cô nương” nó dùng xưng hô với thiếu nữ làm nó liên tưởng đến phản ứng của người con gái giặt áo ven sông nó mới gặp chiều qua nên không đợi trả lời, nó hỏi tiếp ngay:

– Cô nương tên gì thế ?

Thiếu nữ đưa mắt nhìn tráng sĩ đi cùng với mình, mỉm cười. Ông này cũng nhếch mép bảo Giang:

– Thằng này thật chẳng biết lễ độ gì ! Phàm lệ nếu muốn hỏi danh tính ai, phải xưng tên mình trước đã chứ !

– Tên cháu là Giang.

Thiếu nữ và tráng sĩ cùng cười. Giang phản đối:

– Các vị làm vậy không công bằng. Cháu đã nói tên rồi, sao các vị lại cười ?

Tráng sĩ hơi thẹn, lập nghiêm:

– Tên ta là Sử Đà.

– Chắc đó là tên họ. Thôi cũng được. Còn cô nương tên gì ? Nếu cô nương không nói thì vị này sẽ chê là vô lễ đó !

– Tên ta là Oa Tử.

– Oa Tử ! Oa Tử ! Nghe quen quá !

Nó lặng yên, đi một lúc, rồi lại liến thoắng:

– Cô nương mang sáo đi đâu vậy ?

– À, ta thổi sáo kiếm tiền độ nhật.

– Cô nương làm nghề thổi sáo à ?

Oa Tử cười:

– Ta không rõ có nghề nào là nghề thổi sáo không, nhưng nhờ ống sáo này ta mới có tiền chi dụng. Nếu em cho là nghề cũng được.

– Cô nương thổi sáo trong những cuộc lễ lạc ở chùa hay ở miếu phải không ?

– Không.

– Hay cho những ban nhạc rong diễn tuồng Kabuki ?

– Cũng không phải.

– Vậy cô nương thổi điệu gì ?

– Thì những khúc dân nhạc mọi người vẫn thường nghe ấy mà !

Riêng tráng sĩ rậm râu lại chú ý đến thanh kiếm gỗ của Giang:

– Chú bé đeo vật gì sau lưng thế ?

– Thanh kiếm gỗ. Ông không nhìn thấy thanh kiếm gỗ bao giờ à ? Cháu tưởng ông là kiếm sĩ chứ !

– Ta chính là kiếm sĩ, nhưng thấy mày còn bé lại mang thanh kiếm quá dài nên hỏi cho biết.

– Cháu học kiếm thuật.

– Chà ! Vậy mày có sư phụ chưa ?

– Có rồi !

– Người mày mang thư hộ đấy hả ?

– Vâng.

– Chắc sư phụ mày giỏi lắm nhỉ !

– Cũng chẳng giỏi lắm đâu ông.

– Sao ? Mày nói gì ?

– Sư phụ cháu đánh kiếm xoàng lắm, ai cũng chê.

– Thế sao mày theo ông ấy ? Sư phụ kém, mày không buồn à ?

– Không. Cháu đánh kiếm cũng không ra gì nên chẳng cần.

Tráng sĩ nghe thằng bé nói muốn phì cười nhưng giữ ngay được, mặt tuy lập nghiêm mà khóe mắt không dấu nổi vẻ khoái trá.

– Thế mày đã học được chút gì về kiếm thuật chưa ?

– Chưa. Thật ra chưa học được gì !

Lần này thì tráng sĩ không giữ nổi nữa, phá lên cười ha hả. Thiếu nữ nghe chuyện cũng lấy tay che miệng.

– Hà hà … Đi đường chung với thằng bé này cũng đỡ buồn. Đường ngắn được chút!

Quay sang Oa Tử, trung niên tráng sĩ lại hỏi:

– Còn cô nương đi đâu ?

– Tiểu nữ đi Nara, nhưng chưa định trọ Ở chỗ nào cả. Tiểu nữ muốn tìm một người quen cũ là kiếm sĩ. Nghe nói dạo này kiếm khách giang hồ lạc thảo đến tụ Ở Nara đông lắm, may ra nhờ ơn trời Phật …

Qúa trưa, cả ba người tới chân cầu Uji. Dưới mái hiên quán trà nhỏ ven đường, một ông lão râu tóc bạc như cước ngồi giữa chiếu, dùng gáo tre chuyên trà từ ấm lớn sang các bát sành cho khách đứng ngồi lố nhố xung quanh. Thấy Sử Đà, ông lão ngừng tay gọi lớn:

– Sử đại nhân, vào đây đã ! Lâu lắm lão phu chẳng thấy ai ở Trúc Lâm cốc đi qua.

Nhớ quá ! Nhớ quá !

– Bọn tại hạ chỉ muốn nghỉ chân một lát. Xin lão trượng cho tự nhiên.

Cả ba người cùng bước vào quán:

– Xin lão trượng cho vài cái bánh, thằng nhỏ này chắc đói rồi.

Bánh mang ra, Giang nhót lấy hai chiếc, vòng cửa sau mang lên đồi ăn. Với những trẻ hiếu động như nó, ngồi yên chuyện vãn thật chẳng hứng thú gì. Oa Tử nhấp trà, hỏi lão quán:

– Từ đây đến Nara còn xa không lão trượng ?

– Còn xa. Nếu đi nhanh thì chỉ quá Kizu trước khi trời tối. Sức cô nương, chắc là phải nghỉ ở Taja hay Ide.

Sử Đà đỡ lời:

– Cô nương đây muốn đến Nara tìm người quen nhưng không rõ địa chỉ.

Rồi ngập ngừng, hắn gãi râu:

– Nghĩ chẳng nên phải không lão trượng ? Nara bây giờ không như trước. Thân gái dặm trường đến Nara một mình e không tiện.

Lão quán nhìn Oa Tử, gật gù:

– Phải, đại nhân nói phải lắm ! Thật không nên !

Khách hàng nghe chuyện cũng phụ họa:

– Đúng vậy. Nara bây giờ nguy hiểm lắm ! Khách phương xa cứ tưởng nơi đó là thị trấn cổ kính, đền đài lăng tẩm mỹ lệ, không giặc giã cướp bọc gì, nhưng lầm lắm. Từ sau vụ Sekigahara, số kiếm sĩ thất trận không biết chạy đi đâu đổ về ẩn trốn ở đó rất nhiều.

Có người khá, nhưng phần đông nghèo đói, sống về nghề thảo khấu, ước lượng có đến hàng ngàn không đủ cơm ăn chứ đừng nói gì khôi phục lại địa vị cũ. Thế lực Tôn gia ngày càng mở rộng, vùng Nara thế nào cũng bị càn quét, nhưng hiện nay số kiếm khách lưu lạc lợi dụng nơi người thưa rừng rậm này đặt sào huyệt tụ họp ăn hàng không phải là ít. Khách lạ nếu không rõ đường đi nước bước, khó mà được an toàn.

– Ờ ờ …Các tay kiếm lừng lẫy giang hồ một thời như Hà Nguyên Cát, Hồ Uy Thạch, Hoàng Tế …nghe nói đều lẩn quất ở đấy cả.

– Phải rồi. Nhiều tay nghèo đói quá, bán cả gươm lấy tiền độ nhật. Rồi rượu chè, ẩu đả, gây hỗn loạn mong kéo dài tình trạng bất ổn để thừa cơ nước đục thả câu. Cô nương chẳng nên đến chỗ đó làm gì !

Mỗi người một câu, ai cũng cho Nara là nơi gió tanh mưa máu làm Oa Tử lo sợ.

Nàng ngồi yên lưỡng lự. Giá có tin gì, dù không đích xác đi nữa, là Thạch Đạt Lang có mặt ở đó thì nàng cũng quyết tâm đi cho bằng được. Đằng này, từ khi bỏ nàng lại trên cầu Himeji, hắn như chim trời cá nước, chẳng để lại tung tích gì.

Sử Đà thấy nàng do dự, hỏi:

– Cô nương tên là Oa Tử, lại biết chơi sáo phải không ?

– Dạ phải.

– Tại hạ đề nghị thế này có hơi đường đột, nhưng như cô nương biết đấy và các vị Ở đây đều đã nói rõ, cô nương nên bỏ ý định đi Nara, theo tại hạ đến Trúc Lâm cốc. Tại hạ sẽ tiến dẫn cô nương lên cốc chủ.

Rồi như muốn biện minh thêm cho ý định ngay thẳng của mình, Sử Đà tiếp:

– Tại hạ là Sử Đà Chu An Môn, phục thị tại Trúc Lâm cốc. Chủ nhân tại hạ bây giờ đã già, trên tuổi, chán cảnh bon chen giang hồ nên treo kiếm quy ẩn. Được cô nương vui lòng thỉnh thoảng cho nghe một vài thanh điệu, chắc người cũng đỡ cô tịch.

Lão quán vui vẻ thêm vào:

– Cốc lão nhân chính là tay đại kiếm sĩ Trúc Mộ Chính, từ khi về ở ẩn còn có biệt hiệu là Trúc Lâm cư sĩ. Thật là một đại gia, danh vọng ít ai bằng. Hân hạnh ấy, cô nương chẳng nên từ chối.

Oa Tử từ khi ở chùa cũng đã nghe danh Trúc Mộ Chính. Nàng cho là may mắn có cơ duyên gặp được Sử Đà nhưng vẫn ngần ngại:

– Chỉ sợ tiện kỹ không đáng để lọt tai cốc lão chủ.

– Không sao ! Không sao ! Trúc Mộ lão nhân gia tính tình khoáng đạt, không như các kiếm sĩ khác đâu ! Người ưa sự bình dị, có lẽ cô nương quá khiêm tốn đó thôi !

Oa Tử ngồi suy nghĩ. Nàng tính nếu đi Nara, không chắc gì đã tìm được Thạch Đạt Lang. Vả lại, hiện nay giới giang hồ đều đồng ý cho rằng Trúc Mộ gia là nơi tập trung nhiều kiếm khách cao thủ, có phần danh tiếng hơn cả Hoa Sơn phái. Vậy rất có thể Thạch Đạt Lang cũng đến đó. Nếu nàng tìm thấy tên Thạch Đạt Lang trong danh sách quan khách đến viếng Trúc Lâm cốc thì may mắn chừng nào ! Biết đâu …

Nghĩ thế, Oa Tử vui vẻ gật đầu:

– Nếu tráng sĩ thấy tiểu nữ không đến nỗi bất tài thì xin vâng.

– Vậy hay lắm ! Xong tuần trà này ta lên đường thôi. Hành trình còn xa mà cô nương sức yếu …Cô nương biết cưỡi ngựa không ?

– Dạ biết.

Sử Đà lấy tiền trả chủ quán rồi nhờ người đi thuê ngựa để Oa Tử cưỡi, còn hắn và mã phu đi bộ dẫn đường. Hắn gọi Giang. Thằng bé chạy từ trên đồi xuống, thở hổn hển:

– Các vị đã đi rồi à ?

– Ừ, chúng ta đi thôi kẻo tối.

Dọc đường, Sử Đà hỏi Giang làm gì trên đồi. Giang đáp:

– Cháu xem người ta đánh bạc. Có đến chục người quây quần dưới gốc cây cãi nhau ỏm tỏi.

Gã giữ ngựa cười:

– Chắc lại mấy tên kiếm khách giang hồ đó chứ gì ! Chẳng có việc gì làm, chúng tụ nhau lại sát phạt.

– Họ kiếm ăn bằng nghề đó à ?

– Vậy còn khá. Có đứa đi cướp đường, cướp chợ, bắt cóc trẻ con đòi tiền chuộc, chẳng chuyện gì tệ hại đến đâu mà chúng không làm !

– Sao quan quân không bắt ?

– Bắt không xuể. Lính tuần thì ít mà chúng thì đông, nhiều đứa võ nghệ khá lắm, lính cũng nể.

Giang đỏ mặt chen vào:

– Này ông kia ! Sao ông vơ đũa cả nắm vậy ? Kiếm khách giang hồ cũng có người tốt kẻ xấu chứ ! Thầy tôi là một kiếm khách giang hồ đấy !

– Vậy hả ? Chả trách mày bênh thầy mày !

– Thầy tôi không phục vụ ai nhưng là một kiếm khách có danh dự.

– Thầy mày thuộc môn phái gì ?

– Không biết.

– Thằng này lạ ! Đồ đệ mà không biết tông môn.

Rồi quay sang Sử Đà, gã giữ ngựa tiếp:

– Bây giờ ai cũng tự cho mình là kiếm sĩ. Khách quan cứ đi trên đường này một lúc là thấy hàng chục kẻ mang kiếm nghênh ngang, chẳng hiểu có tài cán gì không nhưng cũng làm nhiều người e ngại !

Gã liếc nhìn Giang:

– Đến như cái thằng bé này cũng vậy. Trông có khác gì con rận vác cái tăm ! Họ cứ tưởng đeo gươm là trở thành kiếm sĩ, có biết đâu không bỏ thây dọc đường thì cũng chết đói.

Nghe giọng khinh mạn của gã mã phu, Giang tức đỏ mặt. Nhưng nghĩ đến chuyện bị tên đánh xe ném xuống đất, nó yên lặng quay đi không phản ứng.

Toán người ngựa đi theo đường chính đến tận bến đò sông Kizu. Tới bến, Sử Đà bảo Giang:

– Bé con ! Chúng ta chia tay nhau ở đây. Chiều rồi, chẳng bao lâu nữa mặt trời lặn.

Mày nên để ý đừng làm mất ống thư, và cũng đừng la cà dọc đường.

Giang ngạc nhiên:

– Thế còn cô nương ? Cô nương đi với em chứ ?

Oa Tử xuống ngựa vội nói:

– Xin lỗi, ta quên không cho em biết. Ta đi theo tráng sĩ này đến Trúc Lâm cốc.

Giang sững sờ, đứng lặng. Oa Tử tần ngần nói với nó:

– Thôi em đi. Hãy bảo trọng lấy thân.

Giang gắng gượng hỏi:

– Cô nương định tìm ai, tên gì ? Cho em biết được không ?

Nhưng Oa Tử không trả lời. Nàng lẳng lặng bước xuống thuyền, vẫy tay từ biệt.

Giang buồn rầu nhìn người lái đò chở cả bọn sang bên kia sông. Nó nhặt một viên đá ném thia lia trên mặt nước. Viên đá tưng lên vài lần rồi chìm, để lại những vòng tròn theo nhau lan rộng ra xa, xa dần, trên mặt sông sáng loáng dưới bầu trời chiều đỏ rực.

Chương 15: Quang Minh hội

Trong giới võ lâm, Quang Minh không phải là một bang hội nhỏ. Từ lâu, hội này đã từng làm chấn động gian hồ nhờ tuyệt kỹ trường thương và những thế mâu, bổng không ai cự nổi. Tổng doanh hội đặt tại khu rừng thông rậm rạp trên triền núi Abura, trong một ngôi đền kiến trúc uy nghi, cổ kính. Xung quanh đền, vách đá sừng sững bao bọc. Trùng trùng điệp điệp, những gốc tùng vạn niên vỏ xù xì, ba người ôm không xuể, cành lá xum xuê xanh biếc, ngọn vươn cao vút, chứng tích thiên nhiên của bao nhiêu triều đại phế hưng, như làm tăng thêm vẻ hùng vĩ của cảnh trí.

Vào những hôm trời u ám, cả khu đền lờ mờ ẩn hiện, bập bềnh trôi trong màn sương mù dày đặc, khiến khách du đứng trước cảnh bao la huyền bí ấy không khỏi ngơ ngẩn xuất thần, thấm thía nỗi hèn mọn của kiếp nhân sinh phù ảo.

Trước đây, rừng này trong thời đại Nara đã nổi danh nhờ một nhà tắm công cộng do một lãnh chúa phu nhân cho xây cất. Nhưng công trình ấy ngày nay chẳng còn gì, họa chẳng chỉ lưu lại chút di tích trên nền đá xanh giờ đây rêu và cỏ dại đã phủ gần kín.

Khách thập phương vãn cảnh đền Quang Minh một phần vì vẻ đẹp hùng vĩ hoang sơ ấy, một phần cũng vì muốn được tận mắt chiêm ngưỡng ngôi đền danh tiếng, nhưng ít ai biết nơi đó còn là chỗ tàng trữ một kho cổ ngoạn vô giá có một không hai trong nước Nhật.

Thạch Đạt Lang leo vội những bậc đá gồ ghề và trơn trượt trên triền núi Abura trước khi trời tối. Hắn đảo mắt nhìn quanh, thấy rải rác lẩn khuất trong rừng thông rất nhiều đền miếu. Sau cơn mưa lớn vừa qua, những tàn lá thông xanh biếc hẳn lên giữa đám thân cây nâu sẫm vững vàng ngạo nghễ trên sườn núi. Vài vạt nắng hoàng hôn còn đọng lại trên những đỉnh đồi cao làm ửng vàng cả một vùng sơn lĩnh.

Thạch Đạt Lang chú mục nhìn những ngôi đền, tuyệt nhiên không thấy có doanh trại gì chứng tỏ đông người cư trú nên đồ chừng đền Quang Minh phải ở sâu trong rừng rậm. Đi một quãng xa chừng hơn dặm nữa, hắn thấy hiện ra tam quan một ngôi chùa cũ kỹ. Dưới mái, một bảng gỗ khắc ba chữ “Quang Minh Tự” dát vàng trên nền gỗ gơn then, tuy lâu ngày sương tuyết đã làm loang lổ, nhưng nét chữ vẫn còn xương kính. Hắn bước qua tam quan nhưng nghĩ sao lại trở gót, ngước mắt lên đọc kỹ thì thấy là Quang Hân chứ không phải Quang Minh. Hai chứ Minh và Hân chỉ khác nhau vài nét, trong lúc vội vàng và nóng lòng muốn được tiếp kiến, hắn đã trông nhầm, tưởng đây là đền Quang Minh, tổng doanh của Quang Minh hội.

Thạch Đạt Lang tần ngần đứng trước tam quan, tự trách mình thiếu điềm tĩnh.

Một nhà sư ở trong chùa đi ra, dừng lại nhìn hắn soi mói. Hắn vội vã bỏ nón thi lễ và hỏi:

– Tại hạ muốn được thỉnh giáo vài điều.

– Thí chủ muốn hỏi điều gì ?

– Phải chăng đây là Quang Hân tự ?

– Phải. Nhà sư vừa gật đầu vừa chỉ tay lên bảng gỗ. Có viết rõ ràng trên bảng này.

– Tại hạ được biết đền Quang Minh cũng ở gần đây, sao không thấy ?

– Đền Quang Minh ở phía sau chùa. Chắc thí chủ đến dự thí võ ?

– Dạ phải. Tại hạ quả có ý ấy.

– Vậy bần tăng có lời khuyên, thí chủ nên bỏ qua ý ấy đi.

– Sao thế ?

– Nguy hiểm lắm ! Bần tăng thấy chỉ người què mới đến xin Phật độ cho lành, nhưng người lành mấy ai muốn thành què bao giờ !

Thạch Đạt Lang mỉm cười. Nhà sư này trông khỏe mạnh và ưa hí lộng, khác với những nhà sư khác. Có lẽ vị tăng này đã tiếp xúc với nhiều người đến xin thí võ tại đền Quang Minh, thấy kết quả không hay nên khuyên vậy. Nhà chùa là nơi hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sinh, dĩ nhiên chăm lo Phật sự là công việc chính, nếu có dùng đến võ công cũng chỉ là điều bất đắc dĩ.

Nhà sư giảng giải:

– Vô Niệm đại sư, vị tiền bối sáng lập ra Quang Minh hội, nay đã già, lẫm cẫm.

Trước đây, người thường giao du với Trúc Mộ Chính cùng bằng hữu của đại kiếm sĩ này nên có thời kỳ quan tâm đến võ học. Ấy cũng chỉ vì người muốn bảo vệ đền chống lại quân cường đạo nên đã nghiên cứu khai triển một vài thế võ dùng thiền trượng để tự vệ mà thôi. Nhưng bây giờ tuổi đã cao, người trên tám mươi nên không còn minh mẫn và cũng chẳng muốn tiếp khách thập phương nữa chứ nói gì đến chuyện truyền dạy võ học.

Về cách sử trường thương, người không còn để ý gì đến.

Nhà sư tiếp:

– Vì thế thí chủ chẳng nên tìm hiểu thêm làm gì. Người đã ở ẩn, thí chủ chắc không được tiếp kiến đâu, mà có tiếp kiến cũng vô ích !

Trông dáng điệu và nghe cách nói của nhà sư, rõ ràng là vị tăng này có ý ngầm bảo Thạch Đạt Lang đi cho khuất mắt. Nhưng không lẽ dụng công tới đây, hắn lại để bị đuổi dễ dàng như thế ! Bèn khẩn khoản:

– Tại hạ cũng có nghe nói đến Vô Niệm đại sư, nhưng được biết vị thủ tòa hiện nay là Vô Tướng cũng là tay cao thủ. Người tuy chưa phải là chưởng môn nhưng đã thấu triệt mọi nguyên tắc căn bản và bộ pháp của tôn phái. Tuy đã thâu nhận nhiều đồ đệ nhưng người không bao giờ từ chối chỉ dẫn cho bất cứ ai đến bái kiến …

– Hừ ! Vô Tướng … – Nhà sư nói với giọng khinh thường – Người ta đồn vậy chứ chưa chắc đã đúng. Thực ra Vô Tướng còn là đồ tử của viện chủ tệ tự, Ngộ Không thiền sư. Khi Vô Niệm tỏ ra có những triệu chứng tinh thần không được mẫn duệ, bản viện chủ thấy cần phải duy trì nên võ học mà người đã khổ công nghiên cứu với Vô Niệm trước kia, nên chọn Vô Tướng để truyền thụ và vận động đặt lên chức thủ tòa.

Thạch Đạt Lang gật đầu:

– À ra thế !

– Vậy thí chủ còn muốn thí võ nữa chăng ?

– Mô Phật ! Tại hạ cất bao nhiêu công lao tới đây …

– Vậy tùy thí chủ.

– Xin đại sư cho biết phải đi đường nào mới tới đền, rẽ phải hay trái ?

– Không cần rẽ bên nào cả, cứ xuyên qua tệ tự là nhanh nhất. Nhưng bây giờ sắp tối rồi, thí chủ nên vào hậu liêu nghỉ, ngày mai đến cũng không muộn.

Thạch Đạt Lang cảm ơn, theo nhà sư vào hiên chùa ngồi, giở cơm nắm và thức ăn nguội ra dùng bữa tối.

Sáng hôm sau, mặt trời vừa ló dạng, Thạch Đạt Lang đã sẵn sàng. Đi qua sân chùa nhìn nhà kho, củi chất ngổn ngang, khói bếp bốc cao, một gia nhân đang quảy nước tưới cây, hắn thấy khung cảnh chẳng khác gì một trang trại nhỏ vùng quê. Sau sân là mảnh vườn rộng chừng hai ba sào, giồng đủ thứ rau đậu.

Bước xuống vườn, men theo những luống cải tươi tốt, sương đêm còn đọng lóng lánh trên những tàu lá xanh non, Thạch Đạt Lang thấy lòng lâng lâng khoái hoạt, sức sống dạt dào luân lưu trong cơ thể. Cuối vườn, một ông lão cắm cúi cào cỏ, vuông khăn vải sô quấn quanh đầu giữ cho tóc khỏi xõa. Ông lão chăm chú làm việc, Thạch Đạt Lang trông không rõ mặt, chỉ thấy đôi lông mày dài rủ trắng như tuyết. Ngoài tiếng răng cào thỉnh thoảng chạm phải hòn đá kêu “cạch” khô khan, cảnh vật yên lặng như tờ, không nghe tiếng động gì khác.

Thạch Đạt Lang định hỏi thăm, nhưng thấy ông lão mãi việc quá lại thôi. Khi đi ngang, hắn đột nhiên thấy ông liếc mắt nhìn chân mình, tuy đầu vẫn cúi và tay vấn đều đều cào cỏ. Một sức mạnh vô hình toát ra từ tia mắt khiến hắn giật mình nhảy tránh sang bên. Tia mắt bất ngờ có uy lực dũng mãnh tựa tiếng sét xé mây đen trong những đêm giông bão. Hắn cảm thấy nhột nhạt khó thở, thân thể nóng ran như vừa thoát khỏi một ngọn lửa táp tới hay như vừa tránh kịp một thế kiếm giết người phạt ngang hạ chỉ.

Phản ứng tự nhiên khiến hắn để tay lên đốc kiếm. Nhìn quanh chẳng có ai, chỉ có lão làm vườn vẫn yên lặng đưa cây cào đều đều bên luống rau, hắn ngạc nhiên kinh sợ. Thế này là thế nào ? Hắn không mơ ngủ, sau một đêm nghỉ ngơi, đang thoải mái dễ chịu, công lực tràn trề, tự nhiên trong một sát na, kinh mạch như đảo lộn. Lạ ! Lạ quá !

Thạch Đạt Lang yên lặng bỏ đi, trong lòng phân vân không biết sao giải đáp.

Tiếp tục đi về hướng nam, một lúc sau quả nhiên thấy đền Quang Minh hiện ra trước mặt. Trước cổng đền, hắn đứng suy nghĩ:

“Theo lời vị tăng thì tất Vô Tướng phải còn trẻ. Vô Niệm đã già và lẫn, không quan tâm gì đến võ công nữa. Nhưng xem ra lão già làm vườn là tay ghê gớm lắm chứ không vừa. Hay là … hay là …” Kinh nghiệm quý báu vừa qua bảo hắn phải thức tỉnh đề phòng mọi bất trắc.

Thạch Đạt Lang giơ tay đập cửa hai lần không ai trả lời. Ngó quanh thấy chiếc khánh treo trong góc, hắn cầm dùi gióng lên mấy tiếng.

Một lát có tiếng chân người ra mở cổng. Đấy là một tăng nhân còn trẻ, áo màu vỏ dà vắt trên vai để lộ cánh tay trần lực lưỡng, bắp thịt cuồn cuộn. Nếu là võ sĩ dưới trướng một lãnh chúa nào đó, nhà sư này tất phải làm đến chức đoàn trưởng.

Chắc đã quen tiếp xúc với những người như Thạch Đạt Lang hàng ngày đến ghi danh xin thí võ, nhà sư thản nhiên hỏi:

– Thí chủ là võ sĩ ?

– Phải.

– Thí chủ muốn điều gì ?

– Tại hạ muốn được bái kiến vị thủ tòa.

– Vậy vào đi.

Tăng nhân đứng tránh sang bên, đưa tay chỉ về phía khạp nước, ngầm bảo phải rửa chân trước khi lên đại sảnh. Một ống tre dẫn nước chảy lanh tanh không ngớt xuống khạp. Bên cạnh để cái gáo cũng làm bằng tre vàng óng. Xung quanh la liệt dép cỏ, cũ có mới có, nhiều đôi đã mòn vẹt và bám đầy bùn đất.

Rửa chân xong, tăng nhân đưa Thạch Đạt Lang qua dãy hành lang mờ mờ đến một căn phòng nhỏ bảo ngồi đợi. Mùi hương trầm thoang thoảng trong không khí, vài tàu tiêu in bóng mờ ảo lên nền giấy tàu bạch phất khung cửa sổ gió thổi kêu phần phật. Ngoài cách ăn nói hơi khiếm nhã của tăng nhân trẻ tuổi, cảnh đền thật tịch mịch chẳng có gì khác thường.

Tăng nhân trở lại, mang theo một quyển sổ, một cây bút và nghiên mực, hách dịch nói như người lớn bảo trẻ con:

– Ghi danh tính, sinh quán và môn phái vào đây !

Thạch Đạt Lang nhìn bìa sổ thấy ở trên đề “Danh sách võ sinh”, ở dưới là tên cùng chữ ký của vị tăng chấp quản. Hắn mở sổ, trang nào cũng đặc những chữ. Đến gần cuối, thấy còn chỗ trống, Thạch Đạt Lang theo cách những người tới trước, điền tên và sinh quán vào. Nhưng về môn phái, không biết nên viết ra sao, hắn chỉ viết sơ sài là đã thụ huấn môn đánh côn của thân phụ từ khi còn nhỏ. Hắn không có sư phụ, tự luyện tập lấy theo sách vở và theo thiên nhiên, rồi kết luận:

“Tiểu nhân còn phải học hỏi nhiều, muốn được các bậc cao minh chỉ giáo”.

Nhà sư đứng bên theo dõi những điều hắn viết, cắt ngang:

– Thí chủ hẳn rõ bản hội chuyên về trường mâu, danh tiếng lừng lẫy thiên hạ.

Ngay trong những cuộc đua tài giữa võ sinh hay môn đệ, những thế côn bổng cũng rất nguy hiểm, mất mạng là thường. Đao thương không có mắt, thí chủ hãy suy nghĩ kỹ trước khi giao đấu và nên đọc những lời cảnh cáo trên đầu sổ.

Thạch Đạt Lang lật trang đầu, quả nhiên thấy ghi rõ trong phần giới luật:

“Võ sinh phải nhận hết trách nhiệm nếu bị thương tích hay tử vong khi giao đấu”. Hắn mỉm cười:

– Điều này dĩ nhiên rồi. khi chấp nhận giao tranh, nếu có xảy ra chuyện gì, trách nhiệm còn quy về ai nữa ?

– Vậy tốt ! Thí chủ hãy theo ta đến nơi giảng võ.

Võ sảnh rộng mênh mông. Thạch Đạt Lang chưa bao giờ thấy nơi luyện võ nào lớn như thế. Hai hàng cột chu vi có đến mấy sải tay chạy dài suốt dọc võ sảnh, đỡ những rầm nhà chạm trổ tinh vi, thếp vàng trên nền gỗ sơn then bóng lọng. Ven tường để nhiều giá binh khí cắm toàn trường mâu, mũi mâu đúc thành hình đầu rồng, đuôi rắn và đủ các loại thú cổ quái.

Thạch Đạt Lang không phải là võ sinh độc nhất trong sảnh. Khi hắn đến, trên sàn đã có chừng chục người khác ngồi đợi sẵn. Nhiều võ sinh trang phục theo lối kiếm sĩ và tăng lữ đứng nghiêm chỉnh phía sau, chắc là làm nhiệm vụ giám sát. Tất cả đều chăm chú theo dõi cuộc đấu giữa hai người đeo mặt nạ và sử dụng trường côn nên chẳng ai lưu ý đến Thạch Đạt Lang được nhà sư dẫn vào chỉ chỗ cho ngồi trong góc.

Yên vị rồi, Thạch Đạt Lang nhìn lên tường. Tấm bảng cáo thị treo nêu rõ nếu ai muốn dùng binh khí thật cũng sẽ có người bồi tiếp, nhưng thông thường trong khi tỷ thí, chỉ mộc côn được sử dụng mà thôi. Tuy là mộc côn, nhưng loại này cứng và nguy hiểm không kém gì côn sắt, nếu trúng có thể làm gãy tay chân hay đưa hồn về chín suối như bỡn.

Hai đối thủ quần thảo một hồi, một người trúng thương, ôm đùi tập tễnh bước ra khỏi vòng chiến. Gã lê chân vào góc phòng, ngồi phịch xuống, mặt mày nhăn nhó.

Đấu thủ thắng trận bỏ mặt nạ ra. Tiếng gã vang lên sang sảng:

– Người kế tiếp !

Đây có lẽ là một trong những tăng sĩ cao thủ của Quang Minh hội, giữ chức vụ trắc nghiệm và tuyển chọn võ sinh. Thân hình gã lực lưỡng trong bộ quần áo chẽn màu đen, hay tay giữ chặt một cây côn gỗ sồi dài chừng hai sải. Gã đưa mặt gườm gườm nhìn mặt từng người ngồi ở dưới sàn, không giấu vẻ kiêu ngạo tự đắc.

Một võ sĩ tuổi trung niên thấy hắn đưa mắt nhìn mình, vội vàng đứng dậy nhận thách đấu. Tráng sĩ xắn tay áo, dùng dây da buộc gọn cửa tay lại, điềm tĩnh đến bên giá binh khí chọn một cây trường mâu rồi thong thả bước vào đấu trường, trong khi tăng sĩ nọ vẫn lăm lăm cây côn gỗ đứng đợi.

Theo lệ, hai bên cúi đầu chào nhau trước khi giao chiến. Nhưng võ sĩ nọ vừa cúi đầu xong thì nhanh như chớp, cùng với tiếng thét làm rung động cả những giá binh khí đặt tại võ sảnh, tăng sĩ đã giơ côn bổ một nhát như trời giáng lên đầu đối thủ. Võ sĩ nọ ngã gục, tắt thở ngay đương trường, máu và óc phọt tung tóe.

Gia nhân chạy đến khiêng xác chết đi, lau rửa vội vã không nói một lời. Tăng sĩ đứng trong góc phòng lại tiếp tục cất giọng sang sảng:

– Người kế tiếp !

Gọi đến lần thứ hai, không ai động đậy. Cả võ sảnh im lặng như tờ. Thạch Đạt Lang tưởng vị tăng sĩ đó là Vô Tướng đại sư, thủ tòa Quang Minh hội, nhưng sau hỏi ra thì không phải. Một võ sinh cho biết đó là Cổ Bất Úy, một trong thất trụ của viện chấp pháp, vô địch thiết côn và rất tàn nhẫn. Vô Tướng đại sư không bao giờ phải ra chiêu vì từ trước đến nay chưa có ai qua khỏi tay bảy vị đó.

Cổ Bất Úy cầm ngang cây côn, đứng dõng dạc hỏi:

– Còn ai nữa ?

Tăng nhân chấp quản lấy danh sách võ sinh, nhìn mặt, gọi tên từng người.

– Xin lỗi, vãn sinh hôm nay không sung sức, để khi khác.

– Anh kia ?

– Vãn sinh xin miễn.

Danh sách đọc lên, ai cũng thoái thác. Cuối sổ, viên chấp quản đọc tên và chỉ tay vào Thạch Đạt Lang.

– Còn thí chủ thế nào ?

– Xin tùy tiện.

– Tùy tiện là thế nào ? Muốn giao đấu hay không ?

– Tại hạ muốn giao đấu.

Mọi con mắt đổ dồn cả vào Thạch Đạt Lang. Hắn khoan thai đứng dậy.

Cổ Bất Úy không còn ở trên đấu trường này. Gã đã lui vào phía trong võ sảnh, sau cây cột lớn đứng chuyện trò với nhiều tăng sĩ khác. Nghe có người nhận thách đấu, gã hơi bực mình, khó chịu:

– Chán thật ! Hay vị nào thay tại hạ bồi tiếp hắn đi !

– Thôi quý hữu gắng giải quyết nốt. Chỉ còn một người nữa thôi mà !

Bất đắc dĩ, Cổ Bất Úy uể oải bước ra, nhấc cây côn gỗ bóng loáng quen thuộc dựng ở góc phòng rồi đứng vào bộ vị.

Đột nhiên gã quay phắt người lại, rồi như để áp đảo đối phương, thét lên một tiếng ghê rợn, giơ cao cây côn đâm thẳng vào tường võ sảnh. Tường võ sảnh lát bằng gỗ dầy, tiếng gỗ vỡ nứt cùng với tiếng thét của Cổ Bất Úy khiến ai nấy giật bắn người. Trông ra, sức mạnh cây côn đã chọc thủng tường một lỗ to bằng cái bát !

Mọi người đều kinh hãi, duy Thạch Đạt Lang vẫn điềm nhiên như không, đứng bất động giữa sàn, hai tay cầm kiếm gỗ thủ thế. Cổ Bất Úy rút côn, di chuyển chậm chạp quanh Thạch Đạt Lang như mèo vờn chuột.

Có tiếng cười gằn phát ra gần cửa sổ, rồi một giọng nói vọng vào:

– Đồ ngu ! Nhìn cho kỹ ! Nó đâu phải là bức tường vô tri vô giác !

Cổ Bất Úy mắt vẫn dán vào Thạch Đạt Lang, quát:

– Ai đó ?

Nhưng tiếng cười lại nổi lên, thanh âm lần này trầm xuống vừa thương hại, vừa chế nhạo. Thấp thoáng ngoài song, làn tóc bạc phơ với đôi mày trắng như tuyết.

– Cổ Bất Úy ! Không xong đâu ! Hãy đợi Vô Tướng về xử trí.

Thạch Đạt Lang liếc mắt nhìn ra. Trong một sát na, hắn trông thấy đầu ông già làm vườn hồi sáng, nhưng ngay sau đó đã biến mất. Cảnh lại trở về tịch mịch.

Cổ Bất Úy phân tâm, hai tay nới lỏng cây côn, lòng hơi rung động. Thấy Thạch Đạt Lang vẫn đứng nguyên chỗ cũ, gã thốt một lời rủa ngắn, vận sức hai cánh tay vào cây côn quyết tâm tấn kích. Gã đổi bộ vị.

Thạch Đạt Lang xoay chuyển theo bước đi của Cổ Bất Úy, hai tay vẫn lăm lăm thanh kiếm gỗ nhưng không đổi vị trí. Hắn trầm giọng:

– Sẵn sàng !

Sự bình tĩnh của Thạch Đạt Lang làm Cổ Bất Úy nổi xung. Mắt gã lồi ra. Gã múa cây mộc côn, đâm dứ một chiêu, hai chân nhảy lên khỏi mặt sàn rồi hạ xuống ở một bộ vị khác, nhẹ nhàng như ánh trăng đùa sóng nước. Phải công nhận công phu của gã tuyệt luân, những thế côn của gã nhanh nhẹn và uy mãnh, địch thủ chỉ mất bình tĩnh một chút là có thể mất mạng như chơi.

Nhưng Thạch Đạt Lang không dại. Thế thủ kiếm của hắn không có gì khác thường, hay người ngoài trông vào tưởng thế. Hai tay giữ kiếm dọc trước mặt, thân hình hắn hơi lùn hơn đối phương một chút và không lực lưỡng bằng, nhưng điểm khác nhau chính là ở đôi mắt. Mắt Thạch Đạt Lang không chớp, sắt như dao, tinh như mắt chim cắt. Hắn đứng im nhìn địch thủ múa côn, tìm một điểm sơ hở.

Cổ Bất Úy không ngớt giương đông kích tây, phóng ra những hư chiêu làm phân tâm Thạch Đạt Lang, người mà gã coi như một đối thủ đáng sợ. Gã lắc đầu mấy cái để mồ hôi khỏi chảy xuống mắt hay để xua đuổi những lời cảnh cáo của ông già tóc bạc, không ai biết, nhưng mọi người đều thấy tinh thần gã bắt đầu rối loạn. Gã thay đổi cách cầm côn nhiều lần. Nhìn Thạch Đạt Lang vẫn đứng trơ trơ trong thế thủ kiếm, gã nghiêng mình đi rồi xuất kỳ bất ý, vung tay ngược lại dùng côn như một cây thương đâm thẳng vào ngực địch thủ trong một tiếng thét xung trận tựa trời long đất lở.

– Gi …ết !

Không ai rõ chuyện gì xảy ra, chỉ thấy trong võ sảnh, tiếng vang chưa dứt, Cổ Bất Úy đã nằm dài sóng sượt, mặt úp sấp xuống sàn, ở vết kiếm chém trên lưng máu bắt đầu loang ướt đẫm hai bên áo. Cây côn gỗ cắm sâu vào tường trước mặt còn rung rung theo tiếng chân mọi người rầm rập chạy đến.

– Sao vậy ? Sao vậy ?

– Cổ Bất Úy nguy rồi ! Lấy thuốc, lấy thuốc rịt mau lên !

– Không kịp nữa rồi ! – Lão già ở ngoài hiên bước vào nói – Nếu ta biết là dùng thuốc mà chữa được, ta đã không khuyên hắn đợi Vô Tướng trở về !

Mọi người vội vàng xé tấm tăng bào bịt vết thương, không ai để ý đến Thạch Đạt Lang lầm lũi đi ra cửa.

Hắn sắp sửa xỏ chân vào dép thì ông già đầu bạc đã theo tới.

– Này thí chủ !

Thạch Đạt Lang quay lại:

– Tiền bối gọi hậu bối ?

– Phải. Bần tăng có vài điều muốn hỏi thí chủ.

Thạch Đạt Lang theo ông già đến một tăng phòng nhỏ sau đại sảnh, một phòng vuông vức, ngoài khung cửa vào độc nhất không còn lối nào khác. Sau khi đã phân ngôi chủ khách, ông lão cất tiếng:

– Đại sư thủ tòa đáng lẽ đích thân tiếp kiến thí chủ, nhưng rất tiếc hiện nay người đang vân du, có thể đến cuối tuần trăng mới trở về, nên bần tăng đại diện.

Thạch Đạt Lang cúi đầu:

– Đa tạ lão tiền bối. Hậu bối rất cảm kích về bài học quí hội đã ban, nhưng cũng xin lão tiền bối lượng thứ cho kết quả cuộc giao đấu xảy ra như vừa rồi …

– Cõi nhân sinh vô thường, thí chủ để ý làm gì ! Hãy coi như là quả nghiệp.

– Thương thế Cổ Bất Úy ra sao, thưa lão tiền bối ?

– Hắn chết rồi.

Lời vị lão tăng không khác gì cơn gió lạnh tạt vào mặt Thạch Đạt Lang. Hắn nhắc lại:

– Chết rồi ?

Và lẩm bẩm “mô Phật” rồi cúi đầu đọc một lời cầu nguyện ngắn cho người quá vãng. Hắn thấy lòng buồn khôn tả.

– Thí chủ !

– Thưa lão tiền bối ?

– Thí chủ tên là Thạch Điền Đạt Lang ?

– Dạ phải.

– Thí chủ học võ công môn phái nào ?

– Kẻ hậu bối không có sư phụ theo nghĩa thông thường như mọi người hiểu. Trước đây, lúc còn nhỏ, gia phụ chỉ cho một vài miếng côn quyền, sau đó nhờ có duyên may mắn, hậu bối có được đọc sách rồi cứ theo sách mà luyện kiếm giữa cảnh núi cao sông rộng. Vì vậy có thể nói võ công của hậu bối đã được đào luyện trong thiên nhiên.

Vị lão tăng trầm ngâm một lúc rồi gật gù:

– Có lẽ thí chủ đã đi đúng đường. Công lực dồi dào quá !

Cho đó là một lời khen, Thạch Đạt Lang sượng sùng đỏ mặt:

– Lão tiền bối quá khen ! Kẻ hậu bối còn phải học nhiều !

– Không ! Không ! Ý bần tăng không phải vậy mà chỉ muốn nói công lực thí chủ quá mạnh, cần kiềm chế bớt. Cường bất khiển tất nhược.

Thạch Đạt Lang ngạc nhiên, nhướng mắt nhìn lão tăng.

– Thí chủ còn nhớ lúc gặp bần tăng ở vườn rau sáng nay không ?

– Dạ nhớ.

– Trông thấy bần tăng, thí chủ nhảy vội sang bên để tránh ?

– Đúng vậy.

– Tại sao thí chủ làm thế ?

– Hậu bối cũng không rõ. Bấy giờ, cảm thấy có một sức mạnh vô hình đe dọa, hậu bối đã phản ứng tự nhiên. Có lẽ vì tự vệ, cũng như người tránh một thế kiếm …

Lão tăng mỉm cười:

– Trái lại, khi thí chủ cách bần tăng chừng một trượng, chính bần tăng cảm thấy không khí ngột ngạt, sát khí bừng bừng phát ra từ ánh mắt cũng như dáng đi của thí chủ nên bần tăng đề phòng. Một nông dân chất phác nào đó đi qua chắc chỉ nhìn bần tăng như một kẻ làm vườn vô hại, nhưng thí chủ lại khác. Tham vọng cùng với nội lực hết sức sung mãn của thí chủ không kềm chế tuôn ào ào như thác lũ, gặp bần tăng bị dội lại nên thí chủ tưởng bần tăng sắp động thủ …

Thạch Đạt Lang nghe nói, không ngờ lão tăng này là một kỳ nhân về khí công.

Khả năng cảm nhận và phản xạ đã đạt tới mức tinh nhuệ lạ thường. Hắn thấy mình chỉ là tên học trò ngờ nghệch. Nhìn lão tăng, trên vẻ mặt quắc thước vẫn còn phảng phất nụ cười nửa bí mật, nửa từ bi, hắn không đoán được trong lòng vị này đang nghĩ gì.

– Đa tạ lão tiền bối đã chỉ điểm. Dám xin lão tiền bối cho biết quý tính cao danh và hiện giữ chức vụ gì trong Quang Minh hội ?

– Bần tăng không thuộc Quang Minh phái. Bần tăng là Ngộ Không, trú trì Quang Hân tự.

– À ra thế !

– Vô Niệm với bần tăng là chỗ cố cựu. Trong những thập niên trước, người và bần tăng có lưu tâm đến võ học và hợp sức nghiên cứu về thương pháp. Nhưng bây giờ bần tăng nguyện không động đến đao thương nữa.

– Vậy ra thủ tòa Quang Minh hội, Vô Tướng đại sư chính là đồ tử lão tiền bối ?

– Nói thế cũng được. Vì không muốn sử dụng võ khí vào bất cứ việc gì, nhưng lại tiếc không muốn để mai một nền võ học đã được Vô Niệm khổ công tìm tòi, bần tăng có luận với Vô Tướng nhiều lần về những yếu quyết của thương pháp, vì xét ra hắn là người có căn bản nhất.

– Hậu bối thật vô lễ, nhưng muốn xin được tá túc tại quý tự ít lâu, chờ Vô Tướng đại sư trở lại.

– Thí chủ định tranh phong với hắn ?

– Hậu bối từ xa tới đây vẫn có ý muốn được người chỉ giáo.

Ngộ Không hòa thượng lắc đầu:

– Vô ích ! Thí chủ không có gì phải học ở Quang Minh hội cả.

– Thật ư ?

– Trong cuộc tỷ võ vừa rồi, thí chủ đã nhận thấy hết những yếu quyết về việc sử thương của Cổ Bất Úy. Nếu còn muốn biết thêm gì nữa, thí chủ cứ nhìn vào mắt bần tăng đây.

Ngộ Không phóng mục quang thẳng vào Thạch Đạt Lang, mắt mở lớn như lòi ra đằng trước. Thạch Đạt Lang chăm chú nhìn hai đồng tử Ngộ Không lấp lánh như sao, ánh mắt đỏ tía tựa hai cục than hồng, dần dần đổi ra màu xanh biếc, sâu thăm thẳm.

Ánh bích quang tỏa ra một ma lực kỳ lạ thu hút hết ý chí của hắn làm hắn tê dại, không khác gì một con ếch nhỏ đứng trước miệng một con rắn sắp nuốt mình. Hắn buồn ngủ, mê đi, cố gắng lắc mạnh đầu để tránh đôi mục quang giết người ấy. Tiếng cười hắc hắc của vị lão tăng nghe mơ hồ thoảng như hơi gió.

Tiếng cười vẫn chưa dứt thì một chú tiểu từ cửa ngoài bước vào, ghé tai vị sư già nói nhỏ. Ngộ Không khẽ đáp:

– Được, con cứ mang vào đây.

Chú tiểu đi ra, bưng vào một liễn cơm, đũa bát và một đĩa dưa muối để trên cái khay đặt lên kỷ. Vị sư già xới cơm ra bát:

– Thí chủ dùng tạm. Cơm nhà chùa đạm bạc nhưng ai đến vãn cảnh cũng được tệ tự đãi một bữa cơm chay. Đó là thường tình chứ không phải biệt lệ gì, xin thí chủ đừng bận tâm.

Thạch Đạt Lang sực tỉnh, đưa tay áo lau mồ hôi, nhìn vị sư già thấy trên nét mặt tuy thản nhiên nhưng thoáng điểm một chút gì giễu cợt.

– Đây là dưa leo và khổ qua muối chua. Ngon lắm. Món đặc biệt của tệ tự.

Vị sư già cười nhẹ, tiếp:

– Nổi tiếng vùng này đấy ! Thí chủ từ xa đến chắc không rõ chứ ở tệ tự nhiều người làm khéo lắm. Họ gọi là dưa muối Quang Hân. Khác với những cách muối khác là có thêm chút húng quế và ớt đỏ, nhiều ớt đỏ …

Thạch Đạt Lang nói mấy tiếng cảm ơn và cầm đũa. Trong khi ăn, hắn vẫn cảm thấy mục quang sắc như dao và mạnh như kiếm thép của vị sư già phóng thẳng vào mình. Kinh mạch hắn nhộn nhạo khó chịu, chẳng biết đó là sức phản xạ mãnh liệt của chính ý chí hắn hay tạc lực ghê gớm của bậc kỳ nhân ngồi trước mặt. Thạch Đạt Lang cắn một miếng vào quả dưa, tiếng cắn ròn tan khiến hắn có cảm tưởng như nghe mũi thương đâm qua lần giáp sắt hay như một thoi quyền đánh vào mặt, khiến những đốt xương trong đầu hắn nứt rạn.

Rời khỏi Quang Minh hội, dư vị món dưa muối vẫn còn tê tê trên đầu lưỡi, Thạch Đạt Lang không quên được sự thật phũ phàng. Vị cay đắng của ớt đỏ muối với khổ qua nhắc hắn biết hắn đã thua. Bước nhanh dưới những vòm lá rậm xanh đen của hàng bách cổ thụ che khuất cả ánh mặt trời chiều đang xuống, Thạch Đạt Lang tự nhủ, chua chát:

“Ngoài khung trời này còn có những khung trời khác, cái ta hiểu thật là nông cạn. Ta đã thắng bên ngoài, nhưng bên trong, phần tâm ý …” Một con nai nhỏ nghe tiếng chân người, sợ hãi vùng chạy, lẩn vào trong bóng tối của khu rừng sâu thẳm. Sực nghĩ đến Giang, Thạch Đạt Lang quay gót theo đường cũ trở lại đền Quang Minh. Trong đền đã lên đèn, tăng chúng đi lại vội vã, có vẻ chưa hết xúc động sau biến cố vừa qua. Thạch Đạt Lang gọi cổng, đứng chờ một lúc lâu mới thấy một nhà sư bước ra. Nhà sư giật mình khi nhận ra hắn trong bóng tối chập choạng.

– Thí chủ …thí chủ quên gì chăng ?

– Tại hạ quên một điều, xin quý tự vui lòng giúp. Ngày mai hoặc ngày kia, nếu có ai đến tìm, quý tự bảo giùm là tại hạ tới trọ Ở khu bờ hồ Sarusawa. Chỗ đó nhiều phạn điếm nhưng chắc tìm cũng không khó.

– Được !

Nghe lời đáp cụt lủn, Thạch Đạt Lang không yên bụng. Hắn thêm:

– Người tìm tại hạ là một đứa trẻ mươi, mười hai tuổi. Nó tên Giang. Phiền quý tự chỉ dẫn tường tận cho.

Thạch Đạt Lang trở lại khu rừng, theo đường mòn xuống núi. Hắn không thoải mái, bực dọc với chính mình. Tuy là chuyện vặt, nhưng rõ ràng việc này chứng tỏ tâm trạng bối rối của hắn sau khi bị thua vị sư già mày trắng. Hắn chưa đủ bình tĩnh, quên cả những chuyện cần phải làm, chưa đủ trưởng thành chấp nhận lẽ hơn thua, chưa phá được sai lầm của chấp ngã thì làm sao đạt tới chân như, mục đích tối hậu của kiếm học?

Trong hai thập niên vừa qua, vùng hạ lưu sông Sai và bờ hồ Sarusawa phát triển mạnh. Nhà cửa, hàng quán đủ loại mọc lên như nấm. Mới đây, quan đầu xứ đặt bản doanh tại thị trấn gần đó nên số công sai, nha lại lui tới rất đông làm vùng này trở thành một xóm sầm uất.

Cũng như ở các nơi khác, hễ chỗ nào đông người là có người Tàu đến buôn bán.

Một người Tàu mở cửa hàng ăn chuyên nghề làm bánh bao mới đến lập nghiệp chừng một năm bây giờ đã phát đạt. Nghe nói bác ta học được nghề làm bánh chân truyền của Hồ Vọng Xương, mà bánh bao Hồ Vọng Xương thì nổi tiếng là ngon không ai bì kịp.

Thạch Đạt Lang đến xóm bờ hồ, trời đã gần khuya vậy mà hàng quán vẫn còn để đèn sáng trưng, khách ra vào tấp nập. Phạn điếm tuy nhiều, nhưng Thạch Đạt Lang kén kỹ, không dám đến những nơi có vẻ sang trọng. Hắn chẳng có bao nhiêu tiền; số bạc Tôn gia tặng đã vơi đi nhiều, tuy nhiên hắn lại muốn trọ Ở một nơi nào không đến nỗi xa mặt phố để đồ đệ dễ tìm. Thạch Đạt Lang mới ăn cơm ở chùa mà bây giờ đã đói vì phải đi một quãng khá xa từ trên núi xuống. Mùi xào nấu và mùi bánh bao vừa chín tời từ một quán ăn đưa ra ngào ngạt làm con tì con vị hắn cồn cào. Hắn đứng tần ngần dưới hiên quán ăn một lúc rồi mạnh dạn bước vào. Quán đông người, tửu bảo bận tíu tít. Thạch Đạt Lang gọi vài cái bánh bao, thấy cái nào trên mặt cũng có đóng dẫu chữ “Hồ ” đỏ chót. So với bữa cơm chay ăn hồi chiều, bánh tiệm này quả thật thơm ngon, chưa bao giờ hắn được thưởng thức bánh ngon như thế.

Thiếu nữ đứng rót trà, nhìn dáng điệu và y phục Thạch Đạt Lang khác lạ bèn hỏi:

– Qúy khách từ phương xa đến ?

– Phải.

– Qúy khách đã định trọ đâu chưa ?

Thạch Đạt Lang đương phân vân, nghe hỏi như người được gãi đúng chỗ ngứa, vội nắm ngay lấy cơ hội:

– Chưa, cô nương biết quán nào chỉ giùm. Ta ở xa đến, chẳng rõ đường lối.

– Vậy may quá. Tiểu nữ có người bà con, nhà còn dư căn phòng rộng vẫn thường để khách vãng lai đến tạm trú. Vừa dịp ông khách trước mới đi, phòng còn để trống, để tiểu nữ hỏi xem.

Rồi không đợi trả lời, nàng quay gót đi ngay, bước nhanh và gọn như bước chân chim. Lát sau, dẫn đến bàn một thiếu phụ, lông mày cạo nhẵn và vẽ cong như kiểu lông mày các phụ nữ đã xuất giá, có lẽ là vợ chủ quán. Thiếu phụ giới thiệu sơ sơ nhà trọ, tuy ở gần thị trấn nhưng yên tĩnh, thật hợp ý Thạch Đạt Lang. Hắn gật đầu ưng thuận.

– Nhà đó của bà chị ta. Qúy khách yên tâm không phải lo tiền trà nước đâu !

Thạch Đạt Lang đứng dậy, gọi tửu bảo trả tiền rồi theo thiếu phụ ra cửa.

Căn nhà có gác, ở lui vào phía trong một khu vườn nhỏ, trông ấm cúng và dễ thương lạ. Thiếu phụ gõ cửa, một tỳ nữ bước ra mở cổng. Hai người đàn bà nói nhỏ với nhau một hồi, thỉnh thoảng lại đưa mắt liếc về phía Thạch Đạt Lang. Hắn đứng xa xa, đảo mắt nhìn quanh. Gốc tùng cổ thụ bên hòn đá rêu phong, vài khóm cúc đầu mùa điểm hoa vàng lấm tấm bên hàng giậu tre thưa, gây cho hắn một cảm tình quyến luyến đặc biệt.

Người tỳ nữ mời Thạch Đạt Lang vào nhà và đưa lên phòng trên gác. Căn phòng đối với hắn thật quá sang trọng làm hắn hơi bối rối. Hắn thắc mắc không hiểu sao một gia đình vào loại khá giả như thế này lại cho khách ở trọ, bèn hỏi thì người nữ tỳ chỉ cười mà không nói.

Thạch Đạt Lang đã ăn chiều, thay quần áo đi tắm rồi vào phòng nằm nghỉ. Tuy nhiên, ý nghĩ này vẫn lởn vởn trong trí cho đến khi giấc ngủ đến nhẹ nhàng, ru hắn vào một thế giới bình yên không mộng mị.

Sáng hôm sau, Thạch Đạt Lang nói với ả nữ tỳ:

– Ta đang đợi một người nên muốn lưu lại đây một hai ngày, được không ?

– Xin quý khách tùy tiện. Chủ nhân đã đến kia !

Vừa hay một thiếu phụ trạc ba mươi tuổi bước vào, phong tư thanh nhã, nét mặt như hoa, dung nhan thật diễm lệ. Thạch Đạt Lang cúi chào, nhân thể hỏi lý do vì sao bà nhận khách trọ. Nữ lang che miệng cười chúm chím:

– Chẳng giấu gì quý khách, tiện thiếp là góa phụ. Tiên phu trước đây diễn tuồng Nô, khi còn sinh thời cũng có đôi chút danh tiếng. Thiếp sống một mình, nhiều phen sợ hãi, nhất là vào lúc này ở Nara, quân cường khấu dòm dỏ khắp nơi nên e ngại lắm.

Ngừng một chút, nữ lang lại tiếp:

– Như quý khách thấy đấy, trong vùng thiếu gì hồng lâu và quán rượu, nhưng bọn chúng vẫn chưa vừa lòng, thường tụ tập đến quấy nhiễu những tư gia lương thiện, nhất là những nhà không có đàn ông. Chúng gọi như thế là “đi thăm quả phụ”.

Thạch Đạt Lang mỉm cười:

– Thế ra phu nhân nhận khách trọ vì cần người bảo vệ đấy !

Nữ lang cười theo, cúi đầu e lệ:

– Quả vậy ! Trong nhà không có đàn ông, quý khách cứ tùy tiện ở bao lâu cũng được.

– Cảm ơn phu nhân. Xin cứ yên tâm, tại hạ còn ở đây ngày nào, sẽ cố gắng giữ an toàn cho phu nhân ngày ấy. Duy có điều, tại hạ đang đợi người thân, phiền phu nhân cho treo bảng ngoài cửa đề tên tại hạ để người quen dễ kiếm.

Nữ lang hớn hở sai nữ tỳ viết tên khách vào mảnh giấy dán ra cổng ngoài.

Thằng Giang cả ngày hôm đó không tới, nhưng trưa hôm sau có ba người ăn mặc theo kiểu kiếm sĩ giang hồ đến thăm. Nữ tỳ ra mở cổng. Bọn này chẳng hỏi han gì, gạt phắt sang bên xăm xăm bước thẳng lên lầu. Thạch Đạt Lang trông bọn họ phảng phất quen mặt, mãi sau mới nhớ ra là những người hắn đã gặp tại võ sảnh đền Quang Minh khi tỉ đấu với Cổ Bất Úy.

Phân ngôi chủ khách xong, ba kiếm sĩ tranh nhau tâng bốc Thạch Đạt Lang:

– Đại ca thật là vô địch ! Tiểu đệ chưa bao giờ thấy ai giỏi như thế ! Không phải nịnh đại ca, chứ chuyện vừa rồi lọt ra giang hồ thì Quang Minh chỉ còn nước đeo mo vào mặt.

– Phải ! Phải ! Đại ca là khách phương xa mà chỉ một nhát kiếm đã hạ đệ nhất cao thủ của thất trụ Quang Minh hội. Chà chà …

Hắn vừa nói vừa múa tay diễn lại thế kiếm của Thạch Đạt Lang.

– Đại ca biểu diễn chiêu đó vô song, không tiền khoáng hậu.

– Đúng là thánh kiếm !

– Lại còn trẻ nữa chứ ! Nhất ! Nhất !

– Phái lạc thảo võ lâm chúng đệ mới được biết đến phương danh lần này là lần đầu, rất lấy làm bội phục !

Thạch Đạt Lang nghe mà đỏ mặt. Hắn ngượng nghịu không biết đáp ra sao và cũng không biết đáp vào lúc nào nữa vì cả ba người kia tranh nhau tán tụng không ngớt miệng. Kẻ nói, người ăn bánh uống trà xì xụp, vụn bánh vãi tung tóe quanh chỗ ngồi.

Chờ cho cả bọn nói đã chán, Thạch Đạt Lang mới từ tốn hỏi danh tính. Một người xem chừng là đàn anh trong đám vội lên tiếng:

– Ấy quên ! Tiểu đệ tên là Thang Mộc, phục thị dưới trướng quan đầu xứ Nhiễm Chúc. Tên này là Châu Toàn Thông.

Rồi hất hàm về phía người thứ ba – Còn tên kia là Hoàng Dung Am, ba đời lạc thảo, bây giờ vẫn đói rách. Anh em cả mà, đại ca !

Thạch Đạt Lang tự hỏi không biết bọn này có mục đích gì, sao không nói ra mà cứ quanh co mãi. Hắn hỏi thẳng:

– Tại hạ đoán các vị đến đây chắc phải có chủ ý. Vậy xin cho biết cao kiến.

– Cao kiến mẹ gì ! Muốn mời đại ca nhập đảng mà.

Nhưng người có dáng đàn anh tên Thang Mộc trừng mắt nhìn, gạt đi và nói:

– Thật ra bọn tiểu đệ phải có mục đích chứ ! Chả là anh em tiểu đệ có dự tính tổ chức một màn thí võ dưới chân đồi Kasuga để mời bách tính đến coi, trước mua vui đánh cuộc, sau để tìm danh thủ võ lâm. Võ đài đã dựng xong rồi, nhưng bọn đệ tự thấy tài còn kém cỏi, nếu chẳng may bị thua thì bao nhiêu tiền bạc thành nước lã ra sông hết.

Thấy Thạch Đạt Lang vẫn ngồi im, hắn tiếp tục:

– Bọn đệ muốn mời đại ca hợp tác. Nếu đại ca bằng lòng thì sẽ chia tiền lời đánh cá, ngoài ra bao nhiêu phí khoản ăn uống, cư trú, bọn đệ sẵn sàng bao biện hết. Đại ca thử nghĩ coi, với tài sức của đại ca thì có lợi cho cả đôi bên, bọn đệ có tiền uống rượu mà đại ca cũng không phải lo độ nhật.

Thạch Đạt Lang cười khẩy:

– Nếu đó là những điều các vị tính toán thì chẳng nên bàn thêm nữa làm gì. Tại hạ không lưu tâm.

– Sao vậy ?

Thang Mộc ngạc nhiên hỏi:

Sự phẫn nộ của Thạch Đạt Lang thình lình nổ tung ra như tiếng sét. Hào khí bừng bừng, hắn quát lớn:

– Tại sao hả ? Tại vì ta không phải là thảo khấu ! Ta ăn cơm bằng đũa chứ không phải bằng gươm !

Bọn kia ngạc nhiên há hốc mồm:

– Thế nghĩa là thế nào ?

– Chúng bay không hiểu ư, đồ ngu ! Ta là kiếm sĩ, suốt đời sẽ giữ danh dự kiếm sĩ, dù có phải chết đói cũng không theo chúng bay, hiểu chưa ? Bây giờ thì cút đi !

Một tên trong bọn nhép miệng định nói gì lại thôi. Thang Mộc mặt đỏ như gấc, lắp bắp:

– Được rồi ! Ngươi sẽ biết tay !

Chúng nhất tề đứng dậy nhưng biết dù cả ba hợp lực lại cũng khó mà địch nổi Thạch Đạt Lang nên hỗn độn rút ra cửa. Rời khỏi phòng, rầm rập xuống lầu, chúng vẫn còn day tay mắm miệng làm ra vẻ đe dọa.

Tối hôm đó trời sáng trăng suông. Sương đêm mờ mờ, cả khu vườn như tắm trong một màn khói mơ hồ trắng đục. Chủ nhân mời Thạch Đạt Lang xuống dùng cơm chiều, đãi hắn một vài món đặc biệt do chính tay bà nấu và rượu sa-kê hảo hạng. Men rượu thấm dần vào da thịt, hắn say phơi phới.

Trở lên phòng trọ, ngồi dựa lưng bên kỷ, Thạch Đạt Lang nghĩ ngợi mông lung.

Hắn nhớ đến Ngộ Không, vị lão tăng kỳ dị, sự thua kém của mình rồi khẽ lắc đầu:

“Thật xấu hổ !”.

Những địch thủ trước đây hắn đã giết hoặc đánh bị thương trên bước đường giang hồ, chẳng bao giờ hắn nghĩ đến. Chúng như những bông tuyết tan đi khi ánh mặt trời chiếu tới, nhưng với Ngộ Không thì khác hẳn. Hình ảnh vị sự già với đôi mắt sáng quắc, sâu thăm thẳm và đầy ma lực cùng với những tràng cười hăng hắc theo đuổi hắn mãi không thôi. Một cảm giác thua kém khó chịu làm hắn bực bội.

Hay kiếm đạo tự nó không phải là cứu cánh. Hắn tự học kiếm, không đủ khách quan để lượng giá kỹ thuật của chính mình, nay gặp thất bại lại càng nghi ngờ. Ngộ Không nói công lực hắn quá mạnh, cần kềm chế, hắn thật không hiểu. Từ trước đến nay, hắn vẫn cho công lực là căn bản. Công lực mạnh đâu phải là khuyết điểm ! Ngày trước hắn không ưa suy nghĩ, chỉ hành động theo bản năng. Sau khi ở thạch thất ra, qua nhiều năm đọc sách và suy tư, hắn đã trở thành người khác:

việc gì làm cũng không khỏi qua nhận thức, phán đoán rồi mới chấp nhận hay gạt bỏ. Không những đối với những thế kiếm hắn sáng tạo ra mà còn trong mọi cách cư xử. Hay Ngộ Không muốn nói đến công lực tinh thần, sức mạnh nội tâm man rợ hắn chưa kềm chế được chứ không phải công lực thể chất. Có thể vậy lắm. Vị sư già không biết đã nhận thức được như thế hay chỉ đoán mò …

Thạch Đạt Lang nhức đầu không nghĩ nữa. Để tự trấn an, hắn cho rằng sự hiểu biết thuần túy sách vở chẳng ích lợi gì. Đối với một kiếm sĩ, chậm một sát na có thể mất mạng. Nếu gặp đối thủ ngang tài thì liệu vị lão tăng kia còn sống nổi không, nếu chỉ trong một thoáng, ông chớp mắt ?

Bước chân vội vã lên thang gác làm hắn tỉnh mộng. Nữ tỳ vào phòng, theo sau là Giang. Da Giang vốn đen, bấy giờ trông càng sậm lại vì nắng gió và bùn đất, tóc phủ đầy bụi như rắc một lượt phấn trắng. Thạch Đạt Lang mừng rỡ đứng lên giơ hai tay đón tên học trò nhỏ. Giang ngồi bệt xuống sàn thở dốc:

– Mệt quá !

– Con tìm ta có dễ không ?

– Dễ gì ! Con muốn bỏ cuộc luôn, chỗ nào cũng xông vào mà không thấy. Sao thầy lại ở đây ?

– Vậy con không hỏi đền Quang Minh à ?

– Có chứ, nhưng họ không biết thầy là ai.

– Vậy hả ?

Mắt Thạch Đạt Lang khép nhỏ lại:

– Ta đã nói rõ nhờ họ chỉ con đến khu này mà ! Nhưng thôi, gặp được con là mừng rồi. Đói không ?

Giang không trả lời, tháo ống quyển trên cổ đưa Thạch Đạt Lang:

– Đây là thư Hoa Sơn phúc đáp. Con không tìm được ông Mãn Hà Chí nhưng đã nhờ người nhắn tin cho ông ấy biết.

– Vậy tốt. Bây giờ đi tắm rồi xuống nhà ăn cơm.

Thạch Đạt Lang mở thư đọc. Sĩ Khánh nhận lời thách đấu, sẵn sàng gặp hắn vào mùa xuân năm sau, nếu không đến thì hắn bị coi như hèn nhát và phái Hoa Sơn sẽ yết cáo thị khắp nơi thông báo chuyện đó để giang hồ biết. Nét chữ xiêu vẹo, lời thư huênh hoang, tuồng như không phải do chính chưởng môn phái Hoa Sơn viết.

Đọc thư xong, Thạch Đạt Lang châm lửa đốt. Tàn tro bay cao lập lờ trên không như những cánh bướm đen rồi chậm rãi rơi xuống sàn. Hắn lơ đãng nhìn tàn tro, lòng buồn vời vợi. Sang năm, cuộc gặp gỡ xảy ra hiển nhiên không phải là cuộc gặp gỡ tầm thường, nhưng là một cuộc tỷ đấu sinh tử giữa một môn phái đông người và hắn, một kiếm sĩ cô thế.

Thạch Đạt Lang chấp nhận cuộc sống giang hồ không có ngày mai. Sống bữa nay chưa biết hoàng hôn hôm sau ra sao, mình hay Sĩ Khánh sẽ giống như cánh bướm đen kia, âm thầm rã mục cùng cây cỏ ? Ý nghĩ ấy làm hắn thở dài ảo não. Còn bao nhiêu việc phải làm, hắn muốn trở nên một kiếm sĩ trừ gian khử bạo, nhưng cho đến nay vẫn chưa thực hiện được điều gì theo sở nguyện. Lòng Thạch Đạt Lang lúc này còn vướng mắc nhiều ham muốn:

tiền bạc, ngựa xe, kẻ hầu người hạ, một căn nhà ấm cúng với vợ con quấn quít. Đôi khi hắn mơ một mối tình nồng nàn, nhưng suốt trong những năm theo đuổi kiếm học, chưa có lúc nào có hay không dám có một người tình. Thạch Đạt Lang đã đi nhiều nơi, gặp nhiều phụ nữ khả ái, không phải chỉ khuôn mặt kiều diễm của họ làm hắn ưa thích mà đôi khi lòng khao khát xác thịt của tuổi dậy thì bừng bừng nổi dậy làm hắn khó chịu. Hắn phải dẹp đi không nghĩ đến nữa.

Những ý tưởng lan man đưa hắn nhớ đến Oa Tử. Con người hiền dịu ấy, hắn coi như cô em gái dễ thương, lần cuối cùng gặp mặt cách đây thế mà hơn một năm rồi, nhưng mỗi khi nghĩ đến, hắn không khỏi bâng khuâng xúc động.

Ngồi mơ mộng chẳng biết bao lâu, khi Giang ăn cơm xong lên phòng, hắn mới bừng tỉnh. Thằng bé tắm sạch sẽ, đã thay áo mới, đến ngồi nghiêm túc bên kỷ trà. Nó hãnh diện làm xong nhiệm vụ thầy giao phó, nhưng mỏi mệt không còn liến thoắng nữa, một lúc sau ngủ gục ngay trên chiếu. Thạch Đạt Lang cúi xuống bế nó lên giường.

Mặt trời vừa mọc, Giang đã tỉnh dậy cùng với tiếng chim sẻ ríu rít. Thạch Đạt Lang cũng dậy sớm vì hắn có ý định rời Nara ngay ngày hôm đó. Đương xếp hành trang thì bà chủ vào, hai tay ôm một hộp quần áo.

– Nghe nói quý khách ra đi, sao vội thế ?

– Phu nhân tha lỗi, tại hạ có chuyện cần.

– Qúy khách lưu lại nơi đây thời gian tuy ngắn ngủi, nhưng cũng làm cho cảnh nhà đỡ lạnh lẽo, nên có món quà mọn này tặng quý khách. Xin đừng từ chối.

Góa phụ mở hộp lấy ra một chiếc kimono lụa và một áo khoác ngoài bằng gấm, nét vẽ đơn sơ nhưng trang nhã. Thạch Đạt Lang ngạc nhiên trố mắt nhìn không hiểu.

– Những món này là của tiên phu, trong nhà còn nhiều lắm. Thiếp đã sửa lại cho vừa, nếu quý khách không nhận, thiếp cũng chẳng biết làm gì. Để vô dụng uổng lắm.

Trước sự thành tâm của thiếu phụ, Thạch Đạt Lang không tiện từ chối, đành cảm ơn và líu ríu vâng lời như đứa trẻ khi mẹ bảo thử áo. Nữ lang vòng ra phía sau, cầm áo cho hắn xỏ tay. Hắn bẽn lẽn, mặt đỏ rừ.

– Khéo như in, vừa lắm rồi !

Giang đứng bên, hai tay chắp sau lưng, ngắm nghía:

– Thế còn cháu, phu nhân cho cháu cái gì ?

Nữ lang cười vui vẻ:

– Cháu đi theo sư phụ tài ba này, đẹp trai này, còn đòi gì nữa ?

Nó dỗi:

– Áo cũ mèm, đẹp nỗi gì ?

– Thế cháu muốn thứ gì ?

Giang chạy ngay ra hành lang, gỡ chiếc mặt nạ tuồng Nô treo trên vách rồi nói:

– Cháu muốn cái này !

Giang đã để ý chiếc mặt nạ ngay từ sáng sớm, thích lắm. Nó cầm chiếc mặt nạ trong tay, áp vào má để thấy cảm giác mát rượi của thớ gỗ. Thạch Đạt Lang ngạc nhiên vì trình độ thẩm mỹ của thằng bé. Hắn cũng đã để ý đến chiếc mặt nạ ngay từ khi mới đến trọ, khen công trình điêu khắc của người làm ra nó tinh vi và sống động. Mặt nạ không biết làm từ thời nào nhưng chắc là xưa và đã được dùng nhiều trong những màn vũ long trọng. Không giống như những chiếc khác sơn vẽ lòe loẹt, mặt nạ này để mộc, có những nét thanh nhã của gương mặt một thiếu nữ nhan sắc. Duy một điều mép bên trái nhếch cao lên phô hàm răng trông dễ sợ với những sợi tóc thưa rủ xuống dài và đỏ quạch. Không phải mặt một người thường mà là mặt của một thiếu nữ điên dại.

– Không được ! Cái đó không được đâu !

Nhưng Giang đã đeo mặt nạ lên đầu, tránh né bà chủ vừa cười vừa đuổi theo nó chạy quanh phòng.

– Phu nhân cho cháu ! Bây giờ phu nhân còn dùng cái này làm gì ?

Thạch Đạt Lang bối rối vì cử chỉ của tên đồ đệ, quát:

– Giang !

Rồi giơ tay định túm lấy nó. Giang nhanh nhẹn luồn qua tay sư phụ, chạy xuống lầu. Nữ lang đuổi theo, tuy không tỏ vẻ gì phật ý, nhưng rõ ràng không muốn để mất chiếc mặt nạ.

Thạch Đạt Lang thu dọn xong, ngồi trên bực gỗ định đợi tên tiểu đồ về sẽ trách mắng. Bỗng Giang ở đâu chạy ra “òa” một tiếng. Hắn giật bắn mình đứng phắt dậy.

Trong cảnh tranh tối tranh sáng của căn phòng, thằng bé trông như con quỷ, mép nhếch lên, tóc buông dài xõa ra sau gáy. Thì ra nó đeo cái mặt nạ dữ tợn và sinh động đến nỗi Thạch Đạt Lang không ngăn nổi hồi hộp.

– Giang ! Sao chưa trả lại cho bà chủ ?

– Bà chủ cho con rồi mà !

– Nói bậy ! Cho lúc nào ?

– Mới đây, ở ngoài vườn. Con đã trả cho bà, nhưng bà nghĩ lại, lại cho con. Bà bảo nếu con thích thì cứ giữ, nhưng phải giữ cẩn thận. Con đã hứa với bà rồi !

– Thật cái thằng này ! Ta chẳng biết phải xử trí ra sao nữa !

Thạch Đạt Lang chưa giúp được nữ lang điều gì mà đã nhận áo, nay học trò lại lấy chiếc mặt nạ mà bà ưa thích. Hắn ngượng, muốn trả ơn nhưng thấy bà chẳng cần tiền, món tiền nhỏ của hắn chỉ tổ mua cười, mà trong hành trang hắn chẳng có vật gì đáng giá.

Hắn xuống lầu gặp bà chủ, ngượng ngùng xin lỗi về hành động vô lễ của học trò và cầm chiếc mặt nạ hoàn lại. Nhưng nữ lang cười, nói:

– Không ! Qúy khách chẳng nên quản ngại. Nghĩ cho cùng, thiếp chẳng dùng nó làm gì mà thằng bé có vẻ thích lắm. Cái đẹp nhất và đẹp mãi là cái đẹp mình dành cho người khác thưởng ngoạn, có phải không quý khách ?

Thạch Đạt Lang cảm động cúi xuống buộc lại quai dép.

Từ giã căn nhà trọ, mới đi được vài bước, hai thầy trò thấy vợ người chủ quán bán bánh bao hớt hải chạy đến:

– Khách quan ! Khách quan ! Dừng lại đã …

Bà ta thở hổn hển, giọng lạc đi:

– Quang Minh hội biết tin khách quan ra đi nên cho người phục kích ngoài cách đồng Hannya. Đông lắm …

– …

– Có cả vị thủ tòa nữa. Trượng phu ta biết chuyện, bảo đến báo khách quan hay.

– Thật ư ? Sao lại có chuyện đó ?

– Không biết, nhưng rất nguy hiểm. Khách quan nghĩ lại, tránh voi chẳng xấu mặt nào, hãy lưu lại đây vài ngày, chờ tối trời lẻn đi đừng để ai biết …

Thạch Đạt Lang bình tĩnh:

– Phải chăng đại nương nói họ đợi tại hạ Ở đồng Hannya ?

– Không rõ địa điểm có đúng không nhưng thấy đi về hướng ấy. Ngoài chư tăng ra còn nhiều tay kiếm giang hồ khác nữa. Khách quan có nói xấu gì đền Quang Minh hay làm điều gì xúc phạm đến các vị ấy không ?

– Không.

– Hình như tăng chúng trong đền giận dữ về việc khách quan sai người yết bảng khắp nơi làm nhục họ, vẽ hình một vị tăng bị chém chết.

– Họ lầm. Tại hạ đâu có thuê ai yết bảng bao giờ.

– Vậy thì khách quan lại càng không nên chết vì việc người khác làm bậy.

Thạch Đạt Lang ngước nhìn trời, tư lự. Hắn nghĩ tới ba tên du đãng tới thăm hắn bữa trước, có thể chính chúng đã đồn đại và phao vu cho hắn thuê chúng làm nhục Quang Minh hội. Chí đã quyết, Thạch Đạt Lang nói:

– Tại hạ cám ơn, nhưng không thể lưu lại được.

Rồi xốc lại hành lý trên vai, hắn bảo Giang:

– Đi con !

Nữ lang chủ trọ thấy ồn ào ngoài cổng, chạy ra nghe chuyện, giữ hắn lại.

– Tại hạ phải đi. Còn lưu lại ngày nào chỉ gây thêm phiền phức cho phu nhân mà thôi !

Nước mắt chạy quanh, nữ lang khẩn khoản:

– Không sao, không phiền gì hết ! Qúy khách ở lại an toàn hơn.

– Không được ! Giang, con cám ơn phu nhân đi rồi lên đường.

Nghe lời sư phụ, Giang cúi chào cảm ơn hai người đàn bà. Nó cũng sụt sịt, không phải vì tiếc phải từ giã một nơi êm ấm nhưng vì lo lắng. Nó chưa rõ tài năng của người nó thờ làm sư phụ. Ở Kyoto, người ta vẫn cho thầy nó là tên khiếp nhược. Nghĩ đến bao nhiêu cao thủ Quang Minh đang chờ thầy trò nó để ra tay, Giang sợ hãi quá chừng.

Trong trái tim bé bỏng của nó, một nỗi lo âu dâng lên tràn ngập.

Chương 16: Đồng cỏ hoang

Giang lầm lũi theo chân sư phụ, cúi đầu đi, buồn rầu không nói. Đối với nó, mỗi bước đi là một bước dẫn dần đến cái chết chắc chắn. Những giọt sương đêm còn đọng lại trên tàn cây rậm rạp và ẩm ướt ven đường thình thoảng lại rơi xuống gáy, chui vào cổ lạnh buốt. Nó rùng mình. Đàn quạ đen thấy động vỗ cánh bay, tiếng kêu khàn khàn ghê rợn. Quạ bay trên đầu là điềm gở, Giang nghĩ thầm trong bụng và càng thêm sợ hãi.

Hai thầy trò đi một lúc khá lâu, đã xa cổ thành đến vài dặm. Qua hàng tùng cổ thụ, đường đồi thoai thoải dốc xuống dần, bên kia là đồng cỏ hoang Hannya, màu xanh chỗ đậm chỗ nhạt từng mảng, di chuyển theo bóng mây. Trời nhẹ và trong, tươi mát, khác hẳn với lòng thầy trò Giang ngổn ngang trăm mối.

Giang thấy thầy mình cứ xăm xăm đi tới thì lấy làm lạ. Đồi bên kia chẳng có chỗ nào để ẩn nấp, trừ vài tảng đá lớn nhô cao trên nền cỏ dại. Đi như thế chẳng khác gì làm bia cho địch. Nếu tăng sĩ phái Quang Minh trông thấy thì làm sao trốn kịp ? Giá như nó, nó sẽ trốn trong rừng hoặc vào tạm trú trong ngôi miếu hoang nào đó, chờ tối mới qua đồng cỏ. Như vậy an toàn hơn. Mặc dầu Thạch Đạt Lang không nói, nhưng Giang nghĩ có lẽ thầy nó muốn gặp vị thủ tòa để xin lỗi. Nó không biết phải trái về ai và sư phụ mình đã làm gì để phật lòng các vị, nhưng nếu Thạch Đạt Lang xin lỗi thì nó cũng sẽ rập đầu lạy theo để được tha mạng. Tránh voi chẳng xấu mặt, lúc này không phải lúc cạnh tranh ai hơn ai kém.

– Giang !

Giang giật mình nghe tiếng gọi. Mặt nó tái đi, tưởng chừng như thầy đã đọc được hết những ý nghĩ thầm kín trong đầu. Nó không dám nhìn sư phụ, chỉ khẽ “dạ” rồi đứng sững ngước mặt lên trời. Thạch Đạt Lang đăm đăm nhìn, làm nó càng thêm bối rối. Một lúc sau, bằng một giọng nửa an ủi, nửa bông đùa, thầy nó nhẹ nhàng hỏi:

– Trời đẹp quá ! Tiếng họa mi hót đó, con nghe thấy không ?

– Tiếng họa mi ?

– Ừ, tiếng họa mi ! Con không nghe tiếng chim hót ư ?

Nhìn nét mặt xám ngắt của tên tiểu đồ, Thạch Đạt Lang cảm thấy tội nghiệp. Hắn thương thằng bé ít tuổi đã phải xông pha. Đối với Giang bây giờ, cảnh có đẹp, chim hót có hay, nó cũng không màng. Sáng nay, qua chiếc mặt nạ, đôi mắt nó long lanh tinh nghịch, giờ đây nặng trĩu những ưu tư và lo lắng. Hắn nói:

– Ta chia tay ở đây thôi ! Con còn nhỏ, theo ta chỉ thêm bận. Nếu ta mệnh hệ nào, ai người bảo vệ cho con. Để con sa vào ổ mai phục này, lòng ta không nỡ !

Giang không đáp, nước mắt trào ra. Nó bậm môi, lấy tay áo quệt ngang, đôi vai non dại rung rung rồi bật lên tiếng nức nở. Giang khóc ngất, tưởng chừng lần chia tay này là vĩnh biệt, không bao giờ còn mong gặp lại thầy nữa. Giang níu áo sư phụ, giậm chân xuống đất bành bạch, những tiếng nấc nghẹn ngào không làm nó nói được lời nào.

Thạch Đạt Lang nhẹ nhàng vỗ về:

– Không ! Ta không bỏ con đâu ! Trên bước đường hành hiệp, đây là bài học đầu tiên. Ra nấp sau tảng đá trên ngọn đồi kia nhìn cho kỹ. Nếu ta thoát về hướng nào, chạy theo hướng ấy ; nếu không, trở về Kyoto đến trú tạm ở quán rượu cũ.

Nhưng Giang vẫn không nín. Nó run run nắm áo sư phụ lôi vào ven đường, ngập ngừng:

– Hay thầy với con trốn đi ?

– Không được ! Kiếm sĩ gì mà hèn thế ? Con muốn thành kiếm sĩ không ?

– Nhưng con sợ. Chắc chết mất ! Thầy không đánh lại họ được đâu !

Và lôi Thạch Đạt Lang vào sau lùm cây, Giang khẩn khoản:

– Nghe con đi thầy ! Con xin thầy ! Bây giờ ta trốn còn kịp.

Thạch Đạt Lang giật mạnh tay áo, quắc mắt nhìn Giang:

– Không ! Ta là kiếm sĩ, con là giòng dõi kiếm sĩ, không trốn được !

Trước thái độ cương quyết của sư phụ, Giang không dám nói gì thêm. Nó ngồi phịch xuống đất, kéo vạt áo lau mặt. Bụi đất cùng nước mắt quyện vào nhau làm nhem nhếch thêm khuôn mặt vốn đã đen đủi của nó.

– Cứ yên tâm, ta sẽ thắng ! Không việc gì phải hoảng sợ !

Nhưng lời trấn an của Thạch Đạt Lang không làm Giang yên bụng. Nó không tin thầy nó sẽ thắng. Ngay một chọi một cũng chưa chắc ăn chứ đừng nói gì thầy nó phải chống lại cả hàng chục người, mà toàn là những tay cao thủ. Huống chi trong thâm tâm nó, Thạch Đạt Lang vẫn chỉ là một tay kiếm giang hồ không tên tuổi, lại mang tiếng hèn nhát.

Tiếng khóc thút thít của Giang làm Thạch Đạt Lang khó chịu. Tuy yêu thương và tội nghiệp đồ đệ, nhưng trong hoàn cảnh này, hắn hối hận đã để nó theo bên mình. Hắn ỷ vào sức mạnh và lưỡi gươm bén đeo bên sườn, nhưng biết đâu …Kẻ địch quá đông, ở đời nhiều sự bất ngờ không thể lường trước được. Dưới đồng cỏ kia, bao nhiêu người đang chờ giết hắn, cuộc chiến đấu sẽ là một trận sinh tử khốc liệt, không phải để đo lường hơn kém mà để giành lấy sự sống. Tiếng khóc cùng nét mặt sợ hãi đến ngơ ngác của thằng bé làm hắn bực mình. Thạch Đạt Lang phát bẳn:

– Thôi câm đi ! Mày còn khóc, ta không nhận mày làm đồ đệ nữa. Hèn như thế thì ở xó nhà bưng rượu có hơn không ?

Và lấy tay đẩy nó ngã lăn ra vệ đường, Thạch Đạt Lang bỏ đi như chạy.

Giang ngạc nhiên lồm cồm bò dậy, kéo vạt áo chùi mũi. Nó muốn gọi sư phụ, muốn chạy theo, nhưng nghĩ sao lại ngồi im, môi mím chặt. Rừng vắng. Gió thổi rì rào.

Đâu đây, một hai tiếng chim lảnh lót càng làm khu rừng thêm quạnh quẽ. Sự vắng lặng lùa vào tâm hồn non dại của nó một nỗi cô đơn không bút nào tả xiết.

Thạch Đạt Lang bước nhanh, không nhìn lại. Tiếng khóc của tên học trò nhỏ như còn văng vẳng bên tai, tia mắt sợ hãi của nó vẫn như theo sau gáy, van lơn và cầu khẩn.

Cây rừng mỗi lúc một thưa. Cỏ dại mọc cao quá đầu gối bắt đầu che lấp cả lối đi, đứng xa chục bước không nhìn rõ đâu là đường nữa. Đột nhiên từ sau một tảng đá lớn, một bóng người nhảy vọt ra, giơ cao tay chào đón:

– Thạch Điền đại huynh, đại huynh đi đâu vậy ?

Thạch Đạt Lang đứng khựng lại, tay nắm đốc kiếm. Khi nhận ra đó là Thang Mộc, một trong ba tên du đãng đã đến thăm hắn bữa trước ở nhà trọ tại cổ thành, hắn yên tâm mỉm cười đáp lễ.

– Gặp lại đại huynh thật là vạn hạnh. Tiểu đệ xin đại huynh đại xá cho về tội đã xúc phạm đại huynh bữa trước.

Giọng gã ngọt như mía lùi. Vừa nói, Thang Mộc vừa đưa mắt liếc ngang Thạch Đạt Lang để dò phản ứng.

– Hôm ấy tiểu đệ nói năng thật vô lễ, mong đại huynh thứ lỗi.

Thang Mộc đã chứng kiến tận mắt trận đấu giữa Thạch Đạt Lang và Cổ Bất Úy tại võ sảnh đền Quang Minh, nghĩ đến hãy còn rùng mình. Nhưng gã vẫn nghi hoặc. Một người trẻ như vậy, lại vô danh trong giới giang hồ không thể có ngón đòn thuần thục và kinh nghiệm già dặn mức đó, nên gã không tin Thạch Đạt Lang có thể thoát khỏi tay bọn gã phen này, nhất là bọn gã lại được sự trợ giúp của Quang Minh hội. Nghĩ thế nhưng Thang Mộc vẫn dùng giọng ngọt sớt, hỏi lại:

– Đại huynh đi đâu ?

– Tại hạ theo sơn đạo này ra đại lộ Ise, bằng hữu nghĩ có tiện không ?

– Tiện chứ ! Tiện chứ ! Tiểu đệ cũng ra đó để đi Phương Lâm. Ta làm bạn đồng hành, thật không gì thú bằng !

– Phương Lâm chắc gần Trúc Lâm ?

– Gần. Trúc Lâm cốc là nơi Trúc Mộ Chính ở ẩn. Đại huynh nên đến đấy một lần xin yết kiến vị kiếm sĩ đại danh này. Tuổi lão đã cao, nghe nói bây giờ chỉ chuyên về trà đạo, nhưng kinh nghiệm kiếm học của lão không phải là không bổ ích.

– Bằng hữu nói phải lắm. Nhưng tại hạ chẳng có danh vọng gì, e người không cho gặp mặt.

Vừa đi vừa chuyện vãn, nhưng Thạch Đạt Lang không bỏ sót một cử chỉ nào của kẻ đồng hành. Hắn đi sau Thang Mộc chừng hai bước, luôn luôn cảnh giác đề phòng. Đồng cỏ xanh mướt trải dài trước mặt, đây đó vài gốc cổ tùng mọc trơ trọi, tàng lá xanh đen in rõ như cắt trên nền trời trong sáng. Dưới một gốc cổ thụ, lẩn sau đám loạn thạch, có vệt khói bốc lên nhẹ như tơ. Thạch Đạt Lang ngạc nhiên cất tiếng hỏi:

– Gì vậy ?

– Cái gì ? Đại huynh thấy gì ?

– Khói.

– Khói thì có gì là lạ ! Chắc tụi mục đồng tụ họp. Đâu ? Khói đâu ?

Thạch Đạt Lang đưa tay chỉ về phía trước mặt:

– Đằng kia. Khả nghi quá !

Lời nói chưa dứt, một tiếng “soạt”. Cả thân hình Thang Mộc đâm chúi về phía trước. Gã không ngờ khi mãi nhìn theo ngón tay chỉ, Thạch Đạt Lang đã rút kiếm ra từ bao giờ và đâm xéo vào hông gã suốt lên đến ngực. Thạch Đạt Lang rút kiếm khỏi sườn tên du đãng, xác gã đổ xuống như cây mục, mặt úp sấp, tay chân quều quào. Một giòng máu từ vết thương rỉ ra, loang đỏ áo ngoài.

Đằng xa, hai bóng người chạy tới. Trông thấy Thạch Đạt Lang đứng vững bàn như núi bên xác Thang Mộc, tay cầm thanh kiếm lấp loáng ánh dương quang, đầu mũi kiếm chúc xuống, máu tươi còn nhỏ giọt, chúng kêu lên một tiếng kinh hãi, quay đầu bỏ chạy.

Thạch Đạt Lang leo lên mô đất dưới gốc cổ tùng. Da hắn nóng bỏng, bắp thịt căng ra như sắp nổ tung. Bản năng thú vật trong cơ thể hắn bùng dậy mãnh liệt. Cơn gió mát mùa xuân không làm dịu đi chút nào cảm giác hừng hực tựa lửa đốt trong người. Đứng trên mô đất, hắn phóng mục quang nhìn xuống sườn đồi cách chỗ hắn chừng vài trượng.

Nhóm người lố nhố chỉ trỏ. Thạch Đạt Lang nhận dạng được hai tên trước đây cùng đi với Thang Mộc đến thăm hắn tại nhà trọ. Cùng với các tăng sĩ Quang Minh, bọn người chờ giết hắn đông có đến ba chục chứ không ít.

– Nó đấy ! Nó đã đến đấy !

Toán mai phục phần lớn toàn là những tay giang hồ lạc thảo, chuyên sinh nhai bằng nghề cướp của giết người hay những hành động bất lương khác. Số còn lại gồm chừng một chục tăng nhân mang trường mâu hình thù cổ quái, đuôi rắn đầu rồng; có kẻ cầm binh khí giống như hai ngọn bút viết, đầu nhọn hoắt.

Nhìn Thạch Đạt Lang đứng trên đỉnh đồi, nét mặt dữ tợn tựa hung thần, bọn thảo khấu ớn lạnh xương sống. Gió mát thổi hiu hiu mà ai nấy đều nổi gai ốc. Chúng không ngờ ổ mai phục của chúng bị phát giác sớm như vậy. Cuộc chiến đã bắt đầu. Thay vì lừa Thạch Đạt Lang vào bẫy, chúng đã để cho Thạch Đạt Lang chiếm thượng phong và giết mất của chúng một tay cao thủ.

Nhưng mũi tên bắn đi không giữ lại được nữa. Bọn mai phục chia làm hai toán tỏa ra hai bên sườn đồi, cốt ý không để Thạch Đạt Lang trốn thoát. Một bên là những tay giang hồ thảo khấu khét tiếng vùng Nara, một bên là các tăng sĩ Quang Minh hội, tay áo màu vỏ dà thẫm xắn cao, đầu cạo trọc, đằng đằng sát khí như quỷ A Tỳ , sẵn sàng trả thù cho đồng đạo.

Bị bao vây, Thạch Đạt Lang vẫn không tỏ vẻ bối rối. Hắn chậm rãi di chuyển từng bước, thanh trường kiếm nắm chắc trong tay, mắt sắc như mắt vọ tìm chỗ sơ hở của cả hai toán để xuất thủ. Mặt hắn đanh lại, chỉ đôi mắt là linh động, mắt một dã thú chờ mồi !

Không khí nặng những đe dọa. Hai bên cùng gờm nhau, không thốt một tiếng.

Phái thảo khấu và Quang Minh có vẻ lạc quan hơn vì cậy đông người, nhưng Thạch Đạt Lang tập trung tinh thần vào nhát kiếm đầu tiên hơn cả. Chí hắn đã quyết. Những tên du đãng lạc thảo thường ô hợp và vô kỷ luật, hạ một tên dễ làm nhụt chí những tên khác.

Hắn sẽ áp dụng chiến thuật giương đông kích tây, vờ tấn công phái tăng lữ trước để rồi xuất kỳ bất ý quay ngược kiếm lại phá vòng vây phía sau thoát hiểm. Vừa khi đó, một tăng sĩ đứng đằng xa dõng dạc lên tiếng:

– Thạch Điền ! Ta là Vô Tướng, thủ tòa Quang Minh hội đây ! Ngươi đã giết Cổ Bất Úy lại còn cả gan cáo yết khắp nơi nhục mạ bản tòa. Có đúng vậy không ?

– Không đúng. Ta không có lý do gì làm vậy ! Đại sư giữ chức vị thủ tòa, phải biết suy xét. Cứ nghe lời đồn đại rồi tin là thật, sao hồ đồ quá thế !

Phái tăng sĩ ồ lên giận dữ. Họ cho lời nói của Thạch Đạt Lang xấc láo. Bọn thảo khấu phía sau cũng phụ họa, mỗi người một câu đổ tội cho hắn. Thạch Đạt Lang chỉ đợi có thế. Trong lúc cả bọn phân tâm, hắn thét lên một tiếng long trời lở đất rồi như cọp dữ vồ mồi, nhảy chéo về phía sau đến sát tên gần nhất. Một tiếng gió rít, một tiếng “phập” như người chặt chuối, tiếng thét ghê rợn bị cắt đứt nửa chừng, tiếng thân người đổ xuống, tất cả chỉ trong nháy mắt. Máu phun có vòi, đầu tên thảo khấu lăn lông lốc văng ra khỏi mình đến hơn một trượng.

Trong tiếng kêu thất thanh hỗn loạn, Thạch Đạt Lang tựa cọp dữ giữa đàn dê, tung hoành vung kiếm né tả đâm hữu. Tiếng binh khí rít lên vù vù. Lưỡi gươm bén của hắn chém xương thịt người ngọt và gọn gàng như gọt khoai vậy ! Cánh tay, ngón tay, óc lẫn mảnh sọ còn dính tóc bay tung tóe. Áo ngoài hắn loang lổ những máu, tay cầm kiếm đã bắt đầu nhớp nháp. Mồ hôi trộn lẫn máu chảy xuống mắt làm hắn khó chịu. Chỉ trong khoảng chừng nửa khắc, số người chết nằm la liệt dưới cỏ và đám loạn thạch đã lên đến hàng chục. Số còn lại kinh hoảng cùng cực, vừa đánh dứ vừa lui ra xa dần, miệng la hét kêu tăng sĩ Quang Minh đến trợ giúp.

Giang nấp sau tảng đá bên kia đồi, mắt mở to đến nứt kẽ, chăm chú nhìn sư phụ chiến đấu. Nó không ngờ Thạch Đạt Lang dũng mãnh như thế. Một niềm hân hoan và hãnh diện dâng lên, Giang nín thở khi thấy thầy bị bao vây, rồi phá vòng vây giết bao nhiêu kẻ địch. Nó khấn thầm trong bụng:

“Lạy Trời, lạy Phật, lạy đức Bồ Tát từ bi, xin các ngài giúp thầy con thắng trận, con sẽ không quên ơn các ngài. Con sẽ đốt thật nhiều hương cúng các ngài. Thầy con là Thạch Điền Đạt Lang là người rất tốt, hôm nay vì bị đánh bất ngờ nên phải giết nhiều người. Mọi hôm, ông hiền lành, thỉnh thoảng có uống chút rượu nhưng không làm điều gì quấy. Xin trời Phật thương ông, giúp ông !” – Úi cha ! Thằng bên trái thầy ơi !

Đương khấn, Giang thấy có kẻ đánh lén, vội kêu to báo cho thầy biết. Nhưng ở xa, tiếng nó loãng đi trong khoảng không, làm sao nghe rõ. Tuy thế Thạch Đạt Lang cũng né mình tránh kịp và thuận tay đưa ngược mũi kiếm về phía sau. Một tiếng thét, một thân người ngã gục. Giang chồm dậy vừa nhảy vừa la, vui mừng như chính nó mới đánh thắng kẻ địch !

Vô Tướng xốc lại áo, nắm chặt trường côn, hét một tiếng lớn, ra lệnh công kích.

Tăng sĩ Quang Minh không ai bảo ai, như đã có chủ đích sẵn, tản ra bốn phía bao vây cả Thạch Đạt Lang lẫn bọn thảo khấu vào giữa.

Trên đồi, Giang sợ hãi há hốc mồm, đứng sững như trời trồng. Phen này chắc chết.

Nó lẩm bẩm:

– Hỏng rồi ! Trời không thương Phật không độ rồi !

Nó chạy ào xuống đồi, nón và chiếc mặt nạ đeo đằng sau đập vào lưng bình bịch.

Mặc kệ, Giang vừa chạy vừa la lớn:

– Đếch đốt hương nữa ! Thầy ta chết, ta đếch đốt hương nữa !

Chẳng ai biết nó muốn nói gì !

Nhìn thế trận, Thạch Đạt Lang giật mình. Hắn bỏ tụi thảo khấu, lui dần về phía cây tùng già. Ít ra gốc tùng khá lớn và những hòn loạn thạch cũng giúp che cho hắn được ở phía sau, không bị bất ngờ tập hậu. Hắn đổi bộ vị luôn luôn, vừa lùi vừa di động không ngừng để tránh làm mục tiêu cho những ngọn lao của các tăng sĩ Quang Minh có thể bất thần phóng tới. Đốc kiếm hắn dính nham nháp những máu, Thạch Đạt Lang lấy tay chùi vào vạt áo. Mồ hôi đọng trên mí mắt làm hắn nhìn không rõ. Như con thú bị dồn vào bẫy, hắn tức giận cực điểm, nhất quyết phải thoát khỏi vòng vây bằng bất cứ giá nào. Nếu không thì bỏ xác trên cánh đồng hoang Hannya này, và trước khi chết, hắn sẽ đánh một trận quyết liệt rồi sẽ chết trong danh dự.

Nhưng Thạch Đạt Lang ngạc nhiên hết sức. Những tăng sĩ phái Quang Minh dường như không có ý gì muốn tấn công hắn. Ngược lại, họ quay giáo sang cả bọn du đãng không cho chạy trốn và nhất tề xông vào đâm không nới tay những kẻ mới đây là đồng minh của họ. Bọn kia ngạc nhiên chẳng kém gì Thạch Đạt Lang, đứng sững không kịp phản ứng. Trong khoảnh khắc kinh hoàng ấy, phái tăng sĩ Quang Minh mặc tình đâm chém, nhiều khi dùng đầu những ngọn giáo nhuộm đầy máu thọc hai ba lần vào những xác người đã ngã xuống hoặc còn ngắc ngoải. Tên nào thoát được, chạy trốn đều bị bọn tăng sĩ đuổi theo giết sạch.

Đứng dựa vào gốc cây, Thạch Đạt Lang vừa ngạc nhiên vừa bất bình. Hắn không hiểu tại sao phái Quang Minh lại ra tay tàn nhẫn đến thế đối với những người trước đây là bạn. Hắn, chính hắn cũng vừa mới giết người xong, không ghê tay, không hối hận, nhưng hành động của phái tăng lữ làm hắn công phẫn. Nhìn họ giết người man rợ tựa thú vật, hắn như người say tỉnh rượu. Trở lại bình tĩnh hơn, bản năng tàn bạo tự nhiên biến đâu mất, hắn chỉ còn thấy ngạc nhiên và một niềm bi phẫn vô hạn.

Đột nhiên Thạch Đạt Lang nghe tiếng động nhỏ phía sau, trong bụi cỏ gần gốc tùng. Cúi gập người giữ thế thủ, hắn nhìn kỹ. Thì ra Giang, tên học trò nhỏ đã nằm bẹp ở đó từ bao giờ. Hắn thở dài nhẹ nhõm và cảm thấy thoải mái.

Trận đấu cũng vừa kết thúc. Tuy nhiên Thạch Đạt Lang không dám khinh xuất.

Hắn vẫn đứng nguyên chỗ cũ, hai tay nắm chặt đốc kiếm, mắt trừng trừng nhìn Vô Tướng đại sư bước tới. Dáng đi của Vô Tướng ung dung, tự nhiên, nét mặt ông tươi cười không có vẻ gì thù nghịch. Đến gần Thạch Đạt Lang, ông giơ tay vồn vã:

– Thí chủ là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto phải không ? Bần tăng hân hạnh được tiếp kiến thí chủ.

Vô Tướng vóc cao lớn, phong thái đĩnh đạt, khoan thai nét mặt điềm tĩnh làm Thạch Đạt Lang vì nể. Hắn lúng túng chưa biết đáp ra sao, lau lưỡi gươm vào áo, tra vào bao rồi mới cúi đầu thi lễ.

– Bần tăng là Vô Tướng, thủ tòa Quang Minh hội.

– A ! Vậy đại sư đây vô địch về thương học. Tại hạ nghe đại danh đã lâu, bây giờ mới được tiếp kiến. Thật là vạn hạnh.

– Bần tăng rất tiếc hôm trước không có mặt ở nhà bồi tiếp thí chủ. Cổ Bất Úy tài năng kém cỏi, thật không đáng để thí chủ quan tâm.

Thạch Đạt Lang chột dạ. Vị thủ tòa Quang Minh hội ngầm có ý gì khi đề cao hắn quá đáng và không đả động gì đến việc rửa hận như thế, hắn không hiểu. Lại còn vụ tăng sĩ Quang Minh quay giáo lại giết bọn kiếm khách lạc thảo như vừa rồi nữa …

– Áo thí chủ dính đầy máu, ta lại đây nghỉ một lát, gột sạch đi chứ !

Vô Tướng dẫn Thạch Đạt Lang đến bên đống lửa. Giang lật đật theo sau. Một số tăng sĩ đã ngồi sẵn ở đó đang xé vải lau binh khí. Số khác lục tục kéo đến, vái chào Thạch Đạt Lang tỏ vẻ cung kính.

Đàn quạ đen ngửi mùi tử khí rủ nhau đến đậu đầy trên những cành thông trụi lá, tranh nhau và mổ lẫn nhau, kêu “quạ quạ” vang đông cả khu đồi hoang dã.

– Sao chúng không đáp xuống rỉa thịt mấy cái xác kia nhỉ ?

– Chúng đợi ta đi hết đã. Giống quạ như vậy, ưa thịt thối và khôn lắm.

Họ chuyện vãn những chuyện không đâu, coi như biến cố vừa xảy ra không có gì đáng lưu ý.

Thạch Đạt Lang vẫn không hiểu tại sao Quang Minh hội lúc đầu đồng lõa với bọn thảo khấu, sau lại ra tay giết sạch chúng, bèn quay sang hỏi Vô Tướng:

– Tại hạ có điều muốn xin chỉ giáo. Khi ở Nara, tại hạ được biết quý hội sẽ cho người mai phục giết tại hạ tại đây nên tại hạ đã quyết tâm chống cự. Không hiểu sao bây giờ lại đổi cách cư xử như vậy ?

Vô Tướng mỉm cười:

– Có gì đâu ! Bữa nay bản hội muốn thanh lọc hàng ngũ, gạt bỏ những phần tử xấu xa làm ô uế võ lâm nên mượn tay thí chủ giúp đỡ. Quả nhiên thí chủ chẳng từ chối.

– Đại sư gọi như thế là thanh lọc hàng ngũ sao ?

– Chính vậy ! Ý kiến này do Ngộ Không đại sư đưa ra, bần tăng chỉ thừa hành.

Nhưng thôi, nếu thí chủ muốn biết thêm, cứ hỏi Ngộ Không. Người đã đến kia.

Nói rồi cầm gậy chỉ về phía chân đồi. Mọi người trông ra quả nhiên thấy một lão ông quắc thước, đầu quấn khăn bỏ múi, mày trắng như tuyết, vội vã đi đến. Theo sau là năm kỵ mã, y phục dáng dấp có vẻ như những công sai. Tuy họ cưỡi ngựa nhưng thần sắc mệt mỏi và dáng điệu chậm chạp hơn ông già nhiều.

Ngộ Không đi tới, mọi người dạt ra chào cung kính. Thạch Đạt Lang cũng vòng tay thi lễ. Không để mất thì giờ vào những lời xưng tụng rườm rà, Ngộ Không hướng về phía Vô Tướng hỏi ngay:

– Mọi việc kết thúc như đã định cả chứ ?

Thủ tòa Quang Minh hội cúi đầu đáp:

– Bẩm sư phụ, hoàn hảo cả.

Năm công sai hối hả xuống ngựa. Người lớn tuổi nhất ra lệnh cho những người kia mang bút giấy ra ghi chép, kiểm điểm xác chết, coi mặt từng tử thi. Sau khi xong, hắn tiến đến trước mặt Vô Tướng và Ngộ Không, nói:

– Xin đa tạ các vị đã giúp anh em chúng tôi. Từ giờ đến sáng mai, sẽ có người tới mang những xác này đi chôn cất. Xin các vị đừng bận tâm.

Nói xong, cả năm người cùng cáo biệt lên ngựa đi thẳng.

Vô Tướng và các tăng sĩ phái Quang Minh cũng đứng hàn huyên một lúc rồi mới chia tay về Nara.

Thạch Đạt Lang quỳ xuống trước mặt Ngộ Không, kính cẩn:

– Tại hạ vừa được vị thủ tòa Quang Minh cho biết lý do về những hàng động mới đây của quý hội. Dám xin đại sư chỉ dẫn thêm.

Ngộ Không đưa tay đỡ Thạch Đạt Lang đứng dậy:

– Thí chủ bất tất phải đa lễ. Có gì bí mật đâu ! Sở dĩ bần tăng phải bày ra kế này vì viên quan chấp pháp mới đến nhậm chức, chưa rõ tình hình để bọn du đãng lộng hành quá đỗi. Gặp cơ duyên, được biết thí chủ là tay nghĩa hiệp nên bần tăng có bàn với Vô Tướng, mạn phép thí chủ. Xin vì ích chung mà thứ lỗi cho.

– Đại sư dạy quá lời. Bài học vừa rồi làm tại hạ suýt mất mạng.

– Không đâu ! Bần tăng biết chứ ! Và đó cũng là lý do bần tăng đã kể Vô Tướng giả hợp tác với chúng ban đầu cho chúng khỏi nghi kỵ và đỡ thí chủ một tay khi cần.

Nghe thủng câu chuyện, mọi người đều vui vẻ. Vui nhất có lẽ là Giang. Nó hớn hở thấy thầy nó còn sống, vui mừng và kiêu hãnh vì được chứng kiến tận mắt sư phụ chiến đấu dũng mãnh, một tay giết bao nhiêu là côn đồ, thảo khấu. Nó sung sướng nhảy cẫng, miệng hát líu lo.

Ngộ Không mỉm cười, gọi:

– Này cháu nhỏ, lại đây ta bảo !

Nhà sư chỉ những viên cuội tròn rải rác khắp đồi:

– Cháu nhặt cho ta chừng hai chục hòn đá như thế này !

– Dạ. Nhưng nhặt làm gì vậy ?

– Thì cứ nhặt mang lại đây rồi biết !

Khi đá được mang đến, Ngộ Không viết lên trên mỗi hòn đá câu chú “Nam mô Thích ca Mâu ni Phật”, sai Giang đem đến đặt bên mỗi tử thi một hòn. Ông đứng ra giữa đồng làm lễ cầu siêu cho linh hồn những người quá cố, niệm kinh vãng sinh giữa những tiếng quạ kêu và đồi chiều bắt đầu nổi gió.

Trong khung cảnh bao la của đồng hoang Hannya chiều hôm ấy, ba người tượng trưng cho ba thế hệ, cúi đầu cầu nguyện. Bóng họ đổ dài trên nền cỏ xanh còn loang vết máu.

Chương 17: Nhành Mẫu đơn

Trúc Lâm cốc chạy dài dưới chân núi Kasagi, về phía đông bắc Nara. Gọi là cốc, nhưng thật ra là một thung lũng hẹp, bốn bề vách đá hiểm trở bao vây, ban ngày chỉ thấy mặt trời từ giờ tị đến cuối giờ mùi. Những lúc khác, cả thung lũng chìm trong bóng tối hoặc ẩn sau một màn sương mù dày đặc, nhất là vào những ngày u ám.

Vào đầu thế kỷ , một làng được lập ngay trong cốc. Dân làng khá đông, chuyên nghề tầm tang và dệt lụa. Vì ít tiếp xúc với những thị trấn bên ngoài, Trúc Lâm cốc vẫn giữ nguyên được nền nếp thanh bình như khi mới lập. Giữa cốc là một tòa nhà lớn, dân làng thường gọi là Đại lâu, vừa dùng để hội họp, vừa để gìn giữ những di sản văn hóa trong cốc. Một tường đá kiên cố với lũy tre dầy bao bọc quanh làng, kín như rừng, nên cốc có tên là Trúc Lâm.

Cảnh trí Trúc Lâm đẹp như tranh vẽ. Vách đá sừng sững cao đâm thấu trời xanh, cổ thụ mọc trên vách đá không biết từ đời nào và chịu bao sương tuyết mà thân cành vặn vẹo, nhưng không vì thế kém tươi tốt. Những chùm lá xanh đen, cứ vào mỗi đầu xuân lại thi nhau đâm chồi nẩy lộc, tung ra sức sống mãnh liệt tiềm ẩn trong thớ gỗ. Vào những ngày đẹp trời, ánh dương mới mọc chênh chếch chiếu lên sườn núi làm ửng lên muôn ngàn sắc độ của thảm rêu trên những mỏm đá cheo leo trông rất ngoạn mục. Nước suối thì trong và mát, đem pha trà thật không gì sánh kịp. Vườn mai gần đó nở trắng hoa, mỗi khi xuân đến rộn tiếng họa mi véo von, trong như nước suối.

Xã trưởng Trúc Lâm là một tay kiếm sĩ tuổi trung niên. Tổ tiên ông đến đây lập nghiệp đã lâu đời và đã góp phần rất lớn vào việc dựng nên cốc này. Ông theo truyền thống tiền nhân, đem hết tâm lực bảo vệ cho cốc không bị cường khấu quấy phá, lại giữ gìn hảo tục thuần phong, lo cho dân làng có đủ đất đai cày cấy, thành ra mọi người đều yên vui no đủ lắm. Trong cảnh hỗn loạn sứ quân của nước Nhật vào cuối thế kỷ mười sáu, Trúc Lâm cốc thật là một nơi lý tưởng để sinh sống và di dưỡng tính tình.

“Địa linh sinh nhân kiệt”, người xưa nói quả không sai. Trúc Lâm là nơi sinh trưởng của một đại kiếm sĩ, bốn mươi năm trước đây danh tiếng lừng lẫy giang hồ tên Trúc Mộ Chính. Kiếm thuật của Trúc Mộ gia không huê dạng nhưng nhanh và gọn vô cùng. Ông cho rằng kiếm không phải là một thứ đồ chơi, múa lấy đẹp mắt. Ông ít khi sử kiếm, vì cho rằng kiếm thuật không phải là cứu cánh của kiếm đạo, nên chỉ dùng kiếm khi vạn bất đắc dĩ và khi nội tâm thật bình tĩnh, không bị thất tình và ngoại cảnh chi phối. Ông thường nói với môn sinh:

“Mục đích tối hậu của kiếm đạo là không dùng kiếm”. Quan niệm này của Trúc Mộ Chính đã được nhiều danh kiếm đương thời đem ra thảo luận và cũng chính là trọng tâm, nếu không nói là cốt tủy của trường phái Trúc Mộ.

Trúc Mộ lão giờ tuổi đã cao, lui về ở ẩn trong một ngôi nhà cỏ cách Đại lâu không xa. Ông không quan tâm gì đến thế sự nữa, mọi tiếng thị phi đều gác bỏ ngoài tai. Con cháu Trúc Mộ là những người có khả năng, ông thấy không có lý do gì mà không rửa tay treo kiếm.

Khi thầy trò Thạch Đạt Lang đến Trúc Lâm cốc, chuyện xảy ra tại đồng cỏ Hannya đã qua được mười ngày. Trên đường đi, Thạch Đạt Lang có dịp viếng thăm nhiều thắng tích, trong lòng rất lấy làm khoái hoạt. Hắn cùng tiểu đồ vào trọ trong quán Mãn Ý ngay đầu làng, với dự định nghỉ ngơi ít bữa, đồng thời tìm cách liên lạc để được yết kiến Trúc Mộ tiên sinh.

Nhân lúc nhàn rỗi lại gặp tiết trời ấm áp, Thạch Đạt Lang mặc áo mỏng cùng tiểu đồ đi dạo. Thầy trò đi một lúc, Thạch Đạt Lang quan sát cảnh vật xung quanh, miệng lẩm bẩm:

– Lạ ! Lạ quá !

Hắn nhắc đi nhắc lại nhiều lần chữ “lạ quá” làm Giang chú ý, ngẩng lên nhìn sư phụ:

– Thầy nói cái gì lạ ?

Đối với Giang, làng này chẳng có gì lạ. Nó cũng như trăm nghìn làng khác mà thôi. Có điều thấy thầy nó lẩm bẩm một mình, nó cho rằng thầy nó lại sắp giở chứng. Ấn tượng một người tâm trí không bình thường vẫn chưa thoát khỏi khối óc ngây thơ của nó.

– Hơn một năm nay ta đã đi nhiều nơi, Settsu, Kawachi, Izumi, Kyoto, Narạ..

nhưng chưa nơi nào ta thấy cảnh vật như ở đây.

– Cảnh vật ở đây thế nào, khác với nơi khác ra sao, thầy ?

– Ở đây nhiều cây hơn.

Giang cười như nắc nẻ:

– Nhiều cây hơn ? Cây thì chỗ nào gần rừng mà chả nhiều !

– Ờ, nhưng cây ở đây khác. Cây vùng này to, lại nhiều cổ thụ. Như vậy có nghĩa là từ lâu không ai đốt rừng, không có giặc giã, dân cũng không đến nỗi nghèo phải chặt cây mang về làm củi sưởi.

Giang gật đầu, cho là sư phụ nói đúng.

– Đồng lúa xanh tốt, ruộng dâu mơn mởn, vậy là có người chăm sóc. Này ! Con có nghe tiếng xa quay tơ kêu cút kít không ? Hình như nhà nào cũng có khung cửi thì phải !

Mọi người đều vui tươi, thấy khách lạ ăn mặc lành lặn đi qua không nhìn với đôi mắt ganh tị, vậy là tốt lắm !

– Dạ. Thầy còn thấy điều gì khác nữa không ?

– Có chứ ! Cứ thế mà suy ra thì dân vùng này phần nhiều đều no đủ. Ta chắc xã trưởng phải là người sáng suốt, khôn khéo; hẳn ông ta có sẵn dưới tay nhiều binh khí tốt, tráng đinh khỏe mạnh, giỏi chiến đấu …

– Chắc thế. Nhưng chuyện đó can dự gì đến ta ?

– Hừ ! Thằng này chẳng biết gì !

– Sao thầy bảo đi học kiếm ? Thầy đến đây để ngắm cảnh đấy à ?

– Con còn bé, chưa hiểu, nhưng ta cũng nói để con rõ, sau này biết đâu con chẳng còn được gần ta nữa. Mang kiếm không phải để bon chen, tìm miếng đỉnh chung. Kẻ nào chỉ biết ban ngày ăn cho nó, tối ngủ cho yên, ỷ có võ khí hăm dọa người khác, kẻ đó chỉ là phường cường khấu. Muốn theo kiếm đạo, con phải quyết tâm giữ cho lòng trong sạch, nghiêm khắc với chính mình, quan sát và luôn học hỏi để thăng tiến, đồng thời nắm vững kỹ thuật khi giao đấu. Cho nên con cần đi nhiều hiểu rộng để biết suy xét mọi người mọi việc chung quanh, tìm hiểu các căn nguyên của sự việc trước khi dùng kiếm.

Lưỡi kiếm của con sẽ là lưỡi kiếm để bảo vệ lẽ phải …

Nói đến đây Thạch Đạt Lang khựng lại. Trong cơn cao hứng, hắn đã đi quá xa, nói những điều chắc thằng bé không thể hiểu được, nhưng hắn không hối hận. Trong lúc nói, hắn đã thật lòng giải tỏ cả tâm can, phơi bày những ước mong, chí hướng của mình.

Giang lắng nghe sư phụ, hỏi nhiều câu ngây ngô, Thạch Đạt Lang vẫn nhẫn nại giải đáp bằng tất cả tấm lòng thành, chỗ nào không biết thì bảo là không biết, tuyệt nhiên chẳng hề giấu diếm.

Hết cả ngày hôm ấy, hai thầy trò thơ thẩn rong chơi, vừa đi vừa trò chuyện, đến khi mặt trời xế bóng mới trở lại quán.

Một ả nữ tỳ trạc mười ba, mười bốn tuổi, thấy khách về đon đả chạy ra đón:

– Khách quan vãn cảnh có được đẹp ý không ?

– Cảnh trí làng này thật đẹp, ta rất ưa.

– Tiểu nữ đã sắp sẵn nước nóng, để mời khách quan vào tắm.

Thạch Đạt Lang theo ả nữ tỳ qua hàng hiên đến trước phòng tắm công cộng. Trên ghế dài có vài bộ quần áo gấp sẵn, hắn độ chừng trong phòng có người, bèn cởi bỏ áo ngoài để lên ghế rồi mở cửa bước vào.

Hơi nước nóng cùng với tiếng cười nói theo cửa mở tỏa ra phà vào mặt. Thấy khách lạ, ba người đàn ông đang tắm chung trong bồn gỗ vội quay mặt nhìn ra, bỏ dở chuyện đang nói.

Thạch Đạt Lang kín đáo đi đến góc phòng, bước vào bồn tắm. Vóc dáng to lớn của hắn làm trào cả nước ra sàn gỗ. Những người kia đưa mắt nhìn nhau, nhưng Thạch Đạt Lang không để ý, dựa lưng vào thành bồn khoan khoái thở phào nhẹ nhõm và nhắm mắt lại, làm như chỉ chú tâm tận hưởng lạc thú của làn nước ấm ôm ấp quanh mình.

Sau một lúc yên lặng, tiếng nói chuyện lại rì rầm nổi lên, nhỏ hơn, nhưng cũng đủ để Thạch Đạt Lang nghe rõ:

– Quản gia nhà Trúc Mộ tên là gì nhỉ ?

– Hình như là Sử Đà.

– Trúc Mộ cốc chủ phái hắn đến khước từ không tiếp chúng ta, chắc có điều gì e ngại.

– Biết đâu lão chỉ có hư danh, thực tài thì chưa chắc …

– Có thể lắm. Nghe Sử Đà nói bây giờ lão quy ẩn, chẳng biết hư thực ra sao !

– Hoa Sơn cho người đến lãnh giáo kiếm thuật mà lão làm như thế thì mười phần chắc bảy là sợ.

– Nhưng phái người đến tặng quà và đưa thiếp thì cũng tế nhị đấy chứ !

Đang lim dim, nghe nói đến Hoa Sơn, Thạch Đạt Lang lắng tai chú ý, mở hé mắt ra nhìn. Khi còn ở Kyoto, hắn được biết tay kiếm đệ nhất của Hoa Sơn phái là Hoa Sơn Điền Chính, tính ưa du ngoạn, không mấy khi ở nhà. Giờ đây, bốn tay này tự xưng là Hoa Sơn, chắc hẳn là Điền Chính và đàn em chứ không sai. Nhưng trong ba người, không biết ai là Điền Chính ? Thạch Đạt Lang nghĩ thầm:

“Mình thật chẳng may mắn, mấy lần tắm đều gặp bất trắc. Lần trước bà già Hồ Điểu đã lừa mình vào tròng, suýt nữa thì khốn đốn với quan quân, bây giờ lại bọn này. Nếu Điền Chính biết mình là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto thì ngu gì mà chúng không ra lấy gươm vào tấn công mình trong nháy mắt !”.

Nhưng cả ba người kia hình như không có ý nghi ngờ gì cả. Họ vẫn tiếp tục chuyện vãn. Qua những mẩu đối thoại nghe lỏm được, Thạch Đạt Lang đã hiểu trước kia khi Hoa Sơn Khổ Bích còn sinh tiền, Trúc Mộ Chính nhiều lần có giao thiệp với Hoa Sơn nên nay vì tình cố cựu, cho gia nhân mang quà và thư đến phúc đáp. Thạch Đạt Lang tự nhủ:

“Bọn này như ếch ngồi đáy giếng, tầm mắt thiển cận, nhìn trời trên đầu không to hơn cái vung úp. Trong những năm gần đây, thực lực nhà Trúc Mộ ra sao ai cũng biết.

Trúc Mộ lão tuy ở ẩn nhưng bao nhiêu tinh hoa của nền kiếm học và những kinh nghiệm ông thu thập được khi còn ngang dọc giang hồ đều đã truyền lại cho hai con trai lớn và người cháu. Trúc Lâm cốc lại là nơi hiểm trở, lương thảo tích trữ đầy đủ. Thế mà bọn này chẳng biết gì, có mắt không biết nhìn, có tai không biết nghe, thật đáng thương hại”.

Thạch Đạt Lang bước ra khỏi bồn tắm, vào phòng kế, tháo khăn quấn tóc, bốc một nắm đất sét để sẵn ở đó xoa lên đầu. Hắn kỳ cọ một lúc rồi gội sạch. Đã lâu lắm, Thạch Đạt Lang mới gội đầu theo lối cổ truyền như thế và nghĩ đến những lúc đi tắm sông hồi còn nhỏ. Hắn nhớ đến làng cũ, khẽ thở dài.

Ba người kia cũng vừa tắm xong, trắng nhễ nhại từ bồn bước ra, cười nói oang oang không coi ai ra gì cả.

– Chà ! Khỏe quá.

– Dễ chịu hẳn ra. Nơi sơn cước mà có được quán như thế này, khá đấy chứ ! Ta gọi chủ quán bảo mang sa-kê và các em vào phòng hầu rượu, bằng hữu nghĩ thế nào ?

– Tuyệt ! Ý kiến hay tuyệt !

– Vậy còn chờ gì nữa ?

Cả ba khoác vội áo ngoài đi ra hiên. Tiếng họ cười ha hả còn vọng đến tai Thạch Đạt Lang đang lau mình trong phòng kế.

Trúc Mộ Chính ngồi trên chiếu, trước bộ kỷ trà thấp, tóc bạc phơ rủ xuống hai vai, phong thái siêu thoát như cánh hạc vẽ trên bức cổ họa trên vách. Ông trạc ngoài bát tuần, người mảnh khảnh, nước da hồng hào, đôi mắt sáng quắc chứng tỏ sức khỏe còn rất dồi dào. Trúc Mộ Chính vẫn thường nói với gia nhân:

“Trong mình ta không có dấu hiệu gì suy yếu, chắc phải thọ đến trăm tuổi”. Lời tiên đoán chẳng làm ai ngạc nhiên, trông ông vẫn quắc thước và minh mẫn, vả lại chuyện thọ yểu một phần hình như cũng do gia truyền:

tổ tiên nhà Trúc Mộ, trừ những người tương đối chết trẻ vì xông pha chiến trận, hầu hết đều vượt mức bát tuần cả.

Riêng phần Trúc Mộ Chính, ông sống rất tiết độ. Năm gần sáu mươi, vì lý do riêng, ông từ bỏ không tham dự vào những chuyện giang hồ thị phi, mặc dầu hai đảng tộc đương thời là Tôn Điền và Hòa Giả hết lòng chèo kéo. Ông đã có chủ ý:

trong cảnh tương tàn phe phái thời bấy giờ, ông thấy cách khôn khéo nhất là đứng ngoài mọi sự tranh chấp.

Quyết định của Trúc Mộ Chính quả sáng suốt, nhờ vậy Trúc Lâm cốc và Trúc Mộ gia không những đã tránh được nạn binh đao mà còn phát triển mạnh hơn nhiều địa phương khác. Ông có quyết định ấy, một phần vì đã thấu hiểu thời cuộc bấy giờ, nhưng một phần cũng nhờ ở sức mạnh tinh thần và căn bản đạo đức của mình. Ông không chạy theo vinh hoa phú quý như phần đông các kiếm sĩ khác, chỉ vì món lợi nhỏ nhiều khi quên cả liêm sỉ.

Sư phụ Trúc Mộ Chính là Tiết Dung Am, một lãnh chúa và cũng là một danh gia kiếm sĩ, trên dường bôn tẩu giang hồ, một hôm ghé ngang Trúc Lâm cốc, khi Trúc Mộ Chính còn là một thanh niên nhiều nhiệt huyết và tham vọng. Tiết Dung Am ba lần tỷ kiếm với Trúc Mộ Chính, ba lần đều thắng, sau đó mến tài Trúc Mộ, thu nhận làm đồ đệ.

Tiết Dung Am lưu lại Trúc Lâm cốc một thời gian khá lâu, chỉ điểm cho Trúc Mộ Chính về kiếm pháp. Trước khi lên đường, ông bảo đồ đệ:

“Đường ta còn dài, mà cõi nhân sinh thì hạn hẹp, không biết ta có đủ thì giờ theo đuổi đến cùng không ! Con còn trẻ, tư chất thông minh, hẳn có cơ duyên, mong con hiểu và nối chí ta”. Ông trao cho Trúc Mộ Chính một pho sách, nhan đề Vô kiếm kiếm phổ và ra đi biệt tích. Từ đó không ai nghe nói đến Tiết Dung Am nữa.

Vô kiếm kiếm phổ gồm ba phần, một phần luận về đạo của người kiếm sĩ, một phần về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, phần còn lại mới luận về kiếm thuật chính thức. Trúc Mộ Chính ngày đêm nghiền ngẫm pho sách, sau ba năm suy tư và khổ luyện vẫn không tìm ra chân lý. Về sau, nhân một buổi ngồi thiền, Trúc Mộ Chính đột nhiên giác ngộ, thấu hiểu lẽ tương dung của trời đất, đem suy diễn ra thấy lẽ đó bàng bạc khắp trong sách. Bấy giờ đọc lại, không còn thấy chỗ nào tối nghĩa nữa, bèn đem áp dụng vào kiếm thuật thì thấy những thế kiếm tự nhiên hơn, nhẹ nhàng và linh động vô cùng, đem dùng làm căn bản cho thái độ của mình đối với thiên nhiên và vạn vật thì thấy dễ dàng hòa đồng với mọi người, tránh được bao nhiêu là hệ lụy.

Từ đó, ông quý trọng bộ kiếm phổ như một bảo vật không gì thay thế được, lúc nào cũng để gần chỗ ngồi. Những lời luận trong sách giúp ông khắc phục được bao nhiêu khó khăn về tinh thần, những khó khăn trước kia ông tưởng không bao giờ qua nổi.

Những đồ hình vẽ trong kiếm phổ lại đầy đủ và chính xác đến độ nhiều khi ông không tin công phu ấy đã được thực hiện bởi một cá nhân trong thời gian một kiếp. Ông nhớ ngày ra đi của sư phụ Tiết Dung Am, không năm nào không thành kính đốt hương tưởng niệm.

Vì bản tính ưa bình dị và khoáng đạt, Trúc Mộ Chính không thích ở trong Đại lâu.

Ông chọn gian nhà cỏ xuềnh xoàng bên rừng trúc để cư ngụ, có suối nước trong thuận tiện cho ông pha trà hàng ngày và lấy biệt hiệu là Trúc Lâm cư sĩ. Mặc dầu ưa cuộc sống đạm bạc, nhưng từ khi có Oa Tử đến ở, gian nhà cỏ của ông cũng đỡ phần cô tịch. Trong tuần trà sớm, tiếng sáo của nàng thêm đầm ấm, và buổi chiều, dáng nàng đi yểu điệu trong bộ y phục màu nhạt tha thướt như điểm một nét tươi vui giữa màn sương mù xanh xám bắt đầu tỏa xuống bao phủ căn thảo thất.

Sau khi cắm xong nhành mẫu đơn độc nhất vào chiếc bình sứ men gạo nếp sản xuất tại Iga, Trúc Mộ Chính quay sang hỏi Oa Tử:

– Sao ? Cô nương thấy được không ?

– Tiền bối quả thấu triệt nghệ thuật cắm hoa. Chắc tiền bối đã theo học kỹ thuật này từ khi còn trẻ ?

Trúc Mộ Chính cười:

– Cô nương lầm rồi ! Lão phu không phải xuất thân từ một gia đình quý tộc, trong thời niên thiếu lại không có thì giờ học cách cắm hoa hay trà đạo.

– Thế mà trái lại, trông cách xếp đặt, ai bảo tiền bố không biết cắm hoa !

– Thế ư ! Lão phu đã cắm hoa như dùng kiếm vậy mà !

Oa Tử ngạc nhiên:

– Tiền bối nói thế là thế nào ?

– Lưỡi kiếm trong tay phải sinh động, nắm chặt quá tất không sử dụng uyển chuyển được theo ý muốn, lơi quá nó bay đi mất. Cành hoa cũng thế, khi ngắt khỏi thân, chớ làm cho hoa chết. Bất cứ ở vị thế nào, hoa cũng phải sống động, hòa hợp với ngoại cảnh, thể hiện cảm xúc của mình. Cô nương thấy bông mẫu đơn này có sống động không ?

Oa Tử khẽ gật đầu mỉm cười. Sau mấy tháng cư ngụ tại Trúc Lâm cốc, nàng đã học được rất nhiều ở Trúc Mộ Chính và nhận thấy vị đại kiếm sĩ này tuy sống khắc khổ nhưng có một nhân sinh quan rất phóng dật. Ông dạy nàng làm thơ Đường tuy ông thích thơ hài cú hơn vì loại thơ này nhẹ nhàng, không gò bó, gần với thiên nhiên. Ông dạy nàng những nghi lễ phiền toái của trà đạo nhưng trong những buổi hầu trà, nàng hiểu rõ hơn ai hết, ông không bao giờ câu nệ những nghi lễ ấy.

Cũng vì thế mà Oa Tử thoải mái ở cạnh Trúc Mộ lão, tiếng sáo của nàng tự do hơn, khi tha thiết, khi vui tươi, khi thương nhớ, nàng mặc cho lòng mình phát hiện qua âm thanh, đôi lúc mê mãi quên cả ngoại cảnh làm Trúc Mộ lão phải ngạc nhiên. Nàng đem tài khéo ra đan cho Trúc Mộ lão một chiếc mũ lông cừu như mũ của những người ưa uống trà thường đội làm ông rất thích thú.

Một già một trẻ ý hợp tâm đầu, nhiều khi Oa Tử quên cả những việc xảy ra bên ngoài thung lũng. Ngoài những lúc để lòng quay về dĩ vãng hoặc bâng khuâng tưởng nhớ mối tình vô vọng, nàng thấy nơi đây quả là thiên đường, chỗ để nàng dung thân, yên tâm cả về tinh thần lẫn thể chất.

Có tiếng người gọi ở cổng ngoài. Oa Tử vội vàng chạy ra. Sử Đà Chu An Môn đã đứng đó tươi cười thăm hỏi và nhờ nàng vào trình với Trúc Mộ cư sĩ xin cho được tiếp kiến. Oa Tử vui vẻ:

– Đại huynh thật ngược đời ! Không thấy sao ?

– Chuyện gì mà ngược đời ?

– Trong nhà này, đại huynh là cánh tay phải của lão nhân gia, ra vào lúc nào mà chẳng được. Còn tiểu nữ chỉ là kẻ hầu thổi sáo, đại huynh nhờ vậy chẳng hóa ra ngược đời lắm ư ?

Sử Đà mỉm cười gật đầu:

– Cô nương nói phải, nhưng địa vị cô nương trong nhà này rất đặc biệt. Dù sao cũng cứ xin vào thưa trước với lão chủ cho, nói Sử Đà này muốn được đến trình về việc gặp gỡ với đại diện Hoa Sơn.

Oa Tử lui gót. Sử Đà một mình đứng chờ bên cổng trúc, rất mãn ý vì đã tiến dẫn Oa Tử. Con người mới xinh đẹp và khiêm cung làm sao ! Tài ấy, đức ấy, chắc Trúc Mộ lão gia không thể không hài lòng được.

Oa Tử ra mời Sử Đà vào. Trúc Mộ Chính lên tiếng hỏi ngay, giọng sang sảng:

– Sử Đà đấy ư, sao về sớm thế ?

– Thừa lệnh lão tiền bối, vãn bối đã tới gặp họ, đưa thiếp và quà tặng.

– Thế họ đi cả rồi à ?

– Thưa chưa ! Họ có thư trình lên muốn xin được tham quan võ đường của ta và mong được lão tiền bối chỉ giáo. Họ hiện ở nhà trọ đầu làng chờ ta phúc đáp.

Trúc Mộ Chính cau mặt:

– Hừ ! Phường vô hạnh ! Ta không muốn tiếp. Thế ngươi có nói rõ cho chúng biết các con ta đều ở Edo, hiện nay trong cốc không còn ai không ?

– Dạ, vãn bối đã nói rõ.

– Thế mà chúng vẫn đòi đến ! Có phải chúng định ép ta chăng ?

Yên lặng một lúc, Trúc Mộ Chính tiếp:

– Hậu duệ phái Hoa Sơn xem ra toàn đồ vô dụng !

– Quả vậy ! Khi tiếp xúc, vãn bối thấy không có gì xuất sắc.

– Hừ ! Ta có biết Hoa Sơn Khổ Bích và trước đây đã uống rượu với ông một đôi lần.

Sinh thời, Khổ Bích là tay kiếm sĩ khôn ngoan, tính tình hào sảng, sao từ khi ông ta chết đi, lũ con chẳng ra gì. Chúng tưởng cứ mang danh Hoa Sơn phái là qua được cửa nhà ta sao ?

– Qua nhận xét của vãn bối, Hoa Sơn Điền Chính có dáng cao ngạo, coi thường mọi người. Thiết tưởng hay cứ để hắn tới, vãn bối sẽ dạy cho hắn một bài học !

Trúc Mộ Chính không nói gì, ông lặng lẽ nhấp trà, một lúc sau mới lên tiếng:

– Thôi, chẳng nên quan tâm. Lũ thanh niên ỷ vào tiền bạc và danh tiếng ông cha để lại thường không có tại lại hay kiêu. Ngươi đánh chúng thua, sẽ sinh ra thù oán, chúng lại tìm cách phao vu nói xấu, dây dưa tới giới quan lại tại kinh thành, phiền lắm !

– Vậy xin lão tiền bối chỉ bảo.

– Có cách này ta thấy tiện hơn cả. Chúng tự coi là con nhà đại gia thì ta cứ xử với chúng như con nhà đại gia. Ngươi không khéo mồm miệng, cử ngươi đi lần này sợ không được việc.

Quay nhìn Oa Tử, Trúc Mộ lão tiếp:

– Ta nghĩ đàn bà chắc là khéo léo hơn. Oa Tử, cô nương giúp ta việc này được chăng ?

– Tiền bối đã dạy, tiểu nữ đâu dám từ chối. Đi ngay bây giờ sao ?

– Chẳng vội gì ! Cứ thong thả. Ngày mai ta muốn nhờ cô nương mang giùm cho một lá thư và một nhành mẫu đơn đến xem họ xử trí ra sao.

Sáng hôm sau, Oa Tử dậy sớm đến quán Mãn Ý. Nàng trùm tấm khăn dài mỏng.

Mặc dầu bấy giờ ở Kyoto, trùm khăn không còn hợp thời trang nữa, nhưng những thiếu nữ trung lưu tại các thị trấn nhỏ vẫn còn giữ cách ăn mặc như vậy mỗi khi có việc phải ra ngoài. Nàng đến chuồng ngựa dắt một con. Người mã phu già đương bận chải lông ngựa, ngưng tay hỏi:

– Cô nương đi đâu đấy ?

– Lão nhân gia sai tiểu nữ ra đầu làng có chút việc.

– Lão bộc có cần phải đi theo không ?

– Thôi chả cần. Tiểu nữ đi một mình cũng được.

– Cô nương phải cẩn thận. Con ngựa này hay giở chứng lắm !

Oa Tử cười:

– Không sao ! Tiểu nữ cưỡi ngựa đã quen. Hồi nhỏ, cưỡi voi còn được mà !

Nàng nhờ người mã phu thắng yên rồi vỗ khẽ vào lưng con vật, nhảy thoắt lên, gọn gàng như một tay kỵ mã lành nghề. Buông cương để ngựa đi bước một, Oa Tử hít một hơi dài làn không khí trong lành và tươi mát buổi sáng, tấm khăn mỏng che mặt theo gió bay phơ phất. Những nông dân đi làm đồng sớm, thấy nàng, tránh sang một bên, vui vẻ chào hỏi. Lòng kính mến Trúc Mộ lão như lan cả sang Oa Tử, người thiếu nữ xinh đẹp và nhu hòa họ biết đang được cốc chủ rất mực trọng đãi. Oa Tử cúi đầu đáp lễ từng người, miệng cười tươi như hoa nở.

Đến trước quán Mãn Ý, Oa Tử buộc ngựa vào gốc hòe, khoan thai tiến qua cổng. Ả thị tỳ chạy ra đon đả:

– Kìa, cô nương ở Trúc Mộ thất ! Mời cô nương quá bộ vào nhà trong, Cô nương đi đâu sớm thế ?

Rồi không đợi trả lời, ả liến thoắng:

– Em đi lấy điểm tâm. Cô nương có định ở lại dùng bữa trưa không ?

– Không, cám ơn em. Ta có chút việc cần gặp một khách quan trọng trong quán rồi phải về ngay. Em vào nói với chủ nhân cho ta hỏi câu chuyện.

– Vậy mời cô nương dùng trà, chờ em một lát.

Hai khách trọ, dáng cao lớn, mặc áo chàm vải thô, đang buộc quai dép và sửa soạn hành tranh ở hiên ngoài, thấy Oa Tử vội ngẩng lên nhìn. Họ ngạc nhiên không ngờ ở chốn sơn dã hẻo lánh lại có người thanh tú đến thế, đưa mắt nhìn nhau hỏi khẽ:

– Ai đấy nhỉ ?

– Chẳng biết tìm ai ? Hay là tìm chúng ta đấy ?

Người vừa nói câu ấy cho là có duyên lắm, phá lên cười ha hả.

Một lúc sau, chủ quán bước ra, lau tay ướt vào vạt áo. Oa Tử tỏ ý định muốn gặp Hoa Sơn Điền Chính đến trọ Ở quán từ mấy bữa trước.

– Các vị đó không biết đã dậy chưa, hôm qua thấy uống rượu khuya lắm. Để thiểm quán vào báo.

Trong phòng, bọn Điền Chính cũng vừa dậy, nghe chủ quán trình tự sự, bèn cho mời khách vào. Cửa lùa vừa mở, bọn họ cùng ồ lên một lượt ngạc nhiên. Ai cũng tưởng khách là vị đại hán tên Sử Đà ở Trúc Mộ thất trở lại, không ngờ lại là một nữ lang xinh đẹp, tay cầm một phong thư buộc lụa đỏ và một cành mẫu đơn trắng muốt. Vẻ bối rối hiện trên nét mặt, họ luống cuống xếp dọn lại chăn gối, sửa áo buộc tóc, miệng không ngớt xin lỗi:

– Tệ quá ! Tệ quá ! Chủ quán chẳng nói rõ khách là ai nên không kịp chuẩn bị nghênh tiếp, xin giai nhân tha lỗi !

Oa Tử cười thầm trong bụng. Nàng thấy những lời văn hoa ấy vừa sáo vừa rẻ tiền nhưng cũng áy náy đã làm cho ba ông khách phải bối rối:

– Tiểu nữ thành thật xin lỗi đã làm phiền các vị sớm như thế này, nhưng Trúc Mộ lão nhân gia có sai tiểu nữ đến trình các vị phong thư này và một món quà nhỏ. Xin các vị vui lòng để mắt đến cho, tiểu nữ chờ phúc đáp.

Điền Chính liếc nhìn cuốn thư và bông mẫu đơn để trên kỷ, đưa tay cầm cởi giải lụa đỏ kéo ra đọc. Những hàng chữ nhỏ viết trên giấy hoa tiên màu nước trà nhạt mang một vẻ thanh thoát tựa như những cánh bướm trên thảm cỏ xanh non lúc xuân vừa chớm.

“Thâm tạ quý phái nghĩ tình cố cựu sai người thăm hỏi, nhưng rất tiếc hiện nay lão phu trong mình không được khỏe nên không thể đích thân thù tiếp được. Vả lại lão phu bây giờ không còn quan tâm đến thế sự, vậy có chút quà mọn, một bông hoa trong tệ viên, lão phu cậy tay một bông hoa mang tới, mong quý bằng hữu thu nhận. Dù sao cũng thích thú hơn là ngồi nói chuyện với một ông già bệnh hoạn. Qúy bằng hữu thể tình lượng thứ !”.

Điền Chính nhếch mép không dấu vẻ khinh mạn:

– Có thế thôi ư, cô nương ?

– Lão cốc chủ sai tiểu nữ trình với quý vị là người rất muốn dùng trà với quý vị, ngặt vì trong cốc toàn kẻ võ biền không ai thấu hiểu lề luật trà đạo nên e làm trò cười cho quý vị là những bậc danh gia ở kinh thành tới. Người nhờ tiểu nữ xin quý vị thứ lỗi và hẹn một dịp khác.

Một trong ba gã Hoa Sơn có vẻ hồ nghi, nói:

– Hừ ! Chúng ta đến đây đâu phải để bàn luận về trà đạo. Chúng ta là kiếm sĩ, có quan tâm gì đến chuyện đó, chỉ muốn đích thân vấn an cốc chủ và xin người chỉ giáo.

Cốc chủ chắc phải biết rõ ý ấy chứ ?

Oa Tử vẫn mỉm cười, nhỏ nhẹ:

– Lão nhân gia biết lắm, nhưng bây giờ vì người ở ẩn nên đã dùng ngôn ngữ của một kẻ uống trà mà diễn đạt, mong quý vị hiểu cho.

Điền Chính đưa mắt nhìn hai người kia, một lúc sau mới đáp:

– Vậy chẳng nên ép lão làm gì. Cô nương về nói với cốc chủ là lần sau chúng ta đến, xin đừng từ chối.

Rồi với tay cầm nhành mẫu đơn đưa trả lại Oa Tử.

– Các vị không ưa mẫu đơn ư ? Mẫu đơn là hoa vương, mà mẫu đơn trắng băng thanh ngọc khiết trên cả các hoa khác, tiểu nữ thật không hiểu …

Hoa Sơn Điền Chính cảm thấy như bị xúc phạm. Hắn gằn giọng:

– Cốc chủ tặng hoa cho ta là nghĩa gì ?

Rồi quay sang Oa Tử:

– Ta thấy khôi hài. Cô nương về nói với cốc chủ, ở Kyoto, chúng ta cũng trồng mẫu đơn, loại này không thiếu.

Oa Tử cúi đầu, kính cẩn cầm cành hoa lui ra, đáp khe khẽ:

– Các vị đã không vừa ý, tiểu nữ không dám tự tiện …

Nàng cảm thấy những người ngồi trước mặt như đang bị một vết thương, không khéo buộc, vết thương to ra chẳng ích lợi gì mà chỉ di lụy.

Ra ngoài hành lang, Oa Tử nghĩ đến chuyện vừa rồi, cười thầm. Nhìn sàn gỗ trơn bóng vì chân người đi lại, nàng thoáng thấy ở phía cuối một căn phòng nhỏ cửa khép kín. Không biết đó là phòng Thạch Đạt Lang đương trọ, Oa Tử đi ngược chiều ra cửa. Ả nữ tỳ từ trong phòng vừa ra, thấy Oa Tử, vội chạy theo gọi với:

– Cô nương xong rồi à ?

– Xong rồi ! Ta phải về đây !

– Nhanh nhỉ !

Nhìn bông hoa trên tay Oa Tử, ả khen:

– Ô, bông hoa đẹp quá ! Có phải mẫu đơn không cô nương ?

– Phải – Em chưa thấy mẫu đơn trắng bao giờ. Bông này kép, lại tươi làm sao !

– Mới hái ngoài vườn đấy, em thích không ?

– Thích !

Oa Tử đưa bông mẫu đơn cho ả nữ tỳ:

– Vậy cho em đấy.

Ả thò tay ra định cầm, nhưng lại vội rụt ngay lại:

– Thật không cô nương ? Cho em thật à ?

– Thật. Oa Tử cười. Trong vườn ta còn nhiều, em thích ta cho.

– Cảm ơn cô nương.

Ả nữ tỳ sung sướng ngắm bông hoa rồi đưa lên mũi ngửi:

– Ứ ừ ! Chẳng thơm gì cả !

Nhưng vẫn vui vẻ cầm cành hoa chạy vào bếp khoe với mọi người.

Trong bếp bận rộn, chẳng ai lưu ý đến hoa. Thất vọng, ả trở lại phòng ông khách trọ. Thạch Đạt Lang ngồi một mình đăm chiêu suy nghĩ. Tên học trò nhỏ của hắn bỏ ra vườn chơi từ sớm. Hắn băn khoăn chưa tìm ra cách gì để vào được Trúc Mộ thất yết kiến Trúc Mộ lão và sau đó thỉnh giáo vài thế kiếm. Ả nữ tỳ bước vào phòng, hắn cũng không để ý, mãi đến khi nghe hỏi mới ngẩng đầu lên nhìn.

– Khách quan có thích hoa không ?

– Hoa à ? Hoa gì thế ?

– Mẫu đơn, bạch mẫu đơn ! Đẹp mà tươi lắm !

Hắn nhìn bông hoa trên tay nữ tỳ rồi hất hàm bảo:

– Ừ, đẹp đấy. Em cắm vào lọ đằng kia đi !

– Khách quan cắm lấy, tiện nữ không biết cắm hoa, sợ xấu !

– Vẽ ! Ta cũng có biết cắm đâu ! Cứ để tự nhiên vào lọ là được.

– Vậy để hoa đây, tiện nữ đi lấy nước.

Thạch Đạt Lang lơ đãng nhìn bông mẫu đơn đặt trên kỷ. Đột nhiên, không biết có cái gì khích động sự chú ý của hắn, Thạch Đạt Lang với tay cầm bông hoa đưa lên ngắm nghía.

Bông hoa đẹp thật, nõn nà như tuyết, cánh mỏng và trong tựa những cánh bướm rung rung trong ánh nắng ban mai. Không một tỳ vết. Nhụy hoa mới hé như còn e ấp sau những cánh nhỏ bên trong màu vàng nhạt. Hắn xoay đóa hoa trên tay, nghiêng đầu nhìn kỹ nhưng vẫn không hiểu tại sao bông hoa này lại gây cho hắn một cảm giác kỳ lạ như thế !

Ả thị tỳ mang nước vào, đỡ nhành hoa trong tay Thạch Đạt Lang cắm vào lọ. Ả loay hoay mãi vẫn không sao giữ cho hoa được tự nhiên.

– Cuống dài quá, để ta cắt bớt.

Hoa vừa rút ra khỏi lọ, xoẹt một cái, cuống hoa đã bị cắt đứt một đoạn chừng nửa tấc. Thạch Đạt Lang tra đoản kiếm vào vỏ. Rút kiếm, cắt hoa, tra kiếm vào bao, thời gian chỉ trong nháy mắt. Ả thị tỳ đứng sững, há hốc mồm không kịp kêu thành tiếng. Khi mọi việc đã xong, ả mới thấy sợ:

– Khách quan làm gì thế ?

Thạch Đạt Lang không đáp, cầm cành hoa trong tay người tỳ nữ, xem xét. Bây giờ hắn đã hiểu:

vết cắt của hắn trên cuống hoa và vết cắt trước trông khác nhau thấy rõ.

– Khách quan làm tiện nữ hết hồn ! Sao không bảo tiện nữ lấy dao ?

– Ta xin lỗi. Em hái bông mẫu đơn này ở đâu ?

– Người ta cho tiện nữ.

– Ai cho ?

– Một người ở Trúc Lâm thất.

– Một kiếm sĩ phải không ?

– Không ! Một cô còn trẻ lắm, người hầu của Trúc Mộ lão cốc chủ.

– Hừ ! Vậy người hái hoa này chắc ở trong Đại lâu.

– Tiện nữ không biết.

– Thôi, hoa cắt vừa khéo rồi đó, em cắm vào lọ đi !

Ả nữ tỳ ra khỏi phòng, Thạch Đạt Lang ngắm mãi bông hoa. Hắn rút hoa, so sánh hai vết cắt ở cuống, ngồi thừ người ra suy nghĩ. Hắn chắc đóa hoa này đã được ngắt không phải bằng dao mà bằng kiếm. Mẫu đơn thân thảo, cuống nó mềm và dai, phi một tay kiếm tuyệt luân dùng một lưỡi lưu cầu cực mỏng chém thì không thể nào có được vết cắt ngọt và gọn như thế ! Bất kỳ ai ngắt bông hoa này cũng không phải là người tầm thường. Cầm nhánh hoa trên tay, hắn rút kiếm đánh soạt. Kiếm quang vừa tắt, một đoạn cuống hoa lại rơi xuống. So sánh vết cắt mới với vết cắt trước thấy vẫn còn thua xa, như những nét khắc trên pho tượng Phật của một nghệ sỹ tài ba và điêu luyện bên nét chạm thô lậu của một pho tượng bán ở chợ.

“Nếu một điền tốt giữ vườn nhà Trúc Mộ mà còn làm được như thế này thì quả thật Trúc Mộ kiếm danh bất hư truyền, ta không bì kịp”. Tự nhiên hắn không còn tự tin nữa.

“Vô ích ! Mình chưa sẵn sàng !”. Nhưng tuổi thanh niên và lòng quyết thắng của hắn lại như một làn gió mạnh đánh tan mọi ý tưởng chán nản. Thạch Đạt Lang hy vọng và tự nhủ:

“Nếu không thắng được, ta có thể bỏ mạng ở đây, nhưng biết đâu ! Ừ biết đâu ta sẽ không học hỏi được nhiều điều chưa ai dạy ta nổi !”.

Nhìn bông mẫu đơn trắng cắm đơn độc trên bàn, Thạch Đạt Lang mường tượng đến bộ mặt một người. Vẻ thanh tao tươi mát của bông hoa gợi cho hắn một niềm thoải mái nhưng cũng mang theo nỗi bâng khuâng tiếc nhơ vu vơ.

Trên đường trở lại thảo thất, Oa Tử ngồi trên lưng ngựa, khe khẽ hát một khúc dân nhạc. Nàng còn trẻ, trong khung cảnh hiền hòa như cảnh Trúc Lâm cốc ngày hôm ấy, bản tính hồn nhiên của Oa Tử dễ dàng bộc lộ. Nàng đong đưa theo bước chân ngựa trên đường đồi, vó ngựa đều đều đệm nhịp cho giọng hát. Gần tới Trúc Mộ thất, đột nhiên tiếng động bên bờ suối làm Oa Tử giật mình. Một đứa trẻ từ bụi rậm sau ghềnh đá nhảy ra chạy theo ngựa. Nàng hơi ngạc nhiên vì trẻ con trong làng thường nhút nhát, ít có đứa dám đến gần phụ nữ. Nàng dừng ngựa quay lại nhìn.

Giang trần như nhộng, tóc ướt sũng nước, hai tay ôm bọc áo trước bụng, toét miệng cười. Nó thản nhiên như không để ý gì đến sự trần truồng của mình, kêu lớn:

– Đúng rồi ! Cô là cô nương thổi sáo ! Cô nương ở đây đấy hả ?

Oa Tử nhìn Giang, ngượng ngùng quay đi chỗ khác, nói:

– Phải. Em là cậu nhỏ ta gặp đứng khóc ở ven đường Yamoto chứ gì !

– Khóc đâu ? Em đâu có khóc !

– Ờ thôi, thì không khóc. Em đến đây từ bao giờ ?

– Từ hôm kia.

– Một mình hả ?

– Không, với sư phụ.

– A, ta nhớ ra rồi. Em nói đi học kiếm. Thế em làm gì ở đây mà quần áo không mặc vậy ?

– Cô nương muốn em mặc cả quần áo nhảy xuống suối sao ?

– Trời ơi, mùa này nước còn lạnh lắm, ai lại đi bơi bao giờ !

– Em không bơi, em tắm. Sư phụ bảo hôi quá nên em đi tắm đấy chứ !

Oa Tử bật cười. Thằng bé vẫn chất phác và lém lỉnh như độ nào.

– Thế em ở đâu ?

– Ở quán Mãn Ý.

– Ô, ta cũng vừa ở đấy ra.

– Tiếc quá ! Thế mà cô nương chẳng đến thăm sư phụ em. Hay bây giờ cô nương trở lại đấy đi !

– Không được, ta phải về có việc.

– Vậy thôi, em cũng đi đây.

– Này em, khi nào rảnh vào cốc chơi nhé !

Nhưng nói xong Oa Tử lại hối. Nàng chưa biết rõ gốc gác Giang ra sao và sư phụ nó là ai …

– Nhưng nhớ phải mặc quần áo tề chỉnh đấy !

– Vậy em không đến đâu ! Em ghét tới những nơi kiểu cách lắm.

Giang bỏ đi rồi, Oa Tử cho ngựa thong dong bước một về thảo thất. Qua cổng chính, nàng dẫn ngựa vào chuồng trao cho mã phu rồi đến ngay Trúc Mộ thất trình bày tự sự.

Trúc Mộ lão cười đáp:

– Ta biết chuyện đó tất phải xảy ra. Tính họ như vậy, chẳng phải lỗi ở họ. Còn bông mẫu đơn, cô nương vất đi rồi chăng ?

– Tiểu nữ thấy có người trong quán thích nên đã cho họ.

– Cũng được, chẳng sao. Hoa Sơn Điền Chính có xem kỹ bông mẫu đơn không ?

– Dạ có. Khi Điền Chính đọc thư, cầm bông mẫu đơn ngắm rồi trả lại, ông ta có vẻ giận, không hiểu vì sao tiền bối lại tặng hoa và nói tại Kyoto nhà ông có trồng rất nhiều loại hoa ấy.

– Hắn không xem vết cắt ở cuống hoa sao ?

– Dạ, không thấy xem, mà cũng không đả động gì đến chuyện ấy.

Trúc Mộ lão nghiêm mặt:

– Ta không cho bọn hắn gặp là phải. Chúng không đáng để ta tiếp. Trúc Mộ gia từ nay không muốn liên quan gì với Hoa Sơn nữa.

Võ đường Trúc Mộ nằm ở phía tả Đại lâu, cách đại sảnh một cái sân rộng. Võ đường thật đồ sộ, do chính tay Trúc Mộ Chính vẽ kiểu và đôn đốc xây cất khi ông còn trẻ, lúc khoảng tứ tuần. Bây giờ, sàn gỗ đã lên nước bóng lộn và những cây cột lớn gỗ sồi đã đổi thành nâu sẫm, vân đen nổi lên như gụ. Sau võ đường là hai dãy phòng lớn nhỏ nối với nhau ở hai mặt đông và tây. Khi hữu sự, những phòng này và cả võ đường có thể dùng làm nơi tạm trú cho tráng đinh họp lại bảo vệ cốc.

Sử Đà Chu An Môn ngồi ở một phòng lớn sau võ đường, chú ý giám sát hai võ sinh đang tập luyện. Võ khí họ dùng không phải là thứ côn gỗ như thường thấy, nhưng là một loại kiếm đặc biệt dài chừng sải tay, làm bằng nhiều thanh tre ghép lại và quấn da xung quanh. Kiếm không có lá chắn cũng không có chuôi, trông tựa như cây gậy lúc thường thì cứng nhưng đụng vào vật gì lại mềm. Tuy không nguy hiểm bằng kiếm gỗ, nhưng chém trúng có thể gây thương tích trầm trọng.

Sử Đà chăm chú lược trận, thỉnh thoảng ghi điểm vào một cuốn sổ nhỏ đặt trên đùi hay nói vài câu khuyến khích hoặc chỉ dẫn.

– Nhẹ thôi ! Đừng chú mục vào mũi kiếm, giữ tâm cho ngay, tấn công bằng lòng mình chứ không phải chỉ bằng kiếm !

Hai võ sinh hăng say quần thảo, mồ hôi ướt đầm cả lưng áo. Bên trong mặt nạ, bốn mắt quắc lên như đổ lửa. Tiếng hét xung trận, tiếng kiếm tre đập vào nhau chan chát cả võ sảnh.

Bỗng Sử Đà giơ tay làm hiệu:

– Ngưng !

Rồi nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy người lính tuần dẫn một đứa nhỏ vào, hắn cất cao giọng:

– Tuần vệ ! Đi đâu thế ?

Trông đứa nhỏ hơi quen, mới ngờ ngợ thằng bé đã nhanh nhảu:

– Kính chào đại hiệp, cháu là Giang.

Sử Đà sực nhớ ra, gật gù thấy thằng bé đã học được bài học trên đường Yamoto tháng trước. Hắn hỏi:

– Ngươi vào đây làm gì ?

– Cháu đã xin phép ông này.

Giang vừa nói vừa chỉ người lính.

Sử Đà quay sang tên túc vệ:

– Ngươi dẫn thằng bé này vào đây làm gì ?

– Thưa Sử quản gia, nó muốn xin gặp đại nhân.

– Xin gặp ta ? Ai muốn gặp ta, ngươi cũng dẫn vào hay sao ? Này bé con !

– Dạ.

– Đây không phải là chỗ chơi, đi nơi khác.

– Cháu có đến chơi đâu, cháu mang thư của sư phụ mà.

– Sư phụ ngươi là giang hồ lạc thảo đang tìm thầy học đạo như ngươi nói trước đây phải không ?

Nghe lời khinh miệt, Giang có ý giận. Nó đáp:

– Thì đại hiệp cứ đọc thư khắc biết.

– Ta không đọc.

– Sao vậy ? Đại hiệp không biết chữ à ? Chỉ có không biết chữ mới không đọc được thư.

– Thằng bé này lém miệng quá ! Ta không đọc không phải vì không biết chữ mà vì thấy vô ích.

– Đại hiệp cho là vô ích thì đừng trả lời. Nhưng ít nhất người có lễ độ cũng phải đọc thư người khác gửi cho mình chứ.

– Thời nay bọn lạc thảo nhiều như ruồi, nếu ta phải giữ lễ với tất cả bọn đó thì thời giờ đâu ta làm việc khác ! Ta không cần đọc thư cũng thừa biết trong đó nói cái gì, đại khái thầy ngươi ca tụng Trúc Mộ gia là kiếm sĩ siêu phàm, muốn tiếp kiến để mở rộng tầm mắt hoặc xin tá túc ít lâu chứ gì ! Có đúng thế không ?

Giang đỏ mặt:

– Cháu không biết.

– Theo tục lệ Ở đây, ai đến Trúc Mộ gia xin việc gì cũng đều được đãi ngộ tử tế.

Ngươi đi theo người lính này xuống nhà ngang, đưa thư cho ông đội trưởng. Ông sẽ tìm một chỗ cho thầy trò ngươi ở tạm và khi nào đi sẽ giúp thầy ngươi một số tiền nhỏ làm lộ phí.

Giang lắc đầu. Mặt nó trở nên nghiêm nghị:

– Đại hiệp đừng trông bề ngoài mà xét người. Cháu không phải ăn mày mà sư phụ cháu chắc cũng không xin xỏ gì đại hiệp.

Sử Đà hơi bẽ, hắn nhìn Giang, tuy tức nhưng thấy thằng bé có hào khí cũng nể.

– Vậy sao ? Ngươi muốn gì ?

– Cháu chỉ xin đại hiệp đọc thư. Sư phụ cháu không như những người khác. Mà đại hiệp đọc thư thì có ai cắt cổ đại hiệp đâu !

Sử Đà bật cười. Ừ, thằng bé nói có lý. Qua hàm râu quai nón rậm, tiếng cười của hắn vang vang làm mọi người trong phòng cũng cười theo. Hắn giơ tay:

– Đưa đây. Ngươi thật là đứa bất trị.

Giang cầm cuốn thư đưa cho Sử Đà. Hắn cởi dây, bật niêm, yên lặng ngồi đọc.

Mặt hắn dần trở nên nghiêm trang. Khi đọc xong, Sử Đà ngẩng lên hỏi Giang:

– Ngươi có mang theo cái gì cùng với thư này không ?

– Ấy quên, có. Còn cái này nữa.

Và Giang lật đật lấy trong tay áo kimono ra một đoạn cuống hoa đưa cho Sử Đà.

Sử Đà ngồi đăm chiêu nhìn lá thư rồi lại nhìn đoạn cuống hoa. Hắn gãi râu không hiểu ý của người viết:

“Tại hạ không biết ai đã cắt nhành mẫu đơn này. Có một cái gì kỳ lạ làm tại hạ vô cùng ngưỡng phục toát ra từ vết cắt, thúc đẩy tại hạ tìm hiểu bậc cao nhân nào đã ra tay tinh mật đến thế. Chuyện không có gì, nhưng nếu các hạ không cho đó là phiền, xin cho biết danh tính của bậc cao nhân ấy, tại hạ hết lòng đa tạ”.

Thư không đả động gì đến chuyện xin tá túc hoặc muốn vào nhập môn nhà Trúc Mộ hay đòi tỷ kiếm với bất cứ ai trong cốc.

– Hừ, lạ thật !

Sử Đà lại cầm đoạn cuống hoa lên ngắm nghía thật kỹ, vẫn không phân biệt được sự khác nha giữa hai vết cắt.

– Mạnh Đạt ! Hắn gọi. Vào đây xem cái này. Lạ lắm !

Mạnh Đạt vào. Sử Đà đưa cho xem lá thư và cuống hoa, nhưng Mạnh Đạt cũng không phân biệt được.

– Theo trong thư thì vết cắt hai đầu có khác. Tiểu đệ không nhận ra. Thử hỏi Quách Mục xem !

Hai người bèn mang thư và cuống hoa lên văn phòng Quách Mục. Quách Mục cũng là tay kiếm sĩ tinh thục, nhiều kinh nghiệm bôn tẩu giang hồ, hiện giúp việc quản trị sổ sách và chi thu trong nhà Trúc Mộ. Sử Đà và Mạnh Đạt đem thư đến thì Quách Mục cũng vừa định xuống võ sảnh.

Nghe chuyện, xem thư và cuống hoa, Quách Mục tỏ ra băn khoăn chẳng kém gì hai bạn đồng bối. Nhưng hắn nói:

– Hôm qua, đệ có thấy lão nhân gia cắm bông mẫu đơn trắng trong phòng rồi sai Oa Tử mang một bông hoa y như thế ra quán Mãn Ý. Chắc chỉ có lão nhân gia cắt hoa chứ không ai ! Bấy giờ hình như có Sử huynh ở đó mà !

– Có, đệ có thấy nhưng không rõ có phải lão nhân gia cắt không !

Đột nhiên Sử Đà giật mình, lấy tay đập vào bức thư:

– Á ! Chúng ta có mắt mà như không ! Thật vô ý quá ! Tên người viết rành rành ra đây. Yết Mân Thạch Điền Đạt Lang. Có phải Thạch Điền, người đã giúp Quang Minh hội trừ sạch bọn gian ác ở đồng cỏ Hannya không ?

Ba người truyền tay nhau lá thư đọc lại.

– Ừ, có thể lắm !

– Có thể lắm !

– Xem thư biết khẩu khí. Nếu quả vậy thì hắn có con mắt tinh đời hơn chúng ta, trông vết cắt trên cuống hoa biết công phu nhà Trúc Mộ. Đồng thanh tương ứng, tay này đáo để lắm, không coi thường được.

Quách Mục bàn:

– Nếu đúng là Thạch Điền Đạt Lang thì ta nên gặp. Để xem tài hắn đến đâu và hỏi cho ra cái lẽ ở đồng cỏ Hannya.

Sử Đà vội nói:

– Nhưng lão nhân gia đã có lệnh không tiếp ai. Ta không thể để hắn vào võ đường mà không trình lão nhân gia biết được.

– Hay là thế này. Bây giờ là mùa hoa tử thảo mà đỗ quyên cũng sắp đâm bông. Ta tổ chức một bữa tiệc nhỏ, uống rượu ngắm hoa để lấy cớ mời hắn đến. Hắn thì chắc không từ chối rồi, mà lão nhân gia có biết chắc cũng chẳng quở, vì là chuyện riêng mà !

– Hay lắm ! Ý kiến ấy hay lắm ! Nhân thể có thằng nhỏ đợi, ta thảo thư phúc đáp ngay đi.

Giang chờ trong phòng, không biết nói chuyện với ai, buồn quá bỏ ra hiên đứng nghênh trời nghênh đất. Vườn sau rộng thênh thang, cây rậm rạp rất hợp với ý nó. Giang len lén ra vườn, đi quanh quẩn. Một con chó đen lớn trông thấy Giang, ve vẩy đuôi. Nó dừng lại, để hai tay ra sau gáy, gọi. Chó và người nhìn nhau một lúc rồi con vật đến gần ngửi áo và tay chân Giang. Giang vuốt đầu con chó. Cả hai làm quen với nhau được một lúc thì thân mật rõ ràng. Thằng bé ôm cổ con chó và con chó thè lưỡi liếm mặt thằng bé.

Trong khi chơi đùa, Giang bỗng nảy ý nghĩ muốn giữ mõm con chó lại xem nó có cắn được không, bèn đưa hai tay ghì chặt lấy mõm chó, miệng nói:

– Nào, xem mày làm sao nào !

Con vật kêu ư ử, vẫy đầu lia lịa cố gỡ ra. Giang càng giữ chặt. Nó lấy chân quào Giang làm rách một miếng áo. Giang vội bỏ tay, chó thoát được sủa ầm ĩ. Sợ mọi người nghe tiếng, Giang lấy thanh kiếm gỗ gõ mạnh lên đầu chó khiến con vật nổi hung nhảy vào cắn tới tấp. Giang kinh hãi, hai tay che mặt, người và chó lăn lộn dưới đất. Tiếng Giang kêu cứu lẫn tiếng chó sủa và tiếng chân người chạy rầm rập vang động cả khu vườn yên tĩnh.

Chương 18: Tiếng sáo

Về phòng trọ, Giang đến trình diện sư phụ. Những vết xây xát ngang dọc trên mặt làm nó đau lắm, nhưng Giang gan không than thở, chỉ móc trong bọc lá thư đưa cho Thạch Đạt Lang:

– Thưa thầy, có thư phúc đáp.

Giang kể lại vắn tắt chuyện gặp Sử Đà, nhưng không đả động gì đến vụ vật nhau với con chó. Trong khi nói, những vết thương trên mặt nó căng ra, rướm máu. Thạch Đạt Lang nhìn Giang trừng trừng nhưng thấy nó không kêu ca hay giải thích nên cũng không hỏi. Hắn bảo học trò xuống nhà dưới rửa mặt rồi vội vàng mở thư ra đọc.

Đến cửa bếp, Giang gặp ả nữ tỳ. Nhìn mặt Giang, ả ngạc nhiên:

– Ủa, sao vậy ? Lại nhảy vào bụi gai bắt chim phải không ?

– Không. Chó cào !

– Chó cào ? Chó nào vậy ? Trêu nó hả ?

– Chó trong vườn sau Đại lâu.

– A …con chó đen phải không ? Dữ lắm, sức anh sao địch được nó. Trước đây có tên trộm vào rình rập trong vườn bị nó cắn suýt chết đấy.

Ả dẫn Giang ra suối, ân cần vã nước lạnh lên mặt rửa các vết thương cho nó rồi đưa vào phòng kho bảo ngồi ở chân đống rơm đợi ả đi lấy thuốc. Thuốc bôi xong, mặt Giang trông nhem nhuốc như con gà bôi phẩm. Không nín được cười, ả quay đi lấy tay che miệng, sau nghĩ sao lại ngồi bên cạnh Giang, dịu dàng cầm tay nó đặt vào tay mình.

Một cảm giác ấm áp truyền từ cô bé sang làm Giang thấy dễ chịu. Nó đỏ bừng mặt nhìn người bạn gái mới. Ngoài kia, ánh nắng ửng lên, chan hòa trên những cánh hoa đào bắt đầu nở rộ.

Tối hôm ấy, Thạch Đạt Lang đóng cửa ngồi một mình trong phòng không nói với ai lời nào. Đến đêm, hắn cũng không ngủ, nằm yên mắt dán lên trần nhà, suy nghĩ lung lắm. Giang co ro trên chiếc chiếu ở góc phòng, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn trộm sư phụ, tự hỏi không biết ông có rõ chuyện mình bị chó cào không ! Nó cũng nghĩ lan man, vừa tức giận và có ý trả thù con vật, vừa vui thích khi tưởng đến chuyện ngồi bên ả thì tỳ trong gian nhà kho, rồi cơn buồn ngủ kéo đến làm nó thiếp đi lúc nào không biết.

Sáng hôm sau, vừa tỉnh dậy, Giang đã thấy sư phụ ngồi một mình uống trà bên cửa sổ, mặt lầm lì, dáng tư lự. Nó len lén đi ra ngoài hiên thì Thạch Đạt Lang gọi giật lại.

Ruột thót lên cổ, Giang chắc phen này bị mắng hoặc phải đòn, nhưng không, thầy nó chỉ sai đi gọi chủ quán để tính tiền và bảo sửa soạn để buổi chiều lên đường. Giang thở phào, vui vẻ chạy ra cửa.

Trời vừa ngả bóng, thầy trò Thạch Đạt Lang đã sẵn sàng. Chủ quán đứng đợi tiễn khách trước cổng. Ông cảm thấy quyến luyến và có cảm tình đặc biệt với người khách trọ trẻ tuổi trang nghiêm và hào sảng tuy khách mới ở được non một tuần.

Đi một lúc, Thạch Đạt Lang linh cảm có điều gì khang khác, quay lại quả nhiên không thấy Giang đâu. Hắn lên tiếng gọi, không ai trả lời, bèn trở lại quán thấy tên tiểu đồ đang bịn rịn từ biệt cô hầu nhỏ. Thạch Đạt Lang quắc mắt, sẵng giọng:

– Giang !

Giang líu ríu theo thầy, trong khi cô bé quay đi kéo vạt áo chùi mắt.

Khỏi làng được một quãng, Thạch Đạt Lang hỏi đồ đệ:

– Còn xa không ?

– Thầy đi đâu ?

– Đến Đại lâu.

– Ta ngủ đêm ở đó hả thầy ?

– Không chắc. Ta được mời đến đó bữa nay. Ngủ đêm ở đó hay đi đâu còn tùy, sẽ liệu sau.

– Vậy gần tới rồi. Cái cổng lớn đằng kia là cổng Đại lâu đấy.

Thạch Đạt Lang đến trước cổng. Những tảng đá lớn dưới chân cổng loang lổ rêu xanh, rặng tre già mọc sát bờ lũy rì rào, kẽo kẹt, vài vạt nắng chiều còn thoi thóp đọng trên những ngọn cây cao. Chiều rồi. Buổi chiều êm đềm trong một thung lũng cô tịch. Có ai mới lên đèn trong căn nhà gỗ nhỏ phía bên kia cổng dùng làm điếm canh. Thạch Đạt Lang lên tiếng gọi. Khi người lính tuần cầm giáo ra mở cổng, Thạch Đạt Lang trao thư cho hắn và xưng danh:

– Tại hạ là Thạch Đạt Lang, được mời đến gặp vị chấp quản. Xin báo cho biết tại hạ có mặt ở ngoài này.

– Dạ. Tiểu tốt đã được lệnh đón đại hiệp ở đây. Xin mời đại hiệp vào.

Thầy trò Thạch Đạt Lang theo chân người lính tuần qua nhiều dãy hành lang đến một căn phòng rộng. Trong ánh chiều chập choạng, hắn để ý các phòng dọc theo hành lang, phòng nào cũng kê đầy những kệ sách. Chắc không phải chỉ là binh thư, kiếm phổ vì làm gì mà nhiều đến thế, mà còn đủ loại sách khác. Nhìn cách trần thiết trang nhã, cổ kính; những lối đi, vườn tược gọn gàng cùng phong cách khiêm cung của lính tuần, hắn thấy chủ nhân là người ưa nếp sống thanh đạm, những người chung quanh ông hẳn không đến nỗi thô lỗ. Mặc dầu Trúc Lâm cốc nổi tiếng về kiếm thuật nhưng bản chất dân Trúc Lâm, nhất là ở Đại lâu này, hẳn là bản chất hiếu hòa, ưa đọc sách hơn dùng kiếm.

Thạch Đạt Lang cởi dép bước vào phòng ngồi đợi trong khi người lính dẫn Giang đến một phòng khác ở vườn sau và đi thông báo cho Sử Đà biết.

Căn phòng rộng trần thiết đơn giản, ngọn đèn lồng không đủ soi sáng hết mọi phía. Trên tường đối diện cửa sổ treo một bức cổ họa vẽ một người ra vẻ đạo sĩ đang múa kiếm dưới trăng, bên dưới đặt một bình hoa nhỏ, men xanh da rạn cắm độc nhất bông hồng trà mới nở. Trong cái khung cảnh khắc khổ của gian phòng, có lẽ bông hoa này là vật duy nhất mang lại đôi chút vui tươi cho tân khách. Ngoài hiên, dưới ánh đèn đá thấp, rặng tử thảo đã nở hoa, màu xanh tía thẫm nhạt chen nhau, hương tỏa nhẹ nhàng ngây ngất. Thạch Đạt Lang giật mình nghe tiếng ếch kêu, tiếng ếch đầu mùa báo hiệu mùa mưa sắp tới. Hắn lắng tai chờ nó kêu nữa, nhưng không nghe động tĩnh gì, chỉ thoảng như có nước chảy ở quanh nhà. Tiếng róc rách nhẹ lắm, nghe rất xa mà đôi lúc lại thật gần như ngay bên vách tường hay dưới chân. Một cảm giác mát rượi, thoải mái bao quanh lấy hắn, nhưng trong thâm tâm hắn bồn chồn lo ngại. Không biết đấy có phải là phản ứng mãnh liệt do bản chất hiếu chiến của hắn phát ra cả trong những lúc yên ổn như thế này không. Hắn nhớ đến nhà sư già mày trắng, cố giữ cho lòng bình thản nhưng vẫn không dằn được, đảo mắt nhìn quanh. “Trúc Mộ là kiếm sĩ, ta cũng là kiếm sĩ. Trúc Mộ giàu kinh nghiệm nhưng già rồi, chưa chắc ăn đứt được ta. Hãy thử. Kiếm học nhà Trúc Mộ chỉ có ta mới lượng định được !”.

– Tráng sĩ tha lỗi, để người phải chờ, thật đắc tội !

Sử Đà Chu An Môn vừa bước qua cửa đã cúi đầu thi lễ và xin lỗi ngay, theo sau là Mạnh Đạt và Quách Mục. Giới thiệu xong, vừa an tọa thì kẻ hầu đã bưng rượu ra. Rượu sa-kê cất ngay tại trong cốc, không được trong lắm nhưng vị đậm mà êm, lại được rót vào bát sành theo kiểu xưa, mới hâm nóng nên hương tỏa ngào ngạt. Sử Đà vui vẻ:

– Ở chốn thôn dã hủ lậu, chẳng có gì đặc biệt khoản đãi, xin tráng sĩ vui lòng dùng tạm.

Thạch Đạt Lang tươi cười đáp lễ. Hắn cảm ơn, nâng bát uống cạn. Tuy thích sa-kê nhưng không phải là tay sành rượu, hắn không thưởng thức được hết hương vị đậm đà của thứ danh tửu này cất ngay tại cốc bằng chính gạo nếp và nước suối địa phương.

Mỗi người rót mừng một bát, Thạch Đạt Lang trong người nóng ran, sự dè dặt ban đầu bớt đi nhiều. Quách Mục gật gù:

– Các hạ tửu lượng thật hào ! Hôm nay gặp nhau hãn hữu lắm đấy, xin uống say, đừng vì sơ kiến mà e ngại.

Rồi nghiêng đầu lại gần Thạch Đạt Lang:

– Các hạ có biết ai cắt nhành mẫu đơn ấy không ? Chính Trúc Mộ lão nhân gia đó!

Thạch Đạt Lang đập tay lên đùi cười lớn:

– Biết ngay mà ! Tại hạ đoán không lầm. Thật là tuyệt diệu !

Mạnh Đạt chen vào:

– Có điều bọn tại hạ không hiểu tại sao các hạ phân biệt được nhát kiếm đó với nhát kiếm của những người khác. Xin nói rõ được chăng ?

Thạch Đạt Lang đáp cầm chừng, vì thật ra hắn cũng không hiểu tại sao hắn nhận ra điều ấy nữa:

– Vậy hả ? Các vị không rõ thật ư ?

– Dĩ nhiên. – Sử Đà tiếp theo – Tại hạ không thấy gì đặc biệt trong vết cắt, nhưng các hạ đã phân biệt được hẳn phải có con mắt chẳng tầm thường. Dám xin chỉ cho biết rõ.

Thạch Đạt Lang nâng bát rượu lên uống một hớp, mắt đăm đăm nhìn về phía trước, lúc sau mới đáp:

– Cũng chẳng có gì lạ, chỉ nhờ may mắn …

– Xin đừng quá khiêm ! Bọn tại hạ ngưỡng mộ tài năng các hạ, mời đến đây, chớ nên giấu diếm.

– Tại hạ quả không dám giấu, có lẽ nhờ trực giác nên trong một phút xuất thần, cảm quan …

Ba người kia lắc đầu tỏ vẻ không tin. Là những tay giang hồ nhiều kinh nghiệm và có nhiệm vụ bảo vệ cố khi hữu sự, làm sao họ có thể tin dễ dàng như vậy được. Huống chi cả ba đã ngầm ý quan sát và phân tích con người cùng sở học của Thạch Đạt Lang.

Họ để ý đến dáng điệu quê kệch khi hắn cầm bát, lối giơ tay chùi mép sau mỗi lần uống, những cử chỉ tuy nhỏ nhặt nhưng tố giác gốc nông dân của hắn. Điều làm họ ngạc nhiên là không hiểu võ công Thạch Đạt Lang ra sao mà hắn có một trực giác bén nhậy và những nhận xét tinh tế đến thế ! Mạnh Đạt đã ngà ngà say, không còn giữ gìn nữa:

– Cảm quan gì ? Tại hạ biết được không ?

– Đã gọi là trực giác thì cảm hoặc không cảm, thế thôi ! Làm sao giải thích ? Điều này bất khả ngôn truyền, chỉ so kiếm mới rõ, không có cách gì khác !

Sử Đà nhìn hai bạn đồng bối. Tuy không nói toạc ra nhưng lời vừa rồi của Thạch Đạt Lang rõ ràng ngụ ý thách thức.

Cả bốn người ngồi im như tượng. Ngọn đèn dầu thông tỏa khói đen đặc quánh bốc thẳng lên cao trong bầu không khí ngột ngạt. Một tiếng ếch kêu từ ngoài vườn vọng vào, cô độc và tắc nghẹn.

Sử Đà là người đầu tiên cười lớn, phá tan bầu không khí yên lặng căng thẳng đó:

– Hà hà …phải lắm ! Các hạ nói rất phải ! Làm sao truyền thụ được !

Rồi lái sang chuyện khác. Họ đàm luận về võ công, thiền học, kể lại những trận chiến danh tiếng họ đã tham dự như trận Sekigahara trước đây. Thạch Đạt Lang ngồi nghe chỉ ừ hữ cho qua. Chưa say lắm, hắn vẫn còn đủ khôn ngoan không để lộ những thành tích của mình:

trong trận ấy, hắn chỉ là tên lính quèn trong hàng ngũ đối địch với nhà cầm quyền và thua trận. Vả lại mục đích của Thạch Đạt Lang không phải đến đây đàm luận những việc đã qua. Hắn cần gặp Trúc Mộ Chính. Thời gian đi mau, hắn biết nếu không gặp lão đêm nay thì không bao giờ còn hy vọng nữa.

Sử Đà gọi gia nhân mang cơm và thức ăn ra. Bữa rượu gần tàn, đêm đã khuya mà hắn vẫn chưa tìm được cách gì làm cớ ra mắt Trúc Mộ Chính. Thất vọng, Thạch Đạt Lang mượn chén nói nhiều câu khích bác với ý định chọc giận Sử Đà, Mạnh Đạt và Quách Mục nhằm gây náo loạn, nhưng ba người chỉ cười không để ý. Vô kế khả thi, hắn đứng dậy đến gần cửa sổ. Gió mát bên ngoài thổi lên da mặt nóng và ẩm mồ hôi của hắn, Thạch Đạt Lang thấy dễ chịu tỉnh táo hơn.

Đột nhiên có tiếng chó sủa về phía vườn sau, trước còn rời rạc sau mau dần làm mọi người chú ý. Quách Mục đưa mắt nhìn Sử Đà:

– Sử huynh có nghe thấy gì không ?

– Có. Tiếng con Ta-rô. Không hiểu chuyện gì mà nó sủa dữ thế !

Ta-rô là tên con chó mực mới hôm qua đè Giang xuống, cào nó sướt cả mặt, nếu không có gia nhân trong cốc chạy đến cứu kịp thì nó đã bị thương nặng rồi.

Tiếng chó sủa mỗi lúc một dữ dội, tru lên từng hồi dài, báo hiệu có người rình rập.

Dạo này trong cốc không được yên, tuy đa số những phần tử phản loạn đã bị dẹp gần hết, nhưng thỉnh thoảng một vài tên thảo khấu vẫn đi lại dòm ngó, nhất là Trúc Lâm cốc vốn có tiếng là một địa phương trù mật.

Sử Đà, Mạnh Đạt, Quách Mục nhìn nhau, vẻ bồn chồn lộ ra mặt. Quách Mục đề nghị:

– Để tiểu đệ chạy ra xem …

Hai người kia gật đầu, nhưng ngay sau khi Quách Mục vừa bước ra khỏi cửa, tiếng kêu của con chó vang lên ghê rợn, tiếp theo là một tràng hú dài, vài tiếng ằng ặc rồi im hẳn.

Sử Đà nhìn Thạch Đạt Lang:

– Nó chết rồi !

Không giữ được kiên nhẫn, Sử Đà phất tay áo đứng dậy:

– Ta phải ra xem sao. Mạnh huynh ở lại tiếp khách.

Thạch Đạt Lang vội ngăn lại:

– Khoan ! Tên tiểu đồ của tại hạ còn ở phòng sau không ?

Không ai biết. Mạnh Đạt chạy vội ra ngoài và trở lại ngay nói thằng bé không còn ở đó nữa. Thạch Đạt Lang quay sang Sử Đà:

– Tại hạ đã hiểu đôi phần. Xin cùng đi được không ?

Sử Đà không đáp, chỉ gật đầu bước vội ra cửa, theo sau là Mạnh Đạt. Gần đến khu vườn cạnh võ sảnh, một đám đông tụ họp lố nhố, người gậy kẻ đuốc, chỉ trỏ hò hét inh ỏi. Vài kẻ ở trần, chưa kịp cả mặc áo.

Đứng ngoài, Thạch Đạt Lang nghểnh cổ nhìn vào, ruột thót lại. Đúng như hắn dự đoán, thằng Giang học trò hắn, mặt mũi bê bết máu, đương ngồi thở hổn hển trong vòng, tay lăm lăm thanh gươm gỗ. Ta-rô, con chó đen, nằm chết bên cạnh, mắt mở trừng trừng, một dòng máu lẫn rớt rãi rỉ ra từ mõm. Dưới ánh đuốc bập bùng, khói nhựa thông đen cuồn cuộn, trông Giang thật ghê sợ. Chó và người, máu với đất quện đầy mình không khác gì hai con quỷ mới ở âm ty chui lên.

Có giọng nói lớn át cả mọi tiếng ồn ào:

– Súc sinh ! Ngươi giết chó của lão nhân gia, ngươi phải đền mạng !

Ai nấy la hét:

– Đúng ! Đúng ! Bắt nó ! Đừng để nó chạy thoát !

Như được kích thích, kẻ vừa nói lập tức nhảy vào giơ tay chộp thằng bé. Nhanh như cắt, Giang lăn một vòng, người kia vồ hụt ngã sóng soài. Mọi người cười ồ. Không khí nửa bi nửa hài, cảnh đốt đuốc làm tội phạm nhân ở ngục A Tì chắc cũng chỉ đến thế!

Giang chạy đến dựa lưng vào gốc cây, một tay giữ ngực, tay kia cầm kiếm giơ lên chùi máu trên mặt, giọng đứt quãng:

– Phải …Ta giết …ta giết đấy !

– Sao ngươi giết nó ?

– Trả thù !

Mọi người ồ lên một tiếng ngạc nhiên. Không ai trả thù chó bao giờ, huống chi con Ta-rô này là chó quý, loại rặt giống chó săn do chính tay Trúc Mộ cốc chủ giao cho hai tên túc vệ săn sóc. Bây giờ chuyện xảy ra như thế này, hai tên kia thoát sao khỏi bị trừng phạt.

Người lính ngã lúc nãy đã đứng dậy. Cơn giận nổi lên, mắt đổ hào quang, hắn vung nắm đấm thoi vào mặt Giang. Giang né, nhưng lần này tránh không kịp, quả đấm trúng vào vai. Nó ngã ngồi, bậm chặt môi giữ cho khỏi khóc.

Giang ngạc nhiên hết sức. Trong thâm tâm nó, hành động trả thù con chó rất là tự nhiên và chính đáng:

con vật đã cào rách mặt nó. Đối với một kiếm sĩ, đấy là một việc làm tổn thương đến danh dự, phải có phản ứng. Mà phản ứng thích đáng nhất, theo nó, là giết con vật. Không biết sao người lớn không hiểu chuyện ấy, đã không giúp nó thì thôi, lại còn tìm cách hành tội nó. Giang là một đứa trẻ liều lĩnh và bướng bỉnh, điều gì nó cho là phải, nó giữ vững, nhất định không chịu nhượng bộ.

– Ta không làm gì quấy, nó cắn ta, ta phải trả hận.

Người lính hét:

– Súc sinh ! Câm mồm ! Ngươi là con nít mặc kệ ngươi ! Ngươi giết chó của lão nhân gia, ta phải bắt ngươi trị tội !

Hắn đảo mắt nhìn quanh. Có kẻ gật đầu, có kẻ bàn bạc, tiếng ồn ào càng lớn. Xuất kỳ bất ý, hắn giơ tay chộp lấy vai thằng bé xách lên. Giang vùng vẫy, tay chém chân đạp lia lịa. Bọn Sử Đà cảm thấy bất nhẫn, nhưng vẫn đứng yên không can thiệp. Người lính xách Giang quay mòng mòng một vòng rồi vứt nó đánh bịch xuống đất. Giang ngã lăn ra. Nó lồm cồm bò dậy. Vừa nhục vừa tức, mặt nó xám lại. Người lớn, khi tức giận, còn có thể suy nghĩ hơn thiệt, dằn cơn tức để tìm cách đối phó sau; nhưng trẻ con lúc giận lên thì ngay đến mẹ nó cũng không sao bảo được. Dáng điệu Giang lật đật trẻ con, nhưng mắt nó bây giờ không còn là mắt trẻ con nữa. Lòng căm thù hừng hực, nó gầm lên man rợ tựa con thú bị thương dồn vào đường cụt, cong mình nắm chặt đốc kiếm gỗ, quyết chống cự đến cùng:

– Này bắt ! Vào đây bắt đi !

– Á à ! Thằng này giỏi. Ta giết ngươi như giết chó !

Dứt lời, gã đưa gây đập xuống. Miếng đòn ấy nếu trúng Giang thì đã rồi đời thằng bé, nhưng theo phản ứng tự nhiên, nó giơ kiếm lên đỡ. Rắc ! Thanh kiếm gãy làm hai, tung lên trời. Giang thấy người lính nhào về phía trước, bèn thuận đà nhảy phắt lên lưng gã, chân quặp vào hai bên sườn, răng cắn vào cổ áo, còn hai tay thọc mạnh vào nách người lính. Thế đánh bất ngờ này khiến người lính lúng túng, đánh rớt cây gậy, còn Giang như con rắn lục bám vào cành cây, giữ chắc, những ngón tay móng sắc nhọn cào như điên vào nách kẻ địch. Thạch Đạt Lang ở vòng ngoài, cho đến bây giờ vẫn khoanh tay bất động. Một kẻ khác trong đám đông nhảy vào, giơ gậy định phang sau lưng thằng bé. Thạch Đạt Lang liếc mắt trông thấy, quát lớn:

– Hèn !

Lập tức tung mình nhảy qua đầu những người đứng xem vào giữa vòng chiến.

Ngọn cước đặt đúng chỗ của hắn làm tên đánh lén bắn ra ngoài. Thạch Đạt Lang nắm lấy áo Giang kéo ra, tiện chân đạp người lính ngã sấp. Giang mừng rỡ kêu lên:

– Thầy !

Hai tay Thạch Đạt Lang đỡ đồ đệ lên cao khỏi đầu. Dưới ánh đuốc đã lụi, giọng hắn sang sảng hướng về phía tên lính:

– Ta đứng ngoài kia quan sát chuyện này từ đầu. Thằng bé là đồ đệ ta, nếu ngươi muốn gì phải hỏi ta trước !

Người lính đứng dậy, giọng vẫn còn hách dịch:

– Vậy tốt ! Ta bắt cả hai thầy trò ngươi.

– Được ! Bắt thằng bé này trước !

Thạch Đạt Lang rỉ tai Giang:

“Giơ chân phóng vào ngực nó” đồng thời tung Giang đến trước mặt tên lính. Mọi người kêu lên kinh hãi. Họ chưa từng bao giờ thấy ai liều lĩnh đến thế:

dùng người làm võ khí, nhất là người đó lại là một đứa trẻ. Nhưng chưa kịp hoàn hồn, họ đã nghe đánh “hự”, người lính ngã ngửa về đằng sau. Giang dội ngược lại, lộn hai vòng rồi như quả bóng, lăn vào các lùm cây rậm rạp.

Diễn biến đột ngột làm mọi người sửng sốt. Không ai chú ý đến Giang nữa và đều quay lại nhìn Thạch Đạt Lang:

– Thằng này là ai ?

– Đứa nào vậy ? Nó đến đây làm gì ?

– Thằng điên hay quân cường đạo ?

Không ai biết gốc tích Thạch Đạt Lang và tại sao hắn có mặt trong cốc trừ Sử Đà, Mạnh Đạt và Quách Mục. Bọn gia nhân vây xung quanh hò hét, tay hờm sẵn đốc kiếm.

Nhưng Thạch Đạt Lang vẫn điềm tĩnh như không. Giữa những tiếng chân huỳnh huỵch của bọn người mang thêm đuốc chạy tới, hắn giơ tay, mặt đanh lại, nghiêm trọng:

– Đồ đệ ta có lỗi, ta chịu trách nhiệm. Thầy trò ta sẵn sàng chịu lỗi, nhưng ta cảnh cáo các ngươi biết chúng ta không để các người giết như giết một con vật ! Nào, ai muốn bắt ta, vào đây !

Mọi người cùng ồ lên một lượt. Họ không ngờ tên này khùng đến thế. Thay vì nhận lỗi, hắn lại lên tiếng thách thức. Giá hắn chịu nhún một chút có lẽ cũng xong vì dù sao hẵn cũng là khách, Sử Đà sẽ bỏ qua và chuyện sẽ không đến tai cốc chủ. Nhưng không hiểu vì lý do gì hắn lại nhất định khiêu khích và có thái độ đổ dầu vào lửa như thế ?

Mạnh Đạt cau mặt quay sang nói với Quách Mục:

– Thằng này điên thực rồi. Để nó đấy cho bọn túc vệ xử trí, ta nên tránh thì hơn.

Nhưng Sử Đà lắc đầu. Hắn bước ra dưới ánh đuốc, giọng oang oang ra lệnh:

– Tên này dường như chủ mưu đến đây gây loạn. Nếu ta mắc mưu nó để có người mất mạng hay thương tật, tất sẽ bị quở trách. Con Ta-rô tuy quý nhưng không quan trọng bằng một mạng người. Bây giờ khuya rồi, tất cả hãy về nghỉ, chuyện gì cũng để ba chúng ta đối phó !

Nhiều người gật đầu, có người phản đối nhưng Sử Đà quả thật có uy quyền trong cốc. Hắn trừng mắt. Đám đông lục tục ra về. Vài kẻ còn ngập ngừng chưa chịu đi, Quách Mục phải đích thân giải tán.

Một lúc sau, trong vườn chỉ còn lại Thạch Đạt Lang, Sử Đà, Mạnh Đạt và Quách Mục, nhưng đây không phải là khách với chủ mà là tội nhân trước mặt các phán quan.

Đuốc đã mang đi hết. Dưới ánh sao lờ mờ nhìn không rõ mặt người, giọng Sử Đà nghiêm khắc khác thường:

– Yết Mân Thạch Điền Đạt Lang ! Ta rất tiếc âm mưu của ngươi đã bại lộ. Ta không rõ ai sai ngươi đến đây, nhưng việc làm ấy thật vô ích …

Một bóng đen bé nhỏ len lén đến gần Thạch Đạt Lang. Không nhìn xuống hắn cũng đoán biết là đồ đệ. Hắn để tay lên vai Giang, xoa nhè nhẹ trấn an. Vai áo nó cứng những máu đọng.

– Thạch Đạt Lang ! Ngươi thất bại rồi, chỉ còn cách tự xử. Mặc dầu là đứa bất lương, nhưng ngươi đã tỏ ra khá can đảm, dám một mình cùng với thằng nhỏ này đến do thám. Hãy tỏ ra xứng đáng là người cầm kiếm, đừng để chúng ta phải ra tay vô ích !

Đối với Sử Đà, đó là cách giải quyết êm đẹp nhất. Hắn không được phép của Trúc Mộ cốc chủ mời Thạch Đạt Lang đến cốc nên nếu Thạch Đạt Lang chết thì câu chuyện coi như xong, không gây hậu quả gì phiền phức.

Thạch Đạt Lang cười nhạt:

– Ta chưa muốn chết.

– Hay lắm ! Quách Mục nói bằng giọng hòa giải. Chúng ta đã hết lời tử tế với ngươi, nhưng ngươi cố tình lạm dụng lòng tốt …

Mạnh Đạt nóng nảy:

– Thôi, không nói nhiều. Đi !

– Đi đâu ?

– Vào ngục.

Thạch Đạt Lang cười ha hả. Hắn cầm tay Giang gật đầu:

– Ừ thì đi !

Nhưng lại xăm xăm bước về phía Đại lâu. Mạnh Đạt nhảy ra ngăn lại:

– Ngươi đi đâu vậy ? Ngục thất ở đằng này !

Thạch Đạt Lang khẽ đẩy đồ đệ ra, bảo nhỏ:

– Lại ngồi đằng kia, con.

Giang hiểu ngay. Cảnh chiến đấu trên đồng cỏ Hannya buổi chiều hôm nào hiện rõ mồn một trong trí nhớ. Nó vụt đi nhanh như tên bắn.

– Ta không muốn vào ngục.

– Không vào ngục ? Vậy ngươi muốn gì ?

– Gặp Trúc Mộ Chính !

Câu trả lời của Thạch Đạt Lang khiến cả ba đứng sững. Không ai ngờ Thạch Đạt Lang liều lĩnh tới mức đó. Sử Đà là người cao niên nhất cũng phải cau mặt:

– Ngươi gặp cốc chủ làm gì ?

– Ta muốn thỉnh giáo vài thế kiếm.

– Á à ! Sao không nói trước ?

– Trúc Mộ lão không cho ai gặp, lại không bao giờ tiếp khách giang hồ đến xin yết kiến, phải vậy không ?

– Đúng vậy.

– Vậy ta thách các ngươi ! Ta tuyên chiến với cả cốc !

Đối với ba người, Sử Đà, Mạnh Đạt và Quách Mục, tiếng tuyên chiến nghe quá lớn và có vẻ kiểu cách, nhưng đối với Thạch Đạt Lang, tiếng đó mới chỉ đúng ý muốn của hắn. Vì đây là một trận đấu không phải hơn thua nhau về kỹ thuật của từng thế kiếm mà là một cuộc chiến toàn diện, đem cả sinh mạng mình ra đánh cuộc. Chiến tranh giữa hai quốc gia hay thị tộc có thể khác nhau về hình thức, nhưng trên căn bản cũng không khác.

Trong đêm tối bôn người nhìn nhau không nói, sự cảm thông gần như trọn vẹn.

Một con cú lớn bay ngang qua, tiếng đập cánh nhẹ tựa gió thoảng. Dưới ánh sao thưa, bóng nó thoáng hiện ra rồi lẩn ngay trong những tàn lá rậm.

Mạnh Đạt xắn tay áo:

– Được lắm ! Ngươi muốn chiến tranh sẽ có chiến tranh. Không có tù và, trống trận nhưng ta vui lòng tiếp ngươi. Sử huynh, Quách huynh, xin lược trận cho.

Hắn rút kiếm đánh soạt. Kiếm quang vừa lóe, hắn đã nhảy ngay về phía trước, lưỡi kiếm bổ xuống đầu Thạch Đạt Lang mạnh như vũ bão. Thạch Đạt Lang không né tránh, chỉ trầm mình xuống rút kiếm đỡ ngọn đòn của Mạnh Đạt. Một tiếng choang, ánh lửa thép nhoáng lên như than nổ trong lò, Thạch Đạt Lang xoay kiếm quét một đường vòng cung dưới chân Mạnh Đạt nhưng hắn khôn ngoan nhảy lui ra xa một trượng thủ thế.

Hai người đứng cách nhau chừng năm bước, im lặng và quyết liệt. Sử Đà nói nhỏ với Quách Mục:

– Có chuyện đấy, không khinh thường được đâu !

Tuy hai người không trực tiếp giao đấu nhưng Sử Đà và Quách Mục luôn trong tư thế sẵn sàng. Sau đường kiếm vừa rồi, họ thấy Thạch Đạt Lang không phải tay tầm thường, đáng là đối thủ của Mạnh Đạt.

Mạnh Đạt cầm kiếm hai tay ngang tầm ngực, lưỡi kiếm thẳng đứng, toàn thân im như tượng. Thạch Đạt Lang đứng nghiêng, im không kém, tay phải giữ kiếm gần lá chắn, cườm tay cao, vai hơi đưa ra đằng trước. Trong đêm tối, mắt hắn đen hơn cả bóng đêm, nhìn địch thủ không chớp.

Chiến tranh cân não giữa hai người kéo dài như vô tận, nhưng bóng tối quanh mình Mạnh Đạt hình như hơi rung. Người tinh ý thấy hắn thở nhanh hơn, nội tâm hắn dường giao động.

Quách Mục hừ một tiếng khẽ. Câu chuyện ban đầu không đáng gì, bây giờ thành quan trọng. Mũi tên đã bắn đi không lấy lại được nữa. Hắn cũng nghĩ như Sử Đà, việc này cần giải quyết sớm chừng nào hay chừng nấy, mà cách giải quyết tốt nhất là phát lạc nhanh chóng cho Thạch Đạt Lang. Không ai bảo ai, cả hai cùng rút kiếm khỏi vỏ, di chuyển sang tả hữu, vây Thạch Đạt Lang vào một gọng kìm.

Ngay lúc đó, một tiếng thét rùng rợn rung động cả đêm sâu, một đường kiếm xẹt nhanh như sao lạc, Thạch Đạt Lang đã đổi bộ vị, đứng dựa lưng vào gốc cây lớn với ba đối thủ trước mặt. Thế gọng kìm bị phá vỡ.

Dưới bóng cây tối đen như mực, ánh sao thưa lờ mờ yếu ớt, nhưng từ đó Thạch Đạt Lang nhìn ra ngoài, trông rõ mọi cử động của cả ba địch thủ. Bóng Thạch Đạt Lang nhập với bóng đêm làm một. Trong cái lúc mà biên giới sống chết chỉ cách nhau một sợi tơ, đầu hắn lạnh như băng nhưng da hắn nóng hừng hực. Sinh lực tràn trề trong cơ thể, từ những thớ thịt đường gân muốn bứt tung qua khắp các lỗ chân lông, trên những ngọn tóc, những đầu móng tay. Không biết đấy có phải là chân như của nhà Phật, lẽ huyền đồng của Đạo gia hay chỉ là sự tương dung của hai thái cực trong quá trình sinh tồn của vật chất ?

Không khí nặng như chì. Không một cơn gió, không cả tiếng côn trùng. Giờ phút ấy, người ta thường nghĩ đến cái chết. Thạch Đạt Lang thì không, mặc dầu hắn không nắm chắc phần thắng.

Có tiếng động nhẹ về bên trái. Thạch Đạt Lang biết Sử Đà vừa thay đổi bộ vị. Lập tức hắn cũng di chuyển theo. Thế trận này không có lợi cho hắn nếu không có một biến chuyển gì làm thay đổi cục diện. Mồ hôi lấm tấm trên mặt, hắn liếc mắt nhìn bên phải, chỗ Quách Mục đứng. Hắn muốn tốc chiến tốc thắng, một đường gươm chớp nhoáng và chính xác có thể phá vòng vây, đồng thời giải quyết cuộc chiến chóng vánh.

Quang cảnh thật kỳ lạ. Dưới ánh sao thưa, bóng ba người lờ mơ đứng đóng đinh xuống đất, quây xung quanh một gốc cây tối đen như mực. Trong cái yên tĩnh ngột ngạt, đột nhiên từ xa vọng lại một âm thanh không ai ngờ tới, âm thanh của cây sáo trúc.

Tiếng sáo nhẹ nhàng thanh thoát rót vào tai mọi người, theo gió đưa đến trong vắt.

Thạch Đạt Lang giật mình. Hắn không lầm được, đó là tiếng sáo của Oa Tử với những âm hưởng mê hồn đã lôi hắn vào tay Đại Quán. Trong nháy mắt, lòng hắn dịu lại, hắn quên kẻ địch trước mặt, quên cả sống chết, trí lâng lâng như tan loãng vào không gian. Một nháy mắt phân tâm nhưng đủ để định thành bại cả cuộc chiến.

Trong tiếng thét mạnh như sấm động xé tan màn đêm tịch mịch, Mạnh Đạt phóng tới, lưỡi kiếm hắn như dài thêm mấy tấc. Kiếm quang lóe cạnh thái dương, Thạch Đạt Lang cảm thấy lạnh ở bả vai, tay áo hắn bị cắt đứt một đường dài đến khuỷu. Bắp thịt toàn thân Thạch Đạt Lang co lại, hắn chắc bị thương. Chỗ áo rách phơi thịt trần đã thấy rát. Lòng tự tin không còn nữa, Thạch Đạt Lang hét lên một tiếng bi ai, lấy hết sức bình sinh đạp vào gốc cây nhảy qua đầu Mạnh Đạt lên một cành thấp gần đó. Hắn chuyền cành nọ sang cành kia, nhảy mãi nhảy mãi cho đến tận bờ hào Đại lâu mới buông mình rơi xuống, lẩn vào các bụi lau sậy mất dạng.

Xa xa, tiếng sáo vẫn văng vẳng đưa tới càng lúc càng thêm tha thiết …

Chương 19: Cánh chim hồng

Hào sâu hay nông, khô hay cạn, Thạch Đạt Lang không biết. Trời tối quá, hắn nhìn xuống dưới chỉ thấy hun hút. Thạch Đạt Lang chuyền cành, tay bám vào cây, tay cầm đá ném. Không nghe tiếng đa chạm mặt nước, bèn yên chí tụt dần xuống đến khi chân chạm đất mới nằm phục vào bụi cỏ. Một lúc sau đỡ mệt và thấy kinh mạch vẫn điều hòa, Thạch Đạt Lang biết là vết thương không nguy hiểm. Sờ vào cánh tay, máu đã se nhưng hắn cũng cứ xé vạt áo ra buộc lại.

Tiếng sáo đã im hẳn. Đâu đây có tiếng cú rúc làm đêm khuya càng thêm tĩnh mịch. Thạch Đạt Lang tự nhủ:

“Rõ ràng tiếng sáo của Oa Tử. Không biết sao nàng lưu lạc tới đây ! Ở đời thật lắm chuyện ngẫu nhiên khó mà lường được !”. Một phút phân tâm đủ thay đổi cả những dự định của hắn, làm hắn lỡ cơ hội gặp Trúc Mộ Chính nhưng cũng dạy hắn bài học quý báu.

Nhìn ánh sao lờ mờ ẩn hiện trên trời cao, Thạch Đạt Lang không thể nào không nghĩ tới Oa Tử. Lòng mềm hẳn lại, bao nhiêu kỷ niệm cũ ào đến:

cũng dưới bầu trời sao thưa và lộng gió như đêm nay, hắn đã chia tay cùng Oa Tử trên đỉnh đồi Nakayama.

Nàng hứa đợi, trăm ngày, ngàn ngày cũng đợi. Rồi lúc ở trên cầu Hanada, hắn cũng đã bỏ đi sau khi khắc trên thành cầu bốn chữ:

“Tha lỗi cho ta”. Bây giờ Oa Tử ở đâu ? Nàng làm gì, có nghĩ đến hắn không ? Thương cảm tràn ngập, hắn lẩm bẩm một mình trong đêm tối, nước mắt lưng tròng:

“Tha lỗi cho ta ! Tha lỗi cho ta !”.

Gió thổi rì rào qua hàng lau sậy. Trong gió dường như có tiếng than vãn lẫn với những tiếng rì rầm to nhỏ. Thạch Đạt Lang định thần, lắng tai. Tiếng rì rầm càng lúc càng lớn, ánh đuốc lập lòe ẩn hiện qua những bụi cây rậm rạp trên bờ rào. Gia nhân trong cốc đổ đi tìm hắn, lấy gậy và giáo dài xỉa vào các bụi cây, phạt ngang đầu những ngọn cỏ cao, la gọi nhau ơi ới. Thạch Đạt Lang nằm yên không động đậy, kiếm tuốt trần nắm sẵn trong tay, sẵn sàng vùng dậy nếu bị phát giác. Nhưng hình như bọn kia không biết có hắn trốn ở đó. Sau một lúc tìm kiếm vô hiệu, họ bỏ đi; tiếng ồn ào và ánh đuốc xa dần sau những bụi tre cao và rậm.

Thạch Đạt Lang đưa tay áo quệt nước mắt. Hắn giận mình đã yếu lòng và đã khóc.

Hắn tự nhủ:

“Chắc chúng cho mình hèn. Nhưng chưa đâu, phần thắng bại chưa rõ rệt.

Để rồi xem ! Trúc Mộ Chính mới chính là đối thủ của ta !”.

Thạch Đạt Lang men theo bờ hào, lầm lũi đi trong bóng tối. Một lúc lâu lắm hắn đến một nơi có tường đá chắn ngang, hắn dừng lại nhìn lên, không thấy trời đâu, chỉ thấy tàng cây xòe ra đen nghịt. Đằng trước là bức tường sừng sững, sờ vào ẩm ướt và trơn trợt, không sao leo lên được. Thất vọng, hắn định quay trở lại, bỗng nghĩ ra một kế. Hắn bẻ cành cây cắm luồn vào khe đá làm bậc, tay nắm chân đạp, hì hục trèo lên khỏi hào.

Trời đã khuya lắm hay sắp sáng, hắn cũng không rõ. Trong một thoáng, Thạch Đạt Lang nghe như có tiếng Giang gọi, nhưng lắng tai chú ý, chỉ thấy gió rì rào. Hắn nghĩ đến đồ đệ, không biết thằng bé ra sao, nhưng tin là nó tháo vát có thể trốn được. Không còn thấy ánh đuốc, Thạch Đạt Lang chắc bọn gia nhân trong cốc đã đi xa hoặc bỏ cuộc rồi. Sự tháo chạy vừa qua làm Thạch Đạt Lang càng nghĩ càng tự giận mình. Mặc cảm thất bại ám ảnh, hắn nhất định phải tìm cho được chỗ ở của Trúc Mộ Chính để thách đấu. Chủ quán Mãn Ý đã cho hắn biết Trúc Mộ lão ở ẩn trong một thảo am ven suối cạnh rừng trúc, nhưng không rõ về hướng nào. Vả lại trời tối quá không sao định hướng được nên hắn cứ đi bừa, lợi dụng bóng đêm tránh bọn gia nhân trong cốc.

Đi mãi, đi mãi … Lũy đất dài như vô tận báo cho hắn biết hắn vẫn còn quanh quẩn trong vòng rào đại lâu. Trời bắt đầu hửng sáng, bóng núi xa đã hiện lên mờ mờ trên nền trời hồng nhạt. Thạch Đạt Lang nghe tiếng nước chảy đâu đây, bấy giờ mới nhận ra mình khát. Lần theo tiếng nước chảy, hắn vạch cỏ tìm đường, đến một nơi hình như là đầu ngọn suối. Chỗ này khoáng đãng, cỏ gai và bụi rậm bớt đi nhiều, chỉ còn những gốc tùng, bách cổ thụ già đến hàng mấy trăm năm sừng sững bên đám loạn thạch ngổn ngang. Một dòng nước nhỏ từ hốc đá trên cao chảy ra trong suốt, đổ xuống phía dưới tung bọt trắng phau. Thạch Đạt Lang đứng sững, ngây người nhìn cảnh thiên nhiên ấy.

Dòng suối tươi mát chảy ào ạt bên những gốc thông già trầm lặng kia gợi hắn liên tưở ng đến dòng đời, tuổi trẻ, thế yếu mạnh của mọi vật. Ánh dương quang chênh chếch chiếu trên những phiến đá lớn vững vàng như những nét điêu khắc mạnh mẽ của một nghệ sĩ đại gia. Lòng yêu mến cảnh đẹp làm hắn quên cả khát và nhọc mệt.

Thạch Đạt Lang ngồi xuống phiến đá, bụm tay vốc nước uống. Nước suối trong, ngọt và mát làm sao ! Sau mỗi ngụm, hắn cảm thấy dễ chịu. Những giọt nước theo huyết quản hắn luân lưu trong cơ thể, lòng hắt dạt dào sung sướng như cùng với thiên nhiên hòa đồng một nhịp. Gió trên cành thông là hơi thở của hắn, nước suối kia là máu và những tiếng róc rách là tiếng đập của chính con tim hắn. Không cầm được khích động, hắn để nguyên cả quần áo nhảy xuống nước, ngụp lặn vùng vẫy say sưa …

Ở suối lên, Thạch Đạt Lang như trở thành một người khác hẳn. Tâm hồn cũng như thể xác hắn lâng lâng bay bổng. Hắn cởi bộ quần áo sũng nước hong lên phiến đá rồi chọn một chỗ khuất ngồi nghỉ.

Mặt trời lên khỏi ngọn cây, chắc vào khoảng cuối giờ mão. Sương lam trên sườn núi bắt đầu tan dần. Thạch Đạt Lang nhìn xa xa thấy một rừng trúc xanh biếc. Dòng suối dưới chân hắn quanh co lượn khúc, đến khu rừng thì bị lớp sương chưa tan hết che khuất. Ẩn hiện trong rừng hình như có nhiều gian nhà cỏ. Thạch Đạt Lang mừng hết sức.

Ngẫu nhiên hắn đã tìm ra chỗ ở của Trúc Mộ Chính.

Hắn hối hả lấy quần áo mặc vào và đi vội xuống núi. Quần áo chưa kịp khô, gió sớm thổi qua lành lạnh, nhưng mặc, hắn cứ đi tới. Bao nhiêu lâu chờ đợi, bây giờ thấy đây, hắn quyết không bỏ lỡ dịp. Thạch Đạt Lang đã có định kiến, quyết tâm gặp Trúc Mộ Chính và thách đấu. Sự thành bại ngày hôm nay rất quan trọng:

cởi bỏ cho hắn cái mặc cảm thua kém hay là chết; hắn không có lý do gì để lui bước.

Vườn nhà Trúc Mộ rộng vô cùng. Từ cổng nhìn vào, ngõ lát đá quanh co, hai bên giồng toàn trúc, thân cao mà thẳng, xanh biếc, cây nào cây nấy to bằng bắp chân, gốc tỉa cắt gọn gàng trên nền rêu xanh tươi mát. Ngõ sâu hun hút, bóng trúc che khuất không thấy nhà bên trong, có một vẻ gì huyền ảo và trang nghiêm phảng phất trong cảnh trí.

Thạch Đạt Lang đã có ý định cứ đẩy cổng bước bừa vào, nhưng khung cảnh thanh khiết của khu vườn làm hắn e ngại. Hắn bước tới ngồi trên tảng đá cạnh chân cột dưới mái tranh, vuốt lại tóc và sửa lại nếp áo xô lệch. Dù sao, hắn cũng chỉ là một kiếm khách vô danh, trước khi tiếp xúc với Trúc Mộ Chính, người hắn kính phục cả về tài năng cũng như nhân cách, hắn không muốn bị coi thường và bị cho là vô lễ. Hắn chờ.

Gió mát thổi hây hây mơn man trên da thịt, Thạch Đạt Lang ngủ quên lúc nào không biết.

Tiếng chim oanh ríu rít làm Thạch Đạt Lang giật mình thức giấc. Mặt trời lên đã cao, ánh nắng chan hòa đổ trên cây cỏ. Thạch Đạt Lang đứng dậy vươn vai, trong mình khoan khoái. Bao nhiêu nỗi mệt nhọc dường như tiêu tan đi cả. Hắn trông trước trông sau, định tâm tìm một vật gì làm dùi gõ cổng thì bỗng nhiên chú ý đến một tấm bảng gỗ dựng bên trong. Tấm bảng hơi nhỏ, có mái che mưa nắng, trên khắc nhiều hàng chữ.

Thạch Đạt Lang tò mò bước lại xem, té ra là hai bài thơ, nét chữ xương kính và vết khắc thật sắc sảo. Người viết đã dùng một thứ mực màu chàm trộn kim nhũ bôi lên nên những chữ khắc vàng rực dưới ánh nắng ban mai trông rất ngoạn mục. Bài thơ thứ nhất là một bài ngũ ngôn tứ tuyệt:

Đầu non mây trắng bay Nhẹ tênh lòng thế sự Nghìn năm không trú xứ Chân như, cánh hạc gầy.

Bài thứ hai là thất ngôn tứ tuyệt:

Cành thưa nắng rọi, rộn tiếng oanh Liễu hoa theo gió rụng bên mành Tâm hư, dõi bước người viên giác, Ngõ trúc, ta về gối cỏ xanh.

Hai bài thơ đều do Trúc Lâm cư sĩ sáng tác, có ghi chú ngày tháng và đóng triện son nhà Trúc Mộ. Thạch Đạt Lang đọc xong hai bài thơ, đứng lặng cúi đầu, tay khoanh trước ngực. Hiển nhiên đây không phải là hai bài thơ Trúc Mộ lão đã làm chơi nhân khi ngẫu hứng mà chính là để bày tỏ chí hướng của mình. Ông không tiếp khách giang hồ đến cầu học không phải vì có ý khinh miệt gì họ, ông từ khước tiếp xúc với mọi người vì không muốn bị ràng buộc với những hệ lụy nhân thế. Lợi danh ông không màng, thì thành bại đối với ông có nghĩa lý gì nữa ?

Thạch Đạt Lang khẽ lắc đầu. Hắn không còn muốn gõ cổng nhà Trúc Mộ. Ý định khiêu khích và thách đấu Trúc Mộ lão đối với hắn bây giờ là một sự xúc phạm, hành động của kẻ thất phu, man rợ. Hắn tự lấy làm hổ thẹn. “Ta còn trẻ quá ! Đây là một bậc cao nhân thoát tục rồi, ta chẳng nên và cũng không có quyền làm rộn. May mà ta đọc hai bài thơ này, chứ không đã làm trò cười cho dân trong cốc !”.

Thạch Đạt Lang bỏ ra cổng. Đột nhiên nghe có tiếng chim xào xạc và tiếng chân người bước trên nền đá. Hắn nấp sau bụi cây nhìn vào, thấy một nữ lang áo trắng, thấp thoáng giữa những thân tre xanh biếc. Bóng nàng đổ dài trên cỏ. Nhìn nữ lang, hắn sững sờ, tim như muốn ngừng đập. Vì người bước tới chính là Oa Tử, xinh đẹp vô cùng, rạng rỡ dưới ánh nắng. Oa Tử thật rồi, không còn ngờ gì nữa, chính nàng đã thổi điệu sáo ấy !

Thạch Đạt Lang định chạy ra gọi Oa Tử nhưng không biết có sức mạnh gì ghìm chân hắn lại. Con người hắn quả mâu thuẫn:

vừa nhạy cảm đam mê, vừa thực tế lạnh lùng. Nấp trong bụi rậm, hắn phân vân bất định.

Oa Tử đến gần cổng bỗng quay lại khẽ kêu một tiếng ngạc nhiên:

– Ủa, mình vẫn tưởng nó đi theo sau …

Nàng trở lại đường cũ:

– Giang ! Giang ! Chạy đâu rồi ?

Nghe giọng nói quen thuộc, Thạch Đạt Lang như sực tỉnh. Hắn lui vào bụi cây sâu hơn.

– Giang ! Giang !

– Đây ! Em đến ngay bây giờ đây ! Cô nương ở đâu thế ?

– Ngoài này, gần cổng. Ta đã bảo em không được đi xa, sao em không nghe ?

– Tại thấy con trĩ, em đuổi theo bắt …

– Đuổi bắt con trĩ ? Em thật không biết gì hết ! Em quên đã nói với ta là sáng nay chúng ta phải làm một việc rất quan trọng hay sao ?

– Không, em không quên đi tìm sư phụ đâu, nhưng em biết ông không hề gì, ông gặp nhiều may mắn lắm. Thế nào cũng thấy mà !

– Ờ ! Tối hôm qua sao không thấy em nói thế ? Lúc mếu máo đến tìm ta, em đâu có như bây giờ ?

– Tại lúc ấy em vừa lo vừa sợ.

Oa Tử cười:

– Ta cũng thế ! Khi em kể chuyện và nói tên sư phụ em, ta hết hồn.

– Cô nương với sư phụ em là thế nào ?

– Ông ta là người làng.

– Người làng thôi à ?

– Chứ còn gì nữa ?

– Lạ quá nhỉ ! Người làng với nhau mà mới nghe tên đã khóc hết nước mắt !

Oa Tử bẽn lẽn:

– Ta khóc nhiều lắm sao ?

– Khóc nhiều lắm ! Sư phụ em đánh nhau với ba người, bị chém rách tay áo, em đã kể rồi cô nương không nhớ ư ? Nghe tiếng sáo, em nghĩ đến cô nương nên tìm đến cầu cứu …

Oa Tử rùng mình. Hình ảnh Giang áo quần bê bết máu, chạy vào phòng nàng lúc nửa đêm như hiện ra trước mắt. Nàng săn sóc, nấu cháo cho nó ? Nàng quay nhìn Giang, mặt nó đã bớt sưng, nàng cũng vui bụng đôi chút.

– Thôi, chuyện đó khoan nói … Việc phải làm ngay bây giờ là đi tìm sư phụ em.

Oa Tử dắt tay Giang ra cổng. Trong dáng đi vội vã của Oa Tử có một vẻ gì hớn hở như trẻ con đi đón mẹ về chợ. Má nàng ửng hồng, đôi mắt long lanh. Lo âu hay vui thích? Giang nhìn Oa Tử chằm chằm, ngạc nhiên không hiểu.

Thạch Đạt Lang nấp trong bụi, nhìn rõ hết. Oa Tử đẹp hơn trước nhiều, khác hẳn với cô bé âu sầu và lạnh nhạt khi còn ở Tiểu Sơn tự. Bấy giờ Oa Tử chưa yêu, bản tính kín đáo, không thích giao du của nàng có lẽ bắt nguồn từ tâm sự hổ thẹn mình là đứa trẻ bị bỏ rơi từ tấm bé. Nàng như con ốc cuộn tròn trong vỏ, dễ mếch lòng và hay hờn giận.

Khi Mãn Hà Chí viết thư từ hôn, tâm trạng bị ruồng rẫy ấy càng thêm nặng khiến nàng suýt liều thân. Thạch Đạt Lang đến. Lòng thương người cô thế dần đổi sang tình yêu và kính trọng. Bây giờ, sau nhiều năm xuôi ngược, nàng đã trưởng thành cả về tinh thần lẫn thể chất, sẵn sàng phấn đấu cho mối tình gần như vô vọng của mình.

Thạch Đạt Lang muốn nhảy ra ôm Oa Tử, thổ lộ nỗi lòng với nàng rồi dẫn nàng đi thật xa, sống một cuộc đời hạnh phúc, bỏ hết mọi tham vọng khác. Những lời Oa Tử nói với hắn trên đỉnh đồi Nakayama bữa nào còn như vang vọng bên tai. Hắn muốn xin lỗi Oa Tử về sự phản bội của mình. Nhưng sao trí óc hắn không cho như thế là phải. Con người thực tế trong hắn bảo hắn dại dột, từ bỏ mục đích cả đời người vì một người đàn bà là điều ngu xuẩn. Đâu là lẽ phải ? Thạch Đạt Lang như đứng trước hai con đường.

Bao nhiêu kiến thức thu thập được qua sách vở hắn đọc được khi còn ở thạch thất cũng không giúp hắn quyết định dứt khoát. Nỗi đau khổ dày vò hiện cả lên nét mặt.

Cách chỗ hắn đứng không bao xa, Oa Tử vẫn vui vẻ cùng Giang đi tới. Thằng bé cúi xuống nhặt vật gì gần cổng làm nàng dừng chân khẽ trách:

– Giang, nhanh lên chứ ! Lại nghịch gì thế ?

– Cô nương, lại đây xem cái này !

Giang đưa miếng vải vừa nhặt được cho Oa Tử:

– Miếng vải này ở áo sư phụ em.

Oa Tử mở to mắt nhìn Giang rồi giật lấy miếng vải. Miếng vải, thực ra là miếng lụa, dài chừng hai gang tay, loang vết máu đã khô, có dệt chìm hình lá phong với một hàng chữ nhỏ. Giang kiễng chân, lấy tay chỉ hàng chữ:

– Đây này, cô nương xem. Hôm qua đến đây, sư phụ em mặc chiếc áo này do bà chủ trọ Ở bờ hồ Sarusawa tặng. Hàng chữ này là Hồ Vọng … chắc là Hồ Vọng Xương.

Đúng là áo sư phụ em rồi …

– Trời ơi, Giang ! Em nói thật hay bỡn ? Thạch Đạt Lang đến cổng này đấy ư ?

Oa Tử chạy vội ra ngoài, mắt nhớn nhác tìm quanh. Giang cũng theo bén gót. Nó gọi lớn:

– Sư phụ !

Trong lùm cây có tiếng lá rung động, rồi tiếng chân người chạy. Oa Tử quay phắt lại đuổi theo.

– Cô nương ! Cô nương đi đâu đấy ?

– Thạch Đạt Lang ! Thạch Đạt Lang vừa chạy … ngả này …

Giang đến gần. Oa Tử thở hổn hển nói không ra hơi:

– Ta vừa thấy … vừa thấy … sư phụ em … chạy ngả này …

– Sao em không thấy ?

– Rõ ràng mà. Thạch Đạt Lang ở bụi cây này chạy ra …

Oa Tử vừa nói vừa đuổi theo.

– Cô nương ! Khoan đã ! Chắc cô nương lầm rồi ! Nếu là sư phụ em thì việc gì ông lại chạy ?

Ừ, việc gì phải chạy ? Giang không hiểu nhưng Oa Tử hiểu. Nàng dừng lại, hít một hơi thật mạnh, gào lên:

– Thạch Đạt Lang ! Thạch Đạt Lang … Đạt … L..ang …

Tiếng gào của nàng to quá, những âm sau lạc hẳn đi lẫn với tiếng gió. Oa Tử không ngăn nổi xúc động, ngã ngồi xuống cỏ, hai tay ôm mặt. Nàng khóc nức nở.

Giang chạy đến bên.

– Giang ! Gọi sư phụ đi Giang ! Gọi đi !

Nhưng Giang không gọi. Nó kinh hãi nhìn Oa Tử. Nét mặt này nó đã nhìn thấy ở đâu … Đôi mắt lạc thần, da trắng bệch như sáp … Đúng rồi ! Nét mặt của chiếc mặt nạ tuồng Nô, nét mặt của người thiếu nữ điên dại. Chỉ thiếu có đôi mép nhếch cao, còn các điểm khác giống như tạc. Giang sợ quá, giật lùi, miệng há hốc.

Oa Tử nói với nó qua nước mắt:

– Gọi đi Giang ! Không gọi, sư phụ em không về nữa, em sẽ ở với ai ?

Bấy giờ Giang mới hoàn hồn. Nó bắc loa tay, lấy hết sức gọi lớn:

– Sư phụ ! Sư phụ Thạch Đạt … L..ang … !

Sau mỗi lần gọi, tiếng vọng từ núi xa vang lại như nhại và chế giễu nó cùng Oa Tử.

Trời xanh thăm thẳm trên cao, vài cụm mây trôi hờ hững.

Giang đứng trên đồi nhìn xuống con đường đất đỏ vắng hoe ẩn hiện dưới những gốc tre già, lòng buồn vời vợi. Nó vẫn không hiểu tại sao thầy nó lại bỏ đi không nói gì với nó.

Oa Tử dựa đầu vào một thân cây phong, mặc cho nước mắt trào ra đầy má. Hai tấm lòng cô đơn dưới bầu trời yên lặng, những con người lạc lõng bị ruồng rẫy, bỏ rơi như những đứa trẻ mồ côi không ai đón nhận. Giang thấy cay cay ở mắt. Nó đến bên Oa Tử, nắm áo nàng, an ủi:

– Thôi, cô nương chẳng nên buồn phiền. Cô và em đi tìm, thế nào cũng gặp.

Oa Tử mỉm cười héo hắt:

– Cảm ơn em.

Rồi nước mắt lại tuôn ra như suối. Nàng không thể tưởng tượng được mối tình của nàng đối với Thạch Đạt Lang đằm thắm là thế mà chàng chẳng hề để cho nàng gặp mặt được một chút sau bao nhiêu năm mong nhớ; kể từ cái ngày chàng bỏ đi trên cầu Hanada. Nàng đã thề không làm phiền Thạch Đạt Lang, không can thiệp gì vào sự nghiệp của chàng, sao chàng vẫn tìm cách lẩn tránh ? Chỉ có một lý do:

Thạch Đạt Lang không yêu nàng say đắm như nàng tưởng. Oa Tử phải hỏi cho ra:

trong trái tim rướm máu của người thiếu nữ đương thì ấy, thần tượng nàng chọn không dễ gì bị gạt bỏ.

Một cơn gió thoảng qua. Lá phong rung động dường cảm thông với nỗi lòng người thiếu nữ.

Bỗng Giang reo to:

– Cô nương ! Có người lên kìa !

Oa Tử chùi nước mắt, sửa lại mái tóc và nếp áo rồi ngồi xuống gốc cây giả như ngồi nghỉ. Người đi lên dốc là một nhà sư. Trong khung cảnh tĩnh mịch của khu rừng vắng, nhà sư mặc áo dà đột nhiên xuất hiện sau ngọn đồi tựa như Phật giáng thế, Oa Tử vừa ngạc nhiên vừa vui mừng vì nhà sư đó không ai khác hơn là Đại Quán.

– Nam mô a di đà Phật ! Ta không ngờ gặp ngươi ở đây !

– Con cũng thế. Thầy đi đâu vậy ?

– Ta với con trai Trúc Lâm cư sĩ vốn là chỗ thân tình, lại nhận được thư của cốc chủ mời, tiện đường qua đây đến thăm cốc chủ.

Trông mặt Oa Tử, Đại Quán đã đoán ra phần nào. Đôi mắt đỏ mọng và làn da trắng bệch của nàng chứng tỏ nàng vừa trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Ông ôn tồn hỏi:

– Dạo này hình như ngươi không được khỏe ?

Không dằn được cảm xúc, nước mắt Oa Tử lại trào ra. Nàng không giấu diếm nữa, kể cho Đại Quán nghe hết nỗi niềm u uẩn.

– Ta hiểu lòng con. Con muốn ta khuyên điều gì không ?

– Không cần thầy ạ ! Chí con đã quyết.

– …

Oa Tử nhìn chằm chằm xuống đất. Nàng như đắm chìm trong nỗi thất vọng cùng cực.

– Nếu còn điều gì nghi ngờ, con đã không bỏ Tiểu Sơn tự. Con biết lòng con lắm và nhất định phải gặp Thạch Đạt Lang. Con sẽ hỏi nếu sự có mặt của con trên dương thế này làm chàng vướng bận thì con đã có cách.

Đại Quán nghiêm khắc:

– Ngươi nói thế là nghĩa gì ?

– Xin thầy đừng hỏi thêm nữa.

– Oa Tử ! Hãy cẩn thận. Đó không phải là cách giải quyết vẹn toàn. Trong trường hợp con, chết không giải quyết được gì hết. – Ông cười, tiếp:

Nhất là lại chết vì một mối tình không được đáp ứng.

Oa Tử không đồng ý, nhưng nàng cắn môi không nói thêm gì nữa.

– Ngươi sinh lầm kiếp, đáng lẽ làm đàn ông mới phải. Ý chí sắt đá như ngươi, xã hội hẳn được nhờ lắm !

– Như vậy, những phụ nữ như con không đáng sống hay sao ? Con cản bước tiến thủ của Thạch Đạt Lang chăng ?

– A di đà Phật ! Đừng xuyên tạc lời nói của ta. Trong cõi sinh diệt vô thường, không gì ngăn nổi sự biến chuyển. Bước tiến thủ của Thạch Đạt Lang chỉ có hắn mới định được.

– Con yêu Thạch Đạt Lang. Chàng là lẽ sống của con. Dù phải chịu muôn ngàn gian truân, đau đớn, con cũng không để hạnh phúc đó mất !

– Điều con gọi là hạnh phúc đó không phải là chân hạnh phúc.

– Từ bé, con chưa biết thế nào là chân hạnh phúc.

Giọng Đại Quán trở nên nghiêm nghị:

– Thế mà vẫn có ! Oa Tử, ngươi được nuôi dưỡng trong chùa từ nhỏ, há không biết dục vọng chỉ đưa đến khổ đau. Cởi bỏ dục vọng, gieo mầm từ bi để tự giải thoát khỏi cảnh giới vô minh và sinh diệt là chân hạnh phúc ! Con đường ngươi định đi là con đường tối tăm của ngã chấp và ngã ái. Theo đường ấy là tự mang dây oan nghiệt buộc vào mình.

Oa Tử im lặng cúi đầu. Nhà sư cầm tay, giục:

– Oa Tử, theo ta về cốc ! Cả cháu này nữa !

Nhưng Giang cắt ngang, dứt khoát:

– Không ! Cháu phải đi tìm thầy cháu ! Cháu không biết đường nào tối tăm, sáng sủa, ngã chấp ngã ái là gì, nhưng cháu thấy có bổn phận phải theo sư phụ …

Lời nói của Giang làm Oa Tử bừng tỉnh. Nàng ngẩng nhìn Đại Quán:

– Con cảm ơn thầy đã cố sức giúp con nhưng ít con không thể nghe lời thầy được !

– A di đà Phật ! Tùy ngươi, nhưng ít nhất cũng nên trở về từ biệt cố chủ chứ !

– Nhờ thầy từ biệt và tạ lỗi hộ con. Cốc chủ khoáng đạt, chắc chẳng lưu tâm đến những tiểu tiết.

Quay sang Giang, nàng nói:

– Giang, em chạy về lấy hành trang hộ chị.

Trở ra, Giang đeo chiếc mặt nạ làm Đại Quán giật mình đứng lặng. Vì mặt nạ ấy chính là nét mặt Oa Tử sau khi trôi nổi trong biển trầm luân, quả nghiệp chập chồng không dứt. Ông cúi đầu niệm Phật:

– Oa Tử ! Trên bước đường con đi, nếu khi nào gặp tột cùng đau khổ, hãy gọi tên ta, hãy gọi tên ta !

Chương 20: Cát xuyên mộc

Về phía nam thành Kyoto có một ngọn đồi nhỏ tên gọi Mokoyama có sông khá lớn lượn khúc bao quanh xuyên qua một vùng đồng bằng phì nhiêu đến tận chân thành Osaka mới đổ ra biển. Nhờ có thủy đạo thuận tiện ấy, sự thông thương giữa hai thị trấn Kyoto và Osaka thật dễ dàng. Chuyện nào xảy ra ở trấn này ngày hôm trước, hôm sau trấn kia đã biết, nên các nhà cầm quyền nhất cử nhất động đều rất kín đáo và thận trọng.

Trên đồi Mokoyama, một công trường xây cất mới được mở ra theo lệnh quan đầu lãnh để chỉnh trang lại tòa lâu đài ngài hiện đang cư ngụ. Tôn Điền Tùng Cương có ý muốn thay đổi nếp sống dân chúng trong vùng, công trình này chỉ là một phần của toàn bộ chương trình xây cất rộng lớn do ngài chủ trương nhằm cải tổ kinh tế và dùng kinh tế làm sức mạnh để cai trị. Song song với sự chỉnh trang các lâu đài tại Kyoto, nhiều công tác kiến thiết khác cũng được thực hiện tại Edo, Nogoya và hàng chục thị trấn khác trong nước. Bởi kiến thiết tạo ra công ăn việc làm, dân không bất mãn, các quan đầu xứ địa phương bận rộn công tác không có dư thì giờ nghĩ đến việc chống đối. Riêng tại đồi Mokoyama, số phu phen lên đến hàng ngàn. Hàng ngày thuyền bè đi lại tấp nập chở đá to nhỏ đủ cỡ đổ lên bến chất đống cao như núi, phiến to bằng cái bàn, phiến nhỏ cũng bằng mặt ghế, cát bay mù mịt, mái nhà và rặng liễu ven sông phủ bụi trắng xóa. Cùng với thợ thuyền phu phen là đám người đánh hơi thấy lợi bu đến, thôi thì đủ mặt con buôn cùng gái giang hồ già trẻ.

Bấy giờ trời đã sang thu, nhưng nắng quý hạ vẫn còn gay gắt. Mặt sông loang loáng, lấp lánh tựa sao sa trông lóa mắt. Buổi trưa, tiếng ve kêu ra rả.

Mãn Hà Chí ngồi nghỉ trong bóng râm của hai phiến đá lớn, khuất sau một lùm cây gai xơ xác. Suốt buổi sáng làm việc cực nhọc, bây giờ hắn đã thấm mệt. Hắn lấy tay xua đàn ruồi bay quanh và kéo vạt áo lau mặt. Da Mãn Hà Chí xạm đen, tròng mắt hõm sâu xuống, trên gương mặt gầy guộc ấy chỉ còn phảng phất một vài nét của anh chàng Mãn Hà Chí béo tốt khi xưa, nếu không tinh mắt đố nhìn ra được.

– Dưa không ? Ai ăn dưa không ?

Một cô bé nhà quê đầu đội thúng dưa hấu vừa đi vừa rao lảnh lót từ tốp thợ này đến tốp thợ khác, đon đả chào mời với hy vọng bán được mối hàng trong giờ nghỉ.

– Dưa, lại đây ! Ta muốn ăn dưa nhưng không có tiền, được không ?

Cô bé nguýt dài, không đáp. Cả bọn cười hô hố. Cô bé đến bên Mãn Hà Chí:

– Bác mua dưa không ? Trời nắng thế này, ăn dưa đỡ khát lắm !

Mãn Hà Chí lờ đờ nhìn người bán hàng, một lúc sau mới nghiêng mình móc trong bọc ra vài đồng tiền để trong lòng bàn tay, khều khều mấy cái đếm rồi đưa cả cho cô bé.

Cầm quả dưa để lên lòng, hắn ngồi yên lặng, mắt nhìn ra xa như không còn sinh lực gì nữa.

Mãn Hà Chí buồn và chán nản vô cùng. Hắn lẩm bẩm rủa thầm “Khốn nạn !”, chẳng biết rủa ai, những người đã gây ra cho hắn cảnh cơ cực này hay chính cuộc sống cơ cực của hắn. Có điều Mãn Hà Chí rất hận Ôkô và Thạch Kinh Tử, thằng bạn đã kéo hắn vào cuộc chiến Sekigahara và con đàn bà dâm đãng mặt lúc nào cũng trát phấn trắng như vôi. Nếu không vì chúng thì bây giờ hắn đâu có thân tàn ma dại như thế này.

Mãn Hà Chí nghĩ đến ngôi làng nhỏ bé Miyamoto êm đềm và thân thiết, mẹ hắn và Oa Tử, người vị hôn thê đôn hậu, xinh đẹp hắn đã dứt tình bỏ đi. Hắn đập tay xuống đùi, muốn gào lên uất hận, nhưng tiếng kêu không ra khỏi cổ, cả tâm thân gầy guộc vẫn ngồi ì ra đấy. Ruồi nhặng vo ve trên đầu, hắn chẳng thèm đuổi, thấm thía nỗi bất lực cùng cực của mình. Sự trụy lạc tinh thần hơn cả sự trụy lạc thể chất làm hắn sống mà không khác gì một xác chết !

Năm năm rồi ! Hắn đã bỏ phí năm năm kể từ ngày bị con đàn bà ấy mê hoặc !

Chẳng biết bây giờ Oa Tử ra sao ! Hắn trở về xin lỗi liệu nàng có tha thứ cho hắn không?

Và còn thằng Thạch Kinh Tử nữa, nghe nói nó đã đổi tên và nổi danh kiếm sĩ … Nỗi ghen tức ngấm ngầm trào lên làm hắn tắc nghẹn ở cổ họng.

Một người phu đẽo đá cùng công trường lại gần:

– Mãn Hà Chí ! Mày sao thế ? Sao mặt mày xanh vậy ?

Mãn Hà Chí mỉm cười héo hắt. Nước bọt trào đầy miệng, hắn buồn nôn, quay sang bên cạnh nhổ, rồi chậm rãi:

– Không sao ! Có lẽ trúng gió ! Để tao nghỉ lát nữa chắc đỡ.

Người phu nhìn Mãn Hà Chí ái ngại, thấy nó yếu quá, muốn giúp nhưng chẳng biết làm thế nào. Gã hỏi bâng quơ:

– Mày không ăn được dưa thì mua làm gì ?

Bấy giờ Mãn Hà Chí mới sực nhớ đến quả dưa để trên đùi:

– Ừ, mày mang ra đem chia cho chúng nó, tao thết. Nói giùm với ông cai tao mệt, xin nghỉ buổi nay.

– Ê ! Tụi bây lại ăn dưa ! Thằng Mãn Hà Chí thết đây này !

Mãn Hà Chí nhếch mép cười thiểu não, chẳng biết là cười hay mếu. Năm sáu người phu chạy đến đập dưa vào thành đá, tranh nhau ăn nhồm nhoàm, không ai để ý đến kẻ thết dưa ngồi ủ rũ ở một góc.

Qúa ngọ, một người bước ra, tay cầm roi gọi thợ vào làm. Chẳng bao lâu, phu phen lại chia thành từng tốp bốn người một, quàng thừng vào vai kéo những phiến đá lớn.

Tiếng hò nổi lên, không khí oi nồng buổi trưa trở lại nhộn nhịp.

Những bài hò kéo đá bấy giờ không biết ai đặt ra, rất được phổ biến trong dân gian, đến nỗi quan đầu xứ có thế lực lúc ấy là Hà Chính Y Tô cũng phải chép vào sớ tâu lên hoàng thượng. Trong các điệu hò, có điệu sau đây được khuyến khích hơn cả và được coi như điệu chính thức của phu kéo đá tại những công trường như Kyoto và Edo:

Đá kia trong núi … dô ta là hò dô ta, Ta đục mang về … dô ta !

Mang về ta xẻ … dô ta là hò dô ta, Ta xẻ ta cưa … dô ta !

Xây nhà cho chúa … dô ta là hò dô ta, Chúa bảo ta nghe … dô ta !

Hết lòng đến chết !

Trẻ hò, già hò, riết rồi quen tai, ai cũng thuộc lòng, thành ra những bài hò này đi vào đời sống dân dã. Dưới thời lãnh chúa An Chính Cảnh Môn, các điệu hò phần nhiều đồi trụy, dâm dật, thường chỉ thấy xuất hiện trong các thanh lâu tửu quán. Đến thời Hò a Giả Nghị, vào những năm sung túc, có nhiều điệu hò tươi vui, rồi khi Tôn gia lên nắm quyền chính, các điệu hò dần dần đổi khác. Nghe kỹ thì những tiết điệu và lời ca có phần gò bó. Khi uy quyền Tôn gia đã vững, những điệu hò dân gian càng ngày càng kém đi, không còn được tự do cởi mở như trước. Tình cảm không còn bộc lộ tự nhiên, lời ca thì nhạt nhẽo đầy xu nịnh phần nhiều do bọn nhạc nô đặt ra để ca tụng giới cầm quyền.

Mãn Hà Chí ngồi ngả người, dựa lưng vào thành đá, một tay co lại gối đầu. Da hắn nóng hầm hập, lỗ tai lùng bùng. Tiếng hò của thợ thuyền vang đến, hắn chẳng nghe rõ, chỉ văng vẳng như có người đánh trống. Trên cao, mặt trời vẫn hắt xuống những tia lửa gay gắt, tàn nhẫn. “Cứ đà này chắc không kham nổi. Năm năm mười năm cũng đến thế thôi, làm ngày nào chỉ đủ ăn ngày đó, nghỉ làm thì nghỉ ăn …”. Trong cơn thất vọng cùng cực, ý tưởng tự sát lởn vởn trong óc, Mãn Hà Chí lắc đầu như để xua đuổi ý tưởng hắc ám ấy.

Bỗng nhiên, hắn có cảm tưởng có người đến gần bên. Hắn ngẩng nhìn, quả nhiên thấy một thanh niên đứng đó từ bao giờ. Gã đội chiếc nón nan chụp xuống tận mắt, quần áo phu trắng bụi đường, bên hông đeo trường kiếm và một túi vải thô giống như túi của khách giang hồ vẫn thường dùng, trên nón gắn một phù hiệu hình quạt, cứng, có lẽ tết bằng sợi kim khí mưa nắng đã làm đen xỉn. Thanh niên đứng nhìn Mãn Hà Chí một lúc rồi lên tiếng hỏi:

– Bác này không làm hay sao mà ngồi đây ?

– Tôi mệt.

– Chắc cảm nắng rồi !

Nói xong, hắn bỏ đến đứng trong bóng rợp một tảng đá lớn quan sát công trường.

Gã rút trong bọc ra quyển sổ, tìm phiến đá bằng phẳng đặt lên rồi ngồi bên cạnh hí hoáy biên chép. Nắng như đổ lửa trên đầu gã, nhưng hình như gã không để ý, chẳng coi vào đâu. Nhìn Mãn Hà Chí, thanh niên đột nhiên nhớ ra điều gì, mở bọc lấy một cái lọ sơn then dẹp, dốc vào lòng bàn tay hai viên thuốc đỏ như chu sa và nhỏ bằng mắt tôm, đem đến cho hắn:

– Bác kia, uống thuốc này đi, kiến hiệu lắm !

– Cám ơn đại hiệp.

Mãn Hà Chí bỏ thuốc vào miệng, nhấm nhấm trên đầu lưỡi. Mùi thuốc thơm sực nức, trong giây lát hắn thấy dễ chịu hẳn.

– Bác còn ngồi nghỉ đây lâu không ?

– Dạ, cũng định ngồi cho khỏe hẳn đã.

– Vậy ta nhờ chút việc này. Bác trông chừng có ai đến thì báo cho biết. Ném hòn sỏi chẳng hạn.

– Dạ được.

Thanh niên trở về chỗ cũ, lại giở sổ ra ghi chép và hình như vẽ cả họa đồ. Dưới vành nón nan, đôi mắt gã đưa đi đưa lại, thỉnh thoảng lại ngẩng nhìn về phía lâu đài có vẻ tư lự. Trước khi xảy ra chiến dịch Sekigahara, đạo quân tây biên của lãnh chúa họ Hòa đã tiến đến chân thành này và đã tấn công làm sát mất một góc thành. Công tác trùng tu được dự định từ lâu, bây giờ mới thực hiện. Mãn Hà Chí nghĩ thầm có lẽ đây là người thuộc phe Hòa Giả Nghị đến dò xét tình hình, nhưng hắn không nói gì. Trước kia, hắn cũng đầu quân dưới trướng họ Hòa, hơn nữa lại có cảm tình với gã thanh niên đã cho hắn hai viên thuốc.

Có tiếng chân người bước lại gần. Mãn Hà Chí thoáng thấy bóng viên đốc công, định nhặt hòn sỏi ném nhưng quá trễ, bèn huýt gió làm hiệu. Viên đốc công đã đến sau lưng, gã thanh niên mải biên chép không biết, đến khi giơ tay đập con ruồi trên gáy mới chú ý. Gã ngẩng nhìn, một thoáng lo sợ lộ ra trong ánh mắt.

– Ngươi làm gì vậy ?

Vừa nói, viên đốc công vừa đưa tay định cầm quyển sổ đặt trên phiến đá, nhưng gã thanh niên đã nắm vội lấy cổ tay:

– Ngươi không có quyền !

Bốn mắt nhìn nhau, thách đố.

– Sao không có quyền ? Ta làm nhiệm vụ !

– Ngươi là ai ?

– Đốc công công trường này ! Ta muốn xem ngươi vẽ gì.

Rồi giằng tay ra đoạt quyển sổ. Gã thanh niên giật lại. Đôi bên giằng co, quyển sổ đứt làm hai mảnh.

– A tên này gớm thật ! Ngươi định phi tang phải không ? Ngươi đến đây do thám chứ gì ?

– Ta học kiến trúc, không do thám gì hết !

Viên đốc công giật tay ra:

– Nói láo ! Nếu không đưa sổ, ta bắt !

– Ta không làm gì trái, ngươi lấy quyền gì bắt ta ?

– Ta có bổn phận ngăn gian tế. Theo ta về đồn, chuyện gì nói sau !

– Không.

Viên đốc công rút roi ra.

– A tên này bướng ! Có đi không ?

Nhưng gã thanh niên chẳng phải tay vừa, nhanh như chớp nhảy xổ lại, một tay nắm cổ áo, tay kia bẻ quặt tay viên đốc công ra sau lưng rồi cứ thế đẩy về phía trước. Gã dùng thủ pháp gì không biết, viên đốc công đau đớn há mồm, mặt đỏ gay, những tiếng ú ớ như tắc nghẹn trong cổ họng. Thanh niên đẩy viên đốc công đến một tảng đá lớn, chẳng nói chẳng rằng, đập mạnh đầu ông ta vào một tảng đá.

– Đồ chó đ …

Tiếng rú thê thảm của viên đốc công khỏa lấp lời chửi bới tục tằn. Mãn Hà Chí kinh hãi tột độ, giơ tay bưng đầu nhưng mắt vẫn nhìn rõ máu và óc nạn nhân phọt ra tung tóe. Một cơn lốc nổi lên cuốn bụi cát bay mù mịt, thổi chiếc nón nan của gã thanh niên rớt xuống đất. Dưới ánh nắng chói chang, nét mặt gã hiện rõ, da mặt xạm đen, rỗ chằng chịt và cằm hơi lẹm. Mồ hôi Mãn Hà Chí đổ ra như tắm. Hắn không ngờ con người đối với con người lại có thể tàn nhẫn đến thế, dù trong cơn tức giận. Hắn thấy thanh niên kia tàn bạo quá, tự nhiên bao nhiêu thiện cảm dành cho gã mất hết.

Gã lẹm cằm không chạy ngay, cúi xuống nhặt những mảnh quyển sổ bị gió thổi bay tan tác. Cầm chiếc nón nan đội lên đầu, buộc quai cẩn thận xong, gã mới bỏ đi, trước còn thong thả sau rảo bước nhanh như chạy. Mãn Hà Chí vừa sợ vừa e liên lụy, lẩn vào trong một bụi cây rậm.

Diễn biến xảy ra rất nhanh, thợ thuyền phu phen chẳng ai biết. Họ vẫn tiếp tục gò lưng kéo những phiến đã lớn đặt trên những khúc gỗ tròn cho dễ di chuyển dưới trời nắng gắt. Nhưng trên chòi cao giữa công trường, có người nhìn rõ hết. Phu canh trên chòi báo tổng giám thị, lập tức tiếng tù và báo động nổi liên hồi, phu phen chạy tán loạn.

– Gì vậy ? Chuyện gì vây ?

– Đánh nhau hả ?

– Chắc cháy chỗ nào rồi ! Nắng khô thế này …

Tuyệt nhiên không ai ngờ viên đốc công vừa bị hạ sát. Có người nói:

“Gian tế đến do thám”, thế là một đồn mười, mười đồn trăm, họ bỏ việc ào ào đi bắt kẻ gian, làm như kẻ gian có thù riêng với họ !

– Đâu ? Kẻ gian đâu ? Nó chạy lối nào ?

– Cổng đằng tay !

Trên chòi nói vọng xuống.

Mọi người ùa ra cổng tây. Đúng lúc ấy có chiếc xe bò chở cỏ vừa tới, gã lẹm cằm chạy ra bám vào thành xe định leo lên trốn bị ngay tên lính canh dùng cây gậy móc xuống. Gã ngã sóng soài. Mọi người xông vào định bắt sống nhưng gã như cọp dữ vùng lên giật cây gậy trong tay người lính, đập anh ta chết tốt. Tiếng viên tổng giám thị Oang oang ra lệnh:

– Bắt lấy nó ! Bắt lấy nó ! Đừng để nó thoát !

Hàng trăm người la hét phụ họa:

– Bắt ! Bắt !

Nhưng người la hét thì nhiều nhưng không ai chịu vào bắt. Những kẻ hăng hái nhảy vào đầu tiên đều bị gã lẹm cằm dùng gậy đánh dạt ra cả. Vòng vây càng lúc càng dày. Gã vất gậy, rút trường kiếm đánh soạt, đứng thủ thế. Chiếc nón nan che kín mắt, không biết gã nhìn ai nên ai cũng sợ. Tiếng reo hò inh ỏi, bụi cát mù mịt, quanh cảnh không khác gì một bãi chiến trường nhỏ. Đột nhiên có hòn đá không rõ ai ném, trúng vào lưng gã thanh niên. Gã quay lại vung kiếm, vòng vây rộng ra được khoảng chừng vài thước. Lại hòn đã nữa ném tới, rồi không ai bảo ai, đá lớn nhỏ quăng vào như mưa, tiếng hò reo chửi rủa vang trời dậy đất. Gã thanh niên tối tăm mặt mũi, giơ kiếm đỡ, chẳng may một hòn đá khá to trúng ngay đầu, gã ngã lăn ra. Ai cũng tưởng rồi gã sẽ vùng dậy, không ngờ gã cứ nằm ì ra đấy, tay chân giật không ngớt, thanh trường kiếm văng sang bên cạnh. Ba bốn người phu lực lưỡng nhảy vào đè chặt lấy gã nằm yên dưới đất, rồi mạnh ai nấy tới, đánh, đạp không còn sợ hãi gì nữa.

Viên tổng giám thị chạy đến gần thì gã đã mềm như bún, mắt trợn ngược, máu ở miệng và mũi chảy ra lẫn với đất cát bê bế trên mặt. Người ta hè nhau trói gã lại buộc vào phiến đá gần đó. Ồn ào một lúc rồi dịu dần, công trường trở lại như cũ, trừ vài người được cắt cử lo việc quàn xác hai nạn nhân bị gã thanh niên đánh chết.

Mãn Hà Chí ở bụi cây chui ra, tò mò đến gần gã thanh niên lẹm cằm bị trói còng queo dưới nắng, cạnh người lính cầm gậy đứng canh chừng.

– Này gã kia ! Không đi làm hả ? Đứng đấy làm gì ?

Người lính gọi.

– Ơ … Ơ … tôi ốm, nghỉ bữa nay.

– Vậy hả ? Vậy ngươi trông chừng tên này giùm, ta ra nhà sau chút. Nó chết rồi, không sợ !

Mãn Hà Chí không đáp, nhìn gã thanh niên, mắt lạc thần. Hắn thở dài:

“Kiếp người sao mà mong manh quá ! Mới đây còn là thanh niên trai tráng, ngồi đó chăm chú ghi chép bây giờ đã ra người thiên cổ ! Có phải gian tế không hay thực chỉ là một thanh niên hiếu học, quá nhiều máu nóng, dễ bị công phẫn, khích động ?” Nhìn xác gã lẹm cằm, hắn động lòng trắc ẩn. Mặt gã loang lổ những vết máu với đất cát, hàm răng vẫn còn nghiến chặt như căm giận chưa nguôi, quần áo rách tơi tả, một ống chân thò ra để lộ vết thương máu đã đen lại dưới nắng. Khúc xương – xương hay gân ? – trắng hếu. Đàn kiến đen bắt đầu bu lại gần, bò quanh quẩn. Bất giác hai hàng nước mắt ứa ra, Mãn Hà Chí thương cho số phận người thanh niên không quen biết.

“Gã này còn trẻ, chắc nhiều tham vọng lắm. Như ta. Không biết cha mẹ là ai, còn sống không ? Quê quán ở đâu ? Mong ước những gì mà vì một chút vụng tính, bỏ xác nơi đây ? Nếu gã thông minh một chút, chắc đã xử sự khôn khéo hơn, biết đâu sau này chẳng thành công trong xã hội …”. Hắn giật mình, hồi tưởng lại những hành động dại dột của mình trong năm năm qua. Sự ao ước nổi danh như Thạch Đạt Lang vẫn không giảm, nhưng theo kiếm đạo mà kết cục ra thế này thì hắn không màng. Con đường ấy quá cam go và nguy hiểm.

Đột nhiên, Mãn Hà Chí thấy tay xác chết dường như động đậy. Ngạc nhiên và sợ hãi cắt đứt dòng tư tưởng của hắn. Hắn chú ý nhìn kỹ hơn, quả nhiên thấy ngón tay giữa của gã thanh niên co vào duỗi ra từ từ có vẻ như khó khăn lắm. Mắt gã vẫn trợn ngược nhưng bây giờ thấy có sinh khí hơn, hình như gã muốn nhắm mắt lại, nhưng máu đọng khô cứng trên mi, không cho gã làm theo ý muốn.

Ngón tay bây giờ cử động mạnh hơn, rồi cả bàn tay quều quào co vào duỗi ra một cách khó nhọc dường như vẫy gọi. Mãn Hà Chí mở banh mắt nhìn, ngạc nhiên tột độ.

Xác gã thanh niên lẹm cằm từ từ lật sấp, hai bàn tay đầy máu đen cứng cào vào đất nhích từng chút từng chút, không khác gì con rùa bò ra bể sau khi vừa đẻ trứng xong ở trên bờ. Tảng đá to như thế, nặng có đến hàng trăm cân mà gã kéo đi được, thật đáng sợ cho sức vóc gã và sức mạnh của con người khi phải tranh đấu với cái chết. Từ cổ họng gã thanh niên phát ra những tiếng khò khè. Gã muốn nói gì chăng ? Đôi mắt van lơn cầu khẩn. Mãn Hà Chí quỳ xuống ghé tai sát miệng kẻ sắp chết cố nghe xem gã nói gì.

– X … xi … xin …

Nhưng chỉ có thế. Những tiếng khò khè lục ục trong cổ họng gã thanh niên làm Mãn Hà Chí không thể nào nghe rõ những lời trối trăn của gã. Mắt gã thanh niên lạc thần hẳn đi, miệng méo lại trông thật ghê sợ, một dòng máu lẫn nước rãi trào ra bên khóe mép. Gã rướn mình lên một cái, đầu ngoẹo sang bên, thế là hết !

Mãn Hà Chí trừng trừng nhìn xác chết:

những vết sẹo rỗ lõm hẳn xuống dưới ánh nắng, cái cằm lẹm thêm, chân râu trước đây trông không rõ bây giờ đâm ra tua tủa. Hắn giơ tay vuốt mắt người chết, miệng lẩm bẩm một câu kinh ngắn.

Trong trận Sekigahara, Mãn Hà Chí đã thấy nhiều xác người, nhưng chưa bao giờ chứng kiến một cái chết đau thương và tức tưởi như của gã thanh niên này. Hắn uể oải đứng dậy định bỏ đi, nhưng nghĩ sao lại ngồi xuống. “Không biết gã này định nói gì ?”.

Mãn Hà Chí thấy mình có phần nào trách nhiệm trong cái chết của gã thanh niên. Nếu hắn trông thấy viên đốc công sớm một chút, báo cho gã biết, có lẽ … có lẽ … Hắn đoán gã thanh niên lúc lâm chung, chắc muốn nhờ hắn giúp chuyện gì đó, bèn bò đến gần nắn áo và thắt lưng. Bốn bề vắng lặng như tờ. Dưới ánh nắng chang chang, chỉ có đàn ruồi vo ve trên những chỗ vết thương máu đọng.

“Chắc gã muốn nhờ mình mang những vật tùy thân và kỷ niệm về cho người ở nhà. Âu cũng được. Ta có một mình, dò hỏi thân nhân và quê quán gã chắc không khó”.

Bèn thò tay vào trong bọc xác chết lấy ra được một cái túi buộc ngay vào bọc mình. Hắn còn định cắt mớ tóc của gã thanh niên để làm tin, nhưng nhìn nét mặt người chết, hắn rùng mình, vả nghe tiếng chân người đi tới, nên thôi.

Mãn Hà Chí lẩn vội vào sau một tảng đá nhìn ra. Hai người lính với người cai mang một chiếc cáng làm sơ sài bằng tre đến khiêng xác đi. May quá ! Trễ chút nữa, chắc hắn bị xét hỏi và làm rầy rà rồi !

Chờ cho cả ba người đi khỏi, Mãn Hà Chí mới men theo đường mương cạn, lợi dụng bóng những phiến đá lớn che khuất mắt lính canh, bò ra ngoài. Đến xế chiều, hắn về tới nhà trọ sau một tiệm bánh. Bước qua sân, nhìn bà chủ đang gội đầu, cánh tay trần trắng nhễ nhại, hắn lẻn ra phía sau không muốn cho ai biết, nhưng bà ta trông thấy, gọi:

– Bác Mãn Hà Chí hả ?

Hắn ậm ừ, bước nhanh vào phòng, quơ vội cái áo nhét vào tay nải, tháo thanh kiếm treo trên tường, buộc cái khăn lên đầu rồi hối hả ra ngoài.

– Bác không ở nhà ăn cơm ư ?

– Không. Tôi bận ra phố ngay bây giờ có chút việc.

– Về sớm không ?

– Chắc khuya. Khi về tôi gọi cửa. Cám ơn bà nhé !

Rồi hắn tất tả đeo tay nải ra cổng, theo đường mòn đến giữa cánh đồng, ngoái cổ lại nhìn đã thấy lính tuần đứng lố nhố trước cửa tiệm bánh. Hú vía ! Mãn Hà Chí mừng thầm trong bụng. Suýt nữa thì bị tóm ! Tuy không làm điều gì trái, vì hắn tự cho có bổn phận phải theo ý người chết, nhưng lúc nào hắn cũng nơm nớp lo sợ. Tình ngay, lý gian!

Có điều chắc chắn hắn không dám trở lại công trường nữa rồi. Thế là mất toi một ngày công, rồi mai làm sao đây ? Hắn phân vân chẳng biết tính thế nào nữa.

Trời mỗi lúc một tối dần. Những bụi đài bi mọc đầy bãi hoang đổi sang màu đen sẫm, và trên ngọn đã lãng đãng vài vệt sương mờ mờ như khói. Trong xóm nhìn ra, khó mà phân biệt được người với vật. Giờ này trốn đi thật dễ, nhưng trốn đi đâu ? Osaka ?

Nagoya ? Edo ? Chẳng đâu hắn có bạn hay người quen thuộc, thôi thì cầm bằng như gió đưa, muốn đến đâu thì đến … Mãn Hà Chí tặc lưỡi, cứ xông bừa tới trước. Càng đi càng sâu vào vùng hoang dã. Bên cạnh những bụi đài bi, bây giờ lại có cả lau sậy cao quá đầu người, lá sắc và ráp cắt vào mặt hắn xon xót. Gió đầu thu thổi hơi lạnh, Mãn Hà Chí hoang mang chẳng biết nên lùi hay nên tiến. Cơn sốt buổi trưa đã hết, bây giờ hắn khát và đói dữ dội, chỉ mong được một chỗ có nước uống và bát cơm với chút dưa muối thì tốt quá !

Đi một lúc nữa, Mãn Hà Chí trông thấy hình như có ngôi nhà lẩn trong đám lau sậy. Hắn rảo bước, mừng thầm được chỗ trú chân nhưng đến gần mới biết ngôi nhà bị bỏ hoang. Hàng rào đổ nghiêng, mái thủng nhiều chỗ để lộ cả rui mè loang lổ rêu xanh.

Nhà trước kia lợp ngói, bây giờ lợp cỏ, chắc của gia đình nào vào hạng khá giả, tuy đổ nát nhưng cách kiến trúc vẫn còn mang một vẻ thanh lịch tàn tạ. Vài con chim nhỏ thấy động bay ra, chao đi chao lại trên mái.

Cảnh vật đìu hiu khiến Mãn Hà Chí liên tưởng đến bốn câu thơ thường được nghe khi còn ở quán Vân Nghê, do các nàng chiêu đãi ngâm lúc kể chuyện cho khách:

Hà xứ thu phong chí Tiêu tiêu tống nhạn quần ?

Triều lai nhập đình thủ Cô khách tối tiên văn.

Dịch:

Gió thu phương nào tới.

Hiu hiu đuổi nhạn về ?

Sớm qua cây trước ngõ.

Khách lạ trước tiên nghe.

Mãn Hà Chí ôn lại những câu thơ. Cả một trời kỷ niệm xốn xang trong ký ức. Hắn chính là kẻ cô khách, đến đây mong tìm chút lửa ấm.

Căn nhà tối đen, vắng lặng. Đúng lúc hắn bước lên hiên định vào trong nhà thì có ánh đèn ai mới thắp leo lét qua tấm phên tre. Mãn Hà Chí nhảy vội sang bên, nín thở, ghé mắt nhìn vào. Trên chiếc bồ đoàn rách nát, một người đàn ông gầy khoác tấm vải gai, ngồi trầm mặc. Ngọn đèn dầu độc nhất chỉ đủ chiếu ánh sáng vàng vọt lên khuôn mặt khắc khổ, không rõ tuổi của người ấy. Người đàn ông lấy sáo ra thổi, điệu nhạc thê lương, nghẹn ngào có lẽ chỉ để riêng ông ta nghe khiến Mãn Hà Chí rùng mình. Không biết người đàn ông ấy thuộc hạng người nào, nhưng trông cách ăn mặc thì có vẻ nửa đạo sĩ, nửa khất cái. Thổi xong một điệu, ông ta lại ngồi một mình lẩm bẩm. Mãn Hà Chí lắng tai:

– Cứ bảo tứ thập nhi bất hoặc, sao ta vẫn còn mê muội ? Tình ái, danh vọng, tiền tài, vì những thứ đó mà nghiệp báo không dứt ! Giang ! Giang ! Bây giờ con ở đâu ? Ta nhẫn tâm bỏ con, thật đáng trách !

Người đàn ông cúi thấp đầu dường như xin lỗi ai hay tự trách phạt, rồi lại ngẩng lên nhắc lại những câu vừa nói. Mãn Hà Chí chẳng hiểu gì, đồ chừng gã này điên. Hắn tránh không muốn vào, định tìm chỗ khuất trong bếp hay nhà sau nghỉ tạm thì vừa lúc ấy người đàn ông đứng lên, cầm sáo, gậy và nhặt luôn cả chiếc bồ đoàn rách mang theo, khập khiễng bước ra cửa lầm lũi đi như một bóng ma trong màn đêm bắt đầu buông dày đặc.

Mãn Hà Chí bước vào, đến bên ngọn đèn lẻ loi. “Lão già thật cẩu thả ! Để lửa thế này rồi bỏ đi, chẳng may nó bén vào cái gì thì cháy hết !”. Hắn nghĩ đến những ngôi cổ tự hoang phế tự nhiên bị thiêu rụi, một phần chắc cũng vì những tên thiếu trách nhiệm, điên khùng như lão này cả.

Thấy lành lạnh, Mãn Hà Chí chạy ra ngoài nhặt cành khô đem vào nhóm lửa rồi bó gối nhìn. Ánh sáng bập bùng làm căn phòng ấm và sáng thêm chút đỉnh. Hắn ngước nhìn trần, cột kèo tuy cũ nhưng đẽo gọt tinh vi, có vẻ trước đây là một ngôi đền chứ không phải tư thất. Ở góc phòng, đột nhiên hắn trông thấy một vật làm hắn reo lên mừng rỡ. Chẳng phải đồ cổ ngoạn hay vật gì quý giá nhưng là một cái nồi đất đen xì, trên đậy tàu lá, bên cạnh là một hũ sành con mẻ miệng. Mãn Hà Chí đến mở nồi thấy có cơm, bèn bưng cả ra bên đống lửa. Trong hũ sành còn một chút sa-kê, hắn bưng hũ tu rồi thò tay vào nồi bóc cơm ăn. Bữa ăn chưa bao giờ ngon đến thế !

Ăn hết chỗ cơm, bụng mới hơi lưng lửng, Mãn Hà Chí nằm dài, giơ tay vươn vai khoan khoái. Sực nhớ đến điều gì, hắn vội nhỏm dậy, móc trong bọc ra cái túi của gã thanh niên lẹm cằm chết hồi chiều. Hắn mở túi dốc cả ra sàn:

một cái lọ đen nhỏ xíu đựng thuốc, ít bạc vụn, một cái túi nhỏ nữa bằng da thuộc màu đỏ tía và một vật mềm gói giấy dầu. Hắn cởi túi da ra xem. Trong túi toàn tiền vàng, hắn không biết giá là bao nhiêu nhưng quả chưa bao giờ được cầm nhiều vàng như thế. Vừa mừng vừa sợ, tay run run, hắn buộc ngay lại, nhét vội vào trong bọc mình, ngồi thừ người ra một lúc:

“Ơ …[Audio] Cửu Đỉnh Ký (dịch)

tiền này … tiền này … để rồi trả lại cho thân nhân gã !”.

Hắn lại nắn cái gói giấy dầu. “Không biết trong này đựng gì ? Chắc là vật gì bí mật và quý giá lắm gã muốn mình mang về quê quán cho gã. Hay thôi, chuyện bí mật của người ta, mình chẳng nên biết !”. Mãn Hà Chí ngần ngại, cất đi rồi lại lôi ra mấy lượt.

Sau không dằn được tò mò, hắn run run mở gói giấy. Một tờ hoa tiên đã vàng rơi ra, hắn trải tờ hoa tiên trước đống lửa, lẩm nhẩm đọc:

“Chứng thư, Võ đường Cổ Môn chứng nhận Cát Xuyên Mộc đã thụ huấn xong toàn bộ giáo lý và kỹ thuật thuộc bảy môn học gia truyền của bổn kiếm phái, gồm:

– Phần bí truyền:

Hoa vũ kiếm, xa luân kiếm, trảm nhạn kiếm.

– Phần công truyền:

Phiên phiên lưu thủy kiếm, khinh chủy vô hình kiếm, bằng dực song kiếm, truy hồn đoạt mệnh kiếm.

Vậy cấp cho Cát Xuyên Mộc chứng thư này để làm bằng.

Cổ Môn lâu, trọng đông năm quý ngọ, Chưởng môn:

Cát Đằng Cổ Tư Nhiễm Chúc”.

Cầm tờ chứng thư, Mãn Hà Chí biết được tên gã thanh niên lẹm cằm là Cát Xuyên Mộc. Như vậy cũng đỡ cho hắn phải dò hỏi lôi thôi. Nhưng tên Cát Xuyên Mộc và cả tên Cát Đằng Cổ Tư Nhiễm Chúc, người chưởng môn kiếm phái Cổ Môn cũng không gợi cho hắn thêm được điều gì. Hắn chỉ biết Y Tô, người cũng theo kiếm phái Cổ Môn và nổi danh lắm, nhưng đâu có rõ Y Tô còn là học trò Nhiễm Chúc.

“Thật đáng tiếc ! Một thanh niên nhiều triển vọng như vậy mà phải chết uổng !”.

Mãn Hà Chí gấp tờ chứng thư lại, gói cẩn thận vào giấy dầu rồi cất vào trong bọc cùng với túi tiền của Cát Xuyên Mộc. Hắn đọc một bài kinh ngắn cầu cho linh hồn người chết được siêu sinh tịnh độ, tự hứa sẽ đem tiền và chứng thư trao trả đầy đủ cho thân nhân gã rồi cởi áo nằm ngủ. Trong lúc chập chờn, Mãn Hà Chí tưởng như nghe tiếng sáo nghẹn ngào của lão khất cái điên dại văng vẳng trên đầu những ngọn lau lách xa xa.

❮ sau
tiếp ❯

Avatar

Các bạn đăng ký thành viên hội nhé…!
→Free vip→Đọc và nghe audio truyện/ 0 quảng cáo→Yêu cầu truyện / Ưu Tiên♥Ngoài ra AudioSite là Website do hội Mê Đọc Truyện thành lập – chính vì vậy Đọc Truyện trên website giảm 90% xuất hiện quảng cáo nhé !