1. Home
  2. Truyện Linh Dị
  3. [Audio] Đứa Trẻ Giấy
  4. Đứa Trẻ Giấy Phần 2

[Audio] Đứa Trẻ Giấy

Đứa Trẻ Giấy Phần 2

❮ sau
tiếp ❯

Chương 6: Đi tìm Hoàng Chức

Hoàng Chức giờ vẫn chưa đến. Giờ đã quá sáu giờ chiều, là quãng thời gian phòng tin tức nhộn nhịp tất bật nhất trong ngày. Tiếng gõ bàn phím lách cách, tiếng nói chuyện qua điện thoại, tiếng người cao giọng luận đàm, cũng tiếng hò hét thúc giục nộp bài đăng của biên tập viên hòa lẫn vào với nhau, khiến cả căn phòng trở nên sôi sung sục.

Bản thông cáo báo chí tôi viết xong hôm nay đã được gửi cho biên tập trang in, nên nếu muốn, tôi có thể thảnh thơi thu dọn đồ đạc ra về trước những cặp mắt đầy ghen tị từ già nửa số đồng nghiệp còn đang phải đánh vật với bản thảo ngày hôm nay.

Nhưng tôi lại muốn chờ Hoàng Chức, dù dựa theo thông tin Lưu Đường truyền đạt lại hôm qua thì cô ấy phải đến từ trưa hôm nay rồi mới phải.

Một mặt tôi nghĩ sao Hoàng Chức không đến như đã hẹn, mặt khác tôi lại nghĩ liệu có phải mình đang quá coi trọng câu nói của một bệnh nhân tâm thần chăng. Người thường khó mà đoán được tính lôgic của người bệnh tâm thần, cứ cho là hôm qua cô ấy bảo trưa nay sẽ tới, thì cũng đâu chắc gì cô ấy không đổi ý khi quay người rời đi.

Nghĩ đến đây, tôi quyết định không ngốc nghếch chờ thêm nữa. Cô ấy đến tìm tôi chắc cũng vì sự mất tích của Chu Tiêm Tiêm; về việc này, tôi đã có lời nhờ công an địa phương lưu tâm thông qua chỗ quen biết tôi.

Hi vọng mai đến toà soạn, bảo vệ không báo cho tôi nửa đêm hôm qua Hoàng Chức đến tìm mình.

Vừa ra khỏi tòa nhà được trang bị hệ thống điều hòa nơi tòa soạn đóng đô, khí nóng hầm hập bên ngoài tạt vào người khiến tôi nhăn mày khó chịu. Mặt trời đã lặn song trời hãy còn sáng, bầu không khí oi bức ngột ngạt trùm phủ lên người, khiến ta chẳng thể nào chạy thoát.

Xem chừng sắp mưa rồi đây, mong nó mưa sớm sớm đi để thời tiết mau dịu lại.

Giờ có thể xem như là đầu giờ tan tầm, tòa soạn tọa lạc ở trên khu đất vàng tại trung tâm Thượng Hải, bên ngoài những dòng người hối hả đi lại chen chúc nhau phủ kín cả vỉa hè.

Đến hè, trên các con phố ở những thành phố lớn, ta thường bắt gặp một vài cảnh tượng, như các cô gái vận chiếc quần short bò cực ngắn cùng mùi hương thoang thoảng, vừa đi qua ban nãy, tuy chưa nhìn mặt cô xinh hay không, nhưng chỉ cần nhìn đôi chân dài thẳng tắp phía sau cũng đủ khiến cánh nam giới xuýt xoa thích thú.

Chẳng để tôi tán thưởng lâu, dòng người qua lại trên vỉa hè đã che mất tầm nhìn của tôi. Nhưng tôi lại bất ngờ nhận ra một vóc dáng quen thuộc trong số đó.

Người này mặc một chiếc áo sơ mi màu hải quân cùng chiếc quần rộng thùng thình, và có vóc dáng gầy nhẳng với phần lưng hơi gù, khiến bộ dạng con người này toát lên đôi chút lén lút, vụng trộm. Anh ta chính là người đã va phải tôi hôm qua, rồi sau đó lại chẳng nói năng gì gì mà vội vã bỏ đi. Tôi nhớ lúc đấy anh ta đang đi phía sau Hoàng Chức, vội vội vàng vàng không biết vì cớ gì.

Giờ anh ta đang làm cái gì? Trông dáng vẻ anh ta, tôi thấy hơi lợn cợn.

Anh ta chẳng hề để ý đến bước chân của mình, đi lúc nhanh đi chậm. Lúc vội vã, anh ta tựa như con cá chạch luồn qua luồn lại giữa dòng người đi bộ, vượt lên mấy người đi ở phía trước mình. Lúc chậm thì giống như bây giờ, thậm chí anh ta còn đứng lại, ngó nghiêng về phía trước.

Không rõ có phải là ảo giác của tôi chăng, tôi cảm thấy đối tượng anh ta theo dõi cũng chính là người tôi vừa ngắm nhìn. Nếu không thì cô gái với đôi chân dài băng qua phần kẻ vạch dành cho người đi bộ ở ngã tư để sang bên kia đường, sao đầu của anh chàng gầy nhẳng đó cũng chầm chậm hướng theo, và rồi đột ngột và đầy bất ngờ anh ta lại lao về phía trước.

Lẽ nào anh ta bám theo cô gái kia?

Một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi, phải chăng anh ta đang làm chuyện đó? Tôi chưa bao giờ được tận mắt chứng kiến chuyện này, chỉ thấy trên phim ảnh và qua tranh biếm họa mà thôi.

Lúc anh chàng gầy nhằng bám theo cô gái kia sang bên kia đường, sắp khuất khỏi tầm nhìn, thì tôi quyết định bám theo.

Cô gái có cặp chân dài không hề hay biết mình đang bị hai gã đàn ông bám theo ở phía sau. Trên đoạn đường đông người qua lại này, chỉ cần kẻ theo đuôi cẩn thận một chút, thì dẫu là người đã qua trường lớp đào tạo về cách nhận biết kẻ bám đuôi, cũng khó lòng phát hiện ra. Chỉ có tôi và anh chàng gầy nhẳng kia là thỉnh thoảng phải rảo bước nhanh hơn, len lách qua đoạn đường chật cứng người phía trước, nếu không muốn mất dấu mục tiêu.

Cứ như vậy qua vài con phố, cô gái mới rẽ vào nhà bách hóa cao cấp, dùng dằng trước quầy hàng mỹ phẩm ở tầng một. Đây là khu vực chỉ phụ nữ mới vào xem, nên không tiện bám theo quá sát. Song anh chàng gầy nhẳng gần như chẳng kiêng dè gì, lượn đi lượn lại ở khu vực gần quầy hàng mĩ phẩm, rồi thỉnh thoảng lại liếc mắt về phía cô gái. Theo tôi thấy thì cách đeo bám của anh ta hết sức lộ liễu và thiếu chuyên nghiệp.

Về phần mình, tôi chỉ dừng lại ở lối ra vào tòa nhà, rất nhiều người cũng thích đứng ở đây để hóng mát tránh nắng, và cũng có người xem đây là điểm hẹn gặp mặt bạn bè. Xem chừng bộ dạng tôi hệt người đang đợi ai. Từ chỗ tôi thì không nhìn thấy cô gái, song không có hề gì, tôi chỉ cần theo sát anh chàng gầy nhẳng kia là được.

Chẳng mấy chốc, cô gái đã mua xong đồ và bước ra. Tôi nhìn cô đi ngang qua mình, rồi tới lượt anh chàng gầy nhằng. Sau khi ra khỏi tòa nhà bách hóa, cô gái không đi tiếp mà đứng đợi trên vỉa hè một lát, rồi vẫy một chiếc taxi và chui vào trong.

Gã gầy đứng nhìn theo chiếc taxi đã lăn bánh, mà chẳng làm gì tiếp. Sau khi quan sát và cơ bản đã khẳng định được độ chính xác về suy đoán của mình, tôi rút vài tờ trăm tệ từ ví ra cho vào túi áo.

Gã gầy loay hoay trước cửa ra vào tòa bách hóa một lát, đang định đi về theo hướng đường cũ thì tôi xông đến, đập một cái thật mạnh vào vai hắn ta.

Do hãy còn thù cú hích ngày hôm qua, nên cú đập này của tôi phải nói là khá mạnh. Gã đó vốn dĩ đã gầy nhom, cộng thêm hành động mờ ám mà bản thân đang làm, nên cú đập vai của tôi khiến gã loạng choạng giật bắn người, nhảy vọt sang một bước rồi mới quay lại nhìn tôi.

“Anh là ai, anh muốn gì?” Gã ta vừa hoảng vừa cáu gắt hỏi tôi với tông giọng không cao lắm.

“Vừa xong anh đang làm gì?” Tôi hỏi ngược lại.

“Tôi làm gì thì liên quan gì tới nhà anh?” Gã gầy châm biếm ngược lại.

“Đừng tưởng là tôi không trông thấy gì, tôi bám theo anh mãi đấy!” Tôi nheo mắt cười đáp, cố tình nhấn giọng vào chữ “bám theo”.

“Theo thì đã sao, theo đuôi là phạm pháp à, tôi theo người ta, còn anh chẳng phải cũng theo tôi sao?” Gã gầy đỏ mặt, nhặng xị lên, song vẫn không dám to tiếng quá đà.

Sở thích của con người trên đời có muôn hình vạn trạng, song lại có một số người thích bám đuôi phụ nữ dù tôi chẳng biết họ tìm thấy thú vui gì từ việc này. Tôi cứ tưởng rằng chỉ mỗi ở nước Nhật mới có kiểu người như vậy, bởi ngay tên gọi “bám đuôi” cũng được du nhập từ Nhật sang, không ngờ bây giờ tôi lại gặp được một người như vậy ở đây. Với dáng vẻ của mình, gã ta hoàn toàn xứng với danh hiệu “quái thúc thúc”.

Dứt lời, gã gầy không muốn tiếp tục lằng nhằng với tôi nữa, định quay đầu bỏ đi thì đã bị tôi nắm chặt cổ tay.

“Á, này này!” Gã gầy hét lên, đành phải quay người lại theo hướng cổ tay bị tôi vặn. Tuy không giỏi đánh đấm, nhưng so với anh chàng bám đuôi này thì sức tôi hơn đứt song tôi không định gây chuyện lôi thôi ở ngay chỗ này nên vội buông tay anh chàng kia ra, mới chỉ có mấy giây mà xung quanh đã có người dừng lại nhìn.

“Anh… anh!” Gã gầy tức tối. Gã ta chưa kịp phản kích đã bất ngờ há hốc miệng khi thấy tôi lấy tờ một trăm tệ từ túi áo của mình đút vào túi ngực áo sơ mi của gã.

“Cái này, cái này…” Đồng tiền quả có uy lực vô song, vẻn vẹn một tờ một trăm tệ cũng có thể làm thui chột ý chí chiến đấu của gã ta, khiến gã ta bất ngờ không biết nên phản ứng thế nào.

“Đi chỗ khác nói chuyện!” Không cần tốn nhiều công sức, tôi đã kéo được gã ta vào một con ngõ nhỏ bên cạnh, chỗ này khá yên tĩnh và vắng vẻ.

Tôi rút từ túi áo ra hai trăm tệ, vẫy qua vẫy lại trước mặt gã.

“Anh có sở thích gì cũng chẳng liên quan đến tôi, ba trăm tệ đây, nhờ anh giúp tôi chút việc nhỏ.”

Ba trăm tệ vốn chẳng phải số tiền lớn, nhưng gã gầy đã có vẻ động lòng. Cũng khó trách, kẻ nhàn rỗi nên mới bám đuôi con gái ngoài phố như gã ta thì có được bao tiền?

“Tôi không làm việc gì phạm pháp đâu đấy!” Câu nói của gã khiến tôi không nhịn được cười.

Gã gầy thấy tôi cười, không hiểu ý tôi thế nào, lại hỏi: “Muốn tôi bám đuôi ai à? Việc khác thì không dám hứa, còn với kĩ nghệ bám đuôi tuyệt chiêu như của tôi thì chẳng ai có thể thoát nổi. Nhưng… nguy hiểm không thế, nếu nguy hiểm thì khoản này không đủ đâu.”

Tôi nhớ đến bộ dạng bám đuôi trắng trợn vừa nãy của gã ta, lúc đi theo cô gái vào tòa nhà bách hóa, mà giờ gã lại huênh hoang về kĩ thuật đem bám của bản thân, thì không nhịn được cười, bảo: “Chẳng phải là nhờ anh theo dõi ai. Anh thử nhớ lại xem có phải vào lúc hai giờ trưa hôm qua ở trước cổng chính của tòa soạn báo Sao Mai, anh đang bám theo một phụ nữ nào à?”

“À, hôm qua?”

“Một thiếu phụ mặc bộ đồ màu xanh, có vóc dáng nhìn khá gầy yếu song lại rất đẹp ấy.”

“Đúng… hình như là có vụ này, rồi sao?”

“Anh bám theo cô ấy đi những đâu thì đưa tôi đến đó một lần, rồi số tiền này sẽ là của anh.”

Tôi và gã gầy quay lại cổng tòa soạn báo Sao Mai, hôm qua gã bắt đầu theo đuôi Hoàng Chức từ đây.

Nói thật là lúc đi cùng gã gầy, tôi hơi bị sức ép về mặt tâm lý, bởi ánh mắt gã ta thường luôn bị hút dính về phía những người đẹp, khiến người đi đường nhầm tưởng cả hai chúng tôi cùng bám theo một cô gái nào đó ở phía trước.

“Anh còn nhớ rõ đường đi không đấy?” Sau vài khúc rẽ, tôi hỏi.

“Đương nhiên, sao tôi lại không nhớ chứ, hôm qua cô ấy đi như thế này phía trước tôi, tôi còn nhớ cô ấy dừng lại chỗ cửa hàng quần áo bên tay trái kia một lúc mà không vào.” Đánh hơi thấy tôi có vẻ nghi ngờ “chuyên môn” của mình, gã gầy có vẻ khá phật ý.

Đang nói chuyện, tôi đột nhiên nghe thấy một hồi còi dài, tiếp đó không gian trước mặt như được trải ra. Tòa soạn chúng tôi nằm rất gần bến Thượng Hải, khi đứng trên ban công hít vào thật sâu, tôi có thể ngửi thấy mùi sông Hoàng Phố và loáng thoáng nghe thấy tiếng còi hú thoảng nhẹ trong gió; còn bây giờ chúng tôi đang đi ra bến.

Đi xuyên đường hầm dành cho người đi bộ, chàng gầy dẫn tôi ra đê ở ngoài bến. Nước sông Hoàng Phố đục ngầu, xa xa chim yến đang bay, gió sông thổi vào từng chập khiến cảm giác nóng nực ban nãy như chợt tan biến. Dưới ánh mặt trời còn rơi rớt lại, tòa nhà hiện đại chọc trời bên kia bờ hiện lên sừng sững, rực rỡ muôn ánh đèn. Còn ở bên này, tòa nhà thiết kế theo phong cách Châu Âu được dựng lên từ hồi đầu thế kỉ, và được mệnh danh là kiến trúc vạn quốc, thì bệ vệ đứng đây trong câm lặng. Chính vào lúc tôi lia mắt qua, tháp đồng hồ hải quan vụt sáng lung linh, tiếp đó những chùm sáng này nhanh chóng lan tỏa ra xa, để rồi sai cùng bờ phía tây sông Hoàng Phố cũng sáng rực ánh đèn.

Mặc dù là người sinh ra và lớn lên ở đây, song được chứng kiến cảnh tượng đang diễn ra trước mắt cũng khiến tâm hồn tôi bất chợt trở nên bay bổng. Chẳng trách đây là nơi có phong cảnh đẹp nhất mà mọi khách du lịch đến Thượng Hải đều muốn ghé qua. Song vào chiều hôm qua – lúc Hoàng Chức qua đây, mặt trời vẫn còn đang gay gắt, bức tường bằng kính của tòa nhà bên kia sông hẳn sẽ phản xạ ánh sáng rất mạnh, cảm xúc lúc đó nhất định sẽ kém hơn bây giờ nhiều.

Cảnh tuy đẹp, song theo gã gầy đi từ đầu này đến đầu kia, rồi lại từ đầu kia vòng lại đầu này, khiến tôi không nhịn được hỏi: “Hình như ta đi vòng quanh thì phải?”

“Đúng vậy, vòng quanh, là hôm qua cô ấy đi như vậy mà, cô ấy còn vòng mấy lượt nữa, sau đó cô đi từ đầu đường Phúc Châu đến đường Bắc Kinh rồi lại lộn về, và vòng thêm hai vòng như vậy nữa!” Gã gầy nghiêng đầu nhướng mày, cứ như thể theo chân Hoàng Chức đi vòng vòng như vậy hôm qua là một việc rất đã vậy.

May mà tôi hỏi sớm, nên không còn phải tốn thời gian lẽo đẽo theo anh chàng này. Tôi vội vàng hỏi: “Anh không cần để ý đến việc cô ấy đi mấy vòng, chỉ cần dẫn tôi đến địa điểm cuối cùng cô ấy đến là được rồi, chắc cô ấy nghỉ ở nhà nghỉ, anh theo cô ấy về đó chứ?”

“Đương nhiên!” Gã gầy đầy đắc ý đáp, “Nhưng sao anh có thể không hứng thú với quá trình chứ? Cuộc đời mà, không thể chì chằm chằm nhìn vào kết quả, quá trình rất quan trọng.”

Tôi nín nhịn không trừng mắt với gã này, chỉ nghiêm mặt nói: “Đừng nhiều lời, anh đi trước dẫn đường đi!”

Đi tiếp hơn nửa tiếng, trong đó đã gồm cả hai lần bắt xe buýt. Do chưa ăn tối nên khi ngửi mùi bữa tối thơm nức mũi tỏa ra từ mỗi ngôi nhà dọc đường đi, thịt nướng, cà ri gà, mực nướng, cùng đủ mọi món ăn với đủ kiểu màu sắc hiện lên trong đầu, khiến chân tôi mềm đi như bún. Gã gầy quả không hổ danh là người bám đuôi “thâm niên”, vẫn rảo bước rất nhanh và thoải mái.

Cuối cùng anh ta dừng lại trước nhà nghỉ nằm trên con đường nhỏ với cánh cổng cũng rất nhỏ. Tôi nghĩ đây là một quán trọ nhỏ.

Bà cô to béo chỗ quầy tiếp tân tầng dưới đang say sưa xem chương trình tấu hài qua chiếc tivi nhỏ đặt phía trước, đằng sau là lối cầu thang lên tầng.

“Chính là chỗ này!” Gãy gầy khẳng định, rồi nhìn tôi chằm chằm.

Tôi rút hai trăm tệ từ túi áo ra, gã ta thò tay ra nhận, toét miệng cười mãn nguyện.

“Biết cô ấy ở tầng mấy không?” Tôi tiện mồm hỏi.

“Tầng ba, lên cầu thang sau đó rẽ trái, đi kịch đường thì rẽ phải rồi tìm phòng số hai.” Gã gầy đáp.

“Anh chuyên nghiệp thật!” Tôi buột miệng nói.

“Thì vậy, làm việc gì mà chẳng phải chuyên nghiệp!” Gã gầy huýt sáo miệng, quay người bỏ đi.

Tôi bước vào quán trọ, bà cô to béo đưa mắt liếc nhìn tôi một cái, xác định đối phương chẳng phải là khách ở trọ thì liền tỏ ra hờ hững. Tôi chẳng quan tâm đến bà ta, đi thẳng lên cầu thang.

Lối đi của quán trọ này rất hẹp, trần nhà thì thấp, khắp nơi trên tường chỗ nào cũng có dấu bùn đất cùng dầu mỡ và những vết lốm đốm, không gian chật chội và ngập mùi nấm mốc. Tôi đoán thứ mùi này phần nhiều tỏa ra từ tấm thảm ni lông đã cũ dưới chân.

Lên tầng ba rồi rẽ phải, qua từng căn phòng đóng cửa im ỉm, khiến tôi có cảm giác nơi đây như một mê cung đang tỏa ra một mùi cũ kĩ. Không biết làm thế nào mà Hoàng Chức lại tìm được quán trọ này, và làm thế nào tìm được toàn soạn báo Ngôi sao buổi sớm. Xem ra cô ấy còn giữ được sự tỉnh táo ở mức độ nhất định, và biết rằng với số tiền mình có thì chỉ có thể trú chân ở những chỗ kiểu này mà thôi.

Phòng thứ nhất, phòng thứ hai, đây rồi. Tôi ấn chuông, song chẳng thấy tiếng chuông kêu, ở cái nơi xập xệ này thì có thể đến chuông cửa cũng bị hỏng rồi.

Tôi gõ cửa. Khớp ngón tay gõ lên mặt cửa gỗ làm phát ra âm thanh “cộc cộc”, như thể cánh cửa gỗ này đã bị mọt gặm ruỗng từ lâu.

Không có ai trả lời tôi, tôi gõ mạnh hơn, vẫn không thấy động tĩnh gì.

Hoàng Chức lại đi dạo đâu rồi, hay gã gầy thấy tôi không biết gì nên đã lừa dẫn tôi đến đây?

Tôi đang định xuống lầu hỏi thăm bà cô béo, thì sau khi chun chun mũi hai cái, tôi ngửi thấy một mùi rất lạ.

Khứu giác của người đang đói bụng thường đặc biệt nhạy bén, đứng trước cửa tôi còn ngửi thấy chút mùi hôi thối khó chịu lẫn trong mùi nồng nồng của nấm mốc và nước javen khử trùng.

Tôi ghé sát mũi vào cửa, ra sức hít hà rồi lập tức nhăn tít mặt lại. Quả không sai, thứ mùi bay ra từ bên trong rất khó ngửi.

“Cộc cộc cộc!” Tôi ra sức gõ cửa. “Phần cứng” của quán trọ này thật tệ, mới gõ vài cái mà khóa cửa đã có dấu hiệu lỏng ra.

Chần chừ một lát, tôi nhớ lại lời nói và hành động của gã gầy bám đuôi ban nãy chẳng giống như lừa tôi, đúng là Hoàng Chức nghỉ ở đây.

Sau khi đã có nhiều trải nghiệm mạo hiểm, tôi dần phát triển được một khả năng có tên là “trực giác”. Bởi nó thường chẳng chuẩn xác cho lắm, nên cũng có thể nói là thần hồn nát thần tính. Còn bây giờ, tôi đang có một dự cảm rất không lành.

Cùng lắm là đền tiền khóa cửa cho quán trọ, còn trước tiên cứ vào ngó qua xem đã xảy ra chuyện gì bên trong đã.

Tôi đạp mạnh một cái, cánh cửa liền bật mở.

Vừa mở cửa tôi đã thấy Hoàng Chức. Tiếng động lớn vậy mà cô ấy vẫn còn ngồi ngủ gật trên ghế. Mùi hôi thối càng nặng hơn, lẽ nào bồn cầu trong nhà vệ sinh bị tắc?

“Hoàng Chức, Hoàng Chức!” Tôi vừa gọi vừa bước đến chỗ cô.

Hoàng Chức mặc chiếc váy liền màu xanh, đầu cúi nghiêng nghiêng dựa vào thành ghế. Tôi gọi to vậy mà cô ấy vẫn không tỉnh.

Tôi khẽ tiến lại gần thêm mấy bước, rồi thình lình sững lại, không dám gọi cô thêm tiếng nào.

Lúc tôi bước lại gần, mùi hôi thối càng lúc càng trở nên rõ hơn nhiều, nhưng tôi không đờ người ra vì nguyên nhân này, mà là vì khi nhìn từ góc độ khác so với lúc mới đi vào ban nãy, tôi chợt phát hiện, cô ấy bị trói ngoặt hai tay ra sau ghế.

Trong lúc kinh hãi, tôi vội vàng lao đến chỗ cô. Dưới chân Hoàng Chức là đống lộn xộn, song tôi cũng chẳng thèm để ý đến chúng, mà đưa tay khua khua trước mũi cô.

Đừng nói là hơi thở mà ngay thân nhiệt cũng đã chẳng còn.

Phía bên cổ cô nghẹo đầu sang, có một vết bầm tím đã chuyển thành màu đen rất đáng sợ.

Hoàng Chức đã bị sát hại!

Chương 7: Vụ mưu sát chưa rõ động cơ

Hoàng Chức đã chết.

Dù lúc còn sống đẹp đẽ thế nào, nhưng khi chết đi mà không được “mông má” thì cũng khó mà tươi tắn như lúc còn sống, đặc biệt những người có cái chết bất thường đều trông vô cùng đáng sợ.

Mắt Hoàng Chức trợn trừng, cơ má méo xệch, miệng há to, chóp lưỡi cứng đờ thè ra dưới hàm răng trắng ngà, mái tóc đen rũ rượi. Cô ấy bị bóp cổ chết hay bị thít cổ chết? Người chết ngạt thường mất khả năng kiểm soát việc đại tiểu tiện; đấy chính là nguyên do vì sao tôi lại ngửi thấy thứ mùi khó chịu kia.

Dây dùng để buộc chân tay cô là dây ni lông, rất dai bền, dù trước lúc chết cô ấy ra sức vùng vẫy thế nào cũng đều vô ích, chỉ để lại vết cứa bật máu giờ đã khô lại trên cánh tay và cổ tay.

Hai chân cô bị trói vào hai bên chân ghế, tay bị trói giật cánh khuỷu ra sau lưng ghế. Ở tư thế này, cô khó mà có thể dồn lực vùng vẫy. Trong lúc giằng co giữa sự sống và cái chết, một người đàn bà yếu ớt cũng có thể bật lên một sức kháng cự đáng kinh ngạc, song những sợi dây ni lông nho nho kia đã chặn đứng chút cơ hội sống mong manh sau cùng này. Trong phòng không có dấu vết vật lộn gì rõ ràng, tôi nghĩ, rất có khả năng cô ấy bị đánh bất tỉnh trước, rồi bị trói vào ghế và sau đó mới bị thít cổ chết.

Trên sàn nhà cạnh giường có một con búp bê vải đang toét miệng ra cười. Nó chính là loại búp bê tôi thấy trong ngôi nhà ở thôn Đại Đường, có vẻ như đi đâu cô cũng mang nó theo.

Lúc trông thấy Hoàng Chức, bà cô to béo hét lên một tiếng thất thanh. Bây giờ tôi mới biết vì sao các ca sĩ opera thường đều sở hữu một thân hình đẫy đà như vậy, hét xong bà ta liền ngất xỉu và ngã vật ra sàn, mãi đến khi cảnh sát tuần tra đến mới tỉnh lại, mặt xám ngoét như gà cắt tiết.

Trước là cảnh sát tuần tra, sau đến tốp đông cảnh sát điều tra hình sự, Hà Tịch là giám định viên pháp y cũng đến. Lúc đó tôi đang bị cảnh sát xét hỏi, ánh mắt cô dừng lại trên mặt tôi chừng nửa giây như thể một lời chào rồi người nào lo việc người nấy.

Thẩm vấn tôi là một cảnh sát trung niên không thân thiện cho lắm. Hiện đội trinh sát hình sự của cục cảnh sát được cơ cấu thành tổ điều tra. Cách xưng hô rất Tây này khiến ta liên tưởng đến bộ phim “Thợ săn” của Mĩ từng một thời nổi đình nổi đám trong những năm 80 của thế kỉ trước ở Trung Quốc. Sĩ quan cảnh sát này chính là trưởng phòng điều tra.

“Họ tên, nghề nghiệp gì, anh phát hiện thấy xác chết khi nào?” Anh ta nghiêm giọng hỏi, với một trinh sát trẻ đứng cạnh, họ kẹp tôi vào giữa, như có ý khống chế.

Biểu hiện của tôi khi đứng trước xác chết có phần bình tĩnh hơn bà cô to béo kia nhiều, hẳn điều này khiến cảnh sát trưởng thấy có chút nghi ngờ.

Tôi lần lượt trả lời từng câu hỏi, kết quả là ánh mắt viên cảnh sát trưởng hướng vào tôi càng lúc càng thêm phần sắc bén hơn.

“Anh là phóng viên? Sao anh có lại mặt ở đây, sao anh lại phá cửa xông vào phòng?”

Chuyện này kể ra thì dài lắm, phải thuật rõ nguyên do kết quả từ chuyện đứa trẻ giấy đến gã gầy đeo bám, chẳng thể vắn tắt vài câu là xong được.

Việc cần nói thì nhiều, song nhất thời tôi chẳng thể trả lời ngay. Thấy cảnh sát trưởng cười nhạt một tiếng rồi bảo điều tra viên trẻ: “Người này là nghi phạm, cậu cứ tạm dẫn về đồn trước!”

“Tuân lệnh!” Cậu trinh sát viên đứng bên hô một tiếng, lách cách rút ra chiếc còng số tám.

“Này, đợi đã. Chỉ bởi tôi có khá nhiều điều muốn nói nên trả lời hơi chậm.”

“Giờ tôi làm gì có thời gian nghe, cứ về cục rồi từ từ tính!” Cảnh sát trưởng không chịu lép vế.

Tách tách hai tiếng, tôi đã bị còng lại, viên trinh sát trẻ khá mạnh tay, làm cổ tay tôi bị vặn đau điếng.

“Tôi mà đáng nghi? Thế tôi còn báo án làm gì?” Tôi tức tối hỏi.

“Tự báo án chẳng nói lên điều gì.” Hà Tịch ra khỏi phòng, công tác hiện trường đã hoàn tất, cô đang đợi người chuyển xác về cục để tiến hành giải phẫu giám định. Thấy tình hình bên đây, cô ấy mới góp thêm một câu.

“Này, sao em có thể nói thế?” Tôi sốt tiết.

“Người này có hợp tác vài lần với phòng cảnh sát đặc nhiệm thành phố, nên chắc sẽ không làm mấy chuyện vớ vẩn, thiếu kĩ năng này đâu.” Hà Tịch bảo cảnh sát trưởng, rồi liếc nhìn tôi một cái, khóe miệng hơi cong lên, quay người bỏ đi.

“Người bị hại? Phòng cảnh sát đặc nhiệm…” Cảnh sát trưởng lẩm bẩm, ánh mắt hướng vào tôi đã từ nghiêm khắc lạnh lùng chuyển sang thành hồ nghi.

“Tôi có quen biết người bị hại, chuyện này tương đối phức tạp, nên tôi chỉ nói sơ qua một chút…” Tôi chớp lấy thời cơ kể sơ lược lại một lượt.

Lúc tôi nói đến nửa chừng, cảnh sát trưởng ra hiệu bảo viên trinh sát trẻ tháo còng cho tôi.

“Ra là vậy!” Cảnh sát trưởng gật gật đầu, “Anh đã động chạm vào vật gì ở hiện trường chưa?”

“Tôi đạp cửa một lần, để vào trong này xem Hoàng Chức còn thở không, rồi sau đó ra ngoài gọi điện báo cảnh sát.”

“Vừa xong nếu có phần hơi thô lỗ thì anh cho tôi xin lỗi.” Cảnh sát trưởng vừa cười cười vừa nói, “tuy nhiên chúng tôi vẫn phải mời anh về đồn thuật lại mọi chuyện thật chi tiết cho chúng tôi lập biên bản.”

“Tránh ra, tránh ra nào!” Thi thể Hoàng Chức đã được cho vào túi đựng xác đang được hai cảnh sát khiêng qua trước mặt tôi.

Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc túi đựng xác màu đen, lòng đầy nghi hoặc.

Ai đã giết hại Hoàng Chức. Sao hắn lại giết cô ấy?

Cướp của ư, người chọn quán trọ nhỏ này để nghỉ thì có bao tiền? Vì sắc ư, Hoàng Chức tuy đẹp thật nhưng lúc chết cô ấy vẫn ăn mặc chỉnh tề.

Cô ấy bị trói chặt vào ghế và thít cổ chết, không giống với kiểu của những kẻ bất ngờ nảy ra ý định mưu sát. Ai lại kè kè mang theo dây ni lông bên mình chứ, kẻ này rõ ràng là có ý đồ mưu sát từ trước.

Trong phòng, nhân viên khám nghiệm hiện trường vẫn đang cần mẫn dò tìm dấu vết hung thủ để lại, tôi nhìn qua vài lượt, đoán chừng ít nhất họ cũng đã tìm được dấu chân và sợi tóc đáng nghi.

“Phóng viên Na này, hay ta đi lấy mấy bức thư mà ban nãy anh nói trước rồi quay về cục sau?” Cảnh sát còng tay tôi ban nãy nói.

“Cũng được.”

Lúc xuống tầng, tôi thấy cảnh sát trưởng đang thẩm vấn bà cô to béo kia. Mặt bà ta đầm đìa mồ hôi, các ngấn mỡ trên người rung lên khe khẽ, giọng vừa nhỏ vừa sắc, hẳn vẫn đang trong tâm trạng hoảng loạn.

“Anh cảnh sát ơi, việc này chẳng liên quan gì đến tôi, tôi không hề hay biết gì!” Vẻ mặt bà cô rầu rầu như đưa đám.

“Người nghỉ ở đây giờ đã chết mà bà còn nói mình không biết gì hay sao? Tầng đó có tất cả bao nhân viên, người đâu rồi?” Giọng điệu của cảnh sát trưởng lúc tra hỏi bà cô này nghiêm khắc hơn nhiều so với lúc thẩm vấn tôi.

“Chuyện của khách trọ tôi đâu quản được, chỗ tôi ít nhân viên, họ thường chỉ quét dọn sau khi khách đã trả phòng. Ban đầu mỗi tầng đều có một người trực, song gần đây một người xin nghỉ phép về quê nên về người làm có phần căng hơn.”

“Băng ghi hình từ camera giám sát thì sao?”

“Chưa… chưa, à không, nó bị hỏng rồi.”

“Cái này thiếu, cái kia cũng thiếu, thế nào mà quán trọ này của bà có thể lọt qua quá trình kiểm tra cấp phép nhỉ? Theo tôi cũng không nên để chỗ này tiếp tục mở cửa kinh doanh nữa.”

“Ô, ối, ô kìa!” Lúc đang đi ở đoạn khúc quanh trên cầu thang để xuống tầng, tôi đã nghe thấy tiếng kêu khóc thảm thiết của bà cô.

Trên đường quay về tòa soạn, tôi mua vài cái bánh rán rồi vừa đi vừa ăn. Một tiếng đồng hồ trước, tôi đói đến mức bụng sôi ùng ục, còn bây giờ, một chút cảm giác thèm ăn cũng chẳng có, nên tôi chỉ ăn có một nửa, nửa còn lại nhờ tay cảnh sát trẻ thanh toán hộ, cậu ta cũng chưa ăn tối.

“Hóa ra anh quen người của phòng cảnh sát đặc nhiệm, ở phòng đó có một anh to béo được gọi là Chân đại nhân, trước đây từng có thời gian làm ở đội chúng em. Ồ, anh cũng biết anh ấy à, anh ấy quả là một bảo bối sống!” Chàng cảnh sát này tỏ ra rất háo hức tò mò với chủ đề về phòng cảnh sát đặc nhiệm, còn tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện, bởi thực ra tôi không có hứng tán gẫu lúc này.

Về tòa soạn, tôi lật tìm khắp một lượt từ bàn làm việc đến tủ đựng đồ mà vẫn thiếu mấy bức thư. Việc này cũng chẳng thể trách, bởi sao tôi lại phải cất giữ cẩn thận thư từ được gửi đi từ một bệnh nhân tâm thần chứ?

Lưu Đường vẫn chưa về, thấy tôi về rồi lại đến, kèm thêm mấy viên cảnh sát, hắn ta nhiều chuyện hỏi: “Sao? Ông tìm gì à?”

“Bệnh nhân tâm thần đến tìm tôi hôm qua chết rồi. Đang tìm thư cô ấy viết gửi tôi.”

Lưu Đường giật mình, mở ngăn kéo lục tìm rồi lấy ra một bức thư bảo: “Chỗ tôi có một bức này, lần trước chuyền tay nhau đọc đến chỗ tôi thì quên gửi trả ông. Thế cô ấy bị giết hại à?”

Tôi cầm thư, gật gật đầu: “Lúc về sẽ nói chuyện với ông sau.”

Lưu Đường đang ngồi trên ghế đột nhiên nhảy dựng lên, vội vàng giật phắt lấy túi hào hứng hỏi: “Tin nóng, tin nóng, ở đâu thế, cho tôi biết đi!”

Tôi vừa cho hắn biết địa chỉ, Lưu Đường đã vụt lao ra ngoài.

Cái gã bộp chộp này, tôi nhìn theo bóng Lưu Đường dần mất hút ngoài cửa rồi đưa tay tắt điện thoại di động.

Đợi khi Lưu Đường nhận ra tôi là người đầu tiên phát hiện thấy xác chết, hắn nhất định sẽ gọi điện lại hỏi, nhưng tôi không có tâm trạng nào tiếp nhận cuộc phỏng vấn của gã.

Phải đợi một lúc lâu ở cục cảnh sát, cảnh sát trưởng mới vào ghi biên bản cho tôi, thái độ anh ta bây giờ khá hơn trước rất nhiều, tôi đoán chắc anh ta đã nắm được thêm các thông tin liên quan đến tôi. Mấy năm nay, tôi có mối quan hệ khá mật thiết với phía cảnh sát.

Quá trình lập biên bản đã tiến hành được hai tiếng đồng hồ. Cảnh sát trưởng hỏi han rất kĩ, khi nghe đến phần đứa trẻ giấy, anh ta rất ngạc nhiên. Lúc nghe tôi kể mình đã tận dụng anh chàng bám đuôi thế nào để tìm ra chỗ nghỉ trọ của Hoàng Chức, cảnh sát trưởng liền dừng bút, ngẩng đầu nhìn tôi một cái, chắc hẳn cảm thấy nếu nghĩ được cách này thì tôi cũng chẳng phải là tay vừa.

“Sao anh biết cô ấy đến tìm mình vì chuyện mất tích của con gái?”

“Tôi đoán vậy, bởi giữa tôi và cô ấy không còn bất kì quan hệ nào khác.”

“Trong thư viết cho anh, cô ấy nói là rất quan tâm, theo dõi những tin bài anh viết, anh thử nhớ lại những tin bài mình viết gần đây xem, liệu có bài nào khiến cô ấy đến tìm anh không?”

Điều này thì tôi chưa nghĩ đến, sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu, tôi cười khổ rồi lắc đầu, đáp: “Tôi không biết, tôi chẳng thể nào đoán ra lôgic của cô ấy, cô ấy đâu phải người bình thường.”

“Cô ấy có kẻ thù nào không?” Cảnh sát trưởng hỏi.

“Tôi không rõ, người ở thôn cô ấy chắc là biết!” Đến đây, tôi nghĩ ra một điều, chần chừ nói: “Thực ra… theo như tôi biết, mối quan hệ giữa Hoàng Chức và mọi người trong thôn không được tốt cho lắm.”

Mắt cảnh sát trưởng chợt sáng lên, anh ta vội vàng hỏi tôi lý do, tôi kể lại một lượt chuyện người dân thôn Đại Đường coi Hoàng Chức là kẻ “xúi quẩy”. Cảnh sát trưởng ngẫm nghĩ một lát, rồi lắc lắc đầu.

“Chắc chưa đến mức đó!” Anh ta nói: “Được rồi, cảm ơn anh đã hợp tác, mọi chuyện đến đây là xong, trong trường hợp còn vấn đề cần làm sáng tỏ thì tôi sẽ gọi điện cho anh.”

“Ồ, tôi có thể hỏi một câu không, hiện ta đã có manh mối gì chưa?”

Cảnh sát trưởng do dự một thoáng, rồi cũng cho tôi biết một vài thông tin: “Hoàng Chức qua đời vào khoảng sáng sớm hôm nay, đây là một vụ mưu sát, tuy nhiên hung thủ không phải là kẻ chuyên nghiệp, hắn để lại rất nhiều dấu vết. Tôi cho rằng chúng tôi sẽ tóm được hắn. Song động cơ gây án thì vẫn chưa rõ, ban đầu tôi muốn đợi xem liệu có thể tìm được gợi ý gì từ chỗ anh không, nhưng…” Anh ta nhún vai rồi im lặng.

Ra khỏi cục cảnh sát, tôi bật điện thoại di động lên, gọi cho Hà Tịch, tôi đoán cô ấy vẫn chưa về.

“Anh đang đứng ngoài cổng cục cảnh sát, em có thể xuống đây đi ăn tối với anh không?” Tôi hỏi.

“Không được đâu, em đang bận lắm!” Câu trả lời khe khẽ của cô ấy vọng ra qua điện thoại.

“Giọng em sao nghe yếu thế?”

“Đã nói rồi, em bận lắm, đang phải kẹp điện thoại vào giữa vai và cổ để nghe đây này.” Hà Tịch đáp.

“Em đang thực hiện công việc giám định pháp y đấy à?” Tôi nhớ ra lý do vì sao cô ấy không rảnh tay.

“Đang làm được một nửa, không có việc gì thì em ngắt máy đây.”

“Gượm đã, là cái xác anh phát hiện à?”

“Hỏi thừa quá đấy!”

“Em xét nghiệm nhóm máu cô ấy chưa?” Tôi không nghe thấy chút phấn khích nào từ giọng điệu cô ấy, đáng nhẽ phải ngược lại mới đúng chứ.

“Đã thực hiện các xét nghiệm cơ bản, nhóm máu O, rồi sao?”

“Anh biết nhóm máu của cô ấy, em xét nghiệm cẩn thận lại xem, nói cho em biết, cô ấy thuộc nhóm máu Sejmbey đấy!”

“Cái gì?” Giọng nói vọng lại bất ngờ tăng âm.

“Nhóm máu Sejmbey, anh từng có lần phỏng vấn cô ấy, anh biết.”

“Ồ, em yêu anh, Na Đa!” Hà Tịch thốt ra câu nói tôi đã mong đợi bao ngày, song những tiếng tút tút báo mất liên lạc cũng vang lên ngay sau đó, cô ấy đã cúp máy.

Tôi ngớ người ra một lúc, rồi mới gọi lại.

“Anh còn việc gì nữa?” Giọng cô ấy bất chợt trở nên khó chịu hơn nhiều so với lúc vừa nãy, đúng là kì lạ, đây là kiểu yêu của cô ấy đối với tôi sao?

“Còn nhớ chuyện đứa trẻ giấy anh kể không, cô ấy chính là sản phụ đó.”

“Há ha!” Hà Tịch kêu lên. Tôi đoán cô ấy nhất định sẽ phấn khích đến đỏ bừng mặt, một bác sĩ khùng.

“Thật tuyệt, thật tuyệt!” Một tràng xuýt xoa cảm thán vọng lại từ máy bên kia, dù chẳng rõ là dành cho ai.

“Em nhớ anh nói gia đình cô ấy không còn ai thân thích nhỉ?” Hà Tịch bất ngờ hỏi tôi một câu hỏi vô thưởng vô phạt.

“Ừ, em hỏi thế để làm gì? Này, gượm đã!” Tôi chợt có một linh cảm không lành, “Em không định làm gì với cái xác của cô ấy đấy chứ?”

“Không còn nhân thân thì em muốn làm gì thì làm chứ, thứ của hiếm này giờ có thể giữ lại chỗ em lâu hơn một chút rồi.” Hà Tịch chẳng hề che giấu ý định của bản thân, “Em là giám định viên pháp y, đây có thể xem như quyền hạn chính đáng của em, yên tâm đi, mổ xẻ thế nào em cũng ghép lại được hết.”

“Trời đất!” Tôi chỉ có thể than trời, người con gái tôi yêu sao có thể thành ra thế này, tôi đã thực lòng muốn theo đuổi cô ấy ư?

“Đúng rồi, sao lúc trước em nói cái gì mà tự mình báo án chẳng nói lên được gì, làm anh thót cả tim. Lúc đó cảnh sát trưởng gần như đã coi anh là hung thủ rồi!” Tôi buồn bực hỏi.

“Tự mình báo án thực sự chẳng thể nói lên được điều gì, vụ án bên Hàn Quốc đã có tiến triển mới.”

“Tiến triển mới? Ý em là vị kiến trúc sư người Pháp đã tự mình báo án, ông ta thế nào?”

“Là về cái xác hai đứa trẻ, đã có kết quả xét nghiệm ADN lần cuối. Mới đầu mọi người đều nghĩ đó là hai trẻ sinh đôi, nhìn chúng quả rất giống nhau, vì dù sao cũng đã bị đông lạnh một thời gian dài. Mẫu xét nghiệm ADN lần đầu và mẫu xét nghiệm ADN lần hai không được lấy từ cùng một đứa, thực tế là một trong hai đứa trẻ đó đúng là con của đôi vợ chồng Pháp đã chủ động báo án kia, còn đứa trẻ mang nhóm máu U-Sejmbey thì không phải. Hiện vụ này đã được chuyển cho cảnh sát Pháp thụ lý, Cournot cũng đã bị dẫn giải về Pháp.”

“Hả, nếu ông ta là hung thủ sao còn đi báo án?” Tôi thắc mắc hỏi.

“Câu này để phía cảnh sát Pháp điều tra tiếp nhé!”

Sau khi kết thúc cuộc nói chuyện qua điện thoại với Hà Tịch, tôi phát hiện thấy trong lúc mình tắt máy Lưu Đường đã gửi rất nhiều tin nhắn cho tôi. Chẳng đọc một tin nào, tôi thẳng tay tắt luôn điện thoại.

Về đến nhà đặt mình xuống giường là tôi đánh thẳng một giấc say. Hôm sau tôi vừa bước chân vào tòa soạn, Lưu Đường đã nhào đến hậm hực hỏi: “Sao ông không nói với tôi ông là người đầu tiên có mặt ở hiện trường?”

“Thì ông có hỏi đâu!”

“Vậy hôm qua ông làm gì mà tắt điện thoại?” Lưu Đường trừng mắt đến mức con ngươi như thể sắp vọt ra ngoài, đến mức khiến tôi băn khoăn không biết có cần lấy cốc cho hắn hứng không.

“Cảnh sát yêu cầu tôi tắt điện thoại.”

“Tại sao cảnh sát lại yêu cầu ông vậy?”

“Ông đi mà hỏi họ. Có lẽ khi rơi vào tình huống này và được đưa đến cục cảnh sát, ông sẽ biết.”

“Chà chà chà…” Gã quỷ sứ Lưu Đường chép miệng một hồi, rồi hỏi tiếp, “Hôm qua ông làm bản tường trình đến mấy giờ? 12 giờ tôi gọi lại cho ông trước khi lên trang vẫn thấy ông tắt máy.”

Là vì ông gọi không đúng lúc, không kiên trì gọi lại cho tôi mỗi phút ba lần.

Đương nhiên tôi chẳng thể nào nói vậy, rất biết điều, tôi thu ánh mắt lại: “Quên mở máy.”

Hắn lẩm bẩm một hồi, rặn ra câu: “Đến phục ông,” rồi tức tối quay về chỗ.

Dù thế nào thì tin bài lần này chỉ độc quyền có ở mỗi báo tôi, bởi thế Lưu Đường cũng nhận được khoản tiền thưởng kha khá. Hắn định mời tôi đi ăn khao và tiêu sạch chỗ tiền này, nhưng tôi đã từ chối. Tôi cảm thấy không thoải mái khi ăn khao bằng khoản tiền đó.

Hai ngày tiếp sau đó, tôi lấy hết tiền các bản thảo tin bài mình đã viết mấy tháng gần đây được cất trong kho lưu trữ ra nghiên cứu, thử xem có bài nào liên quan đến Hoàng Chức không; rồi lại lấy thư Hoàng Chức viết cho mình (bản gốc đã nộp lại cho cảnh sát, tôi giữ bản copy) ra đọc đi đọc lại, song kết luận vẫn vậy – ngoài việc con gái mất tích nên cô ấy lên Thượng Hải tìm tôi cầu cứu ra thì cô ấy gần như chẳng còn lý do gì để lên đây.

Lẽ nào vụ mưu sát này liên quan đến việc cô ấy đi tìm con gái? Có lẽ nào vì tìm được chút manh mối về sự mất tích của con gái mình mà cô ấy đã đe dọa đến quyền lợi của một vài nhân vật nào đó nên mới bị sát hại?

Tôi chia sẻ suy nghĩ này của mình với cảnh sát trưởng, bởi nếu tôi có thể nghĩ ra được thì ắt anh ta cũng đã lường đến. Với tư cách là bạn của người đã chết, tôi đề nghị anh ta nếu vụ án có tiến triển đột phá gì mới thì hãy cho tôi biết, và anh ta cũng đã đồng ý.

Liền mấy ngày chẳng thấy Hà Tịch hồi âm, gọi vào di động thì cô ấy tắt máy. Chuyện này làm tôi nhớ lại tình cảnh của Lưu Đường lúc gọi điện cho mình. Chắc chắn cô ấy đang say sưa lao đầu vào công việc giải phẫu mổ xẻ của mình.

Tối nay bộ phận của tôi sẽ có buổi tập trung đánh chén, chủ nhiệm bộ phận Tông Nhi bảo sắc mặt tôi mấy hôm nay không được tốt lắm, có vẻ như hơi mệt mỏi.

“Dạo này chẳng thấy cậu săn được tít bài gì đặc biệt nhỉ; chàng trai trẻ, hãy nhớ sức khỏe là tiền vốn của ta đấy nhé!” Khi người đàn ông đứng tuổi này nói, lũ tiểu yêu vây xung quanh đều ồ lên cười, ngay chủ nhiệm Tông Nhi cũng toét miệng cười.

Tôi đau khổ cười, uống cạn chỗ bia trong cốc.

Tửu lượng của tôi vốn rất kém, nên lúc về đến nhà tôi vẫn mơ mơ màng màng, mệt mỏi tựa như có một ngọn núi bất chợt ụp xuống người mình vậy. Tắm rửa qua loa xong tôi lên giường nằm, song hóa ra chất cồn chẳng khiến tôi dễ ngủ hơn chút nào. Hoàn cảnh cái chết của Hoàng Chức, cùng hình ảnh đứa trẻ giấy đang đung đưa trên tay vị bác sĩ, thay nhau hiện lên trước mắt, khiến toàn thân tôi đổ đầy mồ hôi, cảm giác dinh dính rất khó chịu. Dù vậy nhưng tôi cũng chẳng còn hơi sức đâu để bò dậy tắm rửa thêm lần nữa.

Những hình ảnh hỗn loạn trong đầu cứ biến chuyển, rồi tôi lại nhớ đến Chu Tiêm Tiêm còn đang bị mất tích. Con bé đứng ở một góc khuất ánh nắng, chẳng nói chẳng rằng, chằm chằm nhìn tôi đầy lạnh lùng.

Tôi bất ngờ choàng tỉnh.

Là tiếng điện thoại di động đánh thức tôi. Trong phòng tối đen, tôi mở to mắt, chẳng rõ giờ đang là mấy giờ.

Chiếc điện thoại di động lì lợm kêu lên một hồi, tạm dừng một lát, rồi đến lượt điện thoại để bàn trong phòng tôi vang lên.

Mắt tôi đã dần thích nghi với bóng tối. Tôi ngoảnh đầu nhìn đồng hồ báo thức, mới gần ba giờ sáng.

Ai có thể gọi mình vào giờ này nhỉ?

Tôi quệt mồ hôi lạnh vã ra trên trán, đưa tay lần mò mặt tủ bàn đặt đầu giường tìm ống nghe, rồi nhấc máy.

Chương 8: Người phụ nữ mang thai giấu mặt

Cúp điện thoại, tôi thẫn thờ ngồi yên lặng trong bóng đêm một lúc, rồi mò xuống giường.

Cơn buồn ngủ đã hoàn toàn tan biến, tôi bật đèn, vào nhà tắm, vặn vòi nước lạnh làm ướt người từ đầu đến chân.

Cuộc điện thoại vừa rồi đến từ Hà Tịch.

Mấy hôm nay cô ấy miệt mài làm đủ kiểu xét nghiệm chẳng quản ngày đêm; mãi đến sáng sớm hôm nay, chà, tính theo thời gian hiện giờ thì đã là sáng ngày hôm qua, cô ấy mới nhớ ra là đã nhận lời giúp tôi một việc vào mười phút trước xét nghiệm, và lời tôi yêu cầu đã có kết quả. Quá sững sờ và kinh ngạc, cô ấy liền gọi điện ngay cho tôi, dù giờ đang là lúc nửa đêm.

Khi điện thoại được kết nối, câu đầu tiên cô ấy thốt ra thậm chí hơi có phần lộn xộn.

“Quả đúng là vậy, anh có thể tin được không chứ, quả đúng là vậy!” Chưa từng nghe thấy cô ấy nói chuyện với tốc độ như tên bắn thế này bao giờ, sự phấn khích, sửng sốt khiến cô ấy trở nên hơi lắp bắp.

“Cái gì đúng là vậy?” Kẻ bị đánh thức là tôi đương nhiên chẳng thể phản ứng kịp.

“Kết quả xét nghiệm ADN của Hoàng Chức giống hệt kết quả của đứa bé được tìm thấy bên Hàn Quốc.”

Tôi bất ngờ như bị đóng băng ngay tại chỗ.

“Trong xác hai đứa trẻ sơ sinh Cournot lấy từ tủ lạnh ở nhà ông ta ra, có một đứa là con Hoàng Chức, đó chính là đứa trẻ mang nhóm máu U-Sejmbey.”

Khi đề nghị Hà Tịch xét nghiệm ADN của Hoàng Chức, rồi đem so với ADN của đứa trẻ được tìm thấy xác bên Hàn Quốc, tôi đã thầm cười giễu linh cảm nhạy bén quá đà của mình. Bởi dù cách nào thì tôi cũng chẳng thể ngờ được rằng đứa trẻ đó lại chính là con của Hoàng Chức.

“Sao anh đoán được? Sao anh có thể đoán ra là đứa trẻ kia có mối quan hệ với Hoàng Chức?” Hà Tịch lớn tiếng chất vấn tôi trong điện thoại.

“Anh cũng chẳng biết, em đừng hỏi, giờ đầu óc anh còn bấn loạn hơn em nhiều!” Tôi trả lời Hà Tịch.

Sau khi tắm bằng nước lạnh, mớ suy nghĩ lộn xộn trong đầu tôi đã dần lắng xuống. Cho dù kết quả này có bất ngờ thế nào, thì sự thật vẫn mãi là sự thật.

Trước đó tôi từng tưởng tượng, nếu Hoàng Chức có quan hệ huyết thống với đứa trẻ được tìm thấy xác bên Hàn Quốc, ta cần móc nối họ lại với nhau, và sợi dây liên kết giữa hai người đó hẳn sẽ vừa li kì vừa rắc rối. Còn giờ thì dù ẩn tình bên trong lớn cỡ nào, tôi cũng quyết tâm làm sáng tỏ dần.

Hiện giờ cần phải làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản nhất. Việc này thì không khó lắm.

Chẳng thể nào ngủ tiếp, tôi đã ghi lại những suy nghĩ của mình ra kín mấy trang sổ tay. Cuối cùng cũng đến 5 giờ, trời mới bắt đầu hửng, tôi đã gọi vào máy di động cho Hà Tịch. Cô ấy có thể gọi điện cho tôi vào lúc nửa đêm gần sáng, thì giờ tôi cũng có thể gọi lại mà chẳng phải áy náy gì. Với kiểu phụ nữ như cô ấy thì sự bao bọc chăm sóc đến tận chân tơ kẽ tóc, tuyệt đối chẳng thể làm đối phương cảm động.

“Anh nghĩ ra cái gì à?” Cô hỏi phủ đầu, chừng như không phải là đang ngủ.

“Em có quần áo cảnh phục không?” Tôi hỏi, bởi chưa thấy cô ấy mặc chúng bao giờ.

“Có.”

“Thẻ ngành?”

“Có thẻ tạm thời, nhưng đã hết hạn.”

“Thế được rồi. Ngay bây giờ hai ta sẽ vi hành một chuyến về Côn Sơn xem thế nào.”

6 giờ 10 phút sáng, trời mới rạng, tôi hẹn gặp Hà Tịch, người sẽ mặc cảnh phục ở bến xe buýt đường dài, bắt chuyến xe thẳng đến Côn Sơn.

Tinh thần Hà Tịch không được tốt lắm, dù sao cô ấy cũng đã thức trắng không ít đêm. Sắc mặt cô ấy trông rất tiều tụy, cơ thể ẩn sâu sau bộ cảnh phục nom càng gày gò, nhỏ bé hơn. Cô ấy chưa biết vì sao phải về Côn Sơn, lúc gặp nhau tôi chẳng nói gì, còn cô cũng chẳng hỏi.

Lên xe ngồi, tôi dúi cho cô chiếc bánh hành chiên hãy còn nóng hổi, bảo: “Em ăn bánh rồi chợp mắt nghỉ chút đi, đến Côn Sơn ta nói chuyện sau.”

Chuyến xe không kín chỗ, hàng ghế sau chúng tôi chẳng có ai ngồi, nên tôi có thể thoải mái ngả lưng ghế ra sau. Hà Tịch chưa quen, nhất thời không tìm ra chỗ điều chỉnh, tôi vươn tay ra giúp, tư thế khá ngượng nghịu này gần như khiến đùi cô ấy áp sát vào cánh tay tôi. Cảm giác của sự tiếp xúc đó, chà, mềm mại và rất tuyệt.

Hà Tịch không né tránh cũng không nói năng gì, ngả người theo đà ngả của lưng ghế tựa rồi nhắm mắt lại.

Tôi đăm đăm nhìn khuôn mặt cô ấy hồi lâu, rồi cũng nhắm mắt, thầm nghĩ ngợi: mình có nên mạnh dạn chủ động hơn, đẩy nhanh tiến độ hơn không nhỉ…

Vẫn chưa đến giờ cao điểm, chiếc xe khách chạy lên cầu vượt, tăng tốc phóng về phía trước. Cầu vượt nối với đường cao tốc nên chẳng mấy chốc chúng tôi sẽ đến Côn Sơn.

Hà Tịch nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, đầu gục sang bên ngả lên vai tôi. Tôi có thể cảm thấy hơi thở nhẹ phả ra từ mũi cô ấy, đàn ông hình như rất thích cảm giác này.

Vai tôi cũng hơi giơ xương xẩu, liệu nó có làm cô ấy khó chịu không nhỉ? Đang miên man nghĩ vậy, thì kẻ thiếu ngủ là tôi cũng dần chìm vào giấc mộng.

Xe về đến Côn Sơn tôi mới tỉnh, nhận ra đầu mình đang ngả lên vai Hà Tịch. Thường thì khi ngủ tôi không nghiêng đầu về phía đó, nên ngắm chừng trong tiềm thức tôi cũng biết đây chẳng phải là lúc thông thường.

Khi xuống xe, không nhịn được, tôi đã chọc cô ấy một câu: “Sao người em thơm thế, đúng là lạ quá.”

“Lần tới em sẽ tẩm thêm chút mùi tanh của máu cùng mùi hôi thối của xác chết để anh ngửi cho đã ha ha!” Hà Tịch nguýt tôi một cái, trông cô ấy đẹp đến mức tôi không thể thốt thành lời.

Đích đến cuối cùng tất nhiên là thôn Đại Đường, nên chúng tôi còn phải đổi xe. So với chiếc xe buýt cỡ lớn vừa rồi, chiếc xe lần này kém hơn nhiều, lại chẳng có điều hòa, nên tuy có ghế ngồi nhưng tôi chẳng tài nào chợp mắt tiếp. May nhờ có thời gian chợp mắt vừa xong nên tinh thần cả hai đã khá hơn nhiều.

“Lúc về thôn Đại Đường, ta sẽ phải cậy nhờ vào tấm thẻ ngành của em để hỏi một vấn đề đấy.”

“Hỏi hàng xóm của Hoàng Chức rằng tổng cộng cô ấy đã mang thai mấy lần?”

“Hóa ra em đã đoán được!” Tôi cười nói.

“Nếu chỉ là mang thai thì người khác chưa chắc đã nhận ra.”

“Hả?” Tôi cảm thấy câu nói này của Hà Tịch còn có ẩn ý khác bên trong.

“Em đang nói đến vụ án kia cơ, anh có còn hứng thú với tiến triển mới trong vụ án xác hai đứa trẻ sơ sinh bên Hàn Quốc không?”

“Đương nhiên, giờ thế nào rồi?”

“Giờ vụ này đang gần đến giai đoạn kết án rồi. Cảnh sát Pháp sau khi được phía cảnh sát Hàn Quốc bàn giao lại, đã có được bước tiến mang tính đột phá.”

Phải nói vụ án này rất quanh co rắc rối. Quay về Pháp, vợ chồng Cournot đã tổ chức một buổi họp báo. Trong buổi họp báo đó, Cournot tiếp tục phủ nhận rằng: “Vợ tôi không phải là người sinh ra hai đứa trẻ đó.” Véronique còn ra vẻ bội phần oan ức hơn, nhất mực lặp đi lặp lại rằng: “Đây đúng là cơn ác mộng.” Đồng nghiệp của Véronique cũng đứng lên chứng minh: “Tôi làm việc bên cô ấy tám tiếng mỗi ngày ở trường trung học bên Hàn Quốc, lúc hết giờ làm cả hai lại cùng nhau đi tập Yoga. Nếu cô ấy có mang tôi nhất định phải biết chứ.” Và lời Hà Tịch nói là nhằm vào người làm chứng này, bởi tình tiết phát triển sau đó đã khiến tất cả những người từng cam đoan chưa bao giờ thấy bụng Véronique to ra đã vô cùng bất ngờ.

Bước ngoặt quan trọng xuất hiện, khi bằng chứng Véronique không còn khả năng mang thai sau khi cắt bỏ tử cung, đã được làm sáng tỏ.

Qua xét nghiệm, cảnh sát Pháp thực hiện bằng các thiết bị máy móc tiên tiến, mốc thời gian hai đứa trẻ qua đời là hơn ba năm, cũng có nghĩa là vào khoảng năm 2003 hay thậm chí là 2002. Trong khi đó, đến tháng 12 năm 2003 Véronique mới cắt bỏ tử cung. Xét về mặt thời gian, người phụ nữ này hoàn toàn có thể sinh ra hai đứa trẻ kia.

Sau buổi điều tra luân phiên và chiến thuật tấn công tâm lý của cảnh sát, Véronique cuối cùng đã thay đổi lời khai, thừa nhận sau khi bí mật sinh hạ cặp song sinh và bóp chết hai đứa trẻ vào năm 2003, bà ta đã bọc chúng lại rồi đem bỏ vào tủ lạnh. Song song đó, người ta càng sởn gai ốc hơn khi biết rằng, hành động giết con trẻ dã man như thế này của Véronique chẳng phải lần đầu. Vào năm 1999, bà ta từng thiêu chết đứa bé gái do chính mình sinh ra. Hơn thế bà ta còn nhấn mạnh thêm rằng, tất cả những việc này đều do mình bà ta thực hiện, lặng lẽ sinh con rồi tàn nhẫn hại chết đứa trẻ, còn người chồng hoàn toàn không hay biết gì.

“Không đúng, hai đứa trẻ đó đâu phải là anh em sinh đôi, chỉ có một đứa là con Véronique, còn đứa kia là con Hoàng Chức!” Vừa nghe dứt lời tôi đã lập tức lên tiếng.

“Đây là tin được phía cảnh sát Pháp công bố công khai, Véronique nhận tội; có thể do công chúng quá quan tâm nên vụ án này nhất định sẽ kết thúc sớm thôi.”

Bị công chúng và dư luận quan tâm chú ý là sức ép lớn, nếu Véronique đã thừa nhận giết con mình, thì hãy cứ thông báo cho công chúng biết trước, rồi từ từ điều tra làm rõ những điểm còn khúc mắc cũng là cách hay. Đương nhiên, ở đây còn một lựa chọn khác nữa là cảnh sát kết thúc luôn ở đây để mau mau đóng hồ sơ lại, tránh xa mớ rắc rối này.

“Thế không đúng, điều kì lạ đâu chỉ mỗi thế này!” Tôi nhíu mày nói.

“Ừm!” Hà Tịch kéo cửa sổ xuống, giờ nắng vẫn chưa gắt, làn gió mát ùa vào qua cửa sổ thật sảng khoái, cô đưa tay chải chải lại mái tóc bị gió thổi tung nói: “Vụ án này rất thú vị!”

“Rõ ràng bà ta chỉ sinh một đứa, mà lại nhận mình sinh ra cặp song sinh. Hơn thế, hôm nào tan buổi làm bà ta cũng đi tập Yoga cùng với đồng nghiệp. Anh thử nói xem, không nhẽ người khác chẳng nhận được ra bà ấy đang mang thai à?”

“Tuy Véronique cũng khá cao lớn, nhưng nếu nói đến ngày sắp lâm bồn mà bà ta vẫn có thể đi tập Yoga và không bị ai phát hiện ra thì…” Nói đến đây Hà Tịch im bặt, thầm tính toán những khả năng có thể xảy ra, rồi lắc đầu bảo: “Đây có lẽ là kì tích.”

Kì tích ư? Kì tích đều thường chứa đựng ẩn tình bên trong.

“Thực ra, trong phần thông tin được phía cảnh sát Pháp công bố còn có nhiều chỗ được giải thích khó hiểu hơn, Véronique nói chồng bà ta không hề hay biết, mọi người rất dễ tin điểm này, bởi dù sao thì Cournot cũng là người chủ động đi báo án. Đương nhiên, để làm được vậy thì Véronique phải có khả năng che giấu việc mình đang mang bầu cực kì hoàn hảo, đến mức ngay người chồng sống cạnh bà ta cũng chẳng phát hiện ra. Nhưng còn có một câu hỏi khác là, Véronique thường sống ở Pháp trong thời gian Cournot đi du lịch nước ngoài, không hề quay lại Seoul, nên càng chẳng thể cho xác hai đứa trẻ vào tủ lạnh nhà mình, đồng thời bà ta cũng thừa nhận sau khi giết hại hai đứa trẻ vào năm 2003, vẫn luôn để xác chúng trong tủ lạnh.”

Tôi rùng mình, tưởng tượng nếu trong chiếc tủ lạnh ở nhà mình cũng có xác hai đứa trẻ, và mọi đồ ăn thức uống hàng ngày đều được đặt chung tủ với chúng…

“Nếu Véronique nói thật, vậy sao đến giờ Cournot mới phát hiện ra trong tủ lạnh nhà mình có thêm một bọc ni lông đựng xác hai đứa trẻ?”

Tôi gật đầu nói: “Không sai, và anh còn nhớ, phản ứng đầu tiên của Cournot khi nhìn thấy bọc ni lông kia, ông ta đã cho rằng người giúp việc Philipin của gia đình gửi đồ nhờ. Điều này cho thấy người giúp việc nhà ông ta, cũng có thể là người mở tủ lạnh, trong thời gian tận ba năm, đúng ra cũng phải phát hiện ra xác hai đứa trẻ từ sớm rồi chứ.”

“Còn một điểm nữa là Véronique nói bà tự tay bóp chết đứa trẻ, nhưng em không phát hiện thấy dấu hiệu chết ngạt nào ở bất kì đứa nào trong hai đứa trẻ đó,” Hà Tịch nói.

“Vậy gần như có thể khẳng định, đây chưa phải là toàn bộ chân tướng sự việc. Với nhiều điểm sơ hở về bằng chứng như thế này mà cảnh sát Pháp vẫn dám kết án à?” Tôi thắc mắc.

“Vì Véronique đã nhận tội, đã có kẻ cam tâm tình nguyện giơ đầu chịu báng, thừa nhận tất cả việc làm sai trái, thì cảnh sát đương nhiên có thể kết án. Nhưng dù sao cũng vẫn còn một vài người bán tín bán nghi, họ cho rằng Véronique chỉ chịu khuất phục trước áp lực từ phía cảnh sát, rằng bà ta còn chưa khai hết mọi chuyện và có vấn đề về thần kinh.”

“Nếu đúng bà ta giết con mình rồi đem bỏ vào tủ lạnh, thì chắc chắn là vấn đề về mặt thần kinh rồi!” Tôi nói.

“Này, anh chị gì kia, hai người về Đại Đường à?” Nhân viên bán vé lớn tiếng nhắc nhở.

Tôi định thần lại, hóa ra đã đến nơi rồi. Tôi vội vàng ôm theo mối hoài nghi về vụ án liên quan đến xác của hai đứa trẻ được tìm thấy trong tủ lạnh bên Hàn Quốc xuống xe với Hà Tịch.

Bên ngoài trời lất phất mưa. Mưa rất nhẹ hạt, được những làn gió thổi đi muôn nơi, lọt cả vào trong cổ áo.

Đúng thật là có sương mù, cả vào mùa này trong năm thì quả là vô cùng hi hữu.

Làn sương lãng đãng, kết thành từng đám, nơi mỏng đến mức gần như chẳng thể nhận biết, chỗ dày đến mức như ta đang bị bịt mắt. Mới chỉ hơn bảy giờ sáng, chốc nữa khi mưa tạnh, mặt trời lên, sương mù cũng sẽ tan đi; còn bây giờ, thôn làng tựa như một thị trấn chìm trong sương mù đang cất giữ trong mình một bí mật khó nói ra thành lời.

Tôi tự cười giễu bản thân, những điều được nghe, được thấy trong mấy ngày gần đây, cũng khiến tôi có phần nơm nớp lo sợ, chẳng phải đây chỉ là một thôn làng bình thường thôi sao?

Đi men theo con đường bữa trước, chỉ cần nhìn qua tôi đã tìm ra đường dẫn đến thôn 2.

Sau khi đi qua nhiều ngôi nhà nhỏ, ngôi nhà của Hoàng Chức đã thấp thoáng hiện lên xa xa phía trước. Vậy nhưng khi càng tiến gần về phía ấy, sương mù cũng càng lúc càng dày đặc hơn.

Gió phả từng đám sương mù lên mặt tôi. Hít vào một hơi sâu, tôi ngửi thấy mùi nước sông thoang thoảng. Lúc đó tôi mới chợt bừng tỉnh, nhìn thẳng về phía trước không xa là một con sông, ở hai bên bờ sông đương nhiên sương mù sẽ dày hơn.

Ngôi nhà nhỏ xập xệ của Hoàng Chức đây rồi. Tôi đột nhiên nhớ lại chuyến viếng thăm lần trước, cùng lời bà cụ nói với mình.

Bà nói chỗ này rất nhiều ám khí, nhiều đến nỗi bà chẳng dám bước chân qua cửa.

Nghĩ ngợi một lúc thì thấy trong vòng mấy năm gần đây, những người sống trong ngôi nhà này đã lần lượt ra đi từng người một, chẳng phải vì mất tích thì cũng vì đã qua đời. Cho đến giờ, thì nó đã hoàn toàn trống vắng, không một bóng người.

Tôi bất giác rùng mình.

Tôi vòng ra lối cửa sau, cánh cửa hỏng khóa vẫn được dựng lại một cách tạm bợ, để lại một khe hở hẹp, qua đó có thể nhìn vào một góc tường của nhà kho trống huếch trống hoác bên trong. Mấy ngày hôm nay, sau khi Hoàng Chức chết, hẳn đã có không ít người về đây. Tôi đoán chủ yếu là cảnh sát, chứ người trong thôn chắc chẳng dám mò đến.

Tôi không định vào trong nhà, vì đây chẳng phải là mục đích chuyến đi ngày hôm nay của chúng tôi, mà chỉ là do xúi giục của một cảm xúc nào đó, tôi đã bước vào trong nhìn ngó. Ban đầu Hà Tịch không nói gì, khi thấy tôi đi quanh nhà một lượt, cô mới hỏi: “Là nhà Hoàng Chức à?”

Tôi gật đầu: “Ta đi chỗ khác tìm người hỏi thăm đi. Ồ, anh đã có ứng cử viên đây rồi!”

Từ nhà Hoàng Chức đi ra, rẽ ở khúc quanh, xa xa phía trước tôi đã thấy một bóng người ẩn hiện.

Đến thật gần, bóng dáng còng còng ấy dần hiện ra rõ hơn sau làn sương mù dày đặc.

Không sai, tôi lại gặp bà cụ đó. Hệt như lần trước, bà đang ngồi trước cửa nhà mình nhặt rau.

Tôi bước đến trước mặt bà cụ, lên tiếng chào hỏi.

Bà tạm ngừng việc đang làm, ngẩng đầu lên nhìn tôi một cái. Động tác đó, ánh mắt đó vẫn hệt như lần trước, chẳng khác gì.

“Gì, anh hỏi gì?” Bà cụ chậm rãi hỏi.

Thật đúng là, tôi quên bà không hiểu tiếng phổ thông, giống như lần trước, bà phải hỏi lại tôi.

Trong chớp mắt, tôi có cảm giác như dòng thời gian đang quay ngược trở lại. Trong bầu không gian kì lạ tại thời khắc này ở cái xóm nhỏ này, ngay đến thời gian cũng trở nên bất định.

Ảo giác lạ này khiến tôi nhất thời chẳng kịp định thần, quên cả việc trả lời bà cụ.

Bà cụ hơi nheo mắt, vết chân chim nơi đuôi mắt tỏa ra thành những nếp nhăn hằn sâu.

“Chà, hóa ra là cậu, anh chàng phóng viên đó!” Bà đã nhận ra tôi.

Rồi bà hướng ánh mắt sang phía Hà Tịch, người đang đứng cạnh ở phía sau tôi. Bộ cảnh phục khiến nếp nhăn nơi đuôi mắt trên mặt bà sâu thêm mấy phần.

“Cảnh sát.” Bà lẩm bẩm câu gì đó, rồi đặt rổ rau sang bên, đứng dậy.

“Có chuyện gì?” Bà nhìn tôi, rồi lại lia mắt nhìn sang Hà Tịch.

“Là chuyện về Hoàng Chức ạ, lần trước bà nói mình là người biết cô ấy từ hồi còn nhỏ, cháu có vài thắc mắc muốn được hỏi bà.” Tôi nói.

“Được, được, ồ, mời anh chị vào trong ngồi, vào trong đi!” Vừa nói bà vừa mời chúng tôi vào trong, còn chuyện chúng tôi có mang thẻ ngành hay không, bà hoàn toàn chẳng nghĩ đến việc yêu cầu được xem, với những người dân bình thường, “lớp vỏ” ngụy trang này đủ để nói lên tất cả.

Kết cấu nhà cửa ở nông thôn đa phần đều giống nhau, so với nhà Hoàng Chức, đồ đạc được bài trí trong phòng khách lớn ở đây cũng chẳng hào nhoáng gì, song chí ít còn tốt hơn nhà cô ấy nhiều.

Bàn bát tiên, ghế làm từ gỗ đào, sa lông, ấm trà, ti vi màn hình lớn, nói chung là mọi đồ dùng thiết yếu đều đủ cả, trên tường còn treo bức tranh trang trí cỡ lớn. trang trí cỡ lớn.

“Để tôi đi rót trà cho anh chị.”

“Bà ơi, chúng con không cần đâu ạ.”

“Cần chứ, cần chứ!”

Bà cụ quay người đi xuống bếp, song lại mang hai lon Coca cola lên bảo: “Trời nóng quá, uống cái này đỡ hơn.”

“Bà ơi, chuyện là vậy, cô ấy là người thuộc Sở cảnh sát thành phố, về điều tra vụ án liên quan đến Hoàng Chức!” Tôi giới thiệu qua Hà Tịch với bà. Về cơ bản câu nói này của tôi cũng chẳng phải là câu nói dối.

“Mấy bữa trước có vài anh cảnh sát đến đây, cũng có một số người từ Thượng Hải về, nhưng cô thì đây là lần đầu phải không nhỉ?” Bà cụ hỏi Hà Tịch.

Hà Tịch gật đầu.

“Cô ấy muốn hỏi bà mấy câu về chuyện liên quan đến Hoàng Chức lúc còn sống trước kia.”

“Cô cứ hỏi, cứ hỏi đi!” Bà cụ liên tục gật gù, thái độ vô cùng hợp tác.

“Em hỏi đi, đã biết mình muốn hỏi gì không?” Tôi bảo Hà Tịch.

Hà Tịch gật đầu. Vừa lên tiếng cô ấy đã làm tôi giật bắn mình.

“Về xác chết đó, điều cháu muốn biết là…” Hà Tịch chưa nói hết câu đã bị tôi đánh tiếng ho cắt ngang. Cũng may, Hà Tịch chỉ nói được tiếng phổ thông, tiếng Thượng Hải bản địa thì cô ấy chỉ có thể nghe hiểu mà không biết nói.

“Là vậy ạ, vì cô ấy chỉ nói được tiếng phổ thông nên cháu sẽ đứng ra hỏi thay, cháu đi cùng cô ấy về đây phỏng vấn, cô ấy định hỏi gì cháu đều biết cả. Cô ấy muốn biết thêm một số chuyện về người đã qua đời, tức Hoàng Chức ấy ạ, phía cảnh sát nghi ngờ cái chết của cô ấy có liên quan đến đứa con đã mất tích.”

“Là con bé Chu Tiêm Tiêm hả?”

Tôi gật đầu.

“Con bé đó đến một tiếng cũng chẳng nói, thích nhất là được lủi vào góc tối, đi lại không phát ra tiếng động nào, hệt như người chết vậy. Tôi thấy có khi nó còn tà ác hơn mẹ nó nữa!” Bà cụ thốt lên những điều hoàn toàn chẳng có chút căn cứ gì với vẻ mặt căm ghét, dù việc Chu Tiêm Tiêm đã mất tích cả mấy tháng cũng chẳng thể làm dấy lên chút lòng cảm thông, trắc ẩn nào từ phía bà cụ. Lần trước đến đây tôi đã cảm thấy bà chẳng yêu mến gì Chu Tiêm Tiêm, không ngờ bà lại có thành kiến sâu sắc vậy.

“Hoàng Chức còn sinh đứa con nào khác không bà?” Hà Tịch hỏi.

Tôi vừa dịch lại câu hỏi của Hà Tịch sang tiếng Thượng Hải cho bà cụ, vừa thầm tự lắc đầu. Hà Tịch quả có phần thẳng đuột ruột ngựa, ban đầu tôi định hỏi về Chu Tiêm Tiêm trước rồi mới lái dần sang vấn đề này.

“Không, ba năm trước cô ta có mang thai một lần nhưng bị sinh non.”

Lần sinh non này hẳn là chỉ lần sinh ra đứa trẻ giấy đó.

“Ngoài lần đó ra, cô ấy còn mang thai thêm lần nào khác nữa không, bà cố nhớ hộ cháu xem, thông tin này rất quan trọng với việc phá án.”

Chẳng cần nghĩ ngợi gì, bà cụ đã lắc đầu: “Chắc chắn là không, đều là người cùng một thôn, lại ở gần nhau thế, nhất định không thể nào sai được. Kết hôn được ba năm, cô ta sinh con bé Chu Tiêm Tiêm, sau được tổ chức sinh đẻ kế hoạch hóa của thôn đến vận động, nên cô ta đã đi đặt vòng tránh thai. Ba năm sau, do có vấn đề nên mới đi bệnh viện tháo vòng ra. Rồi vừa tháo vòng thì cô ta có thai, chính là lần sinh non đó đấy, rồi sau đó cô ta mắc bệnh tâm thần. Với cái số đen đủi, xúi quẩy thế thì người đàn ông nào còn dám gần gũi cô ta chứ.”

Tôi nhìn Hà Tịch, Hà Tịch gật gật đầu, nói: “Vậy đúng rồi, cô ấy từng đặt vòng tránh thai, thời gian tháo vòng xem ra cũng trùng khớp. Ở đa phần phụ nữ, cổ tử cung của họ đều bị viêm nhiễm, lại thêm vòng tránh thai, nên để càng lâu càng viêm tấy, cô ấy nói không ổn là vì vậy.”

“Có thể khẳng định cô ta đã mang thai hai lần. Với cái vóc người gầy nhẳng đó thì cô ta có bầu mọi người sẽ nhận ra ngay, muốn giấu cũng chẳng giấu được, không thể trật đi đâu!” Bà cụ lại nói.

Vóc người Hoàng Chức rất gầy nhỏ, nói Véronique sở hữu vóc người to cao nên có thể che giấu việc mình mang bầu phần nào còn tin được, chứ Hoàng Chức thì chẳng thể nào.

Theo kết quả xét nghiệm của cảnh sát Pháp, hai đứa trẻ kia qua đời cách đây tầm ba năm, nên dù nhầm lẫn thế nào, cái xác đã đông cứng của đứa trẻ là con Hoàng Chức, được tìm thấy trong tủ lạnh bên Hàn Quốc, cũng không thể ra đời trước Chu Tiêm Tiêm. Và sau khi Chu Tiêm Tiêm ra đời, Hoàng Chức đã đặt vòng tránh thai, khoảng ba năm sau mới bỏ vòng ra thì liền mang thai đứa trẻ giấy, rồi tiếp đó là phát bệnh tâm thần, nên chẳng người đàn ông nào còn dám lại gần cô ấy nữa.

Như vậy chỉ còn lại một khả năng: Một trong hai đứa trẻ Cournot phát hiện thấy trong tủ lạnh nhà mình chính là anh em sinh đôi với đứa trẻ giấy, kẻ đã hút cạn người anh em song sinh với mình, và biến đứa kia thành một tờ giấy!

Những điều Hoàng Chức nói trong bệnh viện ba năm về trước hóa ra là thật. Trong bụng cô ấy còn một đứa trẻ khác!

Nó nói lên điều gì?

Tôi thực sự chẳng thể tin vào cách suy luận theo lôgic này: Lẽ nào một bệnh viện lớn cao cấp như vậy, lại rắp tâm đánh cắp con của sản phụ.

Dù là để lừa bán hay lý do nào khác, thì đây cũng là một vụ scandal động trời!

Chương 9: Cái bụng nhỏ lại

Tôi châm một điếu thuốc, tựa người lên hàng lan can bảo vệ trên hè phố.

Thuốc lá được mua từ cửa hàng tiện lợi[1] gần đây, bật lửa cũng vậy. Tôi rất ít khi hút thuốc, thỉnh thoảng mới làm vài điếu trong trường hợp nhất định nào đó, như khi đang thấy bế tắc, khó khăn.

[1] Cửa hàng tiện lợi: một dạng siêu thị mini.

Lúc này, ngay sau lưng tôi, cách con đường cái không rộng lắm, là cánh cổng chính của bệnh viện bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em số 1 Thượng Hải. Rất nhiều người đang ra ra vào vào, phần đông trong số ấy là những phụ nữ mang thai với cái bụng lặc lè.

Tôi đứng ở đây đã lâu, quan sát mấy người bán hàng rong với đủ kiểu ăn mặc, đang ngồi bệt dưới đất cùng mấy món đồ trang trí. Không rõ có thứ ám hiệu gì mà vừa mới cách đây một giây, họ còn đang nháo nhào giải tán trước khi ban quản lý trật tự thành phố đến, thì ngay sau đó lại lũ lượt quay về chỗ của mình.

Xác đứa trẻ do Hoàng Chức sinh ra ở bệnh viện bà mẹ trẻ em Thượng Hải, lại được tìm thấy trong ngăn đá tủ lạnh bên thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Kẻ đã nhận tội, Véronique, đang che giấu điều gì? Hay do không đương đầu nổi với áp lực mà bà ta hoảng loạn và ăn nói lung tung? Song dù coi tâm thần bà ta không bất thường đi nữa, ta cũng chẳng thể nào lý giải vì sao đứa con của Hoàng Chức lại bay sang tận bên đó.

Lẽ nào giết con mình thôi chưa đủ, bà ta đã thông qua tổ chức mua bán trẻ em để mua trẻ về giết hại, nhằm thỏa mãn tâm lý biến thái của bản thân? Nếu là vậy, sao đã nhận tội, bà ta lại không nhận đến cùng?

Thêm nữa, vết tích khác thường chỉ có ở đứa trẻ đang trong thời gian tập bò trên người đứa trẻ kia từ đâu mà ra? Vết tích này liên quan gì đến hành vi hấp thu người anh em song sinh cùng trong bụng mẹ của nó? Hay còn do nguyên nhân thần bí nào khác?

Tôi tin, chìa khóa của vụ án nằm ngay trong bệnh viện trước mắt mình. Chỉ cần tìm được “đầu mối” trong bệnh viện bà mẹ trẻ em, rồi từ từ lần theo là có thể làm sáng tỏ mọi chuyện.

Vẫn là chiêu bài như trước đây, tận dụng chức danh phóng viên để tiến hành điều tra ư? Nhưng với bệnh viện bà mẹ trẻ em, thì cách này xem ra có phần không ổn. Liệu tôi có tìm được một lý do hợp lý để yêu cầu bệnh viện điều tra xem xét lại trường hợp của một bệnh nhân ba năm trước, cùng những thông tin liên quan đến người này không? Liệu có thể moi được điều gì mới bằng cách dò hỏi những nhân viên y tế có liên quan về chuyện xảy ra ba năm về trước chăng?

Thêm vào đó, đây chẳng phải là trách nhiệm của riêng người nào cả. Nếu đi sâu hơn, thì để thực hiện kế hoạch này một cách kín kẽ như vậy, cần có sự liên kết và bắt tay hợp tác của một nhóm người có vai vế và tầm ảnh hưởng trong bệnh viện. Liệu những kẻ đó có để một tên phóng viên như tôi được chạm vào bất kì thứ tài liệu nào có khả năng lột trần chân tướng sự thật không?

Nếu có thể đưa ra câu trả lời hoàn hảo thì tôi đã chẳng phải quanh quẩn ở đây lâu vậy. Đến bây giờ mà vẫn chưa nghĩ ra phương án hoàn hảo thì thôi, đừng nghĩ nữa.

Tôi dụi điếu thuốc, đi về phía bệnh viện. Với nơi không biết nên bắt đầu từ đâu như nơi này, thì hãy cứ để tôi lấy trứng chọi đá thử một lần xem chuyện gì có thể xảy ra. Ít nhất khi đó tôi cũng biết kẻ nào là đáng nghi.

Chuông điện thoại di động đột nhiên vang lên.

“Anh đang ở đâu?” Giọng điệu dứt khoát này chỉ có thể đến từ Hà Tịch.

“Anh đang… ở đường Thường Lạc.”

“Thường Lạc? Anh đang ở bệnh viện à?”

“À ừ.”

“Đợi nhé, em đến ngay đây!” Dứt lời Hà Tịch liền cúp máy.

Tôi ngẩn ra một lúc, tựa vào hàng lan can bảo vệ, rút thuốc lá ra châm.

Mười lăm phút sau, tôi nhận được cuộc gọi tiếp theo của Hà Tịch.

“Anh đang ở đâu thế?” Khi Hà Tịch thốt ra mấy từ này, thì một chiếc xe cảnh sát chạy qua trước mặt tôi rồi ngoặt vào cổng chính của bệnh viện.

Tôi vội vàng rảo bước vào trong đó, Hà Tịch trong bộ đồng phục cảnh sát, đã đứng trước cửa chính của khoa khám bệnh.

“Em vào bằng cách nào, đây chẳng phải như thôn Đại Đường, chỉ cần tấm thẻ ngành đã quá hạn là qua cửa được!” Tôi nói.

“Anh đến điều tra về đứa trẻ giấy à?” Hà Tịch không trả lời mà vặn lại tôi.

“Đúng thế!”

“Vậy thì vào thôi.”

Dứt lời Hà Tịch liền bước đi trước, ném lại cho tôi một cái bóng ở sau, khiến tôi tức tối. Giải thích rõ ràng hơn một chút đã chết ai, cái phong cách này thật là… hợp khẩu vị của tôi mà.

“Còn ngẩn ra đấy làm gì?” Hà Tịch đi đằng trước ngoảnh đầu lại hỏi.

“À… à…” Tôi vội rảo bước theo.

Chúng tôi tìm gặp trực tiếp giám đốc bệnh viện bảo vệ bà mẹ và trẻ em số 1, đó là một người đàn ông bị hói tóc nơi đỉnh đầu, trông chừng chỉ vài năm nữa là sẽ nghỉ hưu.

Vừa gặp, Hà Tịch đã rút tấm thẻ ngành của mình ra, tôi đứng bên vội đưa mắt liếc nhìn một cái, hình như không phải là tấm thẻ ngành quá hạn bữa trước.

Giám đốc xem xét tấm thẻ ngành một cách kĩ càng, rồi đưa lại cho Hà Tịch.

“Xin hỏi chị có việc gì, giám định viên pháp y Hà?”

Hóa ra đó là giấy chứng nhận giám định viên pháp y.

“Hiện có vụ mưu sát, cần được bên quý bệnh viện giúp đỡ. Ba năm về trước, người qua đời này từng nhập viện ta một thời gian. Tôi cần biết mọi thông tin, tư liệu về một bệnh nhân tên Hoàng Chức mà bệnh viện đã tiến hành tiếp nhận khi đó, để đối chiếu so sánh với kết quả giám định pháp y hiện giờ. Chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tìm hiểu vụ án.”

“Ồ, được thôi, phía chúng tôi nhất định sẽ hỗ trợ!” Vị giám đốc gần như chẳng có chút đề phòng nào, lập tức nhận lời ngay.

“Em ăn nói đâu ra đấy phết nhỉ!” Tôi khẽ bảo Hà Tịch.

“Vốn vậy rồi mà!” Hà Tịch đáp.

Giám đốc bệnh viện đề nghị Hà Tịch ngồi đợi ở phòng làm việc, rồi bảo người đi tìm kiếm mọi thông tin tài liệu liên quan đến Hoàng Chức để mang tới. Lúc gọi điện thoại nhờ người khác làm việc này, giọng điệu và ngôn từ của ông ta đều rất bình thường, không thấy có điểm khác biệt gì đáng nghi.

“Vậy, anh cũng đến phỏng vấn về vụ mưu sát này?” Tôi đã đưa danh thiếp của mình cho giám đốc, song ông ấy vẫn chưa thật rõ ý định của tôi.

“Ồ, không, tôi và giám định viên pháp y Hà là chỗ bạn bè, ban nãy gặp nhau ngoài cổng bệnh viện. Tuy vậy, quả thực là tôi muốn viết một bài chuyên đề về mức độ hài lòng của các bệnh nhân điều trị ở những bệnh viện lớn tại Thượng Hải. Đã nghe nói về phương diện điều trị của bệnh viện Bà mẹ trẻ em số 1 ta đây đã làm được không ít điều, nên tôi muốn đến tận nơi xem xét. Lý tưởng nhất, anh có thể cử một người đi cùng và giới thiệu cho tôi biết mọi khâu của các anh.”

Giờ ngồi đợi ở đây chẳng để làm gì, nên tôi cứ bịa ra một lý do, thăm dò theo kênh khác xem có thể tìm ra được gì không.

Khuôn mặt vị giám đốc hiện thêm nét cười, kiểu tuyên truyền quảng cáo không dưng mà có cho bệnh viện thế này sao bỏ qua được chứ, đã lập tức điều một nữ nhân viên văn phòng dẫn tôi đi quanh quanh xem. Xét về tuổi tác, nữ nhân viên này không còn trẻ, chỉ là trẻ hơn so với vị giám đốc kia thôi. Tôi đoán chắc cô ta đã làm y tá nhiều năm, sau được điều về làm ở bộ phận hành chính của bệnh viện. Nói thực, đây là con đường thăng tiến tốt nhất dành cho các y tá, tốt hơn nhiều vị trí y tá trưởng.

Cô ta nhiệt tình giới thiệu với tôi điều này điều kia, khiến tôi thấy hơi ngại. Bởi bài viết này là do tôi tưởng tượng ra. Cô ấy có giới thiệu nhiều hơn nữa thì tôi cũng chẳng thể viết bài được.

Tất nhiên, nơi tôi quan tâm nhất là khoa phụ sản. Một người đàn ông mà lại hứng thú với khoa này, thì quả là… nhưng dưới danh nghĩa là phóng viên đi viết bài thì cũng mặt dày mà lao theo. Sau khi một loạt câu hỏi được đưa ra, có thể xem tôi đã thông hiểu mọi khâu mà mỗi một sản phụ sẽ phải trải qua như: kiểm tra sức khỏe trước khi sinh, nhập viện rồi sinh. Ngoài ra, tôi còn được vào xem phòng trẻ sơ sinh, được đặt câu hỏi và được giải đáp tận tình như: sau khi chào đời, trẻ sơ sinh sẽ được cắt dây rốn trong phòng sinh, được tắm rửa lau chùi sạch sẽ thế nào rồi mới đến công đoạn đăng ký, sau đó trẻ sẽ được bế về phòng trẻ sơ sinh để các y tá chuyên biệt tắm rửa cho trẻ bằng nước ấm.

Tóm lại, những thủ tục này tương đối chặt chẽ nên việc bắt cóc trẻ sơ sinh với quy mô và số lượng lớn gần như là không thể.

Trên thực tế, lúc đứng ngoài cổng bệnh viện tôi đã ý thức được rằng, dù hiện tượng đánh cắp trẻ sơ sinh có xảy ra ở một bệnh viện cỡ lớn nhường này đi chăng nữa, thì cũng chẳng thể diễn ra ở quy mô lớn. Ngày nay, khi mang thai, các chị em đều đã làm siêu âm ba chiều chui rồi, nên trường hợp đến lúc lâm bồn mà vẫn chưa biết đứa con mình sắp sinh là trai hay gái, là một hai hay như của Hoàng Chức là vô cùng hiếm. Ngoài ra, không nói đến thủ tục đăng ký sinh của bệnh viện, thì chồng sản phụ thường đều đứng đợi trước cửa phòng sinh, trẻ chào đời là y tá sẽ bồng ra cho bố đứa bé xem mặt ngay.

Giờ nghĩ lại, muốn đánh cắp một đứa trẻ thành công, cũng cần phải vượt qua được một loạt điều kiện. Trước tiên, đấy phải là song thai, có vậy bệnh viện mới có thể để lại một đứa, đánh cắp một đứa. Thứ nữa là sản phụ chưa từng siêu âm ba chiều, không biết rõ tình trạng mang thai của mình; đây thực sự là sự mạo hiểm, bởi biết đâu họ đã siêu âm ba chiều ở bệnh viện khác rồi. Sau đó là giấu đứa trẻ đi, không để sản phụ và người chồng đứng đợi ngoài cửa phòng sinh nhìn thấy; cuối cùng là hoàn tất các thủ tục trong nội bộ bệnh viện thật kín kẽ.

Với các điều kiện nghiêm ngặt đó, thì việc này không thể nào diễn ra trên quy mô lớn, càng không thể thành một đường dây chui bởi giá thành quá cao.

Theo suy luận đó thì chỉ trong những trường hợp đặc biệt hiếm hoi, những người liên quan nào đấy mới làm việc này. Thậm chí họ làm vậy với riêng trường hợp Hoàng Chức cũng nên.

Không sai, là trường hợp đặc biệt. Đứa trẻ này quá ư đặc biệt, không chỉ hấp thu người anh em song sinh cùng nó thành một tờ giấy, mà sau khi chết còn để lại trên cơ thể dấu vết rất khó tin của đứa trẻ đã biết bò trong thời gian dài. Dấu hiệu đặc biệt đó có thể xuất hiện ngay khi nó chào đời, hoặc cũng có thể trong hoàn cảnh đặc biệt khác.

Xét trên nguyên nhân về mặt y học, hẳn động cơ là đây. Tôi nhớ về vụ việc nguy hiểm liên tiếp xảy ra vào năm ngoái, cuối cùng đã bắt Hà Tịch phải chọn trải nghiệm hồi sinh, nó khiến tôi hiểu ra: cho dù là trong y học đi nữa, nó cũng có thể khiến người ta gây ra chuyện rất điên rồ.

Những nơi cần “phỏng vấn” đều đã “phỏng vấn” đầy đủ, trên đường quay trở lại văn phòng làm việc của giám đốc bệnh viện, tôi nhận được tin nhắn từ Hà Tịch.

“Chưa thấy vấn đề gì.”

Ngay khi nhìn thấy năm chữ này, tôi cảm thấy hơi sợ. Nếu những kẻ đó bọc lót được đến mức gần như không sót lại bất kì dấu vết gì, thì liệu tôi có nên tiếp tục tra cứu nữa không?

“Anh ấy hiện không ở đây, mà ra nước ngoài rồi. Thật không may, anh ấy vừa đi hôm qua xong!” Vừa vào văn phòng, tôi đã nghe thấy giám đốc bảo Hà Tịch.

“Hà, em vẫn chưa xong à?” Tôi hỏi Hà Tịch, nhưng đương nhiên là để cho vị giám đốc nghe.

“Chưa, em muốn tìm bác sĩ phụ trách ca sinh này để tìm hiểu kĩ hơn, nhưng anh ấy đã ra nước ngoài rồi!” Hà Tịch đáp.

“Là bác sĩ Trương phải không, mấy hôm trước anh còn nói chuyện qua điện thoại với anh ấy mà.” Tôi ngạc nhiên hỏi.

“Sao anh biết?” Vị chủ nhiệm thắc mắc hỏi.

“Ba năm trước tôi từng đến phỏng vấn anh ấy về vụ việc đứa trẻ dị dạng do sản phụ này sinh ra” Tôi vắn tắt giải thích.

“Ồ, hóa ra vậy. Bác sĩ Trương sang Mỹ học, phải nửa năm nữa mới về.”

Ánh mắt tôi và Hà Tịch thoáng gặp nhau, đúng là trùng hợp.

“Thế này vậy. Tôi sẽ mang bản copy về, rồi nếu có vấn đề gì khác, tôi lại đành đến nhờ anh vậy,” Hà Tịch nói.

“Được, được!” Giám đốc bệnh viện nhận lời ngay.

Tôi và Hà Tịch ra khỏi văn phòng, lúc vòng qua một khúc quanh ngoài hành lang, tôi hỏi cô: “Không thấy điểm đáng nghi nào a?”

“Về mặt giấy tờ có vẻ rất rõ ràng, ban đầu em định tìm gặp bác sĩ để hỏi, rốt cuộc thông tin phản hồi ta có được từ con người luôn nhiều hơn là từ giấy tờ, nhưng…” Nói đến đây Hà Tịch bất ngờ ngừng bặt, cô chăm chăm nhìn một y tá đi ngược lại cho đến khi người này và chúng tôi lướt qua nhau.

“Gì thế?”

“Em suýt quên mất, còn một người nữa, thường thì trong phòng sinh bác sĩ không phải là người động chân tay, mà chỉ đứng bên quan sát, đề phòng bất trắc xảy ra. Bà đỡ mới là người đỡ đẻ cho sản phụ, người đỡ đẻ cho Hoàng Chức hôm ấy hẳn biết mọi việc không kém gì bác sĩ.” Dứt lời Hà Tịch liền quay phắt lại văn phòng giám đốc bệnh viện.

“Thực sự rất tiếc, người đỡ đẻ cho sản phụ ấy khi đó hiện không còn ở bệnh viện!” Giám đốc nói với chúng tôi.

“Gì cơ?” Tôi không kìm được, thốt lên.

“Cô ấy đã xin thôi việc từ hai ba năm trước đây, cũng không rõ giờ đang ở đâu!” Vị giám đốc nhún vai, “Rất lấy làm tiếc, tôi không thể giúp gì hơn cho anh chị.”

“Cô ấy tên gì vậy ngài giám đốc?” Hà Tịch hỏi.

“Nhạc Văn Anh.”

“Người miền nào, Thượng Hải ạ?”

“Vâng, cô ấy là người ở đây.”

“Nếu vậy tìm cô ấy chắc sẽ không khó lắm!” Hà Tịch nhìn vị giám đốc.

“Ồ, đúng thế. Một khi cảnh sát đã muốn tìm thì hẳn là không khó,” vị giám đốc cười đáp.

Buổi chiều hai ngày sau đó, tôi đến một tiểu khu. Đây là một trong những cư xá cao cấp ven bờ Đông của sông Hoàng Phố. Nhạc Văn Anh sống ở đây.

Tôi vốn cho rằng, nếu hai người nắm rõ tình trạng mang thai năm đó của Hoàng Chức, lại không có mặt ở bệnh viện một cách trùng hợp như vậy, thì ngay cảnh sát cũng chưa chắc đã dễ dàng tìm ra Nhạc Văn Anh. Giờ ngẫm lại, cũng không thể nói phán đoán đó của tôi là không đúng.
Tôi không rõ Nhạc Văn Anh có ở nhà hay không, thậm chí cũng không rõ cô ấy có còn sống ở đây? Sau khi xin nghỉ việc, Nhạc Văn Anh, gần như không đi tìm việc nữa. Số điện thoại trong hồ sơ đã thay đổi, nhưng chúng tôi vẫn tìm được cha mẹ cô ấy. Công an khu vực nơi cha mẹ Nhạc Văn Anh sống – do được Hà Tịch nhờ, đã tới nhà ông bà ấy một lần, mới hay họ đã hoàn toàn cắt đứt quan hệ với con gái, vì nguyên do gì thì không rõ bởi ông bà ấy không nói. Do không liên lạc với nhau, nên ngay số điện thoại của con gái họ cũng chẳng có, địa chỉ tôi có được là địa chỉ đề trên tấm thiệp mà Nhạc Văn Anh gửi chúc tết cha mẹ vào mùa xuân năm ngoái.

Xem ra Nhạc Văn Anh đã làm một chuyện gì đó mà ngay đến cha mẹ cô cho đến giờ cũng không thể tha thứ, không muốn chủ động liên hệ lại với con mình.

Hà Tịch không đi cùng, còn tôi đến phỏng vấn với danh nghĩa nhà báo thì sẽ khiến Nhạc Văn Anh dè chừng hơn. Hiện Hà Tịch phải tranh thủ thời gian nghiên cứu kĩ hơn về thi thể của Hoàng Chức, vì rốt cuộc cái xác vô cùng quý giá với cô ấy sẽ không thể giữ lại phòng giải phẫu giám định của Viện pháp y mãi được nên phải tranh thủ ngày nào hay ngày đó.

Nhạc Văn Anh ở trên tầng bảy, tầng dưới có thiết bị camera và thiết bị liên lạc kết nối với các hộ sống bên trên, chủ nhà có thể thấy mặt khách đến thăm mình qua camera và có thể trao đổi qua thiết bị liên lạc.

Tôi bấm phím liên lạc với căn hộ 702, lòng lo ngay ngáy, mình đã liều đến tận đây thì chẳng lẽ lại không qua được cổng chính?

“Ồ, anh là ai?” Một giọng phụ nữ vọng ra ngoài qua loa.

“Xin cho hỏi chị Nhạc Văn Anh có nhà không?” Tôi hỏi.

“Vâng, tôi là Nhạc Văn Anh đây.”

Tôi mừng thầm, vội vàng hỏi: “Xin lỗi đã mạo muội đến quấy rầy chị, tôi là phóng viên Na Đa của báo Ngôi sao buổi sớm, muốn được phỏng vấn chị.” Nói đến đây, tôi giơ thẻ nhà báo của mình ra trước ống kính camera.

“Phóng viên báo Ngôi sao buổi sớm? Anh muốn hỏi về chuyện gì?”

“Là về… về một số trải nghiệm của chị, việc này… liệu ta có thể nói kĩ hơn lúc tôi lên trên đấy không?”

“Vâng, được.”

Cánh cửa bảo vệ phát ra một tiếng khe khẽ, rồi tự động mở ra.

Chỉ thế thôi tôi đã được phép lên à? Có vẻ dễ quá nhỉ.

Lần này không cần nói nhiều, tôi ấn chuông là cửa mở ngay.

Không khí điều hòa mát rượi lan ra đến tận ngoài cửa, khiến tinh thần tôi trở nên phấn chấn. Mở cửa cho tôi là phụ nữ mặc một chiếc váy hai dây bằng lụa dài quá gối với chiếc cằm nhọn cùng cặp mắt nhỏ và dài như thể còn ngái ngủ, từ cô ta toát lên một sự mệt mỏi.

Nhưng sao tôi cảm thấy gương mặt này có nét quen quen, như thể đã từng thấy ở đâu đó rồi.

Thêm lần nữa tôi rút thẻ nhà báo cùng danh thiếp của mình ra, Nhạc Văn Anh chỉ nhìn lướt qua tấm danh thiếp rồi ngẩng lên nhìn tôi, bảo: “Anh… có phải… trước đây anh đã từng đến bệnh viện bà mẹ trẻ em số 1 phỏng vấn rồi không?”

Tôi sững người, gật đầu, rồi chợt nhớ ra, người phụ nữ đang ngồi trước mặt tôi là cô y tá đã đứng bên ngoài nghe lỏm cuộc trao đổi giữa tôi và bác sĩ Trương về trường hợp đứa trẻ giấy ba năm về trước khi tôi đến đó phỏng vấn. Hóa ra cô ấy chính là người đỡ đẻ, xem ra đồng phục của bà đỡ và y tá cũng na ná nhau, nên mới khiến tôi không phân biệt rõ như vậy. Xét theo cảm quan thì dáng vẻ cô ấy hiện giờ cuốn hút hơn nhiều so với hồi làm y tá, nhưng cũng rất có thể do hồi đó tôi còn đang tập trung vào chuyện đứa trẻ giấy, nên không chú ý gì đến cô ấy.

Nhạc Văn Anh cười, nói: “Vậy là anh nhớ ra rồi, có chuyện gì thì vào trong rồi nói.”

Tôi thay giày, đi vào phòng khách, ngồi xuống ghế salon. Diện tích của phòng khách này chắc phải cỡ năm sáu chục mét vuông, toàn bộ đồ đạc, cách sắp xếp cũng như lắp đặt, đều rất chau chuốt, tỉ mỉ.

Phòng khách đã rộng thế này, thì tối thiểu cả căn hộ cũng phải lên tới hai trăm mét vuông. Hiện nhà đất ở khu vực này giá bao nhiêu, ba vạn tệ một mét vuông hay cao hơn? Cô ấy lấy đâu ra nhiều tiền vậy nhỉ?

“Sao anh biết tôi sống ở đây?” Nhạc Văn Anh hỏi.

“Ồ, ban đầu tôi đã nhờ người tìm cha mẹ chị, họ cho tôi địa chỉ này.”

Thấy tôi nhắc đến cha mẹ, gương mặt Nhạc Văn Anh thoáng hiện chút u uẩn.

“Thực ra hôm nay tôi đến tìm chị, vì có chút chuyện liên quan đến cuộc phỏng vấn hồi trước.”

“Liên quan đến cuộc phỏng vấn hồi trước? Là về thai nhi giấy đó?” Nhạc Văn Anh buột miệng nói.

Tôi gật đầu mà lòng chần chừ, nói tiếp thế nào đây. Hỏi thẳng hay hỏi vòng? Việc Nhạc Văn Anh đột ngột nghỉ việc ở bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em năm ấy rồi giờ lại lắm tiền như vậy, thì quả thật rất đáng nghi.

“Đúng là có chút liên quan, sau đó tôi và sản phụ tên Hoàng Chức vẫn tiếp tục giữ liên lạc. Lần ấy, do thiếu kinh nghiệm phỏng vấn, tôi chỉ phỏng vấn bác sĩ thành ra cuối cùng bài viết chẳng hoàn thành được. Nếu sớm biết chị chính là người đỡ đẻ trong ca đó, thì tôi đã phỏng vấn chị rồi!” Tôi vòng vo thu hẹp chủ đề, rồi bất ngờ hỏi, “nhưng sao sau đấy chị lại bất ngờ nghỉ việc ở bệnh viện? Nghe nói thu nhập và chế độ đãi ngộ ở đó rất tốt.”

Phải tìm cách làm sáng tỏ được điểm này mới mong xác định được sách lược tiếp theo.

Nhạc Văn Anh cười cười, nhưng nét cười ẩn chứa bao điều chẳng thể nói rõ.

“Ồ, tôi mạo muội quá!” Tôi vờ giữ ý, nói.

“Chuyện cũng chẳng có gì là không thể nói, anh đã tìm được chỗ tôi ở qua cha mẹ tôi, chẳng lẽ còn chưa đoán ra được lý do à?”

“À!” Quả thật tôi không phản ứng kịp, cô ta đang nói về cái gì nhỉ?

Nhạc Văn Anh lại cười cười, bảo: “Căn hộ cao cấp như thế này tôi chẳng đủ sức mua, giấy tờ nhà cũng chẳng đứng tên tôi.”

Tiếp đó, cô ấy thẳng thừng cho tôi biết toàn bộ câu chuyện của mình.

Hóa ra cô là “chim bạch yến”.

Chim bạch yến là loài chim có vẻ ngoài rất đẹp, hót cũng rất hay, thường hay bị nhốt trong lồng, không được tự do. Mấy năm gần đây, ba từ này còn mang thêm hàm ý đặc biệt khác.

Do bị các thông tin làm nhiễu nên tôi hoàn toàn phán đoán sai lý do Nhạc Văn Anh xin nghỉ việc. Thực ra mọi chuyện rất đơn giản, cô ấy gặp một thương nhân giàu có người Đài Loan, rồi thành vợ bé của ông ta ở đại lục.

Với rất nhiều cô gái cam tâm tình nguyện trở thành vợ bé, ngoài lý do tiền bạc, tình cảm cũng là yếu tố rất quan trọng. Năm đó, Nhạc Văn Anh quyết một lòng yêu người đàn ông ấy, dù cha mẹ mắng mỏ thế nào cũng không chịu chia tay. Là những tri thức gia phong, nề nếp, nên với cha mẹ Nhạc Văn Anh việc con gái mình trở thành vợ bé của một người đàn ông Đài Loan là điều không thể chấp nhận được. Chuyện mà vỡ lở thì họ còn mặt mũi nào mà nhìn mọi người nữa, nên họ đành đoạn tuyệt quan hệ với cô, xem như mình không có đứa con gái này.

Tình yêu càng nồng đượm bao nhiêu, thì thời gian tồn tại của nó càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Bây giờ, thứ khiến Nhạc Văn Anh tiếp tục duy trì mối quan hệ này không chỉ đơn thuần là tình cảm nữa. Phần lớn thời gian cô sống thui thủi một mình, cô đơn vò võ trong căn hộ rộng rãi này, ngay đến một người trò chuyện cũng chẳng có. Hôm nay tôi đến đây, hóa ra lại mang đến cho cô cơ hội được trò chuyện. Vả lại tôi và cô vốn là người xa lạ, nên xét ở khía cạnh nào đó càng dễ nói chuyện và tâm sự hơn.

Nghe xong câu chuyện của Nhạc Văn Anh, cuối cùng tôi đã thấy yên tâm. Câu đầu tiên tôi bảo cô ấy chính là: “Hoàng Chức chết rồi.”

“Hoàng Chức, sản phụ sinh ra đứa trẻ giấy đã bị người ta giết hại.”

Trong ánh mắt sững sờ của Nhạc Văn Anh, tôi đã kể lại đầu đuôi toàn bộ sự việc. Từ chuyện Hoàng Chức phát bệnh tâm thần, chuyện con gái cô ấy mất tích, rồi tôi về thôn Đại Đường tìm cô ấy đã qua đời trong một quán trọ nhỏ ở Thượng Hải; chuyện mẫu ADN Hoàng Chức trùng khớp với ADN của xác đứa trẻ được tìm thấy trong tủ lạnh bên Hàn Quốc ra sao…

Không ai có thể lần ra được chút đầu mối nào giữa một loạt sự kiện đã phát sinh và mối liên hệ kì lạ giữa chúng. Sau khi tôi kể xong, Nhạc Văn Anh đã lặng đi một lúc, rồi mới nói: “Điều anh nghi hiện giờ là Hoàng Chức không chỉ sinh ra mỗi đứa trẻ giấy? Và đứa kia tại sao lại chạy sang chiếc tủ lạnh bên Hàn Quốc?”

Tôi gật đầu: “Bởi chẳng còn khả năng nào khác, các ghi chép về việc sinh nở của Hoàng Chức chỉ có mỗi hai lần đó.”

“Nhưng chính tôi là người đỡ đẻ, và cô ấy chỉ sinh ra đứa trẻ quái dị đó!” Nhạc Văn Anh tròn mắt nói.

“Sao có thể vậy?” Tôi chăm chú quan sát biểu hiện của đối phương, nhưng không có vẻ gì là cô ấy nói dối.

“Đó là ca ấn tượng nhất trong mấy năm tôi theo nghề đỡ đẻ, sao tôi có thể nhớ nhầm được” Nhạc Văn Anh quả quyết nói: “Thêm nữa, nếu cô ấy thực sự sinh ra đứa trẻ khỏe mạnh kia, thì lúc đó chúng tôi đã bế cho cô ấy xem mặt rồi, sao lại đem giấu đi cơ chứ.”

Nói đến đây, cô nhìn tôi với một vẻ rất kì lạ, rồi chợt ồ lên: “Hóa ra anh thực sự nghi chúng tôi đã đem đứa trẻ kia đi.”

Tôi ho một tiếng, nói: “Dựa trên thực tế thì đây là phán đoán hợp lôgic nhất, hơn nữa, lần này tôi đến bệnh viện Bảo vệ bà mẹ trẻ em số 1, bác sĩ Trương cùng chị, hai người biết rõ chuyện này nhất, lại tình cờ đều không có mặt…”

“Nhưng thực tế lúc đó Hoàng Chức chỉ sinh ra mỗi đứa trẻ giấy. Bất kì điều nào trong những điều anh vừa nói cũng đều rất kì lạ, kì lạ đến mức chẳng thể lý giải theo cách thông thường; vậy nên thêm một sự thật không thể giải đáp, với anh, cũng chẳng phải là điều gì không thể chấp nhận.”

Tôi cười đau khổ: “Ban đầu tôi định đi tìm điểm đột phá từ chỗ chị, còn hiện giờ… chị thử nghĩ lại xem, hồi đó còn điều gì khiến chị thấy lạ không?”

“Chuyện lạ à?” Nhạc Văn Anh cười cười, “Con người nhưng lại sinh ra một thứ như vậy mà vẫn chưa được xem là kì lạ sao?”

Tuy vừa cười vừa thốt ra những lời này, song vẻ mặt của Nhạc Văn Anh lại khiến tôi cảm thấy: đến tận giờ, cô ấy vẫn thấy khiếp sợ khi nhớ lại hoàn cảnh hôm đó.

“Nhưng giờ nghĩ lại thì đúng là cũng còn một vài điều khác thường nữa. Vì những người có mặt trong phòng sinh lúc đó đều sững sờ như hóa đá, nên hẳn sẽ có một vài chi tiết nhỏ bị bỏ qua.”

“Ồ, là những chi tiết gì?” Tôi bất giác thẳng người lên.

“Là nhau thai.”

“Nhau thai?”

“Chính là lớp màng được tạo ra trước khi bào thai hình thành, nhằm bảo vệ thai nhi, nó tựa như vỏ trứng, nhưng mềm hơn. Thường thì sau khi trẻ chào đời, và nhau thai bị đẩy ra ngoài, tính mạng sản phụ mới được coi là an toàn. Đã có loại thuốc gọi là bột nhau thai, vì nó được làm từ nhau thai, rất bổ.”

Rất bổ… Tên thuốc này nghe ghê ghê.

“So với nhau thai của những đứa trẻ khỏe mạnh bình thường, nhau thai của đứa trẻ giấy lại to hơn nhiều.”

Mắt tôi sáng lên, tôi vội nói: “Như trứng có hai lòng đỏ bao giờ cũng to hơn là trứng một lòng đỏ phải không?”

Nhạc Văn Anh gật đầu: “Với đứa trẻ giấy đó mà nói thì quả thật là nhau thai quá to. Còn chuyện nữa, mà tôi luôn nghĩ đó là ảo giác của mình, tôi… cảm thấy bụng Hoàng Chức bé hơn một chút so với khi cô ấy vừa vào viện.”

“Bụng nhỏ lại?” Mắt tôi bất giác giật nhẹ. Thông tin này dự báo trước những điều mờ ám nào…

“Nếu không được nghe những chuyện anh vừa kể, tôi chẳng dám nói lại cho anh biết cảm giác của mình, bởi đó là điều hoàn toàn chẳng thể xảy ra, tôi luôn nghĩ mình đã quá đa nghi, nhưng giờ xem ra, chuyện này thật ma quái, quá ư ma quái.”

Nghe Nhạc Văn Anh nói từ “ma quái” liền hai lần, tôi bất giác run lên.

“Đợi chút. Tôi mới tới bệnh viện phỏng vấn, được biết, người đỡ đẻ thường không tiếp xúc với sản phụ trước khi sinh, phụ trách khâu chăm sóc bệnh nhân sau khi nhập viện là các y tá khác mới đúng. Vậy làm thế nào mà ngay từ khi Hoàng Chức nhập viện chị đã biết bụng cô ấy to chừng nào?”

“Là do mối quan hệ với một người bạn cờ bạc.”

“Bạn cờ bạc? Bạn chơi mạt chược sao?”

“Bạn chơi Poker. Anh chờ chút…” Nhạc Văn Anh vừa nói, vừa lấy từ tủ ra một cuốn sổ tay, lật đến một trang trong đó đưa tôi xem.

“Bức ảnh này được chụp vào khoảng mấy ngày trước khi Hoàng Chức sinh con, trong ảnh là những người bạn thường chơi bài cùng nhau, người tôi nói đến chính là người này.”

Cảnh nền của bức ảnh hẳn là góc nào đó trong bệnh viện, phía trước là sáu cô gái trẻ. Thực ra là năm thì đúng hơn. Người Nhạc Văn Anh chỉ, cứng tuổi hơn, chí ít cũng phải ba mươi. Sáu người đứng thành hai hàng người này đứng ở giữa hàng sau.

Nhìn kĩ hơn, tôi chợt nhận ra, giữa người này với cô gái đứng bên tay trái, hình như còn một người nữa. Nhưng người mới thấy này quá thấp, tựa như một đứa trẻ, chỉ lộ một ít tóc trên đầu, còn gương mặt gần như bị che khuất, không thể nhìn rõ.

Mặt tôi bất ngờ tê cứng, cơn rùng mình ớn lạnh bỗng ùa về.

Đây là ai?

Trong trường hợp thông thường, khi chụp ảnh chung với người lớn, đứa trẻ thường được đứng ở vị trí nổi bật dễ thấy nhất, chứ đâu bị người lớn che khuất để đến nỗi chỉ còn lại một đường ngôi mờ nhạt này.

Huống chi, Nhạc Văn Anh vừa nói rõ, đây là bức ảnh chụp chung các bạn chơi bài của mình. Bạn chơi bài của cô ấy đương nhiên không bao gồm cả đứa trẻ này!

Đó là người nào, hay nói cách khác, là cái gì?

Tôi nhớ đến những bức ảnh hồn ma được lưu truyền trên mạng, hồn ma trẻ em vô cớ xuất hiện sau con người…

“Đây, đây là gì?” Tôi hỏi Nhạc Văn Anh, tôi thấy lưỡi mình như hơi cứng lại.

“À, cái này à?” Nhạc Văn Anh nhìn vào chỗ tay tôi chỉ, rồi nhìn sang mặt tôi, cuối cùng mủm mỉm cười.

“Đây là một bé gái, tên gì thì tôi quên mất rồi, con bé chính là con gái của sản phụ này.”

“Con gái Hoàng Chức? Chu Tiêm Tiêm sao?”

“Chu Tiêm Tiêm? Hình như đúng là cái tên này. Đây chính là lý do vì sao tôi chú ý đến Hoàng Chức, người bạn chơi bài này của tôi tên Tiết Dĩnh, là một y tá và là người đang chăm sóc sản phụ khác nằm cùng phòng bệnh với Hoàng Chức lần đó. Con bé Chu Tiêm Tiêm rất cô độc quái gở, không chịu nói chuyện với người lớn, thế mà nó lại rất hòa hợp, rất thân thiết với người bạn này của tôi. Nên lúc chụp ảnh, cô ấy mới kéo con bé vào chụp cùng, nhưng nó khăng khăng không chịu đứng lên hàng trên, mà một mực trốn ra phía sau nên thành ra vậy.”

Tôi thở phào nhẹ nhõm, hóa ra là vậy, làm mình thót hết cả tim.

“Sự hòa hợp và thân thiết giữa cô y tá là bạn chơi bài với Chu Tiêm Tiêm, đã khiến chị để ý đến mẹ con bé?”

“Vâng, đúng vậy. Dù con bé rất ít nói, thường chỉ nép mình vào góc phòng, nhưng không biết sao lại khiến người ta chẳng thể nào tảng lờ nó. Hơn nữa cũng rất ít sản phụ dẫn con gái vào bệnh viện cùng mình. À, đúng rồi…”

Nhạc Văn Anh nhớ ra điều gì, đoạn tiếp: “Nếu nhắc đến chuyện kì lạ thì sau đó không lâu, Tiết Dĩnh đã xin nghỉ việc một cách đầy bất ngờ, ngay điện thoại cũng đổi số mới, giờ chẳng thể tìm được cô ấy nữa. Trước đây cô ấy rất gần gũi với con bé, tôi thấy nó còn thân với cô ấy hơn là với mẹ mình. Nên đó cũng có thể là chuyện kì lạ liên quan đến Hoàng Chức.”

“Sau đó không lâu? Không lâu là bao lâu?”

“Khoảng độ hai ba tuần. Không cả một lời chào tạm biệt dành cho đám chị em – có thể xem là thân thiết như chúng tôi, cô ấy chỉ nói xin nghỉ là nghỉ luôn.”

Ngẫm nghĩ một lát, tôi nói: “Tôi muốn chụp lại những bức ảnh này, chị không thấy phiền chứ?”

“Không vấn đề, nếu muốn anh cứ chụp.”

Tôi lấy máy ảnh kĩ thuật số luôn mang theo bên mình ra, cố chụp lại bức ảnh này ở mức nét nhất.

Sao người phụ nữ này lại đột nhiên xin nghỉ việc? Nếu thật sự yêu mến Chu Tiêm Tiêm, liệu cô ta còn giữ liên lạc sau khi Hoàng Chức xuất viện không? Móc nối với chuyện tôi nghe từ thôn Đại Đường rằng, trước khi Chu Tiêm Tiêm mất tích, họ thường thấy một người lạ ngoài thôn ở cùng con bé, liệu đó có phải là người này?

Sau khi từ chỗ Nhạc Văn Anh ra về, tôi đã có một vài thu hoạch, nhưng nghi vấn còn nhiều hơn.

Bụng nhỏ lại ư?

Nhau thai quá lớn ư?

Tôi đang nghiền ngẫm điều ẩn chứa sau những thông tin này, thì điện thoại di động chợt vang lên.

“Alô, tôi là Vương Tuyển Nhân.”

“Ồ, là cảnh sát trưởng Vương.” Tôi ngẩn ra một lúc mới phản ứng kịp, đây là cảnh sát trưởng phụ trách việc điều tra vụ sát hại Hoàng Chức.

“Báo cho anh biết một chuyện, hung thủ đã bị bắt!

Chương 10: Hung thủ

“Tóm được hung thủ sớm vậy à? Hắn là ai, sao lại giết Hoàng Chức?”

Sau khi biết tin đã bắt được hung thủ, tôi vội đến sở cảnh sát, để trực tiếp hỏi han tình hình.

Tôi hỏi với tư cách không chỉ là nhân chứng đầu tiên ở hiện trường, mà hơn thế, còn là một phóng viên. Hôm đó, sau khi gã quỷ Đường viết bài, chủ nhiệm Tông Nhi biết tôi là người phát hiện xác chết đầu tiên, đồng thời có mối liên quan với người qua đời, nên đã lệnh cho tôi phải viết một bài phóng sự dài sau khi vụ án này được làm sáng tỏ. Gã quỷ Đường nghe sếp nói vậy rất không vui, bởi được viết bài phóng sự dài, nghĩa là tôi sẽ nhận được nhiều tiền thưởng hơn. Song chẳng còn cách nào khác, với ưu thế trời ban cho bản thân, nếu tôi chịu khó hơn một chút, thì đến ngay chút tiền trà thuốc cho bài viết đầu tiên của mình, gã quỷ kia cũng chẳng có phần.

Thế mà sau khi nghe tôi nói, cảnh sát trưởng lại cười cười một cách đầy bí hiểm và lắc đầu.

“Cũng chẳng cần vội nói về chuyện hung thủ.”

“Hả, còn chuyện gì quan trọng hơn chuyện này à?” Tôi tò mò hỏi.

Cảnh sát trưởng nhìn xoáy vào tôi, nghiêm mặt lại, song không trả lời mà nhấc ống nghe của chiếc điện thoại đặt trên bàn lên thực hiện một cuộc gọi.

Nơi tôi được tiếp đón là một căn phòng trống. Vừa bước chân vào phòng, tôi đã cảm thấy nó tựa như nơi cảnh sát thẩm vấn nghi phạm, hay chí ít cũng giống căn phòng nhỏ hôm tôi làm bản tường trình.

Chỗ này lạnh đến mức khiến người ta khó mà chịu nổi, tôi đang định lên tiếng hỏi thì cửa đã mở ra, và một cảnh sát trẻ bước vào.

“Làm tường trình cho tốt vào đấy!” Cảnh sát trưởng nói.

“Thế này là sao, anh vẫn còn nghi ngờ tôi?” Tôi tức giận nói.

“Hi vọng anh thành thật trả lời các câu hỏi của tôi.”

“Được, anh muốn hỏi gì nào?”

“Trong bản tường trình lần trước, anh còn bỏ sót điểm nào không?”

“Không, mọi điều liên quan đến vụ án mà tôi biết, tôi khai báo với các anh cả rồi.”

“Thật không?” Cảnh sát trưởng hỏi vặn lại một cách thiếu thiện ý.

“Đúng vậy!” Hai người nhìn nhau chằm chằm, công khai truyền tải suy nghĩ khó chịu của bản thân.

“Vậy thì ngày này của tuần trước anh đã đi đâu?”

Ngày này của tuần trước à?

Cảnh sát trưởng thấy tôi hơi trù trừ, liền nói: “Có cần tôi nhắc cho anh nhớ không, sáng hôm ấy anh không có mặt ở Thượng Hải?”

“Tôi về thôn Đại Đường!” Xem chừng anh ta đã biết chuyện này, chẳng có gì cần phải giấu giếm. Có lẽ ngay sau khi tôi và Hà Tịch đi khỏi thôn Đại Đường, cảnh sát khu vực hoặc cảnh sát Thượng Hải, đã về đó điều tra nên mới biết.

“Anh về đó làm gì?”

“Tìm hiểu một số chuyện!” Tôi thầm nghĩ: biết rồi mà lại còn phải hỏi.

“Sau khi Hoàng Chức chết, anh về thôn Đại Đường mạo nhận là cảnh sát rồi dò hỏi lung tung, vậy mà anh còn dám nói không giấu cảnh sát chúng tôi điều gì ư?”

“Tôi đâu mạo nhận là cảnh sát, người đi cùng tôi là…”

“Là giám định viên pháp y Hà, đúng không? Cô ấy là giám định viên pháp y; giám định viên pháp y và cảnh sát hình sự chịu trách nhiệm điều tra phá án là hai công việc hoàn toàn khác nhau. Còn nữa, hôm kia cô ấy nhờ công an hộ tịch ở khu vực Dương Phố tiền hành điều tra một người từng là y tá đỡ đẻ trong bệnh viện Bà mẹ trẻ em số một trước đây, là vì lý do gì? Vì liên quan đến vụ án này chăng? Mấy ngày hôm nay, pháp y Hà có biểu hiện hứng thú khác thường với thi thể Hoàng Chức, song dựa vào báo cáo giám định cô ấy nộp, thì tôi hoàn toàn chẳng rõ vì sao cô ấy lại háo hức và hứng thú vậy.”

“Sao anh không hỏi thẳng Hà Tịch?”

“Tôi đang hỏi anh!” Cảnh sát trưởng đập bàn, “Còn về phần pháp y Hà, tôi tự khắc sẽ hỏi,” đoạn anh ta tiếp.

Lúc nói câu sau, giọng anh ta có vẻ hơi chùng xuống, có lẽ biết thân phận giám định viên pháp y của Hà Tịch không hề đơn giản, nên anh ta chẳng thể xét hỏi Hà Tịch như đang thẩm vấn tôi hiện giờ. Thậm chí rất có khả năng anh ta bị Hà Tịch từ chối không trả lời, nên mới trút giận vào tôi.

“Thực ra là liên quan đến Hà Chức, nhưng chẳng phải tôi giấu giếm, không chịu nói trong lần tường trình trước, mà bởi vì có một số chuyện sau khi Hoàng Chức qua đời tôi mới biết.”

“Vậy tại sao anh không trực tiếp báo những chuyện này cho cảnh sát, mà lại chọn cách tự điều tra hành động một mình?” Cảnh sát trưởng hùng hổ chất vấn tôi.

“Trước tiên mấy chuyện này tuy liên quan đến Hoàng Chức, song tôi lại không chắc chúng có liên quan đến cái chết của cô ấy hay không. Thứ hai, tôi nghĩ là có nói chăng nữa, anh cũng chưa chắc coi chuyện này là nghiêm túc, mà có khi anh còn bảo tôi có vấn đề về thần kinh cũng nên.”

“Tôi nghĩ và nhận định thế nào là việc của tôi. Vậy giờ, anh cứ nói hết cho tôi nghe xem nào, đừng để tôi phát hiện thấy anh giấu giếm điều gì nữa đấy!”

Tôi nhún vai, bắt đầu từ chuyện xác hai đứa trẻ được tìm thấy trong tủ lạnh bên Hàn Quốc – mà Hà Tịch kể, đến chuyện ghé thăm nhà Nhạc Văn Anh hôm nay, cùng một vài suy nghĩ của bản thân, đều nói ra hết.

Đến nửa chừng, viên cảnh sát trẻ – phụ trách việc ghi chép, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn tôi bằng ánh mắt rất khác lạ. Trong khi đó, vẻ mặt thờ ơ, phớt tỉnh ban đầu của cảnh sát trưởng thì càng lúc càng giống như đang bực dọc hơn, tôi để ý thấy mấy lần anh ta định lên tiếng cắt lời mình.

“Thật hoang đường, chuyện này quá sức hoang đường!” Không đợi tôi nói hết, cảnh sát trưởng đã trừng mắt nhìn tôi bảo: “Anh nghĩ tôi là một thằng ngốc, hay là kẻ hoang tưởng mà đi tin vào những điều anh nói?”

“Tin hay không thì anh vẫn luôn có thể cho xác minh những điều tôi vừa nói, còn về những suy đoán của tôi thì anh cứ coi như tôi là một tên ngông, hoặc anh có thể đưa ra một cách suy đoán hợp lý hơn. Thực tế, tôi cũng chẳng vui thích gì khi đưa ra những kết luận phô trương như vậy.”

Cảnh sát trưởng vẫn lắc đầu, nói: “Tất nhiên tôi sẽ cho xác minh, song tôi không thể không nói, ngài nhà báo, trí tưởng tượng của anh phong phú quá đấy. Anh nghĩ thế giới nơi chúng ta đang sống là kiểu thế giới nào?”

“Thế anh nghĩ thế giới nơi chúng ta đang sống là kiểu thế giới nào?” Tôi lấy chính câu đối phương vừa nói, vặn hỏi lại anh ta.

“Hả?”

“Tôi nghĩ hẳn anh không thể không biết vì lý do gì mà bộ phận cảnh sát đặc biệt trong hệ thống cảnh sát lại được thành lập!”

“Bộ phận cảnh sát đặc biệt?” Cảnh sát trưởng nhíu mày, rồi nhìn tôi một cách đầy hàm ý. Tôi đoán hẳn anh ta mới nhớ ra, tôi đã từng có lần hợp tác với bộ phận cảnh sát đặc biệt. Quả nhiên, thái độ anh ta dần dịu lại, hỏi tôi: “Ban nãy anh nói, hôm nay anh chụp lại một bức ảnh ở nhà Nhạc Văn Anh?”

Tôi ngoan ngoãn lấy máy ảnh kĩ thuật số ra.

Cảnh sát trưởng nhìn bức ảnh trên màn hình tinh thể lỏng của chiếc máy ảnh, mắt nheo lại, quay đầu bảo viên cảnh sát trẻ: “Cậu mang bức ảnh này đi phục chế, in một bức thật rõ, rồi mang bức ảnh đó cùng bức chân dung được vẽ theo lời miêu tả của người dân ở thôn Đại Đường về đây!”

Viên cảnh sát trẻ dạ một tiếng, lập tức đi thi hành mệnh lệnh.

“Người dân thôn Đại Đường đã trông thấy một người lạ từng nhiều lần tiếp xúc với Chu Tiêm Tiêm, con gái Hoàng Chức. Theo lời miêu tả đó, chúng tôi đã cho mời chuyên gia phác thảo lại nhận dạng này!” Cảnh sát trưởng giải thích.

Chẳng lâu sau, viên cảnh sát trẻ đã quay về cùng với hai bức ảnh trên tay.

Cảnh sát trưởng so sánh bức ảnh với bức phác thảo chân dung, gật gật đầu, rồi đưa tôi xem bức phác thảo.

“Xem ra thêm một lần nữa, anh lại cung cấp cho chúng tôi thông tin rất quan trọng. Lúc trước do chút hiểu lầm, nên tôi đã có phần không phải với anh, tôi xin lỗi.”

Tôi luôn miệng nói không có gì, rồi tiếp tục quan sát, so sánh hai bức hình thật kĩ. Một cái là bức ảnh phóng to từ tấm ảnh chụp lại, khuôn mặt Tiết Dĩnh, người đứng hàng sau, được khoanh tròn bằng mực đỏ, trên bức kia là hình ba khuôn mặt đã được phần mềm máy tính phục dựng lại ở các góc khác nhau.

Quả là rất giống, đặc biệt đôi mắt, còn chiếc mũi và khuôn mặt thì gần như là y hệt.

“Fax ngay bức ảnh này cho cảnh sát Côn Sơn, bảo họ đến gặp những người liên quan ở thôn Đại Đường đối chiếu lại, xem có phải là người này không!” Cảnh sát trưởng nói với viên cảnh sát trẻ.

“Chẳng phải lúc đầu anh nói trên điện thoại là bắt được hung thủ rồi, giờ sao vụ này xem ra còn chưa kết thúc?” Tôi hỏi.

“Hung thủ thì đúng là bắt được rồi, hơn nữa, hắn cũng đã nhận tội, nếu muốn cũng có thể kết thúc vụ án này ở đây, nhưng…” Đến đây cảnh sát trưởng chép miệng một cái.

“Song còn chưa rõ động cơ gây án, nghi phạm lúc khai là vì tiền, lúc lại nói là vì sắc, còn căn cứ vào tình hình hiện giờ thì cả hai lý do này đều chẳng đứng vững. Tuy nhiên, hắn đích thị là kẻ ra tay, điều này thì không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng bởi hắn không chịu khai rõ động cơ, nên ta chẳng thể loại trừ khả năng đằng sau đó còn động cơ gây án khác.”

“Liệu tôi có thể gặp hung thủ một lát với tư cách là phóng viên không?”

Phải chăng xuất phát từ tâm lý muốn bù đắp, cảnh sát trưởng đã vui vẻ đáp ứng yêu cầu tôi đưa ra, chỉ đề nghị tôi phải thông báo lại cho phía cảnh sát một tiếng trước khi viết bài đăng báo.

“Chà, tôi chợt nảy ra ý này, anh thấy thế nào…”

Tôi cho anh ta biết ý tưởng bất chợt của mình, cảnh sát trưởng nhìn tôi một cái rồi bảo: “Được, cứ thử xem sao. Tôi thấy anh không đầu quân làm cảnh sát hình sự thì quả là một tổn thất vô cùng đáng tiếc.”

“Ha, bên cục cảnh sát đặc biệt cũng rất muốn mời tôi gia nhập đấy!” Tôi cười bảo.

Nghi phạm bị tóm cổ tên là Lã Vãn Cường, 23 tuổi là một người làm thuê đến từ tỉnh khác.

Tám giờ sáng ngày hôm đó, hắn quanh quẩn gần chỗ nhà trọ một hồi, thỉnh thoảng ngẩng đầu nhìn lên tầng trên, còn mua hai chiếc bánh ở cửa hàng bánh gần đó, ăn hết cái rưỡi, nửa cái còn lại thì vứt ở vệ đường. Những điều này do chính hắn tự thú, và cũng được người làm chứng xác nhận.

Do tối hôm trước mất ngủ, nên sáng hôm đó lúc ra ngồi trông nhà trọ chỗ sảnh vào, bà cô to béo đã ngủ gật. Nhân lúc bà ta ngả người ra quầy ngủ bù, Lã Vãn Cường lẻn vào trong nhà trọ. Hắn lên tầng ba, gõ cửa phòng Hoàng Chức, đánh mạnh vào huyệt thái dương làm cô ấy ngất đi, rồi dùng dây ni lông mang theo trói cô ấy vào ghế, và cuối cùng thít cổ cô đến chết.

Lúc xuống nhà, Lã Vãn Cường chạm trán với một nhân viên phục vụ ở tầng hai. Cú chạm trán này chính là một manh mối quan trọng, giúp cảnh sát sớm truy ra hung thủ.

Sau khi giết người, Lã Vãn Cường chẳng hề chuẩn bị trốn chạy, trái lại hắn đã hành xử như không có gì xảy ra, rong chơi khắp Thượng Hải, tối đến vẫn quay về căn hộ thuê chung với mấy người khác nghỉ ngơi mãi đến khi bị cảnh sát bắt.

Tôi đi nhờ xe cảnh sát trưởng đến trại tạm giam, nơi Lã Vãn Cường bị giam giữ. Cảnh sát trưởng đã bố trí giúp, nên tôi chỉ phải vào phòng gặp mặt chờ một lát.

Tấm kính thủy tinh chống đạn dày, ngăn căn phòng gặp phạm nhân thành hai. Đợi một lát, tôi đã thấy cánh cửa phòng bên phía phạm nhân mở ra, cảnh sát trông coi phạm nhân áp tải một thanh niên tay đeo còng số tám đi vào.

“Cậu là Lã Vãn Cường?” Tôi hỏi.

Đối phương nhìn tôi một cái, chẳng nói gì.

“Đây chính là Lã Vãn Cường!” Cảnh sát áp tải bảo tôi, rồi yêu cầu Lã Vãn Cường ngồi vào chỗ đối diện với tôi.

“Ngoan ngoãn trả lời đấy nhé!” Anh ta bảo hắn rồi quay người đi ra.

Lã Vãn Cường là một thanh niên có khuôn mặt vuông, tóc để kiểu đầu đinh, trên mép lún phún ít lông măng và mặt thì đầy trứng cá. Thành thực mà nói, tên hung thủ tàn nhẫn sát hại Hoàng Chức này vẫn còn là một tên nhãi ranh to đầu.

“Chào cậu, tôi là phóng viên Na Đa ở báo Ngôi sao buổi sớm!” Tôi chào cậu ta như với các nhân vật được phỏng vấn bình thường khác. Thường tôi còn thêm một câu là “Rất vui được gặp cậu”, song lần này tôi đã lược bỏ.

Cậu ta gật đầu, gửi tặng tôi một nụ cười – không lấy gì làm tươi tỉnh, để đáp lễ.

“Cậu đi làm được mấy năm rồi?”

“Năm năm,” Lã Vãn Cường có vẻ hơi bất ngờ, bởi tôi chẳng vồ vập hỏi cậu ta về vụ mưu sát ngay.

“Cậu từng làm công việc gì?”

“Công nhân xây dựng, bảo vệ, vận chuyển máy móc, chuyển phát nhanh.”

“Cậu lấy vợ chưa?”

Cậu ta lắc đầu.

“Muốn kiếm chút tiền về quê cưới vợ hả?”

“Tôi muốn lấy vợ Thượng Hải!” Cậu ta toét miệng cười, khi đó trông cậu ta có phần rất hồn nhiên và ngây thơ.

“Một mong ước khá đấy chứ, thế sao lại đi giết người, thiếu tiền à?”

Vẻ tươi cười trên mặt đối phương vụt tắt, im lặng một hồi, cậu ta cười nói: “Thích thì giết thôi.”

“Vì tiền à?”

“Thích thì giết thôi!” Cậu ta hơi ngoảnh mặt đi, lặp lại câu vừa nói thêm lần nữa.

Tôi nhíu mày, rõ ràng vừa nãy mình đã tạo được bầu không khí thân thiện cho cuộc nói chuyện này mà. Định đợi đối phương thấy thoải mái hơn rồi mới hỏi, ai ngờ vừa nhắc đến việc kia, cậu ta đã vội xù lông nhím như bị chạm nọc.

“Là vì tiền à?”

“Chút chút.”

“Hình như cậu khai với cảnh sát là, do thấy cô ấy đẹp nên…”

“Cũng có một chút. Tôi đã nói thích thì giết mà!” Cậu ta nhướn mày, nhìn tôi theo kiểu thách thức.

“Nhưng cậu không động chạm gì vào người cô ấy, chẳng phải thế sao? Dù là tiền hay tình, cậu cũng đều không động vào.”

“Giết người xong thì hoảng quá, nên tôi bỏ đi.”

“Vậy làm thế nào cậu biết là Hoàng Chức nghỉ trọ ở đó, cậu đã thấy cô ấy trước đấy, đúng không?” Tôi đổi cách vào đề.

“Thấy hôm trước lúc đang đi dạo phố, bởi cô ấy đẹp nên mới để ý.”

“Cậu bám theo cô ấy về đến tận nhà trọ?”

Lã Vãn Cường cười rất lạ: “Tôi thấy một gã đàn ông theo đuổi cô ấy, hơi tò mò nên cũng bám theo.”

Ha! Hóa ra vào ngày hôm đó, trong khi gã gầy tôi thuê bám đuôi Hoàng Chức, thì sau anh ta còn một người khác bám theo.

“Vậy sao không hạ thủ ngay lúc đó?”

“Lúc đó thấy hơi do dự, sang ngày hôm sau mới hạ quyết tâm.”

“Cậu không thành thật!” Tôi nhìn chằm chằm đối phương, “muốn giết thì giết là hành động thôi thúc nhất thời, làm gì có chuyện lúc đó không thấy vậy, về nhà nghĩ một tối rồi hôm sau mới quyết định ra tay.”

Cậu ta không thừa nhận cũng chẳng phủ nhận, cũng chẳng cố tình tránh ánh nhìn của tôi.

Biểu hiện của cậu ta rất kì lạ, ánh nhìn không có vẻ gì là sợ sệt, ngược lại rất bình thản.

“Rất có thể cậu sẽ bị khép vào án tử hình, cậu biết không?”

“Biết!” Lúc thốt ra từ này, cậu ta thậm chí còn cười, chẳng phải kiểu cười điên rồ cuồng loạn, cũng chẳng phải là cử động máy móc của cơ mặt không chút tình cảm gì như lúc vừa gặp tôi ban nãy. Trong nụ cười đó còn ẩn chứa một ẩn ý mà tôi chưa thể hiểu ra.

Lúc này, cậu ta tựa như kẻ tử vì đạo, tràn đầy kiên định và ung dung. Dù vậy, tôi chưa thể lý giải được điểm này, bởi thái độ đó của cậu ta khiến tôi cảm thấy vô cùng kì lạ.

“Đã giết người sao còn chưa bỏ trốn?” Tôi cảm thấy không thoải mái, nên hỏi sang vấn đề sau.

“Tôi biết là chẳng thể chạy thoát, vì cảnh sát phá án rất nhanh.”

“Thế nên cậu mới đi chơi khắp nơi?”

“Đúng! Tranh thủ chút ít thời gian còn lại cuối cùng này.”

Cuộc chuyện trò giữa tôi và Lã Vãn Cường diễn ra trong khoảng tiếng rưỡi đồng hồ. Rõ ràng là rất nhiều lúc cậu ta đã chọn cách nói dối, một vài lúc khác thì chỉ trả lời bằng cách im lặng. Chẳng trách là cảnh sát trưởng không quyết định cho dừng vụ án này ở đây, vì phía sau chuyện này không có ẩn tình mới là lạ.

Buổi phỏng vấn này có thể coi như đã thất bại, trong đáy lòng Lã Vãn Cường vẫn có một số chuyện mà dù khéo léo thế nào, tôi cũng chẳng thể gợi ra.

“Ồ, cám ơn cậu đã bằng lòng tiếp nhận cuộc phỏng vấn này của tôi.”

“Dạ, không có gì!” Cậu ta nói.

“Để đảm bảo độc chính xác về mặt thông tin, cậu hãy đọc qua phần ghi chép của tôi trong buổi phỏng vấn hôm nay, xem còn sai sót chỗ nào hoặc cần sửa gì không!” Tôi vừa nói vừa đẩy cuốn sổ ghi chép vào cho đối phương qua cửa sổ.

“Không cần phải thế này đâu.”

Tôi cười cười, ra dấu tay bảo đối phương cứ tự nhiên.

Cậu ta cầm cuốn sổ ghi chép lên bằng hai bàn tay đang bị còng, chậm rãi đọc. Với cậu ta, việc tôi viết gì thực ra chẳng có mấy ý nghĩa. Song con người thường vẫn luôn hiếu kì, băn khoăn không hiểu một phóng viên sẽ viết gì về mình.

Do tốc kí với tốc độ nhanh nên chữ tôi viết khá to, kín bốn trang rưỡi: Cậu ta lật xem từng trang cho đến trang cuối cùng.

Tôi chăm chú theo dõi biểu hiện trên gương mặt đối phương. Cuối cùng, tôi cũng phát hiện thấy khi lật giở đến trang cuối vẻ mặt cậu ta hơi thay đổi.

Chỉ là một gợn thay đổi, khóe mặt cậu ta giật giật một cái, tựa như tâm thế đang tĩnh lặng như mặt hồ thu, bỗng gợn sóng bởi một hòn đá do ai đó ném vào, rồi lại nhanh chóng trở về trạng thái tĩnh lặng ban đầu.

Động tác gập sổ của cậu ta được thực hiện có phần hơi vội vã, khiến chiếc còng trên tay kêu lên leng keng.

Cậu ta đẩy trả cuốn sổ ghi chép lại cho tôi, qua cửa sổ.

“Có vấn đề gì không?” Tôi hỏi.

“Không, không có vấn đề gì!” Lã Vãn Cường đáp, gần như cậu ta đã bình ổn lại tâm trạng của bản thân, nhưng tôi nhận thấy mí mắt bên trái của cậu ta lại bất ngờ giật giật.

Tôi cười, cuối cùng thì chuyến đi lần này cũng không phí hoài.

Cảnh sát trưởng đứng đợi bên ngoài, thấy tôi ra liền hỏi: “Thế nào, tôi quan sát qua camera theo dõi, nên chẳng rõ nét mặt của hắn.”

Tôi giở cuốn sổ ghi chép ra, phần bên phải của trang đó có dán một bức ảnh nhỏ, chính là bức đặc tả khuôn mặt Tiết Dĩnh.

“Ánh mắt cậu ta không bình thường, có thể khẳng định đối phương nhận ra người này. Song cậu ta làm ra vẻ như không nhìn thấy bức ảnh này, chẳng hỏi gì tôi, mà chỉ vội vàng trả cuốn sổ lại. Tuy nhiên, tôi có thể khẳng định, ít nhất cậu ta cũng đã nhìn bức ảnh này ba giây.”

“Tôi biết tên đó có điều gì mờ ám mà!” Cảnh sát trưởng tuyên bố với đôi chút phấn khích.

“Dù biết là có điều mờ ám, nhưng liệu đối phương có thành thật cung khai hay không thì lại là chuyện rất khó nói!” Tôi nhớ lại ánh mắt của cậu ta, nói.

Cảnh sát trưởng xoa xoa chiếc cằm lởm chởm râu của mình, gật đầu nói: “Tên oắt này chẳng phải là tay dễ đối phó.”

❮ sau
tiếp ❯

Avatar

Các bạn đăng ký thành viên hội nhé…!
→Free vip→Đọc và nghe audio truyện/ 0 quảng cáo→Yêu cầu truyện / Ưu Tiên♥Ngoài ra AudioSite là Website do hội Mê Đọc Truyện thành lập – chính vì vậy Đọc Truyện trên website giảm 90% xuất hiện quảng cáo nhé !