1. Home
  2. Truyện Ma
  3. [Audio] Kỳ Án Ánh Trăng
  4. Kỳ Án Ánh Trăng Tập 3

[Audio] Kỳ Án Ánh Trăng

Kỳ Án Ánh Trăng Tập 3

❮ sau
tiếp ❯

Bạn Tri Âm Hiếm Có

Ngày 23 tháng 1 năm 1967.

Trời âm u, tuyết rơi nhẹ
Gần đây tôi bỗng nảy ra ý tưởng viết nhật ký. Tôi vốn tính rất lười biếng, nếu không quá chán chường chẳng có việc gì làm thì không đời nào lại cầm bút viết về mình, để rồi sau này đọc lại bỗng dưng sẽ được dịp chế nhạo mình. Cầm bút, đại khái là để chứng minh rằng tôi đã ngán ngẩm buồn chán: Y Y đã đi thực tập ở bệnh viện tiền tuyến, hai chúng tôi bị ép phải tách nhau ra, nàng không dám cưỡng lệnh nên ấm ức, bèn viện cớ xin phép về quê, đến trước Tết chưa chắc đã trở lại. Nghe nói, trò này là do “Máy Kéo” đã bày ra để kéo Y Y đến bên cạnh hắn, nhưng quyết định vẫn là do khoa đưa ra, tôi không có chứng cứ để đấu lý với hắn, muốn đánh nhau với hắn cũng không có cớ gì, huống chi đám lâu la của hắn lại đông, dù tôi và Kình Tùng cũng xông vào thì cũng chỉ là “anh dũng hi sinh” mà thôi! Kình Tùng cũng đã xa tôi, nhiệt tình cách mạng trào dâng, anh ấy đã xuống miền Tây Nam để liên kết hành động, suýt nữa đã kéo cả tôi đi theo.
Vậy là thế giới rộng lớn chỉ còn lại mình tôi. Người trong bệnh viện rất đông. Gần đây các phe phái Hồng vệ binh ở thành phố liên tục đọ sức nhau, giở đủ “thập bát binh khí” , lại nghe nói đã có phe phái dùng đến cả súng trường bán tự động! Thế là các bệnh viện bất đắc dĩ trở thành “quân y viện”. Có điều, phần lớn các bác sĩ giàu kinh nghiệm của bệnh viện đều đã bị “đánh đổ” hoặc bị gọi đi xét hỏi, bị đày đi nơi xa, cũng có người chết vì bị đấu tố cho nên khắp bệnh viện chỉ có các bác sĩ “cách mạng”, nhưng tay nghề thì tầm tầm làm chủ! Vì thiếu người cho nên các sinh viên thực tập biến thành lũ kiến thợ , trong tổ sinh viên thực tập chúng tôi, những ai không tham gia tạo phản đều đã liên tục chạy như chong chóng liền ba hôm, hôm nay rốt cuộc cũng đến lượt tôi được nghỉ một ngày. Tôi dành cả ngày hôm nay để nhớ về Y Y, rất buồn và muốn hút thuốc, nhưng vì gần đây đọc thấy một nghiên cứu căn bệnh thịnh hành ở Anh, nói hút thuốc liên quan trực tiếp đến bệnh ung thư phổi, tôi đã quyết định bỏ thuốc lá. Để giải buồn tôi mở máy quay đĩa xếp xó đã lâu, mở đĩa nhạc “khúc song tấu violon cung rê trưởng” của Bach , điệu nhạc vang lên, nỗi cô quạnh và buồn chán trong tôi dần vơi đi rất nhiều. Nhưng trong ký túc xá đâu phải chỉ có mình tôi mà còn có hai người tạo phản, cộng với một người nhút nhát hùa theo – họ không để cho tôi nghe cái thứ âm nhạc của giai cấp tư sản ấy. Sau khi cãi nhau một chập, tôi nghĩ sẽ rất mạo hiểm nếu mình cứ khăng khăng vào lúc này, nhưng cũng không muốn khuất phục, từ bỏ thứ âm nhạc mà tôi yêu thích, tôi bàn bê máy ra chỗ khác để nghe. Đi đâu bây giờ? Có thể đến lớp học, việc dạy và học đã thất thường khá dài thời gian nhưng vẫn có những người hiếu học, nếu tôi đến đó mở nhạc, thì khác nào làm cho những mầm mống rường cột tương lai của nước nhà – một số ít hiếm hoi còn sót lại – sẽ phải buồn phiền?
Tôi bỗng nhớ đến một chỗ rất phù hợp là khu nhà dạy học giải phẫu.
Mùa đông thuờng không bố trí giờ học giải phẫu, nên ở đây thường rất vắng sinh viên.
Đã vài lần đi qua khu nhà ấy, đều thấy bên trong trống vắng lạnh lẽo như lòng tôi lúc này. Tối đến, tôi ôm chiếc máy hát ra khỏi ký túc xá. Từ xẩm tối những bông tuyết nhỏ đã rơi nhè nhẹ, đến lúc này khắp đất trời là những vệt trắng như lông thiên nga. Sau tiết đại hàn, trời lạnh khác thường, một mùa đông như thế này, lẽ ra tôi và Y Y phải kề sát bên nhau, cùng ngồi trong quán nhỏ ở cổng trường ăn sủi cảo thịt dê nóng hôi hổi. Thế mà lúc này ánh đèn đường chỉ soi thấy một cái bóng lẻ loi. Cửa khu nhà giải phẫu tối đen, tôi vấp vào cái bậu cửa cao đến một thước, suýt ngã. Chẳng rõ ai đã ngớ ngẩn cho xây cái bậu cửa cao thế này trước khu nhà dạy học? Nghe nói mấy năm trước đã có một bể lớn chứa phọoc môn bị vỡ, phoọc môn tràn ra ngoài nhà làm ô nhiễm khắp trường, xây bậu cửa này, để phòng các dung dịch lại có thể tràn ra như vụ việc đó, ai mà biết được có đúng thế không! Lúc mở cửa, tôi thấy hơi ngài ngại, chắc vẫn là vì từng nghe nói ở đây có ma. Nhưng lại nghĩ việc gì mà phải sợ đến thế! Tôi đang quá cô đơn, dẫu gặp ma, thì mình sẽ có bạn, vậy thì có gì là không hay? Ít ra lũ ma ấy vẫn không phải là phái tạo phản, chúng sẽ không đấu tố các vị giáo sư.
Tôi đặt máy hát trong căn phòng nhỏ hướng tây, mở đĩa “khúc dạo mục ca sau buổi trưa” của Đê-buy-xi. Vì muốn duy trì đựơc tâm trạng , tôi không bật đèn, ngồi xuống và gác chân lên cái bàn thuờng dùng để đặt tử thi, tôi nhắm mắt thả hồn vào suối nhạc tuôn chảy. Lúc này tôi thấy rất hài lòng, người khác đang tạo phản, đang làm cái gọi là đại cách mạng văn hóa, bỗng dưng phải đổ máu vô ích, còn tôi đang được thư thái nghe nhạc giao hưởng, tôi chẳng nên ai oán gì nữa. Đương nhiên nếu có Y Y ở bên thì cuộc sống của tôi se ngọt ngào hơn. Nghĩ đến Y Y, tôi chợt nghe thấy một tiếng thở dài khe khẽ, rất giống tiếng của nàng. Tôi đứng bật dậy nhìn quanh, tất nhiên chẳng thấy gì ngoài bóng tối. Có lẽ vì quá khát khao nhớ đến nàng nên tôi đã có cảm giác sai nên không tiếp tục nghĩ ngợi nữa. Lại ngồi xuống chuyên tâm lắng nghe. Âm nhạc tỏa lan trong bóng đêm, tôi thật sự cảm thấy khoan khoai dễ chịu, nhưng bỗng có những tiếng buớc chân vọng đến, rất nhẹ, như sợ khuấy động đến tâm hồn tôi đang du ngoạn trong đêm, hay là bọn đấu sĩ cách mạng tạo phản?
Nếu họ thấy tôi ngồi đây hưởng thụ sự nhàn nhã kiểu giai cấp tư sản, thì học sẽ cho tôi được thọ giáo nhiều hơn nữa! Trường này chưa từng “đấu” sinh viên, nhưng nghe nói học viện công nghệ và học viện kiến trúc đã từng có sinh viên bị “đánh đổ” vì xuất thân không tốt. Lúc này tôi nên dừng máy hát ngay.
Tôi chưa kịp đứng dậy thì máy hát bỗng dừng lại, tim tôi dường như ngừng đập.
“Ai đấy? ”
Trong bóng tối tôi không nhìn thấy bóng ai cũng không có ai đáp lời tôi.
Nhưng những buớc chân vừa nãy, thì rõ ràng là không chỉ có một người.
Mồ hôi ra ướt đầm lòng bàn tay tôi, tôi đi lần ra cửa phòng thực nghiệm bật đèn điện lên.
Khắp trong ngoài căn phòng, không một bóng người.
Nhưng khi tôi vừa quay người trở lại, thì máy hát bỗng lại lên tiếng.
Nó mở lại từ đầu bản nhạc , hình như có một bàn tay vô hình, đã nhấc đầu kim máy hát lên rồi lại đặt xuống.
Tôi nhìn chiếc máy hát rất lâu và hít thở thật sâu, có lẽ phải làm thế này thì mới có thể trấn tĩnh lại một chút. Bỗng tôi lại thấy sau lưng hơi là lạ, bèn quay người lại, tôi kinh hoàng tiêu tan cả hồn vía. Một đám người đang ngồi kín căn phòng.
Tôi chớp chớp mắt, muốn nhìn rõ xem họ là ai. Nhưng trước mắt vẫn lại là căn phòng trống không và làn hơi nước mờ trắng từ miệng tôi phả ra do bên ngoài hơi lạnh. “Ai đã dở trò gì thế này?” Tôi bực tức kêu lên, phải nói là tôi không thiếu lòng can đảm, nếu không đã chẳng dám một mình ngồi ở phòng thực nghiệm này trong đêm tối. Nhưng lúc này tôi thấy mình đang bị một nỗi sợ hãi mơ hồ bao vây.
Một tiếng “xịt…” không rõ phát ra từ đâu hình như muốn ra hiệu cho tôi hãy im lặng.
Còn trong óc tôi chỉ có một ý nghĩ “Chạy! ”
Tôi tiến lại chỗ máy hát và nhấc cần kim sang một bên, nào ngờ nó như bị chốt chặt tại chỗ, không sao nhấc lên đựơc. Tôi bèn nhổ dây cắm điện nguồn, tia lửa lóe ra, giắc cắm rơi xuống đất.
Nhưng đĩa hát vẫn đang quay, suối nhạc vẫn tuôn chảy.
Máu trong người tôi như đông lại, nỗi sợ hãi tràn đến dồn dập, tôi thoáng nghĩ đêm nay mình sẽ mất toi cái máy hát thân yêu.
Tôi từ từ đưa tay ra phía trước, mạnh tay vồ lấy máy hát, chính khoảnh khắc tay vừa đụng vào thì nó lạnh lùng phóng một luồng điện cực mạnh vào người tôi, khiến tôi bật ngửa người ngã mạnh xuống đất. Nếu không mặc chiếc áo bông dày, chắc tôi phải bong gân dập xương vì cú ngã này. Tôi biết mình không lại được với những sức mạnh siêu nhiên, theo lời dạy của chủ tịch Mao “Địch tiến thì ta lui”, tôi chạy như bay ra khỏi khu nhà giải phẫu. Rốt cuộc ai đã bỡn cợt tôi như thế , tôi dám khẳng định họ chẳng phải người thường! Thế thì các chuyện kháo nhau là có mà, đều là thật hay sao? Tôi nghĩ nhức óc, lúc này đã quá khuya nên cũng có phần rối trí, tôi đành ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, để sau này thư thả sẽ nghiên cứu kỹ hơn.
Ngày 24/01/1967
Tuyết rơi vừa phải
Sáng sớm đã phải đến nhà giải phẫu, căn phòng thực nghiệm phía Tây trống trơn, thế thì chiếc máy hát của tôi đã biến vào cõi hư vô. Cả ngày đi hỗ trợ phòng cấp cứu, hễ thoáng ngơi tay là tôi lại thẫn thờ nhớ đến cái máy hát, tôi lại hỏi mình: Đây có phải một mảng đời mà ta buộc phải trải qua? Hoặc đây là một giai đoạn bị giam hãm, đêm đêm phải khắc khoải nhớ nhung người yêu mà không thể gặp, nhớ bạn mà cánh én không thể đưa tin, thậm chí ngay một thứ đồ dùng để tạo niềm vui cũng không thể giữ nổi.
Tôi không thể nuốt hận, không muốn cúi đầu trước số phận, đêm khuya tôi lại đến khu nhà giải phẫu với một tia hi vọng, biết đâu sẽ xảy ra chuyện kì lạ để có thể nhặt lại hoặc là đoạt lại chiếc máy hát của tôi về. Tôi không hề tin có thần thánh ma quỉ, điều này khỏi phải bàn, nhưng dù có ma thật thì tôi cũng phải đọ với nó một phen, quyết làm cho ra nhẽ! Bước qua bậu cửa cao, rồi buớc lên thềm, tôi bỗng đứng sững lại. Phía sau cánh cửa khép kín, tiếng nhạc văng vẳng đưa ra – chính là khúc dạo đầu bản nhạc “mục ca sau buổi trưa” – mà tối qua tôi đã mở máy hát để nghe. Tôi điên tiết đẩy cửa xông thẳng vào gian phòng thực nghiệm ở phía Tây định lớn tiếng chất vấn, nhưng lại mím môi… Vì thấy trong đó có hai ông già mà tôi đều biết họ. Một vị là Lưu Tồn Chức giáo sư hàng đầu môn dược lý học của trường, vị kia là Giang Mật cựu chủ nhiệm khoa phóng xạ của phân viện 1. Giáo sư Chức tuổi ngoài 60, nghe nói hồi trẻ từng sang Mỹ du học, sau năm 1949 trở về phục vụ Tổ quốc, hình như mình ông đã vực cả khoa Dược vươn lên. Giáo sư Mật có vị trí cao trong hàng ngũ học thuật phản động, lẽ ra cũng là đối tượng bị chuyên chính đấu tố, nhưng vì hai vị trung niên kia ở khoa phóng xạ đã lên làm cán sự trường, lớp trẻ còn lại thì chưa đủ học vấn, vẫn cần một sư phụ ở lại cầm chịch cho nên ông Mật mới được yên thân, sáng nay tôi vừa cùng ông đọc fim X-quang của một bệnh nhân gãy xương vì “đấu võ” khi đấu tố. Tôi còn nhớ cách đây không lâu đã có lần ngẫu nhiên ngồi cùng ông bình luận về âm nhạc cổ điển…
Ông Mật nhận ra tôi, hình như không hề ngạc nhiên vì tôi đến đây, ông cười nói: “Cậu Tiêu ạ, chiếc máy hát có dán chữ Tiêu ở bên cạnh, là của cậu à? Chúng tôi đang có một cuộc gặp mặt nho nhỏ ở đây, máy hát và toàn bộ đĩa hát của tôi thì đã bị họ khám nhà tịch thu mất rồi, tôi đang buồn vì không có nhạc để nghe. Tại sao máy hát của cậu lại ở đây?”
Tôi hậm hực: “Đêm qua em đến đây nghe nhạc, thế rồi cái máy hát bị người ta ai mà biết được, có lẽ, ma đã cướp đi! May sao chúng lại đem trả lại!”
Ông Chức và ông Mật ngớ ra, đưa mắt nhìn nhau, rõ ràng cả hai ông đều cho rằng nói có ma lấy đi là chuyện hão huyền, và đang nghĩ xem tôi có bị tâm thần hay không? Nhưng dù sao hai ông đến gặp nhau tại phòng thực nghiệm này cũng vẫn là đáng quí, và có lẽ, cũng như tôi, họ chẳng có chỗ nào tốt hơn để đến.
Vào thời buổi rối ren này, đâu có thể dễ dàng tìm được một chốn sạch sẽ! Có nhiều tiếng lao xao ở ngoài hành lang, một người nói giọng rất vang: “Chúng ta đã nghe bản “Mục ca sau buổi trưa” này không biết bao nhiêu lần, nhưng vẫn cảm thấy người thời trước nói ‘Đê-buy-xi cấu tứ theo trường phái ấn tượng’, là rất võ đoán. Tôi vẫn cảm nhận rằng về sắp xếp ý tưởng, tác giả vẫn giữ nguyên chuẩn mực và nghiêm cẩn của trường phái cổ điển hoặc trường phái lãng mạn”. Một giọng nữ cười nhạt: “Tôi thấy anh rất sính phát ngôn kì cục khác đời thì có! Khúc nhạc này rành rành là ‘phá vỡ truyền thống’ ! Tôi tạm nêu vài ví dụ: về khúc thức, Đê-buy-xi đã gỡ bỏ các công thức thông thường, không cho lặp lại cả đoạn và không tái hiện nét chủ đề; về tổ hợp câu, cũng không phân đoạn chính đoạn phụ, vận dụng rất nhiều chuỗi giai điệu, những điều này hoàn toàn xa lạ với trường phái cổ điển”.
Giọng rất vang kia lập tức chặn luôn: “Đó là về hình thức! Vẫn là bình mới rượu cũ!
Không thể phủ nhận rằng khi đó Đê-buy-xi định bước ra khỏi trường phái cổ điển, nhưng nhiều nhất chỉ có thể nói bản nhạc này là bước quá độ tiên tiếng đến trường phái ấn tượng! Xét từ góc độ thẩm định, thì hoàn toàn có thể vận dụng trình tự thưởng thức nhạc giao hưởng để nghe bản nhạc này!”. Người phụ nữ vẫn cười nhạt: “Anh đúng là phái cổ điển! Nghe nhạc mà cũng dùng trình tự! Anh có biết Mô-ra-mê là ai không?”
“Thi sĩ trường phái ấn tượng rất nổi tiếng, tác giả trường ca “Mục đồng sau buổi trưa”, đã được phổ nhạc bằng khúc nhạc này! ”
“Anh đã công nhận Mô-ra-mê là nhà thơ lừng danh thuộc trường phái ấn tượng, thơ trường phái ấn tượng đã được phổ nhạc. Chính Mô-ra-mê nghe trình diễn xong, ông nói tác phẩm này quá tuyệt vời, còn hay hơn cả nguyên tác thơ! Vậy nó chẳng phải trường phái ấn tượng là gì?” Giọng nam vang dội bỗng cười sằng sặc: “Phải đấy! Bám sát từng câu để mà phổ nhạc, và có thể phản ánh chính xác từng ý thơ nguyên tác-thì đâu phải là trường phái ấn tượng hay tượng trưng gì nữa? Nó sẽ là có sao nói vậy, nó là cách soạn nhạc của trường phái cổ điển rất chuẩn mực. ”
Tôi ngây người nghe, thấy cả hai nói đều không phải là không có lý. Giáo sư Chức và giáo sư Mật thì lại cười tủm tỉm lắn đầu. Một nam và một nữ bước vào phòng. Người đàn ông tầm vóc cao lớn, trạc 45 tuổi, có bộ râu quai nón được tỉa xén rất chau chuốt. Người phụ nữ trạc khoảng ngoài 30 tuổi có mái tóc dài được uốn rất khéo, trông thật trang nhã.
Ông Chức nói : “Hai vị hễ gặp nhau là đôi co thế ư? Nghe nhạc cổ điển, điều đáng lưu tâm là cảm nhận chứ không phải là vận dụng trí não, nếu nghĩ ngợi nhiều quá thì lại là trói buộc trí tưởng tượng và sự cảm thụ của mình! ”. Hai người dường như đồng thanh trả lời có phần áy náy : “Bác Chức nói có lý, chúng tôi có cái tật xấu là chẳng ai chịu phục ai.” Ông Mật cũng cười: “Nếu hai vị không có tật hay đôi co thì chắc đã về ở với nhau từ lâu rồi!” khiến đôi nam nữ kia càng ngượng ngịu đỏ chín cả mặt. Tôi chưa gặp hai vị này ở trường bao giờ, nên hơi tò mò quan sát. Người phụ nữ có khuôn mặt khá đẹp, rõ ràng đã được giữ gìn chăm sóc kỹ lưỡng, nhất là mái tóc dài khiến tôi phải ngạc nhiên: vì gần đây, dù ở trường hay các hang cùng ngõ hẻm bên ngoài, bất kỳ lúc nào cũng có thể thấy các hồng vệ binh hoặc bọn ác ôn cầm kéo để cắt các bộ tóc dài và quần áo theo mốt. Sao chị ta lại may mắn thoát được?
Và có lẽ ban đêm đến nhà giải phẫu cũng là một tuyệt chiêu! Ông Mật chỉ vào tôi và nói :
“Giới thiệu với hai vị, đây là cậu Tiêu – một sinh viên giỏi, hiện đang thực tập ở bệnh viện trực thuộc số 1, cũng là một người hâm mộ nhạc cổ điển.” Ông lại chỉ hai vị vừa đến, nói tiếp: “Đây là tiến sĩ Lăng Hoành Tố, nhân vật hàng đầu của bộ môn chăm sóc y tế bà mẹ và trẻ em của khoa chăm sóc y tế trường ta, đây là cô Lạc Vĩnh Phong – bác sĩ mổ hạng nhất của khoa ngoại bệnh viện trực thuộc số 2”. Cả hai thân thiện gật đầu nhìn tôi, ông Tố hơi ngập ngừng, rồi hỏi: “Có phải hai bác định… ”, ông ta lại nhìn tôi, không nói tiếp nữa.
Ông Chức hiểu ý, bèn nói: “Sự việc rất hệ trọng, e rằng hai chúng tôi không giải quyết nổi, chúng ta cùng nên bàn xem sao. ”
Tôi rất muốn nán lại để cùng tìm hiểu về cách đánh giá nhạc cổ điển, nhưng nhìn họ đều có vẻ dè dặt kín đáo như thế, tôi thấy mất hứng bèn nói: “Cũng hơi muộn rồi, các vị lại có hẹn với nhau, tôi xin cáo lui. Về chiếc máy hát, nếu cần thì các vị cứ dùng đi, mai tôi sẽ đến chỗ thầy Mật cầm nó về. Chỉ hiềm… khu nhà này có phần kì dị… tạm coi như là ma – có thể sẽ cướp máy hát. Nhưng các vị đông người thì chắc sẽ ổn thôi!”.
Ông Mật nói: “Cậu Tiêu đừng vội đi, tôi có tiếng là dân học thuật phản động, hiện đang bị chụp mũ đeo biển để cải tạo tại chỗ, len lét như rắn mồng năm… đâu dám bê cái máy hát về khoa phóng xạ của tôi? Chúng tôi gọi nhau đến đây chỉ để cùng nghe nhạc cổ điển, nếu cậu cũng có hứng thì mời cậu ở lại cho vui.
Nói đúng ra là, không thể thiếu cậu. Vì máy đĩa hát của chúng tôi đều đã bị tịch thu, may mà họ chưa càn quét đến sinh viên các cậu nên có lẽ chúng tôi còn phải tiếp tục nhờ cậu cung cấp món ăn tinh thần cho!”. Tôi đã hiểu hơn: “Tức là các thầy thường gặp gỡ định kỳ phải không ạ?”. Ông Mật gật đầu: “Chuyện nói cho kỹ, e rằng dài dòng. Chúng tôi đã từng ấn định ngày gặp mặt nhưng mấy năm nay thế sự xoay vần quá dữ dội, nên không thể còn qui luật gì nữa! ”
Tôi định hỏi thêm nhiều nữa, ví dụ có phải các vị thường gặp gỡ ở đây, và cũng từng gặp sự việc như tôi gặp đêm qua nhưng lại thấy tiếng bước chân, rồi có hai ba chục người nói cười lục tục tiến vào. Trông họ đều có dáng trí thức, tuổi từ ngoài 30 cho đến 60-70 tuổi, cả nam lẫn nữ, dường như họ đều dường như rất thân quen. Hình như ở trường tôi từng nhìn thấy vài người trong số họ… Ông Chức bỗng e hèm, rồi nói to: “Có lẽ mọi người đều đã tề tựu, ta bắt đầu nào! Dễ thường… đến hai tháng nay chúng ta không gặp nhau, trong khoảng thời gian này, bên ngoài… khắp trong ngoài trường, tình hình ngày càng tệ hại. Nói đúng ra là, đôi lúc tôi thấy chẳng còn bụng dạ nào mà nghe nhạc hoặc giải trí nữa! Nhưng rồi lại nghĩ, càng gặp thời buổi gian nan thì ta càng nên tìm cách để giải thoát. Âm nhạc có thể giúp ta xa lánh mọi ưu phiền, rất hữu ích cho cả thể xác lẫn tâm hồn!”
Mọi người đều gật đầu tán thưởng.
Ông Mật nói tiếp: “Ngẫu nhiên hôm nay được biết anh Tiêu – tuổi còn trẻ nhưng cũng là một người hâm mộ và hiểu biết khá sâu về âm nhạc cổ điển. Gần đây chúng ta đều đã bị mất hầu hết đĩa hát, anh Tiêu thì lại có đĩa hát. Cùng có chung sở thích cả, cho nên chúng tôi nghĩ, rất hoan nghênh anh Tiêu sẽ tham gia vào hội này. Các vị nghĩ sao ạ?”
Nhận thấy đám đông đều có vẻ do dự, tiến sĩ Tố nói: “Lại là một sinh viên à? Mấy tháng trước tiếp nhận một sinh viên vào hội, rốt cuộc ra sao, lẽ nào hai vị đã chóng quên thế?”
Không buồn để ý họ có chấp nhận tôi hay không, tôi thản nhiên nói: “Tôi thực sự không hiểu các vị đang nói là nhập hội gì gì thế? Tôi rất không thích mọi ràng buộc, tốt nhất không có tổ chức nào cả, sẽ tự do thoải mái hơn! ”
Ông Mật vội nói : “Cậu Tiêu bỏ quá cho, tôi chưa giải thích rõ với cậu. Những điều tôi nói sau đây, mong cậu đừng nói với ai khác: chúng tôi tập hợp với nhau lập nên một nhóm nhỏ gọi là ‘Nguyệt Quang xã’ . Gốc gác của cái tên gọi này là, hồi đầu mới thành lập, mấy vị nguyên lão đang cùng ngồi thưởng thức bản sô-nát Ánh Trăng của Bethoven do các dàn nhạc khác nhau diễn tấu dàn nhạc Snây-ben, Béc-hao-xơ, Hu-lao-den-đơ rồi chúng tôi lại so sánh Ánh trăng của Bethoven với các bản cùng tên của Đê-buy-xi và Phô-rê, rốt cuộc lấy ‘Ánh trăng’ đặt tên cho hội của chúng tôi. Đó là chuyện xưa cũ… Từ năm 1952. ”
‘Nguyệt Quang xã’ vốn là một đoàn thể hoạt động văn nghệ công khai, nào ngờ năm 1957 có phong trào chống hữu khuynh, nhiều thành viên của hội vì mang đậm cảm quan kiểu giai cấp tư sản cho nên ‘nghiễm nhiên’ bị coi là phái hữu, hội của chúng tôi cũng bị coi là một ‘tổ chức phái hữu’, rồi bị cấm hoạt động. Nhưng đám chúng tôi lại không nghĩ thế: ngồi với nhau để nghe nhạc, mà là phái hữu ư?
Chúng tôi bèn lui vào ‘hoạt động bí mật’. Thế rồi bị người ta biết, nhà trường bèn để mắt đến, rồi lập hồ sơ về chúng tôi, rồi nghi ngờ rằng đây là một tổ chức phản cách mạng hoặc đặc vụ gì đó. Chúng tôi càng chú ý phải giữ bí mật hơn, gắng không kết nạp thêm thành viên mới, ai cũng phải tuyệt đối giữ kín việc mình là thành viên của ‘Nguyệt Quang xã’, số lần gặp gỡ cũng giảm thiểu, phải kén chọn kỹ địa điểm kín đáo, mỗi lần gặp nhau chỉ hạn chế 1/3 số hội viên để đề phòng nếu bị ‘càn quét’ thì sẽ mất sạch quân số! Và nhà trường dần cạn hẳn thông tin về hội này, không biết gì nữa. Kể từ năm ngoái nổ ra đại cách mạng văn hóa. ’Nguyệt Quang xã ’ lại trở thành đối tượng vô căn cứ ‘rất cứng đầu’ mà ủy ban cách mạng nhằm vào – vì ’Nguyệt Quang xã ’ chỉ còn cái tên suông, chẳng ai biết những người nào là thành viên, không hề có dấu vết tụ tập hoạt động gì cả. Tháng 9 năm ngoái, chúng tôi đang tập hơn ở đây thì có một thanh niên trông sáng sủa, tay bưng một chồng đĩa hát, xồng xộc tiến vào. Anh ta nói lời xin lỗi rồi tự giới thiệu tên là Liễu Tinh, rất mê nhạc cổ điển nhưng vì nhà nghèo – tuy có thể mua được một số đĩa hát cũ nhưng không sao mua nổi chiếc máy hát. Vào một buổi tối đi qua khu nhà giải phẫu nghe thấy văng vẳng tiếng nhạc, anh ta bèn lén bước vào thấy một đám người đang ngồi nghe nhạc cho nên mới hứng chí bê các đĩa hát đến, nào ngờ khi tiến vào thì ở đây không thấy một bóng người. Suốt một thời gian sau đó anh ta vẫn không nguôi, ngày nào cũng đến đây chờ và tối hôm đó đã gặp chúng tôi, anh ta nài nỉ xin nhập hội.
Thấy anh ta rất chân thành, chúng tôi bèn đồng ý và nhấn mạnh với anh ta tính chất ‘hoạt động bí mật’ của hội, anh ta thề sẽ giữ bí mật. Trải qua vài lần tập hợp, anh ta đã quen hầu hết các thành viên của hội.
Vào hạ tuần tháng 11, đại đa số các hội viên đều bị thẩm vấn riêng rẽ, họ tra hỏi về vấn đề ’Nguyệt Quang xã ’. Tất nhiên chúng tôi phủ nhận, nhưng tổ điều tra đã có chuẩn bị sẵn sàng, nên họ miêu tả rõ tình hình tụ tập trong hai tháng trước, ép chúng tôi chứng minh rằng mình ‘có bằng chứng ngoại phạm’- đúng là làm khó cho chúng tôi. Trong quá trình xét hỏi, tổ điều tra đưa ra nhân chứng quan trọng để đối chất, chắc anh đã đoán ra: chính là Liễu Tinh!
Tôi nói cầm chừng: “Nếu đã có chuyện cũ đáng sợ như thế, có lẽ các vị đừng nên kết nạp tôi thì hơn, để tránh lại bị hãm hại”
Ông Chức nói: “Trừ phi anh không mấy hứng thú thì thôi, chứ chúng tôi không hề nghi ngại gì anh! Thực ra thì Liễu Tinh còn trẻ thật nhưng anh ta rất am hiểu nhạc cổ điển.
Tôi không hiểu nổi cùng là dân mê nhạc với nhau sao nỡ nồi da nấu thịt như thế?
Có lẽ tối mắt vì lợi chăng. Nhưng tố ra đám ‘đồ cổ’ như chúng tôi, thì được lợi lộc gì? Có lẽ đó là ’biểu hiện tinh thần cách mạng!”. Chưa đợi tôi tỏ thái độ của mình, ông Chức đã phát biểu ngay cảm nhận của mình. Đủ thấy Liễu Tinh là một vố đau đối với họ .
Nữ bác sĩ Lạc Vĩnh Phong nói: “Lẽ nào bác không biết, thằng nhãi ấy chưa chắc đã hiểu rằng mình đã làm một chuyện vô lương tâm! Hắn tưởng như mình hoạt động bí mật, tiến sâu vào vùng địch, nắm được thóp của một tổ chức đặc vụ rồi giăng lứoi vét sạch-thế là rất vẻ vang!”
Ông Chức nói: “Lâu nay tôi rất muốn chạm trán anh ta trong trường để hỏi mấy câu, nhưng hình như anh ta đã biến mất tăm tôi đến khoa Y học dò hỏi, thì hầu như không ai nghe nói rằng đã từng có anh ta”
Tôi nói: “Có lẽ tôi cũng chưa từng nghe ở khoa nói về một anh chàng như thế. Có lẽ anh ta là một kẻ giả danh sinh viên cũng nên. Hoặc, thực ra là một công an! ”
“Thế thì việc tham gia hội” ông Mật nhìn tôi, ánh mắt có ý động viên và mong mỏi.
Đương nhiên tôi rất mong được kết giao với các vị bề trên có chung sở thích thưởng thức âm nhạc, nên tôi vui vẻ nhận lời ngay. Tiến sĩ Lăng Hoành Tố dặn dò: “Về chuyện này, anh tuyệt đối không nên nói với bất cứ ai, kể cả bạn chí thân, thậm chí kể cả người yêu và người nhà, vì chuyện này liên qua đến sự an toàn và tiền đồ của anh, chớ có coi thường!”. Cuốn nhật ký cất giấu ở chỗ nào, chỉ mình tôi biết. Dù tôi có viết vài đây thì cũng không ai biết đấy là đâu.
8/2/1967
Trời nhiều mây
Gần đây tâm trạng tôi chơi vơi chẳng thiết viết nhật ký nữa.
Mấy ngày qua không thấy bóng ông Giang Mật ở bệnh viện, đêm đêm tôi vẫn đến nhà giải phẫu xem sao, nhưng cũng chẳng thấy bóng ai.
Nhưng có lẽ do hào hứng vì đêm nay là đêm 30 tết, nên tôi lại đến chỗ cũ để tìm ông
Giang Mật và ông Lưu Tồn Chức. Trong hai ông rất ũ rũ, mặt ông Mật còn hằn rõ dấu vết bị đánh đập, ông Chức thì đi tập tễnh, rõ ràng là bị hành hạ không ít. Tôi buồn rầu hỏi: “Thì ra thầy Chức cũng bị bắt ư?”
Ông Chức mỉm cười: “Chỉ sây sát nhẹ thôi, có gì đâu mà!”. Đang nói chuyện thì thấy Lăng Hoành Tố, Lạc Vĩnh Phong và mấy vị bước vào. Tôi thấy xúc động, họ cũng như tôi – “không gia đình”, đêm 30 vẫn phải lang thang như những cô hồn. Tôi chuẩn bị mở máy hát thì ông Mật giơ tay ngăn lại: “Hôm nay đừng mở cậu Tiêu ạ! Gần đây tình hình căng lắm, nên cẩn thận thì hơn. Hiện giờ chỉ còn mình cậu là người an toàn nhất, cậu phải giữ mình ở lại. Hai chúng tôi chỉ đến gặp để mọi người biết rằng chúng tôi vẫn yên ổn!”. Nét mặt ông Tố và mọi người đều buồn bã, tôi không hiểu tại sao bèn hỏi: “Có phải từ nay thầy Chức thầy Mật sẽ khỏi bị phiền hà nữa không? Họ đã buông tha rồi chứ?”
Ông Mật cười có phần cay đắng: “Phải! Sẽ không bao giờ bị phiền hà gì nữa!”
Ngừng một lát ánh mắt ông nhìn tôi rất hiền từ: “Từ nay cậu Tiêu gắng đừng đến khoa phóng xạ tìm tôi nữa, dù có đến mà không gặp tôi thì cũng đừng hỏi thăm làm gì kẻo cậu sẽ bị rắc rối!”
Tôi gật đầu vâng lời
Điều lạ lùng là, hai ông trở lại, lẽ ra tôi phải thấy yên tâm mới phải. Nhưng tôi nằm xuống giường cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được, đành ngồi dậy viết nhật ký vậy.
15/02/1967
Trời nắng
Vì tôi chẳng có nhà mà về, nên mấy ngày Tết tôi gần như chỉ quẩn quanh ở bệnh viện.
Tối tối, tôi vẫn đến nhà giải phẫu mong có thể gặp lại những con người thân thiết của
“Nguyệt Quang xã”. Nhưng đều vô ích. Thì ra dù sao họ cũng vẫn hạnh phúc hơn tôi, ít ra họ vẫn được hưởng sự ấm cúng của gia đình. Vì thế tôi nhớ Y Y vô cùng da diết, và cả người bạn thân Kình Tùng nữa, cậu đang ở đâu? Đêm nay giá lạnh khác thường. Đến quá nửa đêm tôi vẫn không ngủ được, bèn xuống gác ra khỏi ký túc xá, đến nhà giải phẫu với một tâm lý cầu may. Nhưng tôi phải trợn mắt vì kinh ngạc trước cảnh tượng trước mặt: hầu hết các thành viên của “Nguyệt Quang xã” đều có mặt, tuy vì thiếu tôi nên không có tiếng âm nhạc bay lượn, nhưng ai đấy đều tỏ ra rất vui mừng và tươi cười. Phải chăng dù trong những tháng năm gian khó, mùa xuân đến vẫn cứ đem lại niềm vui cho con người?
Tôi cực kì ngạc nhiên hỏi vị giảng viên khoa Hóa đứng bên xem là đã xảy ra chuyện gì.
Ông ta chỉ tay về phía trước: “Cứ nhìn hai vị ấy thì biết!”. Ngay phía trước mặt, một đám đông đang vây quanh Lăng Hoành Tố và Lạc Vĩnh Phong. Hoành Tố mặc bộ complê màu xanh sẫm đen, đứng ngay ngắn, trong rất có tư thế hiên ngang với bộ râu quai nón được chăm sóc công phu. Vĩnh Phong mặc bộ áo dài len màu huyết dụ, trang điểm phấn son, vẫn mái tóc dài buông như trước. Nét mặt cả hai rạng rỡ tràn trề hạnh phúc sướng vui, khiến tôi thầm tấm tắc: họ tuy đều đã đứng tuổi nhưng vẫn trong sáng như một cặp giai nhân ngọc ngà tuyệt mỹ.
Thì ra là tối nay họ cưới nhau.
Tôi tuy chỉ mới quen biết họ, nhưng trước đây cũng từng nghe nói họ thầm yêu nhau đã lâu, nhưng cả hai đều cao ngạo, chẳng ai muốn thổ lộ trước với đối phương, cả hai lại cùng ham cầu tiến vươn xa trên con đường sự nghiệp, nên bao năm qua vẫn chưa kết bạn trăm năm. Hôm nay họ mới đến với nhau, trái ngọt tình yêu phải chín, không thể nào khác. Tôi thực lòng thấy rất mừng cho họ.
Tôi chạnh lòng nhớ đến Y Y. Tôi phải làm gì để nàng thóat ra khỏi sự đeo bám của “Máy Kéo”?
Tôi nói lời chúc mừng đôi lứa, rất hưng phấn, tôi quay về ký túc xá lấy ra vài đĩa nhạc valse của Giô-han Strao xơ. Một đêm đáng vui như thế này rất cần đến âm nhạc náo nhiệt tươi vui và lãng mạn.
Khi quay trở lại khu nhà giải phẫu, là lúc mọi người đang tặng quà mừng cô dâu chú rể.
Phần lớn quà mừng đều chỉ gọi là “thể hiện tấm lòng”, chủ yếu là sách, tranh ảnh, phù điêu gì đó. Bỗng nhiên đám đông ồ lên ngạc nhiên vì nghe thấy tiếng bánh xe lọc cọc, một ông lão đã quá tuổi cổ lai hy đang đẩy chiếc xe ba bánh chở một tủ kính kiểu “bao diêm” cỡ lớn. Mọi người tránh ra nhường lối, ai cũng nhìn rõ chiếc tủ kính đang bày trước mặt. có thể nói tôi khá “biết người biết của”, nhìn kỹ, tôi nhận ra nó đâu phải là tủ kính mà là chiếc tủ pha lê. Điều khiến mọi người trầm trồ là trong tủ lại có một tiêu bản cơ thể người gần như hoàn mỹ!
Dường như dung toàn bộ các bộ phận cơ thể người thật để ghép nên tiêu bản này, hệ cơ, bộ xương, dây thần kinh, mạch máu đều được sắp xếp có lớp lang, tạo nên một chỉnh thể gắn bó hữu cơ. Khéo léo tuyệt vời hơn cả tạo hóa! Nhưng nếu nói nó là một thi thể thì cũng không quá đáng, chiếc tủ cũng rất giống chiếc quan tài pha lê. Ai đã đưa tặng món quà cưới rất không vui này nhỉ?
Người đẩy xe đến, là giáo sư Liêu Dự Xương ở phòng giảng dạy nghiên cứu giải phẫu học, trước đây ông đã từng là giảng viên chính dạy chúng tôi môn này. Giọng ông rất vang: “Đa số các bạn đồng nghiệp ở đây đều biết, tôi đã bỏ ra 15 năm tâm huyết để làm ra tiêu bản này, “Gươm báu phải tặng dũng sĩ” , bác sĩ Phong đã từng giúp tôi thẩm định giáo trình giải phẫu học do Bộ tổ chức biên soạn năm 56, học vấn về giải phẫu học đã lên đến đỉnh cao, nếu không, tuổi còn trẻ thế này, đâu có thể trở thành cao thủ tầm cỡ nhất nhì của thành phố ta. Tiêu bản này vẫn cần được hoàn thiện hơn nữa, tuy nhiên tôi chẳng nghĩ ra có dịp nào khác để tặng hai vị.”
Ông Phong vô cùng cảm động nói luôn: “Nhận món quà quí giá nhường này, tôi thực ngại quá!”, ông sờ tay vào tủ pha lê nhìn một hồi lâu, rồi lại nhìn khắp mọi người. Hai hàng lệ tuôn trào, ông nói nghẹn ngào: “tôi tính khí vốn rất kiêu căng ương ngạnh, tự cho mình là rất tài ba, xử thế thường hay vấp váp, nếm phải không ít đắng cay nhất là trong mấy năm qua, chỉ có “Nguyệt Quang xã” mới cho tôi cảm nhận được sự đầm ấm như trong một gia đình. Hôm nay được sánh đôi cùng Hoành Tố, cũng là nhờ các vị đã tác thành cho, ấy là phúc cho tôi vậy!”
Hoành Tố cầm mùi xoa lau nước mắt, nhưng chị cũng không quên “chỉnh” chú rể một câu: “hôm nay là ngày đại hỷ, mà anh lại cúi đầu khóc sướt mướt thì còn ra sao nữa?”
Tôi xem chừng đã đến lúc rồi đây, bèn lặng lẽ bật máy hát.
Điệu valse mùa xuân vang lên, mọi người đều yêu cầu cô dâu chú rể khiêu vũ. Hai người lau nước mắt, mỉm cười, vui vẻ nhận lời. Họ uyển chuyển xoay tròn lướt trong tiếng nhạc. Tôi không hề có hứng thú với khiêu vũ, nhưng ít ra cũng tàm tạm biết xem. Hai người nhảy, khiến tôi được mở rộng tầm mắt. Họ thực sự là một đôi bạn nhảy quốc tế vũ rất tuyệt, bước chân của Vĩnh Phong linh hoạt như thiên nga giỡn sóng, lướt nhanh khiến người ta nhìn hoa cả mắt. Chiếc áo dài của Hoành Tố vốn không phải là lựa chọn thích hợp nhất cho khiêu vũ, nhưng vì bước nhảy của Vĩnh Phong rất tài tình nên Hoàng Tố như đang uốn lượn trong không gian, tấm thân mềm mại uyển chuyển như Hằng Nga đang bay lên cõi tiên, huyền diệu vô cùng!
Không khí tràn ngập vui tươi thấm đẫm hồn tôi, tôi quên hết mọi nỗi ưu phiền vẫn vơ, tôi không ngớt vỗ tay tán thưởng, hò reo ca ngợi!
Nhưng cũng đúng lúc này tôi bỗng cảm thấy có điều gì đó thật lạ lùng…
Vì trong nhà giải phẫu rất lạnh, khi tôi lớn tiếng hò reo, miệng tôi phả ra từng làn “khói trắng”. Nhưng tôi nhìn mọi người xung quanh thì không thấy ai phả ra khói trắng như thế như thế cả.
Một nỗi kinh hãi bỗng từ đáy lòng tôi dâng lên, hoàn toàn lạc lõng với nét nhạc điệu nhảy đang rộn ràng ở nơi này.
Trong mấy hôm nay, lần đầu tiên tôi trăn trở điều này “Nguyệt Quang xã” gồm những ai? Nó có liên quan đến việc tôi bị bỡn cợt hôm nọ không.
Tôi lại quan sát các thành viên vây quanh, họ cũng chẳng khác gì những người bình thường. Giáo sư Tiêu Trí Dung ở phòng giảng dạy nghiên cứu sinh lý học đang đứng phía trước cách tôi vài thuớc, tôi thử đưa tay ra vỗ vai ông một hai ba cái mỗi lần vỗ một mạnh hơn, nhưng ông vẫn không nhận ra và không quay đầu lại. Tim tôi đập cực nhanh, hơi thở như muốn tắc nghẽn, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi thấy thực sự khiếp hãi. Nhưng tôi cố gắng nén nỗi sợ hãi bắt đầu ập đến này, dù các nhân vật đứng quanh tôi là người hay ma thì không khí hân hoan này vẫn là có thật. Cũng là lần đầu tiên trong bao ngày nay, tôi mong niềm hân hoan này sẽ kéo dài mãi mãi chứ đừng đứt đoạn. Tôi bèn lặng lẽ rời khu nhà giải phẫu. Khép cửa lại rồi, tôi vẫn thấy văng vẳng tiếng nhạc, âm nhạc vẫn là có

Ngọc Nát Và Ngói Lành

16/2/1967

Trời nhiều mây
Sáng nay đang ở buồng bệnh nhân khoa nội, nhân lúc đi lấy phim X quang, tôi rẽ vào khoa phóng xạ. Ông Mật từng nhiều lần chắc tôi không được hỏi han về ông, nhưng tôi vẫn kiếm cớ để hỏi: “Đã đọc xong film của bệnh nhân nằm giường 54 buồng 3 khoa Nội chưa? Bác sỹ Lý nói là muốn ông Giang Mật đọc giúp.”
Một bác sĩ trẻ của khoa phóng xạ cười nhạt: “Bác sĩ Lý của các anh đang khám chữa bệnh ở bệnh viện nào vậy? Cứ như là mới từ Liên Xô về! Ông Mật đã bị bắt mấy hôm nay. Mấy hôm trước nghe nói ở toà án ông ấy bỗng phát điên, rồi nhảy lầu khi tay vẫn đang bị còng. Có lẽ lúc này xác ông ấy đang ở phòng thực nghiệm giải phẫu của trường các vị. Ông ấy đã viết sẵn di chúc: xin hiến xác cho nhà trường để dùng trong giảng dạy.”
Tuy tôi đã có linh cảm chẳng lành nhưng khi nghe tin này tôi vẫn thấy hoang mang rất lâu.
Đến trưa tôi lại tạt sang khu văn phòng khoa Dược, hỏi thăm vài câu là biết ngay: mấy hôm trước ông Lưu Tồn Chức đã nhảy lầu tự tử.
Tan tầm trở về kí túc xá, tôi nằm vật ngay ra giường, mắt ngây nhìn trần nhà ố vàng, nằm bất động chẳng biết bao nhiêu lâu, tôi bỏ cả bữa tối. Tôi nghĩ về những chuyện xảy ra bấy lâu, những tưởng mình đã tìm được mảnh đất thần tiên nho nhỏ, nào ngờ những người đồng hành lại chẳng giống như ta!
Thế giới quan của tôi cũng bị lung lay: chẳng lẽ trên đời này có ma quỷ thật hay sao?
Thế rồi, sau lúc nửa đêm tôi lại đến khu nhà giải phẫu.
Đẩy cửa ra, một vùng tối và lạnh rợi thẳm sâu vô tận. Không ai có thể tin nổi mới chỉ đêm trước nơi đây từng đầy ắp những tiếng nói cười vui vẻ, ca vũ tưng bừng cho đến sáng. Tôi đã cuồng nhiệt vui chơi với một bày ma quỷ.Nghĩ đến đây, tôi chợt sởn tóc gáy!
“Đã biết rõ tất cả rồi, tại sao anh lại còn đến đây?” Một giọng nói vang lên, hình như phát ra từ một nơi rất xa, nhưng lại như nói ngay bên tai tôi.
Tôi lại phát hoảng, nhưng không thể nói được một lời. Đèn hành lang bỗng sáng lên, nhưng chỉ lờ mờ, hai bóng người xuất hiện, hình như vừa từ dưới đất “nổi” lên, tập tễnh chầm chậm tiến lại phía tôi, tôi dần nhìn rõ hơn: đó là Giang Mật và Lưu Tồn Chức.
“Khi lần đầu giới thiệu với tôi ở Nguyệt Quang xã , hai vị còn ở cõi nhân gian, tại sao lại”
“Đúng thế, lúc đó chúng tôi vẫn còn sống – tuy sống chẳng thú vị gì, nhưng vẫn là đang sống. Lúc đó nhìn thấy cậu, thực ra là chúng tôi nhìn thấy tia hy vọng. Nhưng rồi bị bắt, bị thẩm vấn mấy lần, nhất là sau khi bị thành phố xử công khai, thì tia hy vọng ấy dần tắt ngấm.” Ông Chức buồn rầu nói.
Tôi tưởng tượng thấy cảnh xét xử, hai ông bị hành hạ bị làm nhục, tôi trào nước mắt: “Nhưng, tự sát thì chẳng phải là hành động của kẻ hèn nhát hay sao? Gắng chịu đựng để sống, vẫn cứ là khúc dạo đầu để chờ ngày ta lại đứng lên kia mà!”
“Chúng tôi đều là những người rất giàu lòng tự trọng, coi danh dự cao hơn cả tính mạng, muốn để cho nhạc cổ điển củng cố khí tiết cao cả, cũng tức là để cho chất lãng mạn của nghệ thuật dệt nên những mộng ước hoàn mỹ.Nhưng rồi kết quả lại chỉ là sự yếu mềm không thể cứu vãn được! Hiện thực không chấp nhận thì chúng tôi từ giã hiện thực vậy! Mong anh sẽ nhận lấy bài học từ chúng tôi, không làm những điều dại dột ấy nữa!”
“Đương nhiên tôi sẽ không làm theo các vị, tôi còn phải sống, tôi còn có người yêu, các bạn thân, còn có những người ở Nguyệt Quang xã – cùng chí hướng nhưng không đi vào ngõ cụt, còn có hôn nhân và gia đình vui vẻ hạnh phúc.” Tôi thấy giọng mình hơi lạc đi, chẳng rõ vì thấp thỏm hay vì sợ hãi.
Một giọng cười nhạt từ phía sau tôi vọng đến.
Tôi thót tim, ngoảnh lại rồi kêu lên một tiếng: một đôi nam nữ cao lớn đang sánh vai đứng đó, người đàn ông mặc bộ com-lê màu xanh xẫm đen, người phụ nữ mặc bộ áo dài nhung, nhìn trang phục thì biết ngay là Lăng Hoành Tố và Lạc Vĩnh Phong mới cưới nhau tối qua, nhưng khuôn mặt của họ, trời ơi, khuôn mặt của họ đều dập nát hoàn toàn không thể nhận ra! Những vết nứt đan xen không theo một quy tắc nào, đầm đìa những vệt máu xẫm đen, và còn nhìn thấy lờ mờ xương trắng phía dưới.
“Thì ra các vị đã…”
Ông Mật thở dài: “Cậu Tiêu ạ, lúc giới thiệu cậu tham gia Nguyệt Quang xã , thì ông Chức và tôi vẫn là người đang sống. Tiến sĩ Tố và bác sĩ Phong bị tên Liễu Tinh chỉ điểm đầu tiên, bị hành hạ đủ bề nhưng vẫn nghiến răng không khai ra hai chúng tôi. Vẫn lại là tên Liễu Tinh ấy nằm vùng ở Nguyệt Quang xã đã chỉ điểm khui ra hai chúng tôi. Mấy hôm trước chúng tôi du ngoạn đến đây để kết giao với cậu, đó là khoảng thời gian giữa khi bị thẩm tra và bị bắt. Cậu bị cướp máy hát đêm hôm ấy, cũng là do các bạn hội viên làm! Vì căm giận tên Liễu Tinh, chúng tôi ngỡ cậu là đồng bọn với hắn nên chúng tôi mới đùa bỡn cậu. Ngờ đâu cậu lại trở thành hội viên duy nhất vẫn còn sống đến hôm nay!”
Tôi nhìn ông Mật, rồi lại nhìn vợ chồng Tố và Phong: “Nhưng, tối qua hai anh chị đã kết duyên…”
Hai vợ chồng nhìn nhau không nói gì. Ông Chức thở dài: “Họ đều tham gia hội từ nhiều năm qua, tâm đầu ý hợp đã lâu, năm ngoái họ đính hôn và dự định tổ chức hôn lễ vào mùa xuân năm nay. Nào ngờ tai bay vạ gió ập đến, cả hai bị quy chụp là đặc vụ – chẳng bị xử tử thì cũng bị kết án chung thân – không thể về sống với nhau. Cả hai đều rất thanh cao giàu lòng tự trọng, cùng nặng lòng với nhau, và chẳng muốn phải chịu đựng cảnh chia ly tan nát. Nếu không thể làm đôi chim chắp cánh bay trên trời thì làm cây liền cành dưới đất vậy! Cho nên họ đã lựa chọn… Khi còn sống chúng tôi đều nêu với nhà trường ý nguyện hiến xác cho phòng thực nghiệm giải phẫu. Cũng chính vì thế mà phần lớn các hội viên đều có thể tái ngộ nơi đây. Với hai vị này, người hữu tình đã nên duyên chồng vợ , âu cũng là niềm hạnh phúc có được từ trong muôn nỗi bất hạnh vậy!”
Cuộc trò chuyện kỳ lạ khiến tôi vô cùng cảm động, lệ rơi lã chã.
Ông Mật nói tiếp: “Cậu Tiêu ạ, tôi nhận ra rằng trong tính cách của cậu cũng có nhiều chỗ yếu mềm. Cậu phải nhớ kĩ: tuyệt đối đừng đi theo lối cũ của chúng tôi. Gian khó chỉ là tạm thời, ánh sáng sẽ là vĩnh viễn! Phải mãi mãi giữ được ánh sáng ấy, mới có đủ can đảm để chiến thắng những cảnh ngộ éo le.”
Tôi gật đầu. Đương nhiên tôi sẽ không rẻ rúng cuộc đời, dù chỉ là vì Y Y, vì Kình Tùng thì tôi cũng sẽ vững vàng để tiếp tục sống.
Tôi bỗng nhận thấy mình bơ vơ không nơi nương tựa, vốn nghĩ Nguyệt Quang xã là ân huệ của thượng đế ban cho, là chốn yên tĩnh để linh hồn tôi đến nương náu, còn gì sung sướng hơn được ở gần các vị bề trên đằm thắm tình người và cao nhã? Nhưng giò đây tôi đã biết sự thật, chẳng lẽ từ nay tôi sẽ gắn bó với một đám hồn ma?
8/3/1967
Trời nắng
Hôm nay là một ngày vui. Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, Y Y được nghỉ nửa ngày, nàng mất hai giờ đồng hồ ngồi tàu hoả để đến với tôi. Thời gian vừa qua tôi đã hai lần đến bệnh viện tiền tuyến thăm nàng. Đúng thế: nàng đã bị“Máy Kéo” bố trí làm cùng một tổ thực tập. Để xua tan sự ghen tuông của tôi, nàng nói nàng luôn giắt bên người một cái kéo, sẵn sàng liều đối phó với hành vi quá trớn của Máy Kéo. Tuy nhiên, đến nay Máy Kéo vẫn chưa dám một lần mời nàng ăn cơm, vẫn ở giai đoạn quan sát “từ xa”.
Hai chúng tôi tâm sự suốt một buổi chiều, âu yếm gắn bó, bịn rịn không nỡ rời nhau. Vừa ăn cơm tối bước ra cửa nhà ăn, đã trông thấy Máy Kéo cùng bọn lâu la thuộc phái “tạo phản”. Nhìn thấy cảnh thân mật giữa tôi và Y Y,Máy Kéo mặt sa sầm, hắn hằn học nói: “Hai người còn có vẻ gì là Hồng vệ binh nữa hay không hả? Yếu đuối uỷ mị thì có làm nổi đại cách mạng văn hoá không?”
Tôi lẩm bẩm: “Chỉ thạo cái lối cáo mượn oai hùm!”
Máy Kéo chỉ chờ có dịp, hắn bèn gào lên: “Có ý kiến gì với các đồng chí cách mạng, thì có thể đàng hoàng nói to lên, khỏi cần lí nhí ấp úng thế!”
Y Y cũng bực mình, nhưng nàng không muốn chúng tôi phải cãi nhau, bèn nói: “Đồng chí Máy Kéo, sao các anh cũng về trường thế? Đã nói là nữ sinh tổ thực tập được phép nghỉ, nam giới các anh làm thay kia mà?”
Đôi mắt lòng trắng át cả lòng đen của Máy Kéo điên đảo liên hồi, hắn ôn tồn nói: “Chuyện là thế này Y Y ạ: tôi đến đón bạn về. Đúng là nữ sinh được nghỉ nửa ngày, và nên hiểu chính xác rằng cho đến nửa đêm là hết nửa ngày phép. Nhưng 0 giờ ngày mai bạn đã phải thực tập cấp cứu, đêm hôm khuya khoắt, đường xá xa xôi, thì tôi yên tâm sao được?”
Y Y kinh ngạc trước sự vô liêm sỉ của Máy Kéo: “Nhưng các anh đã nói rằng sẽ làm thay phần việc của chúng tôi…”
Máy Kéo cười khẩy: “Tôi nói vẫn còn chưa rõ ràng hay sao: làm thay, tức là làm thay phần việc hôm nay, việc ngày mai, các bạn vẫn phải làm. Bạn Y Y hãy theo tôi về đi!”
Tôi không thể nhịn được nữa: “Này Máy Kéo, Y Y là cái tên để cho cậu gọi hay sao? Cậu có ý đồ gì, thì ai cũng biết cả rồi, tôi xin cậu thôi đi cho. Cái trò vờ vịt của cậu bốc mùi khiếp lắm, sắp làm cho người đi đuờng chết ngất đến nơi!”
Mấy tháng qua, Máy Kéo đã dần dần trở thành một trong những thủ lãnh của phái “tạo phản” trong trường, nói chung chẳng ai khiêu khích hắn làm gì. Lúc này hắn tái mặt, xấn đến thụi vào ngực tôi. Tôi đã lường hắn xấu hổ quá đâm khùng, nên tôi né người, hắn chỉ “đấm không khí”, nhưng lưng tôi bỗng bị đấm thật mạnh, đau thấu tim thấu phổi, biết ngay là đồ đệ của Máy Kéo đã đánh trộm. Y Y kêu lên một tiếng lo sợ cho tôi. Tôi quay lại, thấy hai tên thuộc hạ của Máy Kéo đứng hai bên tả hữu, tôi xông đến tấn công rất mau lẹ. Tôi cũng thấy Máy Kéo ở phía sau cũng không chịu đứng yên, hắn nện tôi rất ác. Tôi nghĩ “phen này mình bị hố to rồi đây.”
Bỗng nghe hai tiếng chửi “mẹ kiếp”, thì ra hai tên lâu la đã ngã lăn quay, thuận đà này tôi nhún thấp mình, Máy Kéo tiếp tục xuất chưởng đều không trúng. Tôi đá quét ngang, hắn ngã sấp mặt luôn!
Thì ra đã có người kịp thời cứu viện, tôi nhìn lên: chính là Kình Tùng!
Từ bé, Kình Tùng đã chuyên đánh nhau với cả đám đối thủ sống trong khu trường, lẽo đẽo bám theo một thày giáo ở trường thể dục thể thao để luyện quyền cước. Sau khi “đắc thế”, Máy Kéo rất muốn lôi kéo Kình Tùng nhưng Tùng vẫn chỉ ậm ừ cho qua chuyện, chủ yếu là vì chơi thân với tôi. Hôm nay Tùng ra tay cũng tức là từ nay anh trở thành cái gai trong mắt Máy Kéo.
Mấy tên lâu la của Máy Kéo hè nhau xông vào tôi, Kình Tùng ngăn tôi lại: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào! Bọn mình rút thôi!”. Tôi hiểu Tùng nói có lý, bèn kéo Y Y đi, ba chúng tôi vụt chạy biến luôn.
Y Y không thể chạy nhanh, bọn người kia có thể đuổi đến nơi. Tôi nhanh trí chỉ ngay vào ngôi nhà nhỏ: “Bọn mình nấp vào ngôi nhà kia đi!”. Đó chính là nhà giải phẫu.
Kình Tùng thoáng do dự, nhưng rồi cũng ừ. Ba chúng tôi chạy vào khoá cửa lại, rồi đẩy chiếc bàn sắt vẫn dùng để đặt tiêu bản ra chèn cửa.
Tôi hỏi Tùng tại sao anh lại đến đúng lúc như vậy, anh đã đi liên hệ ở miền Tây Nam kia mà? Tùng nói: “Mình đã đi đến nhiều nơi, đã gieo không ít hạt giống cách mạng, nay đã đến lúc phải trở về căn cứ địa”. Trở về trường, anh đã tìm tôi mãi. Nghe nói tôi và Y Y đang gặp nhau, anh bèn tìm đến nhà ăn.
Y Y bỗng cười nhạt: “Có phải anh đang theo dõi bọn em không đấy?”
Tùng cũng cười nhạt: “Anh không chấp bọn con gái các em đâu! Em hỏi cũng bằng thừa!”
Tôi biết quan hệ giữa Y Y và Tùng vẫn thường căng thẳng chẳng đâu vào đâu, đang định nói mấy câu dàn hoà thì bỗng nghe “xình xình xình…” bọn Máy Kéo rất hung hăng, chỉ vài cú tấn công, đã xô hỏng cửa, cái bàn sắt cũng bị đẩy lui vào.
Tùng và tôi ra sức chèn cái bàn sắt, không cho bọn chúng vào cửa. Nhưng chúng đông quân, nên chúng tôi không lại được. Cuối cùng, chiếc bàn sắt bị dạt sang một bên, Tùng và tôi ngã sõng soài, trợn mắt nhìn cánh cửa đã bị mở toang.
Máy Kéo đắc chí cười độc ác, ngông nghênh bước vào. Chúng tôi nhổm dậy vụt chạy đến tận cùng hành lang. Một tên lâu la ở phía sau hô lên: “Cả ba đứa đều là đầu đất hay sao, chỉ biết lủi vào trong thì chạy đâu cho thoát?”Một tên khác nói gọn lỏn: “Đại soái Máy Kéo ạ, ở đây không có ai khác, lại rất yên tĩnh, cứ coi hai thằng nhóc kia là phản cách mạng, ta trấn áp luôn cũng không ai biết đấy là đâu! Mau ra tay làm cho gọn đi! Em nghe nói bên đại học Công nghiệp và đại học Cơ điện đều làm thế, đã tiêu diệt được khá nhiều tên phản cách mạng!”
Tôi thấy kinh hãi, Tùng cũng dừng chân, cả hai chúng tôi đồng thanh: “Chúng mày dám?” Máy Kéo ngẫm nghĩ, rồi nhìn Y Y nói: “Không cần thiết phải quyết liệt đến thế, hôm nay vốn chỉ muốn đón Y Y về đi làm, nếu Y Y chịu theo chúng tôi về, thì chỉ cần dạy cho hai tên này bài học để ghi nhớ là được!”
Bọn thuộc hạ của Máy Kéo hưởng ứng ngay, sáu tên từ từ áp đến, ba chúng tôi đành từ từ lùi lại. Tôi có phần tuyệt vọng.
Bỗng Máy Kéo thét lên một tiếng. Sau tên tuy đang bước lên, nhưng lại giống như đang đi xuống cầu thang, cũng như lại đang bước vào một đầm lầy – đầm lầy đang nuốt chửng tất cả. Càng bước càng đi xuống – rất nhanh, đầu gối đã bị chôn xuống đất, nền hành lang phẳng phiu hình như biến thành bùn lầy lồi lõm vô hình. Mặt bọn chúng đầy vẻ kinh hoàng, chúng kêu gào chửi bới bằng đủ thứ ngôn ngữ tục tĩu bẩn thỉu, khiến Y Y phải đưa tay bịt chặt tai.
Chúng tôi cũng vô cùng kinh ngạc, nhưng nhìn xuống dưới chân, vẫn là nền xi-măng trơ cứng. Tôi thoáng nghĩ, chắc là các hội viên “Nguyệt Quang xã” đang giúp tôi. Lúc này tôi thấy có phần áy náy: từ sau khi biết rõ sự thật về họ, tôi bàng hoàng ngơ ngác, cũng chưa đến lại nơi này và luôn có ý nghĩ sẽ tuyệt giao với “Nguyệt Quang xã”.
Chỉ phút chốc bọn Máy Kéo đã bị chôn đến nửa người, chúng ra sức bấu vào mặt đất bên cạnh, nhưng quanh người chúng cũng nhão nhoẹt vô hình, càng vùng vẫy lại càng lún sâu hơn. Cuối cùng, Máy Kéo tuyệt vọng giơ tay cầu cứu chúng tôi.
Tôi và Kình Tùng nhìn nhau, mấy tên này tuy là những kẻ có ý nghĩ tàn độc thật sự nhưng chúng cũng là bạn học cùng khoa, chỉ vì theo đám ăn tàn nên đã lầm đường lạc lối đó thôi, tội không đến mức phải chết. Nhưng liệu chúng có thế như chó sói đớp lại ta không?
Thấy mặt đất đã nuốt đến ngực chúng, tôi bèn tiến lại chìa tay cho Máy Kéo.
Trong chớp mắt, tất cả trở lại bình thưòng, đầm lầy đã biến mất, Máy Kéo và các “chiến hữu” nằm sõng soài trên mặt nền – có vẻ như chưa thể bò dậy được. Chúng nhìn ánh mắt chúng tôi – đang hàm chứa nghi hoặc, sợ hãi, phẫn nộ có đủ cả.
Tôi cúi xuống nói với hắn: “Nếu tôi không muốn cứu, thì cậu sẽ tiếp tục chìm. Cho nên tôi yêu cầu cậu hãy biết điều và nhận lời: đừng nuôi tham vọng đối với Y Y nữa, yêu cầu này không có gì quá đáng chứ?”
Hình như Máy Kéo vẫn chưa thoát khỏi sự kinh hoàng vừa rồi, hồi lâu không nói được. Mãi đến khi ba chúng tôi bước qua bậu cửa cao của nhà giải phẫu mới nghe hắn kêu lên: “Mày giở trò mà quỷ! Ông đây làm cách mạng, ông không sợ trò ma quỷ của mày đâu!”
Sau đấy Kình Tùng và Y Y đều nài nỉ hỏi tại sao tôi lại được sự trợ giúp kỳ quái thế ở nhà giải phẫu, tôi vẫn cố nén không nói gì hết, mặc dù tôi luôn rất tin tưởng ở cả hai người.
3/4/1967
Trời âm u, mưa nhỏ.
Trong tháng hai, nhiều vị nguyên lão khai quốc đã chất vấn “đại cách mạng văn hoá”, mong sẽ xoay chuyển càn khôn, nhưng họ đã thất bại, rồi bị gọi là “Dòng nước ngược tháng Hai”. Thế là khắp trong trường, ngoài trường rộ lên phong trào phê phán “Dòng nước ngược tháng Hai”, sự tàn khốc tanh tưởi lại càng dữ dằn thêm. Nhiều giáo sư và sinh viên trong trường đã bị “đánh đổ”, phái “tạo phản” bèn chính thức chĩa mũi nhọn vào những sinh viên “có vấn đề xuất thân”. Tôi là một trong số đó.
Họ bắt tôi trình bày “vấn đề xuất thân” của mình, tôi chỉ có thể nói tôi bị đẻ ra, nên không tự quyết định được“vấn đề xuất thân”. Chẳng hiểu sao họ tra ra được bố mẹ tôi đang ở nước ngoài, bèn hỏi tình hình của họ hiện nay, và tại sao chỉ mình tôi ở lại. Xu hướng truy hỏi của họ khá rõ ràng, chỉ chưa gọi thẳng tôi là đặc vụ mà thôi!Về mọi chuyện của cha mẹ tôi, bác tôi rất ít nhắc đến với tôi. Tôi giận cha mẹ đã bỏ rơi tôi từ nhỏ nên cũng chẳng thiết hỏi nữa. Bác gái tôi ốm rồi mất, bác trai của tôi từng làm việc cho chính phủ Quốc dân đảng trong một thời gian ngắn, sau đó lại làm đại diện thương mại cho một công ty nước ngoài, cho nên bác bị bắt đi tù. Thế là tôi càng không thể hỏi ai về mọi nguồn gốc của mình.
Những đối tượng đã lọt vào tầm ngắm của uỷ ban cách mạng, thì chắc chắn sẽ bị “đánh đổ”; tôi cũng biết chắc mình sẽ bị phê đấu nên cũng không thiết dài dòng với họ. Tôi nghĩ, tôi cứ một mực khẳng định sự trong sáng của mình thì cùng lắm là bị họ lôi ra trước đám đông “đánh đổ” vài lần. Mọi người thấy tôi chỉ là anh thư sinh yếu ớt chắc sẽ có chút thông cảm.
Trừ phi họ có bằng chứng gì đó chứng minh tôi là đặc vụ, thì hậu quả sẽ thật tệ hại. Chứng minh như thế nào? Đã từng tham gia “Nguyệt Quang xã” – là đủ để đẩy tôi vào thế đối lập với nhân dân ngay lập tức!
17/5/1967.
Trời râm
Hôm nay Y Y đến thăm tôi.
Lâu nay, ngày nào tôi cũng bị tổ điều tra o ép, bắt tôi phải nói về tội trạng “đặc vụ”. Mỗi ngày ít nhất tôi bị dồn ép sáu tiếng liền, tôi không thể làm việc ở bệnh viện như mọi ngày, và càng không thể chăm chú đọc sách, thần kinh căng như hễ đụng vào là đứt tùng, người tôi như có thể nổ tan bất cứ lúc nào.
Y Y xuất hiện lúc này, tôi như đang trong đêm khuya tối đen chợt nhìn thấy ngọn đèn bừng sáng.
Khuôn mặt nàng hơi gầy đi, đôi mắt đượm vẻ u buồn, đủ thấy rằng, là bạn gái của tôi, nàng cũng bị tổ điều tra căn vặn không ít. Tôi thấy hổ thẹn áy náy, sau một hồi mới nói được mấy chữ: “Em gầy đi nhiều!”. Nhưng nàng lại sờ vào má tôi và nói: “Anh gầy đi còn khiếp hơn!”. Nàng trào nước mắt, trái tim tôi se lại.
Y Y chân thực, Y Y thánh thiện và dịu dàng, vì tôi nàng đã phải chịu oan ức.
Bao nỗi đau khổ tôi phải chịu đựng bấy lâu chợt biến mất như làn sương mỏng tan nhanh sau khi ánh dương lên.Nhưng nhìn hai hàng lệ của nàng vẫn không ngừng tuôn chảy, sự phẫn nộ trong tôi lại dâng lên rất lâu không sao lắng xuống được.
“Anh xin lỗi em, anh đã làm em bị liên luỵ.” Tôi biết câu nói này thật nhạt nhoà bất lực, nhưng nó vẫn là tiếng của lòng tôi.
Y Y dịu dàng nói: “Sao cứ phải tách bạch giữa anh và em như thế? Anh từng nói Em là của Anh, Anh là của Em, anh đã quên rồi ư? Tổ điều tra, thật sự đáng ghét, nhưng bọn họ có thể làm gì nổi em? Huống chi, em không hề biết bất cứ chuyện gì về anh! Bọn họ doạ em rằng, em xuất thân cũng không tốt, chỉ còn cách hợp tác với họ thì mới có thể giảm nhẹ nghi ngờ của tổ chức đối với em. Em thừa hiểu là chỉ hù doạ nhau, em cũng không bận tâm.”
“Em nói thế này, lòng anh đã nhẹ nhõm hơn nhiều. Bọn họ cũng hết cách đối với anh, nên bắt đầu giở ngón hành hạ thần kinh.”
Y Y nói: “Đúng thế! Mỗi khi nghĩ đến anh suốt ngày bị họ căn vặn, lòng em như bị kim đâm dao cắt. Em còn nghe nói tuần sau họ sẽ đưa anh ra xét xử công khai, một lần chưa được thì sẽ làm lần hai lần ba, có thật thế không?”
Tôi gật đầu: “Đúng là bọn họ đã doạ anh như thế, nếu anh không chịu chủ động nói ra thì “hội phê đấu” sẽ chờ anh”.
Y Y gật đầu, hình như định nói gì nhưng lại thôi. Tôi im lặng chờ đợi, rồi Y Y mới chịu nói: “Anh có định chủ động nói trước không?”
Câu nói này như tiếng sét đánh khiến tôi kinh hoàng hồi lâu: “Gì thế? Em nói là anh thật sự có vấn đề cần nói ra ư?” Nàng là người mà tôi tin cậy nhất mà cũng…
Y Y nói: “Anh nói vớ vẩn gì vậy? Anh thật ngốc! Trên cõi đời này em sẽ là người cuối cùng nghi ngờ anh! Dù anh tính cả anh Trịnh Kình Tùng!”
Tôi nhận ra câu nói của Y Y dùng theo mẫu câu kiểu tiếng Anh, bèn cố ý trêu chọc: “Gần đây em lén nghe đài địch phải không? Tiếng Anh của em ngày càng khá lên, có lẽ sẽ quên tiếng Trung Quốc mất thôi.”
Y Y cười: “Anh hẹp hòi thật, lại trả đũa người ta rồi! Em nói thật nhé: tổ điều tra đã hỏi đi hỏi lại em: anh có liên hệ gì với tổ chức phản cách mạng “Nguyệt Quang xã” gì gì đó không? Em trả lời: Tôi chưa từng nghe nói đến cái tên “Nguyệt Quang xã”; họ nói: tổ chức phản động này mượn danh nghĩa hâm mộ nhạc cổ điển để thu hút các thành viên vào hoạt động phản cách mạng. Cho nên em nghĩ ngay rằng anh vốn rất mê nhạc cổ điển”
Tôi bỗng lặng thinh. Tôi chưa từng nói với Y Y về chuyện “Nguyệt Quang xã”, hồi trước ông Giang Mật cũng dặn dò tôi đừng cho bất cứ ai biết, bây giờ tôi mới hiểu cái dụng ý sâu xa trong đó.
Nhưng Y Y vốn rất thông minh, thấy tôi do dự, nàng đã nhận ra ngay: “Chẳng lẽ bọn họ nói là sự thật? Thì ra anh đã dấu em thật!”
Tôi ngớ ra không biết trả lời ra sao, ánh mắt Y Y chứng tỏ dường như nàng đã hiểu rõ tất cả, nàng hỏi giọng hơi run run: “Nhưng dù sao anh cũng phải cho anh Kình Tùng biết, đúng không? Anh em như chân với tay, đàn bà như tấm áo, và rỗng tuyếch như lời nói vu vơ đúng không?” Giữa Y Y với Kình Tùng, có lẽ sẽ mãi mãi khắc nhau như nước với lửa.
Tôi đành cho Y Y biết toàn bộ những điều đã xảy ra trong mùa đông năm ngoái,Y Y thấy mấy tháng nay tôi toàn vui chơi với đám oan hồn, nàng quá kinh hãi, ánh mắt đầy vẻ khó hiểu. Tôi bình thản nói: “Nếu họ lại hỏi nữa thì em cứ nói ra, ít ra em cũng được thanh minh cho gọn chuyện. Huống chi, “Nguyệt Quang xã” thật sự không phải là tổ chức đặc vụ gì hết, anh không việc gì phải hổ thẹn với lương tâm.”
Y Y đá mạnh tôi một cái: “Anh coi em là hạng người gì vậy? Tuy “Nguyệt Quang xã thực sự trong sáng, nhưng từ lâu đã bị họ coi là tổ chức phản cách mạng, nếu tổ điều tra anh có quan hệ với “Nguyệt Quang xã” thì họ sẽ theo cái lý khai mà gán tội cho anh, anh chớ dại dột mà công nhận chuyện này!”
Tôi gật đầu: “Tất nhiên là anh hiểu, anh chỉ lo em phải chịu sức ép quá căng. Anh cũng không nói với Kinh Tùng, nghe nói gần đây cậu ấy cũng đang bị điều tra.”
“Cũng là vì anh à?”
Tôi gật đầu.
Y Y trầm ngâm một lát, khẽ thở dài: “Anh ấy cũng thực đáng ái ngại. Một con người ngay thẳng đường hoàng như vậy, có lẽ trước đây em đã quá nghiệt ngã với anh ấy.”
“Tất cả đều là tại anh.” Tôi chợt nghĩ: tại sao những người xung quanh tôi đều bị vướng mắc? Hai vợ chồng bác tôi, Y Y và Kinh Tùng nữa. Phải chăng sự tồn tại của tôi là sai lầm quá lớn?
23/5/1967
Hôm nay tôi bị đưa ra Khu xét xử công khai. Ở trường này, có tôi và hai sinh viên cùng trường đều có “vấn đề xuất thân” nghiêm trọng bị đưa ra “phê đấu”; ngoài ra còn một số sinh viên của một số trường khác cũng bị na ná như vậy, cả thảy là 18 người. Chúng tôi bị quần chúng phê đấu gọi đùa là Thập bát la hán. Giữa chừng cuộc xét xử, một sinh viên trong số này nhảy xuống dưới sàn, tuy không chết nhưng vỡ đầu chảy máu và bị gãy chân.
Khi trở về, cặp kính của tôi bị vỡ, khắp người là nước bọt, đầu gối sưng vù vì bị quỳ khá lâu.
Có lẽ đời người bị làm nhục đến thế này là cùng cực chăng?
Diệp Hinh chìm đắm trong những chuyện xưa cũ ghi trong cuốn nhật ký, cô quên bẵng rằng mình đang ngồi trong bóng tối.
Cô rất xót xa cho vị chủ nhân của cuốn nhật ký, cô thở dài rồi lại thở dài… Và trong lúc cô thở dài thì có một tiếng thở dài khác vọng đến, khiến con tim Hinh như thắt lại.
Một giọng nói ở ngay phía sau gáy cô: “Cô có còn muốn sống nữa hay không?”

❮ sau
tiếp ❯

Avatar

Các bạn đăng ký thành viên hội nhé…!
→Free vip→Đọc và nghe audio truyện/ 0 quảng cáo→Yêu cầu truyện / Ưu Tiên♥Ngoài ra AudioSite là Website do hội Mê Đọc Truyện thành lập – chính vì vậy Đọc Truyện trên website giảm 90% xuất hiện quảng cáo nhé !