1. Home
  2. Truyện Kiếm Hiệp
  3. [Audio] Thạch Kiếm
  4. Tập 1: Tiếng chuông – Trí dũng (c1-c10)

[Audio] Thạch Kiếm

Tập 1: Tiếng chuông – Trí dũng (c1-c10)

tiếp ❯

Chương 1: Tiếng chuông

Thạch Kinh Tử nằm giữa những xác chết. Xác nhiều lắm, có đến hàng ngàn chứ không ít. Hắn thấy thế giới xung quanh hắn đảo lộn, quay cuồng, dường như điên khùng hết cả. Kiếp người thật quá mong manh, chẳng khác gì chiếc lá thu, mặc cho gió đưa đẩy.

Cũng như những xác chết bất động nằm kia, Thạch Kinh Tử phó mặc mưa nắng hành hạ. Chưa bao giờ hắn thấy yếu đến thế. Hắn tự hỏi không biết đã nằm đây từ bao giờ, thử cất đầu lên nhưng cố lắm cũng chỉ khỏi mặt đất được chừng non tấc.

Ruồi bay vo ve trên đầu. Thạch Kinh Tử định đưa tay xua nhưng không đủ sức. Tay hắn cứng đơ, chỉ vài ngón là còn cử động. “Có lẽ mình nằm đây khá lâu rồi. Chẳng biết bị thương ở những chỗ nào”, hắn thầm nghĩ.

Mây đen từng đám, thấp và nặng những đe dọa đuổi nhau trên bầu trời u ám. Đêm trước, có trận mưa lớn đổ như trút lên đồng cỏ Sekigahara này, bây giờ tuy quá ngọ nhưng thỉnh thoảng vẫn còn những giọt mưa lớn lộp bộp rơi lên chiếc áo vải thô bết bùn và máu hắn đang mặc.

Cổ họng Thạch Kinh Tử khô rang. Mỗi lần thấy nước mưa rơi lên mặt, Thạch Kinh Tử há miệng hớp hớp những giọt mưa như con cá mắc cạn ngáp tìm dưỡng khí. Hắn khoan khoái uống những giọt nước ngọt lịm, tưởng mình là kẻ hấp hối đang được thân nhân thấm nước lên môi.

Đầu Thạch Kinh Tử nặng trĩu. Ý tưởng hắn mơ hồ, nhưng Thạch Kinh Tử cũng biết được phe hắn đã thua. Vào phút chót, Cổ Xích Anh bí mật phản chủ, trở cờ thành ra cánh quân của hắn bị đánh tập hậu. Trận chiến kết thúc mau chóng. Tôn Điền Tùng Cương, một sứ quân nổi tiếng mưu lược và thế lực nhất vùng Edo, không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ trở thành sứ quân đầu lĩnh.

Hình ảnh chị hắn và dân làng Miyamoto, một ngôi làng nhỏ miền sơn cước, nơi hắn sinh trưởng, hiện ra bềnh bồng trong sương khói. “Có lẽ ta sắp chết”, Thạch Kinh Tử tự nhủ. “Thì ra chết như thế này đây”. Nhưng Thạch Kinh Tử chẳng mảy may buồn rầu hay sợ hãi. Hắn chỉ thấy yên bình, có cảm giác như đang bị lôi cuốn vào một cõi mông lung nào đó như đứa trẻ bị mê hoặc khi nhìn ngọn lửa bập bùng cháy.

– Thạch Kinh Tử !

Tiếng gọi thình lình khiến Thạch Kinh Tử sực tỉnh. Hình ảnh dân làng và chị hắn nhạt nhòa, biến mất. Như vừa từ cõi âm trở về, hắn nghe âm thanh quen thuộc lắm nhưng không rõ là ai.

– Thạch Kinh Tử ! Mày còn sống chứ ?

Nỗi vui mừng bỗng tràn ngập, Thạch Kinh Tử dường như vừa được tiếp thêm sinh lực; vì giọng ấy chính là giọng Mãn Hà Chí, bạn chí thân cùng dự trận Sekigahara với hắn.

– Mãn … Mãn Hà Chí hả ?

– Ừ ! Thì ra ngươi cũng chưa chết !

Thạch Kinh Tử muốn hét thật to và cười thật lớn để tỏ nỗi vui mừng. Hắn không chết ! Mà bạn hắn cũng không chết ! Thật không gì sung sướng cho bằng, nhưng tiếng cười của hắn khàn khàn, vướng trong cổ họng, không ai rõ là hắn cười hay hắn khóc.

Thạch Kinh Tử nghiêng đầu về phía Mãn Hà Chí, thấy bạn đang bò lại gần. Hắn đưa tay ra nắm tay bạn. Qườ quạng mãi mới nắm được một ngón. Cử chỉ này khiến hai đứa nhớ đến lúc còn nhỏ chơi với nhau thường ngoắc tay như thế mỗi khi có điều gì giao kết. Bất giác, trên bộ mặt nhem nhuốc bùn đất của chúng, phát một nụ cười thỏa mãn.

– Có lẽ chỉ hai đứa mình sống sót.

– Có lẽ thế. Nhưng đừng mừng vội. Tao yếu quá.

Thạch Kinh Tử:

– Tao cũng thế. Nhưng không sao. Mình sẽ dìu nhau ra khỏi bãi này mới hy vọng.

Câu nói của hắn bị đứt quãng vì có tiếng đất chuyển lục ục như nước sôi.

– Nằm xuống ! Nằm xuống ! Chúng trở lại !

Một đoàn người ngựa đen ngòm phóng tới. Mãn Hà Chí kinh hãi định bò vào bụi trốn. Thạch Kinh Tử giữ tay gã lại.

– Chớ động đậy ! Giả chết đi. Đừng để chúng nghi mình còn sống. Nguy lắm !

Đoàn ngựa chiến to lớn rần rần qua mặt hai kẻ bại trận. Hàng trăm cặp móng sắt sắc như dao bổ lên đám thây người rải rác khắp nơi. Hết đợt này đến đợt khác, toán kỵ binh phóng ào ào, bụi đất văng tứ tung, binh khí chạm vào giáp sắt nghe rổn rảng.

Mãn Hà Chí dán mặt xuống cỏ, mắt nhắm nghiền, nhưng Thạch Kinh Tử vẫn mở mắt thao láo nhìn đoàn chiến mã chạy qua, gần đến nỗi hắn ngửi thấy cả mùi mồ hôi ngựa.

Đoàn quân đi đã xa, hai đứa vẫn còn nằm yên chưa hết sợ. Lúc sau, đứa nọ đưa mắt nhìn đứa kia, không tin ở sự may mắn phi thường chúng vừa được hưởng. Thật là kỳ diệu:

chúng không bị phát giác !

– Lại thoát lần nữa !

Mãn Hà Chí và Thạch Kinh Tử nắm chặt tay nhau, nụ cười vui mừng nở trên cặp môi tím còn run rẩy vì xúc động. Giọng Mãn Hà Chí nghẹn ngào:

– Chắc có quý nhân phù hộ !

Trên cao, mây vần vũ. Bãi chiến trường vào một buổi chiều ảm đạm, thê lương vô hạn. Hai kẻ chiến bại dìu nhau đứng dậy giữa những tiếng quạ kêu, rẽ cỏ hướng về phía đồi xa chậm chạp bước. Thạch Kinh Tử hy vọng khu rừng rậm hắn trông thấy trước mặt có thể tạm dùng làm nơi ẩn náu. Đến chiều, tới được khu rừng, đói và mệt rã rời, cả hai nằm lăn ra ngủ, chẳng nghĩ gì đến mà cũng không còn sức để đi tìm thức ăn và nước uống nữa.

Hai ngày liền lang thang trong khe núi Ibuki, Mãn Hà Chí và Thạch Kinh Tử đào rễ cây rừng và nhặt hạt dẻ sống để ăn. Sức khỏe của họ đã hồi phục được đôi chút, các vết thương cũng bắt đầu lành nhưng Mãn Hà Chí bị đau bụng. Thức ăn dường như không giữ được lâu trong cơ thể hắn. Mỗi khi đau hắn gập đôi người lại, mặt mày xanh mét.

Trong hai đứa, Thạch Kinh Tử bây giờ lại là đứa khỏe nhất.

Trận mưa vừa rồi là trận mưa cuối mùa. Mãn Hà Chí và Thạch Kinh Tử ngày nghỉ đêm đi, tránh sự ruồng xét của quan quân tuần tiễu. Họ biết đi trốn vào những đêm trăng sáng như đêm nay rất nguy hiểm vì dễ bị phát giác, nhưng họ cứ liều, Cả hai đều thèm cơm hoặc một thứ gì đã được nấu chín, mà Mãn Hà Chí lại đau bụng quá, nếu không có thuốc chữa, sẽ bỏ mạng trong rừng. Cho nên lần theo dòng suối, chúng đi về phương nam, đến một nơi mà theo trí nhớ của Thạch Kinh Tử, có thể là thị trấn Tarui. Mãn Hà Chí xem chừng khó mà đi được xa vì cứ vài chục bước lại phải vào trong bụi. Dù đã dùng một cành cây khô làm gậy chống, mỗi bước hắn đi là một bước cực nhọc. Thạch Kinh Tử phải kiên nhẫn đỡ lưng gã, miệng luôn luôn khích lệ:

– Cố lên mày ! Cố lên ! Nằm lại là chết.

Những lúc tạm nghỉ, Mãn Hà Chí luôn mồm kêu khổ, than vãn đủ điều.

– Hay để tao ngồi đây, mày đi đi. Tại tao làm mày chậm trễ.

Lúc đầu, Thạch Kinh Tử còn gạt đi, sau phát cáu:

– Thôi ! Đáng lẽ tao phải xin lỗi mày mới phải, vì chính tao đã kéo mày vào hoàn cảnh này mà ! Mày nhớ không ? Tao đã kể mày nghe ý tao muốn làm một cái gì để ba tao phải nể, đừng nhiếc tao là đồ vô dụng nữa. Đâu phải lỗi tại mày !

Quả vậy, cha Thạch Kinh Tử, ông Mưu Ni Sai, trước đây là bộ thuộc của sứ quân Sĩ Miên ở Iga. Cha hắn là kiếm khách, tất nhiên hắn cũng phải là kiếm khách. Hắn nóng lòng muốn tỏ can trường, chặt đầu tướng địch, danh vang làng xóm để chứng tỏ hắn là người đáng được kính nể chứ không phải vô dụng như cha hắn vẫn nhiếc móc, nên khi nghe tin có chiêu binh mãi mã, Thạch Kinh Tử thấy thời cơ đã đến, rủ Mãn Hà Chí đăng lính ngay.

Thạch Kinh Tử nhắc lại tất cả những chuyện ấy cho bạn nghe.

– Ừ, tao biết, tao biết ! …

– Lại còn bà cụ đẻ ra mày nữa, rêu rao khắp nơi tao là thằng vô tích sự, thành ra …

– Ừ ừ … mẹ tao tính vẫn thế.

– Tao muốn mày theo tao vì làm việc gì, tao với mày cũng đều có nhau. Mày nhớ không, chị tao chẳng muốn tao đi, mà phần mày vợ chưa cưới của mày cũng vậy. Họ bảo trai làng phải sống ở làng …

Ngừng một lát, hắn mỉm cười:

– Có lẽ họ nói đúng. Hơn nữa tao với mày con một, chết đi ai nối dõi. Nhưng thây kệ, sống như vậy thật không đáng sống.

Mãn Hà Chí và Thạch Kinh Tử yên lặng ngồi nhìn trời. Chúng nghĩ đến lúc trốn khỏi làng, non năm trước, tin chắc sẽ được công thành danh toại. Nhưng đến trại của sứ quân Sĩ Miên, cả hai chưng hửng trước sự thật phũ phàng. Họ cho biết, mặc dù ông Mưu Si Nai có làm gì đi nữa chúng cũng không thể tức thì là kiếm khách. Phải tập luyện, phải xông pha trận mạc đã. Bây giờ chúng chỉ được coi như những nông dân thô lậu chẳng khác gì những thiếu niên mới tập vài đường giáo mác. May lắm là cho làm lính trơn. Trách nhiệm, nếu được gọi là trách nhiệm, chỉ là khuân vác binh khí, gạo muối và đồ làm bếp, cắt cỏ, đắp đường, đôi khi theo chân người khác đi do thám chút đỉnh.

– Kiếm khách ? Chém đầu tướng địch ? Thạch Kinh Tử cười hềnh hệch. Có bao giờ tao được đến gần một kiếm khách đâu mà hòng chém tướng ? Nhưng thôi, chuyện đã lỡ rồi, giờ làm gì đây ? Tao không thể bỏ mày ở đây được vì còn mặt mũi nào trông thấy bà cụ và Oa Tử, vợ chưa cưới của mày nữa ?

Mãn Hà Chí gật đầu:

– Chung qui cũng tại thằng Cổ Xích Anh phản chủ mà mình nên nông nỗi này. Tội nó thật đáng giết. Thạch Kinh Tử, giúp tao đứng dậy chút. Mày có chắc con suối này chảy đến Arui không ?

Thạch Kinh Tử không đáp. Thật ra, trong bụng hắn cũng không tin tưởng gì. Đi một lúc lâu, có lẽ đêm đã khuya lắm, Thạch Kinh Tử và Mãn Hà Chí mới đến ven một cánh đồng nhỏ, lác đác nhiều đám cỏ gai và ở ven suối những đám sậy tả tơi như sau một cơn bão.

Không một căn nhà. Không một ánh lửa. Dưới trăng chỉ thấy ngổn ngang thây người, lúc chết thế nào giờ vấn nguyên thế. Có xác đầu khuất trong đám cỏ cao, có xác nằm vắt vẻo trên cành cây thấp, nửa thây trên bờ, nửa thây dưới suối. Có xác còn trên yên ngựa, người vật lẫn lộn với nhau, chẳng ra hình thù gì.

Nước mưa đã rửa sạch hết vết máu. Dưới ánh trăng, những thớ thịt chết lộ ra, trắng bợt tựa vẩy cá.

Xung quanh hai đứa, trong đêm thu tiếng dế kêu ri rỉ, đều đều buồn bã. Mãn Hà Chí bỗng thấy nước mắt đầy tròng, tràn xuống hai gò má bẩn thỉu. Nó thở dài, cái thở dài sầu thảm của một người ốm nặng không tin mình có thể qua khỏi.

– Thạch Kinh Tử ! Tao chết đi mày có săn sóc Oa Tử hộ tao được không ?

– Mày nói nhảm gì vậy ?

– Hình như tao sắp chết.

Thạch Kinh Tử bực mình:

– Ừ thì chết. Mày nghĩ vậy thì mày sẽ chết !

Thạch Kinh Tử giận lắm. Hắn mong bạn có đôi chút nghị lực về tinh thần để hai đứa dựa lẫn nhau. Không ngờ thằng này hèn yếu quá.

– Thôi đừng than nữa mày !

Tuy nói dỗ và mắng bạn như thế, nhưng hắn vẫn thương thằng bạn gặp cảnh không may.

– Mẹ tao còn có người chăm sóc, chứ Oa Tử mồ côi, chẳng có ai. Lúc nào nó cũng cô đơn. Thạch Kinh Tử ! Nếu tao chết, mày hứa săn sóc nó hộ tao !

– Yên tâm ! Tiêu chảy sao chết được. Sớm muộn gì mình cũng tìm được chỗ nằm nghỉ và uống thuốc. Rồi khỏi. Đừng than mà cũng đừng nói chuyện chết nữa.

Xa hơn một chút, chúng thấy một chỗ xác người nằm chất đống. Hai đứa bây giờ đã quen với ruột gan người chết sổ lòng thòng nên đứng nhìn cảnh đó chẳng xúc động gì. Chúng đến bên gốc cây ngồi nghỉ.

Thình lình, giữa đám tử thi có tiếng động. Thạch Kinh Tử giật mình thụp xuống theo bản năng tự vệ, mắt mở banh, mọi giác quan căng thẳng tột độ. Một bóng đen giữa những thây ma nhảy vụt ra, bất ngờ như con thỏ bị người bắt gặp rồi lại lẳng lặng ngồi lẩn vào trong đám xác chết. Tưởng gặp tay kiếm khách nguy hiểm, Thạch Kinh Tử và Mãn Hà Chí sẵn sàng chấp nhận một cuộc giao đấu một còn một mất, nhưng cả hai ngạc nhiên hết sức khi bò đên gần, thấy đó là một thiếu nữ. Nàng trạc mười lăm, mười sáu, mặc áo rộng tay, chiếc obi (thắt lưng to bản) quấn quanh ngườ i chạy chỉ vàng lóng lánh tuy đã sờn cũ. Dưới ánh trăng vằng vặc, giữa đám tử thi, cảnh đó thật là kỳ dị.

Nàng ngồi đó, giương đôi mắt đen láy nhìn Thạch Kinh Tử và Mãn Hà Chí, vừa tinh quái vừa nghi kỵ.

Cả hai tự hỏi:

“Chẳng biết một người con gái, nửa đêm làm gì ở cái bãi hoang đầy tử khí và ma quỷ này ?”. Nhưng chúng không nói, chỉ giương mắt tò mò nhìn lại thiếu nữ.

Sau cùng, Thạch Kinh Tử lên tiếng:

– Cô là ai ? Làm gì ở đây ?

Không đáp, thiếu nữ vùng bỏ chạy.

– Cô kia, đứng lại ?

Nhưng thiếu nữ đã vụt ra xa, chạy chữ chi, tránh dẫm lên những xác chết. Áo trắng của nàng loang loáng dưới ánh trăng. Có tiếng chuông lanh canh vọng lại rồi cũng xa dần, kỳ bí chìm dần vào bóng đêm sâu thẳm cùng những bụi gai dày ở xa.

Sương xuống mờ mờ. Thạch Kinh Tử nhìn sương, nói khẽ:

– Người hay ma ?

Mãn Hà Chí run nhong nhóc, cười gượng:

– Nếu là ma, chắc là ma lính.

– Bỏ đi mày ! Sợ hả ? Nó chạy đằng này chắc là phải có làng mạc quanh đây. Biết đâu nó chẳng chỉ đường cho mình ?

Quên cả nghỉ, cả hai tiếp tục hành trình, leo lên ngọn đồi gần nhất. Dốc đồi bên kia là bãi lầy chạy đến chân núi Fuwa. Xa xa, khoảng chừng nửa dặm, một đốm lửa leo lét.

Thạch Kinh Tử và Mãn Hà Chí cho đó là một căn lều. Dù sao cũng tốt, một căn lều tránh mưa nắng, tạm dưỡng bệnh còn hơn không. Đến gần thì ra là một trang trại, xung quanh có lớp tường đất dầy bao bọc. Cổng vào, trước kia chắc rất lớn, nhưng nay đã đổ nát. Tất cả ẩn dưới những tàng cây rậm rạp và lau cao hơn đầu người, mang một vẻ hoang phế khó tả. Thạch Kinh Tử đến trước trại, đập cửa:

– Có ai trong nhà không ?

Không nghe trả lời, hắn lại đập cửa lần nữa.

– Xin lỗi làm rộn quý trại vào giờ này. Bạn tôi đau nặng. Chúng tôi thật chẳng muốn phiền, chỉ xin nghỉ chân đôi chút.

Trong nhà có tiếng thì thào rồi một giọng con gái vọng ra:

– Các chú là tàn quân trận Sekigahara phải không ?

– Dạ phải. Chúng tôi là quân dưới trướng sứ quân Sĩ Miên ở Iga.

– Đi đi ! Quan quân đang ruồng bắt những lính bỏ ngũ. Nếu họ thấy các chú ở đây thì phiền lắm !

– Xin thứ lỗi vì chúng tôi đi đã nhiều rồi. Bọn tôi cần được nghỉ đôi chút.

– Không ! Đi ngay đi !

– Vậy xin cô cho ít thuốc đau bụng. Bạn tôi đau bụng lắm, không đi nổi nữa.

– Trời ơi ! Các chú lằng nhằng quá … Sau câu nói, có tiếng chân bước và tiếng chuông ngân nhè nhẹ đi về phía nhà trong.

Ngay lúc ấy, cả hai đều nhìn thấy khuôn mặt. Một khuôn mặt trắng của đàn bà đang chăm chú quan sát chúng qua cửa sổ bên hông.

– A Kế Mỹ ! Người đàn bà lên tiếng. Cho họ vào. Lính trơn đấy mà, có gì mà sợ.

Tụi kia hơi đâu mất thì giờ với họ.

Lúc sau A Kế Mỹ ra mở cửa. Người đàn bà tự giới thiệu mình là Ôkô. Nghe chuyện xong, bà bằng lòng để cả hai tá túc trong nhà và ngụ Ở kho chứa củi.

Bà cho Mãn Hà Chí uống bột than tử dương để trị chứng tiêu chảy và nấu cho ăn cháo loãng với hành lá.

Mấy ngày sau đó, Mãn Hà Chí ngủ li bì. Thạch Kinh Tử vừa săn sóc bạn vừa tự lấy rượu trị những vết thương ở đùi. Một tuần qua đi, hai đứa ngồi dậy chuyện gẫu được.

– Chắc bà ấy phải làm nghề gì chứ !

– Chẳng biết nghề gì, nhưng giúp mình thế này là quý rồi !

Nhưng Mãn Hà Chí tò mò bứt rứt không yên.

– Bà mẹ còn trẻ. Hai mẹ con như vậy sống cô độc trên núi, thực là kỳ ! Hà, mà mày thấy cô con giống Oa Tử không ?

– Có vài điểm hao hao, nhưng tao không thấy giống. Mỗi người một vẻ. Lần đầu tiên thấy nàng, mày nghĩ cô ta đang làm gì ở bãi hoang cạnh những xác chết đó ? Cô ta có vẻ không bối rối, lúc nào mặt cũng thanh thản như một con búp bê bằng sứ vậy.

Cảnh đó tao thấy còn như hiện ra trước mắt.

Bỗng Mãn Hà Chí khẽ suỵt, bảo im:

– Nghe có tiếng chuông ngân. Chắc nàng tới.

Tiếng gõ cửa cạch cạch như tiếng mỏ chim gõ thân cây.

– Mãn Hà Chí ! Thạch Kinh Tử !

– Ai đó ?

– Tôi, A Kế Mỹ.

Thạch Kinh Tử đứng dậy kéo then gài. Nàng bước vào, tay bưng cái khay đựng thức ăn và thuốc, rồi hỏi thăm sức khỏe cả hai.

– Cảm ơn cô. Nhờ ơn bà và cô, chúng tôi khá hơn trước.

– Mẹ tôi bảo nếu các chú đã đỡ thì chớ ra ngoài mà cũng đừng nói lớn.

– Chúng tôi thật áy náy đã phiền bà và cô … – Không sao, nhưng các chú phải để ý, Tôn gia cho quan quân tuần tiểu ngặt lắm, vì chưa bắt được Mịch Nã Lý. Ai chứa tàn quân của Sĩ Miên cũng bị liên lụy.

– Thật hả ?

– Vì vậy mẹ tôi bảo dù các chú là lính trơn, quan quân bắt gặp, chúng tôi cũng bị tội.

– Dạ, chúng tôi hứa sẽ theo lời bà và cô. Tôi đã có khăn sẵn để bịt mồm Mãn Hà Chí, phòng khi hắn ngáy lớn.

A Kế Mỹ mỉm cười quay ra:

– Thôi, các chú ngủ ngon. Mai tôi lại đến.

– Thưa cô. Thạch Kinh Tử chạy theo. Sao cô không lưu lại chuyện vãn chút nữa ?

– Không được đâu.

– Sao vậy ?

– Mẹ tôi không cho phép.

– Cần gì ! Cô bao nhiêu tuổi ?

– Mười sáu.

– Có hơi nhỏ người phải không cô ?

– Cảm ơn chú cho biết.

– Cha cô đâu ?

– Cha tôi mất rồi.

– Chết, xin lỗi. Vậy bà và cô sống bằng gì ?

– Chúng tôi chế ngải cứu.

– Thứ thuốc vẫn dùng để trên da rồi đốt xông khói trị bệnh ấy hả ?

– Phải rồi. Ngải cứu vùng Ibuki này nổi tiếng. Mùa xuân chúng tôi lên núi hái thuốc, đến hè thì phơi, thu đông chế thành ngải đem đi Tarui bán. Khách thập phương mua đông lắm.

– Làm chuyên đó, cô cần đàn ông giúp không ?

A Kế Mỹ nguýt Mãn Hà Chí:

– Nếu chú chỉ muốn biết chuyện ấy thì tôi đi đây.

– Xin cô lưu lại chút nữa, tôi có câu này muốn hỏi.

– Gì vậy ?

– Đêm trước, cái đêm chúng tôi đến xin ngủ nhờ nhà cô đó, tôi có gặp một cô gái ở bãi hoang cạnh các xác chết, giống cô như hệt. Phải cô không ?

A Kế Mỹ quay phắt ra, mở cửa.

– … Cô làm gì ở đó ?

Nàng đóng sập cửa lại và khi nàng chạy lên nhà, Thạch Kinh Tử và Mãn Hà Chí còn nghe vọng lại tiếng chuông ngân lanh tanh, theo một nhịp khác thường và kỳ dị.

Chương 2: Cái lược

Thạch Kinh Tử cao một thước bảy lăm, so với những người cùng tuổi, có thể coi là lớn vóc. Hắn như con tuấn mã, khỏe và dai sức, chân tay dài rắn chắc, môi đầy đặn đỏ hồng, mày đen rậm nhưng thanh tú chứ không quăn rối, kéo dài quá đuôi mắt làm tăng thêm vẻ ngang tàng của gương mặt.

Nhờ có những nét khôi ngô trên mức trung bình ấy, dân làng gọi hắn là “thằng bé được mùa”. Tuy chẳng ngụ ý gì giễu cợt, nhưng hỗn danh này làm cho những đứa trẻ đồng tuổi lánh xa, hắn lấy thế làm phiền muộn.

Còn Mãn Hà Chí, tuy không tuấn tú nhưng hỗn danh trên đôi với nó hợp hơn. Mập và lùn hơn Thạch Kinh Tử, Mãn Hà Chí tròn quay, gương mặt cũng tròn. Mỗi khi nói, đôi mắt tròn xoe hơi lồi đưa láo liên trông khôi hài như một thằng hề. Mọi người thường chế giễu, ví hắn như con ếch.

Thanh niên đang tuổi lớn, nếu có bị thương cũng mau lành. Khi cả hai đã hoàn toàn bình phục, Mãn Hà Chí bứt rứt, không chịu nổi cảnh tù túng. Nó bực dọc đi lại trong nhà chứa củi như con thú bị nhốt trong chuồng, mồm không ngớt than vãn cảnh giam hãm. Nhiều lần nó tự ví là con dế kẹt trong hang tối khiến Thạch Kinh Tử được dịp chế nhạo:

– Thì dế với ếch có khác gì ! Dế ở được thì ếch cũng ở được !

Đôi khi chắc Mãn Hà Chí có để tâm dò xét hai mẹ con ở căn nhà trên, vì một hôm nó ghé tai người bạn đồng cảnh thì thầm ra vẻ quan trọng:

– Đêm nào bà mẹ góa cũng đánh phấn làm đẹp mày ạ !

Thạch Kinh Tử cau mặt. Như đứa trẻ mười hai không ưa con gái, thấy bạn bắt đầu chú ý đến ỡ lũ ấy, nó nhìn Mãn Hà Chí khinh bỉ.

Mãn Hà Chí bắt đầu lên nhà trên, lân la gần bếp lửa cạnh A Kế Mỹ và bà mẹ góa.

Sau ba bốn ngày chuyện cà kê và đùa cợt, Mãn Hà Chí mặc nhiên được coi như người nhà. Nó không trở về ngủ ở vựa củi nữa, năm thì mười họa có về thì cũng say sưa, hơi thở sặc mùi sa-kê và cố gò Thạch Kinh Tử lên ở nhà trên bằng cách khoe khoang cảnh sống vui thú ở cách đó chỉ vài bước.

Thạch Kinh Tử khó chịu:

– Mày điên hả ? Rồi đến bị giết hết, nếu không cũng bị bắt cả đám. Đã thua phải trốn còn không biết thân. Tao với mày bây giờ phải lẩn cho kỹ, chờ khi nào yên đã.

Nhưng mãi rồi cũng chán. Không khuyên bảo được tên bạn thích hưởng lạc ấy, Thạch Kinh Tử chỉ trả lời gióng một:

“Tao không ưa rượu sa-kê “, hoặc “tao thích ở vựa củi, thoải mái hơn”.

Cho đến một hôm, không chịu nổi nếp sống buồn tẻ, Thạch Kinh Tử đã có những dấu hiệu yếu đuối.

– Mày có chắc là không có lính tuần không ? Có thật không can gì không ?

Và Thạch Kinh Tử, sau hai mươi ngày tự trốn mình trong vựa củi, đã chịu thò đầu ra ngoài. Hắn như tên tù sắp chết, da xanh mét, chẳng bù với Mãn Hà Chí, hồng hào vì nắng và rượu. Thạch Kinh Tử ngước nhìn trời, mắt hấp háy, vươn vai ngáp dài như con thú mới được thả. Ngáp xong, hắn nhíu lông mày, nét mặt đăm chiêu. Rồi sau một lúc suy nghĩ, khẽ nói:

– Chúng ta lợi dụng lòng tốt của hai mẹ con nhà này nhiều rồi. Nếu cứ ở đây mãi họ sẽ bị nguy. Phải về thôi !

– Mày nói đúng. Nhưng ra khỏi vùng này khó lắm. Chúng đang kiểm soát gắt gao.

Bà mẹ cho biết hai đường Kyoto và Ise đều không đi được, phải ở đây đợi đến đầu mùa tuyết. Cô con gái cũng đồng ý, bảo mình nên tạm ẩn thân thêm một thời gian nữa. Nó nói phải vì hàng ngày nó đi khắp nơi, không xó xỉnh nào không biết.

– Vậy như mày ngồi nhậu nhẹt cạnh bếp là ẩn thân đấy hả ?

– Chứ sao ! Hôm trước có lính tuần qua đây lục soát trong nhà. Mày biết tao làm thế nào không ? Tao điềm nhiên bước ra cửa đón. Thế mà chẳng thằng chó nào biết.

Chúng nhìn qua rồi bỏ đi.

Thạch Kinh Tử trố mắt không tin. Mãn Hà Chí cười lớn:

– Nghe tao. Ra ngoài an toàn hơn là nằm trong đó rình rập từng bước chân người qua lại, đến phát điên mất.

Rồi nó là cười nhạo báng. Thạch Kinh Tử phân vân:

– Có lẽ mày nói phải. Cách đó xem ra hay đấy.

Tuy còn ngờ vực nhưng Thạch Kinh Tử cũng dọn đồ lên nhà trên ở. Ôkô hoan hỉ ra mặt. Bà ta có vẻ thích đàn ông, tiếp đãi chúng nồng nhiệt, nhưng có lúc đã làm chúng giật mình vì ngỏ ý muốn gả con gái cho một trong hai đứa.

Mãn Hà Chí hơi bẽn lẽn, nhưng Thạch Kinh Tử coi thường, không để ý hoặc tìm cách gạt đi bằng những câu nói đùa khéo.

Đã đến mùa nấm hương trổ đầy bên những gốc thông già trên rặng núi sau trại.

Khi nấm bắt đầu thơm và mập, Thạch Kinh Tử cùng với A Kế Mỹ mang giỏ đi hái nấm.

Cô bé đi từ gốc này sang gốc khác. Mỗi khi ngửi thấy hương nấm bốc lên ở chỗ nào, nàng lại chạy tới, giọng hồn nhiên vang dội cả khu rừng tịch mịch:

– Thạch Kinh Tử ! Đến đây ! Chỗ này nhiều lắm !

Nhưng chàng thanh niên chỉ đáp suông, mắt không ngớt tìm kiếm:

– Chỗ này cũng chẳng thiếu gì !

Qua đám cành thông nhỏ đan nhau, nắng thu chiếu dịu dàng xuống hai người.

Dưới gốc thông già mát rượi, lớp thảm lá khô dầy ửng lên màu hồng nhạt như vừa được rắc phấn.

Khi hái đã mệt, A Kế Mỹ quay lại cười và thách:

– Nào xem ai hái nhiều hơn nào !

– Ừ, coi đây !

Thạch Kinh Tử đáp, vẻ tự mãn.

A Kế Mỹ giật lấy giỏ của hắn mở ra và, với một niềm vui rạng rỡ chỉ thấy ở những thiếu nữ mười sáu, không pha một chút bối rối hoặc e lệ giả tạo, nàng vừa cười vừa nói:

– Biết ngay mà ! Chú hái cả nấm độc !

Rồi lấy tay nhặt từng cái vất ra xa, cố tình và thong thả đến nỗi dù không đếm, Thạch Kinh Tử có nhắm mắt cũng phải thấy.

Nhặt xong, nàng ngẩng mặt lên, hài lòng:

– Nào, bây giờ giỏ của tôi có nhiều hơn của chú không nào !

Thạch Kinh Tử đỏ mặt lẩm bẩm:

– Muộn rồi, về thôi !

– Chú giận vì thua cuộc chứ gì ?

Nói đoạn A Kế Mỹ chạy xuống đồi, bước chân thoăn thoắt như bước chân trĩ.

Đến lưng chừng đồi, đột nhiên nàng khựng lại, lộ vẻ sợ hãi. Một người to lớn như trái núi đang bước những bước dài từ một chỗ rẽ đi tới. Gặp A Kế Mỹ hắn trừng mắt nhìn. Vẻ hung dữ như dã thú của hắn làm cô bé rùng mình:

lông mày chổi xể xếch ngược, môi dày, răng vổ, kiếm nặng giắt ngang lưng, giáp sắt, áo da thú, tất cả đều mang vẻ man rợ của một kẻ chỉ biết có luật rừng để tranh sống. Hắn đến gần cô gái, nhe hàm răng cải mả ra cười và nói như bò rống:

– A Kế Mỹ !

Mặc dầu hắn cười, A Kế Mỹ cũng không khỏi sợ hãi.

– A Kế Mỹ ! Con mẹ xinh đẹp của mày có nhà không ?

Hắn hỏi, vẻ giễu cợt.

A Kế Mỹ đáp lí nhí:

– Dạ có.

Hắn làm bộ lễ phép:

– Vậy tao nhờ mày chút việc. Làm ơn giúp tao được không ?

– Dạ được.

Giọng hắn đanh lại:

– Bảo mẹ mày đừng có qua mặt tao. Tao sẽ đến lấy phần đấy nghe chưa ?

A Kế Mỹ lặng thinh.

– Đừng tưởng tao không biết. Người mua hàng đã nói hết với tao ! Còn mày nữa, tao cá là mày cũng đến Sekigahara, đúng không, nhỏ ?

A Kế Mỹ phản đối yếu ớt:

– Đâu có.

– Vậy được ! Nhắn mẹ mày như thế. Nếu cứ tiếp tục, tao tống cổ ra khỏi nơi này đấy !

Hắn giận dữ đứng nhìn A Kế Mỹ một lúc, rồi nặng nề lê bước về bãi lầy phía dưới chân núi. Thạch Kinh Tử trông theo, quay lại hỏi cô bé:

– Thằng đó là ai vậy ?

Mặt tái mét, A Kế Mỹ run rẩy đáp:

– Chu Kế Phong Thử Mạch ở thôn Fuwa.

Giọng Thạch Kinh Tử trầm xuống:

– Cướp phải không ?

Cô bé gật.

– Sao nó dữ vậy ?

A Kế Mỹ lặng thinh.

– Sao không cho tôi biết ? Tôi không nói với ai đâu !

A Kế Mỹ ngần ngại, dáng băn khoăn thiểu não. Đột nhiên ghé đầu gần ngực Thạch Kinh Tử, nàng khẩn khoản:

– Chú hứa không nói cho ai biết, nhé !

– Cô coi tôi là người thế nào ?

– Chú có nhớ cái đêm chú thấy tôi ở Sekigahara không ?

– Nhớ !

– Vậy chú vẫn chưa biết tôi làm gì à ?

– Chưa. Tôi không bao giờ nghĩ tới.

– Tôi ăn cắp đó !

Nói xong, nàng nhìn Thạch Kinh Tử, dò xét.

– Ăn cắp ?

– Ừ, ăn cắp. Cứ sau mỗi trận đánh nhau, tôi lại ra bãi lấy cắp đồ của xác chết:

gươm giáo, đồ trang sức, áo mũ … bất cứ thứ gì bán được cũng lấy …[Audio] Ác Linh Quốc Độ

Nàng liếc nhìn Thạch Kinh Tử xem hắn có tỏ thái độ gì bất bình không, nhưng hắn vẫn thản nhiên. Nàng khẽ thở dài:

– Cũng sợ lắm, nhưng biết sao ! Chúng tôi cần sống. Nếu không đi, mẹ tôi mắng !

Mặt trời chưa lặn. A Kế Mỹ kéo Thạch Kinh Tử cùng ngồi xuống cỏ. Xa xa dưới chân đồi, căn nhà của hai mẹ con nàng hiện ra sau những tàng thông cao.

Thạch Kinh Tử khẽ gật đầu như vừa hiểu chuyện. Một lúc sau hắn mới nói:

– Vậy chuyện chế thuốc là chuyện bịa à ?

– Không ! Cũng có làm chứ, nhưng mẹ tôi ưa xa hoa nên tiền bán thuốc không đủ.

Khi cha tôi còn sống, chúng tôi ở căn nhà lớn nhất làng, có khi lớn nhất cả trong bảy làng vùng Ibuki này nữa. Nhiều gia nhân lắm. Mẹ tôi lúc nào cũng ăn vận sang trọng.

– Chắc cha cô buôn bán ?

– Không. Ông là chúa đảng cướp vùng này.

Mắt A Kế Mỹ sáng lên kiêu hãnh. Bây giờ nàng không ngại Thạch Kinh Tử bất bình nữa. Nàng nghiến răng, nắm chặt hai bàn tay nhỏ bé:

– Chính thằng Chu Kế Phong vừa rồi đã giết chết ông. Mọi người đều nói thế.

– Vậy là cha cô bị ám sát hả ?

A Kế Mỹ yên lặng gật đầu và nước mắt trào ra. Thạch Kinh Tử không cầm được xúc động. Lúc đầu hắn chẳng ưa gì cô bé, vì so với các thiếu nữ khác cùng lứa, A Kế Mỹ hơi nhỏ người lại nói năng như bà cụ làm nhiều khi hắn phải giữ kẽ. Nhưng bây giờ thấy những giọt nước mắt chứa chan trên đôi mi đen dài, hắn động lòng thương, muốn ôm cô bé vào lòng, nói những lời an ủi và che chở.

A Kế Mỹ không được dạy dỗ. Nàng cho rằng không có nghề nào cao quý hơn nghề của cha mình. Mẹ nàng dạy nàng lột đồ của người chết đem bán là một điều hợp pháp để kiếm sống, hơn thế nữa, để sống sung sướng. Nhiều tên cường đạo khác đâu dám làm chuyện đó !

Sau nhiều năm chịu cảnh chiến tranh phong kiến, không thiếu gì những tên vô lại ở miền quê sống về lột các xác chết như vậy, lâu rồi người ta cũng coi thường.

Khi có chiến tranh lâu, các tay đầu mục địa phương cần đến bọn vô lại này, thuê chúng đốt nhà, cướp lương, cướp ngựa, phao tin thất thiệt … Thường thường chúng được trả công, nhưng trong thời chiến, chúng chẳng cần gì công xá. Ngoài những đồ vật quý giá lột được ở các xác chết ra, có khi chúng còn chặt đầu những kiếm khách chẳng may bỏ mình nơi trận địa đem về lĩnh thưởng.

Chỉ một trận quan trọng cũng đủ cho những tên vô lại như vậy sống sung túc hàng năm hay ít nhất sáu tháng. Vào những năm quá tao loạn, giới tiều phu và trại chủ lương thiện cũng học thói kiếm lời trên xương máu và sự đau khổ của người khác. Khi chiến tranh xảy ra gần làng, trồng trọt cày cấy không được, họ vội vã khai thác ngay hoàn cảnh mới, tìm cách sống như những con kên kên trên xác chết đồng loại. Cũng vì thế các tay cường đạo chuyên nghiệp đã phải kiểm soát gắt gao khu vực làm ăn của chúng và ra tay trừng phạt không thương xót kẻ nào xâm phạm vào những khu vực ấy.

A Kế Mỹ rùng mình nói:

– Bây giờ làm sao ? Tôi chắc bộ hạ của Thử Mạch thế nào cũng đến đây.

– Cô đừng lo ! Nếu chúng đến tôi sẽ cho chúng biết tay.

Khi hai người xuống đến chân núi, hoàng hôn đã bắt đầu phủ lên miền hoang dã.

Cảnh vật đìu hiu, cô tịch. Một vệt khói lam từ trong bếp do Ôkô đun nước tắm bốc ra còn vương trên đầu những ngọn sậy cao, như con rắn uốn éo trên không.

Ôkô đã trang điểm xong, đứng tựa cửa sau nhìn ra ngoài. Thấy con gái đi cùng với Thạch Kinh Tử, bà cất cao giọng:

– A Kế Mỹ ! Mày làm gì ở ngoài đó mà đến bây giờ mới về ?

Ánh mắt bà có vẻ nghiêm khắc. A Kế Mỹ giật mình. Hơn tất cả mọi thứ, nàng sợ nhất những cơn thịnh nộ của mẹ. Ôkô biết vậy nên lợi dụng sự sợ hãi ấy, sai khiến nàng như sai khiến một con rối, nhiều khi chỉ bằng cái lừ mắt hoặc cái trỏ tay.

A Kế Mỹ rời Thạch Kinh Tử, mặt đỏ bừng, chạy vào trong nhà.

Ngày hôm sau, A Kế Mỹ kể cho mẹ nghe chuyện gặp Thử Mạch. Bà mẹ không giữ được bình tĩnh:

– Sao mày không nói ngay cho tao biết ?

Rồi như con điên, bà vò đầu bứt tai, mở tung các ngăn kéo lấy ra đủ thứ đồ linh tinh lỉnh kỉnh xếp một đống giữa nhà.

– Mãn Hà Chí ! Thạch Kinh Tử ! Giúp tôi một tay ! Phải đem giấu hết !

Ôkô bảo Mãn Hà Chí lật tấm ván trên trần chui vào đó. Trần gian nhà hẹp, chỉ vừa đủ chỗ cho một người chui lọt, nhưng cách xếp đặt để giấu những đồ vật trên đó chắc là do thâm ý của Ôkô mà cũng là của người chồng xấu số trước kia của bà nữa.

Thạch Kinh Tử đứng trên ghế đẩu giữa hai mẹ con, luân phiên chuyền tay cho Mãn Hà Chí những vật dụng mà nếu không được nghe chuyện A Kế Mỹ kể hôm trước, có lẽ hắn phải ngạc nhiên lắm.

Tuy biết hai mẹ con Ôkô sống về nghề lột xác chết đã lâu, nhưng hắn không ngờ số vật dụng lại nhiều và tạp nhạp đến thế ! Nào giáo, nào đầu mũi mác, một cái tay áo giáp, một chiếc mũ đã mất vành, một bàn thờ Phật nhỏ xíu, chuỗi tràng hạt, cái cán cờ… có cả một bộ yên ngựa bằng gỗ sơn then, chạm trổ tinh vi cẩn xà cừ và nạm vàng bạc nữa.

Xếp dọn một hồi, Mãn Hà Chí ở trên trần thò đầu ra:

– Hết rồi à ?

– Chưa. Còn một thứ nữa.

Ôkô chạy ra khỏi phòng và trở lại mang theo một thanh kiếm gỗ sồi màu đen, dài chừng ba thước. Thạch Kinh Tử cầm thanh kiếm định trao cho Mãn Hà Chí nhưng thấy kiếm đẹp, dáng thuôn thuôn vừa tay, thật cân đối nên mân mê mãi không muốn rời.

Quay sang Ôkô, ham muốn lộ trên ánh mắt, hắn ngượng ngùng hỏi:

– Bà cho tôi nhé ?

Nhưng vội cúi ngay xuống vì tự biết chưa làm gì xứng đáng để được tặng món quà ấy. Như bà mẹ hiền từ, Ôkô dịu dàng hỏi lại:

– Chú thích lắm hả ?

– Dạ, thích lắm.

Và tuy chẳng nói là cho, Ôkô mỉm cười, đôi má lúm đồng tiền quyến rũ. Thạch Kinh Tử biết là mình đã được thanh kiếm.

Mãn Hà Chí nhảy từ trên trần nhà xuống, giận dỗi giơ tay vỗ vào vỏ kiếm.

Ôkô bật cười:

– Coi kìa, chú bé không có quà đương giận kìa !

Bà cho Mãn Hà Chí một cái túi da cẩn mã não nhưng Mãn Hà Chí vẫn không hài lòng. Nó đưa mắt nhìn thanh kiếm tỏ vẻ hờn dỗi, rõ ràng không kìm nổi lòng tự ái bị thương tổn.

Khi trượng phu còn sống, Ôkô thường có lệ mỗi chiều phải tắm nước nóng, khoan thai trang điểm rồi uống một chút sa-kê. Nàng kề cà trong phòng tắm thật lâu không khác gì một danh kỹ được hậu đãi. Không phải ai cũng như vậy, nhưng Ôkô ưa nếp sống xa hoa và tập cho con gái sống theo mình dù A Kế Mỹ không thích và thấy không cần thiết. Ôkô không những ưa sống xa hoa mà còn quyết tâm muốn giữ cho trẻ mãi.

Đêm đó mọi người ngồi quanh bép lửa. Ôkô rót rượu cho Mãn Hà Chí và cố mời Thạch Kinh Tử một chén.

Thạch Kinh Tử từ chối. Nàng để chén rượu vào tay hắn, cầm cổ tay bắt hắn đưa lên miệng uống.

– Đàn ông phải biết uống rượu. Nếu chú không uống được, tôi giúp.

Mãn Hà Chí nhìn nàng không bằng lòng. Ôkô biết thế, càng tỏ ra thân mật với Thạch Kinh Tử. Nàng để tay lên đùi hắn, miệng khe khẽ hát một bài ca tình tứ.

Lần này thì thật quá lắm ! Mãn Hà Chí quay sang Thạch Kinh Tử gằn giọng:

– Chúng ta sắp đi thôi !

Câu nói có hiệu quả ngay tức khắc. Ôkô ngạc nhiên, lắp bắp:

– Các … các chú định đi đâu ?

– Trở về Miyamoto. Mẹ và vợ chưa cưới của tôi ở đó.

Ôkô chưng hửng nhưng lấy ngay được bình tĩnh. Đang vui, nàng lim dim đôi mắt nhỏ như hai sợi chỉ, thôi không cười nữa và cất giọng chua như giấm:

– Vậy xin lỗi đã giữ các chú ở đây, cho các chú tá túc và tiếp đãi các chú. Nếu có cô nào đang đợi các chú thì xin cứ tự tiện, tôi chẳng giữ làm gì ?

Từ khi được thanh kiếm gỗ đen, Thạch Kinh Tử nâng niu, không chịu rời nó nửa bước. Cầm trong tay thanh kiếm, hắn sung sướng vô hạn. Hắn thường nắm chặt chuôi kiếm hoặc vuốt nhẹ lưỡi kiếm để hưởng cái thú cảm thấy trong tay đường cong rất mực cân đối và tuyệt mỹ của nó.

Khi ngủ, hắn cũng ôm nó vào lòng. Cảm giác mát rượi và nhẵn của lưỡi kiếm gỗ áp trên má làm hắn nhớ lại mảnh sàn trơn bóng nơi võ đường xưa kia về mùa đông hắn vẫn thường tập luyện. Thứ võ khí đẹp và chết người đó đã đánh thức tinh thần tranh đấu hắn hấp thụ được của cha khi trước.

Thạch Kinh Tử rất yêu mẹ, nhưng mẹ hắn đã bỏ ra đi ngay từ khi hắn còn nhỏ.

Cha hắn, ông Mưu Ni Sai, là một hiệp sĩ rất cương nghị và ưa nguyên tắc, giá có muốn chiều con cũng chẳng biết làm thế nào. Vì vậy đứng trước mặt cha, Thạch Kinh Tử luôn luôn sợ sệt, không bao giờ được thoải mái.

Khi lên chín, hắn thèm những lời âu yếm đến nỗi đã có lần trốn nhà, một mình lặn lội tới tỉnh Harima gặp mẹ. Thạch Kinh Tử chẳng hiểu sao cha mẹ hắn lại không cùng ở với nhau. Chẳng ai giải thích cho hắn biết, mà ở tuổi ây giá có giải thích cũng bằng thừa. Mẹ hắn lấy một kiếm sĩ khác ở Harima và có một con với người ấy.

Đến Harima, hắn tìm thấy mẹ chẳng khó khăn gì. Hai mẹ con đưa nhau vào một khu rừng thưa sau miếu để mọi người khỏi trông thấy. Mẹ hắn ôm ghì hắn vào lòng, nước mắt chan hòa, nức nở khuyên hắn trở về với cha. Thạch Kinh Tử không bao giờ quên được cảnh đó vì những chi tiết cuộc gặp gỡ hôm ấy suốt đời vẫn ghi vào tâm khảm hắn.

Dĩ nhiên Mưu Ni Sai, con người chỉ biết có nguyên tắc, sau khi thấy con bỏ đi, đã sai gia nhân lùng bắt. Người ta đoán biết chỗ hắn trốn nên tìm được hắn dễ dàng, trói gô lại rồi tải lên lưng ngựa mang về như bó củi.

Mưu Ni Sai không tha thứ cho thằng con hỗn láo đánh hắn một trận thừa chết thiếu sống trong cơn giận dữ như điên dại. Thạch Kinh Tử nhớ nhất lời ông đe dọa, quyết liệt:

– Nếu mày còn trở lại theo mẹ mày nữa, tao từ mày !

Chẳng bao lâu sau, Thạch Kinh Tử được tin mẹ bị bệnh chết.

Cái chết của mẹ hắn đã thay đổi nội tâm hắn ghê gớm. Từ một đứa trẻ hiền lành và đa cảm, Thạch Kinh Tử trở nên tên côn đồ hung bạo nhất làng, Mưu Ni Sai cũng phải sợ. Mưa Ni Sai đánh hắn bằng gậy, hắn đánh lại bằng chày. Chỉ Mãn Hà Chí là dám đương đầu với hắn, còn những đứa trẻ khác đều sợ chạy cả. Năm mười hai, mười ba tuổi, hắn đã lực lưỡng như người lớn.

Một năm có tay kiếm khách giang hồ tên Arima đến dựng đài diễn võ, thách dân làng tỉ thí. Thạch Kinh Tử lên đài, giết Arima dễ như bỡn. Dân làng hoan hô hắn nhiệt liệt, nhưng lòng ngưỡng mộ chẳng được bền. Càng ngày Thạch Kinh Tử càng tỏ ra hung bạo và bất trị. Nhiều người cho là hắn hiếu sát, thấy mặt đâu là lánh. Thái độ hắn đối với dân làng càng làm cho dân làng lạnh nhạt.

Đến khi người cha nghiêm khắc chết đi, bản tính hung tợn của Thạch Kinh Tử còn ghê gớm hơn nữa. Nếu không nhờ chị hắn là Ô Nhiên can thiệp, chắc Thạch Kinh Tử đã bị đuổi khỏi làng từ lâu rồi.

Hắn thương chị hết sức. Mỗi khi thấy chị khóc, hắn không đành lòng từ chối chị một điều gì cả.

Việc Mãn Hà Chí và Thạch Kinh Tử đăng lính đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời hắn. Ít ra nó cũng chúng tỏ là Thạch Kinh Tử vẫn còn muốn hội nhập vào xã hội, nhưng trận thất bại Sekigahara đã tàn nhẫn đập tan những ước vọng ấy và lại đẩy hắn rơi vào vực sâu đen tối hắn tưởng vừa thoát khỏi.

Tuy nhiên Thạch Kinh Tử có một tâm hồn vô tư lạ lùng, chỉ thấy trong những thời kỳ loạn lạc. Khi ngủ, mặt Thạch Kinh Tử bình thản như một đứa trẻ không nghĩ đến ngày mai. Hắn cũng có những mộng ước, dù thức hay ngủ, nhưng chưa bao giờ phải chịu nỗi thất vọng sâu xa. Bước vào đời tay trắng, hắn chẳng có gì để mà tiếc nuối. Nếu bảo hắn là một tên mất gốc thì cũng phải công nhận rằng hắn chẳng bị một điều gì ràng buộc.

Thạch Kinh Tử nằm kia, tay ôm thanh kiếm gỗ, cánh mũi phập phồng, nhịp thở đều hòa trong giấc ngủ. Có lẽ hắn đang mơ, nụ cười tươi hé trên môi. Dưới đôi hàng mi đen, hắn thấy gì ? Người chị hắn thương yêu hay ngôi làng bé nhỏ bình yên ở đó hắn đã sinh trưởng ?

Ôkô tay cầm đèn bước vào phòng. Nhìn Thạch Kinh Tử, nàng đứng yên, khẽ thốt:

“Nét mặt mới bình thản làm sao !”. Rồi đưa tay phớt nhẹ lên đôi môi hé mở của hắn, nàng thổi tắt đèn, rón rén nằm xuống bên cạnh như con mèo cuộn tròn trên tấm thảm.

Thong thả, nàng xích lại gần Thạch Kinh Tử từng chút, khuôn mặt nhồi phấn trắng và bộ áo ngủ sặc sỡ hiện rõ trong bóng tối.

Bên ngoài hoàn toàn yên lặng. Vài giọt sương đêm rơi nhẹ trên thành cửa sổ.

Ôkô tự nhủ:

“Không biết anh chàng này đã biết mùi đàn bà chưa !” và đưa tay định cầm thanh kiếm gỗ. Nhưng vừa chạm vào thanh kiếm, Thạch Kinh Tử đã giật mình chồm dậy, hất nàng ra và kêu ầm ĩ:

– Ăn trộm ! Ăn trộm !

Ôkô bị hất bắn ra ngoài, va phải cây đèn. Thạch Kinh Tử nhảy tới bẻ tay nàng quặt ra sau.

– Trời ơi ! Chú làm gẫy tay tôi bây giờ !

– Ủa, tôi tưởng kẻ trộm ! Xin bà tha lỗi !

– Úi chà, đau ! … Chú làm gì mà dữ vậy ?

– Tôi xin lỗi. Thế bà vào đây làm gì ?

Ôkô nắn tay xuýt xoa, không đáp. Đột nhiên nàng dùng cánh tay ấy ôm chặt lấy cổ Thạch Kinh Tử vít xuống, âu yếm:

– Thạch lang, chàng khỏi phải xin lỗi.

Rồi đưa tay vuốt má hắn. Thạch Kinh Tử nhảy lui:

– Bà làm gì vậy ? Điên hả ?

– Thạch Kinh Tử ! Làm gì mà rầm lên vậy ? Không biết tôi thương chú lắm sao ?

Nàng dùng những lời ngon ngọt để dụ dỗ, nhưng chàng thanh niên ngu ngốc cố né như người bị Ong đốt.

– Biết chứ. Anh em chúng tôi rất ơn bà đã thương cho trú ngụ lại còn giúp đỡ mọi thứ.

– Không phải thế ! Tôi muốn nói tình tôi thương chú, tình âu yếm của tôi đối với chú …

– Khoan ! Để thắp đèn lên đã !

– Sao độc ác thế ?

Nàng khóc thút thít rồi lại định giơ tay ra ôm lấy Thạch Kinh Tử.

– Đừng động vào tôi ! Tôi nói thật ! …

Giọng nói và dáng điệu hắn có một cái gì mạnh mẽ, quyết liệt làm Ôkô sợ hãi, khựng lại.

Hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, chân mềm như bún, Thạch Kinh Tử kinh sợ quá chừng ! Chưa bao giờ hắn gặp một địch thủ ghê gớm đến thế ! Cả lúc nhìn đoàn người ngựa chạy rầm rầm trên bãi hoang còn tanh mùi máu ở Sekigahara, tim hắn cũng không đập loạn đến thế ! Hắn giật lùi vào góc phòng:

– Bà về đi ! Bà trở về phòng đi ! Nếu không, tôi đánh thức Mãn Hà Chí và cả nhà dậy bây giờ.

Ôkô đứng lặng người trong bóng tối, thở hổn hển, mắt nhìn Thạch Kinh Tử không chớp. Nàng nhất định không chịu để bị ruồng rẫy như vậy.

– Thạch lang không hiểu lòng tôi hay sao ?

Thạch Kinh Tử không trả lời.

– Thạch Kinh Tử, chú phải hiểu …

– Bà cũng phải hiểu chứ ! Tôi đang ngủ, bà làm tôi giật mình, như con cọp cái trong bóng tối xông đến …

Đến lượt Ôkô đứng lặng. Cơn giận ứ lên cổ, nàng dằn từng tiếng:

– Tại chú mà tôi bối rối thế này !

– Sao lại tôi được !

– Chú làm tôi cụt hứng !

Hai người nhìn nhau, tinh thần căng thẳng, không để ý đến tiếng đập cửa gấp rút bên ngoài. Tiếng đập cửa càng mau rồi những tiếng nói vội vàng vọng vào:

– Chuyện gì trong ấy vậy ? Thạch Kinh Tử ! Mở cửa mau !

Áng sáng đèn bên ngoài chiếu qua khe vách. A Kế Mỹ đã thức dậy, tiếp theo là bước chân vội vã của Mãn Hà Chí:

– Chuyện gì thế ?

Tiếng A Kế Mỹ ở ngoài hành lang gọi mẹ, lo lắng:

– Mẹ có ở trong ấy không, mẹ ?

Ôkô sờ soạng đi lần về phòng mình sát với phòng Thạch Kinh Tử rồi trả lời vọng ra.

Bên ngoài, bóng người lố nhố. Có lẽ bọn họ vừa phá cửa chính xông vào phòng khách. Ôkô thấy sáu bảy người đàn ông lực lưỡng đứng chen nhau trên nền đất nện thấp hơn nhà ngoài một bậc. Một người trong bọn lớn tiếng:

– Chu đại ca đã đến ! Thắp đèn lên !

Đèn thắp, họ ùa ra phòng khách. Chẳng thèm cởi bỏ giầy, họ chia nhau lục soát khắp nơi, mở tủ, mở ngăn kéo, lật chiếu, giật rèm … không chỗ nào không ngó tới.

Chu Kế Phong Thử Mạch ngồi giữa nhà nhìn bộ hạ tung hoành. Một lúc sau như không vừa ý, hắn đập tay xuống chiếu.

– Ôkô, những đồ ấy đâu cả rồi ?

– Ta không hiểu ngươi định nói gì.

Ôkô ở phòng bên đáp vọng sang, giọng hơi run.

– Đừng vờ ! Ta biết những thứ đó ở nhà này. Mang ngay ra đây !

– Chả có gì cả !

– Không có gì ?

– Không có.

– Vậy người ta báo cáo sai hay sao ?

Hắn ngờ vực nhìn Ôkô, đưa tay gãi râu. Lúc sau quay sang bảo bộ hạ:

– Thôi, chúng bay ngừng lại. Đủ rồi !

Ôkô vẫn ngồi trong phòng, tỏ vẻ bất cần như thách thức bọn Thử Mạch. Chu Kế Phong cao giọng, hách dịch:

– Ôkô !

– Gì ?

– Có gì uống không ?

– Có, nước lã !

– Coi chừng ! Đừng trêu gan ta ! Giọng hắn đanh lại, đe dọa.

– Sa-kê ở trong tủ ấy ! Muốn uống lấy mà uống !

Chu Kế Phong hơi ngán sự bướng bỉnh và gan dạ của Ôkô, gã dịu giọng:

– Thôi mà, đã lâu không đến thăm, chẳng lẽ tiếp ta như thế sao ?

– Viếng thăm gì lạ vậy ?

– Một phần lỗi tại nàng. Người ta nói nhiều về nàng quá, bỏ qua không được ! Họ đồn nàng bán thuốc trên núi làm ăn khá lắm. Có người còn bảo nàng cho con gái đi lột xác chết. Đúng không ?

– Nói láo ! Chứng cớ đâu ?

– Nếu muốn chứng cớ, ta đâu cần cảnh cáo con A Kế Mỹ ! Luật lệ Ở đây, nàng biết chứ ? Vùng này là lãnh thổ của ta, nếu làm ngơ, mọi người còn coi ta ra gì nữa ?

Ôkô quay lại nhìn Thử Mạch, mắt sắc như dao, mặt hơi vênh lên, thách đố.

– Thôi, lần này ta tha cho. Đặc ân đấy nhé !

– Đặc ân cái gì ? Bộ ngươi ra ơn cho ta hả ?

– Ôkô ! Lại đây rót rượu !

Ôkô vẫn ngồi yên không nhúc nhích.

– Đồ ngốc ! Mày không thấy nếu ngoan ngoãn nghe lời ta thì đâu đến nỗi vất vả thế ?

Rồi một lúc sau đã bình tĩnh, hắn khuyên:

– Hãy nghĩ lại đi, Ôkô …

– Chà, quý hóa quá !

– Nàng không có thiện cảm với ta mấy nhỉ !

– Vậy ta hỏi ngươi:

Ai giết chồng ta ?

– Nếu nàng muốn báo thù, ta sẵn sàng giúp. Hết sức.

– Này, đừng có làm bộ ngây thơ.

– Nàng nói gì vậy ?

– Nối gì thì ngươi biết ! Ai cũng bảo thủ phạm giết trượng phu ta là Chu Kế Phong Thử Mạch. Chỉ có ngươi giả vờ không rõ. Ta là vợ tướng cướp thật, nhưng không khốn nạn đến độ đi lăng nhăng với tên đã giết chồng ta đâu !

– Hà ! Ra thế đấy !

Hắn ực nốt chén rượu cầm trên tay, rót thêm rồi tiếp:

– Hãy giữ mồm miệng ! Có hại cho nàng và cả con A Kế Mỹ lắm đấy !

– Ta dạy con ta nên người. Nó lấy chồng xong, sẽ cho ngươi biết tay ! Thề với ngươi như vậy !

Thử Mạch phá lên cười, toàn thân rung động. Hắn uống nốt ngụm rượu, làm hiệu cho tên bộ hạ cầm giáo đứng cạnh gần bếp:

– Mày cầm giáo chọc lên trần nhà tao coi thử, mày !

Tên cướp đi quanh phòng lấy mũi giáo chọc lên trần mấy cái. Những vật dụng Ôkô lấy được giấu trên đó rơi xuống loảng xoảng.

– Hà hà, đúng như ta đã dự đoán từ đầu. Chúng mày thấy chưa ? Chứng cớ đấy chứ đâu ! Con mẹ này coi thường bọn ta. Hãy bắt nó đem ra trị tội !

Bộ hạ Thử Mạch ào vào phòng, nhưng đột nhiên khựng lại. Ôkô đứng ở ngưỡng cửa, điềm nhiên như tượng, lạnh lùng thách đố.

– Chúng mày đợi gì nữa ? Bắt nó đem ra đây !

Không một ai động đậy, tuồng như không nghe thấy lời hắn nói. Ôkô đứng trên bực cửa cao, nhìn chúng từ đầu đến chân, khinh bỉ.

Thử Mạch giận dữ, tặc lưỡi đứng lên, hăm hở xông vào. Nhưng đến gần cửa, hắn cũng đột nhiên dừng lại:

Đằng sau Ôkô, nấp trong bóng tối, hai thanh niên lực lưỡng, dáng dữ dằn đã chực sẵn.

Thạch Kinh Tử, tay cầm ngang thanh kiếm gỗ, sẵn sàng phạt gãy cẳng tên nào ngu dại xông vào trước. Bên kia, Mãn Hà Chí lăm lăm cây đoản đao, chỉ chờ bổ xuống gáy những kẻ nhảy qua cửa. Còn A Kế Mỹ biệt tăm, không thấy bóng dáng đâu cả.

– Á à … Thì ra tên này đây !

Thử Mạch nhớ lại cuộc gặp gỡ ven rừng mấy hôm trước.

– Tao biết thằng cầm gậy, còn thằng kia là đứa nào ?

Mãn Hà Chí và Thạch Kinh Tử không nói câu gì, nhất định dùng võ lực.

Tình hình căng thẳng, không khí như bốc lửa.

Thử Mạch gầm lên:

– Ta không ngờ trong nhà này có đàn ông. Hai đứa mày ở Sekigahara phải không ?

Liệu hồn, đừng trách tao không báo trước !

Mãn Hà Chí và Thạch Kinh Tử vẫn không đáp.

– Vùng này ai cũng nghe danh Chu Kế Phong. Đồ lính chết, chúng mày sẽ biết tay ta !

Im lặng.

Thử Mạch lấy tay gạt bộ hạ sang bên. Một đứa mất thăng bằng ngã ngồi ngay vào bếp than, tàn bắn tung tóe. Lửa tắt, khói bốc lên mù mịt.

– Á á á …

Thử Mạch thét một tiếng dài, nhảy vào phòng. Mãn Hà Chí, hai tay nắm chắc đốc đoản đao, hạ xuống như vũ bão, nhưng Thử Mạch nhanh chân tránh được. Lưỡi đao trượt trên đầu vỏ kiếm của hắn dội lại. Mãn Hà Chí cảm thấy đau điếng, tưởng rách hồ khẩu.

Ôkô chạy nấp vào góc phòng.

Thạch Kinh Tử chỉ chờ có thế, dùng hết sức đưa thanh kiếm gỗ phạt ngang một đường thấp là là mặt đất. Trong bóng tối, gió kiếm nghe đánh vù nhưng không có tiếng người ngã. Thử Mạch đã nhảy lên vừa kịp. Khi rớt xuống, hắn lấy hết sức bình sinh đè lên Thạch Kinh Tử như một tảng đá. Thạch Kinh Tử tưởng gặp một con gấu. Chưa bao giờ hắn phải đối địch với một người khỏe như thế. Thử Mạch chặn cổ hắn, tay kia đấm lên đầu làm hắn choáng váng mặt mày, sọ như vỡ ra. Trong cơn nguy khốn, Thạch Kinh Tử nghiến răng, thu hết sức đạp thật mạnh một cái. Thử Mạch bắn tung lên không, rơi đập vào tường. Cả căn nhà rung chuyển.

Nhanh như cắt, Thạch Kinh Tử vung kiếm giáng xuống địch thủ. Thử Mạch lăn tròn, tránh được, chồm dậy nhảy ra ngoài chạy trốn. Thạch Kinh Tử đuổi theo sát nút, nhất định không để Thử Mạch chạy thoát. Hắn mà thoát được thì nguy hiểm quá !

Thạch Kinh Tử đã quyết định:

không đánh hắn nửa chừng, hoặc Thạch Kinh Tử chết, hoặc Thử Mạch phải chết !

Bản chất Thạch Kinh Tử như vậy:

lúc nào cũng cực đoan. Từ nhỏ, trong máu hắn đã có một cái gì man rợ, hung bạo của những võ sĩ thời cổ Nhật Bản, một cái gì vừa dã man vừa thuần túy:

không biết ánh sáng văn minh, không có sự Ôn nhu của tri thức, và không biết dung hòa là gì.

Tính đó tự nhiên nhưng cha hắn không chấp nhận. Mưu Ni Sai đã nhiều lần dùng những hình phạt nghiêm khắc theo lề lối quân ngũ, cố kiềm chế bản chất hung tợn ấy, nhưng hình phạt chỉ làm hắn tàn bạo hơn, tỷ như con lợn rừng càng trở nên hung dữ khi không được ăn đủ. Dân làng càng khinh ghét hắn bao nhiêu, hắn càng kháng cự lại kịch liệt chừng ấy.

Đến khi trưởng thành, gã thanh niên hoang dại ấy chán không muốn ở làng phá phách nữa. Hắn bắt đầu mơ mộng những chuyện to lớn. Sekigahara đã dạy hắn bài học thực tế đầu tiên về cuộc sống. Những mộng ước của hắn thuở thiếu thời mặc dù chẳng có bao nhiêu, đã tan vỡ. Hắn chẳng thèm để tâm suy nghĩ gì về những thất bại đã qua hoặc lo tương lai đen tối. Hắn không biết, hay chưa biết đến ý nghĩa của sự tự khép mình vào kỷ luật và thản nhiên chấp nhận những đổ vỡ ấy. Ngẫu nhiên bây giờ gặp Chu Kế Phong, tay tướng cướp nổi tiếng, một địch thủ xứng đáng hắn hằng mong ước được gặp mặt ở Sekigahara.

– Đồ hèn ! Đứng lại !

Trên cánh đồng tối đen như mực, Thạch Kinh Tử xẹt nhanh như lằn chớp. Còn mười bước nữa hắn đuổi kịp Thử Mạch. Tóc bạt ra đằng sau, gió thổi vù vù bên tai, hắn cảm thấy sung sướng như chưa bao giờ trong đời hắn được sung sướng như thế ! Càng chạy hắn càng tận hưởng cảm giác đê mê, thuần túy thú vật đang thức dậy trong người hắn.

Thạch Kinh Tử chồm lên lưng tướng cướp. Một tia máu phọt ra trên đầu kiếm. Một tiếng thét ghê rợn xé màn đêm tịch mịch. Thân hình nặng nề của Thử Mạch đổ xuống, lật ngược trở lại, chân tay giật liên hồi rồi mới im lặng.

Dưới ánh sao lờ mờ, sọ tên cướp vỡ toang, mắt lồi ra khỏi tròng trợn trắng dã.

Thạch Kinh Tử giáng thêm mấy nhát kiếm nữa. Vài rẻ xương sường gãy đâm ra khỏi lồng ngực.

Bấy giờ, Thạch Kinh Tử mới đưa tay áo lên quẹt mồ hôi chảy đầy mặt.

Thạch Kinh Tử thong thả trở bước. Khách qua đường không biết, tưởng hắn đi dạo về, thanh thản. Hắn thấy hoàn toàn thoải mái, không một chút hối hận. Thạch Kinh Tử đã biết, nếu địch thủ của hắn thắng, hắn sẽ như cái thây ma nằm kia, cô độc.

Trong bóng tối, tiếng Mãn Hà Chí vang lên:

– Thạch Kinh Tử ! Mày hả ?

– Ừ, gì thế ?

Mãn Hà Chí chạy đến, hổn hển:

– Tao giết được một thằng. Mày sao ?

– Tao cũng giết được một thằng.

Mãn Hà Chí giơ đoản đao, màu còn nhuốm đến tận chuôi, ưỡn ngực kiêu hãnh:

– Tụi nó chạy hết rồi. Những thằng chó chết ấy chẳng có tài cán gì, hèn và nhát như cáy. Chỉ ra bộ can đảm khi ăn cắp của xác chết. Ha ha, hợp lắm, hợp lắm !

Đầy vẻ tự mãn, cả hai áo quần nhuốm máu, vừa đi vừa chuyện như pháo ran, trông hướng đèn ở xa xa mà tiến. Thạch Kinh Tử cầm thanh kiêm gỗ bê bết máu tươi, Mãn Hà Chí vác đoản đao máu còn rỏ giọt.

Một con ngựa đi lạc thò đầu qua cửa sổ, ngơ ngác nhìn vào trong nhà. Tiếng hí của nó làm hai thanh niên đang ngủ giật mình tỉnh giấc. Thạch Kinh Tử bực tức, đập vào mõm nó một cái. Mãn Hà Chí ngồi dậy vươn vai ngáp, khoan khoái vì vừa được một giấc say sưa.

– Mặt trời lên cao rồi đó !

– Trưa rồi hả mày ?

– Ừ, chắc thế !

– Sau giấc ngủ dài, Thạch Kinh Tử và Mãn Hà Chí gần như quên hết chuyện hôm trước. Đối với chúng, chỉ hôm nay và ngày mai là đáng kể.

Thạch Kinh Tử chạy ra phía sau nhà, cởi áo ngồi xổm bên bờ suối, bụm tay hắt nước lên rửa mặt. Hắn chụm hai tay múc nước trong và mát té lên đầu, lên lưng, lên ngực, khoan khoái, rồi ngẩng mặt hít những hơi thật dài như muốn hớp cả bầu không khí trong lành và ánh sáng ban mai tươi đẹp vào lồng ngực.

Mãn Hà Chí còn ngái ngủ, lệt sệt sang phòng khách. Nhìn Ôkô và A Kế Mỹ ngồi ủ rũ, hắn ngạc nhiên:

– Ô hay, sao hai mẹ con mặt như đưa đám vậy ? Thử Mạch bị giết rồi, đàn em nó chạy tứ tán, còn lâu mới dám ho he, có gì mà buồn vậy ?

Mãn Hà Chí ngồi xuống chiếu, cầm tách trà A Kế Mỹ đưa. Uống từng ngụm trà đắng ngắt, hắn lắc đầu tự nhủ:

“Thật khó hiểu ! Khó làm vừa lòng bà này quá !”. Ôkô cười mệt mỏi. Nàng muốn được như chàng thanh niên vô tư kia, chẳng biết cuộc đời là gì.

– Mãn Hà Chí ! Hình như chú chưa hiểu. Thử Mạch có hàng trăm bộ hạ.

– Dĩ nhiên ! Những thằng như vậy tất nhiều lâu la chứ ! Nhưng chúng tôi đâu có ngán. Giết được chủ thì cũng giết được tớ. Nếu chúng đến, tôi sẽ …

– Không làm gì được ! Ôkô ngắt lời.

– Sao vậy ? Cứ để những đồ ăn hại đó đến. Bà tưởng chúng tôi là những thằng hèn sẽ chạy trốn sao ?

– Các chú không phải là những thằng hèn, nhưng còn ngây thơ lắm. Thử Mạch có một thằng em tên là Cố Hải. Nó mà mò đến trả thù thì cả hai chú có nhập một cũng đừng hòng thoát !

Mãn Hà Chí không muốn nghe chuyện đó, nhưng nghĩ kỹ thấy Ôkô có lý ! Cố Hải có nhiều đồng đảng trong vùng Kiso, gã lại là tay cao thủ, định giết ai toàn đánh lúc xuất kỳ bất ý. Kẻ thù gã không mấy khi toàn mạng. Đánh nhau tay đội, Mãn Hà Chí không sợ, nhưng bất ngờ bị đột kích, hắn cũng ngán, nhất là vào lúc hắn đang ngủ.

– Ờ ờ … Tôi có tật ngủ say lắm, khi ngủ chẳng biết trời đất gì !

Mãn Hà Chí ngồi chống tay vào cằm suy nghĩ. Theo ý Ôkô, tình thế này không thể lưu lại đây được nữa rồi, phải bỏ nhà đi xa lánh mặt ít lâu mới được.

Nàng hỏi Mãn Hà Chí xem ý kiến Thạch Kinh Tử thế nào.

– Tôi sẽ bàn với hắn. Không biết hắn đâu rồi ?

Mãn Hà Chí bước ra cửa, đưa mắt tìm bạn. Gã đưa tay lên che mắt, thấy xa xa ở ven đồi, Thạch Kinh Tử đang cưỡi con ngựa hoang hồi nãy. Mãn Hà Chí nghĩ thầm:

“Thằng này thật liều lĩnh !”. Gã lấy tay bắc loa gọi:

– Thạch Kinh Tử ! Về ngay có chuyện cần bàn.

Một lát sau, hai đứa nằm ở chân đồi, miệng nhai lá cỏ tóp tép, cùng nhau bàn tính những chuyện phải làm.

– Thế nào ? Mày nghĩ chúng ta có nên về không ?

– Về chứ ! Ở đây hoài với họ thế nào được !

– Tao cũng nghĩ thế.

– Tao không ưa đàn bà.

– Vậy thì cùng về.

Mãn Hà Chí ngẩng lên nhìn trời:

– Bây giờ đã định xong, tao nóng ruột muốn về quá ! Nhớ Oa Tử lạ ! Kìa, đám mây kìa ! Mày xem có giống mặt nàng nhìn ngang không ? Lại cái dạng mây chung quanh nữa, không khác gì những lọn tóc của Oa Tử khi mới gội đầu xong.

Mãn Hà Chí vừa nói vừa dậm chân chỉ trỏ.

Thạch Kinh Tử mãi nhìn con ngựa hoang vừa thả đương lững thững đằng xa. Hắn thương ngựa hoang như thương những kẻ lang bạt, khi không ai cần đến chúng nữa, chúng lặng lẽ bỏ đi, không đòi hỏi một điều gì.

A Kế Mỹ gọi hai người về ăn cơm chiều. Thạch Kinh Tử đề nghị chạy thi. Cả hai ra sức ganh nhau trên con đường nhỏ về nhà, hắt bụi bắn tung lên phủ trắng những ngọn cây thấp.

Sau bữa cơm, Ôkô ngồi trang điểm rất kỹ. Đôi mắt nàng trong gương đăm đăm nhìn Thạch Kinh Tử. Hắn thấy rõ và đột nhiên nhớ lại mùi hương nồng ấm ở tóc nàng tỏa ra trong đêm trước.

Mãn Hà Chí với hũ rượu trên kệ, san ra bình nhỏ và ngồi xuống chiếu cạnh Thạch Kinh Tử, tự nhiên như chủ nhà. Vì là đêm cuối nên cả ba quây quần bên khay rượu uống say túy lúy. Ôkô lè nhè:

– Uống cạn hết đi. Để lại cho chuột vầy hay sao ?

– Ờ … Ờ … hay để sâu bọ làm hư cũng thế !

Ôkô dựa đầu vào vai Mãn Hà Chí, ngả nghiêng cười cợt làm Thạch Kinh Tử đôi lúc khó chịu quay mặt nhìn đi nơi khác.

Ôkô say quá, Mãn Hà Chí phải dìu nàng về phòng. Đến cửa, nàng quay lại hướng về phía Thạch Kinh Tử, hờn dỗi nói mát:

– Ngủ nhà ngoài nghe ! Thích ngủ một mình mà !

Thạch Kinh Tử không đáp, gục xuống chiếu rượu. Hắn say rồi, mà đêm cũng đã khuya lắm.

Khi Thạch Kinh Tử tỉnh dậy, trời đã sáng rõ. Hắn mở mắt, linh cảm một điều gì khác lạ. Hình như mọi người đã bỏ đi cả.

Bọc quần áo của mẹ con Ôkô xếp cạnh vách hôm qua, giờ không còn nữa. Hắn gọi tên mọi người, không có tiếng trả lời. Cửa trước, hiên sau, vựa củi, tất cả đều vắng lặng.

Căn nhà hoang phế có một cái gì lạnh lẽo, cô đơn, buồn khó tả.

Một chiếc lược màu đỏ son nằm chơ vơ trên nền đất, cạnh cái máng nước tre.

Thạch Kinh Tử nhặt chiếc lược lên, mùi hương thoang thoảng tỏa ra làm hắn sực nhớ đến cái đêm Ôkô vào phòng hắn. Hắn nghĩ thầm:

“Mãn Hà Chí thua vì cái này đây !”.

Và tự nhiên ở đâu cơn phẫn nộ kéo đến, không dằn được:

– Đồ súc vật ! Mày lừa dối Oa Tử như vậy không đủ sao !

Vất chiếc lược xuống đất, hắn lấy chân đi lên, giận đến phát khóc chẳng phải vì hắn, mà vì thương cho Oa Tử, hắn mường tượng, đang đợi ở làng, một lòng son sắt.

Chương 3: Ngày hội hoa

Vào đầu thế kỷ thứ , con đường Mimasaka là một trục lộ giao thông lớn.

Khởi đầu từ Tatsimo thuộc tỉnh Harima, đường này chạy dài, uốn khúc như bất tận, lên đèo xuống dốc, hun hút qua vùng Vạn Thiên Sơn đồi núi chập chùng và song song với hàng cột mốc phân ranh hai tỉnh Mimasaka và Harima.

Khách du đứng trên đèo cao, nhìn thấy thung lũng sông Aida dưới chân và ở triền sông, một ngôi làng. Đấy là làng Miyamoto.

Miyamoto thực ra chẳng phải là một làng mà chỉ là tên một khu tập hợp nhiều sơn thôn nhỏ rải rác:

mấy căn nhà cất dọc theo bờ sông, một hai cái chòi vắt vẻo trên sườn đồi, vài trang trại cũ giữa cánh đồng bỏ hoang lâu ngày vì sỏi đá không trồng cấy được.

Tuy vậy, dân cư cũng khá đông, đủ mang danh là một làng, theo tiêu chuẩn thời ấy.

Cho đến mãi mấy năm trước đây, đầu mục Yết Mân vẫn cư ngụ Ở vùng này trong một tòa lâu đài ngay trên thượng lưu sông Aida, cách bờ sông khoảng non một dặm. Phía bắc lại có mỏ bạc, bây giờ đã cạn, nhưng trước kia trong những năm thịnh vượng, quy tụ rất nhiều công nhân từ phương xa tới.

Khách thương từ Totori đi Hemeji, muốn dùng sơn đạo đến Bizen, tất phải theo đại lộ Mimasaka và nghỉ chân tại Miyamoto. Do đấy, Miyamoto là chỗ giao lưu của hai sơn lộ chính thời đó và vì thế mang một sắc thái riêng do dân từ nhiều nơi khác đem đến.

Làng có quán ăn, tiệm bán quần áo, và cả một trà thất nhỏ với mấy cô ca kỹ ngực thoa phấn trắng theo thời trang quẩn quanh trước cửa như bầy dơi trắng quanh tổ.

Đấy là Miyamoto, nơi mà hai gã thanh niên nông phu Thạch Kinh Tử và Mãn Hà Chí đã từ biệt để lên đường theo đuổi công danh.

Oa Tử ngồi mơ mộng nhìn những nóc nhà rải rác dưới chân. Nước da tươi mát, tóc đen mượt, chân tay nhỏ nhắn, dáng người thanh tú, Oa Tử có một vẻ đẹp siêu thoát, khác với những thôn nữ hồng hào, vạm vỡ đang làm công việc đồng áng dưới kia. Ngồi đăm chiêu trên bậc đá cổng chùa Tiểu Sơn, trông nàng như một pho tượng bằng sứ toàn mỹ.

Oa Tử bị bỏ rơi từ khi còn trứng nước, được chùa đem về nuôi nên có dáng cách khiêm cung ít thấy ở những thiếu nữ mười sáu. Ngay từ nhỏ, nàng đã không được tiếp xúc nhiều với những trẻ khác cùng trang lứa. Vì sống cách biệt với thế giới bên ngoài nên trong ánh mắt nàng có một vẻ gì trang nghiêm trầm mặc, làm cho những thanh niên ưa nếp sống phóng túng ngại không dám gần. Năm trước, nghe lời sư cụ, nàng đã nhận lời cầu hôn của Mãn Hà Chí. Nhưng ít lâu sau, vị hôn phu của nàng cùng với Thạch Kinh Tử bỏ làng ra đi, cho đến nay vẫn bặt tin tức. Những tháng đầu xuân trôi qua trong chờ đợi. Bây giờ đã là tháng tư, nàng không còn dám hy vọng nữa.

Oa Tử ngước nhìn trời, dõi những đám mây theo nhau bay đi, nghĩ vơ vẩn. “Chẳng bao lâu nữa đã hết năm rồi, chị anh Kinh Tử cũng không nhận được tin gì của hai người, sao ta lại điên cứ nghĩ rằng họ còn sống !”.

Đôi lúc tâm sự với người quen, qua ánh mắt cũng như giọng nói, nàng như ngầm ý van lơn họ khuyên nàng rán chờ thêm ít lâu nữa, nhưng không ai để ý. Những nông dân thô lậu chất phác ấy thấy quan quân đã chiếm đóng lâu đài thì cho rằng hai người không lý gì còn sống. Gia nhân, thủ túc của Yết Mân chẳng ai trở về, vì họ là kiếm sĩ, đã thua trận, còn mặt mũi nào gặp lại người quen ? Nhưng Thạch Kinh Tử và Mãn Hà Chí là lính trơn, có chuyện gì ngăn trở chúng đâu ? Chắc chết rồi, chứ không, sao đến nay vẫn tuyệt vô âm tín ?

“Tại sao ? Ừ, tại sao ?” Oa Tử nhiều lần tự hỏi. Rồi suy nghĩ miên man, nàng thấy đàn ông ưa chiến tranh quá, không như nàng. Sự khác biệt ấy khiên Oa Tử buồn. Hôm nay, đã hàng giờ, ngồi cô đơn trên bậc đá trước cổng chùa, Oa Tử vẫn chưa tìm được lời giải đáp.

– Oa Tử !

Tiếng gọi thình lình khiến Oa Tử giật mình tỉnh mộng. Từ phía giếng, một người đàn ông tuổi trung niên thong thả đi tới. Ông ta mặc vỏn vẹn một miếng vải thô làm khố.

Màu da bánh mật ánh lên dưới trời chiều trong như nước sơn lâu ngày trên pho tượng cũ.

Đấy là một thiền sư ngụ tại chùa. Ông từ tỉnh Tajima đến bốn năm trước, mến cảnh chùa Tiểu Sơn u tịch, xin với sư cụ lưu lại rồi không đi nữa.

– Oa Tử ! Ngươi nghĩ gì vậy ?

Oa Tử không đáp, mỉm cười chào nhà sư. Nàng có cảm tình với vị thiền sư này vì sự hiểu biết uyên bác và vì tính tình phóng dật tuy hơi kỳ dị của ông, đôi khi ngây thơ như con trẻ, đôi khi lại hành động tựa người điên, nhưng lúc nào cũng vô hại.

Thấy Oa Tử không nói gì, nhà sư lẩm bẩm:

– Xuân sắp qua rồi đấy. Mùa xuân đem phước lành tới, nhưng xem chừng chẳng phải là chân phúc ! Chỉ thấy chấy rận bò ra, đông và khó trị.

Lúc sau lại nói:

– Chiếc áo mình giặt rồi chẳng biết phơi đâu ! Treo lên cành mận này chắc không được ! Ai lại đi xúc phạm thiên nhiên, đem che đi những bông hoa đẹp thế kia bao giờ ?

Hà hà … chùa thế này mà không tìm được chỗ phơi áo. Oa Tử ! Cho ta mượn sợi dây một chút !

Trông thấy nhà sư trần trùng trục, Oa Tử hơi ngượng:

– Thầy Đại Quán ! Thầy cởi trần như vậy đi dạo đợi áo khô hay sao ?

– Vậy ta đi ngủ được không ?

– Mô Phật ! Thầy thật quá quắt !

– Đáng lẽ ta nên để đến mai giặt áo mới phải.

Rồi Đại Quán một tay giơ lên trời, một tay chỉ xuống đất, bắt chước dáng điệu tượng Phật cởi trần Phật tử vẫn đem ra tắm nước trà đường hàng năm, nói tiếp:

– Ngày mai Phật Đản, mồng tám tháng tư, nếu ta cứ đứng thế này đợi trà dội lên đầu có phải được dịp liếm môi thưởng thức trà, nhưng chắc mọi người bất bình lắm !

Rồi với giọng sùng kính, Đại Quán nhại lời Phật:

– Thiên thương địa hạ, duy ngã độc tôn !

Nhìn dáng điệu Đại Quán, Oa Tử cười như nắc nẻ:

– Thầy bắt chước giống quá !

– Dĩ nhiên, ta là hiện thân của thái tử Tất Đạt Đa mà !

– Vậy thầy cứ đứng yên, con đi lấy nước trà đổ lên đầu !

Một con ong vo ve bay quanh mình Đại Quán. Nhà sư sợ Ong đốt, lấy tay xua lia lịa. Ong bị xua, chui vào khe vải khố. Nhà sư rối rít vừa nhảy vừa khoa chân múa tay làm Oa Tử lại cười như phá.

Từ khi Đại Quán đến tá túc tại chùa, không mấy ngày là không có những chuyện khôi hài như vậy, làm Oa Tử dù trang nghiêm đến đâu cũng không thể không lây niềm vui của nhà sư tính tình kỳ dị. Một lúc sau nàng nói:

– Thôi, không đùa nữa. Con phải đi làm vài việc cần đây.

Oa Tử xỏ chân trắng muốt vào đôi dép, đứng dậy. Đại Quán ngây thơ hỏi:

– Việc gì vậy ?

– Thầy quên à ? Dáng điệu thầy lúc nãy làm con sực nhớ lời sư cụ sai con đi hái hoa treo trong chùa và sửa soạn buổi lễ tắm Phật ngày mai. Chiều nay con còn phải nấu trà nữa.

– Hái hoa ở đâu ?

– Ở bờ sông, gần cánh đồng.

– Ta đi với.

– Thầy cởi trần vậy mà đi à ?

– Ta không giúp thì hái không đủ hoa đâu. Vả lại người ta sinh ra đâu có quần áo gì. Vậy cứ để tự nhiên, đâu có sao !

– Thầy nói cũng có lý, nhưng con không thấy thế là tự nhiên. Thôi, để con đi một mình.

Oa Tử quày quả ra đi, vòng về phía sau chùa để tránh Đại Quán. Nàng đeo giỏ sau lưng, tay cầm liềm, men theo cửa hông ra con đường nhỏ. Một lúc sau quay lại, nàng đã thấy Đại Quán lặng lẽ đi theo, mình quấn một tấm vải thô lớn, thứ vải vẫn thường được dùng để gói đồ, Đại Quán cười rất tự nhiên:

– Mặc thế này coi được không ?

– Dĩ nhiên là không được. Trông thầy kỳ cục quá, như thằng khùng !

– Sao vậy ?

– Chẳng sao cả, nhưng thầy đừng đi cạnh con.

– Có phải đây là lần đầu tiên ngươi không muốn có đàn ông đi cạnh không ?

– Thầy Đại Quán, thầy thật bất trị !

Oa Tử chạy nhanh đi trước, Đại Quán theo sau, chân bước chững chạc như những bước chân đức Phật hạ sơn, tấm vải thô quấn quanh mình theo gió bay phần phật.

– Oa Tử ! Ngươi đừng giận, ta đùa đấy mà ! Nếu ngươi hay hờn giận như vậy, những người yêu ngươi sẽ chán không theo đuổi ngươi nữa !

Dưới chân đồi, ở ven sông cách chùa khoảng non một dặm, hoa xuân nở đầy. Oa Tử để giỏ xuống. Giữa hàng ngàn vạn cánh bướm muôn màu sặc sỡ bay lượn xung quanh, nàng bắt đầu đưa liềm cắt từng cụm hoa sát đến gốc.

Đại Quán ngồi yên một lúc rồi khẽ thở dài như vừa qua một cơn tư lự:

– Ở đây yên tĩnh quá nhỉ ! Niết bàn đầy hoa tươi đẹp thế này sao mọi người không chịu ở, lại thích lao đầu vào chốn cuồng phong đầy dục vọng để rồi mãn kiếp đau khổ, khóc than và phải chịu cực hình nơi địa ngục. Oa Tử, ta ước mong ngươi đừng phải chịu cảnh ấy !

Oa Tử vẫn tiếp tục cắt hoa xếp vào giỏ. Đủ loại:

cúc dại trắng như bông, mào gà đỏ thắm, hoa cải vàng tươi mong manh như cánh bướm, hoa tử thảo tím ngắt.

– Thôi mà thầy, đừng thuyết pháp nữa. Cẩn thận kẻo ong đốt đấy !

– Ta sợ gì ong đốt. Ta chỉ muốn nhắc lại cho ngươi biết những lời dạy của đức Phật về thân phận phụ nữ như ngươi mà thôi.

– Thân phận những phụ nữ như con thầy để ý làm chi ?

– Mô Phật, ngươi lại vọng ngôn rồi ! Ta có bổn phận phải để ý đến chúng sinh chứ !

Tuy nghề của ta có hơi tò mò thật nhưng không đến nỗi vô ích hơn những nghề khác như thợ may, thợ mộc, lái buôn hay kiếm sĩ. Nghề ta phải có là vì cần thiết.

Oa Tử dịu giọng:

– Có lẽ thầy nói đúng !

– Không ai lạ gì từ ba ngàn năm nay, phái tăng lữ vẫn kỵ phụ nữ. Kinh Phật đã dạy đàn bà là ngạ quỷ xấu xa, từ ngục A Tỳ lên quấy nhiễu dương thế. Ta đã nhiều năm dày công nghiên cứu kinh điển nên biết chẳng phải ngẫu nhiên mà ta và ngươi hay có thái độ xung khắc.

– Thế theo kinh điển, tại sao đàn bà lại xấu xa ?

– Vì họ ưa lừa dối đàn ông.

– Thế đàn ông không lừa dối đàn bà bao giờ à ?

– Có chứ ! Nhưng tại … tại … đức Phật là đàn ông !

– Theo ý thầy thì nếu đức Phật là đàn bà, kinh điển sẽ dạy ngược lại à ?

– Đức Phật là đàn bà thế nào được ! Ngạ quỷ sao thành Phật được !

– Điều thầy nói phi lý lắm !

– Dĩ nhiên. Nếu những lời dạy trong kinh điển đều có lý cả thì đâu cần chư tăng đi hoằng pháp !

– Thầy chỉ ngụy biện để cầu lợi.

– Đúng là lập luận đàn bà ! Tại sao ngươi lại thích công kích riêng ta ?

Oa Tử ngưng tay liềm, chán nản:

– Thôi chẳng nói nữa. Hôm nay con không muốn nói thêm đâu !

– Nữ nhân đa ngôn quá !

– Chính thầy nói nhiều thì có !

Đại Quán nhắm mắt yên lặng như muốn thêm kiên nhẫn:

– Để ta giải thích thêm cho ngươi rõ. Lúc đức Phật ngồi tĩnh tọa dưới gốc bồ đề, nhiều quỷ cái ngày đêm hiện ra cám dỗ nên ngài không có hảo cảm với đàn bà. Nhưng Phật là đấng chí nhân nên lúc về già, ngài cũng vẫn thu nhận nữ đệ tử.

– Vì ngài khôn hơn hay vì ngài già rồi ?

– Đừng có báng bổ ! Và ngươi cũng phải nhớ rằng đức Bồ Tát Na-già-giu-na tuy rất ghét, đúng hơn, rất sợ đàn bà như đức Phật vậy, cũng phải khen bốn loại phụ nữ:

những cô em ngoan ngoãn, những người vợ hiền thục, những bà mẹ tốt và những nữ tỳ biết chiều chuông. Ngài tán dương đức hạnh những người đó và khuyên đàn ông chỉ nên lấy những người đó làm vợ mà thôi.

– Em ngoan ngoãn, vợ hiền thục, mẹ tốt, nữ tỳ khéo chiều … con thấy chỉ có lợi cho đàn ông.

– Tự nhiên là thế. Xã hội Ấn độ thời đó trọng nam khinh nữ hơn xã hội Nhật. Dù sao Na-già-giu-na đã khuyên phụ nữ một câu bất hủ …

– Khuyên sao thầy ?

– Ngài nói:

“ữ nhân ! Đừng phối ngẫu với đàn ông” …

– Sao kỳ vậy ?

– Khoan ! Ta chưa nói hết. Ngài nói:

“Đừng phối ngẫu với đàn ông, hãy phối ngẫu với chân lý”.

Oa Tử nhìn nhà sư, không hiểu.

– Ngươi không thấy ư ? Câu ấy có nghĩa là không nên mê một người thường mà nên tìm gửi thân cho một điều gì vĩnh cửu.

– Nhưng thưa thầy, thế nào là chân lý ?

Đại Quán bỏ thõng hai tay, mắt nhìn xuống đất, trầm mặc:

– Thực ra chính ta cũng không rõ nữa.

Oa Tử phì cười, nhưng Đại Quán không để ý.

– Nhưng có một điều ta biết chắc là đối với phụ nữ, điều đó có nghĩa ngươi phải thủ tiết. Chớ nên ra thành thị để rồi sinh ra những đứa con yếu đuối như gà chết. Hãy ở lại nông thôn, nơi đó hợp với ngươi, lập gia đình và sinh những đứa con lành mạnh.

Oa Tử bực mình không kiên nhẫn được, giơ liềm lên:

– Thầy đến đây giúp con hái hoa phải không ?

– Phải, ta có hứa.

– Vậy đừng thuyết lăng nhăng nữa, thầy cầm liềm cắt hoa đi !

– Nếu ngươi không muốn ta hướng dẫn tinh thần thì thôi, ta cũng không ép.

Nhà sư ra vẻ giận.

– Trong khi thầy cắt hoa, con chạy đến nhà Ô Nhiên xem chị ấy đã khâu xong thắt lưng chưa. Ngày mai con phải dùng.

– Ô Nhiên là chị Kinh Tử đã có lần ngươi dẫn lên chùa phải không ? Để ta đi với.

– Thầy ăn mặc như vậy à ?

Đại Quán làm như không nghe, tiếp tục:

– Chắc ta sẽ được mời uống trà. Khát quá !

Oa Tử không cách gì từ chối, đành gật đầu. Và cả hai men theo bờ sông cùng đi.

Ô Nhiên là một thiếu nữ trạc hai mươi lăm, tuy không còn ở tuổi trăng tròn nữa nhưng cũng không xấu. Mặc dầu ai cũng sợ Thạch Kinh Tử, nhưng không phải vì thế mà nàng thiếu người nhòm ngó. Ô Nhiên có dáng chững chạc, cách cư xử mềm mỏng làm mọi người chú ý. Nàng chưa lấy chồng cũng chỉ vì muốn có thêm thì giờ để săn sóc đến em mà thôi. Căn nhà nàng ngụ hiện nay là do Mưu Ni Sai, cha nàng dựng lên từ lúc sinh thời, khi ông còn coi việc quản giáo binh sĩ dưới trướng Yết Mân. Vì dốc lòng thờ chủ nên ông được mang họ Yết Mân.

Căn nhà xây trên nền đá tảng dầy, tường đất cao vây quanh, đứng ngạo nghễ trong ra sông, thật quá lớn đối với một kiếm sĩ thôn quê. Căn nhà trước đồ sộ nhưng nay đã đổ nát, hoa dại mọc đầy trên mái. Nơi võ đường xưa kia Mưu Ni Sai thường ra giảng võ bây giờ trắng những phân chim. Cảnh điêu tàn trông thấy rõ. Mưu Ni Sai bị thất sủng, mất hết chức tước và qua đời trong cảnh nghèo túng. Sau khi ông chết đi, gia nhân tán lạc, nhưng đôi khi vẫn lui tới thăm hỏi vì họ đều là người địa phương cả. Họ mang rau đậu đến làm quà, dọn dẹp phòng ốc hoang phế, khiêng nước đổ đầy chum vại, quét tước cổng ngõ và tìm mọi cách giữ cho căn nhà không đến nỗi tiêu điều quá.

Ô Nhiên đang khâu vá ở phòng trong, nghe tiếng mở cửa sau, tưởng là một trong những gia nhân cũ tới thăm. Đột nhiên thấy Oa Tử, nàng giật mình:

– Ồ, Oa Tử đấy ư ? Em làm chị hết hồn ! Chị vừa khâu xong thắt lưng cho em đây.

Ngày mai em cần dùng phải không ?

– Vâng, cảm ơn chị. Đáng lẽ em phải làm lấy mới phải, nhưng vì bận nhiều việc ở chùa quá nên không có thì giờ.

– Thì giúp em chị cũng vui chứ ! Chẳng làm gì, chị thấy buồn và ngày dài quá !

Oa Tử ngửng lên. Trên bàn thờ hai ngọn nến cháy leo lét. Ánh sáng lờ mờ chiếu không rõ đôi bài vị làm sơ sài bằng gỗ đặt sau chén nước và đĩa hoa cúng. Trên mỗi bài vị là một tấm giấy viết nắn nón trang trọng những hàng chữ:

Chân linh Yết Mân Thạch Điền Kinh Tử, mười bảy tuổi.

Chân linh Hồ Điểu Mãn Hà Chí, mười bảy tuổi.

Oa Tử hoảng hốt:

– Chị Ô Nhiên ! Chị được tin họ chết cả rồi à ?

– Lạy Trời Phật, chưa em ạ. Nhưng còn mong gì nữa ! Chị tin là họ đã bỏ thây ở Sekigahara rồi. Đành chấp nhận vậy.

Oa Tử lắc đầu:

– Đừng nói vậy, chị Ơi ! Xui lắm ! Họ không chết đâu. Rồi nay mai họ lại trở về mà.

Ô Nhiên cúi xuống nhìn chiếc áo đang khâu dở, dịu dàng hỏi:

– Em có mơ thấy Hà Chí không ?

– Có, thường mơ thấy luôn. Có sao không chị ?

– Vậy phải rồi. Hắn đã chết thật. Chị không lúc nào là không mơ thấy Kinh Tử.

– Ô Nhiên, em van chị đừng nói thế !

Rồi Oa Tử chạy đến bàn thờ bóc hai mảnh giấy trên bài vị ra:

– Bỏ nó đi chị ạ ! Để làm gì, chỉ thêm xui xẻo !

Nước mắt rưng rưng, nàng với tay tắt nến, mang hoa và nước chạy sang phòng bên vất hoa ra xa và tiện tay đổ nước qua thành cửa sổ. Nước dội trúng đầu Đại Quán đang ngồi xổm bên ngoài.

– Ái chà ! Nước gì lạnh dữ !

Đại Quán vừa la vừa nhảy lên lấy vạt áo lau đầu.

– Ngươi làm gì vậy ? Ta đến đây để uống trà, đâu phải để tắm !

Oa Tử cười. Những giọt lệ sầu muộn đã trở thành những giọt lệ tươi vui.

– Xin lỗi, con không biết thầy ngồi đó !

Và nàng chạy vội đi lấy trà mang lại. Ô Nhiên nhìn ra hiên, hỏi:

– Ai thế em ?

– Sư bác trên chùa. Chắc chị nhớ cái ông sư dơ bẩn chị gặp hôm đi cùng với em lên chùa đấy nhỉ, cái ông nằm sấp ở ngoài nắng, tay chống cằm nhìn chăm chắm xuống đất xem rận chọi nhau đó !

– À ra ông ấy đó hả ?

– Vâng, tên thầy là Đại Quán.

– Thầy ta tính hơi kỳ dị phải không em ?

– Kỳ dị còn là ít đấy !

– Thầy ấy mặc áo gì thế ? Trông không phải áo người tu hành.

– Đâu phải áo. Miếng vải bố đấy chứ.

– Mặc áo bằng vải bố à ? Lạ nhỉ. Thầy ta bao nhiêu tuổi ?

– Thầy ấy bảo băm mốt, nhưng em tưởng em còn đáng làm chị thầy ta nữa đấy !

Thầy ngớ ngẩn lắm ! Thế mà các thầy trên chùa bảo trông bên ngoài như vậy nhưng Đại Quán là một nhà sư đáng trọng.

– Có thể lắm, chả nên trông mặt mà bắt hình dong. Thầy ta ở đâu đến thế ?

– Ở Tajima chị ạ. Quy y từ năm lên mười, bốn năm sau vào tu trong thiền viện Tịnh Giác. Ở thiền viện ra, thầy ta là đệ tử của một hòa thượng tại Đại Từ cổ tự, cùng với thầy đi hành hương đến Kyoto và Nara rồi lại theo học nhiều danh tăng khác. Thầy ta dành nhiều thì giờ nghiên cứu kinh điển lắm.

– Có lẽ vì thế nên thầy ta hơi khác người.

– Vâng. Thầy Đại Quán trước đã là viện trưởng thiền viện Ngân Sơn và có sắc phong trụ trì chùa Đại Từ, nhưng không hiểu sao mới được ba ngày đã bỏ đi.

Ô Nhiên khẽ gật đầu. Oa Tử nói tiếp:

– Nghe nói hình như những danh tướng và những nhà quý tộc như Khải Mạng Tăng và Tôn Điền Tùng Cương nhiều lần đã cố giữ thầy lại, xây chùa để cầm chân thầy nhưng thầy không màng. Thầy thích cuộc đời phiêu lãng khất cái, đi đâu mang rận chấy đến đấy. Em cho là thầy ta hơi khùng.

– Có lẽ theo nhãn quan của Đại Quán, chúng ta mới là những người không bình thường.

– Thì thầy ta vẫn nói thế !

– Thầy Đại Quán định lưu lại chùa bao lâu ?

– Nào ai biết được. Nay đến mai đi là thường.

Đại Quán đứng ngoài hiên nói vọng vào:

– Hà hà … ta nghe hết rồi đấy nhé !

– Con có nói xấu gì thầy đâu ?

– Ngươi thích nói xấu thì cứ nói, ta không cần, nhưng ít ra phải cho ta cái bánh gì để uống trà chứ ?

– Đấy chị coi, thầy Đại Quán lúc nào cũng như vậy đó !

– Như vậy là thế nào ? Đại Quán nói vọng ra. Ngươi ngồi đó làm ra vẻ hiền lành, không làm hại đến con ruồi con muỗi, nhưng thật ra tàn nhẫn vô cùng !

– Đâu, con tàn nhẫn ra sao ?

– Thì bỏ ta một mình với chén trà nguội rồi ngồi đó mà than khóc mối tình dang dở là tàn nhẫn chứ sao !

Chuông trên hai chùa Đại và Tiểu Sơn thong thả buông từng tiếng ngân nga.

Những hồi chuông lễ bắt đầu từ sáng sớm, đến bây giờ đã quá ngọ rồi vẫn không dứt.

Suốt buổi sáng, thiện nam tín nữ nô nức lên chùa không lúc nào ngớt:

thiếu nữ thắt lứng đỏ tươi, vợ các thương gia và những người đứng tuổi mang thắt lưng màu trang nhã hơn.

Đây đó một vài bà già mặc kimono màu sẫm, tay dắt trẻ.

Đại sảnh chùa Tiểu Sơn chật ních những người. Thanh niên đông vô kể. Họ đến hình như cốt để ngắm Oa Tử hơn là để lễ Phật. Một chàng khẽ rỉ tai bạn:

– Nàng đấy !

– Ờ, đẹp thật !

Giữa đại sảnh là một cái kiệu làm theo hình ngôi chùa nhỏ, mái kết bằng lá bồ đề, cột quấn từng tràng hoa tươi. Trong ngôi “chùa hoa” ấy có một tượng Phật màu đen, cao chừng sáu tấc, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, đứng trong một cái bể cạn bằng sành. Thiện nam tín nữ xếp hàng đi qua, dùng gáo tre múc nước trà đường dội lên đầu Phật.

Đại Quán túc trực cạnh kiệu, đổ nước cam lộ vào ống tre để phân phát cho Phật tử mang về lấy phước. Vừa phân phát, Đại Quán vừa quyên giáo:

– Chùa nghèo, xin quý thí chủ mở lòng đại lượng. Bần tăng biết quý vị dư giả, mặc áo lụa, mang thắt lưng thêu, nhưng đa tài tất đa nạn. Xin quý thí chủ phát bồ đề tâm, công đức thật vô lượng.

Phía bên kia kiệu, Oa Tử ngồi sau chiếc bàn thấp sơn then. Mặt nàng rạng rỡ phớt hồng như những cánh hoa treo trên vách. Nàng mang chiếc thắt lưng mới, tay thoăn thoắt viết bài kệ ngắn trên giấy ngũ sắc thỉnh thoảng lại lăn đều ngọn bút trên nghiên mực dát vàng để cạnh:

Mồng tám tháng tư Ấy ngày đại cát Sâu độ bọ hoang Phá mùa hại tiết Mau mắn diệt tan Hăng hái trừ hết.

Từ ngàn xưa, dân vùng này vẫn có lệ lên chùa vào ngày Phật Đản, thỉnh những câu kệ như trên về dán vách không những để trừ trùng, mà còn để phòng bệnh và tránh vận xui. Oa Tử chép đi chép lại bài kệ hàng trăm lần, đã thấy mỏi tay, nét chữ không còn sắc sảo như trước. Bỏ bút xuống nghỉ, nàng nói vọng sang phía dưới:

– Thôi thầy ạ, chẳng nên đòi nhiều. Họ cũng không có.

– Ta quyên những nhà giàu đấy chứ ! Đa tài đa nạn. Tiền bạc nhiều thì lắm khổ đau. Cất đỡ cho họ gánh nặng khổ đau là làm phúc đấy !

– Thầy nói như vậy thì ra những tên đạo chích lấy tiền bạc của người ta đều là phát tâm bồ đề cả sao ?

Đại Quán mãi nhận lễ cúng nên không đáp. Nhà sư bận ngăn đám đông đang chen lấn nhau đến gần tượng Phật.

– Mô Phật ! Xin quý thí chủ cứ thong thả. Ai cũng đến lượt được cầu phúc. Xin đừng chen lấn !

Một thanh niên gọi to:

– Này sư bác !

Đại Quán ngưng tay phát lộc, tự chỉ vào mũi, hỏi lại:

– Thí chủ gọi ta đấy à ?

– Phải, thầy nói chúng tôi cứ thong thả đợi đến lần, nhưng sao thầy luôn luôn phát cho phụ nữ trước vậy ?

– Vì ta thích phụ nữ hơn.

– Vậy ra thầy đây là một trong những thầy chùa hiếu sắc người ta thường nói tới trong vùng này đấy ư ?

– Anh ngốc này ! Anh tưởng ta không biết anh đến đây để làm gì hả ? Anh đến chẳng phải để lễ Phật hay cầu phúc mà chỉ để nhìn Oa Tử cho sướng mắt. Có đúng thế không ? Đừng chối. Này, ta nói thật, nếu anh kẹo quá thì chẳng ăn thua gì đâu !

Oa Tử đỏ mặt:

– Thầy Đại Quán, thầy nói gì thế ?

Và nàng ngẩng lên nhìn ra cửa sổ để tránh những tia mắt tò mò của mọi người.

Bỗng thoáng thấy một bộ mặt quen hiện ra, Oa Tử ngạc nhiên hết sức, đánh rơi cây bút đang cầm trên tay, chạy vội ra cửa suýt làm đổ cả bàn viết.

Nhưng bộ mặt vừa thoáng hiện ra đã biến mất, như con cá lặn dưới nước sâu.

Quên tất cả mọi người chung quanh, Oa Tử lật đật chạy ra ngoài, vừa chạy vừa gọi rối rít:

– Thạch Kinh Tử ! Thạch Kinh Tử !

Chương 4: Cơn cuồng nộ

Gia đình Mãn Hà Chí thuộc dòng dõi Hồ Điểu, là một trong những gia đình hào phú miền quê nhiều đời làm kiếm sĩ và tự cầy lấy ruộng đất.

Chủ gia đình, lão bà Hồ Điểu Anh, mẹ Mãn Hà Chí, là một lão phụ cương nghị, bướng bỉnh không ai bì kịp.

Tuy xấp xỉ lục tuần, bà vẫn còn cai quản gia nhân và làm việc quần quật suốt ngày ngoài đồng không chịu kém ai. Mùa cấy, bà nhổ mạ cấy lúa. Mùa gặt, bà phơi, đập. Đến chiều, xong công việc, bao giờ bà cũng cố mang về nhà một chút gì, khi bó rơm, lúc bó lá dâu. Nhiều bận, bó rơm lớn đến nỗi che khuất cả người, làm thân bà còng xuống.

Buổi tối, bà bận chăn tằm.

Trưa ngày hội hoa ở chùa Tiểu Sơn, đang hái dâu trong vườn, bà Hồ Điểu thấy cháu chạy đến, chân không mang dép. Nó thở hổn hển.

– Đi đâu về đấy ? Bà hỏi giọng nghiêm khắc. Lại ở trên chùa xuống phải không ?

– Hì … hì … Dạ !

– Oa Tử có trên chùa không ?

– Dạ … có. Nó vừa thở vừa đáp. Chị ấy đang viết kệ, thắt lưng mới đẹp lắm.

Nghe nói viết kệ, bà sực nhớ ra:

– Thế mày có mang trà và kệ trừ sâu về cho bà không ?

– Dạ, không !

Đôi mắt nhăn nheo của bà bỗng nhiên mở lớn:

– Sao lại không ?

– Chị ấy không đưa. Chị ấy bảo cháu chạy ngay về nói với bà …

– Nói gì ?

– Thạch Kinh Tử. Chị ấy trông thấy Thạch Kinh Tử, ở bên kia sông.

Giọng bà Hồ Điểu bỗng dưng trầm xuống:

– Thật hả ? Có thật Oa Tử trông thấy nó không ?

– Thật !

Hồ Điểu Anh đột nhiên như mất hết nghị lực. Tâm thân cường tráng của bà bỗng nhiên yếu hẳn đi. Mắt nhòa lệ, bà quay lại, tưởng như trông thấy đứa con trai yêu quý của mình đứng sau lưng. Nhưng không có ai. Bà vội lấy lại bình tĩnh:

– Mày hái dâu cho bà.

– Bà đi đâu ?

– Về nhà chứ còn đi đâu. Nếu Kinh Tử về được thì Mãn Hà Chí cũng về được.

– Cháu về với.

– Không, mày ở lại đây.

Đoạn quày quả bước, để đứa cháu một mình đứng ngẩn ngơ, chẳng hiểu ra sao cả.

Trang trại nhà Hồ Điểu khá lớn, hàng sồi cổ thụ bao quanh. Bà Hồ Điểu rảo bước len lỏi qua hàng sồi cao, thẳng hướng đến lẫm thóc, chỗ gia nhân đang làm việc.

Còn cách một thôi đường bà đã gọi rối rít:

– Ngừng tay, ngừng tay ! Mãn Hà Chí đã về ! Nó có đấy không ?

Mọi người ngạc nhiên, tưởng bà mất trí.

– Không ! Một người mau mắn đáp.

Nhưng dường như bà Hồ Điểu không để ý. Trong cơn xúc động, bà cho đấy không phải là một lời đáp. Nhìn mọi người đứng ngơ ngác, bà thấy họ đần độn quá sức. Nếu Thạch Kinh Tử về được, thì Mãn Hà Chí cũng về được. Trong thâm tâm bà, đó là lẽ đương nhiên và bà không chấp nhận bất cứ một giải thích nào khác.

Hồ Điểu Anh hách dịch ra lệnh cho mọi người phải đổ đi tìm, mỗi người một ngả, còn bà ở nhà chờ tin. Thấy tiếng chân ai đến gần, bà cũng vội vã ra ngay hỏi xem đã tìm được Mãn Hà Chí chưa.

Gần tối, vẫn chưa có tin tức gì của con, nhưng Hồ Điểu Anh không thất vọng. Bà đi thắp đèn, đặt trước hàng bài vị trên bàn thờ gia tiên rồi ngồi xuống chiếu trước bàn thờ. Lòng nặng trĩu ưu tư, bà lâm râm cầu nguyện.

Bà cứ ngồi như thế, như pho tượng giữa ánh đèn vàng vọt vây bọc chung quanh.

Mọi người chưa ai về, bếp lửa vắng lạnh. Mãi sau, bà mới uể oải đứng dậy, bước ra tựa cửa ngoài, trong bóng tối của buổi chiều chạng vạng. Qua những cành sồi, trăng suông mờ ảo chiếu xuống. Đằng xa, một màn sương trắng đục trùm lên đồi núi. Mùi hoa lê ngòn ngọt dâng lên phảng phất trong không khí.

Đứng như vậy chẳng biết bao lâu, đột nhiên bà thấy có bóng đen men theo vườn lê đến gần. Nhận ra Oa Tử, bà lên tiếng gọi.

– Oa Tử ! Có người nói con thấy Thạch Kinh Tử phải không ?

– Vâng. Chắc chắn là anh ấy ! Anh ấy lẩn trong đám đông trước chùa.

– Thế có trông thấy thằng Mãn Hà Chí không ?

– Không. Con chạy vội ra hỏi tin nhưng Kinh Tử bỏ trốn. Con bắt gặp ánh mắt anh ấy thoáng nhìn con rồi mất luôn. Tính Kinh Tử từ trước đến nay vẫn khác thường nhưng không hiểu sao lần này lại phải trốn như vậy.

Bà Hồ Điểu phân vân nhắc lại:

– Trốn à ?

Bà cau mày suy nghĩ. Một mối nghi ngờ hiện lên trong trí, rồi càng lúc càng in vào trong óc làm bà tin rằng chính Thạch Kinh Tử, tên vô lại mà bà ghét cay ghét đắng đã dụ dỗ con bà đi lính, lại làm chuyện gì bậy rồi. Giọng bà trở nên dọa nạt:

– Đồ khốn kiếp ! Chắc nó lại để cho Mãn Hà Chí chết dấm chết dúi ở đâu rồi một mình bỏ trốn về chứ gì. Thằng hèn mạt !

Tức giận, bà rít lên giữa hai hàm răng:

– Rồi nó biết tay bà !

– Con chắc không phải thế đâu. Nếu Mãn Hà Chí có mệnh hệ nào thì Kinh Tử phải mang thư hoặc một kỷ vật gì về chứ !

Nàng có vẻ bất bình vì bà cụ đã hấp tấp kết tội Thạch Kinh Tử. Nhưng Hồ Điểu Anh lắc đầu, nhất định cho ý mình là đúng:

– Không ! Không phải ! Thằng đó làm gì có tình nghĩa. Con ta chẳng nên kết bạn với nó mới phải.

– Thôi, bà … Oa Tử giọng làm lành. Hay chúng ta đến nhà Ô Nhiên, may ra gặp Kinh Tử ở đó.

Bà lão có vẻ nguôi giận:

– Ừ, cũng được. Ô Nhiên là chị nó, chắc nó không đến nhà ai khác đâu !

– Vậy bà cháu ta đi.

Nhưng bà Hồ Điểu khựng lại:

– Á ! Tại sao ta lại phải đến nhà nó kìa ! Nó biết em nó dụ con ta vào chỗ chết mà chẳng bao giờ thèm đến xin lỗi hoặc thăm ta lần nào. Bây giờ em nó trở về, nó cũng chẳng báo ta biết. Sao ta phải hạ mình đến nhà nó ! Không được, ta cứ đợi ở đây.

Oa Tử đáp:

– Nhưng đây là trường hợp bất thường. Ta phải gặp Kinh Tử càng sớm càng tốt để xem sự thể ra sao chứ ! Thôi, con xin bà, cứ đi với con đi, bà không phải làm gì cả, để mặc con xử sự.

Tuy bực mình nhưng Hồ Điểu Anh cũng nghe theo lời Oa Tử. Bà nóng lòng muốn biết tin con trai nhưng thà chết chứ không chịu xin xỏ điều gì của gia đình Yết Mân cả.

Ô Nhiên ở cách trang trại gia đình Hồ Điểu chừng non một dặm. Cả hai gia đình đều thuộc giai cấp hào trưởng thôn quê, từ mấy đời trước cùng chung một đảng tộc. Bây giờ mỗi nhà riêng một ven sông, tuy không tranh dành quyền lợi gì của nhau nhưng cũng chẳng giao thiệp với nhau thân thiết.

Đến trước cửa nhà Ô Nhiên, hai người thấy cổng đóng. Vườn cây dày, lá đan chằng chịt không để lọt ánh sáng ra ngoài. Oa Tử định vòng ra phía sau nhưng bà lão không đi theo, nhất định đứng ở cổng trước.

– Ta là gia trưởng nhà Hồ Điểu, không đời nào lại vào cửa sau nhà Yết Mân. Nhục lắm !

Thấy không kéo được bà đi, Oa Tử một mình rảo bước về phía cửa hậu. Lát sau, có ánh đèn lấp ló trong vườn rồi thấy chính Ô Nhiên bước ra đón bà vào.

Hồ Điểu Anh đột nhiên thay đổi thái độ. Từ một bà già quê mùa cầy sâu cuốc bẫm, bà bỗng trở thành một mệnh phụ cao ngạo:

– Xin lỗi đến làm rộn lúc đêm khuya nhưng ta có chuyện cần không đợi được. Nhà ngươi ra đón ta thế này thật quý hóa !

Rồi đường bệ qua mặt Ô Nhiên vào trong nhà, bước thẳng tới phòng danh dự như một sứ giả trên trời sai xuống, bà đĩnh đạc ngồi trước bức liễn đại tự, cạnh bình hoa cắm tỉa công phu, rồi mới sẵn sàng đón nhận những lời chúc tụng của chủ nhân.

Thủ tục xã giao thường lệ xong, bà nói thẳng vào vấn đề. Bà không mỉm cười giả dối nữa mà lạnh lùng nhìn thẳng mặt Ô Nhiên:

– Ta nghe nói tên quỷ sứ nhà này mới lén về phải không ? Bảo nó ra đây cho ta hỏi.

Hồ Điểu Anh vẫn nổi tiếng là tay độc miệng nhưng lần này câu nói tàn ác trên làm Ô Nhiên tức giận. Tuy vậy nàng cố nhịn:

– Thưa bà, bà nói tên quỷ sứ nào vậy ?

Hồ Điểu vội đổi ngay chiến thuật. Như con tắc kè đổi màu, bà vừa cười vừa đáp:

– Ồ ! Ta lỡ lời. Tại người trong làng vẫn gọi thế nên ta bắt chước. Ta muốn nói Thạch Kinh Tử ấy mà ! Cậu ấy trốn ở nhà này phải không ?

– Mô Phật ! Không !

Ô Nhiên ngạc nhiên thật sự nhưng cũng không giấu vẻ khó chịu khi thấy người ta gọi em mình là quỷ sứ. Nàng cắn môi suy nghĩ. Oa Tử vội giải thích là nàng có trông thấy Thạch Kinh Tử trong ngày hội hoa trên chùa. Và để trấn an, nàng thêm:

– Lạ nhỉ ! Anh ấy không về đây sao chị ?

– Không. Chị chẳng biết gì về chuyện này. Nhưng nếu nó có về đây thật thì chẳng bao lâu nữa cũng gọi cửa thôi !

Bà lão ngồi xếp bằng trên gối, hai tay nghiêm túc bắt chéo để trên đùi, dáng điệu như một bà mẹ chồng bị xúc phạm, cau mặt lớn tiếng:

– Sao ? Nhà ngươi nói không được tin tức gì của nó mà nghe được à ? Nhà ngươi không biết con ta đã bị thằng em vô lại của ngươi dụ dỗ đi lính hay sao ? Ngươi không biết nó là đứa con độc nhất kế thừa dòng họ Hồ Điểu hay sao ? Nó bị thằng em ngươi lôi vào chỗ chết. Nếu nó chết thì chính em ngươi đã giết nó và đừng tưởng là cứ men tường trốn về nhà mà xong đâu !

Bà nói một hơi không kịp thở, ngưng một chút lại tiếp tục, mắt đổ hào quang:

– Còn ngươi nữa ! Ai cũng biết nó trốn về một mình mà ngươi là chị nó lại không đưa nó đến cho ta hỏi. Cả hai đứa chúng bay đối xử với một người già cả như thế à ?

Thật đáng phỉ nhổ. Các ngươi không coi ta ra gì cả !

Rồi không đợi trả lời, bà lại thao thao:

– Nếu thằng Kinh Tử có trở về thì dẫn Mãn Hà Chí lại cho ta. Nếu không được, ít nhất cũng phải điệu thằng quỷ non ấy đến ngay đây để tra hỏi nó xem nó đã làm gì con ta, đứa con yêu quý của ta bây giờ ở đâu …

– Bây giờ bà muốn tôi làm gì ? Em tôi không có đây !

– Nói láo không biết ngượng miệng. Mày phải biết nó ở đâu !

– Không, tôi không biết !

Giọng Ô Nhiên run run, mắt đầy lệ. Mặt nàng hơi cúi về phía trước. Trong thâm tâm, Ô Nhiên thầm mong cha nàng còn sống.

Thình lình có tiếng động ngoài hiên, rồi những bước chân người chạy rầm rập. Hồ Điểu đảo mắt nhìn láo liên. Oa Tử định đứng dậy. Một tiếng thét ghê rợn trong bóng đêm từ bên ngoài đưa vào, tiếp theo là tiếng kêu đau đớn kéo dài như tiếng hú của con vật bị chọc tiết. Rồi một giọng đàn ông hét lớn:

“Bắt lấy nó !”.

Lại tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng la hét cùng với tiếng rào rào của những cành gẫy và những nhánh tre rung động.

Hồ Điểu Anh thét lên:

– Thạch Kinh Tử rồi !

Bà đứng phắt dậy, quắc mắt nhìn Ô Nhiên quỳ dưới chân, gay gắt nói:

– Ta biết nó ở đây. Thật rõ như ban ngày mà ngươi còn cố giấu. Nhưng ta không quên đâu !

Rồi bà vụt chạy ra, mở tung cửa. Cảnh tượng bên ngoài làm cho mặt bà đã tái lại càng thêm nhợt nhạt:

một thanh niên, ống chân còn mang giáp cứng, nằm ngửa mặt lên trời, đang giẫy chết, máu từ mắt và mũi ri rỉ chảy ra thành từng đường đen sẫm. Cứ xem như vết thương trên sọ của nạn nhân cũng đủ thấy kẻ chém hắn phải mạnh lắm và võ khí là một vật bằng gỗ !

Bà lão lắp bắp:

– Có … có … người chết ngoài kia !

Oa Tử mang đèn ra hiên rồi cùng với Hồ Điểu Anh đến gần xác chết. Bà run sợ nhìn chăm chú vào mặt nạn nhân. Không phải Thạch Kinh Tử mà cũng không phải Mãn Hà Chí, chỉ là một kiếm sĩ còn trẻ tuổi cả hai đều không biết rõ danh tính.

Hồ Điểu Anh lẩm bẩm:

– Ai giết hắn vậy ?

Rồi quay lại Oa Tử, bà bảo:

– Ta đi chỗ khác thôi, đừng nên dính vào chuyện này.

Nhưng Oa Tử không đành lòng bỏ đi chỗ khác. Bà lão đã nói nhiều câu bất công và độc ác với Ô Nhiên, nàng thấy nếu không ở lại an ủi Ô Nhiên đôi chút thì thật là tàn nhẫn. Nếu Ô Nhiên có điều gì che giấu, hẳn phải có lý do chính đáng, bèn nói với Hồ Điểu Anh xin bà cứ về trước rồi nàng sẽ trở lại sau.

– Tùy ngươi.

Bà đáp khô khan và định cất bước. Oa Tử đưa đèn lồng cho bà nhưng bà gạt đi, giọng kiêu hãnh:

– Ta không cần ! Gia trưởng nhà Hồ Điểu đâu đã lẫn mà phải dùng đèn !

Rồi vén áo kimono, bà bước những bước dài, mạnh bạo xông vào màn sương đêm mỗi lúc một dày đặc.

Đi được một quãng, một bóng đen gọi giật bà lại. Bóng đen cầm gươm trần, ống chân và cánh tay mang giáp sắt trong như kiếm sĩ chuyên nghiệp, không phải người trong làng. Bóng đen hỏi lớn:

– Bà vừa ở nhà Yết Mân ra hả ?

– Phải.

– Bà có họ hàng gì với nhà Yết Mân ?

– Lạy trời, ta đâu có họ hàng gì với chúng ! Ta là gia trưởng họ Hồ Điểu ở bên kia sông.

– Vậy bà là mẹ Mãn Hà Chí hả ? Thạch Kinh Tử với hắn dự trận Sekigahara mà !

– Phải ! Nhưng con ta đâu có tự ý đăng lính. Thằng quỷ đó dụ con ta đi đấy chứ !

– Thằng quỷ nào ?

– Thì thằng quỷ Thạch Kinh Tử chứ ai ?

– Hình như tên đó không được lòng dân làng phải không ?

– Được lòng gì ? Ngươi không biết đấy thôi chứ nó là một tên vô lại ai cũng gớm !

Từ khi con ta chơi với nó, gia đình ta chịu không biết bao nhiêu là phiền nhiễu.

– Hình như con bà đã chết ở Sekigahara rồi mà !

– Chết rồi ! Trời ! Mãn Hà Chí chết rồi ư ?

– Không ! Ta cũng không biết rõ lắm ! Nhưng để bà đỡ buồn phiền, ta sẽ giúp bà trả thù.

Hồ Điểu Anh nhìn người đàn ông nghi hoặc:

– Quan nhân là ai vậy ?

– Ta thuộc binh đoàn của Tôn gia. Sau trận chiến, ta được phái đến trấn thủ ở lâu đài trên thượng lưu sông này. Theo lệnh thượng cấp, ta có cho chặn đường chỗ biên giới liên tỉnh Harima để khám xét người qua lại. Tên Thạch Kinh Tử, nhà ở đằng kia – hắn giơ tay chỉ xóm Ô Nhiên ở – phá rào chặn rồi phóng chạy về phía làng Miyamoto này. Ta phái người đuổi theo nhưng hắn khá quỷ quyệt. Tưởng đâu vài ngày hắn phải nhược, nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra hắn. Trước sau thế nào rồi cũng tóm cổ được. Sức đâu mà hắn trốn mãi.

Hồ Điểu Anh gật đầu. Bây giờ bà mới hiểu tại sao Thạch Kinh Tử phải lẩn trốn trong ngày hội hoa ở Tiểu Sơn tự và tại sao hắn không dám về nhà, vì chắc chắn lính sẽ đến xét nhà hắn trước tiên. Nhưng nghe tin Thạch Kinh Tử trở về làng có một mình, cơn giận của bà càng tăng. Còn tin Mãn Hà Chí chết, bà thấy khó lọt tai quá. Bà nói khéo:

– Tên Thạch Kinh Tử khỏe và quỷ quyệt thật, nhưng gặp quý quan binh, làm gì mà không bị bắt.

– Ờ … Ở … lúc đầu ta cũng nghĩ thế. Nhưng bọn ta ít người mà mới đây nó lại giết mất một rồi !

Bà không biết cấp bậc của người đối thoại nhưng cứ gọi bừa là đội trưởng:

– Đội trưởng cho phép già khuyên một câu nhé !

Rồi cúi đầu ghé sát tai người kia nói nhỏ. Những lời bà thì thầm có lẽ làm viên đội trưởng khoái chí lắm. Thỉnh thoảng hắn lại gật đầu đồng ý và thốt lên:

– Hay lắm ! Hay lắm ! Tuyệt !

Bà lão quay đi nhưng không quên dặn với:

– Nhớ đấy ! Mà phải làm đến nơi, chớ có bỏ nửa chừng mà mang họa.

Ô Nhiên và Oa Tử ngồi trên chiếu, đang than thở và lau nước mắt bỗng giật mình trông ra.

Bốn, năm kẻ lạ mặt mặc binh phục nhẩy qua cửa sổ xông thẳng vào phòng khách, kéo lê bùn đất bê bết. Oa Tử tái mặt, nhưng Ô Nhiên không hổ danh con gái Mưu Ni Sai, vẫn bình tĩnh. Nàng lạnh lùng hỏi:

– Các ngươi là ai, vào đây làm gì ?

Một tên cao giọng:

– Đứa nào là chị thằng Thạch Kinh Tử ?

– Ta. Ô Nhiên điềm tĩnh đáp. Đêm khuya, các ngươi tự tiện vào phá nhà phụ nữ, không biết xấu hổ sao ?

Viên đội trưởng vừa vào tới, giơ tay chỉ Ô Nhiên, quát lớn:

– Trói con bé này lại !

Vừa nghe tiếng quát, đèn đóm tắt hết, tối om. Nhà cửa rung động, bàn ghế đổ lổng chổng. Lính ùa đến bắt Ô Nhiên. Nàng kháng cự mãnh liệt, nhưng đàn bà sức vóc bao nhiêu, chỉ mấy phút sau đã bị trói gô như bó giò nằm vất chỏng chơ dưới đất. Những tên lính dã man còn xúm lại đạp thêm cho mấy cái. Oa Tử sợ quá vùng chạy ra cửa.

Nàng không nhớ đã chạy ra ngả nào, nhưng trốn thoát được bọn lính. Tâm thần hoảng hốt, chân không còn cả dép, nàng nhắm mắt chạy bừa trong làn sương dày mờ mịt trắng xóa như sữa dưới ánh trăng suông, hoàn toàn phó mặc cho bản năng định hướng, hy vọng về được đến chùa Tiểu Sơn. Sống yên ổn từ tấm bé trong một khung cảnh êm đềm thuần hậu, Oa Tử cực kỳ xúc động và thấy thế giới xung quanh mình như vừa sụp đổ.

Gần đến chân đồi, bỗng nghe tiếng gọi. Ngẩng nhìn bóng người ngồi trên phiến đá dưới tàn cây, nàng nhận ra là Đại Quán.

– Mô Phật ! Ngươi đấy ư ? Ta đang lo không biết hôm nay sao ngươi về trễ.

Đại Quán nhìn xuống chân Oa Tử:

– Dép ngươi đâu ?

Đại Quán chưa hết ngạc nhiên thì Oa Tử đã chạy đến bên, miệng không ngớt rên rỉ:

– Thầy ơi ! Ghê quá ! Ghê quá !

Đại Quán lấy giọng bình tĩnh, cố trấn an thiếu nữ:

– Nào … nào … cái gì mà ghê quá ? Tên đời này làm gì có chuyện gì ghê đến thế !

Bình tĩnh kể ta nghe chuyện gì nào !

– Ghê quá ! Chúng bắt chị Ô Nhiên trói lại rồi ! Không có tin gì của Mãn Hà Chí mà chị Ô Nhiên hiền dịu như vậy bị chúng đá, thật khổ ! Thầy, bây giờ phải làm sao, thầy ?

Vừa run rẩy vừa khóc nức nở, Oa Tử sợ hãi bám chặt lấy Đại Quán, đầu nép vào ngực nhà sư cầu xin che chở.

Buổi trưa mùa xuân ẩm ướt và lặng gió. Thạch Kinh Tử lang thang trong rừng, mồ hôi chảy đầy mặt. Sương mờ mờ như còn lãng đãng xung quanh. Hắm mệt lắm rồi, tưởng không còn cất nổi bước. Một tiếng chim đậu trên cành cũng làm hắn hốt hoảng thủ thế.

Sau cơn thử thách vừa qua, con người hắn trở lại hung bạo và man rợ cũng như bản năng sinh tồn của hắn. Thạch Kinh Tử giận dữ văng tục:

– Tổ cha những thằng khốn nạn chó má !

Không tìm được vật gì trút bỏ nỗi bực dọc trong lòng, hắn vung mạnh thanh kiếm gỗ, thuận tay chặt một cành cây lớn trước mặt. Trừng trừng nhìn chỗ vết thương trên vỏ cây, thấy giòng nhựa trắng chảy ra ri rỉ, hắn nghĩ đến sữa mẹ. Mất mẹ, không còn ai để quay về những khi tuyệt vọng, Thạch Kinh Tử thấy cô đơn lạ lùng. Ngọn suối trong, rặng đồi uốn éo đằng xa kia, ở chính quê hương hắn mà sao hắn thấy vô tình quá, đôi khi còn như chế nhạo hắn nữa.

Đã bốn ngày nay, Thạch Kinh Tử lẩn trốn trong vùng rừng rậm triền núi Sanumo.

Qua làn sương mong ban chiều, thấp thoáng ngôi nhà của cha hắn xưa kia, bây giờ do chị hắn ở. Dưới thung lũng là chùa Tiểu Sơn, mái chùa ẩn hiện sau những tàn cây dày lá.

Hắn biết những nơi đó nguy hiểm không thể đến được vì đấy là những chỗ đầu tiên lính tới khám xét. Ngày Phật Đản vừa qua, hắn đã dám bò tới gần chùa. Mặc dầu đông người dễ trốn nhưng quả thật hắn đã quá liều lĩnh. Khi nghe tiếng gọi, hắn bỏ chạy vì không còn cách nào khác. Ngoài mục đích tự cứu, hắn không muốn gây phiền cho Oa Tử.

Đêm hôm trốn về nhà, ngẫu nhiên có bà mẹ Mãn Hà Chí ở đó. Đứng ngoài hiên, ghé mắt qua khe cửa nhòm vào, hắn đương mãi nghĩ cách giải thích cho bà cụ biết tại sao con bà không về thì bị lính bắt gặp. Hắn phải giết chết một tên rồi vùng chạy, vẫn không có dịp nói với ai câu nào.

Từ đó sống chui nhủi trong vùng rừng núi này, hắn thấy như bị bao vây càng ngày càng chặt. Binh sĩ Tôn gia kiểm soát gắt gao các miền phụ cận, chúng tuần tiễu khắp các nẻo đường từ chân núi trở đi và bắt dân làng chia nhau thành từng toán lục soát khắp sườn núi.

Thạch Kinh Tử tự hỏi chẳng biết Oa Tử nghĩ gì về hắn và bắt đầu nghi có lẽ nàng cũng chẳng ưa gì hắn. Biết mọi người ai cũng coi mình như kẻ thù, Thạch Kinh Tử thấy bị dồn vào ngõ cụt. Hắn nghĩ:

giải thích cho Oa Tử hiểu tại sao vị hôn phu của nàng không về, thật khó quá ! Chi bằng kể cho bà già nghe, tốt hơn. Ừ phải, để ta nói cho bà cụ biết rồi bà cụ sẽ từ từ khuyên giải Oa Tử sau. Xong chuyện này, ta đi đâu cũng được, không còn gì phải bận tâm !

Ý đã quyết, Thạch Kinh Tử lại cất bước nhưng hắn biết hắn không thể về làng trước khi trời tối. Nhặt hòn đá, đập thành từng mảnh, hắn ném chim bay ngang. Vì đói qua, giết được con nào hắn vặt lông sơ rồi ngồm ngoàm ăn sống. Cầm con chim máu bê bết, hắn vừa đi vừa ngoạm vào thịt chim nóng hổi, ăn ngon lành không nghĩ gì đến chuyện khác.

Đột nhiên có tiếng kêu khẽ trong bụi cây. Hắn khựng lại. Một người nhảy ào ra, chạy trốn. Nghĩ đến chuyện ai cũng khinh ghét và tìm cách xa lánh hắn một cách vô cớ, Thạch Kinh Tử tức giận hét:

– Đứng lại !

Và không đợi phản ứng, hắn chạy theo nhanh như thú dữ vồ mồi. Chỉ một loáng đã đuổi kịp. Thì ra là một người làng hắn biết mặt thường lên núi đốt than. Hắn nắm cổ lôi lại dẫn vào khu rừng thưa gần đấy.

– Sao chú bỏ chạy ? Chú không nhận ra ta à ? Thạch Kinh Tử ở Miyamoto đây mà !

Ta có ăn thịt chú đâu mà sợ ? Người làng gặp nhau chẳng chào hỏi gì cả, xấu thế ?

– Dạ … dạ …

– Ngồi xuống !

Hắn buông tay ra, nhưng người kia vừa được thả đã vội co cẳng chạy. Thạch Kinh Tử chận phía sau, giơ kiếm lên như định chém. Người kia ngã ngồi xuống, hai tay chắp lại, lạy như tế sao:

– Lạy ngài, xin ngài tha cho con !

– Vậy trả lời câu ta hỏi đây !

– Dạ dạ … xin ngài đừng giết. Con còn vợ con nhỏ dại.

– Không ai giết chú. Quanh đây nhiều lính lắm phải không ?

– Dạ.

– Dân làng hôm nay còn đi kiếm ta không ?

Không có tiếng trả lời.

– Chú có phải là một trong những người đi kiếm ta không ?

Người kia đứng dậy lắc đầu quầy quậy:

– Dạ không ! Không !

Thạch Kinh Tử lại tóm cổ người đốt than:

– Thôi được ! Chị ta ra sao ?

– Chị nào ?

– Chị ta, Ô Nhiên nhà Yết Mân. Đừng làm bộ ngớ ngẩn. Chú đã hứa trả lời những câu ta hỏi. Ta không trách dân làng, họ bị lính bắt phải theo, nhưng ta muốn biết chị ta có sao không ?

Người kia làm bộ ngây ngô đáp:

– Dạ, con không biết gì hết.

– A ! Nghi quá ! Không nói ta chém chết tức khắc !

Nói rồi hắn giơ kiếm.

– Ấy, lạy ngài ! Con xin nói ! Con xin nói !

Rồi hai tay chắp lại run rẩy, người đốt than sợ hãi lắp bắp kể lại chuyện Ô Nhiên bị bắt dẫn đi và lệnh rao trong làng hễ ai chứa chấp Thạch Kinh Tử sẽ bị coi như đồng lõa. Hàng ngày, lính dẫn từng nhóm dân lên núi bắt đi sục sạo và mỗi nhà cứ hai ngày lại phải cử một người tham dự.

Thạch Kinh Tử nghe chuyện, tóc dựng ngược, không phải vì sợ mà vì giận. Hắn hỏi lại cho chắc:

– Chị ta có tội gì ?

Và mắt hắn mờ lệ.

– Trong làng không ai biết. Lệnh trên như vậy, chẳng ai dám trái.

– Thế chúng dẫn Ô Nhiên đi đâu ?

– Có lẽ lên đồn Hinagura. Ấy là nghe nói vậy, con cũng không chắc.

Thạch Kinh Tử lẩm bẩm nhắc lại:

– Hinagura … Hinagura …

Và hắn quay nhìn rặng núi xa, sát vùng biên hai tỉnh, mây chiều đã kéo đến làm loang lổ vài nơi trên đỉnh.

Thạch Kinh Tử thả người đốt than. Anh ta vừa mừng vừa sợ chạy xuống chân đồi.

Thạch Kinh Tử vừa ngao ngán vừa tức giận những kiếm sĩ đê mạt đã bắt một người con gái yếu đuối không phương tự vệ. Một mình, hắn lững thững quay đi, yên lòng vì không bị ai làm rộn. Hắn cần yên tĩnh để suy nghĩ.

– Ta phải cứu Ô Nhiên. Trời ơi, chị ta ! Nếu chúng làm gì chị ta, ta sẽ giết hết !

Trời đã chiều. Thạch Kinh Tử rảo bước xuống núi, nhắm hướng làng Miyamoto thẳng tiến.

Một giờ sau, Thạch Kinh Tử đến gần chùa Tiểu Sơn. Chuông thu không vừa ngưng tiếng, hoàng hôn sập xuống. Chùa đã lên đèn, Thạch Kinh Tử trông thấy người đi lại rộn rịp dưới bếp và cả ở tăng phòng.

“Giá Oa Tử ra ngoài được một lúc !”, hắn nghĩ.

Ngồi thu lu trong xó tối cạnh hành lang dẫn từ bếp lên chùa, mùi thức ăn lởn vởn trong không khí khiến bụng hắn cồn cào, nghĩ đến những bát cháo thơm phức. Đã mấy ngày nay, chỉ ăn toàn thịt sống và cỏ dại, bây giờ con tỳ con vị hắn làm reo, nước miếng ứa ra suýt làm hắn sặc.

– Tiếng gì thế ? Một giọng nói cất lên.

– Chắc con mèo.

Oa Tử đáp. Ở bếp bước ra, hai tay bưng mâm thức ăn dành cho bữa tối, Oa Tử men theo hành lang ngay trên đầu Thạch Kinh Tử. Hắn định gọi, nhưng cơn xúc động làm nghẹn lời. Thật may cho hắn vì đúng lúc đó có tiếng đàn ông hỏi ngay đằng sau Oa Tử:

– Phòng tắm chỗ nào cô ?

Người đàn ông đi sau mặc kimono mượn của nhà chùa, ngang lưng giắt chiếc khăn mặt nhỏ. Thạch Kinh Tử nhận ra đó là một kiếm sĩ đồn trú tại lâu đài Himeji. Hiển nhiên phải là cấp chỉ huy vì như vậy hắn mới được ở trong chùa, suốt ngày ăn uống no say để mặc quân lính dưới quyền và dân làng vất vả ngày đêm tìm Thạch Kinh Tử.

Oa Tử đáp:

– Ngài muốn dùng phòng tắm xin đi phía này.

Đặt mâm thức ăn xuống, nàng dẫn người lạ mặt đến cuối hành lang.

Đột nhiên, người kia giơ hai tay ôm ngang lưng Oa Tử. Bằng một giọng cợt nhả, hắn nói:

– Nàng vào phòng tắm với ta đi !

– Mô Phật !

Nhưng hắn đã giữ chặt Oa Tử và ghé môi hôn lên má nàng. Oa Tử vùng vẫy.

– Sao vậy ? Không thích đàn ông à ?

Oa Tử sợ hãi kêu:

– Bỏ ra ! Không được làm hỗn !

Tên kia hoảng hốt, bịt mồm nàng lại. Nhưng nhanh như cắt, Thạch Kinh Tử chồm lên khỏi chỗ nấp, nhảy xổ tới, đấm một cú tựa trời giáng vào gáy tên kiếm sĩ. Trong lúc bất ngờ không kịp phản ứng, hắn ngã nghiêng, tay vẫn bám lấy Oa Tử. Oa Tử vừa hét vừa vùng vẫy tìm cách gỡ ra rồi đẩy mạnh hắn ngã ngồi xuống đất. Hắn la hoảng:

– Bắt lấy nó ! Thạch Kinh Tử đây rồi ! Quân lính đâu, bắt nó ! Bắt nó !

Từ trong chùa, tiếng chân rầm rập chạy ra lẫn với tiếng la hét. Chuông mõ gióng liên hồi, ai cũng kêu:

Bắt được Thạch Kinh Tử ! Bắt được Thạch Kinh Tử !

Nhưng Thạch Kinh Tử đã không còn ở chùa nữa. Một số người chia nhau lên núi, vào rừng tìm kiếm. Chính Thạch Kinh Tử cũng không rõ tại sao hắn đã may mắn thoát khỏi màng lưới bủa vây hắn. Trong khi mọi người ra công lục soát khắp nơi thì hắn đã sang bên kia sông, chạy vào trong căn bếp rộng lớn nền đất nện của nhà Hồ Điểu.

Áng sáng căn bếp lờ mờ. Thạch Kinh Tử cất tiếng gọi khẽ:

– Bà ơi ! Bà !

– Ai đó ? Giọng bà già hách dịch hỏi lại.

Hồ Điểu Anh tay cầm đèn lồng từ phòng trong bước ra. Trông thấy hắn, bộ mặt nhăn nheo của bà tái đi. Bà hỏi:

– Mày hả ?

Thạch Kinh Tử vội đáp:

– Con có chuyện gấp muốn nói. Mãn Hà Chí chưa chết đâu, hắn vẫn khỏe nhưng giờ theo một người đàn bà đi nơi khác ở rồi. Con chỉ biết có thế. Bà làm ơn bảo cho Oa Tử biết, con không thể gặp nàng để báo tin được !

Nói xong những lời đó, Thạch Kinh Tử thoải mái như vừa cất được gánh nặng.

Định bước đi thì bà Hồ Điểu gọi giật lại:

– Mày định đi đâu bây giờ ?

– Con lên đồn Hinagura cứu Ô Nhiên. Giọng hắn buồn bã. Xong rồi đi đâu cũng được. Con chỉ muốn nói để bà và Oa Tử biết là không phải con đã bỏ Mãn Hà Chí, ngoài ra chẳng còn chuyện gì khác.

Bà Hồ Điểu đổi tay cầm đèn, lặng thinh suy nghĩ. Bà muốn kéo dài thì giờ, bèn ra hiệu cho Thạch Kinh Tử:

– Mày có đói không, Kinh Tử ?

– Mấy hôm nay chẳng được hột cơm nào.

– Tội quá ! Vậy vào đây. Bà đang làm cơm, xong ngay bây giờ. Vào ăn cơm nóng đã. Trước khi đi, bà đãi con bữa cơm nhé ! Hay là con đi tắm, đợi bà làm bữa.

Thạch Kinh Tử ngạc nhiên ngẩn người.

– Đừng làm bộ mặt vậy ! Gia đình ta và gia đình con cùng một tộc, con không biết à ? Ta nghĩ con chẳng nên đi, nhưng nếu ý con đã quyết thì bà muốn đãi con bữa cơm trước khi lên đường vậy mà !

Thạch Kinh Tử chẳng biết trả lời sao. Hắn giơ tay chùi nước mắt. Đã lâu lắm hắn không thấy ai thương và nói với hắn những lời âu yếm như thế. Hắn tưởng ai cũng khinh miệt và nghi kỵ hắn, ngờ đâu … Hắn bỗng thấy một cảm giác kỳ lạ khi được đối xử như một người.

– Thôi con đi tắm đi. Hồ Điểu Anh nói với hắn như bà nói với cháu. Đứng đây có người trông thấy thì nguy hiểm lắm. Để ta mang khăn cho, trong khi con tắm ta lấy cái áo của thằng Hà Chí để sẵn đây, tắm xong thì mặc. Vào phòng, tắm đi cho khỏe.

Bà đưa Thạch Kinh Tử cây đèn rồi trở lên nhà. Lúc sau, thấy cháu bà chạy đi, biến vào trong đêm tối.

– Thế nào ? Nước vừa đủ nóng không con ?

– Vừa vặn bà ạ. Con thấy như tỉnh hẳn lại.

– Cứ thong thả, cơm chưa được đâu.

– Cảm ơn bà. Nếu biết thế này con đã đến sớm hơn.

Thạch Kinh Tử nói thêm vài câu nữa, nhưng tiếng nước rào rào làm át tiếng hắn.

Vả bà già cũng không còn đứng đó nữa.

Không bao lâu sau, đứa cháu đã trở về, thở hổn hển, theo sau lục tục những binh sĩ và dân làng mang gậy gộc. Hồ Điểu Anh ở trong nhà bước ra, ghé tai thì thầm với viên đội trưởng.

– Hay lắm ! Tuyệt diệu ! Bà đã dụ cho hắn tắm. Thật diệu kế ! Lần này có chạy đằng trời !

Rồi chia hai toán, mọi người cẩn thận nằm rạp xuống theo hướng bếp lửa bò vào như đàn cóc châu vào đốm lửa sáng.

Đột nhiên Thạch Kinh Tử linh cảm một điều gì khác lạ khó tả làm hắn nhột nhạt.

Ghé mắt nhìn qua khe cửa, hắn nổi da gà, tóc dựng ngược.

– Chết rồi ! Ta bị trúng bẫy rồi !

Nhà tắm nhỏ và chật. Hắn thì trần như nhộng, ngoài cửa, người mang gậy gộc giáo mác lố nhố sắp tiến vào. Trông trước trông sau vô kế khả thi, hắn đâm liều. “Được rồi !

Nếu chúng bay muốn, ta sẽ cho biết tay !”.

Hắn chẳng cần biết bên ngoài có bao nhiêu người. Từ trước đến nay hắn vốn là tên liều mạng, luôn luôn tấn công trước. Trong khi mọi người đang theo nhau từ từ bò vào, không do dự, hắn đột nhiên đạp tung cửa phòng ra, thét một tiếng rợn người !

Không mảnh vải che thân, tóc bay tung tứ phía, Thạch Kinh Tử cướp ngay ngọn giáo của tên lính gần nhất đang chĩa vào hắn, thuận chân đạp tên kia bắn văng vào bụi. Hai tay cầm ngang ngọn giáo, hắn quay cuồng như điên trong đám đông, mạnh tựa vũ bão.

Trong trận Sekigahara, hắn đã học được bài học này và thấy thật hiệu nghiệm khi phải đối đầu với số địch thủ đông gấp bội. Cán giáo nhiều khi còn lợi hại hơn ngọn giáo. Hắn đá đông, phạt tây, đâm nam, gạt bắc, ào ào như gió cuốn làm mọi người sợ hãi dạt ra hai bên. Toán binh sĩ không cho người vào phá nhà tắm trước khi tấn công, đến khi biết lầm thì đã muộn. Lính và dân chỉ đứng vòng ngoài la hét, rõ ràng ai cũng sợ không dám xông vào. Khi ngọn giáo của hắn giáng xuống lần thứ mười thì bị gẫy làm hai đoạn. Thạch Kinh Tử nhặt hòn đá lớn ném vào phía quan quân và thừa cơ nhốn nháo phóng ra khỏi vòng vây.

– Nó chạy vào nhà rồi !

Mẹ con Hồ Điểu Anh bỏ chạy ra vườn. Thạch Kinh Tử vừa chạy vào nhà vừa hét:

– Áo tao đâu ? Áo tao đâu ?

Trong nhà quần áo ngổn ngang, có cả một chiếc rương to đựng đầy kimono mở nắp, nhưng Thạch Kinh Tử không để ý. Hắn đảo mắt nhìn quanh tìm bộ áo rách bươm của hắn. Thấy nó cạnh bếp, hắn vơ quàng nhảy vội lên lò đất, chui qua lỗ trần leo lên mái nhà.

Dân chúng ở dưới chỉ trỏ, mắng nhiếc và đổ lỗi cho nhau đã để hắn trốn thoát.

Đứng trên nóc nhà, Thạch Kinh Tử khoan thai mặc lại bộ kimono cũ, lấy răng xé một miếng thắt lưng buộc mớ tóc ướt. Hắn thắt sợi dây vải chặt đến nỗi chân tóc bị kéo mạnh ra đằng sau, làm đôi lông mày hắn xếch ngược.

Bầu trời đêm ấy trên đầu hắn lấp lánh đầy sao

Chương 5: Trí dũng

Thạch Kinh Tử bị truy nã gắt. Khắp ngả đường và trước cổng nhà xã trưởng đều có treo cáo thị trọng thưởng cho ai giết chết hay bắt sống được Thạch Kinh Tử hoặc chỉ chỗ hắn ẩn nấp. Cáo thị mang triện son của Phổ Đà Mã Tử, tổng trấn lâu đài Himeji.

Dân trong làng lo lắng ra mặt, nhất là gia đình bà Hồ Điểu. Công việc đồng áng bỏ bê, chẳng ai có thì giờ cày cấy hay tầm tang gì nữa. Đêm nào bà Hồ Điểu cũng thúc giục gia nhân chặn hết mọi lối ra vào trang trại, khóa cửa cài then kỹ lưỡng đề phòng Thạch Kinh Tử trở về báo thù. Dân quân họp nhau nhiều bận bàn kế lùng bắt phạm nhân mà vẫn không kết quả.

Hôm nay, mới tinh sương, đã có thanh niên hớt hải chạy về báo cáo:

– Lại một người nữa bị giết !

– Ở đâu ? Lần này ai vô phúc vậy ?

– Một kiếm sĩ không rõ tên. Xác còn nằm ở đường mòn chân núi.

Dân xóm tuy sợ nhưng không nén được tò mò, kéo nhau đi xem. Xác nạn nhân dựng ngược, đầu chúi vào bụi cây bên cạnh cái cọc treo bảng cáo thị còn dính máu. Nạn nhân bị vỡ sọ, có lẽ bị đánh bằng cọc này.

Ai ai cũng lắc đầu lè lưỡi. Đọc cáo thị, mọi người không khỏi ngao ngán trước sự thật phũ phàng:

Thạch Kinh Tử mạnh quá. Nó ra tay tàn nhẫn như thế, ai còn lòng nào đi bắt nó hay dám chỉ chỗ nó trốn ?

Oa Tử cũng theo dân xóm đến coi xác chết. Rời khỏi đám đông, sắc mặt nàng nhợt nhạt, hình ảnh kẻ bất hạnh còn lởn vởn trong trí. Trở về chùa, đến chân núi, nàng gặp viên đội trưởng dẫn năm sáu thuộc hạ đi tra xét. Oa Tử khép nép tránh sang vệ đường, không muốn cho gã trông thấy.

Nhưng đã muộn. Thấy thiếu nữ, gã cười toe toét:

– Oa Tử đi đâu về thế ?

– Đi mua đồ.

Oa Tử đáp cụt lủn, rồi không đợi gã nói thêm câu nào, vội vã trèo những bậc đá để lên chùa. Nàng không có thiện cảm với viên đội trưởng, có lẽ vì bộ ria lởm chởm như bàn chải của gã làm nàng gớm ghiếc và nhất là sau cái đêm hắn làm hỗn với nàng, nàng càng ghê sợ.

Đến cổng chùa, Oa Tử thấy Đại Quán đang đùa với một con chó hoang. Nàng len lén tránh xa, ghê con vật bẩn thỉu, không ngờ nhà sư đã trông thấy, gọi:

– Oa Tử ! Ngươi có thư đấy ?

Ngạc nhiên, nàng hỏi lại:

– Thư của con ư ? Ai gửi đến thế ?

– Không biết ! Nhưng vì ngươi không có ở chùa, ta giữ hộ cho đây.

Đoạn thò vào tay áo lấy ra một cuốn giấy trao cho thiếu nữ.

– Trông ngươi không vui. Có chuyện gì vậy ?

– Chuyện đau lòng, thầy ạ. Có người chết ở ven rừng, mắt còn mở và máu đọng …

– Hừ. Những cảnh ấy chẳng nên xem. Ít lâu nay ta cũng thường thấy xác chết, cứ đà này đi đâu có lẽ phải nhắm mắt lại mất ! Vậy mà mình cứ tưởng đất này là tiên cảnh…

– Sao Thạch Kinh Tử hạ sát nhiều người quá vậy thầy ?

– Thì để cho hắn khỏi bị giết chứ sao ! Nam mô a di đà Phật, lòng hiếu sinh và hiếu sát của gã thiếu niên ấy thật ghê gớm. Họ đi tìm giết hắn thì hắn phải tự vệ …

– Nếu hắn về làng này giết người thì thầy phải làm sao ?

Đại Quán ngồi yên không đáp. Mây đen đùn lên từng đám che khuất cả đỉnh núi.

Oa Tử mở cửa phòng, đặt cuộn thư lên chiếc bàn thấp, định ngồi xuống bồ đoàn đọc cho yên tĩnh. Liếc nhìn khung cửi, một tấm lụa còn đang dệt dở. Từ năm ngoái, Oa Tử đã ươm tơ định dệt một tấm kimono cho Mãn Hà Chí, với lòng thành khẩn mong mỗi đường tơ sẽ là một sợi dây ràng buộc nàng với vị hôn phu thêm bền chặt. Và nàng thầm ước tấm áo đừng bao giờ hư rách. Nhưng Mãn Hà Chí đã bỏ đi dự trận Sekigahara, và đến bây giờ vẫn không tin tức.

Oa Tử đăm chiêu nhìn cuộn giấy trên bàn rồi băn khoăn tự hỏi:

“Chẳng biết thư của ai ?”.

Nàng đọc đi đọc lại địa chỉ nhiều lần, sợ nhầm lẫn. Nhưng rõ ràng thư đề tên nàng, địa chỉ là chùa Tiểu Sơn, làng Miyamoto. Giấy bọc ngoài sờn rách nhem nhuốc nước mưa và vết tay chứng tỏ nó đã được chuyển qua nhiều trạm.

Oa Tử bật dấu niêm, thấy rơi ra hai mảnh giấy. Mảnh thứ nhất mang bút tự của một thiếu phụ nàng không quen và có lẽ nhiều tuổi hơn nàng:

“Thiểm nữ viết thư này để xác nhận những điều Mãn Hà Chí nêu trong thư kia là đúng nên không nói rõ chi tiết.

Xin thông cảm. Thiểm nữ đã thành hôn với Mãn Hà Chí và coi Mãn Hà Chí như người nhà. Nhưng thấy anh ta còn áy này về cô nên phải gửi thư này. Đường đời mỗi người một ngả, mong cô nương hãy quên người cũ. Vạn cảm. Ôkô“.

Oa Tử tái mặt, tay run run mở mảnh giấy kia. Rõ ràng bút tích của Mãn Hà Chí, vị hôn phu nàng. Trong thư, Mãn Hà Chí kể lể tại sao hắn không về làng được và xin rút lại lời hứa hôn để nàng có cơ hội đi lấy chồng khác. Mãn Hà Chí còn nói thêm hắn không dám gửi thư cho mẹ vì khó viết quá và nhờ Oa Tử chuyển lời nói với bà cụ hắn vẫn khỏe mạnh và hiện đang cư ngụ tại một tỉnh khác.

Đọc xong hai lá thư, Oa Tử bủn rủn cả chân tay, mắt đờ ra không chớp mà cũng không khóc. Những ngón tay cầm thư trắng bệch tựa da người chết nàng vừa thấy cách đây một lúc.

Thời gian trôi qua. Người làm trong bếp chẳng biết nàng đi đâu. Viên đội trưởng để thuộc hạ ngủ trong rừng, một mình trở về chùa đòi được cung phụng những tiện nghi xứng với cấp bậc của hắn. Nào nước tắm phải vừa nóng, món cá tươi mới bắt ở sông lên phải nấu cho khéo hợp với khẩu vị và rượu sa-kê phải là thứ ngon nhất xóm. Hầu hạ đội trưởng công phu lắm, dĩ nhiên Oa Tử phải gánh một phần trách nhiệm, nhưng bây giờ chẳng biết nàng ở đâu thành ra bữa ăn tối của đội trưởng bị trễ.

Đại Quán đi tìm Oa Tử chẳng phải vì quan tâm gì đến bữa ăn sớm hay muộn của viên đội trưởng nhưng vì lo cho Oa Tử. Chưa bao giờ Oa Tử đi đâu lâu mà không nói cho chùa biết. Đại Quán băng vườn sau, vừa đi vừa gọi. Nhiều lần qua phòng dệt thấy cửa đóng, ông cũng sơ ý không nhìn vào.

Sư cụ lộ vẻ hoảng hốt:

– Mô Phật ! Không thấy nó trong chùa. Hay thầy sai người xuống chân núi xem sao.

Nếu không có nó đứng hầu, đội trưởng không chịu uống rượu.

Đại Quán sai người cầm đèn xuống núi nhưng đồng thời cũng tự đi lục soát khắp chùa một lần nữa. Lần này ông không quên mở cửa ngó vào phòng dệt. Cảnh tượng bên trong làm ông giật mình:

Oa Tử gục đầu trên khung cửi, bất động. Đại Quán rón rén bước vào phòng, đứng lặng nhìn hai phong thư nhàu nát vật dưới đất như bị giầy xéo lên chẳng khác gì những hình nhân bằng giấy sau buổi cúng cháo thí. Nhà sư nhặt những phong thư, dịu dàng bảo Oa Tử:

– Có phải thư sáng nay không con ? Sao không cất đi ?

Oa Tử lắc đầu mệt mỏi.

– Ai cũng lo không biết con đi đâu. Ta đã tìm khắp nơi mà không thấy. Thôi, lên chùa đi. Ta biết con không thích nhưng con còn nhiều việc phải làm như hầu cơm đội trưởng chẳng hạn. Sư cụ đang cuống lên vì con đó !

– Con nhức đầu lắm … Thưa thầy con muốn được yên tĩnh … chỉ tối nay thôi.

Đại Quán thở dài:

– Thực ra ta nghĩ con chẳng có bổn phận gì phải hầu đội trưởng, dù tối nay hay bất kỳ tối nào khác. Nhưng sư cụ không nghĩ vậy. Người phải lo việc thế tục lại không đủ uy đức làm cho họ nể và giúp đỡ cho nên người thấy có bổn phận phải chăm sóc đội trưởng.

Và Đại Quán nhẹ nhàng vỗ vai Oa Tử:

– Sư cụ là người đã cưu mang con, tất nhiên con phải đền đáp. Mọi người đang đợi… Thôi, con lên chùa đi.

Oa Tử bất đắc dĩ đứng dậy. Mắt còn ngân lệ, nàng ngập ngừng nói:

– Con sẽ đến đó, nhưng thầy phải ở lại với con.

– Ta không thấy trở ngại. Có điều thằng “râu bàn chải” ấy chẳng ưa gì ta, mà mỗi khi thấy nó, ta chỉ muốn bảo thẳng vào mặt nó là bộ râu nó làm ta phì cười. Thật trẻ con, nhưng có những người làm ta có cảm giác như vậy !

– Con không muốn đến đó một mình.

– Sư cụ cũng ở đó mà !

– Vâng, nhưng mỗi khi con đến người lại bỏ đi.

– Hừ, vậy không tốt. Thôi để ta cùng đi với con. Bây giờ ra rửa mặt đi.

Khi Oa Tử lên đến chùa, viên đội trưởng đã ngà ngà say. Thấy nàng, nét mặt hắn tươi hẳn lên. Hắn sửa lại vành mũ lệch và đòi chuốc thêm rượu. Nhưng niềm vui của hắn không trọn vì có Đại Quán ngồi thu lu ở góc phòng, đầu cúi xuống đọc mãi miết một cuốn sách đặt trên đùi.

Cho đó chỉ là một chú tiểu vô danh trong chùa, viên đội trưởng hất hàm, sẵng giọng:

– Này chú kia !

Đại Quán vẫn chăm chú đọc. Oa Tử phải lấy khuỷu tay hích làm hiệu, nhà sư mới chậm rãi nhướng mắt:

– Đội trưởng gọi bần tăng ?

– Ừ, ta không cần ngươi. Đi chỗ khác.

Đại Quán làm bộ ngớ ngẩn:

– Bần tăng ngồi đây không phiền gì mà !

– Vậy hả ? Ngươi không cho là phiền hà ?

– Không ! Không phiền gì ! Nói xong, Đại Quán lại cúi xuống đọc sách.

– Nhưng ta, ta thấy phiền ! Hắn cao giọng. Có người đọc sách ngồi bên, ta uống rượu mất ngon !

– Mô Phật ! Vậy xin gấp sách lại.

– Ta không muốn …

– Hay để Oa Tử cất sách đi.

– Ta không nói sách ! Đồ ngu, ta nói mày. Thấy mày ta khó chịu.

Đại Quán nghiêm giọng:

– Rất tiếc bần tăng không làm được như Trang Chu, hóa thành bướm đậu lên mâm rượu của đội trưởng.

Bị chế nhạo, viên đội trưởng căm giận, cổ bạnh ra đỏ gay, mắt lồi trông như con cá nóc:

– Cút ngay ! Cút khỏi đây tức khắc !

Đại Quán điềm nhiên cúi đầu:

– Xin tuân lệnh.

Rồi cầm tay Oa Tử, nhà sư nói:

– Qúy khách đây muốn độc ẩm. Bậc hiền giả vốn ưa tĩnh mịch, ta chẳng nên làm rộn.

– Sao ? Sao ? Mày định …

– Đội trưởng bất bình chuyện gì vậy ?

– Ai cho phép mày dẫn Oa Tử đi, thằng ăn xin khốn nạn kia ?

Khoanh tay trước ngực, Đại Quán nhìn hắn khinh bỉ.

– Càng sống lâu ta càng thấy phái tăng lữ chẳng mấy ai coi được. Phái kiếm sĩ thì lại tệ quá ! Như nhà ngươi chẳng hạn !

Mắt viên đội trưởng tóe lửa:

– Mày nói gì vậy ?

– Ngươi có soi gương bao giờ không ? Có tự hỏi xem bộ râu ngươi có trông được không ?

Viên đội trưởng với tay ra phía sau, cầm thanh kiếm dựa bên vách:

– Mày liệu hồn !

Đại Quán liếc mắt nhìn hắn chống tay đứng dậy:

– Liệu hồn sao ?

Viên đội trưởng nắm đốc kiếm, hét:

– Rồi mày biết !

Đại Quán cười ngất trước cơn cuồng nộ của tên vũ biền, thong thả đáp:

– Nhà ngươi định chặt đầu ta chứ gì ? Ha ha ! Thật vô ích !

– Hả ? Mày nói gì ?

– Ta nói:

Thật vô ích. Vì không có gì phi lý hơn là chém đầu thầy chùa. Nếu ta có rơi đầu thì ta cũng vẫn cười, nhà ngươi chẳng giải quyết được gì mà võ công ấy có gì là oanh liệt ? Thật vô ích !

– Ít ra ta cũng khóa được cái mõm hỗn láo của nhà ngươi lại.

Hắn cười khành khạch, đầy vẻ tự mãn và kiêu căng của hạng người ỷ có vũ khí trong tay, lăm lăm cầm kiếm tiến đến trước mặt Đại Quán:

– Thôi chứ, đội trưởng !

Thái độ điềm tĩnh của nhà sư làm hắn càng uất, kiếm trên tay run lẩy bẩy. Oa Tử sợ hắn không dằn được cơn giận, chạy vội ra đứng giữa hai người mong dàn hòa và tìm cách che chở cho Đại Quán:

– Sao thầy lại nói với một kiếm sĩ như thế ? Nàng khẩn khoản. Thầy xin lỗi đội trưởng đi.

Nhưng Đại Quán vẫn tiếp tục:

– Tránh ra, Oa Tử, ta không hề gì đâu ! Ngươi tưởng cái thằng ngu xuẩn này có thể chém đầu ta được hay sao ? Chỉ huy cả hàng mấy chục người có vũ khí trong tay mà ròng rã gần tháng trời không bắt được tên phạm nhân kiệt lực sắp chết đói thì làm sao gạt ta nổi !

– Thằng kia ! Có giỏi cứ đứng đó ! Oa Tử tránh ra để ta xả thằng to mồm này ra làm hai mảnh.

Oa Tử quỳ xuống chân viên đội trưởng, van lạy:

– Xin đội trưởng bớt nóng, tha cho thầy Đại Quán. Thầy tâm trí không được bình thường, gặp ai cũng nói thế nhưng chẳng có tâm địa gì đâu !

Và nàng khóc nức nở.

Đại Quán vội chữa:

– Oa Tử lầm rồi. Ta hoàn toàn bình thường, ta chỉ nói sự thật mà sự thật thì khó làm cho người nghe lọt tai. Thằng này ngu thì ta gọi nó là đồ ngu, sao có thể gọi khác được. Như vậy chẳng hóa ra ta dối trá à ?

– Mày nhắc lại câu nói ấy là ta giết ngay, đừng hỗn !

– Ta thích nói thì cứ nói, đâu sợ ! Đối với tụi lính tráng như ngươi, bắt được Thạch Kinh Tử hay không cũng chẳng hề gì, nhưng đối với những nông dân ở đây, chúng bây là một gánh nặng cho họ. Nếu cứ tiếp tục như thế này, ta đoan chắc vụ mùa này sẽ thất thu và rồi đói cả làng ! Ngươi là cấp chỉ huy mà không nghĩ gì đến chuyện họ phải bỏ tất cả công việc để đi “săn vịt trời” cho nhà ngươi. Thật xấu hổ !

– Câm mồm lại ! Mày muốn phỉ báng chính quyền Tôn gia hả ?

– Ta không chỉ trích chính quyền Tôn gia, ta chỉ chê những tên vô dụng như ngươi, ăn cơm của Tùng Tôn gia để bảo vệ dân mà làm không được việc. Ngươi không xứng đáng với đồng lương được lãnh. Thứ nhất, lấy danh nghĩa gì mà ngươi la cà trong chùa, ăn ngon mặc đẹp, đòi phải có gái tơ hầu rượu trong khi quân sĩ của ngươi vất vả ngoài rừng. Như vậy là phục vụ chủ soái đó sao ?

Viên đội trưởng đứng yên lặng không nói.

– Bổn phận của một kiếm sĩ phải chăng là trung thành và tích cực phụng sự chủ soái, lo bảo vệ dân đang khốn khổ nai lưng ra làm lụng để đón góp giữ vững quyền lực Tôn gia ? Ngươi bắt họ bỏ bê công việc, những công việc mà nếu không làm họ sẽ không có ăn. Ngươi làm ngơ trước sự vật vả của thuộc cấp, lợi dụng địa vị để có phì mã với khinh cừu, ở nhà tốt, uống rượu ngon. Ta nói thẳng:

ngươi chỉ là hạng tồi bại, thối nát, vị kỷ, mượn danh thượng cấp để mưu cầu tư lợi mà thôi !

– …

– Bây giờ hãy chặt đầu ta đi ! Mang đầu ta đến trình cho Tùng Tôn gia rõ. Ngài sẽ hỏi mình ta đâu, bấy giờ ngươi khó mà giải thích. Chắc ngươi không rõ ta đã nhiều lần uống trà với Tôn gia ở Mẫn Giác tự và là bạn thân của người khi ta còn trụ trì tại chùa Đại Từ.

“Râu bàn chải” nghe Đại Quán nói, nửa tin nửa ngờ nhưng cũng hơi ngán, đứng im có ý sợ. Cơn say đã bớt đi nửa.

Đại Quán được thể, tấn công luôn:

– Bây giờ đội trưởng hãy ngồi xuống. Nếu không tin, ngày mai ta sẽ đích thân đi với đội trưởng đến yết kiến Tôn gia và mang biếu Tôn gia một ít nếp than ta biết người rất thích. Thực ra ta cũng chẳng muốn, nhưng nếu gặp người, ta không thể nói dối. Nếu chuyện này đến tai Tôn gia, ta e ngươi sẽ phải tự xử vì đã tỏ ra bất lực trước nhiệm vụ.

Ngay từ trước, ta đã khuyên ngươi chớ có dọa ta nhưng các ngươi có bao giờ suy nghĩ sâu và lường hậu quả đâu. Nào, bỏ gươm xuống, ta có chuyện khác muốn nói.

Như bị thôi miên, viên đội trưởng dựng kiếm vào vách rồi ngồi vào chỗ cũ.

– Chắc đội trưởng không lạ gì binh pháp của Tôn Tử, nhà chiến lược nổi danh của Trung quốc. Binh gia cấp bậc như đội trưởng tất phải đọc qua. Vì thế ta chỉ lưu ý đội trưởng về một nguyên tắc rất quan trọng trong sách. Ta sẽ chỉ cách cho đội trưởng bắt Thạch Kinh Tử mà không tốn thêm một người nào nữa và khỏi làm phiền đến dân làng.

Vì là nhiệm vụ của đội trưởng, hãy nghe cho kỹ.

Rồi quay sang Oa Tử, Đại Quán bảo:

– Oa Tử, rót cho đội trưởng chung rượu.

Viên đội trưởng trạc tứ tuần, hơn Đại Quán đến gần chục tuổi, nhưng trông nét mặt hai người lúc bấy giờ thấy rõ sức mạnh tinh thân không đợi tuổi tác. Những lời đanh thép của Đại Quán làm cho viên đội trưởng cảm thấy mình hèn mọn và tội lỗi. Bao nhiêu dáng điệu hung hăng trước tự nhiên biến mất.

– Thôi, không uống nữa. Ta tin ngươi là bạn của Tôn gia. Tha lỗi cho ta tội lỗ mãng khi nãy, ta sợ đã quá chén.

Đại Quán không nói thêm, chỉ khẽ bảo:

– Bỏ chuyện ấy đi. Bây giờ hãy bàn cách bắt Thạch Kinh Tử, vì đó là chủ ý và cũng là cách bảo toàn danh dự cho đội trưởng, đúng thế không ?

– Đúng.

– Chắc đội trưởng không quan tâm mấy đến việc bắt Thạch Kinh Tử sớm hay muộn. Muộn có lẽ tốt vì đội trưởng có thì giờ lưu lại chùa ăn uống thỏa thuê và ngắm Oa Tử.

– Thiền sư đừng nhắc đến chuyện ấy nữa, nhất là trước mặt Tôn gia.

Viên đội trưởng có vẻ thành khẩn.

– Được rồi, ta sẵn sàng giữ kín chuyện. Nhưng nếu ngày nào ngươi cũng cứ trưng tập dân làng đi làm một việc thật vô ích thì tai hại lắm. Không phải chỉ nông dân bị thiệt mà còn nhiều người khác nữa. Họ lo sợ không còn lòng nào làm việc. Chỉ vì ngươi đã dùng sai chiến thuật hay chẳng hiểu chiến thuật gì hết. Nếu ta không lầm thì có lẽ ngươi chưa đọc binh pháp ?

– Quả vậy !

– Đáng thẹn ! Đáng thẹn ! Đội trưởng mà kiến thức nông cạn như thế thật đáng thẹn. Vậy không nên bàn thêm nữa làm gì. Ta chỉ có một đề nghị:

ta sẽ thay ngươi bắt Thạch Kinh Tử trong vòng ba ngày !

– Thầy mà bắt được Thạch Kinh Tử ?

– Ngươi tưởng ta đùa chăng ?

– Không, nhưng …

– Nhưng sao ?

– Kể cả quân tiếp viện từ Hameji đến và dân làng luân phiên lùng kiếm có đến hàng trăm người suốt gần tháng nay mà không bắt được Thạch Kinh Tử …

– Ta biết chuyện đó.

– Bây giờ mùa xuân, thức ăn trên núi không thiếu, Thạch Kinh Tử có thiên thời, khó lắm …

– Vậy ngươi đợi đến mùa tuyết hay sao ? Còn những tám tháng nữa …

– Không ! Làm sao đợi được !

– Dĩ nhiên ! Vì vậy ta mới đề nghị thay ngươi để bắt hắn. Ta không cần ai giúp, một mình ta sẽ làm chuyện đó. Hay nghĩ cho cùng, có thể nhờ Oa Tử một tay cũng được.

– Thầy không nói giỡn đấy chứ ?

– Đại Quán này không phải lúc nào cũng nói giỡn. Ta tin là ngươi đã thất bại thảm hại cũng chỉ vì không biết cách dụng binh. Ta tuy là thiền sư nhưng cũng tự hào lý hội được phần nào ý của Tôn Tử. Nhưng với một điều kiện, nếu ngươi không thuận, ta sẽ không làm, để tùy ngươi ngồi chờ ngày tuyết rơi và cái đầu ngươi cũng rụng luôn thể.

– Hừ … điều kiện gì ?

– Bắt được tên đó, phải để ta quyết định số phận hắn.

Viên đội trưởng lấy tay gãi râu, suy nghĩ:

– Thế là thế nào ?

Những ý tưởng hắn lộn xộn trong trí. Làm sao biết được nhà sư kia không gạt hắn ?

Y nói thì hùng biện lắm nhưng có thể là một thằng khùng hay bạn đồng lõa với Thạch Kinh Tử và biết chỗ ẩn nấp của nó. Nhưng dù sao, cứ để y thi hành cái kế điên khùng ấy cũng chẳng hại gì. Biết đâu đến phút chót y chẳng bỏ cuộc ?

Nghĩ vậy, viên đội trưởng gật đầu:

– Được ! Nếu bắt được, thầy cứ định đoạt số phận hắn. Nhưng trong ba ngày, nếu không bắt được thầy tính sao ?

– Ta nguyện sẽ chịu chết treo trên cành cây đại bách sau chùa.

Hôm sau, mới sáng sớm, chú tiểu đã hớt hải chạy xuống bếp báo tin:

– Hỏng rồi ! Thầy Đại Quán mất trí rồi ! Thầy hứa đi bắt Thạch Kinh Tử cho đội trưởng.

Mọi người trố mắt:

– Thật không ?

– Mô Phật. Vọng ngôn là phạm vào ngũ giới đấy, chú đừng nói bậy.

– Thầy Đại Quán làm sao mà bắt được Thạch Kinh Tử !

Đa số mỉm cười không tin, nhưng cũng có người thì thầm lo ngại. Sư cụ lắc đầu, cho rằng miệng lưỡi chúng sinh quả là nhân duyên của nhiều nghiệp chướng.

Nhưng Oa Tử bối rối hơn cả. Mới hôm qua thư Mãn Hà Chí đến đã làm nàng đau xót hơn là tin hắn chết. Nàng tin tưởng vào mối tình chung thủy của vị hôn phu và chấp nhận về làm dâu nhà Hồ Điểu, nhưng bây giờ …bây giờ nàng biết than thở cùng ai ?

Trong cơn thất vọng, nàng chỉ thấy còn Đại Quán là niềm an ủi duy nhất, tia sáng cuối cùng mà nàng trông cậy. Hôm qua ở phòng dệt, Oa Tử đã khóc hết nước mắt và điên cuồng, cầm dao rạch nát tấm áo kimono mà trong những tháng gần đây, nàng đã để hết tâm hồn tạo nên. Nàng đương có ý định đâm cổ tự vẫn thì Đại Quán đến. Những lời an ủi và thương xót của nhà sư làm nàng nguôi ngoai đôi chút, cánh tay trìu mến vỗ vai nàng truyền một hơi ấm dễ chịu nàng tưởng như vừa được nghe những lời khuyên bảo của đấng Từ Bi.

Thế mà bây giờ thầy Đại Quán lại hứa làm chuyện điên rồ ấy ! Oa Tử lo sợ mất người bạn độc nhất còn lại. Nàng cảm thấy bối rối vừa vì sự an nguy của nhà sư vừa vì sự an nguy của chính nàng. Người bình thường không ai tin được Đại Quán và nàng có thể bắt được Thạch Kinh Tử trong một thời gian ngắn như thế.

Hơn nữa, Đại Quán còn dám đến miếu thần linh thề với “Râu bàn chải” trước bàn thờ, cái đó mới thật liều lĩnh. Oa Tử trách Đại Quán quá táo bạo nhưng nhà sư chỉ mỉm cười, nói rằng chẳng có gì đáng quan ngại.

Ông có ý muốn giải thoát cho dân làng khỏi một gánh nặng, để cho đường xá an ninh hơn và nhất là chấm dứt những vụ giết người vô ích. So với số người khỏi bị Thạch Kinh Tử tàn sát, mạng nhà sư thật chẳng đáng gì. Đại Quán muốn Oa Tử hiểu ý ấy, khuyên nàng đi nghỉ sớm để chiều hôm sau lên đường và mong nàng hết lòng tin tưởng nơi ông.

Oa Tử quá xúc động, không phản đối. Nếu cứ ở lại chùa, nàng còn bối rối lo âu hơn, thà đi với Đại Quán.

Hôm sau đã quá ngọ, nhà sư vẫn còn ngủ say trong góc phòng với con mèo nằm cạnh. Nét mặt tiều tụy, Oa Tử đi ra đi vào. Sư cụ và những người giúp việc trong chùa, ai cũng can Đại Quán, khuyên nên trốn đi, nhưng Oa Tử không hiểu sao, đã không thêm ý kiến gì khác.

Bóng chiều xuống nhanh. Khe núi hai bên ven sông Aida bắt đầu đổi màu đen sẫm. Con mèo nằm cạnh Đại Quán trở dậy vươn vai nhẩy ra khỏi cửa, và chẳng bao lâu sau, nhà sư cũng bước ra hiên ngoài.

– Oa Tử, ta sắp sửa đi thôi !

– Vâng. Con đã sửa soạn xong hết:

giầy cỏ, gậy, xà cạp, giấy dầu … đủ cả.

– Ngươi còn quên một thứ.

– Gì vậy ? Chắc thầy muốn mang thêm vũ khí, thanh gươm hay cây giáo …

– Không. Ta muốn mang thêm chút thức ăn. Ta đi bắt giặc mà ! Đâu phải đi du ngoạn !

– Ấy thế mà cần lắm đấy. Ta muốn con mang thêm gạo, đậu muối và chút sa-kê nữa. Có cái gì ngon ngon cứ mang theo. Cả nồi niêu. Nhớ gói thành gói lớn rồi kiếm cái gậy để ta với con khiêng.

Trời tối đã lâu. Những ngọn núi gần chùa đen như mực, cắt rõ trên nền trời xám đục. Dãy núi xa nhạt màu hơn, lẩn trong sương đêm mờ ảo. Tiết quý xuân, trời mát, gió thổi hiu hiu thoảng đưa mùi hương nồng ấm và ngai ngái của đồng nội. Những lá tre đã bắt đầu thấm ướt sương đêm. Đại Quán và Oa Tử càng đi sâu vào triền núi càng thấy quang cảnh như chìm trong một màn mộ vũ, lá rừng loang loáng dưới mưa xuân.

Hai thầy trò kẻ trước người sau gánh chiếc đòn tre treo lủng lẳng một bọc lớn, khấp khểnh theo nhau trên con đường khúc khuỷu.

– Tối nay trời êm đi du ngoạn thật đẹp, phải không Oa Tử ?

– Cũng chẳng đẹp lắm, nhưng chúng ta đi đâu vậy thầy ?

Đại Quán dừng chân, suy nghĩ:

– Ta chưa có định kiến. Có lẽ tiến tới chút nữa tốt hơn.

– Không sao. Đi thêm nữa cũng được.

– Con không mỏi chân chứ ?

– Không.

Tuy nói thế nhưng Oa Tử thật không thoải mái. Cây đòn cứng và nặng làm nàng phải đổi vai luôn.

– Lính đâu cả ấy nhỉ ? Từ nãy đến giờ đã lâu mà chẳng gặp ma nào !

– Chắc “Râu bàn chải” gọi họ về hết rồi, để mặt ta rảnh tay trong ba ngày. Thầy Đại Quán ! Thế kế bắt Thạch Kinh Tử của thầy ra sao ?

– Yên tâm, chớ ngại. Ta có cách làm Thạch Kinh Tử sớm muộn gì cũng phải ra mặt.

– Nếu hắn không ra thì sao ? Bị bao nhiêu người săn bắt bấy lâu nay, hắn tới đường cùng rồi ! Hắn chẳng nghe lời ai, thế nào cũng chống lại kịch liệt. Hắn còn khỏe lắm, cứ nghĩ đến con đã bủn rủn cả chân tay.

– Cẩn thận ! khéo ngã !

Tiếng Đại Quán đột nhiên làm Oa Tử giật mình khựng lại.

– Trời ơi, cái gì vậy ? Thầy làm con hết hồn !

– Không sao. Ta muốn lưu ý con đi cho cẩn thận. Thạch Kinh Tử chưa thò mặt ra đâu, nhưng ở đây nhiều bẫy và bụi gai lắm, lỡ chân thì khốn.

– Lính giăng bẫy bắt Thạch Kinh Tử hay sao ?

– Ừ. Nếu không chú ý, không chừng chính chúng ta lại rơi vào bẫy của họ.

– Thôi thầy đừng nói nữa, con sợ chẳng dám bước đâu !

– Nói vậy chứ nếu có sập bẫy, ta sẽ rơi trước, ngươi đừng theo ta là được !

Và Đại Quán quay lại cười hì hì.

– Thật vô ích, phí sức mà chẳng được việc gì.

Hai người lại lầm lũi đi. Một lúc sau Đại Quán hỏi:

– Hình như đường hẹp hơn trước phải không Oa Tử ? Đây là đâu rồi ?

– Con không biết, nhưng đã quá đồi Sanumo lúc nãy. Đây chắc là Tsujinohara.

– Như vậy ta phải đi cả đêm chắc ?

– Con có biết thầy định đi đâu đâu ? Sao thầy lại hỏi con ?

– Hay ta đứng lại nghỉ chân chút đã ?

Để bọc vải và đòn tre xuống đất xong, Đại Quán men đến gần một ghềnh đá.

– Thầy đi đâu thế ?

– Tiểu.

Hàng chục trượng dưới chân nhà sư, giòng sông Aida cuồn cuộn chảy, nước đổ như thác từ mỏm đá này đến mỏm đá khác. Đại Quán vừa đi tiểu vừa ngửa mặt lên trời đếm sao, thấy trong lòng lâng lâng khoái hoạt.

– Chà ! Thật dễ chịu ! Không biết ta đang hợp nhất với vũ trụ hay là vũ trụ đang hợp nhất với ta ?

– Thầy Đại Quán ! Sao lâu thế ?

Đại Quán trở ra, dáng trầm ngâm:

– Trong khi tiểu, ta ôn lại kinh Dịch. Bây giờ đã rõ đường đi, thật sáng như ban ngày.

– Thầy mang theo kinh đấy à ?

– Ngươi dốt quá ! Ta nói kinh Dịch trong lòng chứ đâu phải kinh sách ! Đứng ở ghềnh đá ngoài kia, xem kỹ thế đất, chỗ nước chảy và chiều trời, ta đã biết chỗ nấp của Thạch Kinh Tử, và có thể khẳng định “đến chỗ ấy” !

Rồi Đại Quán lấy tay chỉ mỏm núi.

– Thầy muốn đến mỏm Takateru hả ?

– Ta không biết tên. Nhưng chỗ mỏm núi ở lưng chừng có đám rừng thưa ấy !

– Vâng. Chỗ đó là bãi hoang Itadori.

– Vậy hả ? Bãi đó cũng có tên ư ?

Khi hai người tới triền núi mới thấy rõ bãi hoang thực ra là một đồng cỏ trải dài thoai thoải về phía đông nam, từ đấy có thể bao quát cả vùng lân cận. Các trại chủ quanh vùng hay thả bò, ngựa đến ăn cỏ, nhưng tối hôm ấy chẳng thấy bóng một sinh vật nào, chỉ có gió đêm thổi nhẹ làm xào xạc rặng lau thưa.

– Ta hại trại ở đây thôi ! Chờ địch quân rơi vào tay ta như Khổng Minh tiên liệu Tào Tháo chạy vào đường hẻm Hoa Dung vậy !

Đặt gánh và xếp dọn xong, Oa Tử hỏi:truyện audio

– Bây giờ phải làm gì, thầy ?

– Ngồi xuống đây chứ làm gì !

– Thầy nói lạ. Ngồi đây làm sao bắt được Thạch Kinh Tử ?

– Giăng lưới tất bắt được chim, cần gì bay mới bắt được !

– Thế lưới đâu ? Chắc thầy bị chồn hớp hồn rồi !

– Đốt lửa lên con ạ ! Nếu ta bị chồn hớp hồn thì có lửa, chắc nó sẽ chạy mất, không sao !

Hai thầy trò nhặt củi khô, chụm lại nhóm lửa. Có việc làm và nhìn ngọn lửa bốc cao, Oa Tử tự nhiên thấy phấn khởi:

– Ấm hơn phải không thầy ? Ở trong rừng mà cứ phải chui rúc chỗ tối tăm, chịu sao nổi ! Nhưng ngộ mưa thì sao ?

– Gần đây ta thấy có cái hang nhỏ có thể đến trú mưa được.

– Thầy nói đúng. Có lẽ Thạch Kinh Tử chọn chỗ này vì nhiều hang hốc, dễ trốn tránh.

– Dĩ nhiên rồi ! Nó không khôn lắm nhưng cũng biết cách đụt mưa chứ !

Oa Tử đăm chiêu:

– Không hiểu sao dân làng ghét hắn đến thế ?

– Một phần do giới cầm quyền đẩy họ. Dân quê vốn chất phác, quan trên bảo sao thì làm vậy. Nếu ra chiếu chỉ bắt họ phải từ bỏ người thân trong nhà, chắc họ cũng làm.

– Như thế là họ chỉ nghĩ đến bản thân mình thôi hay sao ?

– Thực ra họ chẳng có tội gì. Họ thấp cổ bé miệng, không có quyền hành, mình cũng phải rộng lượng cho đó là sự đương nhiên, một phương cách để tự vệ. Họ chỉ ước có một điều:

được yên ổn làm ăn không bị ai quấy rầy.

– Thế binh gia kiếm sĩ làm gì mà phải náo động lên vì một chuyện nhỏ, không đáng kể như chuyện cá nhân Thạch Kinh Tử ?

– Thạch Kinh Tử tượng trưng cho sự hỗn loạn, phá hoại trật tự của phái kiếm sĩ cầm quyền. Sau trận Sekigahara, hắn bị ám ảnh bởi mặc cảm bị ruồng rẫy, bị săn đuổi như thú vật. Hắn đã phạm vào một lỗi lầm lớn là phá hàng rào cản ở biên giới. Khôn ra thì nên tìm một kế gì đó mà lẩn trốn, hoặc cải trang, hoặc lợi dụng bóng tối ban đêm, mưa gió … cách gì cũng được, nhưng đừng dùng vũ lực. Thạch Kinh Tử không nghĩ thế, hắn đánh tên lính gác rồi xuống tay giết thêm nhiều người nữa, thành ra chuyện nọ kéo chuyện kia, bây giờ như cục tuyết lăn từ núi xuống, càng ngày càng lớn. Mà hắn vẫn tưởng phải làm thế mới cứu được mạng sống của hắn. Tựu trung cũng chỉ vì hắn cạn nghĩ.

– Thầy cũng ghét Thạch Kinh Tử à ?

– Ghét sự ngu xuẩn của hắn. Nếu ta nắm quyền chính, ta sẽ cho hắn nếm mùi hình phạt nào nặng nhất. Hắn chẳng khác gì con thú dữ. Làm nhà cầm quyền, phải biết duy trì trật tự xã hội, nếu không, sao bảo vệ được dân lành, nhất là trong thời buổi tao loạn như thế này !

– Con tưởng thầy tốt, không quan tầm gì đến luật lệ, hóa ra trong thâm tâm, thầy khắc nghiệt quá lắm !

– Sao ta lại không quan tâm đến luật lệ ? Khuyến thiện trừng ác là cần, mà cũng vì lý do ấy chúng ta mới đến đây chứ !

Đột nhiên Oa Tử hạ giọng:

– Có tiếng chân bước sau gốc cây.

– Tiếng chân bước ?

Đại Quán ngạc nhiên, nghe ngóng rồi chạy ra phía gốc cây, lúc sau trở lại cười ha hả:

– Không phải người đâu ! Khỉ đấy !

Và lấy tay chỉ một con khỉ mẹ đương bế con đánh đu trên cành cây.

Oa Tử thở mạnh, ngồi xuống:

– Thế mà con tưởng … Sợ quá !

Rồi hai thầy trò lại ngồi yên, mắt đăm đăm nhìn lửa cháy bập bùng nhảy nhót trên đám củi khô. Họ bỏ thêm củi vào cho lửa bốc to hơn.

– Con đương nghĩ gì thế, Oa Tử ?

– …

– Ta ít nói, nhưng thật ra cũng rất sợ phải độc thoại.

Khói củi làm Oa Tử cay mắt. Nàng ngửa mặt nhìn trời đầy sao lấp lánh, khẽ thở dài:

– Tạo vật thật kỳ diệu, thầy nhỉ ! Những vì sao trên kia, trong khoảng không vô tận… Không, con lầm, không phải khoảng không. Vũ trụ thật tròn đầy, ôm ấp ta, phải không thầy ? Trông những ngôi sao lấp lánh, con thấy chúng như đang chuyển động và vũ trụ cũng chuyển động theo. Và thầy với con trong vũ trụ bao la này là hạt bụi, hạt bụi nhỏ nhoi do một đấng quyền năng nào điều khiển mà con không thấy được. Đúng lúc này, ngồi đây, con cảm thấy số phận con như đang bị xoay vần từng chút, từng chút. Ý nghĩ con bị quay cuồng không biết đâu là nhân đâu là quả nữa !

Đại Quán nghiêm nghị:

– Oa Tử, con không nói thật. Con tuy có những ý tưởng ấy nhưng ta biết con còn nghĩ đến một chuyện khác.

Oa Tử ngồi yên không đáp.

– Xin lỗi, ta hơi tò mò. Ta đã đọc hai lá thư của con.

– Ý ! Thầy đọc rồi à ? Hồi nào vậy ? Dấu niêm còn nguyên mà !

– Ta đọc sau khi ở phòng dệt ra. Vì con không muốn giữ nữa nên ta đã bỏ chúng vào tay áo để đọc chơi lúc rảnh.

– Xấu quá ! Sao thầy lại có thể làm việc ấy được, nhất là để đọc chơi lúc rảnh.

– Xấu hay không xấu, không quan hệ. Bây giờ ta đã biết tại sao con khóc đến thế.

Nhưng thôi, đó là may cho con, thà là chuyện xảy ra như vậy. Con thử nghĩ coi.

– Thầy bảo nghĩ gì ?

– Mãn Hà Chí là tên vô trách nhiệm. Nếu con lấy nó, thế nào cũng có ngày nó bỏ con, bấy giờ con phản ứng ra sao ? Đừng nói, ta biết. Con sẽ thất vọng nhảy xuống ghềnh đá mà chết. Bây giờ xong rồi, ta mừng rằng chuyện đó kết thúc như vậy.

– Đàn bà nghĩ khác, thầy ạ.

– Nghĩ thế nào ?

– Lúc bấy giờ con giận lắm, muốn hét to cho hả.

Nàng không dằn được cơn tức bực, nghiến răng cắn lấy áo cho khỏi khóc.

– Con đã thề thế nào cũng phải gặp Mãn Hà Chí. Con sẽ mắng vào mặt và nói cho hắn biết con nghĩ sao về hắn. Cho đáng đời và đáng với dã tâm của con mẹ Ôkô.

Oa Tử bật lên khóc nức nở. Đại Quán nhìn nàng thương hại, lẩm bẩm:

– Đã bắt đầu rồi đấy phải không ?

Mắt đăm đăm nhìn ngọn lửa, nhà sư thong thả nói:

– Oa Tử, ta thực tâm hằng mong con tránh được mọi nỗi đau thương và dối trá, để bản chất ngây thơ và nhu hòa của con được nguyên vẹn trên những bước đường con đi ở đời này. Nhưng cơn gió phũ phàng của định mệnh hình như không muốn buông tha con và đã lay chuyển con như đã lay chuyển thân phận của nhiều người khác !

– Đại Quán ! Thầy Đại Quán, con khổ lắm !

Nàng gục đầu vào hai tay, thổn thức.

Sáng hôm sau, mặt trời vừa ló dạng, hai thầy trò rút vào hang nằm nghỉ sau một đêm canh thức. Oa Tử mệt mỏi vì khóc nhiều. Đêm thứ hai, họ lại ra chỗ trống đốt lửa, rồi ban ngày lại trở về hang. Họ không thiếu thực phẩm, nhưng Oa Tử tỏ vẻ băn khoăn không biết Đại Quán dùng cách gì để bắt Thạch Kinh Tử. Đại Quán, trái lại, vẫn điềm nhiên, không nóng nảy khi không thấy phạm nhân. Đêm thứ ba, hai thầy trò lại đốt lửa canh thức như những đêm trước.

Oa Tử không kiên nhẫn được nữa:

– Thầy Đại Quán, đêm nay là đêm chót. Mai hết hạn rồi đấy !

– Hừ … đến hạn rồi à ?

– Thầy định sao chứ ?

– Định gì ?

– Thì thầy biết đấy. Thầy hẹn đội trưởng ba ngày …

– Dĩ nhiên, dĩ nhiên …

– Nếu ta không dẫn được Thạch Kinh Tử về …

– Ta biết chứ. Ta sẽ tự treo cổ trên cây đại bách. Nhưng yên chí, ta chưa sẵn sàng chết đâu !

– Vậy sao thầy không đi tìm Thạch Kinh Tử ?

– Nếu ta đi tìm, biết có thấy hắn không ? Núi non trùng điệp thế kia …

– Con chẳng hiểu được thầy. Nàng cười. Nhưng con cũng cảm thấy vững tâm ngồi đây mặc cho chuyện ra sao thì ra.

Rồi cười to hơn:

– Có lẽ con cũng điên theo thầy mất !

– Ta đâu có điên. Ta chỉ cả gan một chút. Quan trọng là ở đó !

– Chỉ vì cả gan mà thấy dám làm chuyện này đấy ư ?

– Đúng vậy.

– Chỉ vì cả gan thôi ! Thật chẳng đáng khích lệ chút nào. Con lại tưởng thầy có kể gì hay lắm chứ !

Oa Tử thất vọng ra mặt. Nàng tin tưởng vào Đại Quán, không ngờ sự thể lại xẩy ra như vậy. Hay là nhà sư này điên thật. Nhiều khi có những người điên làm cho người khác tưởng họ là bậc kỳ tài. Đại Quán có thể vào hạng này lắm. Và Oa Tử bắt đầu nghi hoặc, tìm cách tự cứu.

Trong khi đó, nhà sư vẫn điềm nhiên ngồi nhìn lửa cháy. Một lúc sau ông mới lẩm bẩm một mình:

– Khuya rồi nhỉ ?

– Vâng, khuya rồi. Chẳng bao lâu nữa thì sáng !

Oa Tử cay đắng thêm, và nàng tự trách sao lại ngu xuẩn đi tin ông sư điên khùng này.

– Kỳ thật !

– Thầy nói gì nữa thế ?

– Ta đột nhiên có cảm giác Thạch Kinh Tử sắp tới.

– Chắc hắn quên giờ hẹn với thầy đấy mà !

Không thấy Đại Quán mỉm cười, Oa Tử hối hận, dịu giọng:

– Thầy chắc hắn tới không ?

– Dĩ nhiên là cái chắc.

– Tại sao hắn ngu nhảy vào bẫy như vậy ?

– Không phải hắn ngu. Đó chỉ là bản chất con người. Lòng người vốn yếu chứ không mạnh. Bản chất con người không chịu được cô đơn, nhất là khi bị bao vây tứ phía. Có thể con cho là tự nhiên, nhưng ta sẽ lấy làm lạ nếu hắn không mò đến sưởi ấm bên đống lửa này.

– Thầy mong thế thì tưởng thế chứ. Biết đâu hắn không ở cách xa đây hàng chục dặm.

– Không, không phải ta mong thế thì tưởng thế đâu. Đây không phải là ý kiến ta nhưng là ý kiến của một bậc thầy về chiến thuật.

Nghe Đại Quán nói một cách tin tưởng như thế, Oa Tử cũng đỡ lo lắng.

– Ta nghĩ rằng Thạch Kinh Tử cũng chỉ quanh quẩn đâu đây thôi, nhưng hắn chưa biết chúng ta là thù hay bạn. Hắn đang phân vân không biết nên tiến hay lùi. Ta đoan chắc với con rằng giờ phút này, hắn đương nấp ở đâu đó trong bóng tối để nhìn trộm chúng ta đấy. À, nghĩ ra rồi. Con đưa ta mượn cây sáo.

– Cây sáo trúc của con ?

– Ừ, cho ta mượn thổi một bài.

– Không được. Không bao giờ con cho ai mượn.

– Sao vậy ?

Oa Tử lắc đầu:

– Con không nói lý do được !

– Để ta thổi một bài, có sao đâu ? Sáo càng dùng nhiều càng tốt, ta không làm hỏng đâu !

– Không !

Và nàng đưa tay giữ chặt chiếc túi đựng cây sáo giắt ở thắt lưng.

Đại Quán ngạc nhiên. Ông biết Oa Tử quý cây sáo lắm, đi đâu cũng mang theo, nhưng không ngờ nàng lại nhất định không cho ông mượn. Nhà sư phải năn nỉ:

– Ta không làm hỏng sáo của con đâu. Trước đây ta đã dùng qua hàng chục chiếc; ta chỉ mượn một lúc thôi.

– Không.

– Nhất định ?

– Nhất định.

– Cô này bướng quá !

– Thì con bướng thế đấy !

Đại Quán đành chịu thua:

– Vậy con thổi ta nghe một bản. Chỉ một bản thôi.

– Cũng không được.

– Tại sao thế ?

– Vì … vì cứ thổi sáo thì con lại xúc động phát khóc. Con không thể nào khóc mà thổi sáo được !

Đại Quán ngồi yên, dáng đăm chiêu suy nghĩ.

– Hừ …

Cảm thông sự trống trải vô cùng trong tâm hồn những đứa trẻ côi cút, nhà sư càng thêm thương xót Oa Tử. Những đứa con côi như thế suốt đời bị đà y đọa trong một ước mơ không bao giờ đạt:

tình yêu thương của cha mẹ chúng hằng thiếu thốn. Tuy không biết cha mẹ là ai nhưng Oa Tử không lúc nào là không nghĩ đến. Cây sáo trúc là kỷ vật độc nhất cha mẹ nàng để lại, hình ảnh của những người thân nàng chưa từng biết mặt.

Khi mới mở mắt chào đời, Oa Tử đã như con mèo hoang, bị bỏ rơi trước thềm chùa Tiểu Sơn với một cây sáo trúc đặt nằm cạnh. Cây sáo là sợi dây liên lạc duy nhất giúp nàng nhận diện được người thân, hơn thế nữa, nhận được tiếng của song thân mà nàng không hề biết.

“Thảo nào mỗi khi thổi sáo, Oa Tử lại khóc. Thảo nào nàng không cho ai mượn sáo!”. Và Đại Quán lại càng thêm thương cảm.

Đêm thứ ba trong rừng, lần đầu tiên, vầng trăng trong như ngọc hiện ra, rực rỡ trên nền trời cao. Đàn ngỗng trời thiên di về phương nam trong mùa thu, nay thấy tiết xuân ấm áp, đã bắt đầu trở lại, tiếng kêu đồng vọng trên những tầng mây xa.

Đại Quán chợt tỉnh giấc mơ. Ông khẽ gọi Oa Tử:

– Lửa sắp tàn rồi, con bỏ thêm củi vào ! Kìa, con sao thế ?

Oa Tử không đáp.

– Con khóc đấy ư ?

Vẫn không có tiếng trả lời.

– Ta rất ân hận đã gợi lại quá khứ làm con đau lòng. Ta không có ý ấy.

– Không sao đâu thầy. Đáng lẽ con chẳng nên bướng như thế mới phải. Đây, thầy cầm lấy sáo mà thổi.

Nàng lấy cây sáo trong bọc ra, đưa cho Đại Quán. Cây sáo được gói trong một cái bao gấm cũ, đường chỉ và dây đeo đã sờn nhiều chỗ, nhưng tất cả vẫn còn mang một vẻ thanh lịch tàn tạ.

Đại Quán hỏi:

– Ta mở được không ?

– Vâng, thầy cứ mở. Bây giờ chẳng còn gì quan trọng nữa.

– Con thổi đi. Để con thổi ta ngồi đây nghe có lẽ hơn.

Nhà sư cúi đầu, tay bó gối, yên lặng. Oa Tử khiêm tốn:

– Con thổi không hay lắm, nhưng xin cố gắng, thầy đừng cười.

Nàng trịnh trọng quỳ xuống cỏ, xốc lại cổ áo, đặt cây sáo trước mặt rồi kính cẩn cúi đầu. Đại Quán ngồi yên như tượng, tâm hồn ông để tận đâu đâu, như tan biến vào không gian cô tịch. Trong cái hun hút của đêm sâu, hình ông ngồi đó mà thật chẳng khác gì phiến đá ở sườn non.

Đầu hơn nghiêng, Oa Tử đưa cây sáo trúc lên môi. Bây giờ nàng là hiện thân của nghệ thuật, quyền uy và chững chạc. Nàng khẽ thấm ướt miệng sáo rồi quay lại Đại Quán nghiêng đầu xin lỗi một lần nữa. Nhà sư trang trọng đáp lễ theo nghi thức.

Trong bầu không khí tĩnh mịch của đêm khuya, tiếng sáo bắt đầu nổi lên, trong vắt. Những ngón tay búp măng thoăn thoắt nhẹ nhàng nhảy múa trên ống trúc. Đại Quán thấy tâm hồn phiêu diêu theo điệu sáo bay vút tận trời xanh, vương vấ n cùng mây ngàn trên những đỉnh cao sơn thanh khiết. Khi trầm, tiếng sáo tựa nước chảy qua khe, khoan như gió thoảng rừng thông, mau như chim ca ríu rít, tiếng nọ theo tiếng kia cùng nhau hòa hợp gây thành một âm hưởng mê hồn, vừa như ca ngợi niềm hoan lạc, vừa như than thở nỗi phù du của cuộc sống.

Đại Quán ngồi yên nghe sáo, ngơ ngẩn xuất thần. Ông mường tượng sống trong huyền thoại về hoàng tử Hiromasa đương thổi sáo dưới trăng trước một cổng chùa ở Kyoto bỗng nghe tiếng địch đâu đâu họa lại. Hoàng tử lần theo điệu nhạc tìm đến thì thấy một người cũng đang say mê đắm chìm trong tiếng nhạc. Hai người đổi sáo cho nhau và cùng hợp tấu đến khi trời sáng. Sau biết ra thì tri âm của ông chính là một ngạ quỷ biến thành người.

“Đến giống quỷ xấu xa còn cảm thông được với âm nhạc huống chi con người có thất tình, làm sao mà cưỡng lại được tiếng sáo của Oa Tử”. Ông muốn khóc nhưng mắt vẫn khô.

Lửa lụi dần, chẳng ai để ý. Người thổi sáo cũng như người nghe đều thả hồn theo âm thanh réo rắt, thể xác đó mà lòng tận đâu đâu, hòa đồng cùng với cỏ cây trời đất.

Đêm càng khuya, tiếng sáo càng tha thiết. Nàng gọi ai trong đêm tối ? Cha nàng ?

Mẹ nàng ? hay đã xen lẫn trong tiếng sao bi thương, nỗi lòng cay đắng của một thiếu nữ bị ruồng bỏ đương tuổi xuân thì ?

Oa Tử say sưa với âm nhạc, chìm ngập trong niềm xúc cảm của chính mình. Mặt nàng ửng đỏ và mồ hôi rịn ra quanh chân tóc. Nước mắt chảy ròng ròng, nàng cố nén để không bật ra tiếng nức nở.

Đột nhiên, có tiếng động trong bụi cây gần đó, chỉ cách đống lửa chừng năm, sáu thước, nghe như tiếng chân thú. Đại Quán ngẩng đầu lên nhìn chăm chú rồi giơ cao tay lên như chào đón.

– Này anh kia ! Trong rừng lạnh lắm, hãy đến đây sưởi ấm và trò chuyện cho vui.

Oa Tử giật mình, đặt sáo xuống:

– Thầy Đại Quán, thầy nói lảm nhảm gì thế ?

Đại Quán chỉ bóng người đang bò tới:

– Thạch Kinh Tử đến từ lâu ngồi nghe con thổi sáo, thấy không ?

Oa Tử quay lại, kêu một tiếng khẽ. Thạch Kinh Tử giật mình nhỏm dậy, chạy biến vào trong rừng. Đại Quán có cảm tưởng màng lưới ông khổ công xếp đặt vừa bị đứt, con cá sắp bắt được tuột khỏi tầm tay. Ông đứng bật dậy, gọi lớn:

– Thạch Kinh Tử ! Đứng lại !

Giọng ông có một cái gì uy mãnh khiến Thạch Kinh Tử đang chạy phải dừng ngay lại, ngơ ngác. Hắn nhìn ông, nghi hoặc. Nhà sư khoanh tay trước ngực, lặng yên. Cả hai nhìn nhau không chớp, tưởng cùng hòa chung một nhịp thở. Dần dần mắt Đại Quán dịu xuống, những nét nhăn trên mặt báo hiệu nụ cười thân thiện. Ông dang hai tay ra, hiền từ gọi:

– Nào, đến đây, con !

Nghe tiếng gọi, Thạch Kinh Tử chớp mắt, vẻ ngạc nhiên còn như đọng trên khuôn mặt đen sạm và sợ sệt của hắn.

– Đến đây, chúng ta ngồi nói chuyện cho vui.

Yên lặng, phân vân.

– Có cơm đây, có thức ăn ngon lại cả rượu nữa. Chúng ta là bạn con mà ! Đến bên lửa này sưởi ấm đi con.

Vẫn im lặng.

– Thạch Kinh Tử ! Con đã phạm vào một điều lầm lẫn quan trọng. Ở làng có lửa ấm, có cơm, có rượu và tình người. Sao lại dại dột cứ khăng khăng vất vưởng trong cõi u minh con tự tạo ra như vậy ! Con nhìn mọi người xung quanh sai lạc cả rồi ! Nhưng thôi, ta chẳng bàn luận thêm nữa. Tình trạng con bây giờ thật không phải là lúc để nghe lời phải trái. Lại đây con, ngồi nghỉ cho đỡ mệt. Oa Tử bỏ thêm khoai vào nồi cháo đi, ta cũng đói rồi.

Oa Tử gây cho lửa bốc cao hơn, thêm khoai vào cháo, còn Đại Quán lấy vò rượu hâm nóng. Cảnh êm đềm, ấm cúng làm Thạch Kinh Tử yên lòng. Hắn nhích lại gần từng tấc, từng tấc. Khi đến bên đống lửa, hắn dừng lại, rụt rè chưa quyết.

Đại Quán thúc giục:

– Ngồi xuống đây con !

Thạch Kinh Tử sợ hãi, nhưng cũng ngồi xuống. Oa Tử tránh không nhìn người bạn cũ của vị hôn phu của mình ; nàng có cảm tưởng như ngồi bên một con thú.

Đại Quán mở vung nồi cháo:

– Có lẽ được rồi đấy !

Rồi lấy đũa gắp khoai, thổi ngược bỏ vào miệng.

– Chà ! Ngon quá, vừa chín tới. Thạch Kinh Tử “làm” một miếng không ?

Thạch Kinh Tử gật đầu. Lần đầu tiên hắn cười, nhe hàm răng trắng nhởn. Oa Tử múc khoai ra bát đưa hắn. Hắn vừa thổi vừa húp xì xụp, tay run rẩy, răng đánh vào thành bát lập cập. Hắn đói quá rồi, không sao kềm chế được lòng ham muốn, trông thật tội nghiệp. Đại Quán để đũa xuống.

– Ngon đấy chứ, con ? Uống chút sa-kê nhé ?

– Không, không uống.

– Con không thích rượu à ?

– Có, nhưng bây giờ con chưa muốn uống.

Bao nhiêu lâu ở trong rừng, chịu đói khát, hắn sợ rượu làm hắn bệnh. Một lúc sau, hắn lễ phép hỏi:

– Cám ơn thầy và Oa Tử.

– Con ăn đủ chưa ?

– Thưa đủ.

Thạch Kinh Tử đưa trả bát cho Oa Tử và hỏi:

– Cô lên đây làm gì ? Đêm trước tôi cũng thấy cô đốt lửa.

Câu hỏi đột nhiên làm Oa Tử ngẩn người, chẳng biết đáp ra sao. Mau mắn, Đại Quán đỡ ngay:

– Thật ra bọn ta đến bắt ngươi đấy !

Thạch Kinh Tử không tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng hơi lo lắng, hết nhìn Đại Quán lại nhìn Oa Tử. Nhà sư thấy đã đến lúc phải hành động. Ông nhìn thẳng vào mặt Thạch Kinh Tử, nghiêm giọng:

– Con nghĩ cho kỹ, sớm muộn gì rồi con cũng bị bắt. Luật của Tôn gia là luật, mà luật của Phật gia cũng là luật, nhưng Phật pháp nhân ái, từ bi …

– Không, không … Thạch Kinh Tử lắc đầu.

Đại Quán vẫn dịu dàng tiếp tục:

– Con hãy nghe ta. Ta biết con nhất định kháng cự đến cùng, nhưng vấn đề là con có thắng được hay không …

– Thầy nói sao ?

– Ta muốn nói liệu con có kháng cự được luật lệ của cả làng, cả tỉnh, và điều này quan trọng, liệu có thắng được chính lòng con không ?

Nước mắt lưng tròng, Thạch Kinh Tử nhăn mặt, đau đớn:

– Con biết sẽ thua, sẽ bị giết như một con vật, nhưng con thề trước khi chết, sẽ hạ cho bằng được con mẹ Hồ Điểu và tụi lính. Giết càng nhiều càng tốt, con thù chúng nó.

– Thế còn chị con thì sao ?

– Ơ …a..a …

– Ô Nhiên đấy ! Chắc con biết chị con hiện giờ đang bị giam tại đồn Hinagura ?

Nghe nhắc đến Ô Nhiên, Thạch Kinh Tử thấy bao nhiêu hào khí như tiêu tan hết.

– Con phải biết Ô Nhiên đã hết lòng với con như thế nào ! Lại còn bổn phận con phải giữ thanh danh và nối dõi giòng Yết Mân nữa chứ. Con quên rằng con thuộc hệ phái Hirato trong đảng tộc Yết Mân, một đảng tộc danh giá hay sao ?

Thạch Kinh Tử lấy tay che mặt, đầu gục xuống. Hắn khóc, hai vai gầy guộc rung động. Bị khích động vì quá khứ vinh hiển của giòng họ, hắn tự giận mình, nhưng không biết làm sao, chỉ khóc. Những giòng nước mắt cay đắng chảy dài trên má, hắn lắc đầu:

– Con biết, nhưng giờ phải làm sao ?

Đại Quán nắm tay đấm một quả như trời giáng vào mặt Thạch Kinh Tử làm hắn ngã ngửa.

– Đồ ngu ! Đồ phản bội ! Đồ vô ơn ! Mày không có bố mẹ để dạy mày, ta sẽ dạy mày ! Mày phải sống, tu tâm dưỡng tính để ra người xứng đáng với tổ tiên ! Này, hãy nhớ lời ta !

Và Đại Quán bồi thêm một quả đấm nữa. Thạch Kinh Tử không phản ứng, chỉ khóc.

– Có đau không con ?

– Đau !

– Nếu biết đau thì vẫn còn nhân tính đó. Oa Tử, đưa sợi dây đây, ta trói lại. Đây không phải là sợi dây của thế quyền mà là sợi dây trắc ẩn của Phật pháp. Con đã hiểu ý ta. Còn con, Oa Tử, từ nay con không phải thương xót và sợ hắn nữa.

Thạch Kinh Tử nằm yên dưới đất, mặc cho Đại Quán trói. Nếu muốn, hắn có thể vùng dậy dễ dàng, hất Đại Quán bắn đi như một cọng rơm, nhưng không hiểu một sức mạnh vô hình gì đã giữ hắn lại không cho phản ứng.

Chương 6: Cây đại bách

Trời còn tối mà chuông chùa Tiểu Sơn đã rộn rã đổ hồi vang dội khắp nơi, lan đến tận khu rừng già chân núi. Dân làng giật mình tỉnh giấc. Hôm nay, ngày chót Đại Quán phải dẫn phạm nhân về nên ai cũng nóng lòng ngóng đợi. Mọi người tự hỏi không biết nhà sư có làm được như lời đã hứa không, thì có tin đến.

– Thạch Kinh Tử bị bắt ! Thạch Kinh Tử bị bắt !

Một đồn mười, mười đồn trăm, câu Thạch Kinh Tử bị bắt truyền từ miệng người này đến miệng người khác nhanh như mồi lửa cháy.

– Ai bắt Thạch Kinh Tử ?

– Thầy Đại Quán.

– Thật hả ? Thầy Đại Quán giỏi quá, chắc có võ !

Rồi họ sầm sập chạy lên chùa. Đã thấy phạm nhân bị trói chặt vào lan can trước tiền đình đại sảnh, xung quanh người bu đông nghịt, ồn ào bàn tán. Có người miệng há hốc, mắt tròn xoe, đứng trân trân nhìn Thạch Kinh Tử như nhìn ma quỷ hiện hình. Có người nuốt nước bọt.

Đại Quán ngồi trên thềm đá cao, chống khuỷu tay ra sau lưng, trầm ngâm không nói một lời. Lát sau, khi dân làng đến đông, ông mới khoan thai đứng dậy, giọng sang sảng:

– Xin yên lặng ! Kể từ nay, thế là chúng ta có thể yên tâm lo việc đồng áng. Binh gia sẽ không còn đóng ở làng này nữa !

Tiếng hoan hô vang dậy không ngớt. Đối với dân quê chất phác, Đại Quán giờ đây là một anh hùng, một hiệp sĩ đã cứu vớt và che chở họ. Nhiều người đến trước mặt ô ng cúi đầu tỏ vẻ biết ơn. Có người sụp lạy hoặc tranh nhau đến gần sờ tay, sờ gấu áo.

Đại Quán bối rối, ông không quen với sự sùng kính cá nhân thái quá như vậy nên ngượng nghịu thấy rõ. Rẽ đám đông, ông chắp tay trước ngực, ấp úng:

– Mô Phật ! Xin quý thí chủ giữ trật tự, bần tăng có điều quan trọng muốn nói.

Mọi người đứng giãn ra xung quanh, yên lặng.

Thạch Kinh Tử trở về là do thiên định, bần tăng thật chẳng dám nhận công lao.

Luật trời như vậy, mọi người chúng ta ai cũng phải theo, ai trái tất sẽ bị trừng phạt !

– Không, không phải ! Thầy quá khiêm ! Chính thầy bắt được nó mà, đâu phải luật trời gì !

– Chúng tôi biết công thầy !

– Chúng tôi cảm ơn thầy đã bắt nó !

Đại Quán đỏ mặt:

– Thôi cũng được. Nếu quý thí chủ muốn cám ơn, bần tăng xin nhận, nhưng luật pháp thì phải theo. Bây giờ việc đã xong, xin quí thí chủ giúp cho một tay.

Đám đông hơi ngạc nhiên, tò mò hỏi:

– Giúp gì vậy ?

– Giúp việc này:

Thạch Kinh Tử đã bị bắt, giờ phải làm gì ? Bà con chắc rõ nếu không bắt được hắn, bần tăng sẽ phải treo cổ trên cây đại bách, ngược lại nếu bắt được hắn, bần tăng có quyền làm gì hắn thì làm …

– Có, chúng tôi có biết chuyện đó !

– Vậy bây giờ phải làm gì ? Thạch Kinh Tử kia kìa, hắn bị trói chặt rồi, bằng xương thịt hẳn hoi chứ không phải hồn ma của hắn đâu ! Cũng chẳng có gì ghê gớm lắm ! Nói cho đúng ra, hắn đã tự đến nộp mình, không kháng cự. Giờ ta tha hay giết ?

Tiếng bàn tán xầm xì. Đa số phản đối ý kiến tha Thạch Kinh Tử. Một người mạnh miệng:

– Phải giết ! Đồ vô tích sự ! Tội nó nặng lắm ! Thả ra, dân làng sẽ khốn khổ với nó!

Đại Quán im lặng, đảo mắt nhìn quanh. Tiếng ồn ào nổi lên, rồi những người đứng phía sau la lớn:

– Giết ! Giết !

Bỗng một bà già ở đâu hớt hải chạy lại, rẽ đám đông, hích bên nọ, gạt bên kia, chen lấn lên trước. Khi tới được hàng đầu, Hồ Điểu Anh, vì bà ta chính là Hồ Điểu Anh, vừa thở hổn hển vừa trừng trừng nhìn vào mặt Thạch Kinh Tử. Bà cầm cây gậy dâu, quay lại nhìn dân làng, mặt đằng đằng nộ khí:

– Không được ! Không giết ngay được ! Phải cho nó đau đớn ê chề rồi hãy giết !

Coi kìa ! Trông bộ mặt nó, thật gớm ghiếc !

– Bà đến gần Thạch Kinh Tử giơ cao cây gậy vụt lấy vụt để xuống thân hình tiều tụy của hắn.

– Đồ khốn kiếp ! Đồ đốn mạt ! Này …này …

Những ngọn roi liên tiếp giáng xuống đầu, xuống mình Thạch Kinh Tử như mưa bấc làm hắn đau đớn, dẫy dụa. Hắn không kêu la, còn bà Hồ Điểu thì mệt nhoài, thở hổn hển. Đánh chán tay, bà quay sang nhìn Đại Quán:

– Thằng này làm con lão hư hỏng !

Rồi giọng run lẩy bẩy, đứt quãng, bà tiếp:

– Mãn Hà Chí bỏ đi, lấy ai nối dõi tông đường cho lão ?

– Mô Phật ! Mãn Hà Chí đâu phải là đứa tốt lành gì, sao bà không để cho rể kế tự ?

Bà ngó Đại Quán trân trân:

– Sao nhà thầy lại nghĩ về con lão như thế ?

Tủi thân, bà khóc:

– Ai nghĩ sao, mặc ! Con ta … nó chẳng phải là đứa xấu !

Nhưng cơn giận kéo đến lại làm cho bà đột nhiên khác hẳn, liều lĩnh và ương ngạnh. Bà trỏ Thạch Kinh Tử:

– Mày làm hư nó ! Nó trở nên vô lại cũng vì mày. Tao có quyền băm vằm mày rạ..

Rồi quay lại đám đông, bà năn nỉ:

– Bà con cô bác để cho lão quyết định. Lão xin xử nó xứng đáng …

Một tiếng thét giận dữ cắt ngang lời Hồ Điểu. Đám đông quay lại nhìn về phía sau, rồi không ai bảo ai, đứng giạt sang hai bên, nhường chỗ cho một người ăn mặc theo lối binh gia, hùng hổ tiến vào. Đội trưởng “râu bàn chải” nghênh ngang trước mặt Đại Quán, quay một vòng nhìn đám đông và lên giọng hách dịch:

– Có chuyện gì vậy ? Đây không phải là trò chơi ! Mọi người hãy giải tán, ai về nhà nấy lập tức.

Đám đông yên lặng, ngần ngừ nhưng không ai chịu bỏ đi.

– Các ngươi nghe ta nói không ? Giải tán ngay, không được tụ họp nữa !

“Râu bàn chải” tay nắm đốc kiếm, nét mặt gườm gườm, dọa nạt, nhìn những người đứng ở hàng đầu làm cho họ sợ hãi, mắt mở lớn, lùi xa thêm vài bước.

– Không ! Đại Quán lên tiếng. Họ không có lý do gì phải dời khỏi nơi đây. Chính bần tăng đã mời họ đến để định đoạt số phận Thạch Kinh Tử !

– A ! Thầy mời họ lại ? Nhưng thầy lấy quyền gì can thiệp vào chuyện này ?

Rồi tay nắm đốc kiếm, ưỡn ngực, viên đội nhìn Đại Quán, lão bà Hồ Điểu Anh và đám đông bằng đôi mắt hống hách. Hắn cao giọng:

– Tên Yết Mân Thạch Kinh Tử này không những đã phạm trọng tội đối với luật pháp hàng tỉnh, hắn lại còn là đào binh trong trận Sekigahara nữa. Dân chúng không được làm tội hắn mà phải để nhà cầm quyền xét xử !

Đại Quán lắc đầu:

– Nhảm ! Vọng ngôn !

Thấy viên đội trưởng định nói thêm, nhà sư giơ tay chận lại:

– Đấy không phải là những điều đội trưởng đã hứa với ta !

Thấy tình hình nghiêm trọng có thể làm hại đến uy tín của mình, “Râu bàn chải” bèn dịu giọng:

– Chắc chắn thầy Đại Quán sẽ được trọng thưởng. Nhưng ở đây, ta là đại diện chính thức của Tôn gia, ta có bổn phận phải giữ phạm nhân lại. Bà con không cần phải lo lắng !

Đại Quán không trả lời, bật lên cười ha hả. “Râu bàn chải” quay lại, nghiêm trọng:

– Thầy hãy giữ thái độ đứng đắn. Ta không đùa và chẳng có chuyện gì đáng cười !

– Thái độ đứng đắn ? Đại Quán vẫn không thể nén cười. Thế nào là thái độ đứng đắn ? Này “Râu bàn chải”, nhà ngươi quên lời hứa với ta rồi chăng ? Nếu thật vậy thì cứ nói, ta sẵn lòng và lập tức thả ngay Thạch Kinh Tử !

Mọi người giật mình lùi ra xa, lấm lét nhìn Đại Quán và viên đội trưởng ?

– Sẵn sàng chưa ?

Đại Quán vừa hỏi vừa kề dao gần dây trói.

“Râu bàn chải” ngẩn người, luống cuống. Đại Quán trỏ viên đội trưởng:

– Ta sẽ cho hắn xông đến ngươi trước để hắn tự xử. Ta không trách nhiệm. Để xem ngươi có khả năng đối phó với hắn không !

– Khoan ! … Khoan ! … “Râu bàn chải” hối hả xua tay.

– Ta đã giữ lời hứa ! Bây giờ … tùy ngươi.

Mồ hôi đổ lấm tấm trên trán, “Râu bàn chải” vội nói:

– Khoan …khoan … Đừng cắt !

– Vì sao ?

Hắn lắp bắp:

– Bắt … bắt … bắt được nó rồi thì đừng thả. Nguy hiểm lắm. Bây giờ thế này:

Thầy giết nó đi. Đây gươm đây, nhưng để ta mang đầu về. Thế là công bằng. Thầy nghĩ sao ?

– Hà …hà …Để ngươi lấy đầu nó hả ? Không đời nào ! Chùa chỉ nhận làm tang lễ, đâu có bao giờ giết người, giao xác hay giao một phần nhục thể cho người khác ! Vậy còn ra thể thống gì nữa ? Hà … hà … ngươi nghĩ xem, làm thế còn ai dám lên chùa tụng niệm mà chư tăng còn ai được đồng xu nào nữa ?

Ngay cả trong tình trạng như vậy mà Đại Quán vẫn không ngớt trêu trọc “Râu bàn chải”. Nhưng nói xong, ông vội vã quay lại trước mặt dân làng và nghiêm giong:

– Xin quý thí chủ xét cho kỹ, bây giờ ta phải làm gì ? Hay ta treo nó trên cây đại bách vài ngày, mặc cho gió mưa vùi dập, quạ sẽ đến mổ mắt nó. Qúy thí chủ nghĩ sao ?

Trước ý kiến quá tàn bạo, ai cũng rùng mình, nhưng chẳng ai dám phản đối. Chỉ có Hồ Điểu Anh lên tiếng:

– Ý thầy Đại Quán rất hay, nhưng lão cho vài ngày chưa đủ. Phải lâu hơn thế nữa.

Treo nó chừng nửa tháng cho nó thật đói khát để rồi chính tay lão đưa nó về âm phủ !

Đại Quán gật đầu:

– Cũng được ! Vậy cứ y thế mà làm !

Rồi Đại Quán cởi dây buộc Thạch Kinh Tử khỏi lan can, lôi hắn đi như lôi một con vật ra sau chùa, đến bên cây đại bách. Tội nhân đầu cúi gầm, lầm lũi đi không nói, những vết roi hằn trên da thịt còn rướm máu làm mọi người động lòng thương hại. Tuy nhiên, trong lúc say sưa vừa mới bắt được tên tội nhân nguy hiểm, họ vẫn tiếp tay nối thêm dây và hè nhau kéo hắn lên cao buộc vào cành đại bách lớn nhất.

Bị trói chặt chân tay, treo lủng lẳng trên cây, Thạch Kinh Tử trông chẳng khác gì một hình nhân bằng dạ ướt.

Từ trên núi về chùa, một mình trong gian phòng lạnh lẽo, Oa Tử cảm thấy mỏi mệt và buồn vô hạn. Niềm trống trải đối với Oa Tử không phải là một điều mới lạ, nhưng sao bữa nay nàng thấy cô đơn hết sức. Chùa đông gia nhân, tương đối đủ tiện nghi, Oa Tử vẫn không cảm thấy bình yên như khi chỉ có nàng và Đại Quán ở trên núi. Ngồi một mình bên chiếc bàn thấp, ngó mông lung ra cửa sổ, nàng suy nghĩ về những tình cảm phức tạp của lòng mình mà vẫn không sao tìm được một kết luận thích đáng. Nhưng biến cố vừa qua đã mở mắt cho nàng thấy rõ lòng mình hơn. Nàng cho rằng nỗi cô đơn giống như cơn đói, không phải ở ngoài vào mà chính ở trong lòng mình. Cảm thấy cô đơn không khác gì cảm thấy thiếu một cái gì hết sức cần thiết, tối quan hệ cho cuộc sống, một cái gì không có không được. Nhưng cái gì ? Nàng không biết … Chẳng phải người chung quanh, cũng chẳng phải những tiện nghi của đời sống yên ổn trong chùa.

Những thứ đó không làm giảm bớt được cảm giác đơn độc đang đè nặng lên tâm hồn nàng bữa nay. Ở trên núi chỉ có cây rừng tịch mịch, sương mù âm u, nhưng có Đại Quán. Đột nhiên nàng chợt hiểu và bừng tỉnh. Phải rồi ! Sự thông cảm ! Những lời an ủi, khích lệ của nhà sư bàng bạc một niềm cảm thông đi thẳng vào tâm hồn nàng làm cho Oa Tử thấy ấm áp dễ chịu như chưa một ngọn lửa nào sưởi ấm được như thế ! Và tự nhiên, nàng cảm thấy sự thiếu vắng nhà sư đã làm tăng thêm nỗi cô đơn ấy.

Oa Tử đứng dậy, óc suy nghĩ vẩn vơ về những ý tưởng vừa qua. Sau khi quyết định treo Thạch Kinh Tử lên cây, Đại Quán gần như bận rộn suốt ngày trong nhà khách với các kiếm sĩ từ Himeji đến. Ông không có lúc nào rảnh rỗi ngồi nói chuyện với nàng như những ngày ở trên núi. Oa Tử thở dài, lại ngồi xuống.

Giá nàng có một người bạn. Không cần nhiều, chỉ một người bạn thôi, một người hiểu nàng, để cho nàng dựa dẫm, một người bạn trung thành, có khí phách và đáng cho nàng tin cậy. Nhưng biết ai bây giờ ?

Dĩ nhiên nàng còn cây sáo trúc, nhưng một thiếu nữ mười sáu tuổi có những cảm nghĩ, những băn khoăn, vật vô tri như cây sáo làm sao giải đáp ? Nàng trông cậy một tâm hồn biết thông cảm, tham dự hẳn vào cuộc sống của nàng chứ không phải chỉ làm khách bàng quang.

Những giọt nước mắt chua cay chảy trên má, nàng thấy người nóng hừng hực, máu dồn lên thái dương khiến nàng khó chịu, muốn hét to lên cho hả cơn bi phẫn.

Cánh cửa khép hờ phía sau nhẹ nhàng mở. Trong bếp, lửa cơm chiều đã bắt đầu nhóm và tiếng động nồi niêu theo cửa mở tràn vào. Oa Tử quay lại, bóng Hồ Điểu đã in đậm trên nền khung cửa sáng.

– Á à, cô này trốn ở đây hả ? Chiều rồi, cả ngày không làm việc gì sao ?

Nàng hơi ngạc nhiên, chưa kịp phản ứng. Quên cả chào hỏi, nàng luống cuống xếp gối ngay ngắn và mời bà lão ngồi. Hồ Điểu Anh không làm khách, thản nhiên ngồi xuống vào đề ngay, giọng trịnh trọng:

– Này con dâu ta …

Trước dáng điệu đầy tự tin và kẻ cả ấy, Oa Tử khẽ dạ, cúi rạp đầu xuống chiếu.

– Ừ ! Bây giờ con đã nhận làm dâu ta, ta có điều muốn nói. Nhưng hãy mang trà lại đã. Ta vừa nói chuyện với thầy Đại Quán và các kiếm sĩ từ Himeji tới, khát khô cả cổ mà chẳng được hớp nước.

Oa Tử lật đật đi pha trà mang lại.

– Ta muốn nói chuyện với con về thằng Mãn Hà Chí. Ta không tin thằng Thạch Kinh Tử, nhưng hình như Mãn Hà Chí vẫn còn sống và hiện nay đang ở tỉnh khác, phải không con ?

Oa Tử đáp, lạnh nhạt:

– Thế ạ ?

– Ta không chắc, nhưng có điều là sư cụ đã đồng ý cho con kết hôn với nó mà gia đình Hồ Điểu ta cũng đã coi con như vị hôn thê của nó rồi. Dù sao đi nữa, mong con chớ từ …

– Mô Phật !

– Con vẫn giữ lời hứa chứ, Oa Tử ?

Oa Tử khẽ thở dài.

– Vậy được ! Ta bằng lòng lắm.

– …

– Con biết đấy, miệng lưỡi thế gian, làm sao mà bịt được ? Ta không biết bao giờ thì Mãn Hà Chí trở về nên ta muốn con đến ở với gia đình ta, giúp ta một tay. Công việc bề bộn quá, rể và gái ta làm chẳng xuể …

– Thưa bà …

– Ngoài con là dâu ra, còn ai đến ở với ta được ?

– Thưa bà, con không biết, nhưng …

– Con không muốn đến hả ? Con không thích hay sao ? Nhiều người khác chắc không ngần ngại gì mà không nhảy vào ngay đấy !

– Không phải thế … nhưng chỉ vì …

– Không nhưng gì hết. Cô đi sắp xếp quần áo ngay đi !

– Ồ, đi ngay à ? Con nghĩ nên đợi ít lâu thì hơn.

– Đợi gì ?

– Đợi Mãn Hà Chí về.

– Không được ! Nhất định không được !

Giọng bà đanh lại, không cho cãi.

– Để cô một mình, cô nghĩ đến những đứa khác hả ? Bổn phận tôi phải trông nom cô. Tôi sẽ dạy cô chăn tằm, làm công việc đồng áng, may vá thêu thùa và giữ phong cách con nhà chứ !

Oa Tử phân vân không biết phản đối ra sao. Hai bên thái dương nàng nóng rần rật.

Chuyện Mãn Hà Chí làm lòng nàng đau thắt. Nàng sợ. Nàng sợ bất cứ lời nói gì cũng sẽ tăng thêm nỗi đau đớn ấy và làm nàng bật khóc.

Không để ý gì đến nỗi phiền muộn của Oa Tử, bà Hồ Điểu tiếp theo, ngạo mạn:

– Còn chuyện nữa, ta vẫn không rõ rồi sư bác sẽ xử thằng Thạch Kinh Tử ra sao, nên muốn con để mắt canh chừng nó cho đến khi nó chết hẳn. Cả ngày lẫn đêm. Nhất là về đêm vì ta nghi chúng nó đồng lõa với nhau quá !

– Vậy bà vẫn để con lưu lại đây chứ ?

– Ừ, tạm thời thôi. Không lẽ bắt cô phân thân ra được à ! Khi thấy nó chết hẳn rồi, cô mang quần áo lại ngay nhà ta, nghe chưa ?

– Dạ.

– Nhớ kỹ đấy !

Đoạn bà hối hả bước ra khỏi phòng.

Ngay lúc đó có bóng người thấp thoáng bên song cửa. Rồi một giọng đàn ông gọi khẽ:

– Oa Tử !

Tưởng Đại Quán, nàng chạy vội ra, nhưng vừa đến bên cửa thì dừng ngay lại.

Người đứng ngoài là “Râu bàn chải”. Hắn thò tay qua cửa sổ nắm chặt lấy tay nàng.

– Oa Tử, nàng đối với ta rất tốt, nhưng đáng tiếc, ta phải đi Himeji ngay bây giờ !

Oa Tử không trả lời, cố rút tay ra, nhưng viên đội trưởng càng giữ chặt.

– Nghe đâu Himeji đang phái người đến điều tra chuyện Thạch Kinh Tử. Ta hận không lấy được đầu nó. Giá ta giết được Thạch Kinh Tử thì cũng gọi là làm tròn trách nhiệm, nhưng thằng trọc cản không cho ta làm theo ý định. Ta biết nàng có cảm tình với ta nên đến đây đưa thư này, lúc nào rỗi thì đọc, đừng cho ai biết. Ta đi đây !

Nói xong, hối hả dúi phong thư vào tay Oa Tử và đi vội, tiếng chân bước trên những bậc thang gỗ cọt kẹt nghe đến tận cửa ngoài.

Cuốn giấy không phải chỉ có bức thư mà còn một đồng tiền vàng nữa. Ý tứ thật rõ ràng:

“Râu bàn chải” yêu cầu Oa Tử chặt đầu tội nhân mang đến Himeji, hắn sẽ kết hôn với nàng, Oa Tử sẽ là vợ hắn, suốt đời giàu sang, phú quý. Cuối thư, hắn ký tên Hoa Kính Áo Đại Môn và xác nhận hắn là một trong những hiệp sĩ thuộc dòng dõi thế phiệt nhất trong vùng.

Oa Tử phẫn nộ nhưng chỉ mỉm cười thương hại. Vừa lúc đó, Đại Quán đến.

– Oa Tử, chưa ăn cơm chiều à ?

– Chưa ! Con không đói mà nhức đầu quá !

– Ngươi cầm vật gì vậy ?

– À, bức thư.

– Lại thư !

– Vâng.

– Của ai vậy ?

– Thật là … Thầy thóc mách quá !

– Không, tò mò tìm hiểu thôi, đâu có thóc mách !

– Thầy muốn xem không ?

– Nếu ngươi không thấy gì phiền …

– Để thầy đọc chơi lúc rảnh thôi nhé !

– Thì cớ nào cũng là cớ, có gì quan trọng !

– Đây, thầy cứ đọc, chẳng sao.

Oa Tử chìa lá thư ra. Đại Quán đọc xong cười ha hả. Oa Tử cũng không nhịn được, nhìn nhà sư hỏi ý.

– Tội nghiệp ! Hắn thất vọng quá đấy mà ! Phải dùng cả tình lẫn tiền để dụ ngươi.

Bức thư này thật khôi hài, may mà xã hội ta lại có những hiệp sĩ kiêu hùng như hắn, dám yêu cầu một thiếu nữ cắt đầu giặc thay mình và lại còn viết thư nữa mới đáng phục chứ !

– Con chẳng lưu tâm đến thư, nhưng tiền thì phải làm gì hả thầy ?

Oa Tử đưa đồng tiền vàng cho Đại Quán xem. Ông nhấc thử trong lòng bàn tay:

– Khá nặng đấy ! Có giá lắm !

– Thế mới phiền.

– Việc gì mà phiền ! Ta biết cách dùng, đừng lo.

Đại Quán đến bên thùng phước sương kê sát vách, định bỏ vào, nhưng nghĩ sao lại đổi ý. Ông đến trước bàn thờ Phật, thắp hương và cúi đầu làm lễ. Một lúc sau, đứng dậy, ông nói:

– Con giữ lấy. Sau này sẽ có dịp dùng đến.

– Con chẳng giữ làm gì, chỉ gây thêm oan nghiệt. Lỡ có người hỏi đến thì biết nói sao. Con tưởng cứ coi như không có là hơn.

– Vàng này không còn là của Áo Đại Môn nữa, ta đã đem cúng đường tam bảo và đức Phật cho lại con đấy. Con cứ giữ lấy.

Oa Tử ngần ngại, nhưng cũng nghe lời Đại Quán, giắt đồng tiền vào thắt lưng, đoạn nghiêng đầu nhìn trời qua khe cửa, lẩm bẩm:

– Trời nổi gió. Chắc đêm nay mưa mất. Đã lâu lắm không thấy mưa.

– Đầu tháng ba rồi còn gì ! Đêm nay hẳn mưa to. Càng tốt, mưa lớn làm rụng bớt hoa úa và làm lòng người thêm mát mẻ.

– Bạch thầy, nếu mưa to thì Thạch Kinh Tử ra sao ?

– Hừ …Thạch Kinh Tử …

Đại Quán nhìn ra phía cây đại bách, không nói.

Ngoài kia, đột nhiên có tiếng tội nhân gọi vọng vào:

– Đại Quán ! Đại Quán !

– Á à ! Thạch Kinh Tử còn sống hả ?

Tiếng Thạch Kinh Tử gay gắt, tục tằn:

– Thằng trọc chó lợn kia ! Đồ sư hổ mang ! Đến đây ta nói câu chuyện !

Gió thổi qua cành cây rào rào, tiếng hắn chửi rủa nghe khi được khi mất. Những lá úa bắt đầu rụng tơi tả, quay cuồng quanh gốc cây rồi tản mát trên những ngọn cỏ đã chớm vàng vì thiếu nước.

Nhà sư bật cười, bước ra sân, nhìn lên tàng cây cao:

– Khá lắm ! Ngươi còn khỏe lắm ! Hy vọng sinh lực ấy không phải như ngọn đèn dầu phựt sáng trước khi sắp tắt.

– Câm mồm ! Nếu sợ chết, ta đâu có để cho nhà ngươi trói dễ như vậy !

– Ngươi bị trói vì ta khỏe, ngươi yếu !

– Láo ! Nói láo ! Ngươi phải biết là ngươi đang nói láo !

– Vậy ta nói khác đi:

Ta khôn, ngươi dại. Dại hết sức !

– Ừ, dại thật ! Tự nhiên chui vào bẫy ! Thật là dại !

– Đừng dãy dụa như vậy, mất sức vô ích !

– Ở trên núi, nếu ta muốn thoát thân thì dễ quá. Ta có thể giết ngươi dễ dàng như dẫm chết con giun vậy !

Đại Quán cười khà khà:

– Sự so sánh làm ta chẳng hài lòng chút nào. Nhưng việc đã rồi, có hối cũng không kịp nữa. Bây giờ phân bua làm gì !

– Đồ khẩu Phật tâm xà ! Tại ta nghe lời dụ dỗ ngon ngọt của ngươi nên tin tưởng, giờ bị lừa. Ta tưởng ngươi là một thầy tu khác với những người khác chứ !

– Thôi đừng khùng nữa, muốn gì nói đi !

– Tại sao ngươi đối với ta tàn nhẫn vậy ? Sao không giết ngay đi ? Ngươi muốn giết thì cứ giết, sao để chúng hành hạ ta thế này ? Ngươi là người tu hành, tất biết thế nào là hiệp sĩ đạo …

– Dĩ nhiên biết chứ, biết hơn ngươi chứ !

– Giá ta để cho dân làng bắt lại hơn ! Họ còn ít ác độc hơn ngươi.

– Đấy là lỗi lầm độc nhất của ngươi đấy ư, Thạch Kinh Tử ? Chuyện gì ngươi làm cũng lầm lỗi, không nhiều thì ít. Ở trên đó sao ngươi không suy nghĩ về những việc ngươi đã làm đôi chút ?

– Đồ giả nhân giả nghĩa ! Ta chẳng làm điều gì đáng phải xấu hổ. Mẹ Mãn Hà Chí tìm đủ mọi cách hại ta, nhưng trước sau ta vẫn coi hắn là bạn. Bổn phận ta phải trở về báo cho mẹ hắn biết tin. Ta phá rào, giết người cũng vì vậy, đâu có gì xấu, đâu có gì trái với đạo người hiệp sĩ ?

– Không phải vậy ! Vấn đề của ngươi là không biết cân nhắc, suy nghĩ. Không phải cứ khinh cái chết là trở nên hiệp sĩ. Chết lúc chưa đáng chết chỉ là xuẩn động. Tin tưởng vào một điều gì phải, là tốt nhưng cứ nhắm mắt làm bừa chỉ có hại, chỉ đưa ngươi đến tình trạng như ngày nay, bị trói thúc thủ trên cây cao này mà thôi.

Đại Quán ngừng một lát rồi hỏi kháy:

– Thế nào, ở trên đó nhìn phong cảnh có đẹp không ?

Thạch Kinh Tử hét lên:

– Thằng trọc ! Ta sẽ không bao giờ quên mối nhục này !

– Sẽ quên ! Sẽ quên ! Trước khi trở thành cái xác khô đét, còn chút thì giờ, ngươi hãy cố gắng quan sát mọi vật xung quanh, quan sát mọi người rồi bỏ những ý nghĩ thiển cận, vị kỷ của ngươi đi. Chừng nào về chầu tổ tiên, nhớ nói với các cụ rằng một tăng sĩ nghèo tên Đại Quán đã khuyên ngươi như vậy. Tổ tiên ngươi sẽ hối tiếc ngươi không nghe ta nên đã chết, mang tủi nhục về cho dòng họ.

Oa Tử đứng gần đó lắng tai nghe, chạy vội lại:

– Thầy Đại Quán ! Sao thầy lại có thể tàn nhẫn với người không còn tự vệ được như thế ? Thầy là người tu hành hay chỉ khoác áo thầy tu ? Thạch Kinh Tử đã tin tưởng ở thầy, không kháng cự …

– Này, chuyện gì vậy ? Đồng minh của ta bây giờ quay lại chỉ trích ta đấy hả ?

– Xin thầy thương hắn. Thầy đối với hắn như thế con không trọng. Nếu thầy muố n giết thì giết quách ngay đi, hắn chịu chết mà, để cho linh hồn hắn được siêu thoát.

Trong cơn phẫn khích, Oa Tử nắm vạt áo Đại Quán giật liên hồi. Đại Quán gạt tay nàng, giọng nghiêm nghị:

– Yên ! Đàn bà biết gì mà nói ! Nếu ngươi không im, ta sẽ treo lên cây như nó !

– Không im ! Con có quyền nói ! Con có công đi lên núi bắt hắn, con có quyền !

– Không được ! Đại Quán này muốn phạt Thạch Kinh Tử ra sao thì phạt !

– Vậy thầy giết hắn đi ! Giết ngay đi ! Làm nhục hắn trong khi hắn nửa sống nửa chết thật không xứng đáng …

– Đó là nhược điểm duy nhất của ta. Ta thích hành hạ những thằng ngu như nó !

– Bất nhân !

– Đi đi, để ta yên !

– Không !

– Đừng bướng ! Đi !

Đại Quán lấy tay đẩy mạnh Oa Tử. Nàng ngã ngồi xuống đất, bên gốc đại bách.

Cạnh gốc cây, áp má vào lớp vỏ xù xì, nàng rên khe khẽ. Nước mắt trào ra, Oa Tử không ngờ Đại Quán tàn nhẫn đến mức ấy. Người trong làng ai cũng tưởng Thạch Kinh Tử chỉ bị treo ít lâu rồi sẽ được thả, ai ngờ chính Đại Quán vừa xác nhận ông thích nhìn Thạch Kinh Tử đau đớn. Oa Tử rùng mình ghê sợ cho sự dã man của con người.

Nếu Đại Quán, người mà nàng tin tưởng bấy lâu nay, đã tỏ ra tàn ác như vậy thì ở ngoài kia, xã hội còn ghê gớm đến bực nào ! Nàng còn ai để trông cậy nữa ? Bất giác, Oa Tử cảm thấy thân cây đại bách ấm áp hơn, dường như máu tội nhân từ trên cành cao dồn xuống đang luân lưu trong những thớ gỗ. Thạch Kinh Tử kiên cường, không hổ với dòng dõi hiệp sĩ. Lúc đầu bị trói ở trên núi và ngay bây giờ đây, nàng thấy Thạch Kinh Tử vân còn nhân tính. Hắn còn biết khóc. Không hiểu sao cái gì đã là mọi người khinh ghét hắn, coi hắn như một con quỷ và xua đuổi hắn đến thế ?

Nước mắt tràn trề, hai vai rung động, Oa Tử ôm gốc cây, không kể gì đến gió rít bên ngoài và những giọt mưa bắt đầu rơi trên vai và cổ áo. Đại Quán kéo vạt tăng bào lên che đầu, gọi:

– Oa Tử ! Vào thôi, ướt hết bây giờ !

– …

– Lỗi tại ngươi đó ! Tại ngươi hay khóc nên trời cũng bắt chước.

Không nghe trả lời, ông đổi giọng nghiêm trang:

– Gió mạnh rồi. Có lẽ bão. Về phòng thôi, đừng dư nước mắt khóc một người chẳng còn sống bao lâu nữa !

Nói xong, nhà sư tay giữ vạt áo, tay che đầu chạy vào hậu liêu !

Vài giây sau, nước đổ như trút. Những giọt mưa to rơi lộp bộp trên sân đất. Oa Tử ngồi bất động dưới gốc cây, mặc cho mưa rơi trên đầu trên tóc. Chiếc kimono nàng mặc dán vào mình ước sũng và lạnh buốt, nhưng nghĩ đến nỗi đau khổ Thạch Kinh Tử phải chịu, nàng thấy mưa gió không có nghĩa lý gì. Nàng thầm cầu nguyện cho tính mệnh hắn toàn vẹn.

Oa Tử quanh quẩn bên gốc cây, thỉnh thoảng ngẩng đầu lên nhìn, nhưng mưa to quá, không trông thấy Thạch Kinh Tử đâu hết. Nàng gọi tên hắn. Không nghe tiếng trả lời. Có lẽ giọng nàng đã lạc đi trong mưa bão, mà cũng có lẽ hắn không trả lời thực, vì hắn coi nàng như mọi người khác trong làng có ý tưởng thù nghịch, chỉ tìm đến để làm khổ hắn mà thôi.

Mưa thế này mà không cứu Thạch Kinh Tử thì hắn chết mất. Trong cơn tuyệt vọng, nàng bỏ chạy vào chùa, gió thổi sau lưng khiến nàng suýt ngã.

Trong chùa, cửa bếp cũng như cửa các tăng phòng đều khép kín. Nước mưa từ các máng xối đổ xuống, đào những rãnh nhỏ sâu trên sân đất, ào ào chảy xuống chân đồi.

Đến phòng Đại Quán, nàng vừa đập cửa vừa gọi lớn.

– Ai đó ?

– Con đây ! Oa Tử !

– Ngươi còn ngoài đó hả ? Làm gì ngoài đó ?

Cửa mở, nước mưa theo gió tạt vào làm Đại Quán lùi lại mấy bước. Ông ngạc nhiên nhìn Oa Tử trong bộ quần áo ướt sũng, giục:

– Vào đi !

– Không cần ! Con không đến để trú mưa, chỉ xin thầy rủ lòng thương, cho hắn xuống !

– Không ! Nhất định không được !

– Con lạy thầy, thầy cứu hắn, con đội ơn thầy suốt đời.

Nàng quỳ xuống, không nghĩ gì đến chiếc kimono bê bết bùn đất:

– Xin thầy đừng quan tâm đến con, mà thương hắn. Thầy không thể để hắn chết thế được ! Con xin làm theo bất cứ lệnh gì của thầy, nhưng lạy thầy, xin thầy cứu hắn !

Tiếng gió ù ù, mưa đổ sầm sập át cả tiếng Oa Tử van xin khóc lóc. Hai tay chắp trước ngực, trông nàng chẳng khác gì một phật tử đang thành kính đội mưa chịu lễ sám hối trước tòa sen.

Đại Quán đứng im như tượng, mắt nhắm nghiền. Không ai biết bên trong khuôn mặt bình thản ấy có những xao động thầm kín gì. Lúc sau, mở mắt ra, ông nghiêm nghị:

– Oa Tử, về phòng ngay đi ! Sức ngươi yếu đuối, để bị cảm hàn là tự chuốc lấy cái chết vô ích.

– Con lạy thầy, con van thầy ! Xin thầy thương hắn …

Trước mắt Đại Quán, Oa Tử vẫn quỳ, đầu cúi rạp. Nhà sư với tay đóng cửa. Một giọng nói như băng vọng ra lẫn trong tiếng mưa rơi vẫn còn nặng hạt:

– Khuya rồi, ta đi nghỉ. Ngươi cũng nên về thôi. Ta khuyên ngươi đấy.

Chương 7: Cương Thạch và Đại Thụ

Sáng hôm sau, những dấu vết của mùa xuân gần như đã bị trận bão đêm trước quét sạch. Nắng ban mai gay gắt làm những người đi làm đồng bắt đầu phải mang nón. Bà Hồ Điểu nhọc mệt leo lên chùa, thở hổn hển. Cổ khô, miệng khát, mồ hôi đẫm trán chảy dài xuống má làm khó chịu, nhưng bà vẫn không nghỉ. Và nóng nảy muốn tới chùa ngay để xem Thạch Kinh Tử thế nào. Mới đến cổng, bà đã gọi tới tấp:

– Thầy Đại Quán ! Thằng đó liệu có qua khỏi không ?

Đại Quán bước ra hàng hiên, mắt hấp háy:

– À, bà Hồ Điểu ! Đêm qua mưa to quá há !

– Phải. Bà cười ác độc. Trận mưa chết người chứ không bỡn.

– Dầm mưa vài đêm chẳng sao. Sức người bền bỉ lắm, nhưng nắng buổi trưa mới thật ghê gớm.

Hồ Điểu hướng bộ mặt nhăn nhúm về phía cây đại bách:

– Thầy nghĩ hắn còn sống à ?

Bà lấy tay che mắt cho đỡ chói, đôi mắt sắc nheo lại dưới ánh nắng, đứng chăm chú nhìn một lúc rồi lẩm bẩm:

– Trông như cái giẻ rách thế kia, khó sống lắm, khó sống lắm !

– Không thấy quạ bu xung quanh mổ mắt, vậy là chưa chết.

– Ờ phải ! Mô Phật, sức học uyên bác như thầy, khó ai mà lừa được.

Rồi nghểnh cổ, đưa mắt tò mò nhìn qua vai Đại Quán vào trong, bà nói:

– Không thấy dâu lão đâu. Thầy gọi nó giùm lão với !

– Bần tăng biết dâu bà là ai mà gọi.

– Chà ! Thầy gọi giúp chút mà ! Nó ở trong chùa ấy !

– Nhưng ai mới được chứ ?

– Oa Tử. Hồ Điểu sốt ruột. Oa Tử chứ ai nữa !

– Vậy sao bà không bảo Oa Tử lại bảo dâu bà ? Cô ấy đâu đã về làm dâu nhà Hồ Điểu ?

– Chưa. Nhưng lão có ý định đưa nó về giới thiệu với họ hàng là dâu của lão.

Đại Quán mỉm cười:

– Liệu được không ? Bần tăng chưa từng thấy ai lấy chồng vắng mặt như thế bao giờ !

Bà Hồ Điểu giọng bất mãn:

– Thầy nhiều chuyện ! Thì cứ gọi hộ lão ! Đâu phải việc của thầy !

– Chắc cô ấy còn ngủ trong phòng !

– Ờ nhỉ, lão quên mất. Bà nói nửa như với mình, nửa như với Đại Quán. Lão có bảo nó ban đêm phải để ý trông thằng Thạch Kinh Tử, chắc sáng ra nó mệt. Nhân thể hỏi thầy, có phải ban ngày thầy trông chừng hắn không ?

Nhưng không đợi Đại Quán trả lời, bà bước vội ra gốc đại bách, nhìn chăm chú lên cây một lúc, thừ người ra suy nghĩ, lát sau quày quả bỏ đi, tay vung vẩy cây gậy dâu.

Đại Quán không nói, cũng trở về phòng, ngồi tư lự đến chiều.

Oa Tử ở cách phòng Đại Quán không xa. Nàng đóng cửa phòng từ sáng, trừ hai bận mở cho một chú tiểu mang bát thuốc và liễn cháo đến. Đêm trước, người ta đã phải khiêng Oa Tử về khi thấy nàng ngất đi ở ngoài hiên dưới mưa gió. Dỗ dành lắm nàng mới uống hết chung trà nóng. Sư cụ quở Oa Tử không biết bao nhiêu, nàng chỉ yên lặng không đáp. Giờ đây, ngồi dựa lưng vào vách ván, đầu nặng và nhức như búa bổ, nàng thấy cơn sốt kéo đến, trong người nóng hầm hập. Cố lắm nàng mới húp được vài thìa cháo loãng.

Hoàng hôn tắt đã lâu, bóng tối ập xuống bao phủ cả gian phòng hiu quạnh. Trái với đêm trước, vầng trăng hôm nay hiện lên rực rỡ, ánh sáng long lanh như rung động trên nền trời sâu thẳm.

Chờ mọi người ngủ yên, Đại Quán mới bỏ sách xuống, xỏ chân vào đôi guốc gỗ, bước ra sân. Ông khẽ gọi:

– Thạch Kinh Tử !

Tiếng đáp lớn từ trên cây vọng xuống, mạnh và đầy giận dữ:

– Gì vậy, thằng trọc ?

Ít khi Đại Quán bị bất ngờ như vậy. Ông không giấu được vẻ ngạc nhiên:

– Sắp chết mà còn hét to nhỉ ! Ngươi là cá hay thuộc loài thủy quái gì vậy ? Cứ sức này thì còn chịu được vài trận mưa nữa. Sao, giờ thấy đói chưa ?

– Đừng hỏi lôi thôi. Chặt phứt đầu tao đi cho rồi !

– Không được ! Chặt bây giờ để đầu ngươi rớt xuống cắn ta hả ?

Rồi nhìn trời, ông nói:

– Trăng đẹp quá ! Ở trên đó, ngươi ngắm trăng chắc thú hơn ta.

– Này thằng trọc hổ mang kia ! Mở mắt nhìn cho rõ:

ta chưa yếu sức đâu, ta muốn làm gì vẫn còn làm được.

Dứt lời, Thạch Kinh Tử uốn cong mình tung lên cao rồi buông xuống, vùng vẫy dãy dụa như con cá mắc câu. Sức mạnh của hắn làm cành đại bách rung chuyển, lá và vỏ cây rơi lả tả trên đầu Đại Quán. Nhà sư vẫn thản nhiên, nhưng vẻ ung dung có hơi giả tạo. Ông đưa tay khoan thai phủi lá cây rụng trên vai:

– Được lắm. Cứ giận, càng giận điên cuồng càng tốt. Hãy tỏ cho mọi người biết ngươi hãy còn sung sức ! Có người nói kềm chế được nóng giận là cương nghị, khôn ngoan, nhưng ta, ta cho đó là ngu xuẩn. Ta không khen những người biết tự kềm chế và có giáo dục như vậy. Thanh niên phải tỏ ra có nhiều sức lực hơn bậc đàn anh chứ ! Giữ sức mà làm gì ! Dãy đi, cứ dãy cho khỏe, càng mạnh càng tốt.

– Ta giật đứt sợi dây này, xuống ăn thua đủ với ngươi !

– Dọa hay làm thật vậy ? Nếu thấy đủ sức thì cứ làm, ta đợi.

– Câm họng !

– Ngươi còn khỏe lắm ! Dãy rung cả cành đại bách, nhưng tiếc rằng đất vẫn chưa chuyển. Khỏe nhưng vẫn yếu. Sự cuồng nộ của ngươi chỉ do lòng hung bạo mà ra, vì xúc cảm nhất thời mà có, không phải là sự phẫn nộ của người vì thấy điều bất bình mà giận dữ. Sự phẫn nộ chỉ đáng kể khi nó bắt nguồn từ một niềm bất mãn tinh thần. Giận những chuyện không đâu là cái giận của đàn bà, không giải quyết được gì hết !

Thạch Kinh Tử không nghe, vừa chửi rủa vừa giẫy dụa. Càng dãy, sợi dây càng thắt chặt. Hắn mệt phờ người, những chỗ dây thừng siết vào da thịt rớm máu.

Đại Quán đứng nhìn một lúc, lắc đầu. Ông lấy giọng thân thiết khuyên nhủ:

– Thạch Kinh Tử ! Ngươi chẳng nên ngu ngốc như vậy. Dãy dụa bao nhiêu cũng chẳng làm cây gẫy được mà thế gian này đâu có sứt mẻ đi chút nào ?

Thạch Kinh Tử rên khe khẽ. Cơn cuồng nộ của hắn đã qua, hắn thấy lời Đại Quán nói đúng.

– Ta khuyên ngươi mang sức mạnh dùng vào việc gì có ích cho nhà cho nước. Hãy cố gắng làm một điều gì hữu ích cho những người chung quanh, tuy bây giờ có hơi trễ.

Ngươi cứ thử cố gắng đi, Trời Phật sẽ độ trì cho. Cả những người dân tầm thường trong làng này cũng sẽ cảm động và đối xử với ngươi khác trước.

Giọng Đại Quán trở nên buồn và nhu hòa:

– Thật đáng tiếc ! Ngươi sinh ra làm người mà hành động như loài dã thú, không bằng giống sói lang. Thật buồn ! Một thanh niên đang tuổi hăng hái như ngươi mà chết vô dụng, không có cơ hội nên người !

– Thế ngươi là người đấy hả ?

– Lúc nào ngươi cũng ỷ và sức mạnh vô địch. Bây giờ ai thắng, ai bại, ngươi đã thấy rõ.

– Ta không có gì phải xấu hổ. Cuộc đấu không ngay thẳng.

– Có gì khác đâu ? Ngươi bại không phải vì thiếu sức mạnh mà vì bất trí. Ta không dại gì đấu sức với một người khỏe như ngươi. Bạo hổ băng hà, tử nhi vô hối ! Ai đưa tay không ra bắt cọp bao giờ ! Người khôn hơn cọp là vì thế. Trong cuộc giao đấu giữa người và cọp, nếu cọp thua, chẳng ai bảo là cuộc đấu không ngay thẳng.

Thạch Kinh Tử không tỏ dấu hiệu gì nghe lời Đại Quán.

– Vũ dũng của ngươi cũng thế, không hơn gì sự hung tợn của một con vật. Đấy không phải là cái dũng của người hiệp sĩ. Lòng dũng cảm thật phải biết thế nào là sợ, sợ những điều đáng sợ. Người hiệp sĩ yêu cuộc sống, coi cuộc sống là vật báu vô giá và chỉ chết khi cần, tự quyết định lúc nào đáng chết và chết một cách đĩnh đạt …

Vẫn không có tiếng đáp lại.

– Thạch Kinh Tử, tội nghiệp cho ngươi ! Ngươi dũng cảm và có sức mạnh, nhưng thiếu kiến thức và không ngoan. Dũng cảm, sức mạnh chỉ là phương tiện. Kiến thức, khôn ngoan mới thực sự là cốt tủy của người hiệp sĩ khi hành đạo. Hợp những điều ấy lại, ngươi sẽ chỉ thấy có một đường ! Ngươi rõ không, Thạch Kinh Tử ? Một đường thôi !

Cây đại bách vẫn yên lặng. Yên lặng như phiến đá Đại Quán ngồi, như bóng đêm vây quanh gốc đại thụ.

Lát sau, Đại Quán đứng dậy:

– Nghĩ kỹ đi, Thạch Kinh Tử ! Nghĩ thêm một đêm nữa rồi chết cũng không muộn !

Nói xong, ông bỏ đi, đầu cúi, lòng nặng trĩu ưu tư. Nhưng được vài bước, tiếng Thạch Kinh Tử đã gọi giật ông lại:

– Thầy Đại Quán !

– Gì vậy ? Ngươi đã nghĩ chín rồi hả ?

– Đại Quán ! Xin thầy cứu con !

Tiếng Thạch Kinh Tử vang lên trong đêm khuya yên tĩnh. Một cơn gió nhẹ thoảng qua, lá cây xào xạc như than khóc càng làm tăng thêm nỗi bi thiết của lời kêu cứu.

– Con muốn trở nên người tốt. Sắp chết, con mới hiểu được giá trị của sự sống thì đã muộn, xin thầy giải thoát cho con.

– Lần đầu ta thấy con nói như một người. Con đã biết suy xét rồi đó !

– Con không muốn chết. Con muốn cố gắng làm lại tất cả.

Và hắn khóc:

– Đại Quán ! Xin thầy giúp con !

Nhưng nhà sư lắc đầu:

– Ta rất tiếc chẳng có quyền ấy. Đó là quyền của tạo hóa. Đầu chặt đi rồi, không gắn lại được nữa, luật thiên nhiên như vậy. Ta thương con nhưng không cởi trói cho con được, vì không phải ta đã trói con mà chính con đã tự trói con đấy ! Ta chỉ còn một điều khuyên:

Hãy anh dũng trước cái chết, và vì danh dự của ông cha, hãy cố giữ vẻ bình thản. Đọc kinh đi, ta mong sẽ có người nghe thấy lời con sám hối.

Rồi Đại Quán bước đi hẳn, tiếng guốc gỗ xa dần về phía tăng phòng.

Thạch Kinh Tử không kêu nữa. Nghe lời khuyên của nhà sư, hắn nhắm mắt lại lâm râm cầu nguyện và quên hết mọi sự, cả sự chết cũng như sự sống. Tâm hồn hắn lâng lâng, siêu thoát. Đối với hắn giờ đây mọi việc đều là hư ảo dưới bầu trời vằng vặc trăng sao, với gió đêm thì thào thổi qua những tàn lá. Hắn thấy lạnh, lạnh lắm.

Thời gian trôi qua. Thạch Kinh Tử cảm thấy như có người ở dưới gốc cây đang tìm cách trèo lên. Người đó ôm thân cây, cố gắng một cách vụng về bám lấy cành thấp nhất nhưng hai ba lần đều trượt và tuột xuống. Hắn nghe tiếng vỏ khô rào rạo mỗi khi người đó rướn mình lên và tiếng thở hổn hển. Sự vụng về và yếu đuối của người trèo làm hắn mường tượng có lẽ tay chân người ấy bị xây xát nhiều hơn là lớp vỏ xù xì của cây đại bách. Nhưng hình như người đó quyết tâm lắm, vì chẳng bao lâu sau đã thấy một bóng đen bò đến gần chỗ cành cây treo hắn. Thạch Kinh Tử nhịn thở, banh mắt ra nhìn. Có tiếng gọi đứt quãng, nhẹ như tơ lẫn trong hơi thở hổn hển:

– Thạch Kinh Tử !

– Ai đấy ?

– Oa Tử. Oa Tử lên cứu chàng.

– …

– Nghe chàng van xin, tiếng đau thương tự tâm khảm, Oa Tử không nỡ …

– Nàng định cởi trói cho ta thoát sao ?

– Vâng, trốn đi … Oa Tử cũng muốn rời khỏi chỗ tàn bạo và vô lý này. Oa Tử sẽ giúp chàng, chúng ta cùng nhau đi trốn.

Bấy giờ Thạch Kinh Tử mới nhận thấy Oa Tử đã sẵn sàng. Nàng mặc áo chẽn, một túi vải hành trang đeo sẵn trên vai.

– Vậy nhanh lên ! Cắt ngay dây đi, Oa Tử !

– Đây ! Cắt ngay đây !

Nàng rút trong lưng ra một con dao nhỏ, một tay ôm cành cây, một tay cứa vào sợi dây. Sợi chão đứt dần và sau một tiếng phựt, Thạch Kinh Tử rơi xuống như hòn đá, kéo theo cả thiếu nữ. Một cành thấp gần gốc cây đập vào lưng hai người làm nàng đau điếng rồi cả hai ngã lăn trên nền đất.

Thạch Kinh Tử ê ẩm cả người. Oa Tử ngất đi, nằm yên như khúc gỗ. Một lúc sau tỉnh lại nàng mới gượng đau, bò đến chỗ Thạch Kinh Tử nằm, cắt nốt dây trói cho hắn.

– Nàng không sao chứ ?

– Cũng không biết nữa, nhưng chắc còn đi được.

– May mà có cái cành thấp này đỡ, nếu có việc gì cũng không đến nỗi nặng lắm !

– Còn chàng thì sao ? Có yếu quá không ?

– Ờ …ờ …ta …ta …

Hắn ngưng lại một chút, giơ tay định hét lớn, bỗng nhiên khựng lại, vui mừng ghé vào tai Oa Tử:

– Sống rồi ! Ta sống thật rồi !

– Dĩ nhiên là chàng sống.

– Sống ! Không dĩ nhiên gì cả ! Rõ ràng là ta sống rồi !

– Bây giờ phải trốn khỏi nơi này ngay. Chần chừ có người trông thấy, mình khó thoát lắm !

Rồi chống tay đứng dậy, Oa Tử khập khiễng bước đi, theo sau là Thạch Kinh Tử, yên lặng và run rẩy như hai con sâu yếu ớt bị thương trong trận tuyết giá đầu mùa.

Họ lầm lũi đi như trong mơ, thất thểu trên con đường rừng rậm rạp cho đến khi tiếng gà văng vẳng đằng xa làm họ thức tỉnh. Oa Tử dừng chân trông về hướng đông, bảo Thạch Kinh Tử:

– Trời hửng sáng rồi đấy !

– Đây là đâu thế ?

– Đỉnh đồi Nakayama.

– Đã đến đỉnh đồi Nakayama rồi cơ à ? Nhanh quá nhỉ !

Oa Tử mỉm cười yếu ớt. Nàng gắng gượng đáp lời Thạch Kinh Tử mà như nói với chính mình:

– Ờ, nhanh thật ! Nếu quyết tâm, ta có thể làm những việc không ai ngờ được !

Rồi bỗng sực nghĩ ra điều gì, nàng vội vã thêm:

– Chết ! Quên mất. Chắc anh đói lắm. Mấy ngày nay có được ăn gì đâu !

Nghe nói đến ăn, Thạch Kinh Tử thấy bụng cồn cào, đau quặn, nước rãi ứa đầy miệng. Oa Tử ngồi xuốn vệ đường, mở đẫy lấy ra bốn chiếc bánh nếp. Ngồi trông nàng mở đẫy, hắn thấy sao chậm quá, tưởng có đến hàng giờ mới xong. Tay run run bóc bánh, mùi thơm của lá gói đưa lên mũi khiến hắn choáng váng. Hắn nhai trệu trạo vài cái đã nuốt ngay, nhưng vẫn tận hưởng được hương vị ngọt ngào của đậu xanh quyện với bột nếp nhuyễn tan trong miệng.

“Ta sống thật rồi !”, hắn nguyện thầm sẽ khôn ngoan hơn và quyết tâm sống một cuộc đời khác.

Trên trời, mây hồng lên rực rỡ. Thạch Kinh Tử nhìn nét mặt người bạn đồng hành đã rõ hơn. Hắn no bụng, yêu đời và không còn lo sợ nữa.

– Trời sáng rồi ! Oa Tử nói. Chúng ta phải hết sức cẩn thận. Đây là ranh tỉnh rồi đó!

Thạch Kinh Tử ngạc nhiên:

– Ranh tỉnh … Ta phải đi Hinagura kia mà !

– Đi Hinagura làm gì ?

– Cứu Ô Nhiên. Ô Nhiên bị giam ở đó. Nàng với ta chia tay tại đây thôi !

Oa Tử nhìn hắn, kinh ngạc:

– Chàng muốn đi một mình à ? Nhưng nếu biết thế, Oa Tử đã không bỏ Miyamoto.

– Làm sao được ? Chẳng lẽ cứ để Ô Nhiên bị giam ở đấy mãi !

Oa Tử cầm tay Thạch Kinh Tử nhìn vào mắt hắn, chứa chan thông cảm và say đắm:

– Thạch Kinh Tử, khi nào thuận tiện, Oa Tử sẽ nói rõ chàng nghe cảm tình của Oa Tử đối với chàng, nhưng bây giờ chàng đừng bỏ Oa Tử ở đây. Đi đâu cho Oa Tử theo với!

– Không được đâu.

– Chàng nên nhớ – Nàng nắm chặt tay Thạch Kinh Tử – lúc nào Oa Tử cũng muốn ở bên chàng. Đi cứu Ô Nhiên, nếu thấy Oa Tử theo làm phiền thì Oa Tử sẽ đến Himeji đợi chàng vậy !

– Cũng được ! Như thế tiện hơn !

– Thế nào chàng cũng trở lại nhé.

– Dĩ nhiên.

– Oa Tử đợi chàng ở cầu Hanada ngoại ô thành Himeji đấy ! Dù lâu một trăm hay một ngàn ngày, Oa Tử cũng đợi !

Thạch Kinh Tử gật đầu, rảo bước lên núi. Oa Tử đứng lặng trông theo cho đến khi bóng hắn khuất dần trong những lùm cây rậm rạp.

Chương 8: Vết chân dã thú

Mặt trời mới lên khỏi con sào, cháu ngoại bà Hồ Điểu đã hốt hoảng chạy tới, tay xách dép, tay quệt mũi, thở hổn hển:

– Bà ơi, bà ! Trên chùa có chuyện !

Bà Hồ Điểu mãi quạt lò, tiếng quạt giấy phành phạch. Bà không lưu ý mà cũng hầu như không nghe tiếng thằng bé.

– Bà ! Có chuyện trên chùa !

– Chuyện gì ?

– Thạch Kinh Tử trốn rồi !

– Trốn rồi ? Thật hay bỡn ?

Trong cơn thảng thốt, bà vô tình để cây quạt bị lửa cháy táp một miếng. Bà lấy chân dậm tắt, hỏi lại:

– Chắc không ? Mày bịa chuyện đấy chứ ?

– Thì ai cũng nói vậy. Trên chùa đương rối loạn cả kia kìa. Oa Tử và thầy Đại Quán cũng biến mất luôn.

Mặt bà Hồ Điểu tái mét, chân tay run lẩy bẩy như bị trúng gió. Thằng cháu giương mắt ngạc nhiên nhìn bà và sợ hãi giật lùi ra cửa.

– Kỳ Ô Nô !

– Dạ.

– Chạy ba chân bốn cẳng tìm ba mày về đây. Rồi đến nhà cậu Ngô mời cậu lại ngay bà bảo. Nhanh lên, không được la cà dọc đường, chết …chết đòn đấy !

Giọng bà có vẻ luống cuống.

Nhưng thằng bé chưa bước ra khỏi cổng ngoài, bà Hồ Điểu đã thấy một đoàn người lũ lượt kéo đến, đi đầu là cậu Ngô cùng con rể bà và một số lực điền trong xóm.

Họ xôn xao bàn tán:

– Oa Tử chắc theo thằng Thạch Kinh Tử rồi !

– Cả sư bác cũng không thấy đâu, lạ quá !

– Thì một đồng một cốt cả. Không biết bà già nghĩ sao đây ? Gia đình Hồ Điểu phen này cứ gọi là mất hết danh giá.

Cậu Ngô và rể bà Hồ Điểu mỗi người mang một ngọn giáo cũ, binh khí của tổ phụ để lại. Bên ngoài họ làm bộ hung hăng lắm nhưng trong lòng bối rối chưa có định kiến.

Họ kéo vào nhà báo tin bà Hồ Điểu hay để xem bà xử trí ra sao vì từ trước đến nay đối với họ, bà vẫn là tay cứng cỏi.

– Thạch Kinh Tử bỏ trốn rồi, bà biết chưa ?

– Biết rồi. Đợi đấy, ta ra ngay.

Hồ Điểu Anh thật không hổ là người cầm đầu đảng tộc. Khi biết chuyện Thạch Kinh Tử bỏ trốn, sau phút chấn động ban đầu, bà lấy ngay được bình tĩnh. Bà vào nhà trong, yên lặng quỳ trước bàn thờ gia tiên cầu xin phù hộ rồi đến bên tủ đựng đồ gia bảo, mở ngăn kéo lấy thanh kiếm cũ. Kính cẩn nâng ngang mày, bà lâm râm khấn vái và giắt kiếm vào thắt lưng. Rồi thay áo chẽn, đi dép cỏ, buộc chặt quai dép vào cổ chân, bà điềm tĩnh mở cửa bước ra nhà khách. Mặt bà đanh lại.

Đám gia nhân yên lặng đứng nhìn, lòng ngưỡng phục lộ ra trên những khuôn mặt rám nắng. Họ đã hiểu và tin tưởng:

gia chủ nhà Hồ Điểu không làm họ thất vọng.

– Chuyện đâu còn có đấy. Ta sẽ thân hành đi bắt nó đem về xử tội xứng đáng.

Hồ Điểu Anh bước ra cửa giữa hai hàng người đứng dạt ra hai bên. Một kẻ lên tiếng:

– Nếu bà già đi thì chúng ta đâu ở nhà được !

Thế là đám đông cùng ùa ra cổng, gặp gì cầm nấy. Dao gậy không đủ, họ chặt tre vót nhọn làm vũ khí, náo nhiệt ồn ào trong bầu không khí hỗn loạn. Họ theo chân Hồ Điểu lên núi, hăng hái đi không nghỉ. Đến trưa tới đỉnh đồi. Mặt trời đã đứng bóng, chỉ thấy nắng chói chang đổ trên đồng cỏ gianh xa tắp, không bóng người cũng như bóng vật.

– Trốn rồi ! Chúng nó trốn xa rồi !

Họ giận dữ sục sạo khắp nơi ra đến tận ranh tỉnh gần đồn thương chánh. Binh sĩ trong đồn cản lại không để số đông như vậy vượt ranh giới. Cậu Ngô bước ra giải thích:

– Thạch Kinh Tử là một tên tội phạm nguy hiểm, Oa Tử là gái mất nết, nếu không cho chúng tôi đuổi theo bắt chúng thì còn mặt mũi nào nhìn ai nữa. Gia đình chúng tôi mất hết thể diện, đến phải bỏ làng đi mất.

Viên đội trưởng thông cảm nhưng nhất quyết không để mọi người vượt ranh tỉnh.

Luật như vậy, muốn đi phải có giấy phép, mà xin được phép cũng lâu lắm. Hồ Điểu bàn cùng mọi người rồi quay lại nói:

– Thế ta và cậu Ngô, hai người đi được không ?

– Được ! Luật cho phép tới năm người.

Hồ Điểu Anh gật đầu vừa ý. Bà nói với gia nhân:

– Vậy mọi người hãy trở về. Không phải lo gì cả. Ta biết chuyện này trước khi đi nên đã khấn tiền nhân và mang sẵn gươm đây. Ta thề phải làm xong hai việc, một là bắt Oa Tử, nó bôi tro trát trấu vào danh dự nhà ta ; hai là tìm cho được thằng Mãn Hà Chí về để có người nối dõi, dù phải buộc dây lôi cổ nó về cũng không ngại. Ta sẽ tìm cho nó một con vợ đức hạnh gấp trăm lần con Oa Tử để bảo toàn danh giá nhà ta. Ta thề như vậy !

Tiếng hoan hô vang dậy, nhưng con rể bà cúi mặt không nói. Hồ Điểu Anh chăm chú nhìn hắn, tiếp lời:

– Ta và cậu Ngô nhiều tuổi rồi, đáng lẽ được quyền nghỉ ngơi, nhưng ý ta đã quyết.

Dù đôi ba năm ta cũng phải đi khắp, tìm bằng được nó. Trong khi ta không có nhà, anh là con rể hãy thay ta quán xuyến mọi việc. Còn các ngươi phải chịu khó chăm chỉ làm ăn, không được biếng nhác. Ai trễ nải việc chăn tằm, nhổ cỏ, ta sẽ không để yên đâu !

Các ngươi nghe rõ cả chứ ?

Cậu Ngô đã gần năm mươi, bà Hồ Điểu hơn cậu mười tuổi. Đám gia nhân ngại không muốn để hai người xông pha chống cự với một địch thủ hiển nhiên vừa khỏe, vừa trẻ hơn nhiều, lại có tiếng là hung bạo và khát máu như Thạch Kinh Tử.

– Hay bà với cậu mang thêm vài người chúng tôi nữa đi cùng. Họ cho phép tới năm cơ mà !

Bà lão lắc đầu quầy quậy:

– Không cần ! Không cần ! Ta đâu đã yếu sức ! Ai cũng cho là Thạch Kinh Tử khỏe nhưng ta không sợ. Nó là đứa con nít, ta biết từ khi còn ẵm ngửa. Nó trẻ và có sức mạnh thật, nhưng mình dùng mưu chứ ! Vả lại cậu Ngô cũng chưa già kia mà. Thế nào chúng ta cũng bắt được nó ! Giờ về đi, nhớ lời ta dặn đấy !

Hồ Điểu Anh làm hiệu xua mọi người trở lại rồi cùng cậu Ngô tiến qua hàng rào ranh tỉnh. Không ai ra cản, hai chị em bà thong thả qua cổng đồn. Có người còn bắt loa tay gọi lớn:

– Nếu đau ốm, nhớ báo tin anh em chúng tôi biết !

– Nhớ giữ gìn sức khỏe !

Họ quay lại nói với nhau:

– Bà già thế mà còn gan dạ lắm !

Cậu Ngô sống về nghề thợ săn, lúc trẻ cũng là tay giang hồ tham dự nhiều trận chiến đẫm máu. Giờ có tuổi nhưng trông cậu vẫn còn trang kiện, tóc chưa bạc, da chưa mồi. Cậu là em bà Hồ Điểu, chính tên là Ngô Gia Kế, dân làng gọi tắt là cậu Ngô. Trước những biến cố mới đây làm nhục gia phong, cậu Ngô rất quan tâm nên hết lòng nghe theo những quyết định của bà chị.

– Chị Hồ Điểu này !

– Gì thế cậu ?

– Chị đi xa đã sắp xếp trước, còn tôi chẳng có gì, vẫn đeo bộ quần áo thường ngày.

Phải dừng chân chỗ nào cho tôi kiếm đôi dép và cái nón đã chứ !

– Ờ, gần đây hình như có quán trà.

– Chắc quán của chú Mã Khôi. Quán khá lớn bán đủ đồ nhật dụng.

– Vậy ta tạt qua đấy, cần gì thì mua.

Gần đến quán, họ ngạc nhiên thấy trời đã về chiều. Trên núi, ánh sáng vẫn còn thịnh, họ tưởng còn lâu mới tối, nhất là đương mùa hè, ngày dài đêm ngắn.

Hai chị em rảo bước vào quán, gọi trà uống và nghỉ ngơi. Bà Hồ Điểu nói:

– Từ đây tới Takano còn xa, cứ mửng này đi hết đêm chưa chắc tới. Hay ta qua quán Thiên Phúc trọ tạm, cậu nghĩ thế nào ?

– Thì cứ đi được đến đâu hay đến đấy.

Nghỉ ngơi và mua đồ nhật dụng xong, cậu Ngô cầm nón đứng dậy, nhưng nghĩ sao lại để xuống.

– Chị đợi tôi một chút.

– Cậu đi đâu ?

– Tôi đi lấy nước mang theo phòng khi khát.

Cậu Ngô tháo ống tre đeo vai, lần theo sân ra suối. Dìm ống tre xuống dòng nước đợi cho bong bóng không sủi lên nữa, cậu mới xách ống, men theo phòng trọ trở về. Qua cửa sổ hé mở, tò mò nhìn vào, cậu ngạc nhiên thấy có người nằm đắp chiếu trùm chăn.

Tuy không rõ mặt, nhưng nhìn mớ tóc đen dài xõa ra hai bên, cậu cũng đoán chừng là phụ nữ. Mùi thuốc sắc hăng hăng cay từ trong phòng bay ra đến tận cửa ngoài.

Tiếng bà Hồ Điểu sốt ruột gọi:

– Cậu Ngô ! Làm gì lâu thế ?

– Xong rồi đây.

– Mau lên còn đi chứ !

Cậu Ngô bước vội đến gần bà, rụt rè giải thích:

– Hình như có người ốm nằm trong phòng.

– Trong phòng có người thì có gì lạ ! Quán trà mà ! Cậu chỉ để ý những chuyện đâu đâu, chẳng khác gì trẻ nít !

Cậu Ngô cười bẽn lẽn. Cũng như mọi người, cậu thường bị bà Hồ Điểu nạt nộ, nhưng khác với số đông, cậu biết tính bà nên tìm cách khôn khéo tránh né không để bà giận dữ.

Hai người lầm lũi theo đường đồi dốc, hướng về phía thị trấn Harima. Vì là con đường hàng ngày có nhiều người và lừa ngựa tới lui khu mỏ bạc nên mặt đường lồi lõm rất khó đi.

– Chị cẩn thận kẻo ngã !

– Chà ! Giờ trứng lại khôn hơn vịt đấy ! Đường này ta nhắm mắt đi cũng được. Có cậu phải dè chừng thì có !

Đột nhiên có tiếng vó ngựa và tiếng nói sau lưng:

– Hai bác đi nhanh gớm nhỉ !

Quay lại, bà Hồ Điểu thấy chủ quán trà cưỡi ngựa gần tới.

– Phải ! Chúng tôi mới nghỉ ở quán xong nên khỏe thêm được chút. Còn bác đi đâu đấy ?

– Đi Tatsumo.

– Đi Tatsumo giờ này hả ?

– Ở đó mới có thầy lang. Đi ngựa thì chừng nửa đêm sẽ tới.

– Bác gái đau hả ?

– Không. Chủ quán hơi cau mặt. Nếu vợ con thì còn nói gì. Đây là khách qua đường đấy chứ !

– À, người đàn bà nằm trong phòng ấy phải không ? Lúc lấy nước ở suối về tôi có thấy.

Cậu Ngô đỡ lời chị. Lần này đến lượt bà lão cau mặt.

– Phải đấy. Cô ta tạt qua quán nghỉ chân nhưng trông có vẻ sốt nặng. Tôi mời vào phòng trong nằm, đến bây giờ cũng không đỡ. Tôi sợ còn nặng thêm !

Hồ Điểu Anh cắt ngang:

– Có phải cô bé khoảng mười sáu mười bảy tuổi, người mảnh dẻ không ?

– Dạ phải, cỡ tuổi ấy. Cô ấy bảo từ Miyamoto đến.

Bà lão đưa mắt nhìn cậu Ngô rồi lấy tay sờ vào thắt lưng như muốn tìm vật gì. Lúng túng một lát, bà thất vọng kêu lên:

– Thôi rồi ! Lại quên rồi !

– Chị quên gì ?

– Chuỗi tràng hạt. Tuổi già lú lấp quá, bây giờ mới nhớ ra, hình như ta để trên ghế đẩu ở quán trà. Lúc đi vội, quên khuấy mất !

Chủ quán nhanh nhẩu đỡ lời:

– Thế để tôi quay ngựa lại lấy giúp.

– Không sao, không dám phiền bác. Bác đương đi tìm thầy thuốc kia mà. Cứu bệnh như cứu hỏa, chớ nên trì hoãn. Để chúng tôi trở lại lấy cũng được.

Dứt lời, Hồ Điểu Anh liếc nhìn cậu Ngô, rồi bước vội theo đường cũ trở lại quán nước.

Hai người hối hả đi trong bóng chiều bắt đầu đổ xuống nhanh trên thung lũng. Họ thở hổn hển, không ai nói với ai lời nào. Trong thâm tâm, cả hai đã biết chắc đó là Oa Tử.

Sau khi bị nhiễm lạnh vì trận mưa ngoài sân chùa mấy hôm trước, Oa Tử vẫn chưa bình phục. Nàng đã cố gắng rất nhiều để cứu Thạch Kinh Tử và trên đường đi trốn, bản năng sinh tồn đã làm nàng quên hết mệt mỏi. Nhưng từ khi Thạch Kinh Tử bỏ đi, sự chán nản về tinh thần và đau đớn về thể chất đã làm nàng không chịu đựng được nữa.

Cơn sốt hừng hực kéo đến, nàng thất thểu đến gần quán trà, đầu nhức như muốn vỡ, chân tay rời rã.

Oa Tử chỉ nhớ mang máng đã vào trong quán, nhưng không biết tại sao lại nằm đây và nằm đây từ bao giờ. Trong cơn mê sảng, nàng chỉ thấy khát, xin nước uống luôn miệng. Hình như chủ quán có nói gì và cho nàng uống thuốc nhưng Oa Tử không nhớ rõ.

Da khô, miệng đắng, nàng thì thào:

– Có ai đấy không, cho tôi xin hớp nước:

Không thấy trả lời, nàng chống tay ngồi dậy bò ra cửa. Đến bên lu nước, với tay cầm chiếc gáo tre, nàng bỗng nghe ngoài cửa có tiếng động như tiếng liếp sập xuống.

Quán trà tuy lớn nhưng vẫn là một ngôi hàng miền sơn cước, cửa ngõ đến khuya mới khóa, khách vãng lai chỉ cần đẩy chiếc then gỗ cài lỏng lẻo là vào được dễ dàng.

Bà Hồ Điểu và cậu Ngô bước qua ngưỡng cửa. Trong nhà tối đen như mực. Bà lão rỉ tai em:

– Tối quá ! Nó nằm ở đâu vậy ?

– Để tôi đi nhóm lửa. Hồi chiều tôi thấy nó ở bên này.

Khi mồi lửa đã gây xong, ánh sáng vàng vọt càng làm tăng thêm sự trống trải của gian phòng rộng. Hai chị em bước nhẹ sang căn bên:

chiếc chiếu vẫn còn nguyên đó nhưng trên chiếu chỉ trơ trọi một túi vải thô. Oa Tử không còn nằm đấy nữa !

Bà Hồ Điểu nhìn cánh cửa hé mở phía sau và bóng Oa Tử thấp thoáng cạnh lu nước. Bà kêu lên:

– Kia kìa ! Nó kia kìa !

Oa Tử giật mình, tiện tay cầm chiếc gáo ném ngay vào mặt bà lão rồi bỏ chạy xuống đồi, vạt kimono xòe rộng như cánh hạc trắng trong đêm tối. Hồ Điểu Anh vuốt nước lạnh trên mặt, gọi rối rít:

– Cậu Ngô ! Cậu Ngô ! Đuổi theo nó đi !

– Nó chạy rồi hả ?

– Dĩ nhiên nó chạy rồi ! Tại cậu mở cửa làm rơi tấm liếp, nó thấy động chạy mất rồi. Thật chẳng được cái tích sự gì !

Bà dậm chân tức giận, cầm gậy đuổi theo. Trong màn đêm bắt đầu xuống dày đặc ở ven rừng, bóng Oa Tử thấp thoáng trên đồng cỏ gianh như một con nai vừa vượt thoát khỏi tay đám thợ săn tàn ác.

– Không sao ! Chị để tôi. Nó đang ốm mà chân con gái bì với tôi thế nào được. Bắt lại khó gì !

Cậu Ngô hít một hơi dài, phóng theo. Tiếng bà Hồ Điểu chạy sau dặn với:

– Dùng gươm dọa nó chứ đừng giết. Đem nó về đây cho ta hỏi tội !

Nhưng mới được một quãng, cậu Ngô kêu lên kinh ngạc. Hồ Điểu Anh lo sợ hỏi:

– Cái gì thế ?

– Chị coi kìa !

Bà lão chạy đến:

ngay dưới chân hai người, sâu chừng một trượng là một khe đất hở khá rộng chạy dài mãi đến tận khu rừng kế cận, bụi gai và tre chen nhau mọc chi chít.

– Sao ? Nó nhảy xuống đấy à ?

– Vâng. Chắc cũng không sâu lắm !

Hồ Điểu Anh nắm vai câu em lắc mạnh:

– Vậy cậu còn đợi gì nữa ?

Có tiếng sột soạt trong lòng khe như tiếng vải bị xé rách và tiếng chân đạp cành khô tìm chỗ đứng.

– Trời tối như thế, chị thử nhảy xuống coi ! Phải về quán đốt đuốc mới tìm được chứ !

Thạch Kinh Tử khoanh tay ngồi trên phiến đá lớn, chăm chú nhìn đồn Hinagura bên kia thung lũng. Chị hắn đang bị giam tai đó. Hắn ngồi từ sáng đến chiều hôm trước, rồi gần như cả ngày hôm nay vẫn chưa tìm được cách gì cứu Ô Nhiên. Hắn nhất định không chịu rời khỏi nơi này khi chưa cứu được chị. Binh sĩ trong đồn có đến trên dưới năm chục người canh gác. Nhìn địa thế xung quanh, cân nhắc đường tiến thoái, hắn thấy khó quá. Sau đồn có khe núi sâu hiểm trở; trước đồn, hai lần cửa gỗ dày kiên cố.

Hơn nữa tứ bề đều là bãi hoang, cỏ thấp và cằn cỗi, không một lùm cây hay bụi rậm khả dĩ len lỏi trốn tránh. Vào một ngày trong sáng như ngày hôm nay, tấn công vào đấy chỉ làm bia cho tên đạn trong đồn bắn ra. Có lẽ phải đợi đến đêm. Nhưng Thạch Kinh Tử quan sát thấy cửa đồn đóng sớm lắm, ngay sau khi mặt trời lặn. Ban đêm, bò đến gần mở cửa, chắc chắn sẽ làm cho đường dây báo động rung các mõ gỗ đánh thức cả đồn dậy. Suy đi tính lại mãi mà không tìm được kế gì tạm gọi là an toàn để lẻn vào đồn một cách êm thấm. Thạch Kinh Tử buồn bã vì bất lực.

“Cách gì cũng nguy hiểm vừa cho chị ta và cũng cho ta nữa. Mà không biết có kết quả gì không !”. Hắn thở dài. “Sao bây giờ ta hèn quá ! Trước đây đâu có vậy, cần gì đắn đo sống chết !”.

Hôm sau hắn lại ra chỗ cũ, ngắm đồn Hinagura, bồn chồn lo lắng. Hắn không dám lại gần, chỉ quanh quẩn bên hốc núi, tự trách mình mất hết can đảm. Chưa bao giờ hắn thấy kém cỏi như vậy, phân vân không biết như thế là hèn nhát hay thận trọng. Hắn đăm chiêu suy nghĩ về những lời khuyên của Đại Quán:

bạo hổ băng hà tử nhi vô hối.

Hắn có một mình phải đương đầu với mấy chục người, thất bại là chết. Hắn chết, chị hắn chết. Hai cái chết vô ích. Hắn trở lại bình tĩnh hơn, tính chất nghiêm trọng của vấn đề làm hắn tự thấy mình có trách nhiệm phải đắn đo, cân nhắc.

Dũng cảm không phải là hung bạo. Đột nhiên hắn thấy rõ ý nghĩa của những lời nói khôn ngoan ấy.

Thạch Kinh Tử thở phào nhẹ nhõm như vừa giải quyết xong được một chuyện khó khăn, như vừa trút bỏ được cái xác nặng nề của một con vật để trở thành người dũng cảm, không ngoan, không bị những hành động hiếu thắng nhất thời chi phối.

Như viên ngọc thô, mạng sống của hắn là một vật báu vô giá, nếu không được giũa mài, viên ngọc chỉ là đồ vô dụng.

Thạch Kinh Tử ngửa mặt nhìn trời cao, màu xanh trong vắt huyền diệu. Tâm hồn hắn hôm nay cũng giống như màu xanh kia, không bị một đám mây thù hận nào làm vẩn đục. Nhưng nghĩ đến chị, lòng hắn lại dạt dào thương xót. Không lẽ để Ô Nhiên cứ bị giam mãi trong đó ! Hắn nhất định cứu chị ra, dù lần này có phải dùng đến những hành động trái với bài học hắn vừa mua bằng nhiều đau thương nhục nhã. Hắn quyết định thi hành kế hoạch.

“Đợi đêm khuya, ta vòng ra sau núi. Ghềnh đá dốc như vậy mà lại hay, chắc chúng ỷ vào địa thế thiên nhiên hiểm trở không canh gác kỹ. Chờ xem động tĩnh ra sao, ta sẽ trèo vào đồn sau”. Vừa nghĩ đến đó, một mũi tên bay đến cắm phập xuống đất, cạnh chỗ hắn ngồi chừng vài bước. Bên kia thung lũng, lính canh lố nhố chỉ trỏ. Chắc chúng đã trông thấy hắn và bắn thử một mũi tên xem phản ứng.

Hắn yên lặng, ngồi nguyên chỗ cũ.

Mặt trời sắp lặn. Từ sau những chỏm núi về phương tây, ánh nắng chiếu lên các tầng mây hắt xuống tỏa ra thành những tia sáng như nan quạt vàng rực. Một con chim bay ngang, Thạch Kinh Tử cầm đá ném. Con vật bất hạnh rơi xuống cỏ, hắn nhặt lên vặt lông ăn bữa chiều. Cắn vào thịt chim bê bết máu và nóng hổi, hắn lại thấy khơi dậy bản năng dã thú, lòng sôi sục đau thương và căm giận, hắn muốn giết.

Tiếng la hét từ chân núi theo chiều gió vang đến tai Thạch Kinh Tử. Một toán chừng hai chục binh sĩ trong đồn cầm vũ khí ào ào leo đường mòn đến gần chỗ hắn đứng. Họ chỉ trỏ bao vây hắn.

– Nó đấy ! Nó đấy ! Bắt lấy nó !

– Thạch Kinh Tử ở Miyamoto đấy. Cẩn thận, nó khỏe lắm !

Thạch Kinh Tử chưa ăn hết con chim. Đưa mắt nhìn toán lính, ánh mắt hắn đầy tức giận như mắt của loài dã thú nguy hiểm bị quấy rối lúc đang ăn.

Hắn ngồi xổm xuống, hai tay quơ hai hòn đá lớn.

– A …á …á Sau tiếng thét ghê hồn, hai hòn đá bung ra, thây người ngã xuống. Hàng rào binh sĩ dạt ra hỗn loạn. Bóng Thạch Kinh Tử như lằn chớp phóng xuống chân đồi chạy thẳng đến cổng đồn.

Không ai kịp phản ứng, lúc sau mới ùa theo la hét. Thạch Kinh Tử đã như con hổ bị thương, nhảy đến cổng đồn vượt qua lần cửa thứ nhất. Hắn say máu không để ý đến toán binh sĩ đuổi phía sau, đấm một quả như trời giáng vào đầu tên lính gần đó định nhảy lại cản hắn. Tiện tay hắn nhổ luôn cây cột rào, vung loạn xạ, gặp gì đánh nấy.

Không cần biết là người hay vật, hắn đập liên hồi trong tiếng kêu thất thanh của bọn lính, phá tung lần cổng gỗ thứ hai chạy vào các phòng giam.

– Ô Nhiên ! Chị Ô Nhiên ! Em đây, Thạch Kinh Tử ! Em vào cứu chị …

Mắt hắn đổ lửa, nhìn láo liên. Phòng nào cửa đóng, hắn lấy cây cột rào đập tan nát. Trong bóng đêm chập choạng, những tiếng kêu đau đớn lẫn với tiếng chân sầm sập chạy tứ tán, điên cuồng như trong một trận hỗn chiến.

– Ô Nhiên ! Ô Nhiên … ! Ô Nhiên … !

Không thấy Ô Nhiên, tiếng Thạch Kinh Tử kéo dài và lạc đi như tiếng hú.

Trong bóng tối một gian phòng giam bẩn thỉu, có người đương tìm cách chui ra ngoài. Thạch Kinh Tử nhảy bổ tới, lấy chân chặn cổ. Hình thù nhỏ thó ấy kêu thất thanh, lạy van rối rít. Thạch Kinh Tử nắm cổ áo gã xách lên, gầm như rống:

– Chị tao đâu ? Ô Nhiên đâu ? Không nói tao đập chết !

– Dạ …dạ …Ô Nhiên không ở đây nữa, bị giải đi nơi khác rồi.

– Bao giờ ? Ở đâu ?

– Dạ … hôm kia, đi Himeji.

– Himeji ?

– Dạ phải.

– Mày nói láo tao giết.

Thạch Kinh Tử nắm tóc hắn. Hắn rên rỉ:

– Dạ dạ … tôi không nói láo … Tôi thề …

– Vậy được. Mong mày nói đúng, nếu không …

Toán lính ập tới cửa. Thạch Kinh Tử tung người đó ra như một võ khĩ, ném vào đầu bọn lính rồi lẩn vào bóng tối nhà giam, thoát ra cửa sau chạy trốn.

Hàng chục mũi tên bắn theo veo véo. Một mũi tên trúng vào vạt áo hắn như một cây kim khâu lớn. Thạch Kinh Tử vụt qua sân, nhảy lên hàng rào rồi nhanh như chớp, vượt ra khỏi đồn. Đằng sau hắn, tiếng súng nổ hồi vang dội trong đêm tối.

Thạch Kinh Tử tụt nhanh xuống ghềnh đá. Hắn nghe văng vẳng lời khuyên của Đại Quán:

“Người hiệp sĩ yêu cuộc sống … Hung tợn là sức mạnh của loài thú … Phải sợ những điều đáng sợ …”.

Chương 9: Thạch điền đạt lang

Thạch Kinh Tử đợi ở vùng ngoại ô thành Himeji, lúc đứng trên cầu Hanada kín đáo ngó người qua lại, lúc ẩn dưới chân cầu, lần theo những đường phố nhỏ hẹp ra vào thị trấn hay đi lẫn trong đám đông. Chiếc nón sụp xuống tận mắt, manh chiếu cũ quấn quanh mình đến cằm, trông hắn chẳng khác gì một tên ăn mày nghèo khó.

Hắn ngạc nhiên không thấy Oa Tử đâu. Nàng hứa đợi trăm ngày hay ngàn ngày cũng đợi mà sao mới có một tuần đã không thấy bóng dáng. Thạch Kinh Tử rất sợ khi hứa với ai điều gì không giữ được lời. Đã nhiều lần hắn muốn bỏ đi, nhưng còn nấn ná, một phần vì chưa gặp Oa Tử, một phần muốn nhân cơ hội tìm chỗ giam chị.

Theo dòng người tiến sâu vào thị trấn, đương miên man suy nghĩ, đột nhiên hắn nghe tiếng gọi phía sau:

– Thạch Kinh Tử !

Giật mình quay lại, thấy Đại Quán rảo bước đi tới. Hắn ngạc nhiên bực bội, không ngờ nhà sư này đã nhận ra hắn trong bộ cải trang rách rưới.

Đại Quán nắm tay Thạch Kinh Tử, giọng gọn và sắc:

– Theo ta !

Giữa đường phố chẳng biết phản ứng ra sao, hắn lúng túng. Nhìn ánh mắt hiền hòa nhưng nghiêm nghị của Đại Quán, Thạch Kinh Tử như bị thôi miên.

– Đừng làm bậy ! Ta mất công tìm ngươi đã lâu.

Thạch Kinh Tử líu ríu theo nhà sư. Hắn không mảy may biết Đại Quán dẫn mình đi đâu, nhưng một lần nữa, không thể nào chống lại ý muốn của vị tăng kỳ lạ này. Không hiểu sao, hắn linh cảm mình sẽ bị dẫn về cây đại bách sau chùa hoặc đem đi nhôt ở một căn hầm tối tăm nào đó trong lâu đài, có thể cùng một chỗ với chị hắn. Tự nhiên hắn mong được gặp mặt chị. Bây giờ nếu có phải chết thì Ô Nhiên, người mà hắn thương yêu nhất, sẽ là người cùng hắn chia sẻ những giây phút cuối cùng trên dương thế.

Đại Quán dẫn Thạch Kinh Tử đi một lúc thì thấy lâu đài Himeji sừng sững hiện ra trước mặt. Nhìn tòa nhà đồ sộ, hắn hiểu tại sao người ta lại gọi nó là Bạch Hạc lâu. Lâu đài trắng toát, uy nghi đứng trên thành đá hoa cương cao vút không khác gì một loài kỳ điểu từ trên trời đậu xuống ngạo nghễ.

Thạch Kinh Tử theo Đại Quán qua chiếc cầu lớn bắc ngang chiến hào bên ngoài.

Toán lính mặc giáp sắt, nghiêm chỉnh canh phòng trước cổng thành, gươm giáo loang loáng dưới nắng hè làm hắn chột dạ. Đại Quán không quay đầu nhìn lại nhưng cũng biết ý, nắm chặt tay hắn để trấn an và khích lệ. Hai người qua cổng thành thứ nhất, đến cổng trong, thấy binh sĩ còn đông và nghiêm túc hơn như sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc. Đây là nội điện, nơi quan đầu lãnh cư trú. Những cảnh này, dân chúng không khỏi sợ hãi. Sống trong cảnh tranh chấp hỗn loạn đã lâu, cũng như tại nhiều lâu đài ở các địa phương khác, sự thanh bình là một nếp sống xa xỉ làm họ bỡ ngỡ không quen.

Đại Quán đến gần toán lính canh, nói với viên đội trưởng:

– Hắn đây !

Rồi yêu cầu làm theo những điều ông dặn:

– Đội trưởng cẩn thận ! Mãnh sư chưa thuần, đừng có khinh lờn, nguy hiểm lắm !

Và tiếp tục đi qua cổng lớn tiến vào nội điện. Mọi người để ông tự do, dường như đã quen với sự lui tới của vị thiền sư này.

Viên đội trưởng yên lặng nhìn Thạch Kinh Tử, giơ tay ra hiệu mời hắn theo mình đến một dãy nhà thấp và bảo hắn vào tắm cho sạch sẽ. Thạch Kinh Tử ngần ngại. Hắn nghĩ đến lần tắm trước ở nhà bà Hồ Điểu và cái bẫy hắn đã ngu dại chui đầu vào để suýt nữa thì mất mạng. Đứng giáp vào tường, khoanh tay trước mặt, hắn đưa mắt nhìn quanh.

Nơi đây thật yên tĩnh. Đúng là cảnh thái bình, an lạc ; cây cỏ xanh mướt, tươi tốt như ở một hoang đảo, xa mọi chuyện thị phi. Chắc Tùng Tôn gia dùng nơi này để hưởng mọi lạc thú sau khi trận mạc vất vả.

Một gia nhân bước vào mang bộ kimono đã gấp sẵn, cung kính để trên ghế cùng với các đồ trang phục khác.

– Để ngài dùng khi tắm xong. Cần gì, đại nhân cứ truyền, tiểu tốt túc trực ngoài kia.

Rồi lặng lẽ cúi đầu lui bước.

Những đồ trang phục để trên ghế, ngoài bộ kimono đen, còn có một cây quạt, vài chiếc khăn lụa với một cặp kiếm, một trường, một đoản. Tất cả đều giản dị, không đắt tiền nhưng đủ dùng cho một kiếm sĩ. Thấy được đãi ngộ một cách quý trọng, hắn cảm động, muốn cúi xuống cầm khăn lên áp vào má để hưởng mùi thơm và hơi ấm của lụa mới. Hắn yên tâm, mở cửa bước vào phòng tắm.

Tôn Điền Tùng Cương đứng tì tay trên lan can trước hàng hiên tư dinh, nhìn ra vườn. Ông lùn và mập, nửa đầu phía trước cạo trọc theo kiểu các kiếm sĩ đã được thụ phong, mặt lấm tấm rỗ hoa. Tuy không mặc triều phục nhưng dáng điệu rõ ra phong cách đại gia, nghiêm trang và đĩnh đạt.

Thấy Thạch Kinh Tử từ đằng xa, ông cầm quạt chỉ và hỏi Đại Quán:

– Phải hắn đấy không ?

– Dạ phải.

Nhà sư cung kính cúi đầu.

– Trông được đấy chứ. Đại sư cứu hắn là phải lắm !

– Đó là nhờ ơn đại gia, không phải do bần tăng.

– Đại sư quá khiêm tốn ! Nếu ta được vài người như đại sư giúp đỡ thì biết bao kẻ hữu ích đã không uổng mạng và toàn dân miền này cũng khá hơn !

Nói xong, ông ta thở dài:

– Điều làm ta đau lòng là hầu như tất cả thủ hạ của ta đều chỉ biết có việc bắt trói và chặt đầu bách tính.

Lát sau, Thạch Kinh Tử được dẫn đến trình diện Tôn gia. Ngồi trong vườn, đầu hơi cúi, hay tay kính cẩn để trên đùi, hắn nghe tiếng Tôn Điền Tùng Cương hỏi, giọng trầm và ấm:

– Ngươi tên Yết Mân Thạch Kinh Tử phải không ?

Thạch Kinh Tử ngước mắt nhìn khuôn mặt của nhân vật đệ nhất quyền uy hắn mới chỉ nghe danh nhưng lần đầu diện kiến, rồi tỏ vẻ tôn kính đáp:

– Dạ, thưa phải.

– Họ Yết Mân là một chi trong đảng tộc Khải Mân Tử và Khải Mân Mã Song, chắc ngươi biết, trước đây là lãnh chúa cư ngụ tại lâu đài này.

Thạch Kinh Tử thấy cổ họng như thắt lại. Hắn chẳng biết trả lời sao. Là đứa nghịch tử của dòng họ, từ nhỏ hắn đã làm nhiều chuyện động trời, không kiêng nể gì các lãnh chúa nhưng không ngờ đồi trụy đến mức làm mất cả danh giá tổ tông như thế ! Bây giờ có người nhắc lại quá khứ, hắn xấu hổ mặt đỏ bừng.

– Những điều ngươi làm không tha thứ được !

Lời Tôn gia trở nên nghiêm khắc như những lời buộc tội:

– Ta buộc lòng phải trừng phạt ngươi.

Quay sang Đại Quán, Tôn Điền Tùng Cương hỏi:

– Thủ hạ của ta, Hoa Kính Áo Đại Môn, đã tự tiện hứa nếu đại sư bắt được tên này thì có toàn quyền muốn trừng phạt ra sao mặc ý, đúng không ?

– Xin đại gia hỏi thẳng Áo Đại Môn.

– Ta hỏi hắn rồi.

– Vậy đại gia cho rằng bần tăng đã dối gạt đại gia chăng ?

– Dĩ nhiên là không. Áo Đại Môn đã thú nhận, nhưng ta muốn đại sư xác quyết.

Mặc dầu không được phép, nhưng hắn là thủ hạ của ta. Lời hắn đã hứa, ta phải trọng.

Cho nên tuy là đầu lãnh vùng này, ta không có quyền phạt Thạch Kinh Tử nữa. Tùy đại sư định liệu.

– Bần tăng đã có dụng ý.

– Ta đoán không sai. Vậy đại sư cho nghe cao kiến.

– Bần tăng thiển nghĩ nên giữ tội nhân lại một thời gian để huấn phục.

– Nữa ?

– Bần tăng nghe nói phía nam lâu đài có một căn thạch thất bỏ phế lâu ngày, không ai dám lai vãng vì nhiều ma quỷ …

– Đúng ! Thạch thất đó ở riêng một khu, không dùng được việc gì nên tối tăm ẩm thấp lắm. Đã lâu không ai mở cửa.

– Vậy đại gia không phiền lòng khi trong lâu đài của một lãnh tụ có nhiệm vụ soi sáng muôn dân lại có một căn phòng không ánh sáng hay sao ?

– Ờ, ta chẳng bao giờ nghĩ đến điều đó đấy !

– Bá tánh có thể nghĩ như vậy và có hại đến uy tín đại gia. Bần tăng đề nghị xin được soi sáng ngôi thạch thất ấy !

– Hừ …

– Nếu đại gia cho phép, bần tăng sẽ sử dụng nó làm nơi giam giữ Thạch Kinh Tử cho đến khi nào hắn đủ sáng suốt. Hắn sống tối tăm đã lâu rồi, bây giờ là lúc cần chỉ cho hắn một con đường quang đãng. Thạch Kinh Tử, ngươi nghe ta nói không ?

Thạch Kinh Tử không đáp, nhưng Tôn đầu lãnh cười ha hả. Ông gật đầu vừa ý:

– Được lắm ! Được lắm ! Thật hợp ý ta !

Đại Quán và Tôn Điền tuy không cùng địa vị trong xã hội nhưng thông cảm nhau thật dễ. Cả hai đều là thiền hữu và coi nhau thân thiết tựa anh em. Ông tiếp:

– Sau khi dẫn hắn đến thạch thất, xin đại sư trở lại dùng trà. Ta đợi.

Nói xong, ông khoan thai trở vào nội sảnh. Hình dáng Tôn đầu lãnh tuy thấp lùn nhưng sự hiện diện của ông như bao trùm khắp tòa lâu đài to lớn.

Đêm đã khuya lắm. Trong căn nhà đá trên đỉnh vọng lâu, Thạch Kinh Tử vẫn còn ngồi suy nghĩ. Ở đây, thời gian như ngưng hẳn, không đồng hồ, không lịch, không xuân hạ thu đông, bốn mùa qua đi chẳng ai hay biết. Trong phòng tối âm u, chỉ còn ngọn đèn dầu leo lét tỏa ánh sáng vàng vọt lên khuôn mặt xanh xao của Thạch Kinh Tử ngồi yên lặng trước tập Tôn Tử binh pháp đặt trên chiếc kỷ thấp. Cuốn sách mở tới thiên “Địa hình”:

“Tôn Tử nói:

Hình đất có chỗ thông, chỗ vướng, chỗ trống, chỗ hẹp, chỗ hiểm, chỗ xa. Hình thông, chiếm trước chỗ cao sáng, giữ đường lương thuận thì lợi. Hình vướng, quân địch không phòng, ra quân sẽ thắng. Quân địch có phòng, ra quân không thắng, rút về khó, ắt không lợi …”.

Mỗi khi đọc đoạn nào không hiểu, Thạch Kinh Tử lại ngồi thừ người suy nghĩ, đọc đi đọc lại. Đoạn nào hay, hắn lẩm nhẩm thuộc lòng tựa người tụng kinh. “Cho nên kẻ biết việc binh, công không lầm, thủ không quẫn. Biết mình biết người, phần thắng đã đành ; biết đất biết trời, trăm trận trăm được …”.

Khi mỏi mệt hoặc buồn ngủ, hắn với tay lấy bát nước để sẵn bên vã lên mặt cho tỉnh táo. Hết dầu, hắn rót ở hũ ra. Góc phòng, sách xếp hàng đống:

binh thư, kiếm pháp, kinh điển, chữ Nhật có, chữ Hán có, nhiều vô số kể. Suốt ngày, hắn vùi đầu vào đọc theo những thư chỉ dẫn của Đại Quán gửi vào, cùng với các bộ sách tham khảo mượn trong thư các của Tôn đầu lãnh.

Trước khi tự nguyện giam mình vào thạch thất, Thạch Kinh Tử đã nghe lời Đại Quán:

– Ta sẽ gửi sách vào cho ngươi đọc. Hãy trau dồi kiến thức trước khi trau dồi võ công. Một danh tăng đã nói:

“Vùi đầu trong kinh điển, ta đọc thiên thư, vạn quyển. Đọc xong, thấy lòng thông suốt”. Ngươi hãy coi căn thạch thất này như bụng mẹ và hãy chuẩn bị tái sinh. Nếu ngươi coi nó bằng mắt thì đây chỉ là một căn phòng tầm thường, trống rỗng, tối tăm ; nhưng nếu ngươi coi nó bằng trí óc rồi để tâm phán đoán, suy xét thì phòng này chính là con thuyền đại giác đưa ngươi tới ánh chân quang. Tùy ngươi quyết định.

Thạch Kinh Tử từ lâu đã không còn đếm ngày tháng. Trời lạnh là mùa đông, trời nóng là mùa hè, hắn không cần biết thêm mà bốn mùa cũng không ảnh hưởng gì đến hắn. Không khí trong phòng lúc nào cũng ẩm thấp. Nhưng có điều chắc chắn là lần này nếu chim én lại bay đến làm tổ dưới mái vọng lâu thì là lần thứ ba, kể từ khi hắn đến ở căn thạch thất. Mùa xuân thứ ba trong bụng mẹ !

Hắn tự nhủ:

“Sắp hăm mốt rồi ! Ta đã làm gì đời ta trong suốt hăm mốt năm ấy?”.

Nghĩ đến những điều đã làm, nhiều khi hối hận khóc rưng rức lên như đứa trẻ. Cơn đau đến dằn vặt làm hắn mệt mỏi, ê chề có khi cả ngày, lòng đau như cắt.

Cho đến một hôm, khi đàn én đầu xuân đã bắt đầu bay đến chao đi chao lại trên mái vọng lâu, hắn bỗng nghe tiếng ai gọi tên ngoài cửa sắt. Âm thanh quen thuộc, nhưng tiếng nói dường như lạ tai. Đã lâu lắm, hắn không được nghe tiếng đồng loại.

– Thạch Kinh Tử, ngươi vẫn mạnh chứ ?

Sau tiếng mở khóa lách cách, dáng quen thuộc của Đại Quán hiện ra trên khung cửa. Thạch Kinh Tử quá xúc động, không nói nên lời, giơ tay vụng về nắm áo nhà sư kéo vào phòng. Mấy năm nay, những gia nhân mang cơm nước vào cho hắn đều như câm điếc, bây giờ nghe lại giọng và trông mặt người quen cũ, hắn không thể nào không mừng rỡ.

– Ta mới đi xa về. Ba năm rồi đấy nhỉ, chắc giờ ngươi đã giác ngộ hơn trước.

– Thầy Đại Quán ! Con biết thầy hết lòng thương con. Con thành thật cảm ơn thầy.

Đại Quán ngạc nhiên, mỉm cười vỗ vai Thạch Kinh Tử:

– Trong căn thạch thất vắng vẻ này, mấy năm nay không có ai trò chuyện, vậy mà bây giờ con đã biết xử sự như một người. Tốt lắm ! Hôm nay ta dẫn con ra khỏi nơi đây.

Hãy giữ lấy những kiến thức đã thu thập được sau nhiều năm tháng khổ luyện. Ra đời, tiếp xúc với xã hội, vốn đó quý lắm đấy con ạ !

Đại Quán dẫn Thạch Kinh Tử đến ra mắt Tôn Điền, lần này trong đại sảnh chứ không ở ngoài vườn như trước. Sau phần nghi lễ thường lệ, Tôn đầu lãnh ngỏ ý muốn thu hắn làm thuộc hạ, Thạch Kinh Tử từ chối:

– Tiểu nhân rất cảm kích, nhưng tự xét bây giờ chưa phải lúc. Vả lại vong hồn người đã khuất hẳn sẽ ngăn cản không cho tiểu nhân nhận ân sủng ấy.

– Sao vậy ? Ngươi đã gặp những hồn ma trong căn thạch thất chăng ?

– Thưa không. Khi còn ở căn nhà đá, tiểu nhân có thấy trên xà nhà và vách tường nhiều vết đen lấm tấm. Mới trông tưởng là sơn, nhưng cầm đèn soi kỹ thì không phải.

Đó là những vệt máu người, máu tổ tiên của tiểu nhân còn lưu lại trước khi chết để bảo vệ dòng họ.

– Hừ … có thể lắm !

– Nhìn những vết máu ấy, tiểu nhân đau đớn và xấu hổ. Ông cha tiểu nhân đã có một thời oanh liệt, rồi vì lầm lỗi đã thất bại và chết thảm, oan hồn vật vờ như lá thu trước gió. Nhưng những giọt máu hào hùng ấy vẫn còn luân lưu trong huyết quản của tiểu nhân đây …

Thạch Kinh Tử nói đến đấy, mắt quắc lên, sáng như đổ lửa:

– Một ngày nào đó, giòng máu ấy sẽ khôi phục lại khí thế xưa. Tuy bất xứng, nhưng tiểu nhân vẫn thuộc dòng họ của tổ tiên. Anh linh các Người sẽ đưa đường chỉ nẻo để tiểu nhân trả mối cừu hận, bấy giờ e rằng tiểu nhân không thể không nghe lời … Thưa đại gia, thời này chưa phải thời thái bình. Vì dân và vi ơn đức của đại gia, tiểu nhân có bổn phận không nên để mối thù ấy khơi dậy.

Đại Quán gật đầu:

– Ta hiểu ý. Đi là phải, nhưng đi đâu ? Con định trở về Miyamoto, sống cả đời ở đó chăng ?

Thạch Kinh Tử mỉm cười buồn bã:

– Con muốn một mình trở lại Miyamoto một lần thôi.

Tôn đầu lãnh quay lại nói với Đại Quán:

– Ta hiểu. Vậy xin đại sư bảo với thuộc hạ lo tiền bạc và quần áo chu tất cho hắn.

Đại Quán cúi đầu:

– Đa ta đại gia đã quan tâm.

Tôn đầu lãnh mỉm cười:

– Đại Quán ! Lần đầu tiên ta thấy đại sư cám ơn ta đấy !

Thiền sư cũng cười:

– Quả có thế. Bần tăng sẽ không tái phạm nữa.

– Hắn còn trẻ, đi cho biết đó biết đây là tốt. Tái sinh, có phải đại sư dùng chữ tái sinh không, thì phải có tên mới chứ. Hắn sinh tại vùng đất sỏi đá, đặt tên là “Thạch Điền” để không quên cái gốc. Đại sư nghĩ thế nào ?

– Đại gia nói rất phải. Thạch Điền còn nghĩa là đồ vô dụng, nhưng bây giờ hắn không còn vô dụng nữa, ta mong hắn đạt được chí hướng, vậy bần tăng xin thêm vào hai chữ “Đạt Lang” cho hợp với tình ý và khai triển ý tái sinh …

– Hay lắm ! Hay lắm ! Tôn Điền gật đầu. Thạch Kinh Tử ! Kể từ nay, tên ngươi là “Thạch Điền Đạt Lang”. Gắng giữ lấy cái chí để trở nên người hữu ích !

Thạch Kinh Tử cúi rạp đầu, kính cẩn:

– Tiểu nhân xin tuân mệnh !

– Thạch Điền Đạt Lang ! Cái tên thật hay ! Nào chúng ta hãy uống rượu mừng tên mới !

Tôn đầu lãnh đứng dậy, theo sau là Đại Quán và Thạch Kinh Tử. Ba người kéo nhau sang phòng bên, khay rượu bày ra, chén thù chén tạc cho đến tối. Thân hữu và bộ tướng của Tôn gia cũng được mời đến. Trong bữa tiệc, Đại Quán cao hứng đứng dậy, biểu diễn một vũ điệu xưa.

Thạch Kinh Tử, bây giờ là Thạch Điền Đạt Lang, ngạc nhiên không ngờ ân nhân của mình không những là một học giả uyên bác mà còn là một nghệ sĩ tài hoa làm hắn càng thêm cảm phục.

Cuộc vui kéo dài đến khuya mới dứt.

Hôm sau, Thạch Điền Đạt Lang và Đại Quán cùng rời khỏi lâu đài.

Thạch Đạt Lang chập chững những bước đầu tiên trong nếp sống mới, một nếp sống khắt khe hắn tự nguyện tuân theo để rèn luyện kiếm pháp mà trong ba năm khổ hạnh hắn đã phần nào lãnh hội được lý thuyết.

Còn Đại Quán có những dự tính riêng:

ông tiếp tục cuộc hành hương thăm các chùa chiền để trau dồi thêm về thiền đạo.

Bây giờ đã đến lúc hai người phải chia tay. Ra khỏi thị trấn, Thạch Đạt Lang quay lại giã từ ân nhân. Đại Quán nắm tay hỏi:

– Con muốn gặp ai nữa không ?

– Ai ?

– Ô Nhiên.

– Chị con còn sống hả thầy ?

Hắn không ngờ người chị thương yêu đã nhiều lần săn sóc hắn như một người mẹ vẫn còn trên dương thế, nhưng hắn không dám hỏi. Đại Quán cho biết ba năm trước đây, Ô Nhiên bị giải đến lâu đài, nhưng vì không chứng cớ nên đã được tha. Chị hắn không muốn trở về làng cũ, hiện ở cùng với người bà con xa tại trấn Sayo, cuộc sống bình yên và sung túc.

– Con muốn gặp chị con không ? Nàng mong lắm. Ba năm trước ta đã nói với nàng là con chết rồi, nhưng ta có hứa sẽ dẫn đến thế cho nàng một người em mới, khác với Thạch Kinh Tử xưa kia.

Thạch Đạt Lang giơ hai tay chắp ngang trán, tỏ vẻ kính trọng như đứng trước Phật đài, giọng run run cảm động:

– Không những thầy đã hết lòng thương con mà còn quan tâm đến chị con như thế, lòng từ bi ấy con biết lấy gì báo đáp !

– Vậy để ta dẫn con đến thăm Ô Nhiên, đấy là cách con cảm ơn ta đó.

– Không, con nghĩ không cần thiết. Thầy cho con biết tin là đủ. Để chị con coi con như chết, và con cũng tin như thế. Bây giờ không phải lúc quay lại dĩ vãng mà cần hướng về tương lai. Con đường chập chững trên đường đi tìm chính mình, không biết có đủ quyết tâm để cải thiện bản thân hay không, chừng nào tiến bộ đôi chút, bấy giờ có lẽ nhìn về quá khứ cũng không muộn, nhưng bây giờ thật chưa phải lúc.

– Ừ, con nghĩ thế cũng được.

– Con nói không được gãy gọn, mong thầy hiểu cho.

– Ta hiểu chứ. Ta rất vui lòng thấy con quyết tâm theo đuổi mục đích như vậy. Hãy cứ làm những gì con cho là đúng với lương tâm.

– Vậy xin giã biệt thầy. Một ngày nào đó, nếu còn hơi thở, con xin lại đến bái yết.

– Tốt lắm, nếu có cơ hội, con chớ bỏ qua.

Đại Quán quay lưng đi, nhưng được vài bước lại dừng lại.

– À, còn chuyện này nữa. Bà Hồ Điểu và cậu Ngô đương tìm con và Oa Tử đấy. Họ nhiều tuổi rồi, nhưng nhất quyết đi tìm để trả hận. Có thể họ cũng làm phiền con, nhưng không quan trọng lắm đâu, đừng để tâm. Lại còn Áo Đại Môn nữa. Con không biết hắn, hắn là viên đội trưởng chỉ huy toán binh sĩ lùng bắt con ngày trước, vì không làm tròn bổn phận, giờ bị loại ra khỏi đám thuộc hạ của Tôn gia rồi. Chắc ngày nay hắn cũng chỉ là thảo mãng trong vùng mà thôi !

Đại Quán trở nên đăm chiêu:

– Thạch Điền Đạt Lang ! Đường con đi không phải là không có trở ngại. Phải cẩn thận mới được !

– Con sẽ cố gắng.

– Vậy ta yên tâm. Thôi, ta đi đây.

Đại Quán quay gót về hướng tây. Thạch Đạt Lang đứng nhìn theo cho đến khi bóng nhà sư khuất hẳn, hắn mới cất bước. Để tay vào đốc kiếm, hắn vừa đi vừa suy nghĩ:

“Bây giờ chỉ còn thanh kiếm này là vật duy nhất trên đời ta tin cậy”. Hắn lẩm bẩm như nói với chính mình. “Ta sẽ tuân theo kỷ luật, coi thanh kiếm này như chính hồn ta, tu tỉnh thành người khôn ngoan và lương thiện. Đại Quán theo thiền đạo, còn ta theo kiếm đạo, chưa chắc ai đã hơn ai. Ta còn trẻ, đâu đã lấy gì làm trễ !” Bước đi của Thạch Đạt Lang vững vàng, mạnh mẽ. Hất vành nón lá lên cao, nhìn quãng đường tương lai trước mặt, quãng đường vô định ai cũng phải qua, chẳng nhiều thì ít, hắn thấy lòng chứa chan tin cậy và hy vọng.

Thạch Đạt Lang chưa đi xa, mới ra khỏi ngoại ô thành Himeji được một quãng thì một thiếu nữ ở trên cầu Hanada chạy tới. Hắn nheo mắt, lấy tay che cho khỏi chói, rồi ngạc nhiên kêu lớn:

– Oa Tử !

Oa Tử chạy đến nắm áo hắn:

– Thạch Kinh Tử ! Chàng nhớ cầu này là cầu gì không ? Chàng có nhớ Oa Tử hứa đợi chàng ở đây không ?

– Oa Tử đợi ta ba năm ở đây đấy ư ?

– Vâng. Bà Hồ Điểu và cậu Ngô suýt nữa bắt được thiếp khi thiếp nằm bệnh ở quán trà chân núi, nhưng may sao thiếp thoạt chạy được và trốn đến đây. Oa Tử vẫn đợi chàng.

Nàng chỉ một cửa hàng nhỏ, làm những vật kỷ niệm bằng tre đan bán cho khách qua đường gần đó:

– Oa Tử kể tình cảnh họ nghe. Họ thương tình nhận cho vào giúp việc, nên mới có chỗ trú đợi chàng đấy chứ. Hôm nay là ngày thứ chín trăm bảy mươi, Oa Tử đâu có quên lời hứa !

Nàng nhìn mặt Thạch Đạt Lang như dò xét:

– Thạch Kinh Tử ! Chàng dẫn thiếp theo chứ ?

Thạch Đạt Lang thật chẳng có chút ý định gì mang theo Oa Tử hay bất cứ ai. Lúc này hắn vội đi, trong lòng đã quyết muốn tìm chỗ tự mình luyện kiếm. Đến chị hắn, người hắn thương yêu và muốn gặp mặt nhất, hắn cũng phải cố quên, nói gì đến Oa Tử hắn vẫn coi là vị hôn thê của Mãn Hà Chí, bạn hắn. Vả lại, làm sao đủ sáng suốt tự buộc mình vào kỷ luật khi luôn luôn có người đi kèm làm rộn. Những ý tưởng này mặc nhiên hiện lên nét mặt không dấu được. Hắn hỏi, giọng hơi sẵng:

– Dẫn Oa Tử đi ? Nhưng đi đâu mới được chứ ?

– Thì chàng đi đâu, thiếp theo đó.

– Cuộc hành trình của ta dài và gian khổ, không phải là một cuộc du ngoạn.

– Oa Tử sẽ không làm rộn chàng. Oa Tử chịu được chút ít cực khổ.

– Chút ít thôi ư ?

– Không. Gian khổ thế nào Oa Tử cũng chịu.

– Oa Tử ! Không phải chuyện ấy đâu. Làm sao một người muốn quyết tâm trở thành kiếm sĩ, lại để phụ nữ đi theo được ? Kỳ lắm. Người ta sẽ bảo:

“Kìa trông Thạch Đạt Lang, hắn là kiếm sĩ mà phải có vú nuôi đi theo chăm sóc !”.

Oa Tử vẫn giữ chặt lấy vạt áo hắn.

– Oa Tử ! Bỏ ta ra !

– Không ! Không bỏ ! Chàng đã lừa dối thiếp !

– Lừa dối lúc nào ?

– Ở trên đồi, chàng đã hứa mang Oa Tử theo mà.

– Chuyện xảy ra đã lâu rồi. Bấy giờ ta vội nên không nghĩ. Vả lại tại nàng đưa ra ý đó, ta gật vì không có cách gì chọn lựa !

– Không ! Không phải ! Nhất định không phải ! Chàng không nói thật phải không ?

Oa Tử tức giận đẩy Thạch Đạt Lang vào thành cầu.

– Ô hay ! Oa Tử làm gì thế ? Người ta nhìn kìa !

– Không cần. Ai nhìn mặc kệ ! Bấy giờ chàng bị trói trên cây, hỏi có muốn Oa Tử giúp không, chàng mong quá mà. Chàng bảo tôi cắt dây rồi đi trốn, còn chối nữa không?

Giọng Oa Tử run run, cố nói gãy gọn, nhưng nước mắt cứ trào ra, chảy dài trên má.

Khi nhỏ đã chịu cảnh côi cút, không cha không mẹ, lớn lên, vị hôn phu bỏ đi, bây giờ lại gặp cảnh này, nàng uất hận nấc lên tức tưởi. Thạch Đạt Lang xúc động, nhưng chẳng biết làm sao. Hắn lắp bắp:

– Kìa Oa Tử, đừng làm thế, người ta trông kìa. Ban ngày ban mặt, mua cười cho khách qua đường ư ?

Oa Tử buông áo Thạch Đạt Lang, gục đầu trên thành cầu thổn thức, tóc rồi bời xõa xuống hai vai.

– Chàng tha lỗi cho thiếp. Đáng lẽ thiếp chẳng nên nói những lời ấy. Thôi, chàng quên đi, thiếp chẳng làm ơn gì cho chàng cả.

Thạch Đạt Lang cúi xuống, vén mớ tóc để lộ khuôn mặt đẫm nước mắt của Oa Tử rồi nhìn thẳng vào mắt nàng, nói bằng một giọng dịu dàng đầy thương cảm:

– Oa Tử ! Trong suốt thời gian Oa Tử chờ ta, ta đã bị giam trong thạch thất ở lâu đài Himeji. Suốt ba năm trường ta không nhìn thấy ánh sáng mặt trời.

– Thiếp biết.

– Oa Tử biết ? Ai nói cho Oa Tử biết ?

– Thầy Đại Quán.

– Vậy hả ? Thầy có nói rõ hết không ?

– Cũng đủ để thiếp hiểu. Khi thiếp bị ngất đi dưới đáy vực, thầy Đại Quán đã cứu và dẫn đường cho về đây. Ba năm rồi, thầy vẫn thỉnh thoảng đến thăm. Hôm trước thầy có ghé dùng trà, nói chuyện về chàng. Thầy nói nếu gặp chàng “thì đấy là chuyện của hai người, ai biết rồi sau sẽ ra sao ?”. Bấy giờ thiếp không hiểu, nhưng nay thiếp đã rõ.

Thạch Đạt Lang bỏ tay xuống. Hắn nhìn quãng đường về hướng tây, tự hỏi chẳng biết rồi có còn gặp lại người đã cứu hắn không. Lòng bác ái của nhà sư bao la như biển, thương vạn vật chúng sinh chứ không riêng gì hắn. Ai đau khổ, hoạn nạn, Đại Quán đều ra tay cứu vớt, an ủi, khích lệ, dạy dỗ với một tinh thần vị tha tuyệt đối không mong đền đáp. So với lòng từ bi ấy, hắn thấy mình nhỏ nhen, hẹp hòi quá đỗi. Bất giác, trong lòng hắn dâng lên một niềm ao ước mạnh mẽ, muốn được trở nên người như thế, dù phải hy sinh tất cả mọi lạc thú trên đời.

“Ấy là chuyện của hai người”, lời nói của Đại Quán do Oa Tử nhắc lại đè nặng lên tâm hồn hắn làm hắn suy nghĩ. Qua hàng đống sách vở đã đọc, không có chương nào, mục nào nói về tình trạng khó khăn như tình trạng Oa Tử và hắn đương trải qua. Không biết ý Đại Quán muốn nói đó là chuyện riêng của hai người, chỉ hai người trong cuộc mới có thể giải quyết được, hay đó là chuyện nhỏ không đáng nói, hay đó là một vấn đề quan trọng, một thử thách lớn lao chính hắn và Oa Tử phải giải quyết.

Mãi suy nghĩ miên man, hắn cúi nhìn nước dưới chân cầu. Nước trôi mau, không trở lại.

– Thiếp đi với nhé !

Tiếng nàng cầu khẩn làm hắn tỉnh mộng.

– Chủ tiệm đã hứa cho thiếp thôi việc lúc nào cũng được. Để thiếp chạy về nói với chủ và thu xếp quần áo xong quay lại ngay.

Thạch Đạt Lang đặt tay hắn lên bàn tay nhỏ bé của Oa Tử trên thành cầu:

– Oa Tử nghe ta, hãy suy nghĩ một chút …

– Suy nghĩ gì nữa ?

– Về điều ta mới nói với Oa Tử. Ta vừa trở nên một người khác. Đã ba năm nay bị giam trong thạch thất tối tăm, chỉ đọc sách, ta đã khóc cho thân thế, đã hối hận biết bao nhiêu nhưng cũng đã tìm thấy ánh sáng. Ta mang tên mới:

Thạch Điền Đạt Lang, tên là Đạt Lang mà chưa đạt nên phải cố. Ta muốn dành tất cả thì giờ trong đời để tập nên người toàn thiện, không màng lạc thú gì khác. Nếu nàng theo ta, nàng sẽ không bao giờ có hạnh phúc, chỉ có thử thách và khổ đau. Rồi cùng với thời gian, tuổi tác, khổ đau càng thêm chồng chất …

– Chàng nói như vậy làm thiếp càng thấy gần chàng hơn. Bây giờ thiếp biết chắc thiếp không lầm. Thiếp đã thấy nơi chàng một người lý tưởng có lẽ suốt đời tìm kiếm cũng không chắc đã gặp …

Thạch Đạt Lang giật mình, hắn đi sai đường, kết quả trái với ý muốn !

– Oa Tử, ta rất tiếc không để Oa Tử cùng đi được.

– Để thiếp theo vậy. Thiếp không làm gì trở ngại đến công phu luyện tập của chàng đâu. Chàng cũng sẽ không biết có thiếp đi theo nữa.

Thạch Đạt Lang không biết trả lời ra sao.

– Thiếp không làm phiền gì mà ! Thiếp hứa với chàng như vậy.

Hắn vẫn im lặng.

– Vậy đồng ý nhé ! Chàng đợi thiếp ở đây, thiếp trở ra ngay. Chàng đi là thiếp giận đấy !

Oa Tử hối hả trở về cửa hàng bán đồ tre. Được vài bước, nàng quay mặt lại dặn với:

– Nhớ không được bỏ đi đấy !

Và trong niềm vui sướng, nàng cười, để lộ đôi má lúm đồng tiền xinh đẹp.

Thạch Đạt Lang vô tình khẽ gật. Bây giờ là lúc hắn có thể bỏ đi dễ dàng, nhưng sao chân hắn vẫn dính chặt xuống đất, lưu luyến như bị đôi má lúm đồng tiền và giọng nói van lơn giữ lại. Con người mới duyên dáng và dễ mến làm sao ! Có lẽ ngoài chị hắn ra, nàng là người yêu thương hắn nhất và hắn cũng dành cho nhiều cảm tình nhất. Hắn nhìn trời, nhìn nước, tay nắm chặt thành cầu, lòng băn khoăn, bối rối. Rút thanh đoản kiếm trong bọc ra, hắn vạch chữ lên thành gỗ.

Oa Tử trở lại cầu. Nàng mang dép cỏ mới, quấn xà-cạp vàng và đội nón lá rộng vành dùng để đi đường xa, quai lụa đỏ buộc dưới cằm trông thật rực rỡ, tươi tắn. Nhưng Thạch Đạt Lang đã không còn ở đấy nữa.

Oa Tử khẽ kêu lên một tiếng kinh ngạc, rồi như vừa ý thức được sự việc xảy ra, nàng òa lên khóc. Trên thành cầu, chỗ Thạch Đạt Lang đứng trước, một hàng chữ mới khắc, rõ ràng như đập vào mắt:

“Tha lỗi cho ta, tha lỗi cho ta !”.

Chương 10: Hoa Sơn phái

Năm mươi năm trọn kiếp

Hư ảo là cuộc đời

Cơn mê, đừng luyến tiếc

Hiu hắt lá phong rơi …

Nhân sinh quan coi cuộc đời là phù du, tạm bợ do tướng Y Đằng thâu tóm trong bốn câu thơ ngắn như trên rất được phổ biến trong xã hội Nhật vào đầu thế kỷ mười bảy.

Tướng Y Đằng sau thất trận vì bị phản bội. Ông tự tử tại Kyoto năm bốn mươi tám tuổi.

Hai thập niên sau, vào khoảng , cuộc nội chiến giữa các sứ quân kết thúc.

Tôn Điền Tùng Cương chiến thắng, nắm hết quyền bính, thế lực chỉ thua có hoàng gia ở kinh đô mà thôi. Khắp nơi thái bình an lạc, chỗ nào cũng mở hội, đèn treo hoa kết như trong những thời cực thịnh ngày trước. Nhưng sau cái vỏ thanh bình ấy, chẳng ai thấy cuộc sống yên vui này được bền. Kinh nghiệm hơn một thế kỷ nội chiến đã làm dân chúng càng tin vào tính chất phù du của kiếp người và kích thích họ nhiều hơn trong những cuộc tìm vui thâu đêm suốt sáng.

Lãnh chúa Tôn Điền Tùng Cương tuy vẫn nắm quyền nhưng chức tước đã chính thức trao cho người con thứ ba tên Dã Hạc. Có tin đồn tân đầu lãnh Dã Hạc sẽ đi Kyoto bái kiến hoàng thượng, nhưng ai cũng biết chuyến đi này không phải chỉ có mục đích nghi lễ suông. Ở miền tây, Hòa Giả Nghị, người kế vị Y Đằng cũng là một lãnh chúa uy quyền rất lớn, trước đây từng là địch thủ của Tôn gia. Thân phụ Giả Nghị đã cố duy trì quyền đầu lãnh cho dòng họ Hòa, chờ con trai khôn lớn, nhưng thất bại. Họ Hòa hiện ở thành Osaka, bề ngoài chịu thần phục Tôn gia nhưng bề trong vẫn ngấm ngầm mưu phản.

Tôn Điền không phải là không biết. Ông rất quan tâm đến vùng Osaka, cho đó là một lãnh địa tập trung nhiều kẻ bất mãn chống đối ông. Một số người cũng biết vậy, khôn ngoan lui tới cả đôi bên, khi thì tư dinh Giả Nghị, lúc thì phủ Tôn gia để cầu lợi.

Có người nói gia đình họ Hòa tiền bạc như nước, lâu đài đầy rẫy, giá muốn thu dụng tất cả những tay kiếm sĩ giang hồ trong vùng cũng chẳng khó gì. Họ dự đoán tình hình mỗi người một phách, nhưng tựu trung cái tinh thần hưởng lạc không mấy ai không có.

– Đấy rồi các bác xem, chẳng chóng thì chầy, sẽ có đánh nhau ghê lắm !

– Ờ …chắc cũng chẳng lâu đâu !

– Còn hồ nghi gì nữa ! Đèn này cứ là sẽ dẹp hết !

– Các bác chỉ lo hão ! Còn sống ta chơi cho thỏa cái đã, rồi muốn ra sao thì ra !

Lợi dụng tâm lý ấy, thanh lâu trà thất mọc lên như nấm. Tối đến, thiên hạ đổ xô nhau đi mua vui giải trí, mọi chuyện đều gác sang bên.

Từ căn nhà đường Tân Hổ gần Cấm thành, một toán võ sĩ trung niên ồn ào bước ra, cũng không ngoài mục đích tầm hoa hưởng lạc, tiếng cười nói oang oang, binh khí chạm nhau rổn rảng. Đó là một trang trại khá lớn có tường gạch quét vôi trắng bao bọc.

Cổng ra vào đồ sộ, mái lợp ngói xanh kiên cố. Bên cổng, một tấm biển gỗ to dày nhưng đã cũ, loang lổ và nứt nẻ nhiều chỗ, khắc hàng chữ lớn nét mòn vì mưa nắng:

Võ Đường Hoa Sơn Kyoto. Ở dưới, hàng chữ nhỏ hơn đề tên trại chủ:

Hoa Sơn Khổ Bích.

Trông dáng điệu, toán võ sĩ có vẻ ham luyện kiếm và sở trường về môn này, vì ngoài hai thanh kiếm thép mang trên lưng, một số còn đeo thêm kiếm gỗ. Vài thanh niên trẻ tuổi hơn vác cả giáo dài.

Mặt họ dữ tợn, trông phát khiếp:

mắt đỏ au như lúc nào cũng sẵn sàng gây ẩu đả.

Họ đi nghênh ngang, vây quanh một người trẻ tuổi ăn mặc sang trọng.

– Đêm nay đại ca muốn đi chơi đâu đây ?

Một người hỏi. Người được gọi là đại ca trả lời dõng dạc:

– Đi đâu cũng được, miễn là đừng đến chỗ hôm qua.

– Sao vậy ? Các em thích đại ca lắm mà. Họ chỉ nhìn đại ca, đâu thèm để mắt gì đến tụi này !

– Đại ca nói phải. Sao ta không tìm đến nơi nào mới, không ai biết chúng ta là ai có hơn không ?

Họ cãi nhau om sòm, không ngoài chuyện uống rượu và tìm gái.

Sau cùng, cả bọn kéo nhau đến xóm bờ sông, nơi tập trung nhiều nhà mới dựng.

Những năm trước đây xóm náy là một bãi hoang, cỏ dại cùng lau lách mọc đầy, cảnh tiêu điều hiu quạnh, chứng tích của một thời tương tàn còn để lại. Nhưng từ khi hòa bình vãn hồi, lác đác có người đến cư ngụ, rồi người nọ bảo người kia, xóm bờ sông bây giờ thành đông đúc. Giá đất tăng lên vòn vọt. Nhiều thanh lâu được mở ra, ngoài cửa treo rèm màu hồng hay hoàng yến, bên trong kỹ nữ ra vào tấp nập, nhất là về đêm. Thôn nữ từ các vùng xa mới vào nghề, mặt trát phấn trắng còn vụng, loang lổ, e thẹn nấp sau khung cửa vẫy gọi khách qua đường. Những thiếu phụ nghèo khó nhiều khi do chủ thanh lâu mua đi bán lại hàng loạt, ngồi túm tụm trong phòng, gảy đàn shamisen hát những bài hát huê tình hoặc thô tục rồi cười với nhau rúc rích.

Người được gọi là đại ca tên Hoa Sơn Sĩ Khánh, vóc dáng cao lớn, mặc bộ kimono màu vỏ già sẫm. Vừa bước chân đến xóm, Sĩ Khánh đã quay lại nói với một gã trung niên đồng bọn:

– Hồ Định ! Gọi người đi mua cho ta cái nón !

– Để che mặt phải không đại ca ? Ở xóm này, đại ca cần gì che mặt ?

– Không cần thì nói làm gì ? Đi ngay đi ! Ta không muốn thấy mọi người xầm xì chưởng môn phái Hoa Sơn đến giải trí ở khu này.

Hồ Định cười:

– Vậy chỉ tổ làm người ta chú ý. Ở đây nàng nào cũng biết ai đội nón rộng vành là con nhà phú quí. Đại ca lại đẹp trai, họ chẳng để yên đâu. Hà …hà …kìa, nàng đứng đằng kia khá đấy chứ !

Hồ Định vừa khéo đùa vừa khéo nịnh. Mọi người cười tủm tìm. Tuy nói thế nhưng hắn cũng sai gia nhân chạy đi mua nón và cả bọn đứng ở dưới mái hiên chờ. Nón mang về, Sĩ Khánh đội lên đầu, vành lớn che lấp nửa mặt. Sĩ Khánh thấy yên tâm và thoải mái hơn.

– Đại ca đội nón này được quá, đẹp trai nhất vùng đấy !

Rồi quay sang đồng bọn, Hồ Định đưa thêm một câu nịnh gián tiếp:

– Kia kìa, thấy không ! Các nàng đổ xô ra cửa nhìn đại ca đấy !

Thực ra Sĩ Khánh trông cũng rất có phong độ:

dáng người cao lớn, đi đứng hiên ngang, bên hông đeo song kiếm vỏ chạm trổ công phu, rõ ra con nhà quyền quý. Mặc dầu đội chiếc nón bình dân, hắn cũng không khỏi làm người ta chú ý.

– Ê ! Ê ! Anh chàng đẹp trai kia, mang nón gì kỳ vậy ?

– Vào đây cho chúng em xem mặt nào !

– Thẹn gì nữa ! Vào đây ! Vào đây !

Nghe những lời mời chào sỗ sàng, Sĩ Khánh lại càng làm ra vẻ kiêu kỳ, tuồng như không để ý. Nghe lời Hồ Định, đây là lần đầu tiên hắn đến xóm này, thấy được chú ý cũng nở mũi, nhưng lôi kéo quá, hắn hơi ngán. Là trưởng nam của Hoa Sơn Khổ Bích, từ nhỏ hắn chẳng phải quan tâm gì đến tiền bạc, nhưng cũng vì vậy mà không rõ đời sống xã hội bên ngoài. Đứng trước mặt phụ nữ, hắn cả thẹn mặc dầu bản tính kiêu căng.

Những lời xu nịnh của bộ hạ cùng với dáng điệu mời mọc của các ả giang hồ như liều độc dược dễ nuốt làm kích thích tính kiêu căng của hắn.

Một nàng đứng trước cổng nói lớn:

– Tưởng ai, té ra là đại ca đường Tân Hổ. Đại ca che mặt làm gì vậy ?

Sĩ Khánh quay sang vờ nói với Hồ Định, tuy trong lòng khoan khoái nhưng giả vờ bất mãn:

– Sao họ biết danh tính ta ?

– Dễ quá mà ! Nàng kia đáp. Ở đây ai cũng biết đệ tử phái Hoa Sơn thường mặc áo màu vỏ già, gọi là màu hoa sơn. Nhiều người mặc lắm !

– Nếu nhiều người mặc, sao nàng lại biết ta ?

– Vì không phải trên tay áo ai cũng có phù hiệu hình hoa thị !

Sĩ Khánh nhìn xuống tay áo:

– Hừ ! Bận sau phải cẩn thận hơn mới được !

Ngay lúc ấy, thình lình một bàn tay thò ra nắm chặt lấy áo hắn. Hồ Định kêu lên:

– Chà chà ! Đại ca che mặt nhưng quên che phù hiệu trên áo. Bây giờ thì mọi người đều biết cả rồi, ta phải vào đây thôi !

Sĩ Khánh lúng túng:

– Ừ thì vào ! Nhưng bảo nàng bỏ ta ra chứ !

Hồ Định hét to:

– Bỏ ra ! Đại ca nói sẽ vào, làm gì mà níu kéo thế ?

Cả bọn chui qua tấm rèm vào trong phòng. Cảnh nghèo nàn của căn phòng với vài cành hoa đã úa héo cắm lộn xộn trong một cái lọ rẻ tiền làm Sĩ Khánh phát chán. Nhưng hình như không để ý đến khung cảnh tồi tàn ấy, mọi người khác vẫn ồn ào cười nói:

– Mang rượu ra đây ! Có bánh trái gì thêm cành tốt !

Ưng Đằng, môn đệ ngang cấp với Hồ Định, cũng cất giọng khàn khàn truyền lệnh:

– Mang các em ra đây !

Mọi người phụ họa, bắt trước giọng Ưng Đằng:

– Mang các em ra đây, đừng để ông già đợi !

– Á à ! Ta đâu đã già mà các ngươi nói vậy ? Ta nhập môn lâu hơn các ngươi thật nhưng chưa già, tóc chưa sợi nào bạc !

– Ngươi nhuộm đi, ai biết !

– Tên nào nói vậy ? Đáng phạt chén rượu !

– Mệt quá ! Mang rượu lại đây ta uống.

Ưng Đằng tung chén rượu về phía người vừa nói. Người kia bắt lấy, ném ngược lại.

Tình hình có vẻ căng thẳng, Sĩ Khánh phải can thiệp:

– Ưng Đằng ! Hãy biểu diễn màn vũ xem còn trẻ không nào !

Ưng Đằng nén giận:

– Xin tuân lệnh !

Đứng lên đi vào góc phòng gần bếp, Ưng Đằng lấy tấm vải đỏ con hầu vẫn dùng đeo trước ngực để nấu ăn, quấn lên đầu, tiện tay ngắt cành hoa mận cài vào khăn, rồi vớ cây chổi dài, dậm chân đánh bịch xuống sàn mở đầu màn vũ.

Mọi người cười bò, la hét:

– Lão huynh đi bài vũ Du Tử Nghinh Xuân đấy. Hát theo đi, Hồ Định !

Hồ Định gật đầu, mời mọi người phụ họa. Đồng bọn cầm đũa gõ lên chén, có người còn dùng cả que gắp than đập vào thành hỏa lò đánh nhịp:

Qua dậu tre xanh Ý …a …là dậu tre xanh Cái giậu tre xanh …

Lá trúc buông mành, Tình tang kìa bóng ai áo trắng, Bóng ai áo trắng …ý …a …

Bên nhành liễu non …

Tiếng vỗ tay rào rào sau đoạn giáo đầu. Hồ Định vui vẻ cúi đầu chào. Kỹ nữ trong phòng bấm đàn samisen hát tiếp điệp khúc:

Cô em bữa trước, Hôm nay còn đâu.

Cô em hôm nay, Ngày mai chẳng thấy.

Ấy ai âu sầu, Thôi đừng mai mốt tìm lâu, Hãy yêu em nhỏ bên lầu hôm nay …

Một đệ tử ngồi ở góc phòng, tay cầm bát rượu lớn vừa đưa cho bạn vừa lè nhè:

– Sao không cạn hết đi, bằng hữu ?

– Đủ rồi !

– Đủ rồi ? Thế mà cũng gọi là kiếm sĩ ! Kiếm sĩ gì mà không uống hết bát rượu ?

– Cũng được. Nhưng nếu ta uống hết, ngươi cũng phải uống với ta.

– Được, thế là công bằng.

Họ đổi rượu cho nhau, người này bắt kẻ kia uống, rượu tràn cả ra ngoài mép chẳng khác gì đàn trâu bên máng nước. Một giờ sau, ai nấy mặt đỏ gay, người nôn mửa ra chiếu, người ngồi thừ nhìn quãng không, mắt hằn những tia máu. Một người bị rượu kích thích, hoa chân múa tay thách đố:

– Trong anh em đây, ngoài đại ca ra … hự …ai dám tự hào biết hết các chiêu thức…hự …của kiếm phái Hoa Sơn ?

Thanh niên ngồi gần đó, cạnh Sĩ Khánh, xem chừng còn tỉnh, cất tiếng dõng dạc:

– Ngươi chỉ khéo nịnh ! Kyoto này có nhiều kiếm phái mà Hoa Sơn chúng ta chỉ là một, có gì mà kiêu ngạo thế !

– Nhiều kiếm phái là những kiếm phái nào ?

– Như Võ Đằng Tôn Các ở Kurotani, Bạch Hạc ở Kitano; ấy là chưa kể Vạn Mai Kiếm ở Sài Hồ, mặc dầu phái này còn ẩn danh không thu đồ đệ.

– Những phái đó hơn gì Hoa Sơn ta ?

– Ta không luận hơn kém. Ta chỉ muốn nói chúng ta chẳng nên tự phụ coi môn phái mình là nhất.

Người kia khoan thai đứng dậy:

– Được lắm ! Ta muốn biết tài ngươi tới mức nào. Ngươi là đệ tử phái Hoa Sơn mà làm hạ giá bản môn, coi kiếm kỹ của sư tổ không ra gì, không biết ngươi là người thế nào?

– Ta không hạ giá ai cả, chỉ nêu lên những sự kiện. Sư tổ là bậc đệ nhất kiếm khách một thời, từng chỉ dẫn những chiêu kiếm trác tuyệt cho nhiều lãnh chúa, nhưng thời ấy đã qua rồi. Ngày nay số người trau dồi kiếm đạo không phải là hiếm, không những ở Kyoto này mà còn ở Edo, Hitachi, Echizen và khắp các tỉnh khác nữa. Sư tổ là bậc đại kiếm khách nhưng không phải vì thế mà chúng ta là đại kiếm khách cả. Đấy là sự thật, hà tất phải bàn cãi ?

– Đồ hèn nhát ! Ngươi là kiếm sĩ Hoa Sơn mà lại đi sợ những phái khác !

– Ai nói sợ ? Ta chỉ muốn cảnh cáo mọi người đừng quá tự mãn.

– Mày lấy quyền gì dạy dỗ chúng ta ?

Dứt lời, hắn thoi một quả đấm làm tên kia ngã lăn chiêng ra chiếu. Hồ Định và Ưng Đằng chạy vội đến can, đẩy hai tên ra, mắng:

– Thôi, không được đánh nhau ! Trước mặt đại ca, không được vô lễ !

Mọi người xúm vào dàn hòa, chuốc thêm rượu và lái câu chuyện sang hướng khác.

Một lúc sau không khí đã dịu, tiếng cười lại nổi lên trong khi anh chàng ưa chỉ trích lúc nãy còn ngồi phân bua với Ưng Đằng:

– Đấy lão huynh coi, chỉ vì sự an nguy của bản môn mà đệ nói chứ không có ý gì kia khác. Nếu không lưu tâm chấn chỉnh, lòng hợm hĩnh của mọi người sẽ làm phái Hoa Sơn ta rồi không còn đất đứng.

Một mình, Sĩ Khánh ngồi yên lặng, chán nản như chẳng buồn để ý gì đến chuyện vừa xảy ra. Hắn chưa say, nhưng rõ ràng là không thấy thoải mái trong khung cảnh náo nhiệt này. Hồ Định nhận thấy điều đó, ghé tai Sĩ Khánh nói nhỏ:

– Đại ca không được vui phải không ?

– Ừ. Ta tự hỏi không biết những huynh đệ kia có vui chăng ?

– Vui chứ ! Họ cho thế là vui !

– Ta không thấy thế ! Ta không hiểu sao họ có thể vui được !

– Hay chúng ta đi nơi khác yên tĩnh hơn. Đại ca nghĩ thế nào ?

Như được gãi đúng chỗ ngứa, Sĩ Khánh bằng lòng ngay:

– Ta muốn đến chỗ hôm qua.

– Vân Nghê quán ấy hả ?

– Ừ.

– Chỗ ấy được lắm. Đệ biết đại ca thích quán đó nhưng không tiện dẫn những tên thô lỗ kia tới. Để họ Ở đây tốt hơn, hợp với họ mà lại rẻ tiền.

– Vậy đi thôi. Ưng Đằng lo chuyện ở đây cũng được.

– Đại ca giả bộ đi tiểu, đợi tiểu đệ ngoài hiên, đệ ra ngay.

– Lúc sau, Sĩ Khánh khéo léo rút êm, mọi người không ai chú ý.

Trước một căn nhà tại xóm yên hoa ngoại thành Kyoto, một thiếu phụ đang bận treo lại chiếc đèn lồng gió mới thổi tắt. Nàng kiễng cao chân. Áng sáng ngọn đèn rung rinh in bóng những lọn tóc mới gội chưa kịp chải vẽ thành những vết đen lay động lên đôi cánh tay trần trắng muốt. Mùi hoa mận thơm ngọt dịu dàng vương trong gió thoảng từ ngoài vườn vào.

Vừa mới đi tới, Hồ Định đã nhanh nhảu:

– Ôkô ! Cần ta giúp không ?

– Đại ca đấy ư ? Thế thì còn gì bằng nữa !

– Vậy đợi ta chút.

Hồ Định bước nhanh vào vùng ánh sáng ngọn đèn. Ôkô biết là mình lầm:

nàng tưởng nghe tiếng nói của Sĩ Khánh. Hồ Định cầm đèn treo lên móc rồi hỏi:

– Thế này được chưa ?

– Được rồi. Cảm ơn lắm.

Nhưng Hồ Định nghiêng đầu nhìn và cho là chưa được. Hắn tháo ra treo lại đèn cho ngay ngắn hơn. Ôkô mỉm cười thấy có những người đàn ông ở nhà chưa chắc đã chịu giúp ai làm việc gì, nhưng đến nơi này lại tỏ ra rất dễ thương và ưa giúp đỡ. Nhiều khi họ tự tay rót rượu lấy, mang gối ra hay mở cửa hoặc vui vẻ làm nhiều việc linh tinh khác mà ở nhà họ không bao giờ chịu làm.

Treo đèn xong, Hồ Định cùng Sĩ Khánh bước vào phòng. Trong nhà thật yên tĩnh.

Sĩ Khánh buột miệng:

– Ở đây yên lặng quá nhỉ !

Hồ Định nói:

– Để đệ ra mở cửa.

Đứng trên hiên, Sĩ Khánh nhìn giòng sông Takase chảy êm đềm; xa hơn nữa, về phía nam, qua cây cầu nhỏ bắc ngang, khu Teramachi rải rác đền miếu bên kia một cánh đồng hoa dại nở rộ gợn sóng dưới ánh trăng.

Ngồi chờ một lát không thấy ai, Hồ Định bắt đầu sốt ruột:

– Hừ ! Sao thế này ? Các em đâu cả ? Hôm nay xem chừng vắng khách mà Ôkô cũng đi đâu mất, mãi chưa thấy mang trà ra.

Không dằn được nôn nóng, hắn đứng dậy xăm xăm vào nhà trong, suýt và phải A Kế Mỹ từ trong phòng bước tới. Chùm khánh nhỏ đeo bên hông nàng vang lên lanh canh, rồi tiếng kêu của cô bé:

– Cẩn thận ! Chú làm đổ trà bây giờ !

– Sao lâu vậy ? Đại ca đang đợi ngoài kia. Cô không mong đại ca à ?

– Đó ! Đó ! Chú làm đổ trà ra khay rồi ! Có đi lấy cái khăn để người ta lau đi không?

– À há ! Gớm hách nhỉ ! Ôkô đâu ?

– Đang trang điểm trong nhà.

– Chưa xong kia à ? Lâu thế !

– Trời ơi ! Cả ngày hôm nay bận tíu tít …

– Bận gì ? Hôm nay tiếp ai thế ?

– Tò mò vậy ? Đâu phải việc chú ! Tránh ra để người ta đi.

Hồ Định né người sang bên. A Kế Mỹ bưng khay trà vào phòng, chào Sĩ Khánh:

– Kính chào khách quan. Hân hạnh được khách quan quá bộ …

Sĩ Khánh vờ thản nhiên, không nhìn cô bé, hờ hững đáp:

– A Kế Mỹ đấy à. Cảm ơn chuyện hôm qua nhé !

Hắn có vẻ ngượng. A Kế Mỹ đặt khay lên bàn, cầm chiếc đĩa nhỏ chạm trổ tỉ mỉ trên để một chiếc ống điếu bằng sành:

– Xin mời khách quan dùng thuốc.

– Ta tưởng thuốc lá bị cấm.

– Vâng. Nhưng chẳng ai tuân, mọi người vẫn cứ dùng như thường. Vậy tốt, ta hút một điếu.

A Kế Mỹ mở nắp hộp xà cừ, dúm một chút thuốc, nhanh nhẹn nhồi vào ống điếu:

– Xin mời khách quan, để tiểu nữ châm lửa.

Sĩ Khánh không quen hút, vụng về rít một hơi ngắn rồi nhăn mặt ho sặc sụa:

– Đắng quá !

A Kế Mỹ quay đi che miệng.

– Hồ Định đâu ?

– Chắc ở trong phòng mẹ.

– Hắn mê Ôkô lắm. Có lẽ hắn trốn ta đến đây đã nhiều lần, phải không, A Kế Mỹ ?

A Kế Mỹ cười khúc khích không đáp.

– Cớ gì mà cười. Chắc mẹ nàng cũng yêu hắn lắm chứ gì ?

– Tiểu nữ không rõ.

– Hẳn rồi. Mà thế cũng tiện, đôi bên cùng vui vẻ cả:

mẹ nàng với Hồ Định, còn nàng với ta !

Làm vẻ tự nhiên, hắn đặt tay mình lên tay A Kế Mỹ để trên đùi. A Kế Mỹ cau mặt, hất tay hắn và nhích ra xa. Cử chỉ ấy càng khiến hắn cả gan hơn. Hắn giơ tay ra quàng ngang lưng cô bé, định kéo tấm thân mảnh dẻ ấy lại gần:

– Ấy chớ có chạy … Ta không làm hỗn nàng đâu !

A Kế Mỹ gỡ tay Sĩ Khánh:

– Khách quan bỏ ra để tiểu nữ còn đi lấy rượu.

– Ta không uống rượu !

– Nhưng nếu không mang rượu đến mẹ tiểu nữ mắng.

– Mẹ nàng đang ở trong phòng trò chuyện với Hồ Định, mắng gì !

Hắn ghé mặt lại gần A Kế Mỹ. Nàng quay phắt đi gọi lớn:

– Mẹ Ơi ! Mẹ !

Hắn buông tay. Nàng chạy vội vào nhà trong. Sĩ Khánh thất vọng. Hắn không vừa ý nhưng cũng không muốn nài ép cô bé. Ngồi một mình buồn, một lúc lâu chẳng có ai tiếp, hắn nói lớn:

“Ta về đây !” rồi đứng lên khật khưỡng ra hành lang.

– Đại ca đi đâu đấy ? Ở lại chứ đã về đấy à ?

Ôkô chạy ra, ôm Sĩ Khánh. Hắn thấy tóc và son phấn trên mặt nàng vẫn còn nguyên vẹn. Nàng rối rít gọi Hồ Định ra giữ Sĩ Khánh, lại ngọt ngào chuốc rượu còn Hồ Định vào trong nhà tìm A Kế Mỹ dẫn trở lại phòng. Thấy vẻ mặt khách sượng sùng, A Kế Mỹ nhoẻn miệng cười.

Ôkô liếc nhìn con gái, nói nhỏ:

– A Kế Mỹ, rót rượu mời đại ca đi !

– Dạ !

– Đại ca thấy đấy, nó còn dại lắm, chẳng khác gì con nít !

Hồ Định chen vào:

– Ấy thế mới dễ thương ! Cô ấy còn trẻ mà !

– Hăm mốt rồi đấy !

– Hăm mốt cơ à ! Ta không ngờ, trông chỉ độ mười sáu, mười bảy là cùng !

Đột nhiên nét mặt A Kế Mỹ trở nên rạng rỡ:

– Thật hả thúc thúc ? Tiểu nữ chỉ muốn cứ mười sáu mãi …

Nàng chắp hai tay lên ngực, nói khẽ:

– Vì năm mười sáu, tiểu nữ đã gặp một chuyện thật thần tiên.

– …

– Tiểu nữ không nói với ai nhưng chuyện đó xảy ra đẹp quá ! Bấy giờ là năm có cuộc chiến Sekigahara, ở tỉnh … Ở tỉnh nào thúc thúc biết không ?

Ôkô cắt ngang, giọng đe dọa:

– Cái con lắm mồm này ! Đừng nói nhảm nữa, vào phòng lấy cây đàn shamisen ra đây !

A Kế Mỹ cụt hứng, phụng phịu đứng dậy đi vào phòng mang cây đàn ra. Nàng đặt đàn ngồi xuống và bắt đầu dạo một khúc ngắn. Tiếng đàn vừa dứt, mắt xa vắng nhìn vào quãng không, nàng cất tiếng ca nho nhỏ như kể lể với chính lòng mình hơn là làm vui cho khách:

Mây che thì kệ mây che, Mắt em nhòa lệ chẳng hề thấy trăng …

Ngừng lại, nàng quay sang hỏi Hồ Định:

– Thúc thúc có hiểu không ?

– Không hiểu rõ. Hát tiếp đi.

Trong đêm vần vũ tối tăm, Tình anh là ngọn thần đăng soi đường …

Hồ Định nói bâng quơ:

– Còn trẻ lắm, mới hăm mốt mà !

Sĩ Khánh từ nãy đến giờ ngồi yên, hai tay ôm đầu, bấy giờ mới ngẩng lên:

– A Kế Mỹ, ta muốn mời nàng chén rượu.

Hắn đưa chén cho A Kế Mỹ, tự tay mang bình rượu đã hâm nóng rót vào. A Kế Mỹ bình tĩnh dốc một hơi cạn rồi trao chén cho Sĩ Khánh. Ngạc nhiên, hắn hỏi:

– Nàng uống đượu rượu à ?

Đến phiên Sĩ Khánh uống xong, hắn lại mời A Kế Mỹ chén nữa. Nàng vui vẻ nhận lời, nhưng hình như thấy chén quá nhỏ, với tay lên kệ lấy chiếc bát lớn. Trong nửa giờ sau đó, hai người thay phiên nhau uống rượu bằng bát. Tửu lượng A Kế Mỹ chẳng kém gì Sĩ Khánh khiến hắn ngạc nhiên quá đỗi. Một cô gái trông chỉ độ mười sáu, mười bảy, môi trinh non thế mà nốc rượu như nốc nước lã. Chẳng biết rồi rượu nó đi đâu trong cái thể nhỏ bé nhường kia ?

Ôkô can:

– Thôi, đại ca chẳng nên thi nữa. Không biết sao ? Con bé nó có tài uống rượu cả đêm cũng không say đâu. Để nó chơi đàn thôi.

Nghe nói thế, Sĩ Khánh sửng sốt:

– Vậy hả ? Thật không ngờ !

Nhưng hắn đã có vẻ lảo đảo ngồi không vững. Hồ Định chạy đến bên ân cần bảo:

– Đại ca say rồi, chẳng nên uống thêm nữa !

Sĩ Khánh khoát tay:

– Can gì ! Này Hồ Định, có lẽ đêm nay ta không về được. Ngủ lại đây thôi !

– Không sao. Tùy đại ca muốn ở bao lâu cũng được. Phải không, A Kế Mỹ ?

Hắn nheo mắt nhìn Ôkô, kéo nàng sang phòng bên, thì thầm:

– Đại ca đêm nay vui lắm, chắc muốn ngủ lại. Nếu A Kế Mỹ không bằng lòng thì phiền lắm đấy ! Dĩ nhiên mẹ phải có bổn phận phải lo cho con cái, vậy nàng tính bao nhiêu ?

Ôkô để tay lên má, suy nghĩ. Hồ Định giục:

– Định ngay đi !

Rồi ghé sát tai Ôkô, hắn thêm:

– Đám này khá lắm ! Chưởng môn phái Hoa Sơn, tiếng tăm lừng lẫy thuộc hạng danh gia thế phiệt, tiền bạc chẳng thiếu. Lại chưa vợ con. Bề gì cũng là một mối không phải dễ kiếm !

– Cũng được, nhưng …

– Không nhưng gì cả. Đồng ý nhá ! Đêm nay chúng ta ở lại !

– Trong phòng, ánh sáng lờ mờ, Hồ Định để tay lên vai Ôkô. Đúng lúc ấy một tiếng động mạnh ở phòng sau làm hai người giật mình.

– Gì vậy ? Nàng có khách đấy à ?

Ôkô gật đầu, yên lặng đưa đôi môi ướt nhẫy sát vào tai Hồ Định thì thầm:

– Chốc nữa !

Rồi lấy dáng điệu tự nhiên, cả hai đứng dậy, sánh vai nhau bước ra phòng ngoài.

Sĩ Khánh đã ngủ gục bên khay rượu.

Hồ Định vào phòng kế, ngả lưng trên chiếu. Hắn nằm ngước mặt nhìn trần, tay khẽ gõ nhịp, đợi lúc lâu không thấy Ôkô đến, mắt hắn dần dần nặng trĩu.

Hôm sau tỉnh dậy, trời đã gần trưa, Hồ Định cảm thấy buồn bực. Sĩ Khánh ngồi trong phòng trông ra ngoài hiên, đang uống rượu. Dáng điệu tươi cười, Ôkô và A Kế Mỹ dường như không để ý gì đến chuyện đêm qua. Cả hai đùa cợt với Sĩ Khánh, đòi Sĩ Khánh hứa một điều gì:

– Thế đại ca đưa bọn thiếp đi nhé !

– Ờ thì đi. Bảo làm ít món ăn nguội và nhớ mang theo bình rượu.

Thì ra hai mẹ con Ôkô muốn đi xem tuồng của gánh Okumi trên đường lưu diễn mới đến dựng rạp ở xóm bờ sông gần đường Tân Hổ. Gánh này không phải chỉ là một gánh tuồng cổ như những gánh khác, nhưng biết cách canh cải các tích cũ, đệm thêm nhạc và hát nên rất được sự hâm mộ của quần chúng. Gần đây, trên các nẻo đường đông đúc trong xóm, rất nhiều gánh hát mới được lập ra, đào kép thi đua nhau trổ tài lôi kéo khách mộ điệu. Gánh nào cũng cố tạo ra vài nét đặc thù, bài bản hay điệu múa riêng biệt. Nhiều nữ diên viên trước đây là gái giang hồ, nay vào nghề mới, thành nổi tiếng, được mời đến hát trong những rạp lớn tại kinh đô. Có nàng còn mang tên và cải nam trang, thủ những vai hiệp sĩ khá thành thạo.

Sĩ Khánh ngồi thừ người nhìn qua cửa sổ. Dưới chân cầu ven sông, lác đác vài phụ nữ giặt áo, đập vải kêu bồm bộp. Trên cầu, khách qua lại tấp nập.

Hắn quay hỏi Hồ Định:

– Qúa trưa rồi. Họ sửa soạn chưa xong à ?

Rượu ngà ngà, Sĩ Khánh chờ mãi đã chán, hết hứng muốn dẫn hai nàng đi coi hát.

Hồ Định vẫn còn buồn bực và thất vọng vì chuyện đêm trước, cau có:

– Đi chơi với họ thật bực mình. Đến phút chót còn thay áo, chải tóc. Mất thì giờ quá !

Sĩ Khánh nghĩ lan man đến võ đường ở nhà. Chắc giờ này môn đệ hắn đang tập luyện. Hắn mường tượng nghe tiếng gươm giáo chạm nhau, tiếng thét xung trận chói tai của võ sinh và cả đến những lời ngạc nhiên bất mãn của đàn em khi thấy hắn vắng mặt trong giờ giảng võ.

– Hồ Định, ta chẳng còn lòng nào muốn đi coi hát nữa. Hay về thôi !

– Thế đại ca bỏ lời hứa hả ?

Sĩ Khánh thở dài. Hồ Định tiếp:

– Họ đang hớn hở vì chuyện đi coi hát, đại ca làm thế họ giận, bận sau đến ta đâu được tiếp đãi niềm nở nữa. Để đệ vào giục.

Tới cuối hành lang, liếc mắt nhìn vào phòng Ôkô, Hồ Định thấy quần áo vất bừa bãi nhưng không thấy bóng dáng hai mẹ con đâu. Ngạc nhiên, hắn chạy sang phòng kế.

Phòng kế cũng vắng lặng. “Không biết Ôkô đi đâu ?”. Hồ Định tự nhủ và sục sạo ra tận sau nhà tìm.

Đến một căn buồng nhỏ bẩn thỉu, hắn rón rén nhìn qua cửa sổ. Buồng tối om như hũ nút, mùi ẩm mốc của quần áo lâu ngày không giặt lẫn với mùi rượu xông ra nồng nặc.

Tò mò, Hồ Định lấy ta kéo nhẹ cánh cửa.

– Ai ?

Tiếng quát giận dữ từ trong buồng phát ra làm hắn giật nẩy mình nhảy lui.

Bóng một người đàn ông nằm ngửa trên mảnh chiếu rách trong cảnh tranh tối tranh sáng có một cái gì rờn rợn bí ẩn. Hắn lợm giọng. Người đàn ông quần áo bẩn thỉu, chân tay thô kệch, chiếc chuôi kiếm lộ bên hông. Trong cách phục sức, không ai không bảo là một tay kiếm giang hồ thường thấy lang bạt khắp nơi trong nước từ quê đến tỉnh.

Anh ta nằm trên chiếu, mắt dán lên trần nhà, chẳng thèm ngồi dậy hay tỏ ra có ý định gì muốn tiếp hắn.

– Xin lỗi. Hồ Định nói. Tôi không biết có khách trong phòng.

– Ta đâu phải khách.

Người nằm trong buồng sẵng giọng, mắt vấn nhìn lên trần.

Tiếng hắn khàn khàn, hơi rượu sặc sụa. Hồ Định chẳng biết là ai, nhưng thấy rõ hắn có ý đuổi mình.

– Vậy xin lỗi đã làm rộn.

Nói xong định quay gót. Người kia chống tay ngồi dậy:

– Khoan ! Đi thì đóng cửa lại !

Hồ Định bực mình về sự thô lỗ ấy. Hắn giơ tay khép cửa và lẩm bẩm câu gì không rõ.

Lúc sau Ôkô đến. Nàng mới băm tám nhưng rõ ra vẻ kẻ cả, lên giọng mắng người nằm trong phòng:

– Mãn Hà Chí ! Anh lại làm bậy gì rồi hả ?

A Kế Mỹ theo sau mẹ nói vọng vào:

– Sao thúc thúc không đi với mẹ ?

– Đi đâu ?

– Xem tuồng Okumi.

Miệng Mãn Hà Chí nhệch xuống, gã cười cay đắng:

– Thằng chồng nào lại muốn đi cùng với tình nhân của vợ mình bao giờ !

Ôkô như vừa bị cái tát. Nàng quắc mắt giận dữ:

– Anh nói cái gì ? Có phải anh muốn ám chỉ tôi với Hồ Định không ?

– Ai ám chỉ cái gì ?

– Thì anh vừa nói đó !

Mãn Hà Chí ngậm miệng quay mặt vào tường.

Mặt cho Ôkô tỏ vẻ khinh miệt, Mãn Hà Chí vẫn giữ yên lặng.

– Anh làm tôi lên ruột ! Chỉ được cái ghen hão ghen huyền. Thôi đi ! A Kế Mỹ !

Mặc thằng khùng ấy …

Mãn Hà Chí với tay nắm áo Ôkô:

– Mày bảo ai khùng ? Nói với chồng như thế hả ?

Ôkô giật áo ra, gay gắt:

– Ai cấm được tôi nói ? Nếu là chồng, anh phải biết bổn phận làm chồng chứ ! Ai nuôi anh cơm ăn, rượu uống ? Đồ ăn hại, vô tích sự !

– …

– Từ khi đến đây, anh kiếm được đồng xu nào ? Chỉ bám vào gấu áo tôi để rượu chè bê tha, anh còn than nỗi gì ?

– Ta đã nói sẽ đi làm. Làm phu khuân đá nàng không cho, bảo tiền công không đủ sống ! Nàng nói không ăn được thứ này, không mặc được thứ kia, không ở được nhà bé … Không cái nọ, không cái kia … trăm thứ không …Ta muốn kiếm một nghề lương thiện, nàng gạt đi, mở cái phòng trà khốn nạn này ! Nàng phải thôi ngay !- Hắn hét lên.- Thôi ngay !

Khắp người hắn nóng ran, tay chân run lẩy bẩy.

– Thôi cái gì ?

– Thôi mở phòng trà này !

– Thế lấy gì mà ăn ?

– Ta đi vác đá cũng đủ nuôi cả ba.

– Nếu anh muốn đi vác đá hay cưa gỗ thì cứ đi, muốn làm phu, thợ hay gì cũng được để đủ nuôi cái miệng anh. Anh là thằng nhà quê thì cứ ở nhà quê, sao lại bỏ làng mà đi. Tôi chẳng giữ anh làm quái gì !

Mãn Hà Chí cố giữ cho nước mắt khỏi trào ra. Hắn nuốt lệ cùng với những nỗi uất ức chua cay đang dâng lên bóp nghẹn cổ họng.

Ôkô và A Kế Mỹ bỏ đi từ bao giờ, hắn vẫn ngồi cắm mặt nhìn xuống đấ t. Nghĩ lại từ khi Ôkô cho hắn tá túc tại căn nhà nhỏ của nàng ở sườn núi Ibuki, hắn tự cho là có diễm phúc được một người thông cảm, yêu thương và săn sóc. Nhưng bây giờ … hắn không biết như thế có phải là may mắn không …Làm con chó trung thành của một góa phụ tính tình thất thường và dâm đãng hay để giặc bắt, đằng nào hơn ? Hắn còn phải là người nữa hay không ? Những ước ao của hắn xưa kia, giờ không còn gì nữa ! Hắn luôn bị chế giễu, khinh rẻ.

Mãn Hà Chí đập tay xuống chiếu, giận run:[Audio] Ngự Quỷ Nhân – ( Khủng Bố Phục Tô )

– Đồ đĩ rạc ! Đồ điếm thối tha !

Ngồi một mình, hắn để mặc nước mắt trào ra ướt đẫm má. “Ừ, tại sao ta lại không về làng ? Oa Tử còn đó chắc vẫn một lòng chờ đợi. Mẹ, cậu Ngô, chị ta và anh rể ta, ai cũng tha thiết đến ta, sao ta không về nhỉ ? Giờ này, chuông chùa Tiểu Sơn đã sắp đổ hồi rồi đấy !”.

Những hồi chuông chiêu mộ văng vẳng trong tâm tư đưa hắn trở về tuổi niên thiếu, sông Aida êm đềm cuộn khúc, hoa dại nở đầy hai bên bờ sông cùng với những loài chim khuyên, chim sao; chim chìa vôi ríu rít trên cành mận sau nhà …

Mãn Hà Chí đập hai tay lên đầu than vãn:

– Ta điên rồi ! Ta điên mất rồi !

Cơn say như biến mất, hắn vùng đứng dậy nói lớn với chính mình:

– Phải quyết đi hôm nay !

Thanh âm hắn vang dội trong căn nhà trống khiến hắn ngạc nhiên. Đột nhiên, Mãn Hà Chí nhận thức được mình đang tự do không ai cản giữ, không còn gì vương vấn.

Đồ đạc vỏn vẹn chỉ có một thanh gươm, hắn cúi xuống nhặt lên giắt vào thắt lưng, lẩm bẩm:

“Ít ra ta cũng vẫn con là người !”.

Như một ông tướng vững vàng tự tin trước khi lâm trận, Mãn Hà Chí định hiên ngang giơ cao vũ khí xông ra cửa chính, nhưng thói quen vẫn làm hắn xỏ chân vào đôi dép cũ rách, len lén theo cửa bếp ra ngoài.

Mới được vài bước, hắn khựng lại. Không phải vì trời bên ngoài đẹp quá, trong sáng quá hay ánh sáng làm hắn chói mắt, nhưng vì hắn không biết đi đâu. Đối với Mãn Hà Chí, thế giới bên ngoài chẳng khác gì mặt biển sóng cồn, hắn như người đang vùng vẫy để khỏi chết đuối, không biết bấu víu vào đâu. Ngoài Kyoto ra, hắn không còn biết nơi nào khác trừ làng hắn và Sekigahara, nơi xảy ra trận chiến độc nhất mà hắn tham dự. Trong khi đang phân vân, đột nhiên một ý nghĩ làm hắn hối hả trở lại:

“Tiền ! Mình quên mất, đi thì phải có tiền chứ !”.

Mãn Hà Chí chạy thẳng đến phòng Ôkô, lục lọi khắp chỗ, mở tủ, mở ngăn kéo, vất tung cả quần áo ra sàn, hy vọng tìm được thứ hắn muốn. Nhưng vô ích. Ôkô chẳng dại gì để tiền ở nhà cho hắn thấy. Thất vọng, Mãn Hà Chí ngồi bệt xuống sàn cạnh đống quần áo và vật dụng bừa bãi. Mùi nước hoa Ôkô ưa dùng thoang thoảng từ những món đồ lót đắt tiền bay lên quanh quẩn bên hắn. Giờ này chắc nàng đang chăm chú xem diễn tuồng ở rạp hát, làn da nhồi phấn trắng và khuôn mặt đỏm dáng của Ôkô như theo với mùi nước hoa phảng phất hiện lên trêu chọc Mãn Hà Chí. Hắn nhổ bọt, chửi thề một câu tục tằn rồi ngồi dựa lưng vào thành tường, thừ người ra buồn bã. Ý tưởng lộn xộn đến trong óc:

Oa Tử, gia đình hắn ở Miyamoto. Hắn thấy dại dột quá sức, nghe lời người đàn bà ấy viết thư dứt tình với Oa Tử. Chẳng biết vị hôn thê của hắn bây giờ nghĩ sao, có ruồng bỏ hắn không ? Hắn muốn gọi mẹ và những người thân khác. Cái gì ở làng hắn bây giờ cũng tươi cũng đẹp, cả đến đất trong làng, hắn cũng có cảm tưởng như ấm áp hơn và gợi nhớ hơn trước.

Suy nghĩ miên man, Mãn Hà Chí không để ý gì đến tiếng đập cửa dồn dập. Mãi khi có tiếng chân người bước vào, hắn mới giật mình quay ra.

– Xin các hạ thứ lỗi, tại hạ Ở võ đường Hoa Sơn muốn hỏi thăm sư huynh Sĩ Khánh.

Không biết vị đó có còn ở đây không ?

Mãn Hà Chí cau mặt càu nhàu:

– Làm sao ta biết được ?

– Tại hạ chắc vị đó còn ở đây. Tại hạ không dám tự tiện làm rộn, nhưng có chuyện khẩn cấp can hệ đến danh dự của bản phái. Xin các hạ làm ơn thông báo giúp !

– Cút đi ! Ta không biết ai là Sĩ Khánh cả !

Người kia ngạc nhiên định quay ra, nhưng nghĩ thế nào lại vớt vát:

– Xin các hạ nói với sư huynh của tại hạ, có một kiếm khách tự xưng là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto đến võ đường khiêu khích. Anh em không ai địch nổi, hắn ngồi chờ sư huynh để tỷ kiếm. Vậy xin mời sư huynh về ngay cho.

Mãn Hà Chí mở to mắt, nhìn vào quãng không:

– Miyamoto ? Thạch Điền Đạt Lang ? Ai vậy ?

tiếp ❯

Avatar

Các bạn đăng ký thành viên hội nhé…!
→Free vip→Đọc và nghe audio truyện/ 0 quảng cáo→Yêu cầu truyện / Ưu Tiên♥Ngoài ra AudioSite là Website do hội Mê Đọc Truyện thành lập – chính vì vậy Đọc Truyện trên website giảm 90% xuất hiện quảng cáo nhé !