[Dịch] Sáp Huyết
Tập 1: Liều Mạng – Địch Thanh (c1-c10)
❮tiếp ❯Chương 1 : Liều Mạng
Thời kỳ Bắc Tống, sóng gió nổi lên chốn biên cương, giang sơn Đại Tống bấp bênh dưới đồ đao vó ngựa.
Mùa hoa mẫu đơn nở, hắn tình cờ gặp được người con gái thùy mị yêu kiều. Mối tình đầu ngây ngô trong sáng ấy khơi dậy một tràng chuyển biến kinh tâm động phách. Lăng mộ đế vương, lời tiên tri, bóng dáng hoàng cung, quyền thế, nhu tình…
Xuyên suốt trong những khúc mắc ái tình, có một vùng Hương Ba Lạp băng sơn thần bí mờ ảo.
Thời khắc Ngũ Long xuất thế, Thổ Phiên, Đại Hạ… Thậm chí Khiết Đan, Đại Lý lần lượt bị cuốn vào trong những cuộc đấu trí quyết liệt, minh tranh ám đấu, mưu sâu kế hiểm, chỉ vì tìm kiếm bí mật của Ngũ Long, phá giải giấc mộng Hương Ba Lạp.
Nhưng dù rong ruổi trên lưng ngựa ngàn dặm, cũng chẳng tìm thấy được manh mối gì. Hương Ba Lạp, rốt cuộc là thực hay ảo?
Tiên cảnh hay địa ngục? Bi huyết hay hào hùng!
Bát Bộ Thiên Long, Tàng Bắc Mật Tông, lập đô từ trong làn mưa tên ngũ sắc! Chỉ có vung đao lên mới có thể cùng tranh phong!
Hắn, mang trên lưng thâm tình của nghĩa huynh, lòng mang chí lớn bình định thiên hạ, uống máu ăn thề cùng đế vương, và lại mang tình yêu hồn nhiên chân thành, cùng một lời thề sinh tử. Thời khắc ác chiến trên sa trường, cũng không thể nào tránh khỏi bị cuốn vào cuộc tranh chấp đi tìm Ngũ Long…
Tiết trời cuối xuân, oanh đến yến đi, qua lại không ngớt như đưa thoi. Gió mát hây hẩy, cuốn bay những cánh hoa mềm mại bé nhỏ, hòa vào trong trời đất.
Lúc này chợt có vài tiếng chiêng “Thang thang” truyền đến, phá vỡ không gian tĩnh lặng, làm kinh sợ những chú chim nhỏ đang đậu trong tán cây. Những cánh hoa như giật mình tỉnh khỏi giấc mộng, ào ạt rơi vào trong dòng suối, men theo dòng nước mà trôi đi.
Bên cạnh dòng suối có vài cây hòe to lớn, dưới tán cây bày một cái bàn gỗ, trước bàn có mấy người đang đứng, bận trang phục của cấm quân kinh thành, phía bên trái khuôn mặt có xăm hai chữ “Kiêu Vũ”. Mấy người này mặc dù đang đánh chiêng, nhưng vẻ mặt lại có chút hờ hững.
Đằng trước những người này cắm hai ngọn cờ lớn, một bên mặt lá cờ có thêu hai chữ “chiêu mộ”, bên còn lại thêu hai chữ “nghĩa dũng”, thì ra những người này đang tuyển chọn cấm quân.
Bên cạnh cây cờ lớn có đặt hai người gỗ, dễ thấy là các binh sĩ được tuyển chọn phải có vóc người tương đương với chúng.
Sau bàn có một người đang tựa bàn ngủ say sưa, nghe được tiếng chiêng, đứng dậy ngáp một cái, lười biếng duỗi người. Lúc nãy hắn dựa vào bàn mà ngủ nên không nhìn ra gì cả, nhưng khi hắn vừa vươn vai, mới phát hiện người này thân cao vai rộng, râu quai nón đầy mặt, quả thật rất uy vũ. Người này nhìn vào bản danh sách đang đặt trên bàn, cau mày, nói: “Tại sao lại chỉ có chừng này người? Các huynh đệ, cố gắng thêm chút nữa, tuyển thêm mười người nữa là có thể về.”
Một người gầy gò đáp: “Chỉ huy sứ, những người dân ở đây hình như cũng không muốn đến, chiêu thêm mười người nữa, nói thì dễ, nhưng làm thì cũng khó đấy.”
Người râu quai nón ngáp một cái liền nói: “Làm hết sức đi chứ.”
Một tên hói đầu hỏi: “Quách đại nhân, vì sao không đi đến sương quân(1) mà chọn lựa, lại muốn chọn lựa từ trong dân chúng chứ?”
(1) sương quân là lực lượng quân sự canh giữ và bảo vệ vòng ngoài, là binh lính phục dịch, phục vụ chiến đấu trong quân đội nhà Tống được tổ chức theo quy chế của phép “Ngụ binh ư nông”. Nói dễ hiểu hơn, sương quân giống như dân quân tự vệ bây giờ.
Người râu quai nón đáp: “Lão tử ban đầu cũng muốn tuyển chọn những người từ trong sương quân để bổ sung vào Kiêu Vũ quân, đào tạo cẩn thận, không cho đám tạp chủng kia khinh thường. Nhưng tên Tri châu này rất keo kiệt, sương quân đưa tới cho ta đều là những tên phế thải, vừa gian trá vừa lười biếng, đã tham lam lại còn xảo quyệt, không bằng ta tự mình tuyển chọn.”
Người gầy đột nhiên ánh mắt sáng ngời, gấp gáp nói: “Có người đến kìa.”
Người râu quai nón nọ ngẩng đầu nhìn lại, thấy đầu dòng suối nhỏ xuất hiện một người, vui vẻ nói: “Xem ra trời không phụ lòng người, mau đưa hắn đến đây. Tên tiểu tử này không tệ, đúng là rất có tư chất.”
Người kia đang lội qua suối, vốn muốn vòng qua bên cạnh những người này mà đi, không ngờ vừa đặt chân lên bờ bên kia, đã thấy mấy cấm quân như lang như hổ xông tới, hoảng sợ vội vàng nói: “Các vị quan đại ca, tại hạ không có phạm tội.” Người này vóc dáng cao gầy, mang theo chút tuấn lãng tuổi trẻ, lúc mỉm cười, như gió xuân ấm áp.
Mấy người cấm quân tóm được người mới đến, cười nói: “Có ai nói ngươi là thổ phỉ đạo tặc gì đâu. Tiểu huynh đệ, tòng quân hả?”
Người nọ nghe được hai chữ “tòng quân” lại càng hoảng sợ, nghiêng người liếc mắt ngó lá cờ chiêu mộ cách đó không xa, sắc mặt lại càng biến đổi. Người râu quai nón đứng dậy, vỗ cái vai người kia, lớn giọng nói: “Tiểu tử, ta thấy ngươi xương cốt cứng cáp, trong vạn người khó tìm được một, nếu tham gia quân ngũ sẽ là một nhân tài. Ta rất hài lòng về ngươi, như vậy đi, đáng lẽ người khác tới tham gia quân ngũ, đều phải trải qua tầng tầng tuyển chọn, ta chiếu cố ngươi, ngươi sẽ không cần phải thi kiểm tra, chỉ cần về nhà thu dọn hành lý, ta sẽ mang ngươi vào kinh. Sau này nổi tiếng, ăn uống no say, vinh hoa phú quý hưởng thụ bất tận. Người muốn gia nhập cấm quân, đáng lẽ nhất định phải từ trong sương quân chọn lựa ra, ngươi có thể từ bách tính tầm thường tiến thẳng vào cấm vệ quân, thật đúng là tổ tiên mười tám đời của ngươi hiển linh. Ơ … Con mắt ngươi sao vậy?”
Người râu quai nón nhìn người cao gầy kia từ xa, so với người gỗ tham chiếu kia còn cao hơn vài phần, trong lòng đã thấy mừng, có thể thấy người kia tướng mạo không tệ, nhưng hai mắt hơi bị lé, con ngươi người kia hướng về mũi, giống như một bức tranh sơn thủy tráng lệ bị vẽ lên phân trâu, khó tránh tỳ vết..
Người kia ho khan liên tục, thầm nghĩ đây đâu phải chiêu binh, thật sự giống thổ phỉ ép người ta nhập bọn mà không cho phép từ chối, sao ta lại xui xẻo như vậy, rơi vào tay của những kẻ này?
“Vị quân gia này, tại hạ thân thể gầy yếu, còn có bệnh trong người, chỉ sợ phải uổng phí ý tốt của người rồi.”
“Ốm yếu thì sao nào, ăn nhiều một chút sẽ mập lên thôi. Còn bệnh chỉ là chuyện nhỏ, uống thuốc thì sẽ khỏe ngay. Người đâu, mau mau ghi tên của hắn vào trong danh sách đăng ký.” Người râu quai nón thì bụng đói ăn quàng.
Người hói đầu hỏi: “Họ tên?”
Người kia thuận miệng đáp: “Địch Thanh.”
Người hói đầu gật đầu nói: “Tên rất hay. Quê quán? À, cái này không cần hỏi, nơi này là Phần Châu – huyện Tây Hà, ngươi chắc chắn đúng là người ở đây.” Hắn vung đại bút lên, nét bút như rắn lượn. Địch Thanh lúc này mới tỉnh ngộ, cuống quít chụp lấy bút của người hói đầu, kêu lớn: “Quan đại ca, ngươi lầm rồi, ta không có tòng quân.”
Người râu quai nón sắc mặt trầm xuống, uy hiếp nói: “Danh sách đã điền tên của ngươi, giấy trắng mực đen, còn có thể sửa đổi phải không? Ngươi coi thường Quách mỗ sao?”
Địch Thanh đôi mắt trợn trắng, vội hỏi: “Quan gia, tại hạ nào dám chứ? Chỉ là tại hạ còn có phụ mẫu tám mươi tuổi cần phụng dưỡng… Đâu thể nào dễ dàng rời khỏi quê nhà?”
Người râu quai nón quan sát Địch Thanh từ trên xuống dưới rồi hỏi: “Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”
Địch Thanh nói: “Không dám, chưa tới hai mươi.”
Người râu quai nón cười lạnh nói: “Ngươi chưa tới hai mươi, phụ mẫu ngươi tám mươi, bọn họ sáu mươi tuổi mới sinh ra ngươi, đúng là gừng càng già càng cay đó.”
Địch Thanh không ngờ người râu quai nón nhìn bề ngoài thô lỗ, nhưng lại thận trọng như thế, vội vàng giải thích: “Thật không dám dấu diếm, gia phụ lúc ở sáu mươi tuổi sinh ra ta, nhưng mẫu thân chỉ là tiểu thiếp, khi sinh ta, còn chưa đến bốn mươi tuổi.”
Người râu quai nón nói: “Điều này cũng không sao, chờ khi ngươi công thành danh toại, đón phụ mẫu lên kinh thành chẳng phải sẽ rất tốt hay sao?”
Thu lấy danh sách, đem nhét vào trong ngực, hắn tiếp tục nói: “Con mắt ngươi mặc dù không tốt lắm, nhưng nói không chừng sẽ rất có thiên phú về xạ tiễn…”
Địch Thanh á khẩu không trả lời được, không hiểu đây là đạo lý gì. Hắn thực ra không phải bị lé mắt, chẳng qua khi nhìn thấy hai chữ chiêu binh, ngay lập tức giả vờ mắt có tật, chỉ mong rằng bọn họ cảm thấy hắn bị tàn tật mà tha cho hắn, đâu có nghĩ đến khéo quá hóa vụng, rốt cuộc lại trở thành điều kiện được trời ưu ái để mà nhập ngũ.
Người râu quai nón lại nói: “Tên của ngươi đã được ghi lại, ngươi mau về nhà thu dọn đi, tối nay đến đây báo tin, nếu không tới, ta sẽ bảo Tây Hà huyện lệnh tịch biên cả nhà ngươi, ngay cả anh chị em họ hàng thân sơ của ngươi cũng bị bắt đi tòng quân bằng hết, ta nghĩ rằng ngươi không đến nỗi muốn uống rượu phạt thay vì rượu mời đó chứ?”
Địch Thanh khẩn trương, đưa tay chộp lấy tờ danh sách kia. Người râu quai nón hừ lạnh nói: “Tiểu tử khá lắm.” Lời hắn còn chưa dứt, đã nắm lấy cổ tay Địch Thanh.
Địch Thanh hét lớn một tiếng, xoay tròn cổ tay giãy dụa thoát ra. Người râu quai nón vốn là dũng quan trong quân đội, lại không ngờ cổ tay Địch Thanh lại mạnh mẽ đến thế, cuối cùng thoát khỏi lòng bàn tay của hắn, người râu quai nón thét lớn một tiếng, vung quyền đánh tới. Địch Thanh né tránh không kịp, mắt thấy nắm đấm to như cái bát gần tới mặt, bất ngờ hắn cả người lộn mèo, tránh được một quyền. Người râu quai nón thấy thế mừng rỡ, vỗ tay cười nói: “Ta đã nói tiểu tử ngươi không tệ, có thể tránh thoát một quyền của bản chỉ huy, thật sự rất giỏi!”
Lời hắn nói còn chưa dứt, xung quanh Địch Thanh đã có tám người vây quanh, trường đao đều xuất ra khỏi vỏ, đứng sừng sững, người gầy quát lớn: “Đồ ngông cuồng to gan, dám vô lễ với Quách đại nhân! Không muốn sống nữa phải không?”
Địch Thanh giật bắn cả người, không dám xuất thủ lung tung nữa, ánh mắt hơi chuyển, quỳ xuống thi lễ nói: “Quan gia, tiểu nhân thật sự không muốn tòng quân, cũng không phải tất cả nguyên do đều là phụ mẫu, thật ra còn có nỗi khổ trong lòng.”
Quách đại nhân nhấc bình rượu trên bàn, “ừng ực” uống hai ngụm, nghiêng người liếc mắt nhìn Địch Thanh nói: “Nói cho ta nghe, cho dù chuyện lớn bằng trời, bản chỉ huy cũng cỏ thể gánh vác cho ngươi.”
Địch Thanh âm thầm kêu khổ, tự nhiên lại đụng vị thanh thiên đại lão gia này, không ngờ ép hắn tòng quân. Trên thực tế không chỉ có hắn, bách tính thông thường thà rằng lưu lạc chịu khổ, cũng không muốn tham gia quân đội.
Vốn dĩ quân nhân Đại Tống đã thay đổi quy chế quân đội cũ của nhà Tùy Đường, áp dụng phương pháp chiêu binh mà đối tượng chiêu binh đa phần là lưu dân và dân đói. Tham gia quân ngũ tuy rằng đúng là cơm áo không cần phải lo, nhưng không phải vinh hoa phú quý gì, còn bị xăm chữ. Xăm chữ này là một thói xấu thịnh hành thời Ngũ Đại, bị Đại Tống thừa kế lại, mục đích chính là vì phòng ngừa binh sĩ đào vong, do đó trên mặt binh sĩ đều bị xăm chữ, không chỉ binh sĩ, ngay cả tội phạm và nô tỳ cũng bị như thế, chỉ cần một ngày tham gia quân ngũ là bị xăm chữ, cả đời sẽ bị mọi người coi thường.
Địch Thanh không muốn nhập ngũ, chỉ vì hắn có việc gấp, do đó phải men theo đường tắt mà đi qua nơi này, không ngờ lại bị mấy vị đại nhân này tóm gọn.
Vừa nãy, Địch Thanh đã tìm bốn cái lý do để thôi tòng quân, mắt lé, thể nhược, nhiều bệnh, phụ mẫu lớn tuổi, mà chẳng cái nào dùng được.
Địch Thanh sốt ruột đến nỗi trán đổ đẩy mồ hôi nóng, thầm nghĩ bản thân mình nếu nói bị bệnh nan y, chỉ sợ tên đại hồ tử này muốn mình chết trong kinh thành xong đem xăm chữ rồi mới tin, cắn răng một cái, mắt lé chớp chớp, hai hàng lệ nóng chảy xuống, nói rằng: “Quan gia, thật sự không dám dấu diếm, tại hạ không chịu rời khỏi quê hương, chỉ vì tại Tây Hà còn có một người con gái mình yêu thương. Nàng tên là Tiểu Thanh, vốn là con gái của Trương thợ rèn chủ nhân của lò rèn phía tây huyện, tại hạ và nàng thuở nhỏ thanh mai trúc mã, tình yêu trong sáng… Nhưng Trương thợ rèn rất hám lợi, ưa tiền tài, khi nào tiểu nhân có thể đưa năm lượng bạc tiền sính lễ mới bằng lòng gả con gái. Quan gia, người cũng biết, người trẻ tuổi giống như tiểu nhân đây, kiếm tiền không phải là chuyện dễ dàng. Tiểu nhân một lòng cố gắng, đi sớm về tối nuôi hai con dê, không đợi dê xuất chuồng, hôm nay chạy ra chợ bán được ba lượng bạc. Người xem…” Địch Thanh đưa tay chìa ra ba lượng bạc, sau đó nói tiếp: “Đây là tiền tiểu nhân bán dê mà có được.”
Quách đại nhân ngạc nhiên hỏi: “Việc này có liên quan gì tới việc ngươi không muốn tòng quân?”
Địch Thanh vội nói: “Tiểu nhân đã tích góp được hai lượng bạc, cộng thêm ba lượng này, vừa đủ cưới vợ. Nhưng Trương thợ rèn từ trước đến nay xem thường hạng người chơi bời lêu lổng, nếu biết tiểu nhân tòng quân, như thế sẽ không bằng hạng người chơi bời lêu lổng nữa, sao có thể đồng ý gả con gái cho? Quan gia, xin người hãy xem ta và Tiểu Thanh tình cảm sâu đậm, đừng ép ta tòng quân, đừng cưỡng ép tách rời đôi uyên ương, có được không?”
Địch Thanh dũng cảm nói ra những lời này, vốn tưởng rằng Quách đại nhân sẽ nói hắn nhục mạ cấm quân, không ngờ Quách đại nhân lại thở dài nói: “Ài, trên đời này chuyện gì cũng đều có thể ép buộc, chỉ có chữ “Tình” này là ép không được. Lần này… Quách mỗ cũng không giúp được ngươi.”
Địch Thanh mừng rỡ nói: “Quách đại nhân, người chỉ cần đừng bắt tiểu nhân tòng quân, đó chính là việc lớn nhất người giúp tiểu nhân.”
Quách đại nhân vẻ mặt thất vọng, liếc mắt nhìn Địch Thanh, lẩm bẩm nói: “Thực sự là rất giống. Nhưng trên đời này, người giống nhau chẳng phải rất nhiều sao?
Địch Thanh không biết Quách đại nhân có ý gì, chỉ thấy Quách đại nhân móc từ trong ngực áo ra một thỏi bạc vụn ném tới. Địch Thanh nhanh tay bắt lấy thỏi bạc, hắn chỉ nghĩ đây là tiền bán thân của mình, gấp đến độ mồ hôi chảy ròng ròng. Không ngờ Quách đại nhân nói: “Quách mỗ và ngươi vừa gặp đã hợp nhau, cảm thấy ngươi là người có bản lĩnh, nếu chăm chỉ tập luyện, ở trong quân dù sao vẫn tốt hơn ở nông thôn. Nhưng mà ngươi đã có nỗi khổ trong lòng, ta cũng không miễn cưỡng nữa, một chút bạc vụn này, coi như ta chúc mừng ngươi sớm cưới được người vợ tốt.”
Địch Thanh chớp mắt mấy cái, lần đầu tiên đối với Quách đại nhân này có chút hảo cảm, chân thành thi lễ nói: “Đại ân đại đức của Quách đại nhân, Địch Thanh suốt đời không quên. Tại hạ còn muốn đi đến lò rèn, xin được đi trước.” Hắn thi lễ lần nữa vội vội vàng vàng chạy đi.
Quách đại nhân cũng không ngăn cản, xoay người ngồi xuống sau bàn, nâng bình rượu lên dốc một hơi, sau đó thở dài, lại nói: “Sao lại giống như vậy? Chẳng lẽ là…” Lời nói còn chưa xong, có viên huyện úy vội vàng chạy tới, bẩm báo: “Triệu huyện lệnh biết Quách đại nhân chiêu binh vất vả, đặc biệt bày một tiệc rượu thịnh soạn ở huyện nha, mong đại nhân nể mặt mà đến.”
Quách đại nhân xóa bỏ nghi hoặc ra khỏi đầu, cười ha ha, nói: “Cũng tốt, chúng ta đi thôi.”
Địch Thanh bước nhanh đi vội, chờ cho đến khi cảm thấy đội kỵ mã của Quách đại nhân đuổi không kịp, lúc này mới ổn định lại bước chân, ước lượng khối bạc vụn trong lòng bàn tay, lẩm bẩm: “Quách đại nhân này thật không tồi, nhưng mẫu thân nói rằng ‘Nam nhi chẳng việc gì phải đi lính, đi lính chính là lầm lỡ suốt đời’, xem ra đành phụ lòng tốt của y rồi, mà Địch Thanh ta có tài cán gì, lại được Quách đại nhân coi trọng như vậy? Chẳng lẽ là con rùa nhìn đậu xanh(*), lác cả mắt cũng không được?” Nghĩ tới đây, hắn vội vàng lắc đầu, thầm nghĩ Quách đại nhân đúng là một hán tử, bản thân mình cũng không phải đậu xanh…
Đang suy nghĩ miên man, xa xa có người kêu lớn: “Địch Thanh, ngươi sao giờ mới về, xảy … xảy ra chuyện lớn rồi!” Ở phía xa có một thanh niên trẻ tuổi chạy tới, thở hồng hộc, đầu đầy mồ hôi.
Địch Thanh nhận ra người này là Ngưu Tráng, là bằng hữu lúc nhỏ thường hay chơi đùa cùng mình. Thấy vẻ mặt Ngưu Tráng hoảng hốt, khóe mắt bầm tím, giống như vừa bị người ta đánh một trận, Địch Thanh trong lòng trầm xuống: “Xảy ra chuyện gì? Đại ca của ta đâu?”
Ngưu Tráng vội la lên: “Chính là đại ca ngươi đã xảy ra chuyện.”
Địch Thanh gấp gáp bắt lấy cổ tay hắn, hét lớn: “Nói mau, rốt cuộc xảy ra chuyện gì?”
Địch Thanh nói với Quách đại nhân, thực ra là nửa thật nửa giả. Tiểu Thanh và Trương thợ rèn đều là người thật, Trương thợ rèn cũng đúng là có ra giá năm lượng bạc, nhưng mà người muốn kết hôn với Tiểu Thanh không phải là Địch Thanh mà là đại ca Địch Vân. Địch Thanh hôm nay dậy sớm ra chợ bán dê, kiếm được tiền, lòng tràn đầy vui mừng chạy nhanh về nhà, thầm nghĩ mình đã giúp được đại ca cưới Tiểu Thanh về nhà, đâu có nghĩ đến lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn?
Ngưu Tráng nói: “Triệu Vũ Đức nói muốn cưới Tiểu Thanh về làm tiểu thiếp thứ bảy, vứt cho Trương thợ rèn mười hai lượng bạc. Đại ca ngươi và ta đang cùng Trương thợ rèn làm mối, thấy thế đương nhiên không đồng ý, ta ra ngăn cản, bị bọn họ đánh một trận, đại ca ngươi cũng ngăn, kết quả…” Trên mặt hắn lộ ra vẻ sầu thảm.
Địch Thanh vội hỏi: “Đại ca của ta rốt cuộc bị làm sao?” Hắn biết Triệu Vũ Đức chính là con trai độc nhất của Triệu huyện lệnh, ở Tây Hà xưng bá một phương, đại ca và hắn trở mặt thì làm sao mà tốt lành cho được?
“Đại ca ngươi y… bị chặt chân rồi.” Ngưu Tráng rơi lệ nói.
Trán Địch Thanh nổi hết gân xanh, siết chặt nắm tay nói: “Là Triệu Vũ Đức đã ra tay?”
Ngưu Tráng oán hận nói: “Mặc dù không phải hắn tự mình ra tay, nhưng cũng không phải sai lắm. Ngươi cũng biết, Triệu Vũ Đức có một đám tay sai giúp đỡ, ở trong huyện xưa nay không có chuyện ác gì không dám làm, lúc đó Triệu Vũ Đức rêu rao, nói cha hắn là huyện lệnh, đánh chết người cũng không sao.”
Địch Thanh không muốn nhiều lời, sải bước chạy về nhà, Ngưu Tráng cuống quýt đuổi theo, nhưng sớm đã bị Địch Thanh bỏ lại phía sau. Địch Thanh về đến nhà, nhìn thấy đại ca Địch Vân sắc mặt tái nhợt, trên chân vết máu loang lổ, nằm trên giường hôn mê bất tỉnh. Có một đại phu đang uốn nắn xương đùi, thấy Địch Thanh đến, lắc đầu, nhỏ giọng nói: “E rằng không ổn, sau này què rồi.”
Địch Thanh cả người hơi run, móc ra một chút bạc vụn đưa cho đại phu, sau khi đại phu rời đi, hắn vung quyền đánh mạnh vào cái bàn ở đình viện.
Cái bàn này vốn cực kỳ rắn chắc, vậy mà không chịu nổi lực đánh mạnh của hắn, “Oanh” một tiếng vỡ tan tành.
Trong lòng Địch Thanh vô cùng oán hận. Cha mẹ hắn mất sớm, đại ca Địch Vân vốn là chàng trai thôn quê hiền lành chất phác, một tay nuôi nấng Địch Thanh, có thể nói là giống như cha mẹ, Địch Thanh đối với đại ca cực kỳ kính trọng. Triệu Vũ Đức cắt đứt chân Địch Vân, so với việc cắt đứt chân của Địch Thanh còn khiến hắn căm hận hơn.
Địch Vân nghe được động tĩnh bên ngoài sân, tỉnh lại, yếu ớt nói: “Đệ đệ… đệ đã trở về?”
Địch Thanh bước nhanh đi vào trong phòng, “Đại ca, đệ về trễ. Huynh trước tiên phải nghỉ ngơi đi đã… Đệ phải đi tìm tên Triệu Vũ Đức kia.” Nói xong, hắn xoay người muốn đi, Địch Vân vội vàng gọi: “Đệ đệ, đệ không được đi!”
Địch Thanh dừng bước, chậm rãi xoay người lại, cố chấp cười lớn nói: “Đệ phải đi tìm bọn họ nói lí lẽ.”
Địch Vân nói: “Đệ đệ, ta biết đệ muốn tìm công bằng cho huynh, nhưng bọn họ người đông thế mạnh, đệ không làm gì được bọn họ đâu. Ta đã như vậy, đệ nếu có chuyện gì, ta làm sao xứng đáng với cha mẹ ở dưới suối vàng đây?” Nước mắt theo hai má chảy xuống, Địch Vân bi ai nói: “Đệ đệ, chuyện này chúng ta nhịn đi.”
Địch Thanh rất lâu mới nói: “Được.”
Trong lòng Địch Vân ít nhiều cũng cảm thấy dễ chịu hơn, hắn mặc dù bất hạnh, nhưng dù sao cũng không muốn đệ đệ xảy ra chuyện: “Đệ nói chuyện cùng ta một lát.” Hắn chỉ sợ Địch Thanh một lúc nữa lại muốn đi tìm Triệu Vũ Đức, mượn cớ ngăn chặn Địch Thanh.
Lúc này Ngưu Tráng vừa chạy tới, nhìn thấy nơi đây trời yên biển lặng, lấy làm khó hiểu. Ngưu Tráng hiểu rất rõ Địch Thanh, dĩ nhiên biết Địch Thanh tuyệt đối sẽ không chịu để yên.
Địch Thanh nói: “Đại ca, đệ đi nói với Ngưu Tráng mấy câu, huynh nghỉ ngơi một chút, đệ sẽ trở về ngay.” Hắn mang Ngưu Tráng ra bên ngoài sân, nói nhỏ với Ngưu Tráng vài câu, lại móc ra ba lượng bạc đưa cho Ngưu Tráng, sau đó mới quay lại phòng.
Địch Vân không nhìn thấy Địch Thanh đưa bạc cho Ngưu Tráng, thấy đệ đệ rất nghe lời mình, khóe miệng rốt cục nở nụ cười, nói: “Đệ đệ, đệ còn nhớ trước lúc mẹ mất đã nói gì không?”
Địch Thanh nói: “Mẹ nói huynh đệ chúng ta phải sống nương tựa lẫn nhau, dặn đệ phải nghe lời đại ca.”
Địch Vân buồn bã cười nói: “Đúng vậy, đệ đệ, đệ mặc dù tính tình không hẳn là tốt lắm, nhưng vẫn còn nghe lời ta nói. Mẹ trước khi đi có nói với huynh, mẹ không yên tâm nhất chính là đệ. Mẹ bảo ta phải chăm sóc đệ cho thật tốt, kiếm cho đệ một người vợ, mẹ ở dưới cửu tuyền mới có thể nhắm mắt. Thế nhưng… đại ca vô dụng, đại ca có lỗi với đệ, đến bây giờ… ngược lại đệ còn giúp ta cưới vợ.”
Địch Thanh cúi đầu xuống nói: “Đại ca, trên đời này người thân nhất của đệ chính là huynh. Đệ lúc nhỏ rất tinh nghịch, mỗi lần gây ra tai họa, đều do huynh gánh vác. Cả đời của huynh, bởi vì đệ đệ không ra gì này, không biết đã bao nhiêu lần bị đánh chửi, nhưng huynh chưa bao giờ trách mắng đệ một câu, đệ dù cho nuôi hai con dê, làm sao có thể báo đáp ân tình của huynh?”
Địch Vân than thở: “Đệ ngốc, đệ cùng ta còn nói ân tình để làm gì? Đại ca biết đệ thích võ, những năm trước trong huyện có Trình võ sư, võ thuật không tệ, nhưng ta lại không có tiền để mời hắn dạy võ công cho đệ, thật ra trong lòng đại ca rất áy náy, đệ sẽ không trách ta chứ?”
Địch Thanh ngẩng đầu lên: “Nhưng mà đệ lén lấy tiền của huynh, cấp cho Trình võ sư mua rượu uống, năn nỉ hắn dạy võ công cho đệ. Đại ca, việc này huynh cũng sẽ không trách đệ chứ?”
Địch Vân nghe xong, muốn cười thật to, nhưng động tới vết thương ở chân, khóe miệng co giật, nói: “Huynh đã sớm biết, chỉ tiếc là số tiền này cũng không đủ. Ai… Đệ đệ, đại ca chỉ sợ đệ gặp rắc rối, vì thế mới kiềm chế tính tình của đệ, khi đó mới cho đệ nuôi dê. Một năm qua, tính tình đệ đã khá hơn, đại ca rất vui. Chờ chân đại ca hồi phục, chúng ta sẽ lại nuôi vài con dê đem bán, đến lúc đó bán có tiền, sẽ kiếm cho đệ một người vợ, đại ca cho dù có chết, cũng không làm cho cha mẹ thất vọng.” Hắn nói đến đây, mặc dù vẫn đang cười, nhưng trong lòng cực kì khó chịu. Tiểu Thanh bị Triệu Vũ Đức cướp đi, Địch Vân biết đã không thể xoay chuyển, tâm hắn sớm đã nguội như tro, thầm nghĩ dù cho hắn cưới một phụ nữ có chồng, hắn cũng có thể buông tay mặc kệ.
Địch Thanh nói: “Được. Đại ca, đệ cám ơn huynh.”
Hai huynh đệ tán gẫu, Ngưu Tráng lại chạy trở về, ở bên ngoài vườn kêu lớn: “Địch Thanh, ngươi ra đây một chút.”
Địch Thanh đi ra khỏi phòng, cùng Ngưu Tráng nói mấy câu, lúc này mới đi đến bên cạnh giếng múc một chén nước, sau đó quay lại phòng nói: “Đại ca, huynh khát nước rồi, uống chút nước đi. Đệ và Ngưu Tráng ở ngoài sân, đem bổ đống củi mấy ngày trước đã.”
Địch Vân bưng bát nước lên, gật đầu nói: “Được rồi, nhưng đệ nhất định không được đi ra ngoài, huynh ở trong phòng canh chừng đệ đó!”
Địch Thanh gật đầu, chậm rãi đi ra ngoài sân, nháy mắt với Ngưu Tráng. Ngưu Tráng giúp đỡ mang gỗ khô từ trong phòng ra ngoài, Địch Thanh lấy búa bổ vài cái, lẩm bẩm nói: “Búa cùn rồi, phải đi mài một chút.” Hắn lấy đá mài dao, mài búa soàn soạt vài cái, thử chẻ củi, Địch Vân thấy thế, trong lòng an tâm. Hắn đã uống xong bát nước, sau một lúc lâu, đột nhiên cảm thấy mí mắt nặng trĩu, vốn chỉ định nhắm mắt lại nghỉ ngơi một hồi cho khá hơn, không ngờ cuối cùng lại ngủ lúc nào không hay.
Địch Thanh nghe được tiếng ngáy trong phòng, chậm rãi quay đầu lại, đem cây búa đã được mày bén ngót giắt ở bên hông, đột nhiên quỳ xuống trước mặt Ngưu Tráng. Ngưu Tráng lại càng hoảng sợ, cũng quỳ xuống theo, nói: “Địch Thanh, ngươi làm cái gì vậy?”
Địch Thanh nói: “Ngưu Tráng chúng ta có đúng là huynh đệ hay không?”
Ngưu Tráng ra sức gật đầu nói: “Đương nhiên là đúng, từ khi ngươi bảy tuổi giúp ta đánh nhau, chúng ta đã là huynh đệ.”
Địch Thanh nói: “Ngươi là cô nhi, ta và đại ca cũng không có cha mẹ, những năm gần đây, ta và đại ca mặc dù đối với ngươi không phải huynh đệ ruột thịt, nhưng đã xem ngươi là huynh đệ. Ngươi biết tính tình của ta, lần này ta làm trái lời đại ca, ta nhất định phải đi, nếu không sống cũng không còn ý nghĩa gì?” Thì ra hắn mặc dù đáp ứng đại ca không ra khỏi cửa, nhưng lại âm thầm bảo Ngưu Tráng mua mê dược bỏ vào trong bát nước cho Địch Vân uống.
Ngưu Tráng nói: “Địch Thanh, ngươi nói đi, muốn ta làm thế nào, ta dù liều cái mạng này, cũng sẽ cố gắng theo ngươi!”
Địch Thanh lắc đầu nói: “Ngươi không cần theo ta đi. Bây giờ, ngươi cần phải lập tức mướn một cỗ xe ngựa, mang đại ca ta đến sườn núi chăn dê ở thị trấn phía bắc cách đây hai mươi dặm chờ ta, nếu ta không thể đem Thanh nhi đến sườn núi chăn dê, ngươi hãy mang đại ca ta tiến về hướng bắc, đi về phía Thái Nguyên phủ mà lánh nạn, chớ có trở về đây. Trời đất bao la, không cần phải ở Tây Hà này bán mạng. Ngưu Tráng, ta cầu xin ngươi đó…”
Ngưu Tráng vội la lên: “Địch Thanh, một mình ngươi đi vào trong đó có được không? Ở trong huyện nha nơi Triệu Vũ Đức ở, nuôi rất nhiều tay sai, có vài người thực lực rất cao, ngươi đánh không lại bọn họ đâu.” Hắn biết Địch Thanh mặc dù cũng có tập võ, nhưng chẳng qua chỉ học một chút bản sự của Trình võ sư, ngày thường có đến chỗ Trương thợ rèn đập sắt, lực tay mới mạnh như vậy. Nhưng nếu đánh nhau thật sự, chưa chắc là đối thủ của những người đó.
Địch Thanh nói: “Ta nghĩ rằng, nếu ta cứu không được Tiểu Thanh, đại ca của ta cũng coi như đã chết. Còn đại ca, thà chết cũng không bằng lòng cho ta ra tay. Ngưu Tráng, ngươi biết đó, ta chỉ có một người anh!”
Ngưu Tráng sống mũi cay cay, biết việc đã đến nước này, không còn lựa chọn nào khác, bọn họ vốn không có cách nào thưa quan, bởi vì nơi đây Triệu huyện lệnh lớn nhất, Triệu huyện lệnh đương nhiên phải giúp con trai của hắn. Ngưu Tráng cũng không khuyên nữa, nói: “Vậy ngươi cẩn thận, ta chờ ngươi. Ngươi yên tâm, ta sẽ chăm sóc đại ca ngươi. Nhưng mà… sao ngươi không đợi buổi tối rồi hãy đi?”
Địch Thanh lắc đầu: “Bởi vì bây giờ là ban ngày, ta đến huyện nha, bọn chúng càng không lường trước được.”
Địch Thanh đứng dậy, thi lễ với Ngưu Tráng, sau đó quay đầu lại nhìn đại ca ở trong phòng, không muốn kéo dài, sải bước đi ra khỏi sân.
Sau khi ra khỏi sân, Địch Thanh trước tiên dùng tro bếp bôi đen mặt, đem y phục xé rách và làm cho đen đúa, hóa trang thành bộ dáng của một tên ăn mày. Hắn mặc dù phẫn nộ, nhưng tuyệt đối không phải là hạng người lỗ mãng, coi thường mạng sống, vì đại ca hắn nhất định phải cứu được Tiểu Thanh chưa không sẽ không dễ dàng tặng tính mạng mình cho người khác.
Đến phía trước huyện nha, Địch Thanh không khỏi hít một hơi khí lạnh.
Triệu Vũ Đức chính là con trai độc nhất của Triệu huyện lệnh, mà Triệu huyện lệnh vì công quên tư, vì nước quên nhà, vì công việc nên mới dứt khoát đem cả gia đình dời vào huyện nha. Hai phụ tử táng tận lương tâm này ở trong huyện nha, nhất định là có hộ viện bảo vệ. Địch Thanh đã tính toán những hộ viện này, nhưng không nghĩ đến ở phía trước huyện nha lại còn có cấm quân.
Địch Thanh suy nghĩ một lát, quyết định đi đường vòng ra phía sau huyện nha, vừa đến ngõ nhỏ ở cửa sau huyện nha. Người nơi đây qua lại rất thưa thớt, đây vốn là con đường mà tạp dịch thường lui tới. Địch Thanh đang lo lắng có nên leo tường hay là xông thẳng vào thì phía sau đột nhiên vang lên một tiếng người hét to: “Tên ăn mày kia, tránh đường.”
Địch Thanh quay đầu nhìn lại, thấy được một chiếc xe trâu đang ở đầu ngõ, trên xe chất đầy củi khô. Địch Thanh biết được lão hán đánh xe này chính là lão Vương, một người chở củi lâu năm của huyện nha, trong lòng hắn khẽ động, cúi đầu xuống tránh qua một bên.
Lão Vương cũng không nhận ra Địch Thanh, thấy hắn nhường lối đi, vung roi, đánh xe vào ngõ nhỏ. Đi được một đoạn, vô tình quay đầu lại nhìn nhưng tên ăn mày này đã sớm biến mất không còn thấy tăm tích, lão Vương thầm nói: “Tên ăn mày này đi nhanh thật.” Lão chỉ chăm chú đánh xe nên không có chú ý đến Địch Thanh thừa dịp lúc xe đi ngang qua, lăn mình một cái, đến phía dưới xe, vươn cánh tay dài ra bám vào phía dưới xe trâu.
Lão Vương đến cuối ngõ nhỏ, gõ vào cửa sau. Có người nói: “Lão Vương, củi này có khô hay không?”
Lão Vương thật thà cười nói: “Xa quản gia, không khô không lấy tiền.”
Xa quản gia cười nói: “Ngươi là người thành thật. Được rồi, bản quản gia sẽ chiếu cố sinh ý của ngươi, ngươi ngày mai đem thêm củi tới đây.”
Lão Vương ngạc nhiên hỏi: “Muốn nhiều như vậy để làm gì, đốt nhà sao?”
Xa quản gia khinh miệt nói: “Ngươi nói câu nào dễ nghe hơn được không? Gần đây, có một nhân vật lớn từ kinh thành đến, lại có không ít cấm quân, củi lửa vì thế dùng nhiều hơn. À không, hiện giờ những người đó đang ở tiền sảnh uống rượu, vị chỉ huy sứ kia rất có tài uống rượu, ta tận mắt nhìn thấy hắn uống hơn mười cân rượu.”
Địch Thanh nghe thấy thế, trong đầu hiện lên hình dáng của Quách đại nhân kia. Hắn đang trầm ngâm suy nghĩ thì Xa quản gia lại nói: “Lão Vương, tới lấy tiền đi chứ.”
Lão Vương vừa mới đáp ứng, chợt nghe thấy tiếng bước chân dồn dập, Xa quản gia đột nhiên nói: “Công tử gia, sao người lại đến đây?”
Địch Thanh nghe được ba chữ “Công tử gia”, tim đập thình thịch, hô hấp ngừng lại, thấy một đôi cẩm hài đang đứng trước cỗ xe cách đó không xa, nghĩ thầm chẳng lẽ là Triệu Vũ Đức tới? Hắn đến nơi tạp dịch thường lui tới này để làm gì?
Quả nhiên, Triệu Vũ Đức giọng khàn khàn truyền tới: “Con mẹ nó, chỉ là một tên Điện tiền chỉ huy sứ, lão già lại phải bắt ta đi bồi tiếp. Tên kia chỉ là một người vô tích sự, tham ăn tham uống, đến bây giờ mới cho ta đi. Tiểu thiếp xinh đẹp hôm nay mới bắt được của lão tử còn chưa có chạm đến. Xa quản gia, thế nào, nàng ở trong phòng củi có ngoan không?”
Địch Thanh biết được nơi ở của Tiểu Thanh, trong lòng vui vẻ, từ xa nhìn đến, trông thấy ở phía sau cẩm hài còn có hơn mười đôi chân, liền biết rõ Triệu Vũ Đức mang theo thủ hạ, không khỏi cau mày.
Xa quản gia trả lời: “Công tử gia, nàng rất cứng đầu, không chịu ăn uống, bỏ đói nàng vài ngày sẽ nghe lời thôi.”
Triệu Vũ Đức mắng: “Không cần nể mặt gì cả, được lão tử coi trọng chính là phúc khí của nàng, chọc giận lão tử, sau khi ta chơi nàng xong, ném cho Vương đại mụ mang đi.” Vương đại mụ chính là tú bà trong thanh lâu ở huyện này, Triệu Vũ Đức chính là khách quen thường lui tới của Vương đại mụ.
Lúc này có người nói: “Công tử gia, hôm nay chúng ta đánh Địch Vân, nghe nói tên phế vật này có đệ đệ là Địch Thanh rất giỏi đánh nhau. Ta chỉ sợ Địch Thanh sẽ tìm đến đây gây phiền phức, người cẩn thận một chút sẽ tốt hơn.” Người này thanh âm bén nhọn, Địch Thanh nghe xong, biết ngay đó chính là võ sư đắt tiền mà Triệu Vũ Đức mời đến, tên là Tác Minh, vũ khí sở trường là Liên Tử thương, võ công trong huyện rất nổi tiếng. Trước đây Trình sư phụ, người dạy võ công cho Địch Thanh cũng thua dưới tay thuộc hạ của Tác Minh, do đó mới rời khỏi Tây Hà. Có người này ở đây, Địch Thanh không dám manh động.
Lúc này lại có người nói: “Địch Thanh là cái rắm gì, cho hắn gan cọp, hắn cũng không dám ban ngày ban mặt đến nơi này. Tác sư phụ, ngươi nếu sợ, không bằng về nhà ôm con đi thôi.” Người này thanh âm giống như vịt kêu, khiến cho người bên ngoài cười ha hả một trận.
Địch Thanh sắc mặt tái mét, biết được người này tên là Côn Tử. Không ai biết được tên thật của người này, nhưng mọi người đều biết tên Côn Tử này rất phi thường, ngay cả Tác Minh đối với hắn cũng phải tôn kính ba phần.
Tác Minh nghe Côn Tử châm chọc, có chút không hài lòng nói: “Cẩn thận một chút bao giờ cũng tốt.”
Xa quản gia nói: “Thật ra tất cả mọi người đều muốn tốt cho công tử, Tác sư phụ, Côn Tử, đừng cãi nhau nữa.” Tác Minh, Côn Tử nghe Xa quản gia nói, đều hừ lạnh một tiếng, không thèm tranh cãi nữa.
Triệu Vũ Đức ha ha cười nói: “Được rồi, ta sẽ cẩn thận, mấy ngày này các ngươi đều đi theo bên người ta. Xa quản gia, mang ta đi gặp tiểu nương tử, ta chơi đùa nàng trước mặt các ngươi, như vậy sẽ an toàn hơn.”
Cả đám cười dâm không ngớt.
Địch Thanh nghe thấy thế, suýt chút nữa là kiềm chế không được. Hắn biết dựa vào bản lĩnh của chính mình, chỉ sợ không phải là đối thủ của Côn Tử và Tác Minh, nhưng mà chờ đợi cũng không phải là biện pháp, bắt được Triệu Vũ Đức, cục diện mới có thể xoay chuyển. Nghĩ tới đây, hắn buông lỏng tay, cả người liền rơi xuống. Không đợi rơi xuống mặt đất, cổ tay chống xuống, Địch Thanh dưới hầm xe lăn ra ngoài, hai tay dò xét, đã bắt được hai chân người mang cẩm hài, hét lớn: “Súc sinh nhận lấy cái chết!” Hắn dùng lực lôi kéo, Triệu Vũ Đức hú lên một tiếng quái dị, cả người đã ngã xuống.
Triệu Vũ Đức tuy rằng muốn đề phòng Địch Thanh, nhưng không ngờ được Địch Thanh lại đột nhiên xuất hiện giống như quỷ, ở đây người tuy nhiều, nhưng không ai chú ý cỗ xe trâu cách đó không xa, cũng không có nhìn thấy Địch Thanh xuất hiện như thế nào. Triệu Vũ Đức hoảng sợ ngã xuống đất, Địch Thanh thân hình vọt lên, mới chế trụ được Triệu Vũ Đức, không ngờ chỉ nghe một tiếng ‘Hô’, một luồng gió mạnh sắc bén đã đến sau đầu hắn.
Địch Thanh bất chấp lại tóm lấy Triệu Vũ Đức, rụt đầu tránh né, luồng gió mạnh này đột nhiên mà đến, đột nhiên ngừng lại, côn ảnh loáng lên, cuối cùng đâm về phía mắt phải của Địch Thanh.
Địch Thanh chưa bao giờ gặp qua côn pháp nhanh đến thế, chỉ có thể né tránh sang một bên, cảm thấy không ổn, đối thủ đa mưu túc trí, chỉ dùng hai côn đã buộc hắn phải tách khỏi Triệu Vũ Đức. Địch Thanh vừa muốn xông tới, lại phải lui về một bước, một mũi thương đâm vào không khí, làm cho Địch Thanh sợ hãi, cả người toát mồ hôi lạnh. Địch Thanh chỉ chú ý tránh né trường thương, không chú ý đến một côn lén lút đâm tới, chính giữa cẳng chân hắn. Địch Thanh lảo đảo một cái, ngẩng đầu nhìn tới, thấy được hai người đang cười lạnh đứng trước mặt hắn, một người có con mắt tam giác, chính là Tác Minh, người còn lại mặt rỗ, đúng là Côn Tử.
Địch Thanh trong lòng trầm xuống.
Triệu Vũ Đức sau gáy đau nhức, cảm thấy đã hết nguy hiểm, giận dữ nói: “Địch Thanh, ta nhổ mười tám đời tổ tông nhà ngươi, ngươi đám giết ta? Đánh chết hắn! Ai giết được Địch Thanh , ta thưởng một trăm lượng bạc.” Hắn vừa mới treo thưởng, mọi người đều nóng lòng muốn thử vận may, Địch Thanh quay đầu liếc mắt một cái.
Tác Minh thấy thế cười lạnh nói: “Còn muốn chạy sao?” Lời hắn còn chưa dứt, Địch Thanh bỗng nhiên xoay người, hướng ra ngoài chạy đi.
Tác Minh cho rằng Địch Thanh muốn chạy trốn, vừa định cất bước đuổi theo, nhưng không ngờ rằng Địch Thanh bỗng nhiên xoay người lại, vọt về phía hắn. Tác Minh rùng mình, Liên Tử thương vung lên, đâm về phía ngực Địch Thanh. Cùng lúc đó, Côn Tử cũng nhấc côn đánh về phía sau Địch Thanh.
Trong nháy mắt, Địch Thanh hai mặt thụ địch, hắn dù tránh được côn, cũng không nhanh hơn Liên Tử thương, mà nhanh hơn Liên Tử thương, lại không né được sát chiêu tiếp theo.
Địch Thanh cái nào cũng không thể né tránh. Cây côn đánh mạnh vào sau lưng hắn, Liên Tử thương cũng đã đâm trúng đầu vai hắn.
Tác Minh thậm chí nghe được thanh âm trường thương đâm vào thịt, khóe miệng lộ ra nụ cười độc ác.
Chẳng ngờ Địch Thanh bị Côn Tử đánh trúng, bỗng nhiên “Oa” một tiếng, miệng phun ra một ngụm máu tươi, bắn trúng hai mắt Tác Minh. Đôi mắt Tác Minh mắt không thể nhìn thấy, lại càng hoảng sợ, muốn thối lui về phía sau, Địch Thanh đã sớm rút búa ra, bổ một búa vào ngực Tác Minh.
Búa găm vào ngực, máu tươi cuồn cuộn chảy ra.
Tác Minh rống một tiếng thấu trời xanh, cuối cùng đã bị Địch Thanh bổ chết.
Côn Tử nghe được tiếng kêu thảm thiết, trong lòng phát lạnh, vừa muốn vung côn đánh tiếp, Địch Thanh vung tay lên, búa rời tay bay ra, phóng thẳng vào mặt Côn Tử. Côn Tử đã gặp qua vô số đối thủ, nhưng chưa bao giờ gặp qua loại đấu pháp liều mạng như thế này, không thể ra chiêu, lắc mình né tránh. Búa bay tới nhanh như điện, tiếng gió rít qua mặt Côn Tử, bắn ra một tia máu, “Soạt” một tiếng, cắm phập vào cây cột bên cạnh chuồng ngựa, phát ra tiếng vang ong ong.
Địch Thanh ném búa xong, hét lớn một tiếng, nói: “Cản ta thì chết!”
Hắn nhảy tới trước mặt Triệu Vũ Đức, bên người Triệu Vũ Đức vốn đang có hai hộ viện, nhưng nhìn thấy Địch Thanh mình đẫm máu như hung thần, còn hai nhân vật lợi hại nhất trong đám hộ viện cũng một chết một bị thương, trong lòng hai người này không rét mà run, vứt Triệu Vũ Đức sang một bên, cuống cuồng chạy trốn.
Triệu Vũ Đức đã sớm bị dọa cho tè trong quần, hai chân không nghe sai bảo, không thể nhúc nhích, Địch Thanh rút trường kiếm bên hông hắn, kề sát vào cổ hắn.
Địch Thanh chỉ cảm thấy trước mắt biến thành màu đen, lung lay sắp đổ, nhưng vẫn còn có thể hét lớn: “Triệu Vũ Đức, ta nhớ ngươi muốn dùng một trăm lượng lấy mạng của ta, nhưng mà ngươi là đầu chó, lão tử lúc nào cũng có thể cắt đầu ngươi xuống!”
Chương 2 : Thiên Vương.
Địch Thanh liều mạng bắt được Triệu Vũ Đức, thật sự bị thương cũng không nhẹ. Hắn tự biết bản thân không phải là đối thủ của Tác Minh và Côn Tử, vì thế mới liều mạng cố gắng chịu một thương và một côn, khống chế được Triệu Vũ Đức.
Mọi người xung quanh nhìn Địch Thanh, đều mang theo ba phần kính nể. Bọn họ đã nghe nói Địch Thanh rất giỏi đánh nhau, nhưng chỉ nghĩ người này giống như một tên lưu manh đầu đường xó chợ, đâu có nghĩ đến tên lưu manh này, lại có thể giết Tác Minh, đẩy lùi Côn Tử, còn bắt được Triệu Vũ Đức ngay trước mặt bọn họ.
Triệu Vũ Đức đã sớm sợ đến nỗi hai chân run cầm cập, nghe Địch Thanh đe dọa, run giọng nói: “Địch Thanh… Địch gia…Tổ tông ơi, ngươi đừng giết ta.”
Địch Thanh cười lạnh nói: “Không giết ngươi? Cho ta một lý do xem?”
Triệu Vũ Đức suy nghĩ cả buổi mới nói: “Ta có tiền, có thể cho ngươi rất nhiều rất nhiều tiền. Ngươi không phải muốn Tiểu Thanh sao? Mấy thằng ngu này, còn đứng ngây ra đó làm gì, mau đem Tiểu Thanh tới đây!” Hắn vì bảo toàn tính mạng, đột nhiên thông minh hẳn ra, Xa quản gia vội vàng đi tới phòng củi, Địch Thanh thấy thế quát lớn: “Chuẩn bị cho ta hai con khoái mã.”
Triệu Vũ Đức liên tục gật đầu đáp ứng, lại mắng: “Đám nô tài các ngươi, mau mau chuẩn bị ngựa cho Địch gia.” Hắn mặc dù muốn đem Địch Thanh róc xương lóc thịt, nhưng bây giờ bảo toàn tính mạng quan trọng hơn, đối với Địch Thanh tất nhiên bảo sao sẽ nghe vậy rồi.
Bên trong nội viện ầm ĩ cả lên, Triệu huyện lệnh biết nơi này xảy ra chuyện, vội vội vàng vàng chạy tới, thấy Địch Thanh đang cưỡng chế con trai bảo bối, hét lớn: “Địch Thanh, ngươi muốn tạo phản sao? Còn không mau thả nó ra!”
Ngay sau đó vang lên nhiều tiếng bước chân gấp gáp, có hơn mười cấm quân cũng chạy đến đây, dẫn đầu bởi một người, chính là Quách đại nhân. Quách đại nhân nhìn thấy hết thảy mọi chuyện, lông mày nhướng lên, hiển nhiên cảm thấy rất ngạc nhiên khi gặp Địch Thanh ở chỗ này. Có mấy cấm quân định tiến lên, Quách đại nhân khoát tay chặn lại, những người này tức thì dừng bước.
Địch Thanh thấy thế, trong lòng kêu khổ, thầm nghĩ bản lĩnh Quách đại nhân này vốn cực cao, lại còn có những cấm quân này, mình muốn chạy thoát quả thật hết sức khó khăn.
Xa quản gia đã mang theo Tiểu Thanh đến: “Công tử gia, Tiểu Thanh đã được mang đến.”
Tiểu Thanh dung mạo thanh tú, nhìn thấy tình cảnh trước mắt, đã hiểu rõ tất cả, thút thít nói: “Địch Thanh, sao ngươi ngốc nghếch như vậy?” Nàng luôn luôn xem Địch Thanh như là em ruột của mình, thấy Địch Thanh như thế, chỉ hận bản thân mình đã mang đến phiền phức cho hai huynh đệ họ.
Triệu huyện lệnh dĩ nhiên biết phẩm hạnh con trai mình, vừa thấy Tiểu Thanh búi tóc xổ tung, quần áo không chỉnh tề, sớm đã hiểu rõ ngọn nguồn sự việc, thầm mắng Xa quản gia này ngu như heo, cuối cùng để người khác nắm thóp. Lão tiến tới cho Xa quản gia một cái bạt tai, mắng: “Chuyện gì xảy ra?” Dứt lời liền đá lông nheo lia lịa với Xa quản gia.
Xa quản gia che mặt nói: “Đại nhân … Cái này … Cái kia …”
Triệu huyện lệnh không hề quan tâm tới Xa quản gia, nói với Địch Thanh: “Địch Thanh, đây là nơi phân rõ phải trái, ngươi chớ có làm càn. Mau thả Triệu Vũ Đức ra, ta sẽ theo lẽ xử lý công bằng. Ngươi nếu như mắc thêm lỗi lầm nữa, chỉ sợ người nhà ngươi cũng khó thoát khỏi bị liên lụy.” Lão đem chuyện Tiểu Thanh bỏ qua một bên không nói, trong lời khuyên nhủ còn mang theo ý uy hiếp, lão thầm nghĩ chỉ cần Địch Thanh vừa thả người, sẽ đem hắn nhốt vào huyện lao, chặt chân hắn, rút gân hắn, sau đó nói hắn chết bất đắc kỳ tử, hết thảy mọi chuyện sẽ êm xuôi.
Địch Thanh cười lạnh nói: “Nếu lão thực sự công bằng chính trực, ta cần gì phải tới đây? Con trai lão cưỡng đoạt dân nữ, đánh gãy chân đại ca ta, vậy giờ nói cho ta biết, lão sẽ xử lý công bằng chuyện này ra sao?”
Sắc mặt Triệu huyện lệnh trầm xuống nói: “Địch Thanh, nói như vậy là ngươi muốn ngoan cố chống lại đến cùng phải không?” Lão thấy có hai người đã âm thầm đến phía sau lưng Địch Thanh, bất thình linh vung tay lên nói: “Bắt.”
Hai người này vừa muốn tiến lên phía trước, chẳng ngờ Địch Thanh đã sớm chú ý đến phía sau, xuất ra một cước đá vào giữa ngực của một người. Người này thét to một tiếng, bay cái vèo ra ngoài một trượng. Người còn lại sợ xanh mặt liên tục lui về phía sau, không dám động thủ lần nữa. Cổ tay Địch Thanh khẽ động, trường kiếm đã cắt một vết máu trên cổ Triệu Vũ Đức, hét lớn: “Triệu huyện lệnh! Lão nếu không cần tính mạng của con trai, vậy ta sẽ tiễn hắn đi!”
Triệu Vũ Đức nhìn thấy máu chảy, thiếu chút nữa là ngất xỉu, lớn tiếng la lên: “Phụ thân cứu con với!”
Triệu huyện lệnh khẩn trương gọi: “Địch Thanh! Đừng nóng nảy, mọi chuyện đều có thể thương lượng.”
Bên cạnh, Quách đại nhân cảm thấy mình giống như đang xem một màn kịch: “Triệu huyện lệnh … Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, ta thật có hứng thú để nghe một chút đây.”
Trong lòng Triệu huyện lệnh rùng mình, cười xòa nói: “Quách đại nhân, đây chỉ là chuyện nhỏ thôi mà, ngài không cần phải bận tâm. Xin cứ tới tiền sảnh uống rượu trước, hạ quan giải quyết mọi chuyện ở đây rồi chúng ta sẽ nói chuyện tiếp.”
Triệu huyện lệnh tuy là bá vương một vùng, nhưng không dám làm mất lòng Quách đại nhân chút nào.
Hóa ra Quách đại nhân chính là Quách Tuân, vốn là Điện tiền chỉ huy sứ ở kinh thành, đứng hàng Tam Ban, thống lĩnh Kiêu Vũ quân là một trong bát đại cấm quân ở kinh thành. Lần này Quách Tuân đến Phần Châu là muốn chọn người bổ sung vào cấm quân. Tri châu không dám chậm trễ, hạ lệnh cho các huyện dưới quyền của mình toàn lực phối hợp, Quách Tuân đã đi qua được mấy huyện, mấy ngày nay đã tới Tây Hà.
Triệu huyện lệnh đương nhiên cũng không dám làm mất lòng người này, tận lực nịnh nọt, vừa tiếp rượu, vừa đút lót cho đám cấm quân, chỉ cầu bình an vô sự là tốt rồi. Đâu ngờ đứa con không ra gì lại đi gây họa lớn như vậy, bản thân muốn che giấu cũng chẳng còn cách nào. Triệu huyện lệnh âm thầm quyết định biện pháp, để xoa dịu chuyện này, nhất định chút nữa phải đưa một phần lễ vật hậu hĩnh tặng cho Quách Tuân, chỉ mong sao tai qua nạn khỏi.
Quách Tuân thấy Triệu huyện lệnh tìm đường thoái thác, thản nhiên nói: “Đây không phải là chuyện nhỏ, mà hình như là chuyện lớn. Thật ra… ta cũng có thể giúp ngươi một chút…” Hắn lơ đãng liếc mắt nhìn Địch Thanh, khóe miệng mang theo ý cười. Lúc này có cấm vệ vội vã chạy tới, nói nhỏ bên tai Quách Tuân mấy câu, Quách Tuân sắc mặt khẽ biến, đầu mày hơi nhíu.
Triệu huyện lệnh nghe vậy vui vẻ nói: “Sao dám làm phiền Quách đại nhân?” Triệu huyện lệnh nghĩ rằng Quách Tuân đứng về phía lão, mới hít sâu một hơi, hét lớn: “Địch Thanh, có Quách đại nhân ở đây, ngươi còn không mau mau bó tay chịu trói, nếu còn ngoan cố kháng cự, dù cho ngươi trốn khỏi đây, ngươi và đại ca ngươi sẽ phải làm đào phạm (tù trốn trại) cả đời.”
Địch Thanh trong lòng khẽ động, thầm nghĩ Triệu huyện lệnh nói quả thật không sai, mình mặc dù đã định bỏ mạng nơi xa xăm, nhưng đại ca và Tiểu Thanh, chẳng lẽ cũng phải sống thấp thỏm lo sợ cả đời hay sao? Hắn nhất thời bị kích động, thầm nghĩ phương pháp để giải quyết việc này, nhưng thấy Quách Tuân cười cười với mình, đột nhiên trong đầu nghĩ tới một ý nghĩ, nói: “Quách đại nhân, tiểu nhân muốn tòng quân!” Hắn nghĩ bản thân mình bỏ mạng nơi xa trường cũng chẳng sao, nhưng không được làm liên lụy đại ca, Quách đại nhân này nhìn có vẻ là một vị quan tốt, mình cần được y che chở, giúp đại ca xóa bỏ oan tình. Nếu muốn nhờ người ta giúp đỡ, điều kiện tiên quyết chính là phải gia nhập cấm quân.
Mọi người ngẩn ra, không ngờ lúc này Địch Thanh lại nói ra những lời như vậy. Triệu huyện lệnh cười lạnh nói: “Địch Thanh, ngươi điên rồi sao? Ngươi cho rằng mình là ai mà lại muốn gia nhập cấm quân?”
Quách Tuân cười ha hả, bèn nói: “Đại trượng phu nhất ngôn cửu đỉnh, Địch Thanh, ngươi phải nhớ kĩ những lời mà ngươi đã nói hôm nay.”
Địch Thanh gật đầu nói: “Tiểu nhân tuyệt không nuốt lời.”
Triệu huyện lệnh thấy Quách Tuân không ngờ lại thực sự đáp ứng nguyện vọng của Địch Thanh, không khỏi khẩn trương nói: “Quách đại nhân, việc này sao có thể được? Địch Thanh hung hãn tàn bạo, uy hiếp con trai hạ quan, vốn là một kẻ ác, không thể buông tha!”
Quách Tuân nói: “Không sai, nếu là kẻ xấu, đương nhiên không thể buông tha.” Lời nói của hắn mang theo ẩn ý, đột nhiên tiến lên một bước, hét lớn một tiếng, đưa tay chộp tới một người.
Mọi người đều cả kinh, thì ra người Quách Tuân muốn đối phó không phải là Địch Thanh, mà là Côn Tử bên cạnh kia.
Côn Tử bất ngờ kinh hãi, thật không thể ngờ được Quách Tuân lại ra tay với gã, nhưng người này dù sao cũng có vài phần bản lĩnh, trường côn vung lên, đánh liên tiếp vào cánh tay, ngực và sườn của Quách Tuân. Một chiêu này côn ảnh tầng tầng lớp lớp, biến hóa muôn trùng.
Triệu huyện lệnh kinh hãi nói: “Côn Tử, ngươi điên rồi sao? Còn không mau ngừng tay!” Lời lão còn chưa dứt, không ngờ Quách Tuân đã đoạt được trường côn, quát to một tiếng, xuất ra một côn về phía trước, đầu côn đâm thẳng vào giữa ngực Côn Tử.
Tiếng ‘răng rắc’ vang lên, xương ngực Côn Tử đều bị đâm gãy, một ngụm máu tươi phun ra, bắn ngược trở về sau. Vừa rơi xuống đất, Côn Tử trở mình nhảy lên, muốn leo tường bỏ chạy. Không ngờ Quách Tuân rảo bước tiến lên, trường côn quét ra, đánh vào hai chân Côn Tử. Côn Tử kêu thảm một tiếng, ngã xuống đất, không còn cách nào đứng dậy nổi. Quách Tuân thu trường côn, uy nghiêm quát: “Bắt lại!”
Cấm quân đã sớm tiến lên, trường đao rút ra khỏi vỏ kề vào cổ Côn Tử.
Triệu huyện lệnh sợ đến mồ hôi lạnh tuôn ra đầm đìa, luôn miệng kêu lên: “Quách đại nhân, người … người bắt lầm người rồi.”
Quách Tuân ngửa mặt lên trời cười nói: “Hoàn toàn không lầm. Ta nghe nói còn có một người nữa trà trộn ở trong đây.” Ánh mắt y đảo qua trên mặt đám hộ viện, đám hộ viện sợ hãi mặt cắt không còn chút máu, không hiểu Quách Tuân rốt cuộc đang tính toán cái gì?
Đột nhiên ở chính giữa đám người có một người định chuồn đi, thoắt cái đã đến chân tường, rồi nghiêng người nhảy lên chóp tường. Mấy cấm quân thấy thế, vội đuổi theo, nhảy qua đầu tường. Quách Tuân vẫn đứng yên, khóe miệng mang theo nụ cười giảo hoạt. Mọi người lớn tiếng kinh hô, bởi vì phát hiện người đang leo tường chính là Xa quản gia, tất cả đều không thể tin vào hai mắt của mình, Xa quản gia này từ trước tới giờ chỉ là một thư sinh nho nhã yếu ớt, làm sao mà có bản lĩnh như vậy?
Triệu huyện lệnh đã hiểu ra, mồ hôi trên trán cuồn cuộn tuôn ra, lắp bắp nói: “Quách đại nhân … đây … đây rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Quách Tuân quay sang Địch Thanh nói: “Địch Thanh, thả Triệu Vũ Đức ra.”
Địch Thanh do dự trong chốc lát, cuối cùng quyết định quăng kiếm xuống đất. Quách Tuân thấy thế nói: “Trói lại.” Vài cấm quân tiến lên, trói gô một người lại, mọi người suýt nữa té xỉu trên mặt đất, hóa ra người cấm quân muốn trói không phải là Địch Thanh mà là Triệu Vũ Đức. Triệu huyện lệnh hoảng hốt, tiến lên nói: “Quách đại nhân, nhầm rồi, nhầm rồi.”
Quách Tuân hờ hững nói: “Triệu huyện lệnh, ngươi có biết Côn Tử, Tác Minh và Xa quản gia là người phương nào không?”
Triệu huyện lệnh mù mờ nói: “Bọn họ … Bọn họ là ai?”
Quách Tuân hừ lạnh một tiếng, đưa tay xé vạt áo trước ngực Côn Tử, lại vạch vạt áo ra hai bên lộ ra bộ ngực, chỉ thấy trên ngực người này có xăm một chữ ‘Phúc’ thật to. Mọi người đều mờ mịt không hiểu được chữ này có hàm ý gì. Triệu huyện lệnh lại nghẹn ngào la lên: “Đây là người của Di Lặc giáo!”
Quách Tuân cười lạnh nói: “Không sai. Ba người này chính là giáo đồ của Di Lặc giáo, là bọn người mơ mộng hão huyền muốn tạo phản. Ta lần này tới Phần Châu, mượn việc chiêu mộ, thật ra chính là muốn điều tra chuyện về Di Lặc giáo. Triệu Văn Quảng, ngươi lén lút giấu những người này ở trong phủ, còn dám nói ta nhầm rồi?” Hắn gọi thẳng tên của Triệu huyện lệnh, nghĩa là đã không còn xem lão là huyện lệnh.
Triệu huyện lệnh mồ hôi nhễ nhại, cuống cuồng quỳ xuống nói: “Quách đại nhân, hạ quan thực sự không biết chuyện này, xin người … cầu xin người … Theo lẽ công bằng mà xử lý.”
Mọi việc xoay chuyển một trăm tám mươi độ, mới vừa rồi Triệu huyện lệnh còn vênh váo tự đắc, nhưng bây giờ run rẩy như lá vàng mùa thu sắp rụng. Trong thâm tâm Địch Thanh cảm thấy khó hiểu, không biết Di Lặc giáo có lai lịch ra sao, lại có thể khiến Triệu huyện lệnh kinh hãi khiếp vía như vậy.
Quách Tuân nói: “Xử lý như thế nào, đã có viện Thẩm Hình xử lý. Người đâu, đem Triệu Văn Quảng giải xuống dưới.” Vài cấm vệ tiến lên, đem cha con họ Triệu trói lại áp giải xuống, đám hộ viện thấy thế cũng không dám ngăn cản. Quách Tuân lại nói: “Lý Giản, có thể báo tin nơi đây cho Tri châu được không?”
Một cấm quân đứng ra nói: “Chỉ huy sứ, đã có người đi thông báo, Tri châu nói sẽ đến đây ngay lập tức.” Quách Tuân gật đầu, đi tới trước mặt Địch Thanh nói: “Dẫn người trở về đi, nhớ kĩ lời ngươi đã nói, ba ngày sau đến đây tìm ta.”
Địch Thanh tìm được đường sống trong chỗ chết, không hiểu gì hết, hỏi: “Quách đại nhân, đại ca của tiểu nhân, huynh ấy…”
“Đại ca ngươi thế nào?” Quách Tuân khó hiểu hỏi.
Địch Thanh vội vàng đem chuyện Địch Vân nói ra một lần, thấp thỏm nói: “Chỉ sợ tiểu nhân đã gây phiền phức cho đại ca.” Quách Tuân ha ha cười: “Việc này mà cũng gọi là phiền phức sao? Ngươi yên tâm, người ngươi vừa giết, chính là giáo đồ của Di Lặc giáo, ngươi thật ra không có tội, ngược lại còn có công. Về việc ngươi uy hiếp Triệu Vũ Đức … Hắn vốn đáng tội chết, tư tàng người tạo phản, đây không phải là tội nhỏ. Cha con bọn họ nếu không bị chém đầu thì cũng bị xăm chữ trên mặt, đại ca ngươi khỏi cần lánh nạn nữa.” Dứt lời, có một cấm quân vội vàng đến nói nhỏ vài câu, sắc mặt Quách Tuân khẽ biến, nói: “Được rồi, ta lập tức tới ngay.” Hắn nhìn về phía Địch Thanh, nói: “Ba ngày sau, ta chờ ngươi ở đây.”
Địch Thanh gật gật đầu, thấy Quách Tuân rời đi, lúc này mới nhẹ nhõm đặt mông ngồi xuống đất, mọi việc thoáng qua giống như một giấc mộng.
Tiểu Thanh đi tới băng bó vết thương cho Địch Thanh, nức nở nói: “Địch Thanh, khổ cho đệ rồi.”
Địch Thanh nhớ tới một chuyện, vội vàng hỏi: “Tiểu Thanh, tỷ tuyệt đối không được nói cho đại ca đệ biết chuyện đệ tòng quân.”
Tiểu Thanh hơi ngạc nhiên nhỏ giọng nói: “Tỷ sao có thể giấu được huynh ấy chứ?” Nàng biết Địch Thanh phải trả giá lớn chấp nhận đi tòng quân, để đổi lấy hạnh phúc của nàng và Địch Vân, cảm kích không thôi.
Địch Thanh ngẩng đầu nhìn trời, thấy gió thổi mây trôi, bất đắc dĩ nói: “Giấu được ngày nào đỡ ngày nấy.”
Ba ngày nháy mắt đã qua, Địch Thanh rầu rĩ ủ ê, mãi không tìm được cớ để ra khỏi nhà. Địch Thanh biết đại ca chỉ hy vọng hắn có thể làm một người bình thường mà sống hết kiếp này, nếu như biết được hắn tham gia quân ngũ, chắc chắn sẽ rất đau lòng.
Sau khi cha con Triệu huyện lệnh đền tội, Địch Thanh lập tức dẫn Tiểu Thanh đi đến sườn núi chăn dê, Địch Vân khi đó đã tỉnh lại, biết Địch Thanh vì mình mà đi huyện nha, vừa hoảng hốt vừa lo lắng, bắt Ngưu Tráng nhất định phải dẫn hắn đi đến huyện nha. Đang lúc Ngưu Tráng không biết làm sao cho ổn, thì Địch Thanh và Tiểu Thanh rốt cuộc chạy đến, Địch Vân vừa mừng vừa sợ, Địch Thanh chỉ nói mình gặp được quan tốt, bản thân không chỉ không có tội, lại còn lập được công lao.
Địch Vân nghe xong, vốn định mắng Địch Thanh một trận, nhưng thấy đệ đệ cả người đầy máu, đầu vai mang thương tích, vì người đại ca này mà chịu khổ như thế nên đâu nỡ lòng nói gì nữa? Địch Vân may mắn cuối cùng không sao cả, chỉ cảm thấy là nhờ tổ tiên tích đức, liền mang Địch Thanh đến trước mộ phụ mẫu dâng hương khấn vái. Trương thợ rèn sau khi trải qua chuyện này, chỉ sợ con gái không gả đi được nữa nên thay đổi bản tính keo kiệt, không ngờ lại giục Địch Vân mau chóng cưới Tiểu Thanh làm vợ, chỉ bàn bạc trong thời gian một chén trà nhỏ, đã quyến định ngày hôm sau sẽ tổ chức hỉ sự cho hai người.
Địch Vân mặc dù què chân, nhưng trong họa gặp phúc, đương nhiên là vui sướng vô cùng. Hai người Địch Thanh và Ngưu Tráng lập tức bắt tay vào việc chuẩn bị. Địch gia nghèo khó, chuẩn bị tuy qua loa sơ sài nhưng trước cửa đều có treo lụa hồng, dán giấy đỏ khắp nhà, cũng thấy được không khí vui mừng.
Địch Thanh bận rộn cả đêm, cuối cùng cũng bố trí thỏa đáng mọi thứ trong nhà, sắc trời còn chưa sáng đã tranh thủ chẻ một đống củi đủ dùng cho mấy tháng, lúc này mới ngồi ở trong đình viện, ngơ ngác nhìn về phía chân trời.
Hắn phải đi rồi, hắn không thể là người thất hứa được. Mặc dù hắn cảm thấy cho dù không nhập ngũ, thì cũng chẳng sao cả, nhưng hắn nếu đồng ý rồi thì phải làm cho được. Huống chi, hắn bỗng dưng nhận ra rằng, hoá ra bên ngoài còn có bầu trời bao la rộng lớn, điều này đối với hắn mà nói, rõ ràng là một sự hấp dẫn cực lớn.
Nhưng mà đại ca hắn bị què chân, hắn làm sao có thể yên tâm mà đi?
Có tiếng bước chân đằng sau vang lên, Địch Thanh không quay đầu lại cũng biết người đi tới chính là đại ca. Địch Vân đi tới bên Địch Thanh, cùng hắn ngồi trên bậc thang, trầm lặng một hồi lâu, rồi nói: “Đệ đệ, đệ còn nhớ rõ cha đã dạy chúng ta một câu nói không?”
“Là gì?” Địch Thanh thuận miệng hỏi.
“Cha nói đời người quan trọng nhất chính là chữ ‘Tín’.” Địch Vân chậm rãi nói: “Làm người không thể thất tín, nếu không sẽ không còn chỗ đứng trong thiên hạ.”
Địch Thanh lòng đầy tâm sự, nói: “Không sai, không riêng gì cha, ngay cả đại ca cũng dạy đệ như thế, đệ chưa bao giờ dám quên.”
“Cho nên . . . Đệ cần phải đi.” Địch Vân nắm tay Địch Thanh kéo qua, đặt ở trên tay hắn một vật. Địch Thanh nhìn thấy đó là một thỏi bạc, ngẩn người ra nói: “Đi, đi nơi nào?”
Địch Vân mỉm cười nói: “Đi đến nơi mà đệ đã đáp ứng.” Địch Thanh nhanh chóng hiểu ra, nói: “Đại ca, huynh đã biết hết rồi sao?”
Địch Vân đáp: “Tiểu Thanh đã nói tất cả mọi chuyện cho huynh biết, đệ đừng có trách nàng. Huynh nhìn ra được, đệ không muốn là người thất tín! Trước đây đại ca không muốn đệ tòng quân, là bởi vì nhìn thấy quân sĩ làm xằng làm bậy, không muốn đệ nhiễm thói thổ phỉ cường đạo này. Nhưng mà bây giờ huynh đã biết, đại bàng tự có nơi bay lượn, không thể khăng khăng học bầy gà quanh quẩn vườn nhà được. Địch Thanh, đệ đã trưởng thành, đã hiểu được đúng sai, đại ca đã yên tâm cho đệ đi. Đại ca không có tích góp được gì nhiều, chỉ có một chút bạc, đệ mang theo lên đường mà phòng thân, không được từ chối, nghe lời đại ca đi.”
Địch Thanh siết chặt thỏi bạc, sống mũi cay nồng: “Đại ca, nhưng mà ….”
“Nhưng cái gì mà nhưng? Chân huynh mặc dù què, nhưng nuôi sống cả nhà thì vẫn đủ sức.” Địch Vân mỉm cười nói: “Đệ yên tâm đi đi, không cần lo lắng cho huynh, huynh nghe nói cha con họ Triệu kia đều đã bị bắt giam, nhốt ở trong đại lao của Phần Châu, đã không còn gây khó dễ cho chúng ta nữa đâu. Đệ đệ, ra khỏi nhà, không có người thân quan tâm chăm sóc, đệ phải chú ý săn sóc bản thân mình cho thật tốt. Đệ hãy nhớ kĩ, nếu gặp phải chuyện gì không hay, nơi đây vĩnh viễn là nhà của đệ.”
Địch Thanh hồi lâu mới nói: “Vậy đợi tân nương tử vào nhà rồi đệ mới yên tâm.”
Địch Vân cười nói: “Được.”
Nhưng lúc quay đầu lại, hắn cầm lòng không được đưa ống tay áo lên lau khóe mắt.
Huynh đệ bọn họ sống nương tựa lẫn nhau đã nhiều năm, Địch Thanh ra đi, Địch Vân thật lòng không muốn, nhưng hắn nhìn ra sự khó xử của Địch Thanh, hắn biết đệ đệ có chí hướng cao xa, cho nên hắn có thể không làm được gì nhiều, chỉ cầu bản thân không liên lụy đệ đệ.
Lúc tân nương tử vào cửa, Địch Thanh đã bước chân lên cuộc hành trình mới.
Địch Thanh sải bước rời đi, tới được nơi đại ca không còn nhìn thấy nữa, lúc này hắn mới xoay người hướng về phía nhà lạy ba lạy, nói: “Đại ca, đệ sẽ không làm cho huynh thất vọng, mong huynh bảo trọng.” Hắn chậm rãi đứng dậy, chỉ mang theo một túi đồ giản đơn, vài bộ quần áo để tắm rửa, đồ dùng hằng ngày và một ít lương khô. Còn thỏi bạc kia, hắn để lại ở trong phòng đại ca. Hắn không biết rằng, lúc hắn kiên quyết rời đi, Địch Vân đã phát hiện ra thỏi bạc này, không nhịn được mà rơi lệ.
Địch Thanh đi đến huyện nha, thấy có cấm quân canh giữ ở trước cửa, ôm quyền nói: “Quan đại ca, tại hạ là Địch Thanh.”
Cấm quân nói: “Ngươi là Địch Thanh? Mau vào, Quách chỉ huy đang chờ ngươi ở bên trong.” Hắn dẫn Địch Thanh vào nội nha, Quách Tuân đang ngồi ở tiền sảnh, bên cạnh còn có một người thanh niên đang ngồi.
Địch Thanh trông thấy, chỉ cảm thấy người thanh niên này tựa như một thanh kiếm chuẩn bị xuất ra khỏi vỏ!
Người thanh niên này sắc mặt tái nhợt, ánh mắt sắt bén giống như mũi kiếm, liếc mắt quan sát toàn thân Địch Thanh, sau đó hơi kinh ngạc. Hắn đứng lên đối diện với Quách chỉ huy nói: “Quách chỉ huy, lần này vẫn cần người giúp đỡ.”
Quách Tuân chậm rãi gật đầu nói: “Quốc gia đại sự, Quách mỗ sẽ tận tâm hết sức.”
Người thanh niên này lại thi lễ, xoay người rời đi. Địch Thanh lúc này mới thở phào nhẹ nhõm, cảm giác bị người thanh niên này nhìn chằm chằm, toàn thân vô cùng khó chịu, không khỏi suy nghĩ về lai lịch của người thanh niên này.
Quách Tuân đưa mắt nhìn theo người thanh niên kia rời đi, quay đầu nói với Địch Thanh: “Ngươi quả nhiên đã tới.”
Địch Thanh thi lễ nói: “Tại hạ nếu đã đáp ứng, làm sao có thể không đến?”
Quách Tuân khen ngợi nói: “Nói rất hay, trượng phu nói được làm được, nếu ngay cả một lời hứa cũng không làm được, còn có tư cách gì nói đến chuyện bảo vệ quốc gia? Quách mỗ ta cả đời này không phục người ngoài, chỉ phục nghĩa sĩ lời hứa đáng giá nghìn vàng. Thật ra lần đầu ta gặp được ngươi, đã biết ngươi nhất định là một người tài. Nghĩ ra biện pháp giả vờ mắt lé, không phải người thường có thể nghĩ ra.”
Địch Thanh thấy gã nhìn thấu trò ranh của mình, xấu hổ cười. Quách Tuân còn muốn nói thêm gì đó, một cấm quân đi vào, thấp giọng nói: “Quách đại nhân, các huynh đệ đều đã chuẩn bị sẵn sàng.”
Quách Tuân gật đầu nói: “Tốt, lập tức xuất phát. Địch Thanh, ngươi đã chuẩn bị xong cả rồi chứ?”
Địch Thanh gật đầu, không nói lời nào. Quách Tuân nhìn ra tâm sự của hắn, nói: “Trượng phu chí tại bốn phương, nếu không thừa dịp tuổi trẻ xông pha một lần, đến khi già yếu sẽ không khỏi cảm thấy tiếc nuối. Địch Thanh, ta nghĩ ngươi sau này sẽ không hối hận với lựa chọn của bản thân đâu. Đi thôi.” Hắn vừa bước ra khỏi huyện nha, ngoài cửa sớm đã có hơn mười cấm quân đang đợi, bên cạnh mỗi người đều dắt theo một con ngựa.
Quách Tuân sai người dắt một con ngựa đến, nói: “Biết cưỡi ngựa không?”
Địch Thanh nói: “Đã từng cưỡi trâu.”
Quách Tuân cười nói: “Cái này cũng không khác nhiều lắm. Gia nhập Kiêu Vũ quân, không chỉ phải biết cưỡi ngựa, mà còn phải là người cưỡi giỏi nhất. Lên ngựa.” Mọi người xoay người lên ngựa, động tác mạnh mẽ. Địch Thanh mặc dù chưa bao giờ cưỡi qua ngựa, nhưng thân thủ cũng nhanh nhẹn, xoay người lên ngựa, không cam lòng tỏ ra yếu kém. Quách Tuân thấy thế khẽ gật đầu, sau đó quay đầu ngựa, dẫn đầu đám người phi về hướng đông.
Chạy một mạch hơn trăm dặm, mãi cho đến khi đến được bên bờ sông Phần, lúc này mọi người mới nghỉ ngơi một tí. Địch Thanh ít khi rời khỏi Tây Hà, lần đầu chạy khoảng cách xa như vậy, không nhịn được ngoảnh đầu nhìn lại, hiểu rằng mỗi một bước chạy, liền rời xa quê nhà một bước, xa rời đại ca, trong lòng khó tránh khỏi thương cảm. Trong chớp mắt hắn ngẩng đầu lên, thầm nghĩ Quách Tuân nói không sai, nam nhi chí tại bốn phương, mình không thể để cho người khác xem thường.
Mọi người đến bên bờ sông Phần, đi thuyền qua sông, tiếp đó chạy về phương nam hơn mười dặm, lúc này mới dừng lại.
Địch Thanh chỉ tưởng rằng Quách Tuân sẽ chuyển hướng đông nam đi về phía kinh thành Khai Phong, chẳng ngờ Quách Tuân lệnh cho mọi người tìm kiếm chỗ cạn của sông Phần rồi lội qua sông lần nữa, chuyển hướng quay về tiến vào một sơn lộ hẻo lánh. Địch Thanh không hiểu, rốt cuộc Quách Tuân muốn đi đâu. Bởi vì dựa theo đường sá mà đoán, Quách Tuân đang đi loanh quanh, nếu mà chạy như thế này, chẳng bằng từ Tây Hà đi thẳng xuống phía nam cho khỏe. Nhưng hắn thấy mọi người đều nghiêm nghị không hỏi gì, thầm nghĩ dù sao các ngươi quản chuyện ăn chuyện ở của ta, ta đi theo các ngươi là được.
Chẳng ngờ đêm đó tất cả mọi người đều ngủ ở vùng rừng núi, Địch Thanh lấy từ trong bao quần áo ra một ít lương khô cho vào nước suối mà ăn. Trên lưng con ngựa kia của Địch Thanh cũng có một bao quần áo, bên trong có chứa lương khô, thịt khô và mứt hoa quả. Những việc này làm Địch Thanh khó hiểu muốn phát bực, sau khi ăn lương khô xong, tìm một ít cỏ khô ở trong núi lót che gió sau đó nằm xuống nghỉ ngơi, hắn thuở nhỏ bần hàn, ăn gió nằm sương đối với hắn chẳng nhằm nhò gì.
Lúc nửa đêm, Địch Thanh dựa sát vào vách núi, ngắm nhìn trời sao lung linh, ngân hà vẽ ra trên bầu trời giống như rãnh trời, thầm nghĩ từ biệt đại ca như thế, không biết bao giờ mới có thể gặp lại? Hắn đang chìm trong nhung nhớ thì nghe được bên trái có tiếng bước chân rất khẽ truyền đến, trong lòng Địch Thanh rùng mình, quay đầu nhìn lại, trông thấy Quách Tuân đang đứng ở cách đó không xa nhìn mình.
Địch Thanh chậm rãi đứng dậy nói: “Quách đại nhân, tìm tiểu nhân sao?”
Quách Tuân mỉm cười nói: “Ngươi thính lực không tệ, rất thích hợp để học võ. Đáng tiếc là… không có thầy giỏi chỉ dạy, võ công còn chưa được đề cao.”
Địch Thanh gật đầu: “Nhà tiểu nhân nghèo túng, không mời nổi sư phụ.”
Quách Tuân ngồi xuống, gọi Địch Thanh cũng ngồi xuống, không đề cập đến chuyện võ công nữa, hỏi: “Ngươi đã nghe đến Di Lặc giáo chưa?”
Địch Thanh nói: “Đã nghe qua. Nếu không nhờ đại nhân lúc đó chỉ ra, tại hạ còn không biết những người đó chính là người Di Lặc giáo. Nhưng mà Di Lặc giáo là gì vậy, hình như đại nhân cực kỳ căm ghét giáo phái này?”
Quách Tuân than thở: “‘Thích Già Phật (*) suy tạ, Di Lặc Phật chủ sự’ những lời này ngươi đã từng nghe qua chưa?” Thấy Địch Thanh lắc đầu, Quách Tuân cười nói: “Thật ra lúc ngươi đi rồi, ta phái người đi điều tra thân thế của ngươi, biết ngươi gia cảnh bần hàn, tính tình trượng nghĩa, nhưng mà rất ít khi rời khỏi Tây Hà, do đó có rất nhiều chuyện ngươi chưa biết, ta mới thử hỏi ngươi một câu.”
Địch Thanh xấu hổ nói: “Tại hạ vốn là một tiểu tử chỉ biết cậy mạnh, hiểu biết không nhiều lắm, làm cho đại nhân chê cười.”
Quách Tuân nói: “Có người nào vừa sinh ra là biết hết tất cả? Địch Thanh, cười kẻ đầu bạc, chứ sao cười thiếu niên nghèo, ta nhìn thấy được ngươi là người có chí hướng, nếu nỗ lực phấn đấu, sau này tiền đồ vô hạn.”
Địch Thanh trong lòng cảm kích, nói: “Đa tạ đại nhân quá khen. Thật ra…” Hắn muốn nói cái gì đó, nhưng cuối cùng nhịn lại.
Quách Tuân nhìn hắn chằm chằm nói: “Thật ra cái gì?”
“Thật ra cũng không có gì.” Địch Thanh im lặng cười: “Chẳng qua đây chỉ là mơ mộng hão huyền của đứa nhà quê mà thôi.”
Quách Tuân ngược lại có vẻ hứng thú nói: “Nói ra nghe thử.”
Địch Thanh không ngờ Quách đại nhân lại nhiệt tình như thế, lúng túng nói: “Thật ra mẫu thân của tiểu nhân kỳ vọng rất cao ở tiểu nhân, cứ nói tiểu nhân về sau sẽ là một vị tể tướng tài ba … Người nói lúc người tuổi còn trẻ, có một thuật sĩ rất linh xem tướng cho người, nói người có duyên với tể tướng.” Không biết vì sao, hắn cảm thấy Quách Tuân giống đại ca hắn, đều là người thân, nói những lời này không cần phải kiêng dè.
Quách Tuân mở to hai mắt nói: “Chẳng lẽ nói… mẹ ngươi gả cho tể tướng?”
Địch Thanh lắc đầu nói: “Điều này không phải, thuật sĩ nói mẹ tiểu nhân sẽ sinh ra một tể tướng.” Nhìn thấy Quách Tuân tròng mắt mở to giống như mắt trâu, Địch Thanh cũng cảm thấy có chút buồn cười, nói: “Vì vậy mẹ tiểu nhân khi còn sống luôn luôn nói với tiểu nhân: ‘con trai, con phải nỗ lực, đừng có chỉ biết cả ngày rong chơi, con sau này có mệnh làm tể tướng đó’. Hắc hắc, tiểu nhân thì muốn làm tể tướng, nhưng trời sinh không thích đọc sách, đã phụ lòng tin của mẹ ta. Không đọc sách, không thi trạng nguyên, làm sao có thể lên làm tể tướng chứ?”
Quách Tuân xoay đầu lại… nhìn về phương xa nói: “Vậy cha ngươi là người như thế nào?”
Địch Thanh nói: “Cha tiểu nhân? Người … mang bệnh, lúc nào cũng không khỏe, tiểu nhân sinh ra chưa được bao lâu, người đã qua đời. Mẹ tiểu nhân vất vả cực nhọc nuôi nấng hai huynh đệ tiểu nhân, không chờ tiểu nhân khôn lớn, cũng đã qua đời. Ai … Đại ca của tiểu nhân cả đời khổ cực, vừa làm cha lại vừa làm mẹ, nuôi tiểu nhân khôn lớn, cho nên tiểu nhân không thể để cho đại ca tiểu nhân phải chịu oan ức.”
“Đó là lí do mà ngươi vô cùng kính trọng đại ca, liều chết cũng phải tìm Triệu Vũ Đức tính sổ?” Giọng nói Quách Tuân có chút khàn khàn.
Địch Thanh nhìn chăm chú vào một nơi, gật đầu nói: “Không sai, tiểu nhân chỉ có một người đại ca này, cũng chính là người thân duy nhất! Tiểu nhân cho dù phải chịu áp bức và lăng nhục cũng không hề gì, nhưng không dễ dàng tha thứ người khác ức hiếp đại ca của tiểu nhân! Đại ca sợ tiểu nhân học thói xấu, bảo rằng mẹ đã dặn, tham gia quân ngũ rất ít người tốt, nên bảo tiểu đừng có tham gia quân ngũ… Vì thế mấy ngày hôm trước Quách đại nhân tuyển tiểu nhân nhập ngũ, tiểu nhân mới tìm mọi cách để chối từ.”
Quách Tuân lẩm bẩm nói: “Hóa ra là vậy. Tham gia quân ngũ rất ít người tốt?” Trong đầu hắn đột nhiên loé lên hình ảnh nữ tử như hoa mai kia, âm thanh bén nhọn hướng về phía hắn quát lên: “Quách Tuân, ngươi có bản lĩnh cao, vậy thì sao chứ? Ta cả đời này cũng sẽ không thích ngươi, tham gia quân ngũ… Không có một người nào tốt!” Quách Tuân nghĩ tới đây, khóe miệng lộ ra một nụ cười cay đắng, nhưng người hắn xoay đi chỗ khác, Địch Thanh cũng không có nhìn thấy.
Địch Thanh cảm thấy lỡ lời, vội hỏi: “Tham gia quân ngũ đương nhiên cũng có người tốt, giống như Quách đại nhân đây.” Nói lảng sang chuyện khác: “Quách đại nhân, Di Lặc giáo suy cho cùng xảy ra chuyện gì, chúng ta lần này là muốn đi bắt người Di Lặc giáo sao?” Hắn mơ hồ nhìn ra được gì đó, nói ra lời suy đoán này.
Quách Tuân trầm lặng một lúc lâu, cuối cùng nói: “Di Lặc giáo thực ra có lai lịch từ xa xưa, được sáng lập vào thời Lương Vũ đế, đến thời Tùy Đường thì phát triển mạnh. Dù cho hiện tại Đại Tướng Quốc Tự trong kinh thành có pho tượng phật Di Lặc, mặt mày hiền hậu, ngồi ở trên đài sen, bên người phật Di Lặc có Tứ Đại Thiên Vương thủ vệ, nói là muốn tiêu diệt tất cả thế lực tà ác trong thiên hạ. Tay cầm rắn là Quảng Mục Thiên Vương, tay cầm đại đao là Trì Quốc Thiên Vương, lưng đeo bảo kiếm là Tăng Trưởng Thiên Vương, lưng vác tán(ô/dù) là Đa Văn Thiên Vương.
Địch Thanh nghe xong cảm thấy buồn bực, không hiểu Quách Tuân vì sao phải nói với hắn những điều này.
Quách Tuân ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng, lúc này ánh trăng lành lạnh chiếu xuống mặt, làm cho hắn thoạt nhìn tràn đầy cương nghị. Lúc Địch Thanh mới quen hắn, chỉ cảm thấy vị đại nhân này hơi thô lỗ không biết lý lẽ, sau này được hắn tặng bạc giúp đỡ, cảm thấy người này hào phóng chính trực, vào lúc này khi nói đến Di Lặc giáo, lại cảm thấy Quách Tuân kiến thức phi phàm.
Địch Thanh vốn không biết Quách Tuân xuất thân quân công thế gia, văn võ song toàn, nếu không sẽ nảy sinh lòng ngưỡng mộ Quách Tuân.
Quách Tuân lại nói: “Tứ Đại Thiên Vương này chính là hộ vệ của phật Di Lặc, diệt trừ tà ác trong thiên hạ, giáo phái này bản ý là tốt. Nhưng giáo bản vô tội, tội là ở trong tâm con người!” Quách Tuân thở dài một hơi: “Di Lặc giáo lâu ngày bị người có dụng ý xấu lợi dụng, tại Bắc Nguỵ, Tùy Mạt đều dấy lên sóng to gió lớn. Đến triều đại bây giờ, Di Lặc giáo vốn đã suy yếu, nhưng thời gian gần đây, triều đình lại tra ra được có người lợi dụng Di Lặc giáo mê hoặc nhân tâm, tiến hành việc tạo phản. ‘Thích Già phật suy tạ, Di Lặc phật chủ sự’ Những lời này nghĩa là phật tổ Thích Ca Mâu Ni suy sụp, phật Di Lặc phải dẫn dắt mọi người khai mở mặt khác của thế giới, dã tâm tạo phản không cần nói cũng biết. Thái Hậu nghe vậy giận dữ, lúc này mới lệnh cho Khai Phong phủ phái người điều tra việc này, ta cũng phải hỗ trợ điều tra. Vì thế ta ngoài mặt là tới Phần Châu chiêu mộ cấm quân, nhưng mà mục đích chính là điều tra phân bố của giáo đồ Di Lặc giáo. Ta phát hiện dấu vết Di Lặc giáo đồ thường lui tới ở Tây Hà , lúc này mới kết giao với Triệu huyện lệnh, vô tình phát hiện hắn cũng là một tham quan rất lớn, ta vốn muốn tấu lên triều đình, nhưng mà sợ rút dây động rừng, lúc này mới tạm thời nhẫn nại. Sau đó…ngươi đến, chuyện còn lại ngươi cũng biết rồi đó.”
Địch Thanh lo lắng nói: “Nếu không phải tiểu nhân không biết chừng mực, nói không chừng Quách đại nhân một mẻ hốt gọn bọn chúng rồi.”
Quách Tuân an ủi Địch Thanh, nói: “Thật ra ta chỉ tra ra được Tác Minh và Côn Tử có quan hệ cùng Di Lặc giáo đồ, nhưng không biết Xa quản gia cũng thế. Chẳng qua ta hoài nghi còn có người trà trộn ở trong này, lúc đó mới dọa thử, Xa quản gia có tật giật mình, nên cuối cùng leo tường bỏ chạy.”
Địch Thanh linh quang khẽ động, nói rằng: “Kỳ thực Quách đại nhân cố ý thả hắn đi, có đúng không?”
Quách Tuân ánh mắt lộ ra tia giảo hoạt, cười nói: “Địch Thanh, ngươi rất thông minh. Không sai, ta cố ý thả cho Xa quản gia đi, sai người âm thầm theo dõi hắn, đến bây giờ đã biết sào huyệt của bọn chúng nằm ở ngay Bạch Bích lĩnh, cách Tây Hà hơn một trăm dặm về phía nam. Ta mặc dù bắt được Côn Tử, nhưng Côn Tử cực kỳ giảo hoạt, dùng biện pháp thí tốt giữ tướng, nói ra mấy chỗ không có liên quan gì tới sào huyệt. Ta đành tương kế tựu kế, mấy ngày nay dùng thủ đoạn sấm sét diệt trừ mấy chỗ này, sau đó gióng trống khua chiêng tuyên bố quay lại kinh thành…”
Địch Thanh giờ mới tỉnh ngộ, “Quách đại nhân cố ý đi một vòng tròn, sau đó lén lút quay lại, chính là muốn lẻn vào Bạch Bích lĩnh, thừa dịp bọn chúng buông lỏng cảnh giác, đánh cho chúng một kích trở tay không kịp?”
Quách Tuân mỉm cười nói: “Đúng là như vậy, được rồi, những điều ta nên nói đã nói, ngươi nghỉ ngơi cho tốt đi, ngày mai nói không chừng sẽ có trận ác chiến đó.” Hắn đứng dậy rời đi, thân thể cao to dưới ánh trăng kéo theo một cái bóng cô đơn.
Địch Thanh cảm thấy hơi khó hiểu, không giải thích được vì sao Quách Tuân lại nói với một tân binh như hắn những chuyện này? Nhưng dù nói thế nào thì việc Quách Tuân rất coi trọng hắn là không hề giả một chút nào. Địch Thanh mới rời quê nhà, trong lúc nhất thời nỗi lòng tràn về như thủy triều, mơ mơ màng màng ngủ lúc nào không hay.
Sáng sớm ngày thứ hai, Quách Tuân án binh bất động, ra lệnh cho mọi người tiếp tục nghỉ ngơi. Đám cấm quân nghiêm nghị vâng theo, Địch Thanh cũng xuất ra cây đao mới được phát, khua khua vài cái. Một ngày chớp mắt đã qua, hoàng hôn đã đến, có một người mặc trang phục thường dân đến đây, Địch Thanh nhận ra người này chính là người cao gầy hôm bữa, tên là Triệu Luật. Triệu Luật nói khẽ với Quách Tuân vài câu, Quách Tuân gật đầu, quát lớn: “Chuẩn bị xuất phát.”
Đám cấm quân đã sớm bứt rứt trong người, nghe vậy liền nhảy bật dậy. Quách Tuân truyền lệnh năm người lập thành một đội, thay quần áo thường dân mặc vào, sau đó đem tấm bản đồ đã chuẩn bị sẵn bày ra, dặn dò những việc cần làm lần này cho mỗi người.
Hóa ra mỗi khi đến đêm trăng tròn, Di Lặc giáo đồ lại dựa theo thông lệ, đều phải tiến hành nghi thức tế nguyệt. Lúc này bởi vì bị triều đình chú ý, Di Lặc giáo không dám xuất đầu lộ diện, do biết được Quách Tuân đã rời đi, bọn chúng ngay lập tức quyết định đến thung lũng Phi Long ở Bạch Bích lĩnh tiến hành tế nguyệt.
Quách Tuân đã sớm hiểu rõ địa hình Bạch Bích lĩnh như lòng bàn tay, bắt đầu dặn dò rõ ràng cho từng người, nhiệm chủ yếu lần này của đám cấm quân là ngăn lối đi chính, tùy thời trà trộn vào trong tín đồ, gây ra hỗn loạn, bắt giết nghịch đảng, mà nhiệm vụ của Quách Tuân cũng đơn giản rõ ràng, giết phật Di Lặc!
Quách Tuân tính tình quả thực rất can đảm cẩn trọng, hiểu rõ đạo lý ‘Bắn người phải bắn ngựa, bắt giặc phải bắt tướng’, biết rằng phật Di Lặc nếu không chết, Di Lặc giáo bất cứ lúc nào cũng có thể tro tàn lại cháy, đây là sách lược đã được định ra.
Địch Thanh thấy Quách Tuân chỉ huy bình tĩnh trí tuệ, rất có phong độ của một đại tướng, không khỏi kính phục vô cùng. Hắn biết Quách Tuân võ công cực cao, trước đây nếu như là công bằng mà đấu, Địch Thanh tuyệt đối không phải là đối thủ của Côn Tử, nhưng Quách Tuân chỉ dùng hai chiêu đã bắt Côn Tử chịu trói, bản lĩnh cao cường có thể thấy rõ.
Quách Tuân dặn dò xong xuôi, đám cấm quân nhất loạt xuất phát, đi trước chỉ định địa điểm, Địch Thanh phát hiện chỉ có duy nhất một mình mình là không có nhiệm vụ, không khỏi ngạc nhiên hỏi: “Quách đại nhân, ta làm cái gì?”
Quách Tuân nhìn chằm chằm hắn nói: “Ngươi theo ta đi giết phật Di Lặc, không biết ngươi dám hay không?” Thấy Địch Thanh một lúc lâu không đáp, Quách Tuân thở dài nói: “Thì ra ngươi là người không có can đảm.”
Địch Thanh do dự nói: “Quách đại nhân, nếu phật Di Lặc thật sự đáng chết, người đầu tiên tiểu nhân muốn giết chính là hắn. Nhưng mà … hắn không hẳn đáng chết … Hắn mặc dù tạo phản, người cũng đã biết rõ, rất nhiều dân chúng làm loạn cũng là bởi vì sống không nổi nữa, mà không phải cố ý muốn lật đổ giang sơn Đại Tống.
Quách Tuân thản nhiên nói: “Nếu không đích thân tiến vào, làm sao mà biết được hắn không đáng chết chứ?”
Địch Thanh nói: “Được, tiểu nhân sẽ đi cùng với Quách đại nhân. Chỉ sợ … tiểu nhân sẽ liên lụy người.”
Quách Tuân không đáp, thay đổi một bộ y phục thường dân, xuống ngựa đi về hướng tây, Địch Thanh cũng bắt chước làm theo, thấy Quách Tuân lần này mọi chuyện đều thận trọng, khó tránh khỏi trong lòng lo sợ.
Lúc trăng sáng treo cao, Quách Tuân và Địch Thanh đã đến vùng ven Bạch Bích lĩnh. Khe rãnh trong Bạch Bích lĩnh có hàng vạn hàng nghìn, cảnh vật âm u tĩnh mịch, núi non nhấp nhô uốn lượn, có sông đẹp xuyên qua trong đó, phong cảnh vốn tú lệ. Cũng không hiểu vì sao, trong quần sơn lúc nào cũng sương mù mông lung, mang đến một chút cảm giác thê lương.
Quách Tuân nhìn vào địa hình, men theo một con đường nhỏ mà vào. Mới vào trong dãy núi chưa được bao lâu, chợt nghe thấy ở sau tảng đá lớn phía trước có người hô to: “Nguyệt thượng cô chủ phần!”
Địch Thanh ngẩn ra, không giải thích được ý gì, Quách Tuân ung dung nói: “Phật chiếu thiên địa môn.”
Từ phía sau tảng đá vòng ra hai người nói: “Các ngươi chính là thủ hạ của vị Thiên Vương nào, sao … lại đến nơi này?” Hai người này mặc đồ đen, trên mặt đeo một cái mặc nạ dữ tợn, trong màn đêm âm u, làm cho lòng người phát lạnh. Một người đột nhiên đưa tay chỉ nói: “Ngươi là ai?” Hắn lời còn chưa dứt, Quách Tuân đã như con báo nhanh nhẹn xông tới, bổ một chưởng vào giữa cổ họng người kia, tiếng quát người kia đột ngột im bặt. Người còn lại kinh hãi, vừa muốn thổi còi báo động, không ngờ bàn tay Quách Tuân vỗ một cái, người nọ “Rầm” một tiếng, cái còi chui tọt vào cổ họng hắn luôn, cổ tay Quách Tuân khẽ đảo, bàn tay to như cái quạt hương bồ đã nắm đầu người đó, dùng sức vặn một cái, đã vặn gãy xương cổ người đó.
Hai người đeo mặt nạ mềm nhũn ngã xuống, Quách Tuân đứng tại chỗ nói: “Địch Thanh, cởi y phục bọn chúng thay vào, lấy mặt nạ đeo vào luôn.”
Địch Thanh thấy Quách Tuân giết người như giết gà, không khỏi trong thâm tâm cảm thấy mình may mắn, thầm nghĩ cũng may mình không phải là kẻ địch của Quách Tuân.
Hai người thay đổi y phục của hai kẻ kia, lại lấy mặt nạ đeo vào mặt, Quách Tuân lục soát trên người hai kẻ kia, lấy ra hai khối lệnh bài, vứt cho Địch Thanh một khối, thấp giọng nói: “Lát nữa để ta đối đáp, ngươi đừng có lên tiếng.”
Địch Thanh nhận lệnh bài móc vào lưng quần, hỏi: “Quách đại nhân, tại sao quen thuộc nơi này vậy?” Hắn lúc đầu còn tưởng rằng những người sùng bái Di Lặc giáo nhiều lắm cũng chỉ là một đám dân lưu lạc, có thể thấy được đối phương tổ chức uy nghiêm đáng sợ, không giống với người dân tầm thường, không khỏi hoảng sợ.
Quách Tuân mỉm cười nói: “Đương nhiên là có người giúp chúng ta tìm hiểu tất cả.” Hắn không hề nhiều lời, chậm rãi tiếp tục dọc theo sơn đạo mà đi, được khoảng vài dặm, ở sau gốc cây phía trước có người khẽ quát nói: “Hai người các ngươi không vâng lệnh ở phía trước, đến đây làm cái gì?”
Quách Tuân khàn giọng nói: “Có người bẩm báo, nói rằng ở bắc lĩnh nhìn thấy bộ đầu kinh thành Diệp Tri Thu dẫn người tới đây. Ta chỉ sợ bọn họ gây bất lợi cho phật chủ, mới đặc biệt tới bẩm báo.”
Một người từ sau cây đi ra, cũng đeo một cái mặt nạ quỷ dữ tợn, kinh hô: “Diệp Tri Thu tới? Hắn sao lại tới đây?”
Địch Thanh rất là hiếu kỳ, không biết Diệp Tri Thu là ai, mà có thể khiến Di Lặc giáo đồ Phần Châu sợ hãi. Quách Tuân nói: “Ta cũng không rõ, nhưng chỉ sợ bọn họ muốn phá hoại chuyện phật chủ tế nguyệt, ngươi mau dẫn ta đi bẩm báo với Thiên Vương, để phật chủ đề phòng.”
Người kia không nghi ngờ, ngẩng đầu nhìn lên cây nói: “Ngươi ở chỗ này quan sát, ta dẫn bọn hắn đi bẩm báo phật chủ.”
Địch Thanh âm thầm buồn cười, thầm nghĩ những người này cố ý làm ra vẻ quỷ khí âm u, nhưng cũng có một nhược điểm rất lớn, đó chính là trong lúc hai bên trò chuyện chỉ nhìn thấy mặt nạ và lệnh bài, ngược lại để Quách Tuân có kẽ hở lợi dụng. Quách Tuân tài cao mật lớn, nắm được lổ thủng ấy, dễ dàng trà trộn tiến vào đây, thật có thể nói là can đảm cẩn trọng.
Có người mặt quỷ dẫn đường, Quách Tuân và Địch Thanh ngầm đi qua hai trạm, tiến vào thung lũng Phi Long. Thung lũng Phi Long là một thung lũng khá rộng mở ra ở giữa quần sơn Bạch Bích lĩnh. Bởi vì từ trong cốc nhìn lên, chỉ thấy được quần sơn liên miên, giống như Thương Long bay lên trời, vì thế mà thành tên gọi.
Lúc này ánh trăng lành lạnh, gió mát nhè nhẹ, Địch Thanh tới trước thung lũng Phi Long, không khỏi hít một ngụm khí lạnh. Hắn chỉ cho rằng nơi đây cực kỳ hẻo lánh, chỉ nghĩ ở đây đều là nhân vật thủ lĩnh của Di Lặc giáo, không ngờ trong cốc lại đầy thường dân lít nhít quỳ, chừng gần nghìn người. Tất cả mọi người đều yên lặng không một tiếng động, vẻ mặt thành kính, trên đài cao trước mặt dân chúng có một đài sen, trên đài sen có một pho tượng Kim Phật đang ngồi, miệng luôn nở nụ cười.
Trong cốc bốn phía nhóm lửa trại hừng hực, phía trước phật Di Lặc nhóm lên một đống lửa lớn hơn, bụi bay mù mịt, dâng lên tới tận trời.
Bên cạnh Kim Phật có ngồi bốn người, đều đeo mặt nạ thiên thần như nhau.
Một người mặc áo đỏ, đầu đội mão rồng, toàn thân như lửa đỏ thiêu đốt, trên mình có một con mãng xà, trong tay cầm thiết giản.
Ngoài ra còn có một người mặc áo xanh, ánh mắt đỏ lên giận dữ, trên mặt đeo mặt nạ cực kỳ phẫn nộ uy nghiêm, người này bên hông đeo trường kiếm, dài khoảng bốn thước.
Người thứ ba áo trắng, tóc tía mi hiền, mặt nạ trên mặt biểu lộ sắc thái rất từ bi, trên tấm ván gỗ phía trước người hắn có cắm thanh đại đao, lưỡi đao to dày, chói lóa cả mắt.
Người cuối cùng trên vai đeo một cái trường ô, mũi ô sắc bén, chính là rèn từ thép tốt. Hắn mặc áo màu lục, mặt nạ mang vẻ tươi vui.
Địch Thanh thấy hình dạng binh khí của bốn người này, đột nhiên nghĩ tới Tứ Đại Thiên Vương theo như lời của Quách Tuân nói đêm qua.
Bốn người này mang rắn, đeo kiếm, cầm đao, vác dù, đó chính là tứ đại hộ pháp ngồi xung quanh phật Di Lặc? Cũng chính là Quảng Mục, Tăng Trưởng, Trì Quốc và Đa Văn Tứ Đại Thiên Vương!
Thế nhưng Tứ Đại Thiên Vương đều ở đây, còn phật Di Lặc người mà Quách Tuân muốn ám sát thì ở nơi nào?
Chương 3 : Khổ Chiến.
Trăng sáng dòm người, gió lùa lành lạnh. Một cơn gió núi thổi qua, bóng cây lắc lư như ma quỷ đang nhe nanh múa vuốt.
Địch Thanh tuy gan lớn, nhưng tới đây cùng Quách Tuân, giống như một chiếc thuyền nhỏ đơn độc trôi nổi trên biển rộng mênh mông, trong lòng không khỏi thấp thỏm, luôn nhìn về phía Quách Tuân.
Địch Thanh nhìn về phía Quách Tuân, Quách Tuân lại chỉ nhìn Kim Phật ở giữa Tứ Đại Thiên Vương.
Trong lòng Địch Thanh khẽ động, thầm nghĩ vị tượng Kim Phật kia lẽ nào chính là Di Lặc phật chủ? Nhưng mà nhìn từ xa Kim Phật này to gấp mấy lần thân thể người thường, rất lâu rồi vẫn không thấy động đậy, thoạt nhìn giống như một con rối, sao có thể là phật Di Lặc?
Người kia mang mặt nạ quỷ nhỏ giọng nói: “Phật chủ đang chúc phúc cho muôn dân, lúc này không thể cắt ngang, chờ một lát nữa rồi hãy qua đó.”
Quách Tuân gật gật đầu, nhìn chằm chằm pho tượng Kim Phật kia, nghĩ thầm: ‘ Căn cứ vào tin tức của Diệp Tri Thu, Phật Di Lặc thực ra ẩn thân ở bên trong Kim Phật, làm ra vẻ thần bí mê hoặc lòng người, bản thân mình mặc dù trà trộn tiến vào, cần phải vượt qua gần ngàn dân chúng ở đây, hạ gục chặn đường Tứ Đại Thiên Vương, lại đánh chết Phật Di Lặc trong Kim Phật, tuyệt không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng mà… Tin tức Diệp Tri Thu có đáng tin tuyệt đối hay không?’ Quách Tuân là người nhìn giống như thô lỗ, nhưng lại cực kỳ cẩn thận, không sợ khó mà thoát thân, chỉ sợ một kích này không trúng, hậu hoạn vô cùng.
Đúng lúc này, Quách Tuân đột nhiên cảm giác được có chút không đúng, nhưng trong lúc nhất thời lại không biết vấn đề ở chỗ nào. Chỉ thấy một vài người dân đang quỳ rối rít ngẩng đầu nhìn lên trời, cảm xúc dâng trào.
Quách Tuân ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy được ở góc đông nam nhanh chóng tụ lại một đám mây đen cuồn cuộn. Đám mây này tới rất nhanh, không cần nhiều thời gian, đã che một nửa trăng sáng, trải qua thời gian chén trà nhỏ, mây đen đã che kín bầu trời khuất hoàn toàn mặt trăng.
Địch Thanh lại phát hiện trước mặt Tứ Đại Thiên Vương đều để một chén nước, trước mặt mỗi người dân đang quỳ, cũng có một chén nước trong vắt, không biết có tác dụng gì. Những người này có nam có nữ, có già có trẻ, thoạt nhìn giống như cả nhà đều kéo tới đây. Địch Thanh thấy vậy, đột nhiên nhớ tới đại ca, trong lòng một phen ấm áp, cảm thấy những người này chắc chắn là thường dân lương thiện, cũng không thấy phật Di Lặc kia hung ác ở chỗ nào, Quách Tuân lần này tiếp nhận ý chỉ của triều đình đến tiêu diệt Di Lặc giáo, cũng không được danh chính ngôn thuận.
Bầu trời ảm đạm, lửa trại hừng hực, khói nhẹ tràn ngập không gian, tinh thần quần chúng cuộn trào mãnh liệt, khiến cho tình hình trong thung lũng Phi Long mù mịt khó tả. Mắt thấy những thường dân sắp rối loạn, lúc này một tiếng hét lớn truyền đến đinh tai nhức óc, mọi người đột nhiên đều yên lặng, nhìn về phía đài cao. Chỉ thấy Tăng Trưởng Thiên Vương đột nhiên vung bội kiếm lên, hét lớn: “Yêu nghiệt đã hiện, phật chủ trừ ma!”
Trì Quốc Thiên Vương cũng nhấc đao lên hét lớn: “Phật chủ cứu thế, phổ độ chúng sinh!”
Chắc chắn địa vị hai vị Thiên Vương Tăng Trưởng, Trì Quốc trong lòng dân chúng cực cao, tiếng hét như sấm, dân chúng xôn xao đã dừng lại, lúc này lại nghe một thanh âm từ bi truyền đến: “Trăng vàng hết sáng, yêu nghiệt đã sinh. Tâm như gương sáng, phổ độ chúng sinh.” Giọng nói là từ phía Kim Phật truyền đến, có thể thấy môi của Kim Phật khẽ hé ra khép lại.
Địch Thanh nhìn thấy pho tượng đại phật này nói chuyện giống như một người sống, trong lòng lấy làm kinh ngạc.
Lúc này mây đen che khuất vầng trăng, gió cũng hết lạnh, không trung tràn đầy khí tức âm u, dân chúng cũng thì thầm “Trăng vàng hết sáng, yêu nghiệt đã sinh. Tâm như gương sáng, phổ độ chúng sinh…”
Dân chúng càng đọc càng nhanh, càng đọc càng gấp, hết thảy già trẻ nam nữ đều giống như bị ma nhập. Địch Thanh vốn đang cảm thấy phật Di Lặc hoà nhã dễ gần, nhưng khi nhìn thấy tình cảnh này, tim không khỏi đập loạn nhịp.
Quách Tuân nghe được Phật chủ nói, không kinh sợ mà còn lấy làm mừng, thầm nghĩ nếu không phải phật Di Lặc, ai lại có bản lĩnh mê hoặc chúng sinh? Y đã chắc chắn phật Di Lặc ở bên trong Kim Phật, nhìn qua thấy khắp nơi đều lặng yên, bèn tìm cơ hội ra tay, thấy giữa đám dân chúng lại có mấy cấm quân ẩn nấp, hóa ra đám người trà trộn vào trên người đã có sẵn ký hiệu bí mật, người bên ngoài mặc dù nhìn không ra, nhưng Quách Tuân vẫn có thể nhận ra. Mặc dù mấy người này bôi đen mặt, nhưng Quách Tuân nhìn vào khuôn mặt, vẫn ngờ ngợ nhận ra mấy người này chính là Quách Mạc Sơn, Trương Hải và Vương Tắc, không khỏi mừng thầm, thầm nghĩ mấy người này trong cấm quân đều cực kỳ nhạy bén, võ công cũng không tệ, có bọn họ giúp đỡ, khả năng thành công sẽ cao hơn. Quách Tuân cũng không đem Địch Thanh tính ở trong đó, hắn mang Địch Thanh theo là có dụng ý khác.
Đột nhiên thấy trên mặt mát lạnh, Quách Tuân mới phát hiện rằng trời đã mưa, những giọt mưa lộp bộp rơi xuống, mưa đến rất nhanh, thoáng cái đã như trút nước.
Những người dân đứng ở trong mưa, mặc cho mưa rơi, cũng không có người nào động đậy. Quảng Mục Thiên Vương có con cự mãng quấn thân bỗng nhiên đứng dậy hét lớn: “Phật chủ cầu phúc, trời ban nước thánh.”
Đa Văn Thiên Vương mang dù cũng đứng dậy quát lên: “Nước thánh vô căn, gột ác tẩy trần.”
Tứ Đại Thiên Vương cùng nhau bưng chén nước trước mặt lên, cùng nói: “Nước thánh vô căn, gột ác tẩy trần!” Bọn họ bưng chén nước uống một hơi cạn sạch, đám dân chúng cũng uống theo. Ba người Quách Mạc Sơn do dự một chút, cuối cùng Vương Tắc bưng lên uống hết, còn Quách Mạc Sơn và Trương Hải thì lại thừa lúc mọi người không chú ý, đổ nước xuống đất.
Thì ra ba người đã phụng mệnh ẩn nấp tại phụ cận Bạch Bích lĩnh này từ rất sớm, nghe được tin dân chúng tham gia ở nơi này, bèn tìm thời cơ trà trộn tiến vào. Người dân hội họp ước chừng một nghìn người, nhưng người kiểm soát thì lại không nhiều, nên để cho ba người bọn họ dễ dàng trà trộn vào. Sau khi bọn họ tới được thung lũng Phi Long, mỗi người đều lấy một chén nước thánh đặt ở trước mặt, nước thánh này cũng không có điều gì khác thường, chẳng biết dùng như thế nào, nhưng cũng không dám hỏi. Tính cách Quách Mạc Sơn, Trương Hải cẩn thận, không dám uống nước, Vương Tắc lại nghĩ, chén nước này hơn ngàn người uống, dù sao cũng không đến mức là độc dược, cho nên vẫn uống.
Trong mưa mọi người tràn đầy tiếng động lớn rầm rĩ. Quách Mạc Sơn, Trương Hải vốn tưởng rằng đổ chén nước đi sẽ không có người chú ý, nhưng không ngờ Quảng Mục Thiên Vương đột nhiên quát lớn: “Vì sao hai người các ngươi không uống?”
Cả người Quảng Mục Thiên Vương bay vút lên, con mãng xà trên người đột nhiên lượn vòng lên xuống, cả người lẫn rắn đều nhìn về phía Quách Mạc Sơn.
Hai người Quách, Trương thầm kêu khổ, không ngờ Quảng Mục Thiên Vương lại có con mắt sắc bén đến như vậy, Tăng Trưởng Thiên Vương vừa nhấc chân, bước xuống đài gỗ, chậm rãi đi về phía Quách Mạc Sơn, hét lớn: “Ngươi là gian tế ở nơi đâu?”
Lời Tăng Trưởng Thiên Vương còn chưa dứt đã đưa tay rút kiếm. Chỉ nghe một tiếng ‘Sang lang’, thanh kiếm dài hơn bốn thước đã được hắn nắm chắc ở trong lòng bàn tay, vẽ lên một vệt ánh sáng trên không trung. Hắn không hề tiến lên, lấy thân kiếm chỉ hướng, nói: “Giết!”
Chữ ‘Giết’ vừa ra khỏi miệng Tăng Trưởng Thiên Vương, đã nghe thấy hai tiếng kêu thảm thiết truyền đến, Địch Thanh thấy thế, chợt cảm thấy lạnh sống lưng. Thì ra hai người Quách, Trương không sao, nhưng có hai người thường dân đột nhiên nắm lấy hai người khác bên cạnh, cắn một phát vào cổ họng đối phương. Người bị cắn cố gắng giãy dụa, nhưng cuối cùng cũng đuối sức, chỉ trong chốc lát đã không còn động đậy.
Hai người sống sờ sờ đã bị cắn chết.
Sắc mặt Quách Mạc Sơn, Trương Hải thay đổi lớn, nhìn thấy trong mắt những người xung quanh đều lột ra ánh mắt như dã thú, không khỏi hoảng hốt.
Đa Văn Thiên Vương khoan thai nói: “Di lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp, sát nhân thiện nghiệp, lập địa thành Phật, giết một người làm Nhất trụ Bồ Tát… Giết mười người làm Thập trụ Bồ T át. . .”(*) Hắn chưa nói xong, tình hình trong thung lũng Phi Long đã hoàn toàn không thể kiểm soát được nữa. Thường dân ở đây giống như phát điên cắn xé lẫn nhau, khóe miệng đều mang theo nụ cười khiến người ta lạnh tim.
Địch Thanh thấy có hai người giống như một cặp vợ chồng bóp cổ lẫn nhau như hai người xa lạ, có người phụ nữ cắn xé lẫn nhau, cực kỳ quái dị, có hai người giống như huynh đệ trở mặt thành thù, tay đấm chân đá. Ban đầu trong cốc vốn rất yên bình, thoáng cái đã trở thành địa ngục nhân gian. Hắn lúc này mới hiểu rõ vì sao Quách Tuân nhất định phải diệt trừ phật Di Lặc, máu tanh tàn nhẫn ở đây thật sự khiến người ta vô cùng căm phẫn.
Quách Mạc Sơn, Trương Hải đã rơi vào trong vòng vây đánh của dân chúng.
Quách Tuân thất kinh, chợt nhớ tới chuyện cũ, thầm kêu không xong.
Lúc đầu Bắc Nguỵ dưới thời Tuyên Vũ đế, vùng Ký Châu có một người tên là Pháp Khánh, tự xưng mình là ‘Tân Phật’, sáng lập cái gọi là ‘Đại Thừa Phật’, phong Lý Quy Bá là Thập trụ Bồ Tát. Giáo phái khác đều chú trọng việc tu tâm dưỡng tánh, khuyến khích làm việc thiện cứu giúp người, còn Tân Phật này lại coi trọng việc giết người thành Phật, hơn nữa chủ trương giết càng nhiều người càng tốt. Đại Thừa Phật có một thứ thuốc mê làm lệch lạc tâm tính, có thể khiến cho cha con xích mích, vợ chồng thành thù, sau này Pháp Khánh, Lý Quy Bá dấy lên sóng gió khôn cùng, cuối cùng bị triều đình trấn áp, không ngờ tới hôm nay, việc cũ lại tái diễn.
Nhưng tên phật Di Lặc có ý làm phản này, vì sao lại muốn tín đồ của mình giết hại lẫn nhau ở thung lũng Phi Long?
Quách Tuân không có thời gian nghĩ nhiều, khẽ hú một tiếng, cả người đã nhảy lên không trung, mũi chân liên tiếp điểm vài cái, giẫm lên đầu thường dân mà bay qua.
Tiếng hú vừa mới phát ta, người đã ở giữa không trung, tiếng hú còn chưa dứt, cả người Quách Tuân đã vọt lên đài cao.
Mọi người bị tiếng hú của y làm giật mình, phút chốc yên lặng. Tứ Đại Thiên Vương nghe được tiếng hú đều kinh ngạc khó hiểu, không ngờ trong thung lũng Phi Long ngoài bọn người Quách Mạc Sơn, không ngờ còn có cao thủ ẩn nấp. Trì Quốc Thiên Vương thấy Quách Tuân vọt tới, bèn hét lớn: “Yêu nghiệt phương nào? Đến đây chịu chết!” Cổ tay hắn khẽ lật, thanh đao lớn đã rơi vào tay, trong tiếng hét lớn, đã chém tới đỉnh đầu Quách Tuân. Đao phong pha lẫn với nước mưa, ập thẳng xuống mặt Quách Tuân, thanh thế làm người ta kinh ngạc. Với một đao này, hắn vốn muốn dồn Quách Tuân xuống phía dưới đài, hòng cùng với thường dân đã bị ngấm thuốc vây khốn Quách Tuân.
Quách Tuân hừ lạnh một tiếng, không lùi lại mà còn tiến tới lướt qua lưỡi đao đang tới sát. Lưỡi đao sắc bén chém rách một mảnh vạt áo của Quách Tuân, nhưng y đã nắm lấy cổ tay của Trì Quốc Thiên Vương, đoạt lấy khảm đao của hắn, trở tay giật một chỏ vào giữa ngực đối phương.
Sau một tiếng ‘Phanh’ thật lớn, Trì Quốc Thiên Vương lùi mấy bước về phía sau, cảm thấy khí huyết nhộn nhạo, không khỏi kinh hãi vô cùng. Hắn thân là hộ pháp tọa hạ bên người phật Di Lặc, là một trong Tứ Đại Thiên Vương, võ công cao cường không cần nói cũng biết, nhưng Quách Tuân bất ngờ đánh ra một chiêu đã đoạt được binh khí của hắn, còn thiếu chút nữa đánh cho hắn hộc máu, quả thực Trì Quốc Thiên Vương chưa bao giờ gặp qua ai võ công cao như kẻ này.
Trong lòng Quách Tuân cũng thấy hơi run rét lạnh, một cú thúc chỏ này của y dù vội vàng đi chăng nữa thì cũng có thể dễ dàng đánh gục một con trâu, vốn tưởng rằng dù không thể đánh gục Trì Quốc Thiên Vương, cũng có thể đánh gãy vài chiếc xương ngực của hắn, không ngờ Trì Quốc Thiên Vương khí lực hùng tráng, một chỏ này chỉ khiến hắn thối lui vài bước.
Quách Tuân ứng biến cực nhanh, đoạt lấy đao đẩy lui địch, lại tiến lên một bước, thanh đao mang theo những giọt mưa hóa thành một vòng cung lạnh lẽo, chém về phía Trì Quốc Thiên Vương. Trì Quốc Thiên Vương không dám tiếp chiêu, lăn một vòng ngay tại chỗ, đã chui xuống dưới đài gỗ. Quách Tuân bức lui Trì Quốc Thiên Vương, không do dự nữa, ngưng tụ sức mạnh toàn cánh tay, quát một tiếng chói tai: “Yêu nghiệt, nhận lấy cái chết đi!” Lúc này một tia chớp từ không trung “rẹt rẹt” đánh xuống, rạch qua mọi nơi. Đơn đao trong tay Quách Tuân như tia chớp bay ra, bổ thẳng vào bụng phật Di Lặc.
Quách Tuân ra chiêu, hư hư thực thực, dẫn dụ Trì Quốc Thiên Vương, nhưng vẫn còn lưu lại toàn bộ sức lực ám sát phật Di Lặc. Một đao này bắn ra, thẳng như sét đánh, phật Di Lặc vốn cồng kềnh thì làm sao có thể tránh khỏi một đòn cực mạnh này chứ?
“Ầm” một tiếng, Kim Phật nổ thành từng mảnh nhỏ, Quách Tuân một chiêu trúng đích nhưng cũng thất kinh, hoá ra phật Di Lặc tuy rỗng, nhưng ở trong đó không có ai cả!
Di Lặc phật chủ không ẩn thân trong Kim Phật, vậy vừa rồi rốt cuộc là ai mê hoặc lòng người?
Quách Tuân không kịp nghĩ nhiều, cảm thấy bản thân đã bị hãm sâu vào trong gọng kìm. Quách Tuân đánh ra, Tăng Trưởng Thiên Vương còn ở dưới đài nên không kịp cứu viện, Trì Quốc Thiên Vương cũng bị Quách Tuân bức lui xuống dưới đài, nhưng bên cạnh phật Di Lặc còn có hai Thiên Vương là Quảng Mục và Đa Văn. Hai người này vừa thấy Quách Tuân đánh nát Kim Phật, đã sớm tức giận không thể kiềm chế, một cầm thiết giản, một nắm bảo tán, hai người cùng xông tới đánh Quách Tuân.
Quách Tuân bỗng phát hiện ra võ công Tứ Đại Thiên Vương này đều cực cao, bọn Tác Minh, Côn Tử vốn không thể so sánh được.
Song giản Quảng Mục Thiên Vương một công một thủ, trong nháy mắt đã xuất ra bảy chiêu, bao vây kín trên dưới trái phải Quách Tuân, Đa Văn Thiên Vương chỉ hét lớn một tiếng, mũi tán đâm tới. Hai người này phối hợp cùng nhau, uy lực không thể tính toán được.
Quách Tuân chỉ lui một bước ra ngoài hơn một trượng, tránh được một kích kinh thiên của hai đại Thiên Vương. Y nghiêng người liếc qua, thấy đám Quách Mạc Sơn đã lâm vào giữa biển người, vô cùng chật vật, cũng không thấy bóng dáng Địch Thanh đâu, mà hai đại Thiên Vương Tăng Trưởng, Trì Quốc tay cầm trong tay lợi nhận đã bay lên trên đài.
Đánh hay lui? Trong đầu Quách Tuân đã hiện lên cái ý nghĩ này, hai vị Thiên Vương là Quảng Mục và Đa Văn đã đánh tới lần nữa. Quách Tuân lui về sau một bước, thân thể hơi cong lại, giống như con báo đanh rình mồi, bất cứ lúc nào cũng có thể bộc phát.
Không giết được phật Di Lặc thì sẽ giết hai tên Thiên Vương này, vì triều đình trừ họa!
Quách Tuân nghĩ tới đây, liền ngưng tụ sức mạnh toàn thân. Y vốn gặp mạnh càng mạnh, lúc này dù thân bị vây hãm, nhưng không hề sợ hãi một chút nào.
Trong lòng hai đại Thiên Vương sợ hãi, rốt cuộc đã ngừng thế tiến công lại. Mới vừa rồi mặc dù chỉ giao thủ hai chiêu, nhưng hai người này đều hiểu rõ người tên là Quách Tuân này võ công cực kì cao cường, biết hắn nếu dồn sức đánh một đòn, nhất định sẽ vô cùng uy mãnh.
Lúc này bầu trời đột nhiên tối sầm lại, Quách Tuân lúc này mới phát hiện mưa lớn ào ạt không ngờ đã tưới nước dập tắt đống lửa lớn nhất, mạnh nhất ở trước đài. Đống lửa lớn đột nhiên tắt đi, trong cốc chìm vào bóng tối, trước mắt Quách Tuân chỉ lưu lại hai vệt bóng của đối thủ, trong lòng khẽ động, lặng lẽ không một tiếng động bước ngang ba bước.
Trên không đột nhiên có tiếng gió thổi rất mạnh, ẩn trong đó còn có tiếng kim loại sắc bén, bỗng một tia sét rạch ngang bầu trời, rọi sáng bốn phía. Hai đại Thiên Vương đều là người có kinh nghiệm phong phú, thấy ngọn lửa đột nhiên vụt tắt, dựa vào địa thế quen thuộc, chỉ bằng trực giác, không hẹn mà cùng đánh về phía Quách Tuân.
Nhưng ngay lúc sét đánh, hai người chợt phát hiện ra rằng Quách Tuân đã biến mất không thấy tăm hơi, không khỏi kinh ngạc vô cùng.
Lúc này chỉ nghe thấy một tiếng hét động trời truyền đến: “Yêu nghiệt nhận lấy cái chết!” Quảng Mục Thiên Vương chỉ thấy một cơn gió mạnh cuốn tới bên người mình, vội hét lớn một tiếng, song giản hợp lại, đánh về nơi phát ra luồng gió. Chỉ nghe vang “Ầm” một tiếng, tia lửa bắn ra bốn phía, Quảng Mục Thiên Vương chỉ thấy được một thanh đao giáng xuống, trong lòng kinh hãi, chưa kịp ra chiêu lần nữa, đã thấy một nắm đấm to dần, như sấm sét đánh thẳng vào mặt hắn. Quảng Mục Thiên Vương kêu một tiếng thảm thiết, như diều đứt dây bay ra, lúc rơi xuống mặt đất, vặn vẹo hai cái, đã không còn động đậy gì nữa.
Một quyền này của Quách Tuân vốn cực kỳ cương mãnh, giống như chùy sắt, không chỉ phá nát khuôn mặt Quảng Mục Thiên Vương, mà còn đánh gãy cổ hắn.
Quách Tuân một kích trúng đích, thuận tay lấy một cây thiết giản của đối thủ, nhanh chóng lui về phía sau. Mới vừa rồi y nhặt đao lên, ném đao dụ địch, thừa dịp Quảng Mục Thiên Vương đã ra chiêu xong, một đòn giết địch. Kinh nghiệm tác chiến của y cực kỳ phong phú, biết địch mạnh ta yếu, chỉ có thể tùy thời diệt trừ bớt phe cánh của phật Di Lặc.
Quảng Mục Thiên Vương đã chết, Đa Văn Thiên Vương không hề sợ hãi mà còn phẫn nộ, trong tiếng hét, đã vọt về phía Quách Tuân, hắn vung trường tán lên, đâm xuống liên tục, nhưng đều đâm vào khoảng không. Đa Văn Thiên Vương không tìm ra vị trí của đối thủ, tức giận vô cùng, quát lớn: “Lăn ra đây cho ta!” Lúc này bầu trời vừa xuất hiện một tia sét, chiếu sáng xung quanh, Đa Văn Thiên Vương đột nhiên phát hiện, hóa ra Quách Tuân ở ngay phía bên trái hắn mấy trượng, bèn hét lớn một tiếng vọt tới.
Tia chớp qua đi, khắp nơi lại tối đen như mực, xòe bàn tay ra cũng không thấy năm ngón.
Quách Tuân thấy Đa Văn Thiên Vương vọt tới, tránh sang ngang vài bước, hắn đã nhận ra cái trường tán của Đa Văn hết sức ảo diệu, không chỉ có công dụng giống trường thương, nếu như liều lĩnh tiếp chiêu, cũng không nắm chắc được phần thắng. Quách Tuân mới tránh được hai bước, đột nhiên cảm thấy nguy hiểm tăng lên, không chút do dự nhảy sang một bên.
Một đường kiếm phút chốc đánh xuống, suýt nữa là đánh trúng Quách Tuân. Chỉ cần y chậm một bước, e là đã bị thanh kiếm này chém thành hai mảnh. Trong lòng Quách Tuân thấy sợ hãi, biết Tăng Trưởng Thiên Vương đã bay lên đài gỗ yểm trợ, đột nhiên kiếm chiêu lại đánh tới, Quách Tuân không rõ tình huống thế nào, cũng không dám tiếp chiến, lại né tránh sang ngang một bên.
Quách Tuân mượn bầu trời tối đen để che giấu hành tung của bản thân, đi lại nhẹ nhàng giống như con báo. Chẳng ngờ bước thêm một bước, dưới chân vang lên một tiếng ‘Rộp’, hóa ra y đã lui đến bên cạnh mấy mảnh vỡ tượng Kim Phật. Mặc dù trong mưa to gió lớn, nhưng Tăng Trưởng Thiên Vương vẫn nghe được rõ ràng, thanh cự kiếm vung lên, hùng hổ đâm tới.
Quách Tuân lùi thật nhanh, thầm nghĩ phải mau lui xuống dưới đài, dọc theo đường đi lại làm dấy lên tiếng ‘rộp rộp’, không ngờ vừa mới lui được hai bước, đột nhiên cảm thấy có một vật sắc đâm vào bên hông. Quách Tuân kinh hãi, nhanh nhẹn vặn người, chỉ nghe ‘Xuy’ một tiếng, một vật bén nhọn đã đâm vào bụng y. Quách Tuân hét lớn một tiếng, đem đơn giản ném tới, chỉ nghe ‘Lạc’ một tiếng đã đánh gãy vật kia, cùng lúc đó một chưởng nhanh chóng đánh tới giữa ngực Quách Tuân.
Một chưởng này uy lực cực lớn, Quách Tuân mượn lực rút lui, bay ra khỏi đài gỗ, rơi xuống đất, phun ra một ngụm máu tươi. Trong lòng y càng thêm hoảng sợ, không biết ở đâu ra một kẻ địch lợi hại như vậy?
Mới vừa rồi Quách Tuân mượn ánh chớp, đã sớm thấy phía sau có mấy mảnh vỡ Kim Phật, không có gì khác, chẳng ngờ lại có người xuất hiện như ma quỷ, đánh y bị thương nặng.
Quách Tuân lộn xuống dưới đài, dưới một tia sét đánh xuống, y chỉ thấy được trên đài có thêm một người, mặt đeo mặt nạ, cười tươi hớn hở, giống như phật Di Lặc, liền hiểu ra, thì ra người đánh y bị thương chính là Di Lặc phật chủ mà y tìm không thấy. Một đao vừa rồi của y mặc dù đánh vỡ Kim Phật, nhưng người này có lẽ ẩn thân phía dưới đài gỗ, nhẫn nại không chịu xuất hiện, đợi đến thời khắc mấu chốt, mới cho Quách Tuân một đòn trí mạng.
Quách Tuân đã hiểu rõ mọi chuyện, lại nghe phía sau xuất hiện một cơn gió mạnh, có người bay nhào đến, một đao bổ tới. Quách Tuân xoay giản lại, chỉ nghe thấy tiếng ‘Leng keng’, thiết giản rơi xuống đất, Trì Quốc Thiên Vương đã thừa dịp sơ hở đánh tới.
Đầu khớp xương Quách Tuân bị đánh trúng một chưởng, thiếu chút nữa gãy nát, cánh tay không còn chút sức lực nào, vậy mà lại có thể ngăn cản một kích của Trì Quốc Thiên Vương, chỉ thấy trên bầu trời từng đường sấm sét đánh xuống, trời lúc sáng lúc tối, lại thấy ba người trên đài cao đã nhảy xuống, y thầm kêu khổ: “Lẽ nào lão tử ngang dọc một đời, hôm nay phải lập địa thành Phật sao?”
Trì Quốc Thiên Vương thế đao như sấm, hùng hổ chém tới không ngừng, Quách Tuân tay không tấc sắt nên chỉ có thể liên tục bước lui. Bỗng có một người bay ngang qua ôm lấy Quách Tuân, khặc khặc cười quái dị không ngớt. Trì Quốc Thiên Vương mừng rỡ vì thấy người kia ăn mặc như dân thường, chắc là tâm thần còn mê muội bởi thuốc cho nên mới ôm lấy Quách Tuân.
Mắt thấy Quách Tuân bị thương nặng không thể giãy dụa được, Trì Quốc Thiên Vương không do dự chém xuống một đao, dù có chém người dân kia thành hai mảnh cũng không động lòng.
Trì Quốc Thiên Vương vừa vung đao chém xuống, bỗng giật mình khi thấy Quách Tuân vốn đang bị kẻ thường dân kia ôm chặt không thể giãy dụa lại đột nhiên né tránh, hắn đang định đuổi theo thì bất ngờ cổ tay người dân kia khẽ rung lên, một vệt sáng xanh từ ống tay áo bay ra đâm trúng vào ngực Trì Quốc Thiên Vương!
Trì Quốc Thiên Vương hét to một tiếng rồi xoay người ngã quỵ xuống, trong mắt còn tràn đầy vẻ ngạc nhiên không thể tin được. Lúc nãy hắn chém xuống một đao, nhưng Quách Tuân giảo hoạt lại giả vờ không tránh thoát, còn sử dụng thủ đoạn độc ác đánh lại, cho nên hắn chỉ tập trung vào Quách Tuân. Thật không ngờ tên dân thường đần độn kia đột nhiên ra tay, hơn nữa lại xuất ra kiếm pháp cực kỳ cao siêu.
Sự tình phát sinh đột ngột khiến Di Lặc phật chủ và hai Thiên Vương Tăng Trưởng, Đa Văn đều không kịp cứu viện. Ba người lập tức nhảy tới, vây Quách Tuân và người dân kia vào giữa.
Quách Tuân loạng choạng sắp ngã nhưng vẫn còn có thể cười được: “Xem ra mạng lão tử hãy còn lớn lắm, ngươi không ngờ cũng có thể trà trộn vào đây.” Trì Quốc Thiên Vương vừa chết, Quách Tuân liền nhấc cán khảm đao lên thì cảm thấy rất nặng nề, trong lòng y chùng xuống, biết rằng lúc nãy tiêu hao sức lực cực lớn.
Người kia đáp: “Có sống được hay không, còn phải xem vận khí của ngài.” Trong giọng nói của y tràn đầy vẻ thân thiết, “Ngài…” Hắn vốn định hỏi thương thế Quách Tuân có nặng không, nhưng thấy ba người kia đã vây quanh nên đành nuốt lời muốn nói vào trong.
Mưa lớn tầm tã, ai nấy đều ướt đẫm nước mưa. Nhưng kẻ thường dân này được mưa gột rửa thì càng lộ ra vẻ sắc sảo giống như trường kiếm được tôi luyện.
Đa Văn Thiên Vương kinh ngạc thốt lên: “Diệp Tri Thu? Bộ đầu kinh thành Nhất Diệp Tri Thu?”
Người kia mỉm cười đáp: “Chính là tại hạ.”
Y chính là người thanh niên trẻ tuổi mà Địch Thanh đã gặp tại huyện nha, cũng chính là bộ đầu nổi tiếng trên kinh thành Diệp Tri Thu với ngoại hiệu Nhất Diệp Tri Thu.
Diệp Tri Thu thấy Đa Văn Thiên Vương nhận ra mình, mặc dù trên mặt vẫn tươi cười nhưng trong tâm xoay như chong chóng, suy nghĩ xem mấy người trước mặt này rốt cuộc là ai?
Lần này Quách Tuân phụng chỉ đến Phần Châu, lấy danh nghĩa là chiêu mộ cấm quân nhưng thực chất ngầm phối hợp với bộ đầu phủ Khai Phong Diệp Tri Thu tiêu diệt thanh thế đang càng lúc càng lớn của Di Lặc giáo. Diệp Tri Thu linh hoạt nhạy bén, võ công cao cường, sau khi tới Phần Châu đã điều tra ra nơi đặt sào huyệt của Di Lặc giáo, hơn nữa còn trà trộn được tiến vào. Quách Tuân có thể biết được mật hiệu Di Lặc giáo cũng là nhờ Diệp Tri Thu cả. Quách Tuân sợ rút dây động rừng nên không mang quân đến tiêu diệt trực tiếp mà quyết định bắt kẻ cầm đầu.
Diệp Tri Thu tán thành kế hoạch của Quách Tuân nên cũng cải trang thành dân thường tiến vào trong cốc, chờ thời trợ giúp Quách Tuân.
Vừa rồi Quách Tuân một kích thất thủ khiến Diệp Tri Thu cảm thấy vô cùng kinh ngạc, không hiểu vì sao. Hơn nữa trên đài lại tối đen nên Diệp Tri Thu không thể làm gì khác hơn là chờ ở dưới đài, đợi thời cơ thích hợp xông ra cứu viện. Hắn biết Quách Tuân võ công cao cường nên không ngại việc Quách Tuân có thể đối phó Tứ Đại Thiên Vương hay không. Nhưng Di Lặc phật chủ đột nhiên ở đâu xông ra đánh Quách Tuân bị thương làm Diệp Tri Thu cứu viện không kịp.
Trong thời điểm Quách Tuân nguy hiểm nhất, Diệp Tri Thu đã xuất hiện đúng lúc, cùng Quách Tuân liên thủ giết chết Trì Quốc Thiên Vương. Nhưng lúc này phật Di Lặc cùng Tăng Trưởng, Đa Văn Thiên Vương vốn chưa bị thương tổn gì, trong khi Quách Tuân bị thương không nhẹ. Bọn họ lấy hai địch ba mà muốn thoát khỏi nơi đây an toàn thì chẳng phải là chuyện dễ dàng gì.
Quách Tuân hiểu rõ tâm ý của Diệp Tri Thu, không muốn hắn phân tâm nên lặng lẽ nói: “Ta không sao, giết đám người này thêm lần nữa cũng không thành vấn đề.” Thực ra y cũng đang miễn cưỡng chống đỡ, vừa nãy trúng một kiếm lại thêm một chưởng, ngay cả việc cử động cũng khiến cho lồng ngực vô cùng đau nhức.
Đống lửa lớn mặc dù đã tắt nhưng sấm sét cái nọ nối tiếp cái kia cứ đánh xuống mãi không dứt, rọi sáng mọi vật xung quanh rõ như ban ngày. Diệp Tri Thu thầm nghĩ sấm sét đan xen liên tục như thế này xem chừng cả đời cũng khó gặp, rốt cuộc làm cho hắn và Quách Tuân không còn chỗ ẩn trốn, đúng là ông trời không có mắt mà.
Lúc này gần nghìn dân thường đã chết hết một nửa, Quách Tuân và Diệp Tri Thu mặc dù hoảng sợ trước cảnh tượng tàn nhẫn này nhưng bây giờ không rảnh bận tâm đến.
Trên mặt Di Lặc phật chủ trước sau vẫn mang theo nụ cười hiền từ nhưng trong mắt lại lộ ra vẻ hung ác không cách nào che đậy được. Năm người giống như tượng gỗ đứng im không cử động, thường dân tuy điên cuồng nhưng vẫn giữ vẻ tôn kính đối với Di Lặc phật chủ, chỉ ở bên ngoài cắn xé nhau.
Lại là một đường sấm sét rạch ngang bầu trời đêm. Di Lặc phật chủ đột nhiên gào lên một tiếng, cả Quách Tuân và Diệp Tri Thu đều nghe không hiểu hắn nói cái gì. Tiếng gào vừa dứt thì đã thấy hai Thiên Vương Tăng Trưởng, Đa Văn cùng lúc nhào tới đánh Quách Tuân.
Diệp Tri Thu vẫn đứng yên vì y phát hiện hai tròng mắt Di Lặc phật chủ như ngọn đao đã nhắm vào người y. Chỉ cần y hơi động đậy, e rằng sẽ phải gánh chịu đòn công kích lợi hại nhất của Di Lặc phật chủ.
Kẻ phản nghịch mê hoặc nhân tâm này dĩ nhiên võ công cực kỳ cao!
Quách Tuân đỡ trái hở phải, nhìn qua là biết y đã bị trọng thương, sẽ không còn chống đỡ được bao lâu nữa. Tăng Trưởng Thiên Vương kiếm quang như tuyết, Đa Văn Thiên Vương trường tán như băng, dưới sự tấn công điên cuồng của hai người thì Quách Tuân đã bị đông cứng lại. Di Lặc phật chủ dù vẫn đứng yên bất động nhưng đã nắm chắc thắng lợi trong tầm tay.
Mưu đồ của Di Lặc phật chủ rất rõ ràng, đó là giết Quách Tuân rồi diệt Diệp Tri Thu!
Diệp Tri Thu cảm thấy toàn thân mình giống như từ dưới nước chui lên, nước mưa từ trán, chảy qua mí mắt, rồi men theo cằm nhễu từng giọt xuống đất, y chưa chớp mắt lần nào nhưng trong lòng đã sớm cảm thấy nặng nề, bản thân không nắm chắc phần thắng.
Dưới chân Quách Tuân bỗng dưng lảo đảo một cái, trường kiếm của Tăng Trưởng Thiên Vương đã lướt xuống chém một nhát vào cánh tay y, máu tươi bắn ra phút chốc đã bị nước mưa hòa tan. Quách Tuân quát lớn, chém lại một đao. Trong lòng Diệp Tri Thu vui mừng vì biết chắc một đao này của Quách Tuân ít nhất cũng có thể cầm hòa, nhưng không ngờ Đa Văn Thiên Vương giương rộng trường tán đỡ lấy một đao này của Quách Tuân.
Một đao của Quách Tuân chém vào đỉnh tán liền bị bắn ngược lại, toàn bộ lực lượng của đao đã bị hóa giải. Đại tán của Đa Văn Thiên Vương không biết làm bằng chất liệu gì mà lưỡi dao sắc bén nhứ thế mà cũng không thể phá được. Đa Văn Thiên Vương đỡ được đơn đao, bỗng nhiên gào to, trường tán biến thành thương đâm tới Quách Tuân.
Diệp Tri Thu cuối cùng cũng ra tay, mũi chân điểm nhẹ làm ra vẻ muốn chạy về phía Quách Tuân. Di Lặc phật chủ lặng lẽ mỉm cười, thoáng cái đã tới sát bên người Diệp Tri Thu. Diệp Tri Thu khẽ quát một tiếng rồi bỗng nhiên xoay người, thanh quang trong tay vừa hiện lên đã đâm về phía Di Lặc phật chủ liên tiếp ba kiếm. Chiêu này của y chính là dương đông kích tây, dụ dỗ đối thủ đến đây rồi chớp cơ hội đả thương kẻ địch.
Dường như Di Lặc phật chủ đã sớm dự liệu trước chiêu này, chỉ trong chớp mắt bất ngờ lui về phía sau, thân hình lơ lửng giống như ma quỷ. Một chiêu đầy tính toán của Diệp Tri Thu không ngờ lại rơi vào khoảng không. Trong lòng Diệp Tri Thu kinh hãi nhưng tên đã rời cung không thể dừng lại được, y hú dài một tiếng, thanh kiếm trong tay ngoằn ngoằn ngoèo ngoèo tạo thành cái lồng bao vây bốn phương tám hướng Di Lặc phật chủ.
Kiếm xẻ giọt mưa, bầu trời tràn đầy hàn mang. Sấm sét đùng đùng kích động sát khí ngút trời.
Di Lặc phật chủ lui về sau vài bước, cứ mười chiêu mới đánh trả hai, ba chiêu. Lòng Diệp Tri Thu vừa gấp vừa giận vì biết mình đã rơi vào tròng của đối thủ. Hắn biết bản lĩnh của mình và Di Lặc phật chủ ngang nhau nhưng bản thân bị vây khốn chắc chắn sẽ bất lợi hơn, đối thủ chỉ cần có thể cuốn lấy hắn, hắn chưa đánh đủ trăm chiêu thì vẫn chưa thể phân thắng bại với Di Lặc phật chủ được.
Nhưng Quách Tuân thì không còn kiên trì được bao lâu nữa!
Hai người Tăng Trưởng và Đa Văn cứ một chiêu nối tiếp một chiêu, Quách Tuân liên tục thối lui, sắc mặt tái nhợt. Y đang nghĩ xem làm sao phá thế công của địch thì bỗng nhiên cảm thấy dưới chân bị cái gì xiết lấy, không khỏi kinh hãi. Y liếc mắt nhìn xuống thì nhận ra có một con mãng xà quái dị cuốn quanh mắt cá chân mình, con mãng xà quái dị này thân thể phình ra quấn chặt lấy Quách Tuân.
Mãng xà di chuyển rất lặng lẽ, Quách Tuân hoàn toàn không phát hiện ra.
Quách Tuân không ngờ mình giết chết Quảng Mục Thiên Vương, giờ con rắn của hắn lại báo thù cho chủ. Mãng xà này cực kỳ to khỏe, chỉ trong chốc lát Quách Tuân đã không thể nào thoát khỏi nó! Quách Tuân cổ tay vừa chuyển, đao đã chém trúng thân thể mãng xà, nhưng da mãng xà trơn bóng, hơn nữa cánh tay Quách Tuân bị nó quấn lấy, không thể phát ra được nửa phần sức lực mà chỉ cắt một vệt máu trên thân mãng xà.
Mãng xà đang quấn chặt Quách Tuân bỗng há cái miệng to như chậu máu nhắm đầu Quách Tuân mà cắn, y bất đắc dĩ phải quăng đao lấy tay bóp chặt cổ mãng xà. Y biết rằng dù cho ngăn chặn được mãng xà thì cũng khó chống lại công kích của hai đại Thiên Vương. Nhưng tính mệnh chưa tắt thì cố gắng sống được phút nào hay phút đó.
Tăng Trưởng, Đa Văn mừng rỡ, không ngờ lại có điều ngoài dự liệu xảy ra, Tăng Trưởng cười một tràng thật dài định xông tới thì tự nhiên cảm thấy mắt cá chân cũng bị quấn chặt. Tăng Trưởng kinh hãi cúi đầu nhìn xuống, đoán rằng còn có một con mãng xà bò lên người mình nhưng không ngờ bị một thanh trường kiếm đâm xiên từ dưới lên trên, cắm phập vào trong cơ thể hắn.
Tăng Trưởng Thiên Vương gầm rú một tiếng động trời, thanh kiếm giơ lên nhưng cánh tay mới dừng ở giữa không trung thì người đã ngửa mặt lên trời rồi ngã xuống. Một kiếm này thật hiểm, đâm từ sườn Tăng Trưởng Thiên Vương xuyên tới tận tim. Dù y là một người dũng mãnh nhưng cũng không thể chịu nổi một đòn trí mạng này.
Người đâm ra một kiếm ấy là Địch Thanh!
Địch Thanh không chết!
Hoá ra khi dân chúng phát cuồng, Quách Tuân đi trước ám sát Di Lặc phật chủ, người mang mặt nạ quỷ còn lại thấy vậy, cả người run rẩy bèn âm thầm tìm chỗ trốn. Địch Thanh vốn không biết Di Lặc giáo xử lý người phạm tội cực kỳ tàn nhẫn như vậy nên khi nhận ra bản thân mình mang đến đây một kẻ ám sát thì làm sao không sợ hãi cho được? Địch Thanh tránh khỏi cuộc chiến, nhìn thấy dân chúng điên cuồng thì cảm thấy rất kinh hãi. Nhưng hắn luồn lách ở phố chợ, sớm học được khả năng cầu sinh bèn nhanh trí giả vờ ngã xuống..
Những người dân này đã uống phải mê dược nên thần trí đã sớm mất hết, chỉ biết cắn xé người đứng xung quanh mà không để ý đến động tĩnh ở dưới chân. Địch Thanh nằm bẹp trên mặt đất, tuy rằng cả người đầy bùn nhưng không bị tổn thương gì. Hắn ở bên ngoài cố gắng né khỏi những bước chân lộn xộn dẫm lên, nhặt vội một thanh trường kiếm rồi cố gắng hết sức bò về phía đài gỗ. Hắn muốn giúp Quách Tuân!
Địch Thanh chưa bao giờ gặp phải trận đánh kịch liệt như vậy, hai bên sử dụng toàn là chiêu thức hiếm thấy, thân pháp cực nhanh, ra tay tàn nhẫn, trước đây hắn chưa từng thấy qua. Lấy việc hắn đánh nhau với Tác Minh và Côn Tử trước đây mà so với cuộc chiến của những người này thì chỉ giống như trẻ con chơi đùa với nhau. Địch Thanh hiểu rõ hắn không thể giúp gì hết nhưng hắn cũng không thể ngồi yên như không có gì được.
Mặc dù ở cùng Quách Tuân một thời gian không lâu lắm, thế nhưng Quách Tuân cởi mở thẳng thắn, cơ trí chính trực không thể không làm cho Địch Thanh cực kỳ kính phục. Địch Thanh không muốn nhìn Quách Tuân xông pha một mình như vậy.
Nhưng Địch Thanh biết với võ công kém cỏi của hắn, bất ngờ xông vào là chuyện vô ích, cho nên hắn nằm bẹp xuống mặt đất giả vờ như đã chết, trường kiếm trong tay cũng cho vào trong bùn, chú ý động tĩnh của Quách Tuân và tìm kiếm cơ hội.
Rồi biến động lớn xảy ra khi Quách Tuân bất ngờ bị mãng xà quấn lấy, Địch Thanh cả kinh, nhìn thấy Tăng Trưởng Thiên Vương di chuyển đến gần hắn, Địch Thanh biết rằng mình không được phép dây dưa, bèn cắn răng đưa tay trái tóm lấy cổ chân đối phương, vung trường kiếm đâm xuyên một nhát từ dưới lên trên. Tăng Trưởng Thiên Vương đâu ngờ được người chết ở đây cũng sẽ ra tay, tuy có võ công cao cường nhưng ở khoảng cách quá gần nên đã bị Địch Thanh giết chết.
Địch Thanh một kiếm trúng đích thì trong lòng lấy làm vui mừng lắm, hắn còn chưa kịp đứng dậy thì đã nghe Quách Tuân kêu lớn: “Cẩn thận!” Trong lòng Địch Thanh phát run, lập tức lăn mình khỏi chỗ đang nằm. Hắn chỉ cảm thấy một cơn gió lạnh lướt qua sát mặt rồi đâm vào mặt đất. Thì ra Đa Văn Thiên Vương thấy Tăng Trưởng Thiên Vương bị giết thì phẫn nộ không kiềm chế được. Hắn cùng Quảng Mục, Tăng Trưởng, Trì Quốc tình như anh em, chẳng ngờ hôm nay đánh một trận mà Tứ Đại Thiên Vương đã chết mất ba người, Đa Văn Thiên Vương căm uất muốn chết, thầm nghĩ trước hết phải giết được Địch Thanh rồi sẽ tới Quách Tuân. Hắn vung trường tán đâm tới, thấy Địch Thanh thân pháp thấp kém, võ công không cao thì càng giữ vững ý định diệt trừ Địch Thanh trước tiên.
Địch Thanh mới né tránh ba chiêu thì mồ hôi toàn thân đã toát ra đầm đìa, mặc dù chưa bị đánh trúng chố yếu hại nhưng cũng đã bị thương không nhẹ. Lúc này bầu trời lại có một tia sét rạch qua, Đa Văn Thiên Vương hét lớn một tiếng, đâm tới một chiêu nữa. Địch Thanh hú lên tiếng quái dị rồi trở mình lộn nhào ra ngoài. Trong mắt Quách Tuân chợt hiện lên vẻ kinh hãi, hét lớn: “Coi chừng!”
Cả người Địch Thanh đang ở không trung, không biết phải cẩn thận cái gì. Hắn còn chưa kịp rơi xuống đất thì bỗng thấy mũi tán của Đa Văn Thiên Vương bất ngờ bay ra một tia sáng màu bạc đánh tới phía sau gáy hắn, Địch Thanh chỉ cảm thấy trời đất quay cuồng, sau đó không còn cảm giác gì nữa.
Quách Tuân phẫn nộ chưa từng thấy! Y nhìn thấy trường tán của Đa Văn Thiên Vương bắn ra ngân châm, Địch Thanh bất ngờ không kịp phòng thủ nên đã bị ngân châm bắn trúng, lực đạo của ngân châm rất mạnh, đâm thẳng vào trong..
Địch Thanh đã chết rồi sao? Y vốn không đáng phải chết!
Quách Tuân đột nhiên thét lớn, âm thanh vang dội như sấm rền.
Đa Văn Thiên Vương một chiêu đánh trúng đích, tin rằng Địch Thanh chắc chắn đã chết nên nỗi uất hận trong lòng cũng giảm đi đôi chút. Hắn vốn định quay lại đối phó với Quách Tuân, thậm chí cảm thấy có chút hối hận vì lãng phí thời gian với tên Địch Thanh này, nhưng hắn nghe được tiếng rống của Quách Tuân thì không khỏi kinh hãi mà quay đầu nhìn lại, tim đập như trống trận.
Quách Tuân sau khi rống lớn một tiếng, thân thể vọt lên cao. Con cự mãng vốn đang quấn lấy Quách Tuân rất chặt nhưng cũng không thể chống chọi được sức lực mạnh mẽ của y mà phải buông lỏng ra. Quách Tuân khẽ điểm mũi chân, khảm đao bỗng nhiên bay lên lọt vào tay y. Lúc ánh chớp lóe lên thì cổ tay y đã xoay tròn chặt đứt đầu mãng xà!
Đầu rắn bay lên, máu tươi phun ra như suối bắn cả vào mặt của Quách Tuân. Khóe mắt, chóp mũi, lỗ tai của y đều có máu tươi. Vì y dùng lực thoát khỏi mãng xà nên khiến cho ngũ tạng bị thương không nhẹ. Nhưng Quách Tuân không thèm để ý tới thương tích của mình mà chỉ nhìn chằm chằm Đa Văn Thiên Vương, buông gọn một câu: “Không giết được ngươi, ta thề không làm người!”
Đa Văn Thiên Vương khiếp sợ vô cùng, trong cuộc đời của hắn chưa bao giờ cảm thấy sợ hãi như lúc này. Tuy biết rõ thương thế Quách Tuân rất nghiêm trọng, thân thể của mãng xà vẫn còn quấn trên người Quách Tuân và nếu dốc hết toàn lực đánh một trận, không chừng hắn có thể giết được Quách Tuân nhưng Đa Văn Thiên Vương vẫn không dám tiến lên.
Hắn thậm chí không dám nhìn vào hai tròng mắt của Quách Tuân nữa. Cặp mắt kia tràn đầy sự tuyệt vọng, day dứt, phẫn nộ và điên cuồng, một cặp mắt như vậy khiến cho Đa Văn Thiên Vương mất hết dũng khí chiến đấu.
Quách Tuân kéo thi thể mãng xà tiến về phía trước một bước, hai bước, ba bước …
Y đi rất chậm nhưng bước chân cực kỳ kiên định, cả người y ướt đẫm, vết máu theo gương mặt chảy xuống từng giọt, giống như giọt nước mắt uất hận.
Lúc này bầu trời lại xẹt qua một tia sấm sét, Quách Tuân cứ tiến tới giống như thần chết đến từ địa ngục, không giết được Đa Văn thì sẽ không trở về địa phủ. Đa Văn Thiên Vương tim đập thình thịch, đột nhiên kêu to một tiếng rồi quay đầu chạy đi, loạng chà loạng choạng một cái đã biến mất vào trong bóng đêm.
Di Lặc phật chủ thấy thế cũng đánh nhử một chiêu rồi cũng lao mình vào trong bóng tối. Diệp Tri Thu còn muốn truy đuổi nhưng thấy Quách Tuân loạng choạng hai cái ngã xuống đất thì không thèm truy đuổi Di Lặc phật chủ nữa, vội lao tới trước mặt Quách Tuân la lên: “Quách đại nhân, ngài sao thế?”
Vừa nãy Quách Tuân vùng mình thoát khỏi sự trói buộc của mãng xà khiến cho ngũ tạng đều bị thương, chỉ dựa vào ý chí kiên cường mới kiên trì được đến lúc này. Thấy kẻ địch đã đi khỏi thì thở không nên hơi, ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Nhưng trong lòng hắn vẫn còn bi phẫn nên chỉ mê man chốc lát liền tỉnh lại, lúc này trong thung lũng Phi Long giống như địa ngục trần gian, gần một nghìn thường dân giờ chỉ còn một vài người còn sống. Quách Tuân chật vật đứng lên, lảo đảo đi tới trước mặt Địch Thanh. Trông thấy Địch Thanh vẫn không nhúc nhích, nước mưa lẫn lá khô dính đầy trên mặt Quách Tuân hòa cùng những dòng lệ bi thương chảy tràn…
—————
Chú thích:
(*)Thập trụ Bồ Tát: Thập trụ vị hay Thập Địa Trụ, Thập pháp trụ, Thập giải là một trong 50 ngôi vị hành trì. Thập Trụ Vị là từ chỉ ngôi vị thứ 11 cho đến ngôi vị thứ 20. Sau khi trang bị xong chất liệu Thập Tín Vị để tu tập. Hành Giả bắt đầu khởi điểm Thập Trụ Vị để tiến hành. Thập Trụ Vị gồm có:
• Sơ phát tâm
• Trì địa tru
• Tu hành trụ
• Sanh quí trụ
• Phương tiện cụ túc trụ
• Chánh tâm trụ
• Bất thối trụ
• Đồng chơn trụ
• Pháp vương tử trụ
• Quán đảnh trụ
Theo như lời của Đa Văn Thiên Vương trong chương này thì giết một người sẽ đạt tới “Sơ phát tâm”, giết mười người sẽ đạt tới “Quán đảnh trụ”.
Chương 4 : Huynh Đệ.
Quách Tuân không thể cầm được nước mắt, cứ thế cuồn cuộn chảy ra. Gã chậm rãi quỳ trên mặt đất, ôm lấy Địch Thanh trong bùn lầy, nức nở nói:
– Địch Thanh, ngươi vì sao phải cứu ta? Ngươi vốn không đáng phải chết! Ta đâu đáng để ngươi cứu … ?
Khoảnh khắc này trong lòng gã chán chường như chết, hận không thể thay Địch Thanh đi tìm chết. Trong đầu Quách Tuân lại hiện lên hình ảnh của người con gái như hoa mai nở rộ ấy, nàng chỉ thẳng vào mặt gã mà mắng:
– Quách Tuân, ngươi điên rồi! Ngươi đánh chồng ta trọng thương, ta cả đời cũng sẽ không tha thứ cho ngươi!
Quách Tuân đau lòng gần chết, lẩm bẩm nói:
– Mai Tuyết, ta thật xin lỗi vợ chồng nàng. Ta đã hại chết con trai của các ngươi rồi, ta còn mặt mũi nào sống trên cõi đời này nữa?
Diệp Tri Thu cũng không nghe thấy lời Quách Tuân lẩm bẩm nhưng biết rõ vừa rồi nếu không có Địch Thanh thì Quách Tuân đã sớm toi mạng rồi. Địch Thanh dù biết bản thân mình không địch lại được nhưng vẫn dũng cảm cứu người nguy nan, ý chí này thật khiến cho người ta thán phục. Diệp Tri Thu đột nhiên cảm thấy ở giữa không trung có tia sáng khác thường, y quay đầu lại nhìn thì không ngờ lại thấy được một quả cầu lửa xẹt xẹt qua bầu trời.
Quả cầu lửa này thật lớn, cực kỳ đẹp mắt, lúc bay về phía chân trời thì cơ hồ soi sáng cả nửa bầu trời.
Quả cầu lửa vẽ ra một quỹ đạo chói mắt rồi rơi vào phía tây ngọn núi, từ đằng xa truyền đến một tiếng “Oanh” thật lớn. Ngay sau đó thung lũng Phi Long đất rung núi chuyển, vô số khối đá theo sườn dốc đổ ầm xuống giống như động đất.
Diệp Tri Thu cảm thấy bất an, không khỏi thất thanh kêu lên:
– Động đất sao?
Nhưng cơn chấn động này chỉ xảy ra trong chốc lát, trong nháy mắt đã yên tĩnh trở lại, tuy núi đá vẫn còn đang rung chuyển nhưng nó đã không còn cái uy lực khiến lòng người khiếp sợ như vừa rồi nữa. Chỉ còn từng cơn chấn động từ lòng đất truyền đến khiến người ta lạnh mình kinh hãi mà thôi.
Cuối cùng, Diệp Tri Thu cũng có thể đứng vững vàng gót chân, y thấy không có núi lở nữa bèn chậm rãi thở ra một hơi. Nhưng Quách Tuân quá bi thường nên vẫn chưa phát hiện ra có động đất. Diệp Tri Thu không nỡ lòng làm phiền gã, chỉ ngẩng đầu nhìn về phía quả cầu lửa bay tới thì thấy ở cuối phương hướng đó dường như có lửa cháy lớn, trong làn mưa đêm nhuộm đỏ rực một vùng.
Mưa tạnh mây tan, trăng sáng lại hiện.
Diệp Tri Thu thấy thung lũng Phi Long đầy thi thể, có mấy người dân mất lí trí may mắn còn sống đứng ngơ ngác trong nước bùn, thỉnh thoảng lại còn điên cuồng cười lớn mấy tiếng, nhưng không tìm người cắn xé nữa, vì Di Lặc phật chủ đã bỏ đi nên dược tính của mê dược đã nhạt dần, mọi người lúc này cũng đã bớt điên cuồng hơn. Tuy bọn họ tỉnh lại đi nữa, thấy mình giết hết những người thân thiết nhất để thành phật thì chỉ e là không chịu nổi mà phát điên lần nữa. Diệp Tri Thu nghĩ vậy thì không nén được mà thở dài trong lòng, thấy hồng quang ở phía tây đã nhạt dần, ngập ngừng mấy lần muốn đi tới đó quan sát xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng đành xóa ý nghĩ này ra khỏi đầu.
Đang chìm trong suy nghĩ thì bỗng Diệp Tri Thu nhướng mày rồi ngồi chồm hổm xuống mặt đất, nhìn vào gáy Địch Thanh, ánh mắt lộ ra vẻ vô cùng kinh ngạc. Bởi vì hắn phát hiện sau gáy của Địch Thanh chỉ có vết máu rất nhỏ, bèn nhẹ nhàng thò tay bắt mạch cho Địch Thanh, đột nhiên kêu:
– Hắn còn sống!
Quách Tuân do quá thương tâm, trong đầu trống rỗng nên nghe Diệp Tri Thu hô to thì trong lòng kinh hoảng, vội hỏi:
– Ngươi nói cái gì?
Diệp Tri Thu nói:
– Mạch hắn vẫn còn đập!
Hắn lại đưa tay áp vào ngực của Địch Thanh, lập tức nói:
– Tim hắn còn đang đập.
Quách Tuân mừng rỡ, vội vàng đưa ngón tay đặt ở dưới mũi Địch Thanh nhưng không cảm nhận được có hô hấp. Gã bèn áp lỗ tai vào ngực của Địch Thanh mới phát hiện quả thực tim Địch Thanh vẫn còn đập nhưng rất khẽ, nếu không chú ý kĩ thì thực sự không khác gì người chết.
Quách Tuân lập tức ôm Địch Thanh đứng lên, nói:
– Diệp bộ đầu, ta phải đưa hắn đi tìm đại phu, mọi chuyện ở đây giao cho ngươi xử lý.
Diệp Tri Thu nói:
– Nhưng huynh cũng đang bị thương, nếu như gặp phải thủ hạ của phật Di Lặc thì làm sao?
Quách Tuân tức tối nói:
– Đám chuột nhắt nhát gan ấy cũng dám đi tìm ta sao?
Diệp Tri Thu vẫn chưa yên lòng, nói:
– Ta hộ tống huynh đi ra ngoài, chờ gặp được thuộc hạ của huynh rồi hãy nói.
Quách Tuân đột nhiên nhớ tới cái gì đó, bèn hỏi:
– Bọn Quách Mạc Sơn đâu rồi?
Nhìn thi thể chất đầy đất như vậy thì thật khó có thể phân biệt, chỉ sợ mấy huynh đệ này đã chết ở thung lũng Phi Long rồi, Quách Tuân thầm nghĩ như vậy, trong lòng cảm thấy buồn bã. Nhưng lúc này cứu mạng Địch Thanh quan trọng hơn nên Quách Tuân quyết định phải rời khỏi cốc ngay lập tức. Tuy nhiên, gã mới ôm Địch Thanh đi được vài bước đã cảm thấy trời đất quay cuồng, đứng thẳng cũng khó khăn. Diệp Tri Thu vội vàng ôm lấy Địch Thanh, dìu Quách Tuân thất tha thất thểu đi ra khỏi cốc. Bọn họ đi được vài dặm thì bỗng nghe thấy có người hô to:
– Là Quách đại nhân.
Một người chạy tới, thì ra là thủ hạ Triệu Luật của Quách Tuân.
Triệu Luật thấy Quách Tuân thương tích đầy mình thì không khỏi kinh hãi, vội bắn pháo hoa báo hiệu triệu tập mọi người đến đây. Bấy giờ lại có mấy cấm quân đi đến, Diệp Tri Thu bèn kể lại qua loa sự việc vừa xảy ra. Mọi người thấy Quách Tuân bị thương nặng khó đi lại nên vội vàng phái người cõng gã, cùng lúc đó có người khác đỡ lấy Địch Thanh từ trên tay Diệp Tri Thu.
Diệp Tri Thu nhìn thấy pháo hoa thì lại nghĩ tới hỏa cầu mà mình nhìn thấy lúc nãy, bèn hỏi:
– Vừa rồi các ngươi có thấy một quả cầu lửa từ giữa không trung bay qua không?
Triệu Luật gật đầu nói:
– Đúng là có thật, không biết đó là thứ quái quỷ gì. Nhưng mà chúng tôi không dám tự ý rời bỏ vị trí cho nên không có ai đi xem.
Quách Tuân ngạc nhiên nói:
– Quả cầu lửa gì thế?
Diệp Tri Thu kể lại đầu đuôi sự việc nhưng Quách Tuân cũng cảm thấy không hiểu cho lắm, thấy Diệp Tri Thu có ý định muốn đi tìm tòi nghiên cứu một phen bèn nói:
– Diệp bộ đầu, ngươi cứ đi xem đi, ở đây giao cho bọn người Triệu Luật xử lý được rồi. Triệu Luật, ngươi phái mấy huynh đệ đi tới thung lũng Phi Long tìm xem bọn người Quách Mạc Sơn, Trương Hải, Vương Tắc thế nào rồi. Nếu như chưa chết thì quá tốt, còn nếu như đã chết thì phải đem thi thể bọn họ mai táng cho thật tốt. Lý Giản, ngươi đi báo cho quan phủ địa phương để cho bọn họ xử lý những thi thể ở đây…
Lúc này lại có một vài cấm quân lần lượt tới báo, những người này vốn chịu trách nhiệm chặn lối đi chính nhưng không thấy Di Lặc phật chủ và Đa Văn Thiên Vương ở đâu. Những người này cũng nhìn thấy quả cầu lửa, đều nói cảnh tượng này hết sức kỳ dị song rốt cuộc là như thế nào thì không ai biết được nguyên do.
Quách Tuân lập tức phân công mấy tên thủ hạ đi trước tới các huyện Hiếu Nghĩa, Giới Hưu, Linh Thạch xung quanh Bạch Bích lĩnh tìm thầy thuốc.
Chờ mọi thứ đã được phân phó thỏa đáng, Diệp Tri Thu thấy bên người Quách Tuân đã có hộ vệ nên muốn tới phía tây dãy núi tìm kiếm xem đến tột cùng đã xảy ra chuyện gì, bèn cáo từ đi ngay. Trước khi đi, Diệp Tri Thu đột nhiên nhớ tới cái gì đó, bèn nói:
– Quách đại nhân, lúc nãy tên phật Di Lặc bảo hai tên thủ hạ tấn công ngài, người có biết hắn nói gì không?
Quách Tuân nhớ lại nói:
– Lời nói của tên phản nghịch này ta cũng chưa bao giờ nghe qua, có thể đó là thổ ngữ của vùng hẻo lánh nào đó? Nếu như có thể biết được tiếng địa phương đó là của nơi nào, nói không chừng có thể bắt được phần tử trợ giúp cho phật Di Lặc.
Diệp Tri Thu cũng nghĩ như vậy, lắc đầu nói:
– Không giống như là tiếng địa phương, tiếng địa phương từ nam chí bắc ta đều có đọc qua, nhưng chưa bao giờ nghe qua thứ tiếng này…
Thấy Quách Tuân không yên lòng, Diệp Tri Thu lại nói:
– Được rồi, tại hạ tiếp tục đi điều tra, Quách đại nhân nhanh tìm người cứu chữa cho Địch Thanh đi đã.
Thấy Quách Tuân che miệng lại ho khe khẽ, trên tay tràn đầy máu tươi, Diệp Tri Thu nói:
– Quách đại nhân, người nên chú ý sức khỏe. Lần này… Đa tạ Quách đại nhân đã ra tay, triều đình rất cần người như đại nhân.
Quách Tuân gật đầu thở dài:
– Đây là trách nhiệm của ta nhưng không ngờ làm liên lụy Địch Thanh, chỉ mong rằng hắn có thể sớm khỏe lại.
Gã và Diệp Tri Thu cáo từ, ra khỏi Bạch Bích lĩnh thì đã có cấm quân tới tiếp ứng. Triệu Luật không biết tìm đâu ra hai cỗ xe ngựa, Quách Tuân lo lắng cho Địch Thanh nên tự mình ôm Địch Thanh bước lên xe ngựa, lại sợ xe tròng trành làm thương thế Địch Thanh thêm xấu nên dọc đường đi cứ ôm Địch Thanh không chịu rời tay.
Trong lòng bọn người Triệu Luật cảm kỳ quái, thầm nghĩ Địch Thanh chẳng qua chỉ là một tên thường dân, mà sao Quách đại nhân lại ưu ái hắn đến vậy? Nhưng nhìn thấy vẻ mặt trầm trọng của Quách Tuân thì không ai dám hỏi.
Nhân lúc trời còn tối, mọi người gấp rút lên đường, đến lúc trời hừng sáng đã đến được huyện Hiếu Nghĩa. Lúc này đã có cấm quân tới Hiếu Nghĩa trước, mời mấy đại phu giỏi nhất ở đây tới.
Hiếu Nghĩa vốn là một huyện nhỏ, huyện lệnh nghe nói Điện tiền chỉ huy sứ giá lâm thì cuống cuồng chạy tới bái kiến. Quách Tuân không có lòng dạ nào xã giao mà chỉ nhìn chằm chằm vào mấy vị đại phu, mong bọn họ có thể nói ra bốn chữ ‘Có thể cứu chữa’. Nhưng mấy đại phu này đều lắc đầu, bốn chữ nói ra lại là “Người này đã chết!”
Quách Tuân giận dữ, thiếu chút nữa là đem bốn vị đại phu này đi chôn sống. Cũng may gã không phải là người ngang ngược, không nói đạo lý với người khác nên cố đè nén cơn giận dữ xuống, biết rõ những người này đã bó tay rồi. Gã không muốn lãng phí thời gian ở nơi đây nữa bèn bảo huyện lệnh tìm mấy thớt ngựa tốt nhất, một lần nữa lên xe ngựa chạy một mạch về hướng nam, đi tới Linh Thạch.
Khi tới được Linh Thạch, huyện lệnh đã sớm cùng mấy vị đại phu cung kính chờ đợi, một đại phu tiến lên bắt mạch cho Địch Thanh rồi nhíu mày nói:
– Đại nhân, người này đã chết!
Huyện lệnh Linh Thạch cau mày quát lớn:
– Ngươi nói bậy bạ gì đó, hắn rõ ràng … vẫn còn một chút cơ hội sống mà.
Thật ra trong lòng huyện lệnh cũng cảm thấy Địch Thanh vô phương cứu chữa nhưng không dám đắc tội Quách Tuân, thầm nghĩ Địch Thanh muốn chết cũng được nhưng không nên chết ở huyện Linh Thạch.
Quách Tuân thở dài một hơi, không biết làm gì hơn. Lúc này có một lão già tiến lên nói:
– Đại nhân, vị tiểu ca này não bộ bị tổn thương dẫn đến hôn mê bất tỉnh, gọi là chết giả, chứng bệnh này thuốc thang và châm cứu đều không có tác dụng.
Lòng Quách Tuân khẽ động, vội hỏi:
– Vậy cái gì mới có tác dụng đây?
Lão già đáp:
– Lão phu sống đến chừng này tuổi đã gặp qua không ít chứng bệnh kì quái phức tạp, biết được rằng trước đây cũng có một người giống như tiểu huynh đệ này. Đó là một đứa bé bướng bỉnh, trèo cây không cẩn thận bị ngã xuống đất, đầu bị một cái cào sắt đâm vào khiến cho hôn mê bất tỉnh.
Quách Tuân gấp gáp hỏi:
– Đứa bé kia sau đó sống hay chết?
Gã nhìn chằm chằm lão già, chỉ mong được nghe hai chữ “Còn sống”, bởi vì đứa bé ấy nếu như có thể sống thì Địch Thanh sẽ có cơ hội.
Lão già đáp:
Đứa nhỏ sau này đúng là có tỉnh lại, nhờ thần y Vương Duy Nhất ở kinh thành cứu chữa.
Quách Tuân nghe được ba chữ “Vương Duy Nhất” thì vỗ đùi đen đét, hét lớn:
– Ta thật nóng vội quá mà hồ đồ rồi, sao lại quên hắn chứ, không ngờ lại còn lãng phí công sức ở đây làm gì không biết?
Dĩ nhiên là Quách Tuân biết kỳ nhân Vương Duy Nhất, người này mặc dù tuổi tác không lớn nhưng y thuật cực kỳ tinh thông, rất nổi tiếng ở kinh thành.
Vương Duy Nhất hiểu rõ hệ thống kinh mạch của cơ thể người, tinh thông thuật châm cứu từ xưa tới nay, với người bị bệnh nặng thường không cần phải uống thuốc mà chỉ cần châm một châm là công hiệu ngay. Mấy năm trước còn nâng trình độ hiểu biết lên một tầm cao mới, nhờ triều đình hỗ trợ chế tạo hai đồng nhân (*hình người bằng đồng) làm bản mẫu cho thuật châm cứu, phát triển mạnh thuật châm cứu, vang danh thiên hạ. Nước Khiết Đan dù chỉ mới nghe thấy thôi nhưng cũng thèm khát được nhìn thấy đồng nhân này, chỉ tiếc là cầu mà không được. Bây giờ Địch Thanh chẳng có thuốc thang nào chữa được, cách duy nhất cứu tính mạng hắn chắc chỉ có thể nhờ vào tài châm cứu của Vương Duy Nhất.
Quách Tuân suy nghĩ tới đây đột nhiên đứng bật dậy, ra lệnh cho Triệu Luật đi chuẩn bị ngựa. Thấy đám đại phu đều ngượng ngùng, có lẽ còn canh cánh trong lòng những lời nói của mình, Quách Tuân cảm thấy hơi áy náy, suy cho cùng thì những người này cũng đã khổ cực một phen. Gã nghĩ tới đây bèn dặn tri huyện:
– Những đại phu này đã vất vả rồi, ta vẫn còn muốn làm phiền tri huyện đại nhân cấp cho họ chút tiền thưởng.
Tri huyện Linh Thạch chỉ mong Địch Thanh đừng chết ở chỗ này thì giá nào cũng trả, ngay lập tức khen thưởng mấy đại phu kia. Mấy lão già vừa được trọng thưởng xong, ai cũng vui vẻ. Quách Tuân đột nhiên nhớ tới một chuyện, hỏi:
– Lão trượng, ông có biết đứa bé đó trước kia ở nơi nào hay không?
Lão già do dự một lát rồi mới nói:
– Đứa bé này sau khi được cứu chữa thì theo cha mẹ nó về quê, nhưng chỉ nửa năm thì đột nhiên mất tích khiến cho cha mẹ nó thương tâm gần chết.
Thấy vẻ mặt của Quách Tuân tràn đầy hoài nghi, lão già vội nói tiếp:
– Đại nhân, việc này không phải lão hủ bịa ra đâu, nếu người đến quê nhà của lão hủ, chỉ cần hỏi thăm một chút sẽ biết được việc này.
Quách Tuân vội đáp:
– Ta không phải là không tin ông, chẳng qua là không hiểu đứa bé này đã đi đâu?
Tri huyện Linh Thạch nói:
– Quách đại nhân, hạ quan thật sự không nghe có ai trình báo cả, nên không biết biệc này.
Quách Tuân thấy hắn đùn đẩy trách nhiệm, nghĩ rằng việc này đã xảy ra lâu rồi, chắc cũng đã trở thành nghi án nên không có tâm tư quan tâm tới việc này. Lúc này Triệu Luật đã chuẩn bị ngựa xong, cấm quân ở thung lũng Phi Long cũng đã chạy tới, báo rằng không tìm thấy thi thể của bọn người Quách Mạc Sơn cũng như tung tích của bọn họ. Quách Tuân cảm thấy vô cùng khó hiểu, thầm nghĩ mấy người này đều rất thông minh, nếu như không chết thì thế nào cũng sẽ tìm cách liên lạc với cấm quân ở ngoài cốc, sao lại không có tung tích gì? Nhưng lúc này lòng dạ của gã hoàn toàn chỉ nghĩ tới Địch Thanh chứ không lo được nhiều chuyện, ngay lập tức ra lệnh cho cấm quân tiếp tục tìm kiếm, còn mình thì mang Địch Thanh lên xe ngựa, dẫn theo một nhóm cấm quân trở về kinh thành.
Chạy một mạch cả ngày lẫn đêm không nghỉ, cấm quân phía trước cưỡi ngựa phi như tên bắn, lại liên tục đổi ngựa. Mọi người vượt Long Đức quân(1), qua Hoài Châu, vượt sông Hoàng Hà đến Biện Khẩu, dọc theo dòng sông Biện, cuối cùng cũng đến được Khai Phong.
Kinh thành Khai Phong, dưới chân thiên tử.
Đây là lúc triều Tống yên ổn hưng thịnh phồn hoa nhất, thủ đô Khai Phong phủ của Đại Tống có thể nói là giao với tám phương, thông cùng vạn nước, là thời kì hưng thịnh nhất.
Lúc bấy giờ tuy quân sự Đại Tống đã suy yếu từ lâu, nhưng sau khi Tống Chân Tông ký Minh ước Thiền Uyên (2) với Khiết Đan ở phương bắc, Đại Tống đã có gần ba mươi năm không bị gây chiến. Tuy vùng tây bắc chiến loạn nổ ra liên tiếp nhưng tạm thời không ảnh hưởng đến đại cuộc, hiện nay Đông Kinh Khai Phong (3) phồn thịnh ấm êm, đã trở thành thủ đô mơ ước trong mắt người thiên hạ…
Trong trời đất mênh mông, thành Khai Phong đồ sộ nguy nga, trang nghiêm hùng tráng không lời nào tả xiết.
Từ vùng thung lũng Phi Long sát khí khắp nơi đến phủ Khai Phong ca múa thái bình, một đường từ địa ngục thẳng đến thiên đường. Đám cấm quân bôn ba nhiều ngày, bây giờ tất cả đều thở ra một hơi nhẹ nhõm, trên mặt người nào cũng mang theo vẻ thanh thản dễ chịu. Chỉ có Quách Tuân là hai hàng lông mày nhíu chặt, nhìn trời xanh cầu xin:”Ông trời ở trên cao, chỉ cầu người mở mắt cứu tính mạng của Địch Thanh. Dù cho Quách Tuân này có phải giảm thọ mười năm cũng cam tâm tình nguyện.” Gã ho khan vài tiếng, giọng nói có chút khàn khàn. Thương thế của gã còn chưa có khỏi, lại bôn ba mấy ngày liền, dù cho thân thể có làm bằng sắt cũng khó mà khỏe được.
Quách Tuân vào thành Khai Phong liền ra lệnh cho thuộc hạ đem Địch Thanh về phủ của mình, sau đó sai người đi mời thần y Vương Duy Nhất, còn riêng gã thì lại đến Tam Nha phục mệnh. Quách Tuân là Điện tiền chỉ huy sứ, chịu sự quản lý của Tam Nha(4), lần này tuy không giết chết được Di Lặc phật chủ nhưng đã giết chết ba người trong Tứ Đại Thiên Vương, cũng tính là có công. Di Lặc phật chủ sau sự việc lần này e rằng trong thời gian ngắn khó mà khôi phục được như cũ. Về việc truy cùng giết tận thì tạm thời giao cho Diệp Tri Thu phụ trách là được rồi, thân phận của Tam Đại Thiên Vương cũng do Diệp Tri Thu tiếp tục điều tra, Quách Tuân chỉ lo đến đây, chẳng rảnh đâu đi quan tâm hết những chuyện đó.
Khi Quách Tuân từ Tam Nha quay trở về phủ thì Vương Duy Nhất đã đến, đang ngồi bắt mạch cho Địch Thanh.
Vương Duy Nhất quần áo giản dị, sắc mặt hồng hào, chỉ có điều râu dưới cằm giống như kim châm, thoạt nhìn chỉ cần rút một sợi là có thể dùng để châm cứu. Thấy Quách Tuân vào phòng, Vương Duy Nhất đứng dậy nói:
– Tham kiến Quách đại nhân.
Quách Tuân thi lễ nói:
– Quách mỗ vừa trở về kinh thành đã làm phiền Vương thần y, thật áy náy quá.
Vương Duy Nhất cười nói:
– Trước đây nếu không có Quách đại nhân trượng nghĩa cứu giúp thì trên đời này làm gì còn Vương Duy Nhất, một chút việc nhỏ này Quách đại nhân cần gì phải khách khí chứ?
Quách Tuân thấy Vương Duy Nhất vẫn còn có thể nở một nụ cười thì trong lòng có thêm vài phần hy vọng.
Hóa ra Vương Duy Nhất bây giờ tuy là thần y, nhưng nhiều năm trước chỉ là một thầy thuốc nghèo khó. Trước đây lúc lão mới vào kinh, trên đường đi gặp bọn đạo tặc cướp của giết người, nếu như vào lúc đó Quách Tuân không đi ngang qua, không chừng Vương Duy Nhất bây giờ đã là thần tiên. Sau việc đó, Quách Tuân và Vương Duy Nhất ít có cơ hội gặp gỡ nhau. Quách Tuân tính tình nghĩa hiệp, cả đời cứu người vô số, mấy chuyện như vậy chẳng bao giờ để ý, nếu không phải vì Địch Thanh bị thương nặng thì chắc gã cũng sẽ không nghĩ tới Vương Duy Nhất.
Lúc này nghe được Vương Duy Nhất nói như thế, Quách Tuân khiên tốn nói:
– Vương thần y nói quá lời rồi, ông lòng dạ nhân từ làm đồng nhân cứu giúp mọi người, tạo phúc nhân gian, chắc chắn sẽ có thiện báo. Chẳng hay Địch Thanh … chừng nào mới tỉnh lại được?
Vương Duy Nhất cau mày nói:
– Thực ra tình trạng não bộ bị tổn thương nặng nhưng vẫn còn sống như hắn, ta cũng đã từng gặp qua vài trường hợp. Cơ thể người vốn là một tạo vật kỳ diệu, hắn có thể tỉnh lại hay không thì ta cũng không biết được, chỉ có thể trông chờ vào ý chí sinh tồn của hắn. Mạng sống của con người có thể kiên cường như đá, hoặc mong manh như gió, chỉ khi hắn muốn sống lại thì ta mới có hy vọng cứu hắn.
Thấy Quách Tuân tỏ vẻ khó hiểu, Vương Duy Nhất giải thích:
– Sách cổ có nói rằng, ‘Tâm tàng thần, can tàng hồn, phế tàng phách, tỳ tàng ý, thận tàng chí.’ Tủy hải của Địch Thanh, cũng chính là bộ não của hắn và những cái này không thể tách rời, Địch Thanh mặc dù chỉ hôn mê mà không chết, nhưng mối dây liên hệ ý chí của hắn là rất lớn, nếu cắt đứt thì chắc chắn hắn phải chết.
Quách Tuân lo lắng hỏi:
– Nếu như hắn không thể tỉnh lại thì còn có thể duy trì bao lâu?
Vương Duy Nhất đáp:
– Tình trạng của hắn lúc này rất giống với loài động vật ngủ đông, thể lực tiêu hao rất nhỏ cho nên mới có thể sống đến bây giờ. Nhưng mà…hắn chẳng duy trì được mấy ngày nữa đâu, theo như ta thấy thì bảy ngày là cao nhất.
Vẻ mặt Quách Tuân trầm hẳn xuống, lẩm bẩm nói:
– Chỉ có bảy ngày thôi sao?
———-
Vương Duy Nhất và Quách Tuân quen biết nhau đã nhiều năm, nhưng chưa bao giờ thấy trên mặt Quách Tuân lộ ra vẻ chán chường buồn bã như vậy, không nhịn được hỏi:
– Quách đại nhân, xin hỏi Địch Thanh có quan hệ gì với ngài vậy?
Quách Tuân lưỡng lự một chút mới nói:
– Nếu như không có hắn thì người chết đã là ta rồi!
Vương Duy Nhất thầm nghĩ:
– Quách Tuân cả đời cứu vô số người, lần này được người khác tương cứu, hèn chi tận lực báo đáp như vậy. Nhưng gã Địch Thanh này có bản lĩnh gì mà có thể cứu được Quách Tuân nhỉ?
Không tiện hỏi nhiều nên Vương Duy Nhất đành nói:
– Quách đại nhân, ta đã cố gắng hết sức rồi. Để xem nào, hắn có người thân nào không?
Quách Tuân đáp:
– Có, người thân nhất của Địch Thanh là đại ca Địch Vân của hắn, ở Phần Châu huyện Tây Hà. Ta đã sai người mời hắn đến.
Quách Tuân cẩn trọng tinh tế, trong khi tìm thầy thuốc tốt nhất cho Địch Thanh đã đồng thời phái người đi mời Địch Vân đến đây, thầm nghĩ nếu như Địch Thanh thực sự không qua khỏi thì cũng có thể để cho Địch Vân tạm biệt đệ đệ lần cuối.
Vương Duy Nhất mừng rỡ nói:
– Thế thì tốt quá! Trước tiên ta sẽ châm thử cho hắn xem có thể làm hắn tỉnh lại hay không. Nếu như Địch Vân đến đây thì mời hắn tới gặp ta ngay. Quách đại nhân, con người có tứ hải ngũ tạng, mười hai kinh mạch, tứ hải phân thành tủy hải, huyết hải, khí hải và thủy cốc chi hải, thì não chính là tủy hải, bây giờ tủy hải Địch Thanh bị tắc nghẽn do bị thương nặng, ngoại vật đâm vào không thể rút ra, chỉ sợ rằng khi rút ra sẽ chết, ta chỉ mong dùng thuật châm cứu để khai thông con đường nối giữa tủy hải và ngũ tạng của hắn, hy vọng có thể làm cho hắn tỉnh lại. Bây giờ nếu muốn châm cứu thì sẽ bắt đầu từ huyệt bách hội và huyệt phong phủ của hắn, bách hội nối liền với thái dương bàng quang kinh, phong thủ nối liền liền với đốc mạch trong kỳ kinh bát mạch, hai kinh lạc này đều có quan hệ với tủy hải…
Quách Tuân nói:
– Vương thần y, những cái này ta nghe cũng chẳng hiểu gì, ngài cứ việc làm đi là được rồi. Nếu như ngay cả ngài cũng không cứu được thì chỉ sợ trong kinh thành này cũng chẳng có ai đủ khả năng cứu hắn.
Dứt lời, gã thở dài một tiếng, hai hàng lông mày nhíu chặt lại.
Vương Duy Nhất không nói thêm lời nào, lập tức thi châm. Lão phân biệt huyệt đạo cực chuẩn, động tác thuần thục, dường như nhắm mắt cũng có thể châm vào chính xác không sai một li. Quách Tuân đợi một lúc lâu nhưng không thấy Địch Thanh tỉnh lại, nhìn thấy Vương Duy Nhất đang tập trung rất căng thẳng, thỉnh thoảng lại bắt mạch cho Địch Thanh nên không muốn làm phiền mà lặng lẽ đi ra ngoài.
Quách Tuân vừa mới đến đình viện thì một đứa bé hoạt bát chạy tới, ôm lấy cổ Quách Tuân nói:
– Đại ca!
Quách Tuân tạm thời gác tâm sự sang một bên, bế đứa bé lên nói:
– Đệ đệ, đệ lại cao hơn rồi đó.
Đứa bé này tên là Quách Quỳ(5), mắt to đầu bự rất tinh quái. Quách Quỳ và Quách Tuân cũng không phải cùng một mẹ sinh ra, nhưng Quách Tuân rất mực thương yêu đứa em trai này.
Quách Quỳ hiếu kỳ nói:
– Đại ca, Địch Thanh là ai vậy, vì sao huynh lại hao tâm tổn sức để cứu hắn chứ?
Quách Tuân chậm rãi ngồi xuống ghế đá trong đình viện, đáp:
– Người đó … Hắn là một anh hùng.
Quách Quỳ vội kêu lên:
– Rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra vậy, đại ca kể cho đệ nghe được không?
Quách Tuân thấy đệ đệ háo hức chờ đợi nên y không nỡ từ chối, bèn kể lại sơ lược những chuyện xảy ra ở thung lũng Phi Long, nhưng không kể nhiều về chuyện mình chiến đấu anh dũng ra sao, chỉ bảo rằng trong lúc nguy hiểm nhất, Địch Thanh đột nhiên ra tay ngăn cản địch nhân, cứu lấy tính mạng của Quách Tuân, nhưng Địch Thanh lại bị kẻ địch đánh cho bị thương nặng.
Quách Quỳ nghe xong, chớp đôi mắt to, nói:
– Đại ca, không ngờ … Hắn lại bị thương nặng như vậy. Nếu hắn tỉnh lại, đệ nhất định phải cảm ơn hắn.
Quách Tuân buồn bã lắc đầu nói:
– Chỉ e hắn khó mà tỉnh lại.
Hai huynh đệ trầm mặc một lúc lâu, trong lòng Quách Tuân có tâm sự, còn Quách Quỳ cũng giống như đang lo lắng cái gì đó. Không biết đã qua bao lâu, Quách Quỳ đột nhiên nói:
– Đại ca, huynh kể cho đệ nghe chuyện xưa đi?
Quách Tuân cả ngày bận rộn ngược xuôi, mỗi lần khi trở về, Quách Quỳ đều quấn quít lấy đại ca để đòi kể những chuyện thú vị, nhưng lần này thấy tâm tình của đại ca không vui nên nó muốn đùa một chút cho vui vẻ.
Quách Tuân nhìn lên bầu trời, đúng lúc mặt trời lặn xuống, như đang tan ra, mây chiều như núi, cảnh sắc bầu trời thật tráng lệ.
Trầm mặc một lúc lâu, Quách Tuân lúc này mới nói:
– Được, huynh sẽ kể một câu chuyện xưa cho đệ nghe.
Lấy giọng trầm ngâm, Quách Tuân nói:
– Trước đây có một người xuất thân thế gia, văn võ song toàn, không để một ai trong mắt. Võ công hắn không tệ nhưng mà không biết giấu tài, cả ngày chỉ biết dốc sức đánh nhau với người ta, hắn cho rằng có thể dùng nắm đấm để giải quyết tất cả vấn đề.
Quách Quỳ nói:
– Như thế thì có khác gì bọn lưu manh đầu đường xó chợ chứ?
Nó ngẩng đầu nhìn Quách Tuân nói:
– Đại ca yên tâm, đệ sẽ không trở thành loại người như thế đâu!
Quách Tuân vỗ vai đệ đệ, vui mừng nói:
– Đệ quả thực đã hiểu chuyện hơn rồi.
– Sau này người đó ra sao?
Quách Quỳ hỏi.
Quách Tuân thở dài nói:
– Sau này người đó gặp một người con gái, nàng đẹp như tiên nữ trên trời vậy, người đó vừa nhìn thấy đã hạ quyết tâm dù thế nào cũng phải giành được nàng. Không ngờ người con gái ấy chẳng thèm nhìn hắn lấy một cái, ngược lại còn có tình cảm với một gã thư sinh nho nhã yếu đuối.
Quách Quỳ cười nói:
– Cũng có thể cô ấy cho rằng… không chiếm được mới quý chăng? Có đôi khi đệ cũng giống như vậy, nhìn thấy cây kẹo đường hồ lô trên tay người ta thì thấy ngon nhưng khi ở trong tay mình thì thấy nó cũng bình thường.
Quách Tuân không ngờ đệ đệ lại lấy ví dụ như thế, muốn cười to nhưng trong lòng lại tràn đầy đau khổ, lẩm bẩm nói:
– Đúng là như vậy sao?
Quay đầu nhìn về phía ánh chiều tà mặt trời sắp lặn, Quách Tuân lại nói:
– Nhưng quân nhân này cũng không hề muốn làm như vậy, chỉ hận nàng có mắt như mù, lại vừa hận thư sinh kia cướp đoạt nữ nhân của hắn. Hắn vốn là người tính tình cuồng ngạo, hơn nữa chưa bao giờ phải chịu thất bại, tự cao tự đại, lòng đố kị dâng cao, chẳng còn biết mình là đúng hay sai. Nhưng hắn càng kiêu ngạo thì người con gái đẹp như hoa mai kia càng xem thường hắn, lại còn thân thiết với thư sinh kia hơn. Đến một ngày quân nhân kia lửa giận bùng lên không kiềm chế được, đi vào nhà trọ tìm được thư sinh kia, cho hắn mười hai vàng rồi bảo hắn lập tức phải rời xa nàng ấy. Khi đó thư sinh đang muốn thi khoa cử nên đương nhiên không chịu rời đi. Huống hồ, dù hắn không thi khoa cử thì cũng không đời nào chấp nhận rời khỏi nàng.
Quách Quỳ bắt chước bộ dáng thở dài của Quách đại nhân:
– Chuyện này của đại ca cũ rích à, đệ dùng đầu gối suy nghĩ cũng có thể biết được kết quả. Quân nhân này đánh thư sinh kia bị thương, bị thanh thiên đại lão gia của phủ Khai Phong chém, đúng không?
Thấy Quách Tuân sắc mặt cổ quái nhìn mình, Quách Quỳ giảo hoạt nói:
– Đệ biết nỗi khổ trong lòng của đại ca, huynh sợ đệ học phải thói xấu nên dùng chuyện xưa này khuyên đệ phải không? Đệ biết mà.
Quách Tuân một lúc lâu mới nói:
– Đệ thật là … con mẹ nó… thông minh. Xem ra sau này … huynh phải nhờ đệ kể chuyện rồi.
Quách Quỳ vỗ hai bàn tay nhỏ cười ha hả. Quách Tuân cũng cố nặn ra một nụ cười, vỗ vỗ vào cái đầu to của tiểu đệ, nói rằng:
– Đệ đi chơi đi, huynh muốn yên tĩnh một lát.
Mục đích trêu đùa đại ca của Quách Quỳ đã đạt được, cậu bé nhảy về phía trước rồi bỏ đi. Trong lòng Quách Tuân cảm thấy hơi phiền não, lững thững đi tới hậu viên. Đi đến một mảnh rừng trúc tĩnh mịch, bấy giờ mới dừng lại. Gió nhẹ thổi hiu hiu, lá trúc phát ta tiếng xào xạc, Quách Tuân chậm rãi ngồi lên một tảng đá lớn, móc từ trong lồng ngực ra một cây sáo.
Cây sáo này được làm từ gỗ trúc, toàn thân có màu xanh biếc, Quách Tuân đặt sáo lên môi, yếu ớt thổi một khúc ‘Nhất thủ mai hoa lạc’.
———
Sau khi Quách Tuân về kinh thành được bốn ngày thì Địch Vân cũng vừa tới Quách phủ, tuy nhiên Địch Thanh vẫn chưa tỉnh lại.
Quách Tuân thấy Địch Vân đến đây, chỉ nói một câu:
– Địch Thanh vì cứu ta mà bị thương, ta có lỗi với hắn.
Sau đó Quách Tuân đưa Địch Vân tới trước giường Địch Thanh.
Địch Vân đã nghe đám cấm quân kể hết sự tình từ đầu đến cuối, thấy Quách Tuân tự trách mình sâu sắc thì nói:
– Quách đại nhân, Địch Thanh vì cứu người mà bị thương, cho dù chết …
Hắn vốn định nói mấy câu khách sáo nhưng khi thấy Địch Thanh đang nằm trên giường, hai mắt nhắm nghiền, sắc mặt tiều tụy thì giọng nói đã trở nên nghẹn ngào. Hắn không ngờ đệ đệ mới rời khỏi Phần Châu đã bị trọng thương, nếu thực sự Địch Thanh không qua khỏi thì hắn làm sao xứng với cha mẹ dưới suối vàng đây?
Vương Duy Nhất đang thi châm cho Địch Thanh, thấy Địch Vân đến đây thì uể oải đứng dậy nói:
– Vị này… chính là đại ca của Địch Thanh sao?
Thấy Quách Tuân gật đầu, Vương Duy Nhất nói tiếp:
– Bây giờ người có thể cứu Địch Thanh chỉ có mình cậu thôi.
Địch Vân vội hỏi:
– Cứu làm sao?
– Nói chuyện với hắn.
Vương Duy Nhất bất đắc dĩ nói:
– Ta không ngừng kích thích tủy hải để kích thích sức sống của hắn, tiếc là không hiệu quả lắm. Cơ thể con người vốn rất kỳ diệu, tuy ta có nhiều nghiên cứu về kinh lạc và huyệt đạo nhưng hiểu biết đối với tủy hải vẫn còn rất sơ sài. Nhưng ta biết rằng lời nói của người thân có thể đánh thức thần trí của hắn, cậu cứ thử một lần xem sao.
Địch Vân gật đầu, khập khiễng đi tới trước giường, cầm tay Địch Thanh, trong mắt rưng rưng nhưng vẫn cố gắng mỉm cười nói:
– Đệ đệ, đại ca tới thăm đệ đây. Huynh không ngờ có thể gặp lại đệ nhanh như vậy. Huynh đã biết tất cả mọi chuyện rồi, biết đệ diệt trừ Tăng Trưởng Thiên Vương, trừ hại cho dân, đại ca rất tự hào vì đệ. Huynh đến đây trước, do gấp quá nên tẩu của đệ không thể tới cùng được, nhưng nàng có nhờ ta nói với đệ một câu, cảm ơn đệ trước đây đã cứu nàng. Nàng nói, đệ từ trước giờ vốn ở nông thôn, lần này đến kinh thành, mong đệ chăm sóc bản thân cho thật tốt, chúng ta không thể ở bên cạnh đệ, đệ hãy tự lo cho mình…
Nói tới đây, Địch Vân đã không nhịn được, nước mắt lã chã rơi xuống khuôn mặt tái nhợt của Địch Thanh, nhưng vẫn không có dấu hiệu nào chứng tỏ Địch Thanh tỉnh lại. Tim Địch Vân như bị dao cắt, song vẫn kiên cường cười nói:
– Lúc đó ta còn cười tẩu của đệ, bảo ‘Đệ đệ đã trưởng thành, chẳng những có thể chăm sóc bản thân mà còn có thể lo cho hai chúng ta nữa.’ Nếu lúc trước không có đệ, ta và tẩu tẩu của đệ sao có thể ở cùng nhau?
Tuy Địch Vân nói toàn những chuyện bình thường, nhưng giọng nói run run, từng chữ từng chữ đầy tình cảm sâu đậm.
Sống mũi Quách Tuân cay nồng, ngẩng đầu nhìn lên nóc nhà. Lại nghe Địch Vân nói tiếp:
– Đệ đệ, đệ phải nhanh chóng tỉnh lại, cả cuộc đời này, đệ là người thân thiết nhất của huynh. Đại ca đi lại không tiện, vẫn cần có đệ quan tâm, đệ không thể bỏ mặc huynh được. Đệ đã đồng ý với mẹ là phải nghe lời huynh nói, lần này đệ nhất định phải nghe.
Trong khoảnh khắc này, Quách Tuân không thể kìm lòng được xoay người đi ra khỏi phòng, ngơ ngẩn ngồi trong đình viện, vẻ mặt thẫn thờ, trong mắt tràn đầy sự hổ thẹn.
Quách Tuân ngồi từ bình mình cho đến khi hoàng hôn, rồi lại từ hoàng hôn cho đến bình minh, từ lúc nắng sớm còn lạnh lẽo đến khi nắng chiều ngập bầu trời. Quách Quỳ mấy lần đến đây, thấy vẻ mặt đại ca uể oải nên không dám nhiều lời mà chỉ dám lén lút đặt đồ ăn ở bên người đại ca.
Thoáng cái đã qua hai ngày, nhưng thức ăn bên cạnh Quách Tuân vẫn chưa được động vào một chút nào. Hán tử bằng sắt này cứ ngồi như vậy, chẳng ai biết gã đang nghĩ gì.
Không chỉ có Quách Tuân không ăn không uống mà cả Địch Vân cũng vậy.
Địch Vân đã nói liên tục hai ngày, khuôn mặt tiều tụy, cổ họng khàn khàn nhưng vẫn kiên trì nói tiếp. Hắn cho rằng chỉ có nói tiếp, đệ đệ mới có cơ hội sống lại. Mỗi một ngày trôi qua, Địch Thanh lại càng tiến gần đến cánh cửa tử thần, Địch Vân làm sao có thể lãng phí thời gian để ăn uống cho được?
Tới ngày thứ bảy, Vương Duy Nhất chậm rãi từ phòng mình đi tới, cũng mang vẻ mặt uể oải, trông thấy Quách Tuân giống như một tảng đá ngồi ở trên bàn gỗ kia thì than nhẹ một tiếng. Quách Tuân được âm thanh đó đánh thức, trừng hai con mắt chằng chịt tơ máu nhìn Vương Duy Nhất, thấy gã không có nửa phần vui vẻ thì đã hiểu rõ tất cả. Lòng Vương Duy Nhất cảm thấy bất an, bèn đi tới nói:
– Quách đại nhân, ta thấy hổ thẹn với sự tin tưởng của ngài…
Quách Tuân khoát tay nói:
– Dược y bất tử bệnh, số mạng hắn đã vậy, biết làm sao được?
Tuy chỉ nói như vậy, nhưng tâm tình gã kích động, lấy tay che miệng ho kịch liệt, trong khe ngón tay tràn đầy máu tươi.
Vương Duy Nhất kinh hãi, nói:
– Quách đại nhân, bệnh của ngài cũng cần phải nghỉ ngơi vài ngày.
Quách Tuân thở dài nói:
– Không vội.
Gã chậm rãi đứng dậy, muốn đi đến gian phòng của Địch Thanh, nhưng rốt cuộc vẫn không dám. Cả đời gã chinh chiến vô số, vào sinh ra tử, chưa bao giờ thấy sợ sệt như lúc này.
Đúng lúc này, ngoài cửa có một người đi vào, nói rằng:
– Quách huynh, huynh … huynh làm sao vậy?
Trên mặt người kia tràn đầy vẻ phong trần nhưng sự sắc bén trong đôi mắt vẫn không đổi, đúng là danh bộ kinh thành Diệp Tri Thu.
Quách Tuân mạnh mẽ cười nói:
– Không có gì. Ngươi … có kết quả chưa?
Diệp Tri Thu than thở:
– Mấy tên thuộc hạ của huynh, vẫn bặt vô âm tín. Ta đi về phía tây Bạch Bích lĩnh, phát hiện ở đó có một cái hố sâu, cây cối xung quanh có vết cháy, giống như là do quả cầu lửa trước đây rơi xuống đất tạo thành.
– Hố sâu?
Quách Tuân thuận miệng thốt ra một câu.
Diệp Tri Thu nói:
– Không sai, cái hố kia thật có thể nói là sâu không dò được.
Quách Tuân thấy ánh mắt hắn lộ ra vẻ hoảng sợ, cảm thấy có chút khó hiểu, thầm nghĩ Diệp Tri Thu đã từng thấy nhiều việc kì quái mà sao lại sợ hãi một cái hố sâu như vậy? Diệp Tri Thu cười khổ nói:
– Dựa vào khả năng của ta vẫn không đo được hết cái hố, ta đành phải dùng một tảng đá ném xuống phía dưới, đợi một lúc lâu mà vẫn không có bất cứ âm thanh gì.
Quách Tuân chỉ lo đến sự sống chết của Địch Thanh, thuận miệng nói:
– Tạo hóa thần kỳ, ngay cả ta cũng chẳng thể giải thích hết được…
Diệp Tri Thu thấy Quách Tuân hoàn toàn không có hứng thú với chuyện này, cười khổ một tiếng, không muốn nói về chuyện quả cầu lửa kì quái với Quách Tuân nữa. Thấy hai tròng mắt Quách Tuân đỏ sậm, hai má ửng hồng, rõ ràng là bệnh tình không nhẹ, Diệp Tri Thu lo lắng nói:
– Quách huynh, huynh…
Vốn định khuyên gã giữ gìn sức khỏe, hắn bỗng nhiên nghĩ đến cái gì đó, bèn hỏi:
– Địch Thanh chưa tỉnh lại sao?
Hắn đã nhìn ra giữa Quách Tuân và Địch Thanh dường như có quan hệ gì đó.
Quách Tuân lắc đầu, Diệp Tri Thu thấy Vương Duy Nhất đã ở đây, thầm nghĩ gã cũng chịu bó tay thì mình càng không có cách gì hơn. Hắn vốn là một người thẳng thắn, thấy thế bèn nói:
– Đã như vậy thì không làm phiền Quách huynh nữa. Chỉ mong Địch Thanh sớm tỉnh lại.
Hắn xoay người định đi song lại ngừng bước, nói:
– À, Quách huynh này, ta đã xem xét qua thi thể của Tam Đại Thiên Vương và đã cho vẽ lại chân dung của bọn chúng rồi ngầm ra lệnh cho bộ khoái các nơi lưu ý, nhưng đến bây giờ cũng chưa có manh mối gì về thân phận của ba người này. Lần trước lời nói của phật Di Lặc mặc dù không rõ nghĩa, nhưng ta đã đi tìm mấy vị tinh thông ngôn ngữ các nơi hỏi thăm, cuối cùng đã xác định được câu nói kia!
Thấy Quách Tuân hoàn toàn không có hứng thú đối với vấn đề này, Diệp Tri Thu lắc đầu rồi nói tiếp:
– Đó là ngôn ngữ của dân tộc Thổ Phiên. Điều này cho thấy Di Lặc phật chủ có khả năng có quan hệ với người Thổ Phiên, ta dự định đi Thổ Phiên một chuyến, huynh … hãy bảo trọng.
Hắn nói xong ôm quyền rời đi. Quách Tuân cũng ôm quyền rồi lại vô lực buông xuống, lẩm bẩm nói:
– Thổ Phiên? Phật Di Lặc Thổ Phiên? Bọn chúng không ở Thổ Phiên mà đến vùng Trung Nguyên này để làm gì?
———-
Quách Quỳ đang bưng thức ăn nóng đến, biết điều nói:
– Đại ca, huynh ăn chút gì đi?
Quách Tuân nhìn thấy cơm nước thì không có lòng dạ nào nuốt xuống,
– Tiểu Quỳ, đệ giúp huynh đi xem xem Địch Thanh ra sao rồi.
Gã không có dũng khí vào phòng hỏi thăm sức khoẻ Địch Thanh.
Quách Quỳ liền bưng thức ăn đi vào phòng, vốn định khuyên bảo Địch Vân vài câu nhưng thấy được đôi mắt Địch Vân tràn đầy sự tuyệt vọng nên hết thảy lời muốn nói đều nuốt vào trong.
Địch Vân vẫn chưa phát hiện Quách Quỳ đến đây, toàn bộ tâm tư và tinh thần của hắn đều đặt toàn bộ trên người đệ đệ.
Địch Thanh đã nhiều ngày rồi chưa tỉnh lại, vẫn hôn mê như cũ, sắc mặt càng thêm tái nhợt, dường như đã hấp hối.
Địch Vân nắm chặt bàn tay đệ đệ, giống như đang nắm hy vọng sống của tiểu đệ. Hắn đã nói liên tục hai ngày hai đêm không nghỉ, hai tròng mắt hằn đầy tơ máu giống như nhuộm bằng máu, đôi môi của hắn sớm đã nứt nẻ, cổ họng cũng khô khốc, hơi động một tý thôi là đau đớn giống như bị đao cắt, nhưng nỗi khổ này vốn chẳng nhằm nhò gì so với sự đau đớn của con tim nằm trong lồng ngực hắn.
– Đệ đệ, đừng ngủ nữa, đại ca sẽ rất tức giận đấy…
Nói xong câu này, Địch Vân không nhịn được, nước mắt tuôn như mưa, nức nở nói:
– Đệ đệ, đệ còn nhớ không? Mỗi lần đệ phạm lỗi đều không dám nói cho đại ca biết. Đệ không sợ huynh đánh mắng mà chỉ sợ huynh thất vọng. Mỗi lần đại ca tức giận, đệ đều hiểu chuyện sửa sai tất cả. Ở trong lòng đại ca, đệ là đứa em trai ngàn vàng không đổi được. Khi huynh nghe được lời đệ nói với Ngưu Tráng rằng ‘Ở trong lòng của đệ, đại ca cũng là người vạn vàng khó cầu được.’ đệ có biết, lúc huynh nghe được câu nói đó thì sung sướng đến thế nào không.
Mấy giọt nước mắt rơi tí tách trên mặt Địch Thanh, Địch Vân lại nói:
– Đệ đệ, đệ tuyệt đối không được ngủ, đại ca lần này thực sự rất tức giận. Không … đại ca sau này sẽ không bao giờ … nổi giận với đệ nữa, chỉ cần đệ tỉnh lại thôi, có được không?
Năm ngón tay siết chặt lấy ngón tay Địch Thanh, Địch Vân đang cười giống như khóc,
– Đệ đệ, đệ còn nhớ lúc hấp hối mẹ đã nói gì không? Người nói là muốn huynh đệ chúng ta sống nương tựa lẫn nhau, chăm sóc cho nhau, người nói: “Thế gian này gặp được nhau đã là duyên phận, là anh em càng có duyên phận. Duyên phận phải được quý trọng, thù hận chẳng qua chỉ là chốc lát, người nói đã không còn hận kẻ trước kia đã đánh phụ thân bị thương, không mong huynh đệ chúng ta báo thù rửa hận, chỉ mong hai chúng ta sống vui vẻ. Dù thế nào đi nữa được sống đã là tốt nhất!’ Huynh khi đó còn trẻ không hiểu được gì, nhưng bây giờ huynh đã hiểu tấm lòng của mụ, người chẳng mong gì cả, không cần chúng ta làm tể tướng hay đỗ trạng nguyên, người chỉ mong chúng ta sống vui vẻ hạnh phúc thì đã mãn nguyện lắm rồi. Đệ đệ, huynh chỉ mong đệ đừng chết, đại ca không cần gì hơn.
Nước mắt hắn giàn giụa, thấy Địch Thanh vẫn ngủ say không tỉnh, không kiềm chế được nỗi đau trong lòng, đột nhiên nhào tới trước ngực Địch Thanh, cố sức lay lay hắn mà nói:
– Đệ đệ, xin đệ mà, đệ đừng bỏ đại ca lại, cầu xin đệ, đừng bỏ đại ca một mình!
Địch Vân nhào tới trước ngực Địch Thanh, vùi đầu gào khóc. Quách Tuân nghe được tiếng khóc trong phòng truyền đến, nghĩ rằng Địch Thanh đã chết, trong ngực đau đớn cùng cực, “Oa” một tiếng phun ra một ngụm máu tươi lớn.
Chẳng biết đã khóc được bao lâu, đột nhiên Địch Vân cảm giác có người đang xoa đầu mình, cứ tưởng rằng Quách Quỳ đang an ủi mình nên đau thương nói:
– Quách tiểu đệ…
Không ngờ lại nghe Quách Quỳ kinh ngạc kêu lên:
– Địch Thanh hắn…
Địch Vân bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn đệ đệ, chỉ thấy được Địch Thanh đang trợn tròn mắt nhìn mình, một tay vừa mới từ đỉnh đầu hạ xuống.
Địch Vân thấy đệ đệ tỉnh lại, vừa bi thương vừa mừng rỡ, cả người ngây ngốc.
Trong mắt Địch Thanh tràn đầy nước mắt, nhẹ giọng nói:
– Đại ca, đệ sẽ không bỏ đại ca đâu, không bao giờ!
Giọng nói này tuy là yếu ớt nhưng rất chân thật.
Địch Vân vui mừng thiếu chút nữa ngất đi, hai cánh môi mở ra nhưng một chữ cũng nói không nên lời. Hắn đã nói ba ngày hai đêm, lúc này mới đã cảm thấy đôi môi đau nhức, nhưng loại đau đớn này sao có thể so với niềm vui trong lòng?
Quách Quỳ chính mắt nhìn thấy nước mắt Địch Thanh theo khóe mắt chảy xuống, tận mắt nhìn thấy Địch Thanh mở mắt vươn tay ra xoa đầu Địch Vân, chỉ kịp kêu lên một tiếng sợ hãi, không động đậy được. Nghe Địch Thanh nói mấy câu, lúc này mới vui mừng vô hạn, liền xoay người xông ra ngoài kêu lớn:
– Đại ca, Địch Thanh tỉnh rồi, Địch Thanh tỉnh rồi!
Vương Duy Nhất tinh thần phấn chấn, bước nhanh vào trong gian phòng. Khóe miệng Quách Tuân vết máu vẫn còn chưa khô, nghe nói như thế thì chưa dám tin, run giọng nói:
– Thật sao?
Quách Quỳ ôm cổ Quách Tuân, liên tục gật đầu nói:
– Thật mà, hắn mở mắt ra rồi, hắn đã nói được.
Cậu bé hưng phấn vô cùng, ôm chặt cổ đại ca, có lẽ chỉ có hôm nay nó mới thực sự cảm thấy tình huynh đệ sâu đậm đến thế nào.
Cuối cùng, Vương Duy Nhất bước ra cười với Quách Tuân, nói:
– Địch Thanh sống lại rồi.
Quách Tuân lúc này mới chịu tin, thân hình lảo đảo vô lực quỳ xuống đất, Quách Quỳ hốt hoảng kêu lên:
– Đại ca, huynh làm sao vậy?
Quách Tuân ngẩng đầu tạ ơn ông trời, hai cánh môi khẽ mở, cúi lạy mặt đất. Gã vùi mặt chôn vào trong bùn đen, vui sướng cùng cực đếp phát khóc, giống như thanh lộ thần lưu, tân hà vũ tích, vô thanh vô tức ngã nhào…
Chương 5 : Kinh diễm.
Xuân đi xuân đến, mai rụng tuyết tàn.
Thời gian như nước tẩy sạch những dấu vết của tháng năm. Trận đánh ở Thung lũng Phi Long, tuy là trời long đất lở, quỷ khốc thần sầu, nhưng thời gian cũng đã qua lâu, ngoại trừ những người trong cuộc ra thì đã không còn mấy ai nhớ được tình cảnh thảm liệt và quỷ dị lúc đó.
Nhưng chỉ cần là người đã từng trải qua thì cả đời này sẽ không quên được tất cả những sự việc đã xảy ra khi đó!
Cuối xuân năm nay, cây cối xum xuê, là mùa đàn chim oanh bay hót, trong và ngoài Anh Vũ lâu ở Khai Phong phủ ồn ào xôn xao không ngớt, cấm quân qua lại nhộn nhịp như những chú kiến.
Bởi vì mấy ngày này là lúc tổ chức Ma Khám cấm quân rất lớn, cho nên cấm quân kinh thành đến tham gia sát hạch rất đông.
Đại Tống trọng văn khinh võ, khoa cử thường xuyên được tổ chức nhưng nếu không phải thời kì đặc biệt thì rất ít khi tổ chức võ cử. Quân nhân nếu không có lai lịch xuất thân tốt, trong triều không có người nói giúp thì chỉ có thể từ con đường nhỏ là sương quân bổ sung vào cấm quân, còn muốn thăng chức thì con đường duy nhất đó chính là tham gia Ma Khám. Người có thể đi vào trong Anh Vũ lâu thi diễn võ nghệ, chức vị ít nhất cũng phải là Phó Đô Đầu trở lên, mà phần lớn quan quân cấp thấp nếu muốn thăng chức, đều chỉ có thể ở Bát Đại doanh bên ngoài Anh Vũ lâu tiến hành sát hạch.
Trong Kiêu Vũ doanh thuộc Bát Đại doanh, có quan khảo thí kêu to nói: “Vương Khuê thi tiễn.”
Một người ra khỏi hàng. Mọi người thấy người này mặt đen như than, tuổi tác cũng không lớn lắm, vừa bước lên đứng ở trên võ trường thì cả người đã phát ra một luồng khí tức lẫm liệt dũng mãnh. Lúc này có người đưa cho hắn một chiếc cung cứng, hai tay Vương Khuê dùng sức đã kéo căng cung cứng khiến cho mọi người phấn khích ủng hộ không ngớt.
Đám cấm quân chỉ trỏ, một người nói: “Nếu lần này, Vương Khuê vượt qua được khảo hạch, sẽ trở thành Phó Đô Đầu rồi. Sau này chúng ta sẽ không còn nhìn thấy hắn ở đây nữa rồi.”
“Đương nhiên rồi, ngươi cho là ai cũng giống như ngươi sao? Nhìn ngươi xem, mấy năm nay chẳng có tiến bộ một tí gì, chín năm qua chưa vượt qua được một cuộc khảo hạch nào, đến bây giờ cũng chỉ là một tên Thừa Cục mà thôi. Người nhà Vương Khuê không có ai ở trong triều mà hắn lại có được chí khí như vậy, mỗi một cuộc khảo hạch đều vượt qua, một cơ hội nhỏ cũng không bỏ lỡ, từ một quân nhân tầm thường đã tiến lên được Quân Đầu, thoắt cái lại muốn trở thành Phó Đô Đầu rồi, thật đúng là một hán tử.”
Người kia bị chất vấn nên bất mãn nói: “Vậy thì sao chứ? Coi như là một Đô Đầu, bên trên còn có Đô Ngu Hầu và Chỉ Huy Sứ. Chỉ Huy Sứ ở trong kinh thành thì được coi là cái gì? Nếu như ngươi không vào được Tam Ban thì cả đời này sẽ chỉ là quân nhân thấp kém. Chỉ có gia nhập vào Tam Ban sứ thần thì mới tính là người có triển vọng. Vương Khuê kia dù có dũng mãnh đi chăng nữa, nếu muốn gia nhập vào Tam Ban sứ thần thì sợ rằng râu mép đã mọc trắng rồi? Nỗ lực như thế để ‘chui’ vào Tam Ban nhưng mà cũng đã sắp về trời rồi, tội gì phải làm khổ mình chứ?”
Người nọ vừa nảy thở dài, rồi lại nói: “Lời tuy nói như thế, nhưng mà được thăng chức bao giờ cũng là chuyện tốt, giống như Tương Ngu Hầu dù sao cũng tốt hơn so với Thừa Cục.” Nói xong hắn đắc ý cười. Vốn dĩ người này đem cấp quan Tương Ngu Hầu so sánh với Thừa Cục thì cao hơn một bậc để châm chọc đối phương.
Người kia bị châm biếm hơi đỏ mặt, phẫn nộ nói: “Lão tử là Thừa Cục thì sao nào? Lão tử dù sao cũng là bằng vào nỗ lực của bản thân mình mà thăng chức, chứ không giống với một số người, chỉ biết khoác lác, chỉ biết bưng bít mà vượt qua kiểm tra. Hằng năm, lão tử dặm chân tại chỗ là chính xác, ngược lại có một số người hình như hằng năm đều rút lui. Nhưng người ta là Thập Tương so với Ngu Hầu của ngươi còn cao hơn một bậc đó.”
Người nọ vừa nảy cười nói: “Người ngươi muốn nói là Địch Thanh hả?”
“Không phải sao, tên khoác lác kia từ trên trời rơi xuống, không gì làm không được, nghe nói giết được một tên Tăng Trưởng Thiên Vương gì đó. Vốn tưởng rằng Quách Tuân ở trong cấm quân cũng coi như là một người không đến nỗi nào, không ngờ rốt cuộc cũng chỉ là hạng người dùng người theo cảm tính. Tên Địch Thanh kia trước đây ngay cả sương quân cũng không được xếp vào, thế mà Quách Tuân vì Địch Thanh thỉnh công, để hắn trực tiếp gia nhập cấm quân, hơn nữa còn một bước lên làm Thập Tương… Nhưng Địch Thanh bản lĩnh cái rắm gì cũng không có, thật là khiến cho người ta tức chết mà.” Tên Thừa Cục này căm giận nói.
Tên Tương Ngu Hầu kia nói tiếp: “Ngươi tức giận là bởi vì Quách Tuân không phải là người thân thích của ngươi sao? Hắc hắc, nói vậy Tăng Trưởng Thiên Vương kia chỉ là Bồ Tát làm từ đất sét, nên mới có thể để cho hắn một chiêu thành công nhỉ?” Hai người đều cười hắc hắc.
Lúc này, trong doanh truyền đến một tràng hò reo ủng hộ, thì ra Vương Khuê kéo cung khai nõ xong, phi thân lên ngựa, tay kéo trường cung, bắn một tiễn trúng hồng tâm, khiến cho mọi người trầm trồ khen ngợi ầm ầm.
“Đây mới là bản lĩnh thật sự!” Tương Ngu Hầu khen ngợi.
“Đương nhiên rồi, ai như tên Địch Thanh kia, thực là làm mất mặt đồng đội.” Thừa Cục tiếp lời nói.
Lúc này quan khảo thí xướng nói: “Vương Khuê loại tốt, Địch Thanh thi tiễn.”
Hai người Thừa Cục và Tương Ngu Hầu kia nhìn xung quanh bốn phía, cùng nói: “Không biết hắn ngày hôm nay dám hay không dám xuất hiện để khỏi phải mất mặt vì xấu hổ?” Nhìn xung quanh một hồi lâu thì bỗng nghe được từ phía sau có một người nói: “Tránh đường.” Hai người quay đầu lại nhìn, không khỏi lấy làm xấu hổ, vội vàng hấp tấp né sang một bên, hóa ra người lên tiếng chính là Địch Thanh, vừa nãy đứng ở phía sau bọn họ.
Thời gian đã qua vài năm, Địch Thanh vóc người cao lớn hơn nhưng cơ thể đã gầy đi nhiều. Trên cái trán của hắn có một vết sẹo nhỏ giống như là nốt ruồi màu hồng, bên trái má có xăm hai chữ “Kiêu Vũ”, dưới hàm râu ria mọc tua tủa, dung mạo rất là tiều tụy.
Thấy hai người tránh ra, Địch Thanh chậm rãi đi tới phía trước quan khảo thí, đưa lệnh bài ở thắt lưng ra. Quan khảo thí kiểm tra tỉ mỉ, xác nhận là thật, liền gật đầu nói: “Địch Thanh thi tiễn.” Có người đưa cung tên tới, Địch Thanh chậm rãi nhận lấy, nhìn trường cung với vẻ mặt phức tạp, tay cũng có chút run run.
Quan quân cấp bậc thấp muốn thăng chức, cần phải thi bốn loại kĩ thuật là đứng bắn, cưỡi ngựa bắn, võ nghệ và khai nỏ , Địch Thanh nếu muốn từ Thập Tương thăng lên làm Quân Đầu, nhất định phải đứng bắn kéo cung sáu đấu lực, khai nỏ một tạ bảy đấu lực, cưỡi ngựa bắn ba tiễn trúng đích, thi diễn võ nghệ, lúc này mới tùy thuộc vào quan giám thị xét duyệt, quyết định xem có được thăng chức hay không.
Đứng bắn kéo cung sáu đấu lực trước đây đối với Địch Thanh mà nói, không khó chút nào, hắn mặc dù võ nghệ không cao, nhưng suốt ngày đi tới lò rèn giúp đỡ đập sắt, cơ bắp rất mạnh, trước đây cho dù Quách Tuân bất ngờ ra tay cũng không thành công tóm lấy tay hắn. Nhưng mà hiện giờ kéo cung sáu đấu lực đối hắn mà nói là vấn đề vô cùng khó khăn.
“Địch Thanh thi tiễn.” Quan giám thị thấy Địch Thanh còn chưa có kéo cung, mà đang trầm ngâm, nên không kiên nhẫn được nữa. Mọi người thấy thế, thốt ra tiếng khinh bỉ, có người kêu lên: “Không được thì trở về ôm con đi, đừng để làm lãng phí thời gian của mọi người. Phía sau có có người chờ đó!”
Địch Thanh âm thầm cắn răng, hét lớn một tiếng, hai tay dùng sức, chỉ nghe “Răng rắc” một tiếng vang lên, hai cánh trường cung đã bị hắn kéo gãy làm đôi. Mọi người cảm thấy kính nể, mặt mang vẻ sợ hãi. Nhưng sau đó hai chân Địch Thanh lảo đảo, mềm nhũn vô lực ngã xuống xuống. Nắm tay ở một tay hắn, móng tay đâm vào thịt, vẻ mặt vô cùng đau đớn.
Mọi người đều xôn xao, không biết chuyện gì đã xảy ra. Thừa Cục than thở: “Kéo cung lại có thể làm cho mình hôn mê, đúng là việc chưa bao giờ xảy ra.”
“Ngươi nếu như không nói lời nào, không ai cho rằng ngươi câm đâu.” Một người lạnh lùng nói.
Thừa Cục vừa quay đầu lại nhìn, thấy phía sau có một người mũi to như mũi sư tử, bên môi râu mọc rậm rạp làm cho vẻ mặt hắn rất có uy thế. Thừa Cục cuống quít thi lễ nói: “Chỉ Huy Sứ, sao người lại đến nơi đây?” Người kia không để ý tới Thừa Cục, đi tới bên người Địch Thanh và gật đầu ra hiệu với quan giám thị rồi tự mình cõng Địch Thanh ra khỏi đại doanh.
Tương Ngu Hầu thấy người có lỗ mũi sư tử kia đã đi xa, không nhịn được hỏi: “Người kia là ai vậy, cuồng ngạo ghê nhỉ?”
Thừa Cục đem mồ hôi lạnh lau sạch nói: “Người này tên là Vương Tín, chính là Chỉ Huy Sứ của Thần Vệ quân, cũng là bằng hữu của Quách Tuân. Chỉ Huy Sứ ngươi biết không? Cái loại Tương Ngu Hầu như ngươi thì chưa đủ tuổi để mà so sánh đâu.”
Tương Ngu Hầu hít một hơi khí lạnh, chỉ có thể lắc đầu nói: “Tên Địch Thanh này số mệnh tốt thật, lại có quan to như Quách Tuân và Vương Tín chiếu cố. Ai… Nếu như ngươi và ta có thể được bọn họ chiếu cố thì nói không chừng đã sớm trở thành một Đô Đầu oai phong rồi.”
Trong khi hai người đang ra sức than thở thì Vương Tín đã đem Địch Thanh đặt nằm dưới bóng râm ở bên ngoài quân doanh.
Địch Thanh tỉnh táo lại, nhìn thấy Vương Tín thì vội vàng vươn người đứng dậy nói: “Vương đại nhân, lại là người cõng ta ra đây sao?”
Vương Tín nói: “Nếu như không thể thì cần gì phải miễn cưỡng chứ?”
Khóe miệng Địch Thanh nở ra một nụ cười chua chát, nói rằng: “Ta chính là người lỗ mãng, suy nghĩ không được tỉ mỉ lắm.”
Vương Tín nhìn hắn một lúc lâu, lúc này mới nói: “Ta còn có việc, đi trước một bước.” Hắn xoay người rời đi, chờ khi Địch Thanh không còn nhìn thấy bản thân nữa, lúc này mới lắc đầu lẫm bẩm nói: “Haiz … đáng tiếc cho một hán tử như hắn.”
Địch Thanh ngồi trở lại dưới tán cây, vẫn còn cảm thấy trong đầu nổ ầm ầm, cảm giác đau đớn mơ hồ, ngẩng đầu nhìn mưa lả lướt bay lất phất, vẻ mặt buồn bã, lẩm bẩm: “Lẽ nào Địch Thanh ta cả đời này cứ mãi là kẻ vô tích sự như thế sao?”
Vốn dĩ Địch Thanh bị Đa Văn Thiên Vương làm tổn thương não bộ, sau khi tỉnh lại đến giờ vẫn di chuyển rất khó khăn mệt mỏi, không thể xuất khí lực được.
Mấy năm nay nhờ có Vương Duy Nhất hết lòng châm cứu nên Địch Thanh mới tránh khỏi trở thành phế nhân, nhưng cây ngân châm trong đầu hắn thì Vương Duy Nhất cũng bó tay không lấy ra được.
Mặc dù Địch Thanh có thể đi lại được nhưng hơi dùng sức một tí là trong đầu lại đau đớn và nhức nhối vô cùng, cho nên hai năm nay hắn tham gia Ma Khám đều thất bại ở giai đoạn kéo cung khai nỏ. Hôm nay nghe thấy người khác bàn tán về mình, mặc dù ngoài mặt bình tĩnh nhưng trong lòng hắn rất căm uất, thực sự không muốn Quách Tuân vì mình mà bị chỉ trích nên liều mạng dùng hết sức để kéo cung, mặc dù kéo gãy trường cung nhưng trong đầu lập tức như bị thiết chùy đánh vào, đau đớn không chịu nổi mà ngất đi.
Ngày đó Quách Tuân đi vào thung lũng Phi Long, ý định ban đầu là muốn rèn luyện cho Địch Thanh nhưng không ngờ lại khiến hắn bị trọng thương, thiếu chút nữa thì mất mạng. Trong lòng Quách Tuân hổ thẹn nên đem hơn một nửa công lao ở thung lũng Phi Long đẩy qua cho Địch Thanh, lại cố gắng giúp Địch Thanh lên tới chức quan Thập Tương. Nhưng Quách Tuân có thể làm đến Điện tiền chỉ huy sử, chịu trách nhiệm hộ vệ hoàng thượng, không chỉ bởi vì võ công cao cường mà còn nhờ vào gia thế tốt. Địch Thanh xuất thân tầm thường mà đến được chức Thập Tương thì đã là năng lực cực hạn Quách Tuân rồi.
Tuy rằng chức quan Thập Tương không cao nhưng nhìn chung áo cơm không cần phải lo, mặc dù Quách Tuân vẫn còn áy náy nhưng Địch Thanh không hề có mảy may ý nghĩ trách hận Quách Tuân, có trách thì chỉ có thể trách số mệnh của mình không tốt mà thôi.
Trong lúc Địch Thanh còn đang đau lòng thì có một thiếu niên hoạt bát chạy đến nói: “Địch nhị ca, thế nào rồi?” Người này chính là Quách Quỳ, chỉ trong một thời gian ngắn mà nó cũng đã cao lớn hơn nhiều, nhưng vẫn không thoát khỏi tính trẻ con. Nó gọi Quách Tuân là đại ca, cho nên gọi Địch Thanh là nhị ca. Mấy năm qua, Địch Thanh sống ở kinh thành cùng với huynh đệ họ Quách vô cùng vui vẻ.
Địch Thanh lắc đầu, Quách Quỳ thấy Địch Thanh có vẻ chán nản, vội vàng an ủi: “Địch nhị ca, đệ biết hết rồi, huynh không cần phải nói nữa.” Thấy có mấy người từ Anh Vũ lâu đi ra, đều mang vẻ mặt nghênh ngang kiêu ngạo, Quách Quỳ nói lảng sang chuyện khác: “Địch nhị ca, huynh đừng nghĩ mấy kẻ này tài trí hơn người, thật ra bọn chúng đều là ỷ vào công trạng của phụ thân cả thôi. Phụ thân của bọn chúng không phải nhậm chức ở trong tam ban thì cũng là quan to hai viện. Những người này chỉ như là đống phân, ấy mà lại có thể vào thẳng Anh Vũ lâu. Huynh so với bọn chúng còn giỏi hơn nhiều.”
Địch Thanh thầm nghĩ: “Bây giờ mình còn không thể so với đống phân nữa.” Hắn bèn nói lảng đi: “Tiểu Quỳ, đệ tìm huynh có chuyện gì?” Hắn ngáp một cái, hứng thú tan hết.
Ánh mắt Quách Quỳ chuyển động, nói rằng: “Thiếu chút nữa quên nói cho huynh một chuyện, đại ca của đệ lại phải rời kinh rồi.”
Địch Thanh lo lắng nói: “Huynh ấy đi đâu vậy, có nguy hiểm không?” Thì ra Quách Tuân tuy là Điện tiền chỉ huy sứ nhưng bởi vì võ công cao cường, làm việc trôi chảy nên thường xuyên bị Tam Nha điều đi hỗ trợ Khai Phong phủ cùng quan phủ địa phương xử lý một số vụ án phức tạp, vì thế Quách Tuân hiếm khi có mặt ở kinh thành.
Quách Quỳ nói: “Huynh còn nhớ ba người Quách Mạc Sơn, Trương Hải và Vương Tắc không?”
Địch Thanh vô cùng kinh ngạc nói: “Đương nhiên là nhớ. Ba người này trước đây chính là thuộc hạ của Quách đại ca, sau này mất tích ở thung lũng Phi Long, Quách đại ca lúc nào cũng nhớ mãi không quên… Ba người bọn họ làm sao vậy?”
“Quách Mạc Sơn và Trương Hải tạo phản ở Thiểm Tây rồi.” Quách Quỳ nhíu mày nói: “Thanh thế bọn họ bây giờ không nhỏ, đã trở thành tai hoạ ngầm của triều đình. Đại ca biết tin bọn người Quách Mạc Sơn tạo phản, lập tức xin lệnh đi trước tới Thiểm Tây dẹp loạn. Đây dù sao cũng là thuộc hạ của huynh ấy, không rõ vì sao những người này không trở về kinh thành mà lại muốn tạo phản nhỉ?”
Địch Thanh không muốn suy nghĩ nhiều, cười khổ nói: “Chỉ hy vọng Quách đại ca mọi chuyện đều thuận lợi. Tiểu Quỳ, huynh đi dạo một tí.” Hắn không được như ý nên muốn tìm một nơi thanh tịnh để tĩnh tâm. Quách Quỳ kêu lên: “Được rồi, Địch nhị ca, đại ca của huynh sợ huynh ở kinh thành thiếu tiền tiêu nên nhờ người mang đến đây ba lượng bạc cho huynh. Này, đây này.” Nó nói xong chìa tay đưa tới ba lượng bạc, Địch Thanh không nhận, hỏi: “Có thư không?”
Nhãn châu Quách Quỳ xoay động, cười nói: “Đại ca của huynh không phải không biết chữ à, làm sao lại có thư được?”
Địch Thanh nói: “Tiểu Quỳ, đệ không cần gạt ta nữa, đây là Quách đại ca cho ta đúng không?” Thấy Quách Quỳ không nói, Địch Thanh vỗ vỗ đầu vai Quách Quỳ, nói rằng: “Tiểu Quỳ, huynh chỉ giúp Quách đại ca một lần, huynh ấy thật sự không nợ huynh cái gì hết, hai người đối với huynh quá tốt, huynh còn chưa báo đáp được nữa là.”
Quách Quỳ cố gắng ưỡn lồng ngực gầy gò nói: “Chúng ta có phải huynh đệ không nào? Nếu là phải thì không cần nói ra những lời này.”
Địch Thanh không nhịn được cười, dí mạnh cái mũi nó nói: “Nhìn bộ dạng của đệ thật giống như một anh hùng hảo hán vậy. Huynh thật sự không thiếu tiền để dùng đâu, huynh có chức quan Thập Tương này, tuy là không làm gì được nhưng bổng lộc của triều đình thì cũng đủ cho huynh không cần lo chuyện ăn uống nữa. Được rồi … Còn phải làm phiền đệ một việc, huynh có tích góp được mấy lượng bạc, đệ quen biết nhiều, xem thử có thể giúp huynh chuyển số tiền này đến Phần Châu, đưa cho đại ca huynh hay không. Huynh ấy đã một thời gian dài không có tin tức của huynh, e rằng sẽ lo lắng đấy.” Địch Thanh móc từ trong lồng ngực ra thỏi bạc nhỏ, trong lòng ít nhiều cũng có chút chua xót.
Trước đây, Địch Vân đánh thức được Địch Thanh xong, thấy em trai quá yếu ớt nên hết sức lo lắng cho Địch Thanh, nhưng trong lòng lại nhớ thương Tiểu Thanh. Địch Thanh đương nhiên biết tâm sự của đại ca nên ra sức thôi thúc hắn trở về. Quách Tuân càng vui vẻ, đề nghị Địch Vân đưa Tiểu Thanh lên sống tại kinh thành luôn, nhưng Địch Vân lại từ chối do không quen sinh hoạt ở kinh thành, bảo rằng kinh thành tốt thì tốt thật nhưng hắn không thích, hơn nữa quê nhà ở Tây Hà, gốc rễ ở Tây Hà, nên không muốn đến kinh thành. Vì thế sau khi Địch Vân thấy đệ đệ đã khỏe hơn thì liền quay về Tây Hà. Quách Tuân hơi có phần khó hiểu nhưng trong lòng Địch Thanh lại biết, đại ca bởi vì chân què, không muốn em trai mình bị mất mặt nên lúc này mới khăng khăng phải quay về. Cũng may Địch Vân sau khi trở về Tây Hà thì cùng Tiểu Thanh làm buôn bán nhỏ, sống qua ngày cũng không đến nỗi nào.
Quách Quỳ nhìn thỏi bạc kia, thầm nghĩ: “Địch nhị ca quả là rất có tính cách, yếu mà không đuối.” Không muốn khiến cho Địch Thanh khó xử nữa, nó nhận lấy bạc, nói: “Được, đệ nhất định sẽ chuyển giúp huynh.”
Sau khi tạm biệt Quách Quỳ, Địch Thanh cứ thế lững thững bước đi, thấy ven đường có cửa hàng rượu bèn đi vào kêu một cân rượu thường mà uống. Trong lòng hắn thầm tính toán, nếu ở lại kinh thành thì quá nửa là không phát triển được gì, còn muốn quay về Tây Hà thì lại càng không được. Trên mặt mình đã bị xăm chữ, cũng chẳng khác gì phạm nhân rồi, gia nhập cấm quân không dễ, rời khỏi cấm quân lại càng khó khăn hơn. Gã than nhẹ một tiếng, bỏ lại mười văn tiền rồi đi ra khỏi quán, nhất thời chẳng biết gì xung quanh, chỉ thấy tơ liễu bay bay, giống như bông tuyết nhẹ nhàng rơi xuống, phố xá náo nhiệt vô cùng, nhưng đều là tiếng ồn ào rầm rĩ của người ta, chẳng hề liên quan đến bản thân hắn.
Chợt nghe ở phía trước có tiếng trầm trồ khen ngợi, Địch Thanh lúc này mới phát hiện ra mình đã đi qua Châu Kiều, đến chỗ Đại Tướng Quốc Tự. Nơi này có câu lan nhà ngói, ca hát biểu diễn, đúng là cực kỳ náo nhiệt.
Phố phường người qua kẻ lại, hôm nay quả là tiên hoa tranh diễm, vạn vật rộn ràng giữa tiết xuân, hai bên đường tràn đầy cửa hàng và chợ hoa, muôn hồng nghìn tía, hương hoa len lỏi khắp không gian.
Địch Thanh dừng chân nghỉ ngơi, trong lòng đầy phiền muộn. Lúc này phía trước vọng đến vài tiếng chiêng, có một đội kỵ mã chạy trước mở đường, phía sau chạy theo một đoàn văn nhân cưỡi ngựa, mỗi người đường làm quan đều rộng mở, vó ngựa gõ nhẹ trên đường đá..
Có một người dân tấm tắc nói: “Mau nhìn, mau nhìn kìa, thiên tử môn sinh đang dạo phố kìa.”
Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua, mới nhớ rằng hôm nay không chỉ là ngày quân nhân tham gia Ma Khám, mà còn là ngày khai bảng khoa cử của văn nhân, mỗi lần vào ngày khoa cử công bố kết quả xướng tên ban thưởng, sĩ tử thi đậu đều được triều đình bố trí tập trung lại một chỗ, tổ chức dạo phố và kỳ tập(1) để an ủi khổ cực mười năm gian khổ học hành.
Nhưng mười năm khổ cực này cũng xứng đáng, bởi vì vinh quang từ nay về sau có thể bù đắp tất cả. Những người này ngoại trừ tiến hành kỳ tập ở Đại Tướng Quốc Tự ra, đêm nay còn có thể đến Quỳnh Lâm Uyển, triều đình mở tiệc rượu, đích thân thánh thượng cùng thái hậu sẽ tới, vinh quang vô cùng. Sau đó những người này sẽ được phái đi tới khắp nơi nhậm chức, dựa vào thành tích để quyết định có được trọng dụng hay không.
Những người này tốc độ thăng chức cực nhanh, quân nhân hoàn toàn không thể so với họ được. Trước đây, Thái Tông sau khi lên ngôi thì hằng năm đều mở khoa cử tuyển chọn học trò, hai người thi đậu là Lữ Mông Chính và Trương Tề Hiền chỉ trong thời gian đúng bảy năm đã tiến vào hai phủ, nhậm chức phó tướng, mà Lữ Mông Chính lại chỉ cần mười hai năm đã ngồi vào vị trí tể tướng, có thể nói là “dưới một người, trên vạn người!”
Thời gian mười hai năm, bảo ngắn cũng không ngắn lắm, nhưng có thể làm cho một người học trò bần hàn ngồi vào vị trí được vạn người chú ý thì sao mà không khiến sĩ tử nghèo khổ trong thiên hạ thèm thuồng cho được? Cũng chẳng trách người trong thiên hạ đều nói, “Nhất cử thủ đăng long hổ bảng, thập niên thân đáo phượng hoàng trì!”
Địch Thanh nhìn cảnh thiên tử môn sinh, cúi đầu nhìn lại bản thân, tự giễu mà cười. Hắn đến kinh thành đã được gần một nửa của mười hai năm rồi, nhưng hôm nay vẫn còn đang lang thang khắp phố phường ngõ hẻm.
Lại một hồi chiêng vang lên, những văn nhân này cưỡi ngựa đi qua, ai nấy đều cười tủm tỉm, bất giác đều ngẩng đầu nhìn về phía trước. Bọn họ không cần phải nhìn bên cạnh và cũng không cần nhìn xuống dưới, bởi vì người nơi nào cũng phải ngẩng đầu lên nhìn bọn họ. Bọn họ chỉ nhìn về phía hai sườn lầu các, nhìn những bóng hồng xuân sơn trong phấn lâu kia.
Tài tử giai nhân vốn đã là giai thoại, bọn họ khổ cực mười năm, bỏ rất nhiều thời gian chẳng phải là vì một đoạn giai thoại này hay sao?
Lúc này đã có không ít giai nhân bước ra khỏi lầu các, hi hi cười nói, ngăn cản đầu ngựa, hướng về phía các tài tử đòi trâm hoa lưu niệm. Quan nhân cũng không ngăn cản, ngược lại còn vui vẻ chấp nhận. Có tài tử được người đẹp ưu ái, vẫn còn rụt rè, cũng có người đã tháo hoa cài trên đầu ném cho người nhìn trúng, giai nhân nhận lấy đều thẹn thùng không nói gì mà chỉ xuống lầu các, mặt tài tử có chút ửng đỏ làm dân chúng một trận cười vang, chỉ chỉ trỏ trỏ, vang lên tiếng tấm tắc.
Hóa ra những giai nhân này đều là nữ tử thanh lâu, nhưng Đại Tống xưa nay không cấm việc này, ngược lại còn được coi là chuyện phong lưu thường tình, vẫn là đề tài chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu(2).
Dân chúng chỉ chỉ trỏ trỏ, thảo luận sôi nổi. Có người nói: “Ê, chú em, trước đây nếu ta không làm thợ nguội, chú không bán đậu hũ, thì chúng ta cũng giống như bọn họ rồi, thật phong lưu nhỉ. Nhìn đám nữ tử này thường ngày làm bộ thanh cao không thể kết thân, vậy mà bây giờ đã nhìn trúng tài năng của mấy người này rồi.” Người bạn của hắn cười khẩy nói: “Ngươi đòi giống như thế kia hả, đếm lại xem số chữ mà ngươi biết có được một trăm chưa?”
Lúc này có một phụ nữ chỉ những tài tử này rồi lại len lén chỉ Địch Thanh, dạy dỗ đứa con bướng bỉnh nói: “Con trai, con sau này cần phải đọc sách, đừng có học người kia đi làm lính, ‘Nam nhi chẳng việc gì phải tham gia quân ngũ, tham gia quân ngũ chính là lầm lỡ suốt đời’, nếu như sau này con đi làm lính thì coi như cả cuộc đời này đã bị hủy hoại rồi.”
Đứa bé nghiêm túc gật đầu, sùng kính nhìn tài tử, khinh miệt ngó Địch Thanh. Địch Thanh đứng ở trong đám đông ồn ào, nghe được giọng mỉa mai của người phụ nữ kia, nhìn thấy đám tài tử đã đi xa, tiếng ồn ào rầm rĩ cũng xa dần theo, đột nhiên nhớ tới một câu nói mà mẫu thân thường nói.
Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy!
Địch Thanh đã tiều tụy.
Những năm nay đã trôi qua như nước chảy, cái nghĩa khí nhiệt huyết làm việc năm đó của Địch Thanh giờ đã tiều tụy, tâm cũng mỏi mệt.
Quan cái mãn kinh hoa, nhưng phồn hoa vốn chẳng có quan hệ gì với hắn.
Trước đây sau khi hắn gặp được Quách Tuân, tuy là ép mình tòng quân nhưng cũng mang theo vài phần khát vọng. Hắn khát vọng dựa vào bản lĩnh của chính mình, bằng vào đôi tay mình mà khai phá ra một mảng bầu trời riêng, nhưng trận chiến ở thung lũng Phi Long đã khiến cho hắn bị thương nặng. Hắn biết rõ kéo cung có thể dẫn đến hôn mê nhưng vẫn ngoan cường muốn dùng toàn lực để kéo cung, vì Quách Tuân và cũng vì nỗi phẫn uất cô độc trong lòng.
Hắn từng gặp được mẫu thân lúc đêm khuya, thì thầm căn dặn “Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy; thiên thu vạn tuế danh, tịch mịch thân hậu sự.” Đọc đến nỗi rơi lệ ròng ròng…
Địch Thanh khi đó hoàn toàn không hiểu được gì, nhưng vào thời khắc này, sầm uất cùng hiu quạnh, tương phản to lớn, làm cho hắn bỗng dưng cảm nhận được mẫu thân lúc đó thật cô đơn và hiu quạnh.
Địch Thanh muốn khóc, nhưng lại ngẩng đầu lên, đờ đẫn mà bước đi. Trong đầu hắn chợt dần hiện ra khuôn mặt của mẫu thân, nhớ tới mẫu thân nhìn mình, kiên định nói: “Thanh nhi, con sau này nhất định là tể tướng, con hãy tin mẹ. Bởi vì người xem tướng cho mẹ, chính là Trần Đoàn năm đó cùng Thái Tổ chơi cờ.” Địch Thanh nghĩ tới đây, lẩm bẩm nói: “Mẹ … Con tin mẹ, nhưng con không phải không làm, mà là không thể.”
Một tiếng chuông khánh vang lớn, Địch Thanh giật mình tỉnh khỏi giấc mộng mấy năm trước. Hắn lúc này mới phát hiện ra mình đã đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự. Trong lòng Địch Thanh bỗng nhiên khẽ động, ý niệm trong đầu dâng lên muốn đi vào bên trong xem thử.
Đại Tướng Quốc Tự là chùa của hoàng thất Đại Tống, quy mô cực lớn, nguy nga lộng lẫy, ánh sáng mặt trời chói lọi, khiến cho mây màu mất sắc. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự có vạn người đến viếng, hơn nữa còn có thiên tử môn sinh tụ họp cho nên người dân xung quanh tham quan điều mới lạ có thể nói là vai sát vai, chen chúc vô cùng.
Địch Thanh đến kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa bao giờ vào Đại Tướng Quốc Tự tham quan, bởi vì hắn không phải là người thích náo nhiệt. Nhưng hôm nay vô thức đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự, lại nhớ tới lời nói của Quách Tuân mấy năm trước, hắn bèn vượt qua đoàn người vòng qua phía sau Đại Hùng bảo điện, tới được phía trướcThiên Vương điện.
Bên trong Thiên Vương điện có Tứ Đại Thiên Vương, Di Lặc phật chủ!
Trong đầu Địch Thanh hiện lên lời Quách Tuân năm ấy, “Di Lặc giáo thực ra có lai lịch từ xa xưa, lúc Lương Vũ đế sáng lập Tùy Đường thì đã thành lập. Ngay cả Đại Tướng Quốc Tự trong kinh thành cũng có pho tượng phật Di Lặc, mặt mày hiền hậu, ngồi ở trên đài sen.” Địch Thanh sau khi tới kinh thành rồi mới nghe nói, phật Di Lặc này vốn là do thái hậu xây dựng.
Hắn nhớ tới Tứ Đại Thiên Vương, ma xui quỷ khiến thế nào lại nảy sinh ý định tiến vào tham quan Thiên Vương điện. Đến giữa điện, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua thì thấy giữa điện quả nhiên có phật Di Lặc đang ngồi ngay ngắn trên đài sen, mỉm cười mà nhìn con dân bên dưới. Địch Thanh đột nhiên nhớ tới phật Di Lặc âm hiểm ở thung lũng Phi Long, không khỏi rùng mình một cái.
Địch Thanh chưa bao giờ gặp qua người nào âm hiểm, hung ác như vậy, hắn và Quách Tuân sau đó đã đem mọi thứ phát sinh ở thung lũng Phi Long thảo luận qua mấy lần nhưng đều không rõ vì sao Di Lặc phật chủ phải khiến cho tín đồ tự tàn sát lẫn nhau. Mấy năm nay, Diệp Tri Thu lần theo dấu vết từ Đông Hải đến đại mạc, từ thảo nguyên tới Giang Nam, nhưng vẫn không thể đem phật Di Lặc ra công lý.
Phật Di Lặc dường như đã biến mất rồi vậy.
Địch Thanh có linh cảm phật Di Lặc tuyệt đối sẽ không mai danh ẩn tích như thế. Phật Di Lặc ẩn nấp được càng lâu chứng tỏ hắn càng có thể đang bày ra một mưu đồ kinh thiên động địa.
Hồi lâu, ánh mắt Địch Thanh lại rơi vào Tứ Đại Thiên Vương hai bên phật Di Lặc, hắn chỉ có thể nói rằng Tứ Đại Thiên Vương nhìn thấy ở thung lũng Phi Long trước đây, dù là trang phục, mặt nạ hay binh khí so với Tứ Đại Thiên Vương ở giữa điện đều cực kỳ giống nhau.
Địch Thanh nhìn cây tán của Đa Văn Thiên Vương kia, khóe miệng lộ ra một tia cười cay đắng, lẩm bẩm nói: “Nếu các ngươi thật sự tốt thì đương nhiên sẽ có dân chúng thờ phụng, nhưng nếu các ngươi giống như đêm đó, ta vẫn còn muốn giết các ngươi.”
Địch Thanh ngơ ngẩn nhìn Đa Văn Thiên Vương, không biết đã qua bao lâu, lúc này mới xoay người lại. Người bên trong điện không nhiều lắm, một người mới vừa rồi đứng ở bên cạnh Địch Thanh hướng về phía phật Di Lặc hành lễ. Khi Địch Thanh xoay người lại thì người đó đã rời khỏi.
Ở trong khoảnh khắc chớp mắt này, Địch Thanh phảng phất trông thấy được khóe miệng người kia hình như lưu lại một nét cười nhưng mà vẻ mặt rất lạnh.
Địch Thanh bị vẻ mặt không hài hoà của người kia hấp dẫn, không khỏi nhìn trộm vài lần. Không ngờ khi người kia vừa tới trước cửa điện thì một cơn gió thổi qua, vén lên trường sam của người đó, Địch Thanh nhìn thấy đai lưng màu xanh biếc của y lộ ra thì bỗng nhiên cảm giác được ngực mình giống như bị đánh một quyền cực mạnh.
Đai lưng màu xanh biếc, ký ức chôn sâu trong lòng Địch Thanh ùa về.
Màu sắc của đai lưng không phải chính là màu trang phục của Đa Văn Thiên Vương kia sao?
Khóe miệng kia hơi mỉm cười nhưng không giống với nụ cười của Đa Văn Thiên Vương ở giữa điện, trong cái từ bi còn mang theo sự lạnh lẽo vô biên.
Địch Thanh nhanh chóng quay đầu lại liếc mắt nhìn tượng phật, càng thêm khẳng định ý nghĩ của mình, xoay người lại lần nữa thì đã phát hiện người kia biến mất không thấy tăm hơi. Địch Thanh cất bước muốn truy đuổi thì đột nhiên cảm thấy trong đầu đau nhức khủng khiếp, lảo đảo muốn ngã, không biết làm sao, nhưng suy nghĩ này trước giờ chưa từng có. Sau lưng người kia không phải đeo theo một cái túi hình dạng dài sao? Ở bên trong đó có thể là cây dù hay không? Người đi đường lưng đeo một cây dù cũng không khác thường lắm, nhưng cây dù của người này đeo chính là vũ khí đã làm cho Địch Thanh đau khổ nhiều năm!
Người kia chính là Đa Văn Thiên Vương!
————————–
Chú thích:
(1) kỳ tập: gặp gỡ định kỳ. Đặc biệt chỉ có sĩ tử sau khi thi đậu dựa theo lệ cũ tập trung dạo chơi và tiệc rượu.
(2) trà dư tửu hậu: giờ rỗi rãi (sau khi cơm nước xong)”
Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua, mới nhớ rằng hôm nay không chỉ là ngày quân nhân tham gia Ma Khám, mà còn là ngày khai bảng khoa cử của văn nhân, mỗi lần vào ngày khoa cử công bố kết quả xướng tên ban thưởng, sĩ tử thi đậu đều được triều đình bố trí tập trung lại một chỗ, tổ chức dạo phố và kỳ tập(1) để an ủi khổ cực mười năm gian khổ học hành.
Nhưng mười năm khổ cực này cũng xứng đáng, bởi vì vinh quang từ nay về sau có thể bù đắp tất cả. Những người này ngoại trừ tiến hành kỳ tập ở Đại Tướng Quốc Tự ra, đêm nay còn có thể đến Quỳnh Lâm Uyển, triều đình mở tiệc rượu, đích thân thánh thượng cùng thái hậu sẽ tới, vinh quang vô cùng. Sau đó những người này sẽ được phái đi tới khắp nơi nhậm chức, dựa vào thành tích để quyết định có được trọng dụng hay không.
Những người này tốc độ thăng chức cực nhanh, quân nhân hoàn toàn không thể so với họ được. Trước đây, Thái Tông sau khi lên ngôi thì hằng năm đều mở khoa cử tuyển chọn học trò, hai người thi đậu là Lữ Mông Chính và Trương Tề Hiền chỉ trong thời gian đúng bảy năm đã tiến vào hai phủ, nhậm chức phó tướng, mà Lữ Mông Chính lại chỉ cần mười hai năm đã ngồi vào vị trí tể tướng, có thể nói là “dưới một người, trên vạn người!”
Thời gian mười hai năm, bảo ngắn cũng không ngắn lắm, nhưng có thể làm cho một người học trò bần hàn ngồi vào vị trí được vạn người chú ý thì sao mà không khiến sĩ tử nghèo khổ trong thiên hạ thèm thuồng cho được? Cũng chẳng trách người trong thiên hạ đều nói, “Nhất cử thủ đăng long hổ bảng, thập niên thân đáo phượng hoàng trì!”
Địch Thanh nhìn cảnh thiên tử môn sinh, cúi đầu nhìn lại bản thân, tự giễu mà cười. Hắn đến kinh thành đã được gần một nửa của mười hai năm rồi, nhưng hôm nay vẫn còn đang lang thang khắp phố phường ngõ hẻm.
Lại một hồi chiêng vang lên, những văn nhân này cưỡi ngựa đi qua, ai nấy đều cười tủm tỉm, bất giác đều ngẩng đầu nhìn về phía trước. Bọn họ không cần phải nhìn bên cạnh và cũng không cần nhìn xuống dưới, bởi vì người nơi nào cũng phải ngẩng đầu lên nhìn bọn họ. Bọn họ chỉ nhìn về phía hai sườn lầu các, nhìn những bóng hồng xuân sơn trong phấn lâu kia.
Tài tử giai nhân vốn đã là giai thoại, bọn họ khổ cực mười năm, bỏ rất nhiều thời gian chẳng phải là vì một đoạn giai thoại này hay sao?
Lúc này đã có không ít giai nhân bước ra khỏi lầu các, hi hi cười nói, ngăn cản đầu ngựa, hướng về phía các tài tử đòi trâm hoa lưu niệm. Quan nhân cũng không ngăn cản, ngược lại còn vui vẻ chấp nhận. Có tài tử được người đẹp ưu ái, vẫn còn rụt rè, cũng có người đã tháo hoa cài trên đầu ném cho người nhìn trúng, giai nhân nhận lấy đều thẹn thùng không nói gì mà chỉ xuống lầu các, mặt tài tử có chút ửng đỏ làm dân chúng một trận cười vang, chỉ chỉ trỏ trỏ, vang lên tiếng tấm tắc.
Hóa ra những giai nhân này đều là nữ tử thanh lâu, nhưng Đại Tống xưa nay không cấm việc này, ngược lại còn được coi là chuyện phong lưu thường tình, vẫn là đề tài chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu(2).
Dân chúng chỉ chỉ trỏ trỏ, thảo luận sôi nổi. Có người nói: “Ê, chú em, trước đây nếu ta không làm thợ nguội, chú không bán đậu hũ, thì chúng ta cũng giống như bọn họ rồi, thật phong lưu nhỉ. Nhìn đám nữ tử này thường ngày làm bộ thanh cao không thể kết thân, vậy mà bây giờ đã nhìn trúng tài năng của mấy người này rồi.” Người bạn của hắn cười khẩy nói: “Ngươi đòi giống như thế kia hả, đếm lại xem số chữ mà ngươi biết có được một trăm chưa?”
Lúc này có một phụ nữ chỉ những tài tử này rồi lại len lén chỉ Địch Thanh, dạy dỗ đứa con bướng bỉnh nói: “Con trai, con sau này cần phải đọc sách, đừng có học người kia đi làm lính, ‘Nam nhi chẳng việc gì phải tham gia quân ngũ, tham gia quân ngũ chính là lầm lỡ suốt đời’, nếu như sau này con đi làm lính thì coi như cả cuộc đời này đã bị hủy hoại rồi.”
Đứa bé nghiêm túc gật đầu, sùng kính nhìn tài tử, khinh miệt ngó Địch Thanh. Địch Thanh đứng ở trong đám đông ồn ào, nghe được giọng mỉa mai của người phụ nữ kia, nhìn thấy đám tài tử đã đi xa, tiếng ồn ào rầm rĩ cũng xa dần theo, đột nhiên nhớ tới một câu nói mà mẫu thân thường nói.
Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy!
Địch Thanh đã tiều tụy.
Những năm nay đã trôi qua như nước chảy, cái nghĩa khí nhiệt huyết làm việc năm đó của Địch Thanh giờ đã tiều tụy, tâm cũng mỏi mệt.
Quan cái mãn kinh hoa, nhưng phồn hoa vốn chẳng có quan hệ gì với hắn.
Trước đây sau khi hắn gặp được Quách Tuân, tuy là ép mình tòng quân nhưng cũng mang theo vài phần khát vọng. Hắn khát vọng dựa vào bản lĩnh của chính mình, bằng vào đôi tay mình mà khai phá ra một mảng bầu trời riêng, nhưng trận chiến ở thung lũng Phi Long đã khiến cho hắn bị thương nặng. Hắn biết rõ kéo cung có thể dẫn đến hôn mê nhưng vẫn ngoan cường muốn dùng toàn lực để kéo cung, vì Quách Tuân và cũng vì nỗi phẫn uất cô độc trong lòng.
Hắn từng gặp được mẫu thân lúc đêm khuya, thì thầm căn dặn “Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy; thiên thu vạn tuế danh, tịch mịch thân hậu sự.” Đọc đến nỗi rơi lệ ròng ròng…
Địch Thanh khi đó hoàn toàn không hiểu được gì, nhưng vào thời khắc này, sầm uất cùng hiu quạnh, tương phản to lớn, làm cho hắn bỗng dưng cảm nhận được mẫu thân lúc đó thật cô đơn và hiu quạnh.
Địch Thanh muốn khóc, nhưng lại ngẩng đầu lên, đờ đẫn mà bước đi. Trong đầu hắn chợt dần hiện ra khuôn mặt của mẫu thân, nhớ tới mẫu thân nhìn mình, kiên định nói: “Thanh nhi, con sau này nhất định là tể tướng, con hãy tin mẹ. Bởi vì người xem tướng cho mẹ, chính là Trần Đoàn năm đó cùng Thái Tổ chơi cờ.” Địch Thanh nghĩ tới đây, lẩm bẩm nói: “Mẹ … Con tin mẹ, nhưng con không phải không làm, mà là không thể.”
Một tiếng chuông khánh vang lớn, Địch Thanh giật mình tỉnh khỏi giấc mộng mấy năm trước. Hắn lúc này mới phát hiện ra mình đã đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự. Trong lòng Địch Thanh bỗng nhiên khẽ động, ý niệm trong đầu dâng lên muốn đi vào bên trong xem thử.
Đại Tướng Quốc Tự là chùa của hoàng thất Đại Tống, quy mô cực lớn, nguy nga lộng lẫy, ánh sáng mặt trời chói lọi, khiến cho mây màu mất sắc. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự có vạn người đến viếng, hơn nữa còn có thiên tử môn sinh tụ họp cho nên người dân xung quanh tham quan điều mới lạ có thể nói là vai sát vai, chen chúc vô cùng.
Địch Thanh đến kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa bao giờ vào Đại Tướng Quốc Tự tham quan, bởi vì hắn không phải là người thích náo nhiệt. Nhưng hôm nay vô thức đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự, lại nhớ tới lời nói của Quách Tuân mấy năm trước, hắn bèn vượt qua đoàn người vòng qua phía sau Đại Hùng bảo điện, tới được phía trướcThiên Vương điện.
Bên trong Thiên Vương điện có Tứ Đại Thiên Vương, Di Lặc phật chủ!
Trong đầu Địch Thanh hiện lên lời Quách Tuân năm ấy, “Di Lặc giáo thực ra có lai lịch từ xa xưa, lúc Lương Vũ đế sáng lập Tùy Đường thì đã thành lập. Ngay cả Đại Tướng Quốc Tự trong kinh thành cũng có pho tượng phật Di Lặc, mặt mày hiền hậu, ngồi ở trên đài sen.” Địch Thanh sau khi tới kinh thành rồi mới nghe nói, phật Di Lặc này vốn là do thái hậu xây dựng.
Hắn nhớ tới Tứ Đại Thiên Vương, ma xui quỷ khiến thế nào lại nảy sinh ý định tiến vào tham quan Thiên Vương điện. Đến giữa điện, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua thì thấy giữa điện quả nhiên có phật Di Lặc đang ngồi ngay ngắn trên đài sen, mỉm cười mà nhìn con dân bên dưới. Địch Thanh đột nhiên nhớ tới phật Di Lặc âm hiểm ở thung lũng Phi Long, không khỏi rùng mình một cái.
Địch Thanh chưa bao giờ gặp qua người nào âm hiểm, hung ác như vậy, hắn và Quách Tuân sau đó đã đem mọi thứ phát sinh ở thung lũng Phi Long thảo luận qua mấy lần nhưng đều không rõ vì sao Di Lặc phật chủ phải khiến cho tín đồ tự tàn sát lẫn nhau. Mấy năm nay, Diệp Tri Thu lần theo dấu vết từ Đông Hải đến đại mạc, từ thảo nguyên tới Giang Nam, nhưng vẫn không thể đem phật Di Lặc ra công lý.
Phật Di Lặc dường như đã biến mất rồi vậy.
Địch Thanh có linh cảm phật Di Lặc tuyệt đối sẽ không mai danh ẩn tích như thế. Phật Di Lặc ẩn nấp được càng lâu chứng tỏ hắn càng có thể đang bày ra một mưu đồ kinh thiên động địa.
Hồi lâu, ánh mắt Địch Thanh lại rơi vào Tứ Đại Thiên Vương hai bên phật Di Lặc, hắn chỉ có thể nói rằng Tứ Đại Thiên Vương nhìn thấy ở thung lũng Phi Long trước đây, dù là trang phục, mặt nạ hay binh khí so với Tứ Đại Thiên Vương ở giữa điện đều cực kỳ giống nhau.
Địch Thanh nhìn cây tán của Đa Văn Thiên Vương kia, khóe miệng lộ ra một tia cười cay đắng, lẩm bẩm nói: “Nếu các ngươi thật sự tốt thì đương nhiên sẽ có dân chúng thờ phụng, nhưng nếu các ngươi giống như đêm đó, ta vẫn còn muốn giết các ngươi.”
Địch Thanh ngơ ngẩn nhìn Đa Văn Thiên Vương, không biết đã qua bao lâu, lúc này mới xoay người lại. Người bên trong điện không nhiều lắm, một người mới vừa rồi đứng ở bên cạnh Địch Thanh hướng về phía phật Di Lặc hành lễ. Khi Địch Thanh xoay người lại thì người đó đã rời khỏi.
Ở trong khoảnh khắc chớp mắt này, Địch Thanh phảng phất trông thấy được khóe miệng người kia hình như lưu lại một nét cười nhưng mà vẻ mặt rất lạnh.
Địch Thanh bị vẻ mặt không hài hoà của người kia hấp dẫn, không khỏi nhìn trộm vài lần. Không ngờ khi người kia vừa tới trước cửa điện thì một cơn gió thổi qua, vén lên trường sam của người đó, Địch Thanh nhìn thấy đai lưng màu xanh biếc của y lộ ra thì bỗng nhiên cảm giác được ngực mình giống như bị đánh một quyền cực mạnh.
Đai lưng màu xanh biếc, ký ức chôn sâu trong lòng Địch Thanh ùa về.
Màu sắc của đai lưng không phải chính là màu trang phục của Đa Văn Thiên Vương kia sao?
Khóe miệng kia hơi mỉm cười nhưng không giống với nụ cười của Đa Văn Thiên Vương ở giữa điện, trong cái từ bi còn mang theo sự lạnh lẽo vô biên.
Địch Thanh nhanh chóng quay đầu lại liếc mắt nhìn tượng phật, càng thêm khẳng định ý nghĩ của mình, xoay người lại lần nữa thì đã phát hiện người kia biến mất không thấy tăm hơi. Địch Thanh cất bước muốn truy đuổi thì đột nhiên cảm thấy trong đầu đau nhức khủng khiếp, lảo đảo muốn ngã, không biết làm sao, nhưng suy nghĩ này trước giờ chưa từng có. Sau lưng người kia không phải đeo theo một cái túi hình dạng dài sao? Ở bên trong đó có thể là cây dù hay không? Người đi đường lưng đeo một cây dù cũng không khác thường lắm, nhưng cây dù của người này đeo chính là vũ khí đã làm cho Địch Thanh đau khổ nhiều năm!
Người kia chính là Đa Văn Thiên Vương!
Sao lại gặp được Đa Văn Thiên Vương ở Đại Tướng Quốc Tự?
Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng rất đau thương, hai tay nắm chặt, móng tay đã đâm sâu vào thịt. Đau nhức ở lòng bàn tay xua tan cái đau ở trong đầu Địch Thanh, lòng báo thù trỗi dậy, hắn lao ra khỏi Thiên Vương điện, khàn giọng nói: “Chớ có đi!” Lúc đó hắn hoàn toàn không nghĩ đến chuyện mình không phải là đối thủ của Đa Văn Thiên Vương.
Nhưng Địch Thanh vừa mới lao ra khỏi Thiên Vương điện, thì có hai người đang đi đến. Một người đang muốn tiến vào trong điện thì vừa vặn bị Địch Thanh đâm vào, không khỏi “Ai u” một tiếng, ngồi bệt ở trên mặt đất.
Thanh âm như dòng nước xuân ấm áp nhuốm vẻ mỏi mệt, thì ra người bị Địch Thanh đụng vào chính là một cô gái.
Địch Thanh quay đầu lại xin lỗi qua loa rồi vội vàng chạy đi, nghiêng người liếc mắt nhìn nàng kia một cái, chỉ thấy được nàng có một đôi mắt trong veo như hồ thu.
Nha hoàn bên cạnh nàng nói: “Tiểu thư, người này thật vô lễ.”
Địch Thanh nghe được lời trách móc này thì trong lòng cảm thấy áy náy, nhưng hắn đang nóng lòng truy tìm Đa Văn Thiên Vương nên không thể quay lại. Chạy vội một hồi thì đã ra khỏi Tướng Quốc Tự, người đi đường rất nhiều, đeo dù cũng nhiều nhưng không có ai thắt đai lưng màu xanh biếc cả.
Địch Thanh dừng bước, ngỡ ngàng nhìn xung quanh, lại đuổi theo về một hướng khác. Hắn giống như con ruồi không đầu, chạy loạn xa khắp nơi nhìn bốn phía xung quanh, không hề để ý đến ánh mắt tràn đầy vẻ kinh ngạc của mọi người xung quanh nhìn hắn. Không biết đã qua bao lâu, tiếng chuông khánh xa xa truyền đến, Địch Thanh lúc này mới dừng lại, đấm một đấm vào cây hòe ở bên cạnh, phát hiện bản thân mồ hôi nhễ nhại, uể oải không chịu nổi.
Tìm không được rồi, tìm không được rồi.
Trong lòng Địch Thanh vang lên tiếng gào thét điên cuồng, trong mắt lửa giận hừng hực, không ngừng nghĩ đến, “Đa Văn Thiên Vương vì sao lại tới nơi này? Hắn tới nơi này một lần, có khi còn trở lại? Nhưng cũng có thể hắn chỉ tình cờ đi qua đây, cả đời này không bao giờ đến nữa!”
Tâm tư của Địch Thanh như nước thủy triều, trong lúc nóng nảy lại chợt nghe thấy giọng nói một thiếu nữ nói: “Tiểu thư, chính là người này đã làm tiểu thư ngã, ánh mắt hắn rất hung ác.”
Địch Thanh nghe xong ngẩn ra, quay đầu nhìn lại thì thấy được có hai người con gái đang nhìn mình, nàng bên trái quần áo màu xanh nhạt, trang phục của một nha hoàn, đang dìu đỡ tiểu thư ở bên phải. Tiểu thư này khuôn mặt như tranh, y phục trắng hơn tuyết, màu da so với y phục còn muốn trắng hơn vài phần, thấy Địch Thanh nhìn đến thì sóng mắt trong vắt như nước dời đi, nhỏ giọng nói với nha hoàn, “Đừng có gây sự.”
Tâm tư Địch Thanh rối loạn, muốn tới xin lỗi nhưng lại không nghĩ ra được lời nào để nói, bị ánh mắt trong veo của nàng kia quét qua thì càng không được tự nhiên. Dưới tình thế cấp bách này, hắn liền xoay người bỏ đi, nhưng vẫn còn có thể nghe được tiếng lầm bầm của nha hoàn này nói: “Tiểu thư, lần này vốn định đi xem hoa mẫu đơn, nhưng chân của người bị trẹo rồi, còn có thể đi được không?”
Tiểu thư này đáp: “Thật khó khắn lắm mới đi ra ngoài được một lần, ài … dù sao vẫn muốn đi xem xem.” Trong giọng nói nhu nhược của nàng còn mang theo một chút thất vọng.
Nha hoàn nói: “Cũng được, nhưng chỉ sợ ở đây không có hoa gì đẹp nữa, không bằng Diêu Hoàng ở nhà mình…”
Tiểu thư kia than nhẹ một tiếng, cũng không nói gì nữa.
Giọng nói dần dần xa xa, Địch Thanh có chút bất an, muốn quay trở lại nhưng không có dũng khí. Hắn vốn là kẻ không sợ trời không sợ đất, trước đây cho dù đơn độc đối đầu với đám tai sai của Triệu Vũ Đức, lúc dũng cảm đâm Tăng Trưởng Thiên Vương võ công cao tuyệt cũng không có nhút nhát như vậy, chẳng biết vì sao lúc này hắn lại sợ nhìn thấy đôi mắt đen như hạt châu, ánh mắt sáng trong thanh tịnh của nàng kia.
Không biết đã đi được bao xa, phía trước có mùi thơm truyền đến. Địch Thanh nhìn đến thấy ở nơi xa có một lán hoa, hoa mẫu đơn đang nở rộ, bèn tới gần xem thử.
Người bán hoa chính là một ông lão, nếp nhăn trên mặt giống như bùn đất bên trong chậu hoa, tràn đầy tang thương, thấy Địch Thanh đi tới liền chạy đến hỏi: “Khách quan, muốn mua hoa sao?”
“Chỉ xem thôi.” Địch Thanh nói cho lấy lệ. Hắn kỳ thật cũng không tính là người thích hoa, văn thần trong triều rất thích trâm hoa, mỗi lúc gặp dịp tiết khánh, cả triều càng trâm hoa, nhưng Địch Thanh dù sao vẫn cho rằng một người nam nhân nhuốm máu đào, ít nhiều cũng có chút không được tự nhiên.
Ông lão thấy khách bên cạnh, nhiệt tình giới thiệu nói: “Khách quan, nơi này có Tử Kim Bàn, Điệp Lâu Thúy, Bạch Ngọc Băng và Mãn Đường Hồng, đều rất đẹp, nếu mua một chậu về nhà bày trí, nhìn sẽ rất đẹp đó.” Lán bán hoa này, đều đặt cho những loài hoa một cái tên lịch sự tao nhã, tìm cách thu hút ánh mắt của khách nhân.
Địch Thanh nhìn thấy cái mà gọi là Tử Kim Bàn chính là mẫu đơn màu nâu son viền vàng rất hiếm thấy; Điệp Lâu Thúy là mẫu đơn xanh biếc, cánh hoa trùng điệp, tương đối xinh đẹp; Bạch Ngọc Băng kia tên cũng như nghĩa chính là màu trắng; Mãn Đường Hồng thì toàn thân màu hồng. Mẫu đơn nở rộ, quả thực là tranh kỳ đoạt diễm. Ánh mắt Địch Thanh đảo qua, đột nhiên hỏi: “Có cây gì tên là … Diêu Hoàng không?”
Ông lão ngẩn ra, lắc đầu nói: “Diêu Hoàng thì cực kỳ quý báu, đường kính hoa này hơn xích, lão cũng chỉ gặp qua một lần mà thôi, nhưng ở đây lại không có bán.”
Địch Thanh hỏi: “Ở đâu có bán vậy?”
Ông lão lắc đầu nói: “Ta không biết, nhưng mà loại hoa này … chỉ có nhà quyền thế phú quý mới có khả năng mua được thôi.” Lão thấy Địch Thanh ăn mặc giản dị, nhịn không được mà nhắc nhở nói.
Địch Thanh nghe lão bán hoa nói như vậy, thầm nghĩ nói: “Tiểu thư kia trong nhà có Diêu Hoàng, chắc là người phú quý rồi.” Hắn mới vừa rồi chỉ nhìn thoáng qua, bị dung mạo của tiểu thư kia làm cho hấp dẫn nên không dám nhìn lâu, chỉ ngờ ngợ cảm thấy tiểu thư kia cực kỳ xinh đẹp, nhưng y phục như thế nào thì không nhớ.
Đang chìm trong suy tính thì hắn trông thấy có chậu mẫu đơn nở hoa màu vàng óng ánh ở trong bụi hoa thơm cỏ lạ đua sắc có vẻ điềm tĩnh an bình. Địch Thanh chậm rãi đến gần, đứng trước hoa nghỉ chân một lát. Lão hán giới thiệu nói: “Khách quan, hoa này đây là …”
Chưa kịp nói xong, bên ngoài lán đột nhiên có người hô lớn: “Cao lão đầu, ngươi đã chuẩn bị xong chưa?”
Ông lão quay đầu lại nhìn lên, thấy ba tên du côn đứng ở trước lán, phía bên trái là một người có dáng người ục ịch, ở giữa là một tên đội mũ lệch, phía bên phải là một tên phanh ngực, ở trên mặt xăm một con mãnh hổ dữ tợn, cử chỉ của ba người này vô cùng kiêu ngạo ngang ngược, chỉ thiếu xăm hai chữ “Lưu manh” trên mặt nữa thôi.
Lão Cao thấy thế hoảng sợ bước lên phía trước nói: “Các vị, chuẩn bị cái gì vậy?”
Tên đội mũ lệch nói: “Ngươi giả bộ hồ đồ phải không? Phí bảo vệ lán nên giao nộp rồi phải không nhỉ?”
Lão Cao vội la lên: “Mấy ngày trước không phải đã nộp rồi sao?”
Tên đội mũ lệch cười lạnh nói: “Ngươi vài ngày trước đã ăn cơm rồi, chẳng lẽ ngày hôm nay không cần phải ăn nữa sao?”
Tên xăm mặt kia gật đầu phụ họa nói: “Lão đại nói có lý.”
Lão Cao vội la lên: “Lão bán hoa chỉ đủ nuôi bản thân mình, nào có dư thừa tiền đâu? Các vị … à, tháng sau lại nộp tiền được không?”
Tên đội mũ lệch cười lạnh nói: “Vậy tháng sau ngươi mới ăn có được hay không hả?”
Tên xăm mặt kia lại khen: “Lão đại nói có lý.”
Địch Thanh nghe thấy thế đã biết là có chuyện gì đã xảy ra, chậm rãi đi tới lạnh lùng thốt: “Các ngươi có biết nhục không?”
Tên đội mũ lệch nghe vậy cả giận nói: “Ngươi là ai?”
Địch Thanh thản nhiên nói: “Các ngươi dù cho không biết nhục, lẽ nào cũng không biết chữ sao?”
Tên đội mũ lệch kia ngẩn ra, hét lớn: “Đại gia không biết chữ, quan hệ gì với ngươi mà ở đây lải nhải?” Con ngươi tên ục ịch vừa chuyển, nhìn thấy trên mặt Địch Thanh xăm chữ thì biến sắc, nói khẽ với tên đội mũ lệch: “Đại ca, người kia chính là cấm quân.” Tên đội mũ lệch chỉ biết đắc ý kiêu ngạo, lúc này mới nhìn thấy trên mặt Địch Thanh có xăm chữ, sắc mặt liền khẽ biến. Bọn chúng dù sao cũng chỉ là du côn, thường ngày chỉ dọa dẫm bắt nạt kẻ yếu mà sống chứ nào dám đắc tội với cấm quân, biết thân phận của đối phương thì ngay lập tức êm ái lại, cười làm lành nói: “Vị đại gia này, tiểu nhân dốt nát, thuở nhỏ nhà nghèo đâu có tiền mời thầy dạy học, nên không biết chữ, không nhận ra đại gia, xin người rộng lượng bỏ qua.” Bộ mặt hắn liền thay đổi nói với lão Cao: “Chỉ đùa một chút với lão thôi, đừng có tin là thật nhé!” Dứt lời nháy mắt với hai người huynh đệ, ảo não mà rời đi.
Lão Cao thở phào nhẹ nhõm, nói với Địch Thanh: “Vị quan gia này, đa tạ người đã giúp đỡ. Lúc này kinh thành thuế má không nhẹ, vậy mà còn phải đối phó với đám vô lại này, thật là khiến người ta đau đầu.” Dứt lời lão lắc đầu, vẻ mặt bất đắc dĩ.
Địch Thanh cười, quay đầu lại nhìn chậu hoa mẫu đơn màu vàng rực rỡ kia, hỏi: “Hoa kia bán bao nhiêu tiền vậy?”
Lão Cao cười theo nói: “Quan gia nếu như thích thì cứ việc cầm lấy đi là được, một chậu hoa này coi như lão tặng cho ngài.”
Địch Thanh cười đáp: “Ta chỉ là một cấm quân tầm thường, không phải là cái gì gia đâu. Nếu ta không trả tiền thì có khác gì bọn du côn kia chứ?” Hắn liền chìa bàn tay đưa tới một vài đồng tiền nói: “Chừng này đủ chưa vậy?”
Lão Cao liên tục gật đầu: “Vậy là đủ rồi, dư nữa, dư nữa.”
Địch Thanh bỏ đồng tiền xuống cầm chậu hoa đi ra ngoài, nhưng đột nhiên sửng sốt, hóa ra cô gái áo trắng
Chương 6 : Ngũ Long.
Địch Thanh rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự mà mãi chẳng hay rằng mình đang đi lang thang khắp nơi. Chỉ đến khi bóng tà dương dần khuất, đàn chim mệt mỏi bay về tổ thì hắn mới chợt tỉnh táo lại, tự hỏi vì sao hồn vía mình lại lên mây như thế, chẳng lẽ vẫn còn muốn tìm Đa Văn Thiên Vương?
Vừa nghĩ đến Đa Văn Thiên Vương, lửa giận trong lòng Địch Thanh lại bùng lên, ngẫm nghĩ: “Di Lặc giáo đồ này xem ra còn có chút tôn kính đối với phật Di Lặc. Đa Văn Thiên Vương đến một lần, không chừng sẽ đến lần thứ hai. Đã thế, sao mình không về Đại Tướng Quốc Tự xem thử, có khi gặp hắn cũng nên.” Mới đi được vài bước, hắn đã không cầm lòng được, lại nghĩ: “Không biết nàng ấy đã rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự hay chưa?”
Nghĩ tới đây Địch Thanh mới nhận ra là ngay cả bản thân hắn cũng không rõ mình muốn quay về Tướng Quốc Tự là muốn tìm Đa Văn Thiên Vương hay người con gái kia. Hắn không khỏi tự chế nhạo bản thân: “Địch Thanh ơi là Địch Thanh, bộ dạng ngươi thế này mà cũng mơ mộng hão huyền hay sao?”
Địch Thanh không muốn nghĩ đến người con gái đó nữa, bèn nhắm chuẩn phương hướng chạy về phía Đại Tướng Quốc Tự, trên đường đi hắn ghé qua sạp mua hai cái bánh bao cất vào trong lồng ngực. Lúc này đám đông tụ họp trong chùa đã sớm giải tán, dân chúng cũng đều đã bỏ về nên trong chùa đã thanh tịnh hơn rất nhiều.
Địch Thanh bước vào trong Thiên Vương điện, thấy trên bàn thờ khói hương nghi ngút, chỉ còn một tăng nhân đang gõ mõ ở lại. Trong lòng khẽ động, hắn lặng lẽ vòng ra phía sau bàn thờ, thừa dịp tăng nhân này không chú ý liền chui xuống phía dưới bàn thờ. Hắn làm việc không dựa vào một quy tắc nào nào cả, chỉ nghĩ rằng nếu hắn ở đây lâu thì chắc tăng nhân trong tự sẽ cảm thấy lạ, có khi lại đuổi hắn ra ngoài không chừng, nên dứt khoát phải trốn trước đã.
Dưới bàn thờ tương đối sạch sẽ, Địch Thanh nhẹ nhàng mà rút thanh đao ở thắt lưng ra, rạch một khe nhỏ trên tấm màn bằng vải bố để nhìn ra ngoài dò xét. Hắn khoanh chân ngồi xuống, trong lòng nhất thời dao động, không biết biện pháp ôm cây đợi thỏ này có tác dụng hay không. Nhưng muốn tìm Đa Văn Thiên Vương thì thực sự hắn cũng không nghĩ ra được biện pháp nào hay hơn nữa.
Màn đêm buông xuống, đèn vàng thắp lên, Đại Tướng Quốc Tự dần dần rời xa tiếng ồn ào náo nhiệt, trong tự chỉ còn văng vẳng tiếng kinh cầu. Nghe được âm thanh ôn hòa này, trong lòng Địch Thanh đã tĩnh lặng trở lại. Hắn vẫn nhìn ra ngoài dò xét xung quanh từ lỗ hổng trên tấm màn bằng vải bố, nhưng nhìn chăm chú liên tục khiến cho con mắt trở nên đau nhức, mà Đa Văn Thiên Vương lại không xuất hiện lần thứ hai.
Địch Thanh thấy hơi đói bụng, bèn móc bánh bao ra xé một miếng, sợ phát ra tiếng động làm cho tăng nhân phát hiện nên liền cho vào trong miệng chậm rãi nhai. Sau khi ăn bánh bao xong, lại qua nửa canh giờ, Địch Thanh ngồi lâu bàn chân tê rần, biết đã gần đến nửa đêm, không khỏi cảm thấy vô cùng uể oải. Hắn thầm nghĩ, cửa chùa đã đóng lâu rồi, chắc chắn là Đa Văn Thiên Vương sẽ không tới.
Lúc này có tiếng bước chân vang lên, tinh thần Địch Thanh chấn động, bèn đưa mắt nhìn lại. Phía trước có một tăng nhân và một tục nhân đi tới, tăng nhân này mặt mũi hiền lành, dưới cằm râu trắng như cước; tục nhân kia thì đưa lưng về phía Địch Thanh, trên người không có đeo vật gì dài như trường tán, không giống với người mà Địch Thanh đang đợi. Địch Thanh nhìn không thấy chính diện mặt mũi của tục nhân, chỉ thấy được giày của hắn là thêu hoa dệt gấm, cực kỳ hoa mỹ. Địch Thanh biết đôi giày này là do danh phường kinh thành Ngũ Hồ Xuân làm ra, người mua đều là quan to quyền quý.
Nhưng người vừa đến hoàn toàn không có quan hệ gì với Địch Thanh. Hắn vô cùng thất vọng, nhắm hai mắt lại, chỉ nghe thấy tục nhân kia hỏi: “Trụ trì, ta có một chuyện muốn thỉnh giáo.” Âm điệu người này tuy còn trẻ nhưng trong giọng nói ẩn chứa vẻ chán nản, giống như một lão già bảy tám mươi tuổi.
Địch Thanh hơi ngạc nhiên, cảm thấy giọng điệu người này và khuôn mặt của Đa Văn Thiên Vương có chung một điểm là không hài hòa với vẻ bình thường. Hắn lại nghĩ “Trụ trì Đại Tướng Quốc Tự phụ thuộc hoàng gia, không phải muốn gặp là gặp được, vậy mà người này có thể mời chủ trì giải thích nghi vấn, không biết có địa vị gì đây?”
Trụ trì nói: “Thí chủ, xin cứ hỏi.”
Tục nhân buồn rầu nói: “Thiên đàng là ở đâu vậy?” Địch Thanh thiếu chút nữa phá lên cười, thầm nghĩ “Chẳng lẽ kinh thành này không phải Thiên đàng sao?” Nghĩ lại một chút, khóe miệng hắn mang theo một nét cười.
Trụ trì chậm rãi đáp: “Nhược tầm tịnh thổ, đương cầu tịnh tâm. Tùy kỳ tâm tịnh, vô xử bất tịnh thổ.” (Muốn thấy Niết bàn, để lòng thanh tịnh. Khi tâm đã tịnh, đâu chẳng Niết bàn)
Trong lòng Địch Thanh cười khổ, “Tuy nói thì là vậy, nhưng muốn tịnh tâm đâu phải là chuyện dễ dàng như vậy?”
Tục nhân cũng nói: “Cao tăng nói rất đúng, nhưng ta làm thế nào cũng không thể tĩnh tâm được, vẫn luôn cảm thấy khắp nơi đều là địch, như ở trong lồng giam, nên mới đến đây để cầu phật.” Địch Thanh nghe thấy giọng nói người kia tràn đầy vẻ hoang mang khốn khổ, hệt như con thú bị hãm sâu vào cạm bẫy, trong lòng hắn đột nhiên dâng lên sự đồng tình. Nhiều năm qua, Địch Thanh cũng vùng vẫy ở trong gian khổ nên đồng cảm với thứ cảm giác cay đắng mà bản thân hắn từng trải qua này.
Trụ trì đáp: “Thánh nhân cầu tâm không cầu phật, ngu nhân cầu phật không cầu tâm. Thí chủ, bần tăng muốn kể một chuyện xưa …”
Tục nhân vui vẻ nói: “Xin cứ nói.”
Trụ trì chậm rãi nói: “Nghe kể rằng bên bờ biển Đông có một con chim bói cá, chán ghét thế tục xấu xa, nó cảm thấy thiên hạ đều là kẻ địch. Chính vì thế nó bay đến rừng núi ven biển làm ổ xây tổ, tưởng rằng sẽ không còn nguy hiểm nữa, nhưng không ngờ đến một ngày thủy triều dâng lên, hang ổ bị sóng biển cuốn đi. Chim bói cá than thở nói: “Trong lòng có địch, khắp nơi đều là địch.”
Địch Thanh nghe xong trong lòng có chút hỗn loạn, thoáng nghĩ, “Ta vốn chẳng muốn coi Đa Văn Thiên Vương là địch, nhưng nếu người này không chết thì đại loạn sẽ không thể dừng lại được. Nếu hắn muốn quay đầu làm người tốt…” Nghĩ tới đây, khóe miệng nhếch lên một nụ cười cay đắng, ” Nếu hắn muốn quay đầu làm người tốt, ta có thể tha hắn không? Sợ rằng không thể. Nếu không gần nghìn thường dân đã chết ở thung lũng Phi Long chẳng phải quá oan uổng sao?”
Tục nhân yên lặng một lúc lâu, lúc này mới nói: “Đa tạ đại sư chỉ bảo, ta đã biết nên làm như thế nào rồi. Đại sư vất vả rồi, ta có ý muốn trùng tu chùa chiền, làm một chút công đức, không biết ý đại sư thế nào?”
Trụ trì nói: “Trùng tu, không tu, không gì công đức, trong lòng có phật, đã là công đức.”
Tục nhân hiểu ý, hai tay hợp thành chữ thập thi lễ, chậm rãi bỏ đi, trụ trì cũng theo sau, Thiên Vương điện thoáng cái đã yên tĩnh trở lại.
Địch Thanh nghe thấy cao tăng giảng kinh Phật, cảm thấy có lý nhưng lại cảm thấy không bỏ xuống được, lại có chút tò mò về lai lịch tục nhân kia. Đang miên man trong suy nghĩ thì đột nhiên cảm thấy một tia sáng xuyên qua tấm màn bằng vải bố, tối rồi lại sáng. Địch Thanh khẽ rùng mình, tiến đến phía sau màn che bằng vải bố nhìn ra bên ngoài thì chỉ thấy một người đứng yên trước tượng phật Di Lặc, bên hông có mang một cái đai lưng màu xanh, lưng đeo trường tán, đúng là người mà hắn muốn tìm kiếm.
Tim Địch Thanh đập thình thịch, nhìn qua mặt người đó. Chỉ thấy khóe miệng người đó hơi mỉm cười, nhưng khuôn mặt cực kỳ lạnh lẽo u ám, đang nhìn phật Di Lặc đến xuất thần. Địch Thanh nhìn người đó một lúc lâu, thấy y vẫn duy trì tư thế không đổi một chút nào, trong lòng không khỏi cảm thấy ớn lạnh. Địch Thanh biết mình dù cho không bị thương thì võ công so với người đó cũng kém quá xa, thời khắc này hắn còn không dám thở mạnh một cái, thầm than Quách Tuân đã rời khỏi kinh thành, nếu không cũng có thể tìm Quách Tuân đối phó với người kia.
Không biết đã qua bao lâu, bên ngoài cửa điện có tiếng bước chân truyền đến, một tăng nhân bước vào. Nhìn thấy người kia đứng lặng im trước tượng phật, tăng nhân không khỏi ngạc nhiên trầm giọng quát khẽ: “Ngươi là ai?” Đại Tướng Quốc Tự là quốc tự, để ngọn đèn dầu ở chủ điện cả đêm không tắt, tăng nhân này phụ trách nửa đêm đến đây thêm dầu thắp thì bỗng nhiên nhìn thấy có người lạ ở đây, khó tránh khỏi vô cùng kinh ngạc.
Người đó nghe được tiếng quát hỏi, đột nhiên xoay người lại, thoáng cái đã bước đến trước mặt tăng nhân. Trường tán trên lưng khẽ động, cán tán đã đập vào sau gáy tăng nhân.
Tăng nhân còn chưa kịp tri hô thì cả người đã mềm nhũn ngã xuống đất. Người kia khẽ vung tay ra đã bắt được hũ dầu mà tăng nhân lúc nãy cầm trong tay, đi một vòng quanh đại điện để nắm rõ tình hình, châm thêm dầu cho những ngọn đèn ở bốn vách tường.
Địch Thanh từ một nơi bí mật gần đó xem chân thật rõ ràng, lại không hiểu được người này rốt cuộc muốn tìm kiếm cái gì.
Người đó thêm dầu xong xuôi thì trở lại ngồi trước mặt phật Di Lặc, nhìn Di Lặc phật chủ, lẩm bẩm nói: “Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp … Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt?”
Hắn lặp lại không ngừng mấy câu nói đó, hình như đang suy nghĩ cái gì đó. Địch Thanh nghe không hiểu gì hết, thầm nghĩ trước đây ở thung lũng Phi Long, người này niệm chú để mê hoặc nhân tâm, nhưng hiện giờ ở chỗ này chỉ có một mình hắn thì còn niệm cái chú ngữ quái quỷ gì đây?
“Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt. Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp!” Người đó lại đem những lời này niệm đến điên đảo, miết chặt đầu mày, ánh mắt đặt ở trên tượng phật Di Lặc.
Dưới ngọn đèn dầu, tượng phật Di Lặc rạng rỡ tỏa sáng. Trong ánh mắt người đó đột nhiên lộ ra vẻ vui mừng, thấp giọng nói: “Đúng rồi, Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp!” Dù hắn có nói hay không nói thì nụ cười ở khóe miệng vẫn tồn tại.
Địch Thanh chợt tỉnh ngộ, “Người này chắc chắn là đang mang mặt nạ cải trang.” Hắn chưa kịp suy nghĩ nhiều thì thân hình người đó đã nhảy vút lên cạnh đài sen, chuyển tới bên thân tượng phật Di Lặc, đi liên tục mấy vòng.
Địch Thanh không nhịn được thò đầu ra khỏi tấm màn bố quan sát, cũng may toàn bộ tâm tư của người này đều đặt trên người tượng phật Di Lặc nên không ngờ rằng dưới bàn thờ còn có người đã nhìn thấy tất cả.
Người kia rốt cuộc cũng dừng lại, lấy tay gõ gõ vào thân tượng phật Di Lặc, hai tay đột nhiên để ở trên tượng phật Di Lặc, tập trung tinh thần dùng hết sức, khẽ gầm một tiếng. Chỉ nghe thấy tiếng ầm ầm vang lên, tượng Di Lặc phật đã bị hắn đẩy khỏi đài sen.
Trong tiếng nổ, tượng phật Di Lặc đã vỡ thành bốn năm mảnh, bụi bay tràn ngập không gian. Đột nhiên có một tiếng vang nhỏ “đinh” truyền đến, người kia nhảy xuống đưa tay chụp lấy một vật gì đó trong mảnh vỡ của tượng phật, không nén được vui mừng nói: “Quả nhiên ở chỗ này.”
Trong lòng Địch Thanh tràn đầy hiếu kỳ, không biết người này rốt cuộc vừa lấy vật gì?
Đúng lúc này, bên ngoài Thiên Vương điện truyền đến mấy tiếng quát lớn: “Là ai ở trong điện?” Tiếng quát chưa dứt thì đã có mấy võ tăng tiến vào.
Đại Tướng Quốc Tự mặc dù lấy việc nghiên cứu tinh hoa Phật pháp, vì hoàng tộc phục vụ là chính, nhưng trong chùa cũng thu không ít vàng bạc pháp khí, danh gia mặc bảo, sợ đám trộm vặt lớn gan vào chùa trộm cướp cho nên lúc nào cũng có võ tăng hộ viện. Vào Đại Tướng Quốc Tự trộm cướp là trọng tội, xưa nay đều phải bị chém đầu nên quả thực đã uy hiếp không ít đạo tặc. Bởi vì nguyên nhân này mà mấy năm qua ít có kẻ trộm, tăng nhân trong chùa cũng thoải mái rất nhiều, không ngờ hôm nay trong Thiên Vương điện lại có thay đổi lớn. Mấy võ tăng tuần viện nghe được tiếng động vội vàng chạy vào thì chỉ nhìn thấy bên cạnh tượng phật Di Lặc bị phá vỡ có đứng một người, không khỏi vừa sợ vừa giận, cũng không dò hỏi mà vung côn tấn công người đó.
Đa Văn Thiên Vương hừ lạnh một tiếng, đưa tay nắm lấy trường côn, tung người đá tới, đã đem một võ tăng đá bay ra ngoài. Đám võ tăng kinh hãi, như thế nào lường trước được võ công người này cao cường đến như vậy, nhưng đã mang trong người trách nhiệm bảo vệ chùa, dù không đánh lại cũng phải kiên trì bao vây tới cùng.
Địch Thanh chỉ nghe được tiếng kêu “Ai ui má ơi” không dứt, chỉ trong chớp mắt, mấy người võ tăng vọt tới đều bị Đa Văn Thiên Vương đánh bay ra ngoài. Địch Thanh vốn định cùng võ tăng liên thủ nhưng lại sợ bị võ tăng hiểu lầm là đồng đảng của tên trộm kia, không chừng ăn không được thịt dê, trái lại còn chuốc lấy phiền phức vào người. Trong lúc hắn đang lưỡng lự thì Đa Văn Thiên Vương đã lẻn đến trước điện, vừa mới nhảy ra ngoài điện, liền nghe được một tiếng hét lớn: “Nằm xuống!”
Một vệt kiếm quang như trăng sáng xuyên mây, đâm về phía trước ngực Đa Văn Thiên Vương!
Y kinh hãi lùi lại một bước. Nhưng thanh kiếm kia hư hư thực thực, biến hoá khó lường, Đa Văn Thiên Vương sau khi lùi một bước, lại bị bức lui thêm hai bước. Người xuất kiếm cũng âm thầm lặng lẽ đánh một chưởng vào giữa ngực Đa Văn Thiên Vương.
Y bị một chưởng đánh cho bay ngược trở lại, trong lồng ngực khí huyết nhộn nhạo, không khỏi hoảng hốt, thầm nghĩ tên đó làm sao lại ở chỗ này? Trước khi hắn tới đây đã thăm dò được địa thế trong điện, lại biết được võ tăng ở Đại Tướng Quốc Tự tuy đông nhưng đều không phải là đối thủ của hắn, vì vậy không kiêng dè gì cả, đâu ngờ kẻ thù một mất một còn của mình vậy mà cũng đi tới Đại Tướng Quốc Tự.
Địch Thanh nhìn thấy người vừa đến ánh mắt như kiếm phong thì trong lòng mừng rỡ, thì ra người xuất kiếm đẩy lùi kẻ trộm lại chính là bộ đầu Khai Phong phủ Diệp Tri Thu!
Một chưởng Diệp Tri Thu trúng đích vẫn không hề buông tha. Cả người hắn theo kiếm bay tới, kiếm quang trùng trùng đâm tới mọi chỗ trên cơ thể kẻ địch.
Đa Văn Thiên Vương hừ lạnh một tiếng, trở tay vớ lấy cái trường tán đeo trên lưng xuống, chỉ cần điểm nhẹ lên mặt đất vậy mà bay nhanh trở ra. Diệp Tri Thu ngạc nhiên với tài nghệ của Đa Văn Thiên Vương nhưng chẳng hề buông tha, mũi chân liên tiếp điểm mấy cái, cưỡi gió đuổi theo.
Hai người một tiến một lùi, thoáng cái đã đến bên cạnh tượng phật Tứ Đại Thiên Vương. Đa Văn Thiên Vương cuối cùng không chạy nữa mà gào to một tiếng, cầm tán đâm tới Diệp Tri Thu. Trong lòng Diệp Tri Thu rùng mình, biết rõ trường tán của người này biến hóa vô cùng nên tập trung toàn bộ tinh thần mà chống đỡ.
Đa Văn Thiên Vương thấy thế thì cười một tràng dài, thò tay kéo một tượng Phật sắp đổ ném về phía Diệp Tri Thu. Diệp Tri Thu đành phải lùi ra sau một bước, Đa Văn Thiên Vương thừa cơ tung người nhảy lên đỉnh tượng Phật, lại nhảy tiếp lên một cái xà ngang trên nóc điện, nhưng cực hạn của hắn vẫn còn cách xà ngang một cánh tay. Bất kỳ lúc nào cũng có thể rơi xuống, nhưng không ngờ hắn trở cán dù móc vào rồi ôm lấy xà ngang Thiên Vương điện. Đa Văn Thiên Vương cố gắng leo lên xà ngang rồi theo đà đánh vỡ đỉnh điện lưu ly, vọt khỏi nóc Thiên Vương điện.
Đỉnh điện mặc dù cao như qua mấy lần mượn lực, hắn cũng đã leo lên được đỉnh điện mà bỏ chạy.
Diệp Tri Thu vô cùng giận dữ, không ngờ hắn ta lại ứng biến nhanh nhạy đến như vậy. Gã cũng không muốn khinh nhờn tượng phật, nhưng lại hoàn toàn không có cách gì leo lên nóc điện nên chỉ có thể lách mình ra khỏi điện, thét ra lệnh thuộc hạ “Bao vây Thiên Vương điện.” Nhưng mệnh lệnh hắn vừa ra thì tự biết đã có vấn đề lớn, dù sao Thiên Vương điện cũng không phải là đại điện cách ly, mà nó liền cùng một chỗ với Vũ Liên điện, tuyệt đối không có chuyện tên trộm kia ngồi ở đỉnh điện chờ người lùng bắt, chỉ sợ lúc này sớm đã trốn thoát mất rồi.
Ánh trăng như nước, chiếu một mảnh tiêu điều trong trời đất. Diệp Tri Thu nhất thời cau mày, phỏng đoán mục đích đến của người này. Đột nhiên nghe được trong điện truyền đến vài tiếng quát: “Người nào?” Trong lòng Diệp Tri Thu ngạc nhiên, vội lách mình vào trong điện, ánh mắt dừng lại ở đám võ tăng vây bắt một người thì nghẹn ngào nói: “Ngươi…” Trong lòng hắn khẽ động, hét lớn: “Là người một nhà, các vị hãy thu hồi gậy gộc lại đi.”
Mới vừa rồi Diệp Tri Thu cùng Đa Văn Thiên Vương trong điện đại chiến, đám võ tăng không làm được gì nên đều cảm thấy vừa thẹn vừa ngượng, thấy kẻ trộm phá đỉnh điện chạy thoát thì càng khiến cho mọi người trợn mắt líu lưỡi, không ngờ trên đời này còn có công phu bậc này. Những tăng nhân hộ tự này suốt ngày luyện võ, tuy nói là tăng nhân vô dục vô cầu nhưng đối với tài năng của Diệp Tri Thu tại Khai Phong thì cũng có lòng muốn tỷ thí. Nhưng hôm nay thấy người cầm tán kia hoành hành không kiêng nể gì ai, nếu như không có Diệp Tri Thu thì chỉ sợ tất cả mọi người đều mất mặt, cho nên vừa kính nể vừa cảm kích Diệp Tri Thu, liền thu hồi côn bảng.
Địch Thanh hơi xấu hổ, kêu lên: “Diệp bộ đầu.”
Thì ra khi Đa Văn Thiên Vương lật nhào tượng phật, thiếu chút nữa là đập xuống bàn thờ, Địch Thanh bị dọa cho xanh mặt, không thể ẩn náu được nữa mà lao ra ngoài, đám võ tăng thấy có người khác thì muốn lập công chuộc tội nên vây Địch Thanh lại. Địch Thanh thầm nghĩ không xong, nhất thời không biết giải thích thế nào mới phải.
Diệp Tri Thu cau mày, đột nhiên nói: “Ngươi vì theo dõi Đa Văn Thiên Vương này mà đến đây sao?”
Địch Thanh bội phục nói: “Diệp thần bộ quả nhiên danh bất hư truyền. Ban ngày, ta nhìn thấy người này ở trong chùa đi tới đi lui, lòng mang ý đồ xấu, nghĩ rằng có khả năng buổi tối hắn sẽ tới đây nên mới ở chỗ này ôm cây đợi thỏ. Người kia chính là Đa Văn Thiên Vương, nói như vậy thì ta không có nhận lầm người rồi?”
Diệp Tri Thu thấy Địch Thanh nói vô cùng tỉ mỉ xác thực, biết hắn tuyệt đối không phải là bè đảng của Di Lặc giáo, và cũng vì nguyên do Quách Tuân, chẳng ngờ nhiều chuyện phức tạp xảy ra, bèn nói rằng: “Tốt, ngày khác ta sẽ thỉnh công cho ngươi. Ngươi… trước tiên hãy rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự đi.”
Địch Thanh không nghĩ núp ở dưới gầm bàn mà cũng có công lao, thoạt nhìn thời gian khổ cực cũng đã qua. Hắn vừa định nói gì thì có người vội vội vàng vàng tới bên cạnh Diệp Tri Thu, thấp giọng thì thầm hai câu. Diệp Tri Thu gật đầu, nói với Địch Thanh: “Ta … còn có việc khác, ngươi rời khỏi nơi đây trước đi đã.” Hắn hai lần bảo Địch Thanh rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự, vẻ mặt hình như có điều bí ẩn khiến cho Địch Thanh có phần khó hiểu. Chỉ có điều Địch Thanh biết rõ Diệp Tri Thu có ý tốt, liền gật đầu rời khỏi chùa. Vừa mới ra khỏi Đại Tướng Quốc Tự, cửa chùa “Ầm” một tiếng đóng chặt, y thầm nghĩ đám tăng nhân này đây hơn phân nửa thấy tượng phật Di Lặc bị phá hỏng, sợ gánh trách nhiệm cho nên len lén ở trong chùa tu bổ, nhưng Diệp Tri Thu thì ở trong chùa làm gì?
Địch Thanh lắc đầu không muốn suy nghĩ nhiều bèn trở về phủ đệ của Quách Tuân.
Quách phủ không nhỏ nhưng lại chỉ có huynh đệ họ Quách sống, Quách Tuân trong một năm thì đã có hơn nửa năm ở bên ngoài kinh thành bắt giặc dẹp loạn, mấy năm nay Địch Thanh vẫn ở lại Quách phủ. Địch Thanh ghé qua thăm Quách Quỳ trước, thấy nó đã ngủ say bèn nhặt cái chăn rơi trên mặt đất, nhẹ nhàng đi vào trong thay cho Quách Quỳ một cái chăn ấm, lúc này mới trở lại gian phòng của mình, châm ngọn đèn dầu.
Ngọn đèn lập loè giống như đôi mắt đa tình của tình nhân, Địch Thanh nhìn ngọn đèn một lát, chậm rãi sờ tay vào ngực móc ra một hắc cầu to cỡ nửa nắm tay.
Chẳng ai biết đó là vật gì, Địch Thanh cũng vậy. Lại nói tiếp cũng là trời xui đất khiến làm sao mà nó từ trên người Đa Văn Thiên Vương rơi xuống.
Lúc đó Đa Văn Thiên Vương phá vỡ tượng phật Di Lặc, lấy ra một vật từ trong đó, làm kinh động võ tăng và Diệp Tri Thu, Đa Văn Thiên Vương bị Diệp Tri Thu đánh một chưởng làm rơi ra một hắc cầu, lăn xuống dưới bàn thờ. Địch Thanh đưa tay tóm lấy, trực tiếp suy đoán ở trong lòng, hắn biết thứ này chắc là quan trọng đối với Đa Văn Thiên Vương nên đem vật này giữ lại trên người.
Lúc ở Đại Tướng Quốc Tự, Địch Thanh vốn định nói với Diệp Tri Thu điều này nhưng Diệp Tri Thu vội vội vàng vàng rời đi làm cho Địch Thanh không có cách nào mở miệng. Địch Thanh cầm hắc cầu này, thấy nó cũng không phải sắt, toàn bộ đen nhánh rất bắt mắt, cảm giác thô ráp, không hiểu sao Đa Văn Thiên Vương lại phải vất vả mạo hiểm?
Lật qua lật lại nhìn hồi lâu bỗng nhiên phát hiện hắc cầu hình như lóe hàn quang nhè nhẹ, Địch Thanh không nhịn được cầm hắc cầu tiến về phía ngọn đèn, vừa nhìn đã phát hiện trên hắc cầu có khắc hai chữ triện “Ngũ Long”.
Địch Thanh cau mày, nhớ tới theo như lời Đa Văn Thiên Vương lẩm bẩm nói, “Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp. Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt.” Xem ra phật Di Lặc không phải độ kiếp mà là gặp nạn, mới sinh ra vật Ngũ Long này.
Hắc cầu này nếu như là Ngũ Long thì rốt cuộc có tác dụng gì?
Địch Thanh nghĩ đến đau cả đầu mà vẫn không nghĩ ra. Hắn thử dùng đơn đao khứa nhẹ lên mặt hắc cầu thì phát hiện ra vật này cực kỳ cứng rắn, đao sắc như thế mà cũng không để lại một vết tích nào.
Địch Thanh nghiên cứu liên tục một canh giờ mà mãi vẫn không thể khám phá ra được điều gì, hắn bực mình ném cục sắt kia lên mặt bàn, lầm bầm nói: “Cái thứ khỉ gió gì đây chứ, lãng phí thời gian ngủ của lão tử quá.”
Bận rộn cả đêm, giờ đã thấy tờ mờ sáng. Địch Thanh không thèm cởi giày, cứ thế ngã lăn ra giường nhìn lên nóc nhà, trong đầu đột nhiên lại hiện ra khuôn mặt thanh lệ thoát tục kia. Hắn liền lắc đầu cố xua hình bóng kia ra khỏi đầu, mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.
Không biết đã qua bao lâu, Địch Thanh đột nhiên cảm thấy trước mắt có sợi tơ sáng ngời, bỗng nhiên mở hai mắt ra. Gian phòng của hắn quay về hướng đông, mặt trời mọc lên ở phương đông, tia sáng đầu tiên của ánh mặt trời lúc nào cũng có thể chiếu vào đây. Địch Thanh dần cũng quen với ánh mặt trời nhưng lại cảm thấy lần này mặt trời khác thường, hắn mở choàng hai mắt thì đột nhiên nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ đến khó tin, kinh ngạc đến nỗi thiếu chút nữa thét to lên.
Hóa ra trước mắt hắn xuất hiện một dải lụa màu hồng, bằng phẳng trải rộng ra, trên dải lụa tràn đầy những chấm li ti kì quái, trong lúc nhất thời khó mà phân biệt được đây là cái gì.
Địch Thanh chỉ ngơ ngác trong chốc lát, hắn bị cảnh tượng trước mắt làm cho kinh hãi, không khỏi hét to một tiếng. Tiếng hét của hắn vừa phát ra thì dải lụa hồng đột nhiên biến mất, trong phòng liền yên tĩnh trở lại. Chỉ thấy một luồng ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ chiếu vào trên giường, Địch Thanh lúc này mới phát hiện toàn thân mình mồ hôi lạnh tuôn ra đầm đìa, đồng thời mí mắt trái của hắn giật giật liên tục.
Cửa phòng mở ra. Quách Quỳ chạy ùa vào hỏi: “Địch nhị ca, sao vậy?”
Địch Thanh bất thình lình nhảy dựng lên tóm lấy Quách Quỳ hỏi: “Tiểu Quỳ, đệ mới vừa rồi … có thấy dải lụa hồng đó không?”
“Lụa hồng, lụa hồng nào cơ?” Quách Quỳ chẳng hiểu gì, đưa tay sờ soạng cái gáy của Địch Thanh, “Huynh làm sao mà ra nhiều mồ hôi như vậy, bị bệnh à? Mí mắt huynh sao mà giật giật liên tục vậy?”
Địch Thanh lau mồ hồi trên mặt, cảm thấy mí mắt cuối cùng cũng đã ngừng giật, gấp gáp nói: “Mới vừa rồi nếu đệ ở bên ngoài, hẳn là phải thấy ở trong phòng này có một dải lụa màu hồng, từ mặt tường này kéo dài tới mặt tường kia.” Hắn khoa tay múa chân để minh họa, thấy Quách Quỳ kỳ quái nhìn mình thì mất hứng bỏ tay xuống, lẩm bẩm nói: “Đệ không có nhìn thấy gì sao?”
Quách Quỳ khó hiểu nói: “Đệ vốn muốn tìm huynh, từ ở bên ngoài cửa sổ nhìn thấy huynh đang ngủ say. Đệ đang lưỡng lự có nên chờ một lát hay không thì chợt nghe huynh thét to một tiếng, đệ lập tức chạy vào đây, đâu có thấy lụa hồng gì đâu?” Trong lòng cậu bé thầm nghĩ “Địch nhị ca có phải vì lo lắng quá độ, buồn bực sinh ra bệnh rồi hay không?”
Địch Thanh nhìn chằm chằm Quách Quỳ, thấy thái độ của nó thành thật và nó cũng không cần phải bịa chuyện với mình làm gì, lẩm bẩm nói: “Chẳng lẽ đây chỉ là một giấc mơ sao?” Thấy Quách Quỳ lo lắng nhìn mình, Địch Thanh miễn cưỡng cười nói: “Đệ tìm huynh có chuyện gì thế?”
“Chính xác là Diệp bộ đầu tìm huynh … Nhưng mà gã đi rồi.” Quách Quỳ nói: “Địch nhị ca, tối hôm qua có phải huynh đến Đại Tướng Quốc Tự không?”
Địch Thanh cũng không giấu diếm mà kể lại chuyện đã xảy ra hôm qua cho Quách Quỳ nghe, nhưng mà hắn lược bỏ bớt đi chuyện cô gái áo trắng và hắc cầu. Hắn không muốn đề cập đến chuyện cô gái ấy và lại cảm thấy hắc cầu có chút quái dị. Vừa nghĩ đến hắc cầu, hắn không nhịn được nhìn về phía cái bàn, thấy cái vật kia vẫn bình thản nằm ở cạnh bàn, ánh sáng mặt trời chiếu ở trên mặt hắc cầu, vẫn là một màu đen nhánh tầm thường.
Quách Quỳ chú ý tới quả cầu kia, thắc mắc hỏi: “Đây là vật gì?”
“Huynh nhặt được.” Địch Thanh thuận miệng nói.
Quách Quỳ cầm ở trong tay xem xét, cười nói: “Hình như là sắt, nếu như là vàng thì ngon rồi.” Hắn để hắc cầu lại trên bàn, nói: “Diệp bộ đầu bảo đệ nói với huynh là mấy ngày này không nên đi tới Đại Tướng Quốc Tự. Còn…chuyện tối hôm qua thì cố gắng mà quên hết đi, nhớ kỹ nhé!” Chỉ sợ Địch Thanh có điều không vừa lòng, Quách Quỳ nói: “Diệp bộ đầu cũng là muốn tốt cho huynh. Y nói không có nghi ngờ huynh gì hết, nhưng có nhiều chuyện không cần để ý tới quá, để tránh khỏi chuốc lấy phiền phức vào người.”
Địch Thanh gật đầu nói: “Huynh hiểu rồi.”
Quách Quỳ thầm nghĩ: “Huynh hiểu rồi, nhưng đệ lại không hiểu gì hết.” Nhìn thấy được vẻ mặt Địch Thanh hoảng hốt thì không muốn hỏi nhiều, bèn xoay người rời đi. Địch Thanh nhớ tới hôm nay còn phải làm đương sai, bèn sửa sang lại trang phục chuẩn bị ra ngoài. Chức quan Thập Tương này của hắn tuy là cơm ăn không phải lo, nhưng chuyện nên làm thì vẫn phải làm tốt. Cũng may Đại Tống đã có vài chục năm không có chiến tranh, kinh thành vẫn bình an vô sự, cái gọi là việc đương sai, chỉ cần làm qua loa cho xong.
Trước khi ra ngoài, Địch Thanh nhìn hắc cầu trên bàn một lúc lâu, cuối cùng đem nhém vào trong lồng ngực, chẳng biết vì sao hắn có cảm giác ảo cảnh sáng nay dường như có liên quan đến hắc cầu này.
Vừa đến cấm quân doanh, Địch Thanh đã thấy có hai người xì xầm bàn tán. Hắn nhận ra người mặt dài như mặt ngựa tên là Trương Ngọc, người còn lại là Lý Vũ Hanh, có chùm râu dài rất uy mãnh nhưng con mắt so với hạt đậu tương lớn hơn không được bao nhiêu, khiến cho cái cái uy mãnh của hắn giảm đi nhiều.
Địch Thanh tiến lại gần hỏi: “Đang bàn chuyện gì vậy?”
Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh đều xem như là bạn bè của Địch Thanh, quan hệ trong Kiêu Vũ quân doanh cũng không đến nỗi nào. Trương Ngọc là một Quân Đầu, so với Địch Thanh lớn hơn một cấp, Lý Vũ Hanh lại là một Tương Ngu Hầu, so với Địch Thanh thì nhỏ hơn một cấp. Bất kể là Quân Đầu, Thập Tương hay Tương Ngu Hầu, đều thuộc về quan quân cấp thấp, vì thế quản không được bao nhiêu việc, bổng lộc mỗi tháng nhiều lắm cũng chỉ chênh lệch một hai lượng bạc mà thôi, cho nên mọi người thường ngày cũng chỉ hi hi ha ha, ít có phân biệt cấp bậc.
Lý Vũ Hanh thấy Địch Thanh đến, ra vẻ thần bí nói: “Địch Thanh, ta kể cho ngươi một bí mật, nhưng mà ngươi chớ có nói cho người ngoài biết.”
Trương Ngọc bên cạnh cười mắng: “Con mẹ nó, hôm nay ngươi nói cái câu này cũng không dưới chục lần rồi, cái lỗ tai lão tử nghe được cũng to như cái nút chai rồi. Ngươi gặp người nào cũng nói cho hắn một bí mật, đến bây giờ cái bí mật đó người qua đường ai cũng đều biết hết rồi.”
Lý Vũ Hanh sờ sờ râu mép, chớp mắt nói: “Còn chưa có tới mười lần, mới có bảy lần.” Dứt lời hắn cười ha hả nói: “Địch Thanh, ngươi biết Đại Tướng Quốc Tự xảy ra chuyện gì không?”
Địch Thanh khẽ giật mình, nhớ tới lời Diệp Tri Thu dặn dò nên lắc đầu nói: “Không biết rõ lắm.”
Người Lý Vũ Hanh như lạc vào trong kỳ cảnh, hùng hồn nói: “Nghe nói ngày hôm qua, lúc nửa đêm, bầu trời trên Thiên Vương điện đột nhiên mây đen bao phủ, che khuất trăng sáng, bầu trời đột nhiên đánh ra một tia sét, đánh thủng nóc Thiên Vương điện, sau đó đánh vào trên tượng phật Di Lặc. Không chỉ như thế … tượng phật Di Lặc còn bị đánh vỡ thành bốn năm mảnh, uy lực còn lại phá hủy luôn tượng Tăng Trưởng Thiên Vương. Việc này người khác vốn không biết, nhưng ta có một người quen làm tạp dịch ở trong Đại Tướng Quốc Tự, ngày hôm nay ở trong chùa thấy có người tu bổ đỉnh điện Thiên Vương, có thể thấy được tin đồn quá nửa là thật.”
Địch Thanh âm thầm buồn cười nhưng không nói thẳng ra, chỉ gật đầu nói: “Đây quả đúng là một chuyện kỳ dị, cũng chỉ có người tài giỏi như ngươi mới có thể … biết.”
Lý Vũ Hanh đắc ý huênh hoang,”Ai nói không phải chứ?” Còn định nói thêm cái gì thì Triệu Luật đi tới nói: “Nhiều chuyện quá, không muốn làm việc nữa sao?”
Ba người Địch Thanh đứng lên, hô to: “Triệu Quân sử.” Triệu Luật chính là thuộc hạ của Quách Tuân, thường ngày Quách Tuân vắng mặt thì Triệu Luật phụ trách điều động nhân lực của Kiêu Vũ quân.
Triệu Luật xụ mặt nói: “Đừng có huyên thuyên nữa, cẩn thận họa từ cái miệng mà ra. Trương Ngọc, Địch Thanh, Lý Vũ Hanh, hôm nay ba người các ngươi đi Tây Hoa môn đến đường cái lân cận Tây Giác lâu tuần tra, chú ý những người lạ, không được chậm trễ.”
Ba người tuân lệnh, biết rõ mỗi lần sau khi kinh thành xảy ra điều dị thường thì đều phải tăng cường nhân thủ theo dõi tình hình. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự xuất hiện sự việc khác thường, chỉ sợ kinh thành đại nội, nội thành, ngoại thành sớm đã đông nghịt cấm quân.
Triệu Luật thấy Địch Thanh đi ra ngoài, đột nhiên gọi hắn lại nói: “Địch Thanh, ngươi chờ một chút.” Thấy Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đã đi xa, Triệu Luật lúc này mới nói: “Lần này tuần tra là làm việc theo thông lệ mà thôi, xảy ra chuyện thì chỉ cần báo hiệu là được rồi, không cần phải ra tay.” Hắn cũng không nói nhiều, xoay người rời đi, trong lòng Địch Thanh cười khổ, thầm nghĩ điều này hơn phân nửa là lời quan tâm của Quách đại ca. Bản thân mình mặc dù muốn thể hiện, nhưng ở trong mắt người khác thì mình cũng chẳng khác gì phế vật.
Ra khỏi cấm quân doanh, Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đã đợi sẵn, hai miệng một lời hỏi: “Địch Thanh, Triệu Quân Sử dặn dò cái gì thế?”
Địch Thanh thản nhiên nói: “Hắn kể ngày hôm qua có một người ăn nói bậy bạ huyên thuyên bị Thiên Lôi ân cần thăm hỏi, mong rằng chúng ta nói năng đi đứng cẩn thận.”
Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh cười ha hả, biết rõ Địch Thanh nói giỡn, ôm lấy bả vai Địch Thanh đi về phía đại nội Tây Hoa môn. Tuy rằng Địch Thanh võ công không tốt, không có cách nào dùng lực được, nhưng hắn là người ngay thẳng phóng khoáng, làm việc trượng nghĩa, nên hai người cũng không coi thường hắn.
Ba người theo đường cái đi tới Tây Giác lâu, chỉ thấy dọc đường sầm uất, bọn họ phụ trách an toàn đoạn đường này cả một thời gian dài, người bán hàng rong hai bên đường đã sớm quen thuộc. Ven đường có một phụ nhân nhiệt tình bắt chuyện: “Ba vị quan nhân, có một mẻ bánh bao mới ra lò, có muốn tới thử vài cái không?” Dân chúng kinh thành đều gọi là người đương sai và nha dịch đều là quan nhân, phụ nhân này họ Vương, bày quầy bán bánh trên phố đã lâu, bánh bao bán ở con đường này rất có danh tiếng.
Địch Thanh đưa tới mười hai văn tiền rồi cầm lấy sáu cái bánh bao, cười nói: “Vương đại tẩu, dạo này ở đây có người nào khả nghi không?”
“Có đó.” Vương đại tẩu nhận lấy tiền, cười nói: “Ngài rất khả nghi đó, lớn như vậy rồi mà ngay cả một người vợ cũng không có, có muốn đại tẩu giới thiệu cho ngươi một người khuê nữ không?” Người dân bày quầy hàng xung quanh đều cười thiện chí. Địch Thanh có chút xấu hổ, cười nói: “Đại tẩu đừng nói đùa mà.” Nói xong, hắn lôi kéo hai người Trương Ngọc nhanh như chớp chạy về phía bắc, Trương Ngọc bên cạnh nói: “Địch Thanh, ngươi không phải là kẻ trộm thì chạy cái gì? Nhắc tới mới thấy cuộc đời thực sự không công bằng, ta quan chức so với ngươi thì cao hơn, người cũng đẹp trai hơn ngươi, so với ngươi còn thông minh hơn, vì sao người khác bao giờ cũng giới thiệu khuê nữ cho ngươi mà không giới thiệu cho ta?”
Lý Vũ Hanh nói: “Nhà Vương đại tẩu có con ngựa cái chưa gả đi, ngươi suy nghĩ thử xem?” Gã nhắm gương mặt Trương Ngọc mà nói.
Trương Ngọc lấy chân đá một cái, cười mắng: “Đồ chết tiệt, ngươi lo cho bản thân mình đi. Ta nghe nói gần đây có sư tử Thổ Phiên rất có địa vị tìm chồng, rất xứng với ngươi, bây giờ qua đó cầu hôn vẫn còn kịp đó.” Hai người cùng phá lên cười nắc nẻ.
Địch Thanh cụt hứng nói: “Làm việc đi.” Hắn không biết vì sao lại nghĩ đến người con gái dịu dàng kia, khó tránh khỏi cảm thấy chán nản.
Ba người đi tới gần Tây Hoa môn, tìm đại một bậc thang ngồi xuống, nhìn chằm chằm Tây Hoa môn đến ngẩn ngơ.
Qua khỏi Tây Hoa môn chính là hoàng cung đại nội, là nơi trọng thần triều đình làm việc và là chỗ ở của hoàng đế, hoàng hậu. Loại người như bọn họ, mặc dù ở kinh thành đã nhiều năm, nhưng ngay cả mặt mũi hoàng đế cũng chưa từng thấy qua lần nào.
Lý Vũ Hanh nói: “Địch Thanh, ta nói cho ngươi một bí mật, nhưng ngươi đừng nói cho người khác.”
Địch Thanh uể oải nói: “Có phải là Đông Hoa môn sinh ra nhiều Trạng Nguyên, Tây Hoa môn sinh ra nhiều mỹ nữ hay không?”
Lý Vũ Hanh làm ra vẻ rất ngạc nhiên nói: “Hóa ra ngươi sớm đã biết rồi.”
Địch Thanh lầm bầm nói: “Ngươi nói liên tục mấy năm nay, cho dù là người điếc, hơn phân nửa cũng đều biết hết rồi.” Mỗi lần mở khoa cử, xong lượt thi Đình thì tên của ba người Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa đều được xướng lên từ phía Đông Hoa môn, nổi danh thiên hạ. Đông chủ dương, Tây chủ âm, tương tự thì Tây Hoa môn lại là nơi hoàng cung nội quyến thường lui tới. Nếu như phi tần có địa vị qua đời, quan tài chắc chắn là từ Tây Hoa môn mà ra, phương hiển tôn quý. Loại cấp bậc như bọn người Địch Thanh thì cả đời cũng khó mà đi vào được hai cửa Đông Hoa và Tây Hoa, mỗi lần khi Lý Vũ Hanh đến nơi đây làm đương sai đều không nhịn được mà đem cái “bí mật” kia nói ra một lần.
Lúc này, có một cỗ xe ngựa từ cuối đường chạy nhanh về phía Tây Hoa môn, xe ngựa này mành che làm từ châu ngọc, dây cương khảm ngọc, yên ngựa chạm trổ hoa văn, quả thực là lộng lẫy khác thường. Trương Ngọc đột nhiên thấp giọng nói: “Thực ra Tây Hoa môn không chỉ sinh ra mỹ nữ, mà còn sinh ra một thứ đồ.”
Lý Vũ Hanh khó hiểu nói: “Là thứ đồ gì vậy?”
Trương Ngọc trào phúng nói: “Còn sinh ra đám thái giám chết bầm.”
Lý Vũ Hanh nhịn không được vừa cười, vừa nhỏ giọng nói: “Thái giám cũng không phải là thứ gì.”
Địch Thanh bên cạnh nói: “Các ngươi cũng không sợ bị người khác nghe thấy sao? Cái tên thái giám này nếu như biết được các ngươi bàn tán, nói cho thái hậu nghe, truy ra gốc rễ, nói không chừng các ngươi bị tịch biên gia sản, chém đầu cả nhà đấy.”
Trương Ngọc lạnh lùng nói: “Ta cái gì cũng sợ, chỉ không sợ bị tịch biên gia sản chém đầu cả nhà. Cả nhà ta cũng chỉ có một người, cả nhà tịch thu tài sản cũng chỉ một cái đầu. Tên thái giám chết bầm này, mỗi lần nhìn thấy xe của hắn, ta đều muốn chửi một trận.”
Lý Vũ Hanh than thở: “Nhưng mà cái tên thái giám chết bầm này chẳng những không bị ngươi chửi chết mà hiện giờ còn trở thành người tin cậy bậc nhất của thái hậu. Hô mưa gọi gió, không gì không làm được. Đáng tiếc … đường đường là Xu Mật sứ Tào Lợi Dụng cũng đấu không lại tên thái giám này, lại bị hắn lập mưu hãm hại đến chết.”
Hóa ra người ngồi bên trong xe ngựa xa hoa kia chính là đệ nhất thái giám trong cung La Sùng Huân.
Đại Tống tuy có tổ tông gia pháp, thái giám bên ngoại không được chuyên chính (1) nhưng bây giờ hoàng đế vẫn không đích thân xử lý quốc sự một mình mà muốn thái hậu giúp đỡ. Tên La Sùng Huân này mặc dù không có năng lực gì nhưng rất được thái hậu tán thưởng, ỷ vào uy nghiêm của thái hậu nên rất có quyền thế. Đã làm thái giám thì không còn “làm ăn” gì được (ND: tội lỗi, mình vẫn đang để tâm rất thuần khiết), nên bọn họ chẳng tham tiền thì cũng hám quyền. Nhiều thái giám trong cung sẽ tranh thủ kiếm cho người thân của mình một chức quan, nhưng Xu Mật sứ Tào Lợi Dụng tính tình cương trực ghét dua nịnh, nhiều lần cự tuyệt thỉnh cầu trong cung, mới khiến cho La Sùng Huân ghi hận trong lòng. Cuối cùng đến một ngày, hắn lấy cớ cháu trai Tào Lợi Dụng phạm sai lầm, y bẩm lên thái hậu, thái hậu thấy thế giận dữ, trừng phạt nghiêm khắc Tào Lợi Dụng. Đường đường là Xu Mật sứ, người trong hai phủ, mà lại bị cách chức đuổi ra khỏi kinh thành.
La Sùng Huân vẫn không chịu buông tha Tào Lợi Dụng, lại tìm người bịa đặt tội danh của Tào Lợi Dụng. Tào Lợi Dụng còn đang trên đường cách chức thì lại bị đày tới Phòng Châu, người phụ trách áp giải Tào Lợi Dụng trước đây chính là thái giám Dương Hoài Mẫn, mà ai cũng đều biết rằng Dương Hoài Mẫn và La Sùng Huân vốn là cá mè một lứa. Tào Lợi Dụng bị hoạn quan này hãm hại, cuối cùng chết thảm trên đường đi lúc đầu xuân.
Hòa ước Thiền Uyên năm đó, duy trì mấy chục năm năm bình an cho Đại Tống, mà người không màng đến sinh tử khi đó, không chút do dự đi sứ Khiết Đan chính là Tào Lợi Dụng. Tào Lợi Dụng đang ở hang hùm, nhưng lẫm liệt không sợ hãi, tấc đất cũng không đồng ý nhường, tuy rằng cuối cùng vẫn phải dâng vàng cầu hòa nhưng ở trong mắt người dân kinh thành, người này quả thật là đại công thần, bởi vậy người trong kinh thành cực kỳ căm ghét La Sùng Huân và Dương Hoài, Trương Ngọc cũng không ngoại lệ.
Lý Vũ Hanh bùi ngùi nói: “Đáng tiếc là thái hậu không phân biệt được đúng sai, trước đây không triệu hồi Khấu lão về chủ trì triều chính, cho tới bây giờ lại để hoạn quan hãm hại trung thần, triều cương không vượng rồi.” Khấu lão mà Lý Vũ Hanh nói chính là Khấu Chuẩn, người này ngay thẳng nổi tiếng thiên hạ, nhưng mà Lưu thái hậu sau khi nắm quyền thì trước sau không cần Khấu Chuẩn, Khấu Chuẩn mấy năm trước đã qua đời làm cho người trong thiên hạ phải thở dài than thở.
Trương Ngọc cười lạnh nói: “Ngươi cho là thái hậu thực sự hồ đồ sao? Vậy thì ngươi sai hoàn toàn rồi!”
Lý Vũ Hanh ngẩn ra, hỏi: “Bà ta trọng dụng hoạn quan, bức tử trọng thần, để cho người trung thành và tận tâm như Khấu lão không dùng đến, chẳng lẽ không phải mắt mù tai điếc sao?”
Địch Thanh thấy hai người càng nói càng không kiêng nể gì cả, vội vàng nói lảng đi: “Ê, Ăn bánh bao nè… A, khuôn mặt hai người kia hình như ta chưa thấy bao giờ qua?” Hắn vì muốn chuyển chú ý của hai người Trương Ngọc nên đưa tay chỉ về phía trước, chẳng ngờ quả nhiên có hai người cử chỉ hơi khác lạ, người thường nhìn thấy xe ngựa của La Sùng Huân đi ngang qua thì hơn phân nửa sẽ lùi về bên đường, nhưng hai người này không chỉ lùi đến ven đường mà còn quay mặt đi nhìn vào vách tường.
Chờ sau khi La Sùng Huân đi qua, hai người này thỉnh thoảng lại lén lút nhìn xung quanh cỗ xe kia.
Trương Ngọc bỗng nhiên đứng lên nói: “Đúng là khả nghi, đi hỏi một chút.” Hắn không có để ý hai người kia từ đại nội đi ra, hay là muốn đi vào đại nội, nhưng mà có chức trách trong người thì vẫn phải tra hỏi một phen.
Ba người đi lại gần hai người đó, thấy trong đó có một người vóc dáng trung bình, tuổi tác chưa cao, trên mặt hình như có dính tro bụi nhưng đôi tay cực kỳ trắng trẻo mềm mại. Người còn lại có khuôn mặt mập trắng, lông mày đậm, không có ria mép. Thấy ba cấm quân đi tới, sắc mặt người mập trắng khẽ biến, vừa muốn nói cái gì nhưng lại bị người thanh niên chặn lại, hai người liền quay về phía đường cái Tây Giác lâu đi đến. Trương Ngọc ngăn ở trước hai người này, hét lớn: “Lấm la lấm lét làm cái gì đó? Tên họ, quê quán, hiện nay đang ở đâu? Thân thích là người phương nào? Mau thành thật khai báo!”
“Lớn mật.” Người mập trắng quát to, giọng nói chói tai phẫn nộ.
Người thanh niên vội vàng nói với người mập trắng: “Đừng để … lộ ra. Thật … kỳ cục.” Hắn nói rất kỳ quái làm cho bọn người Trương Ngọc như rơi vào trong mây mù. Nhưng trong lòng Địch Thanh hơi giật mình, thầm nghĩ giọng nói người này làm sao mà nghe quen quen thế.
Trương Ngọc nói: “Còn không muốn lộ ra? Các ngươi làm kẻ trộm ư, sao mà cẩn thận như vậy? Mau mau khai ra họ tên.”
Trong mắt người thanh niên hiện lên vẻ cổ quái, nói: “Ta muốn đi Đại Tướng Quốc Tự cầu phật, các ngươi … đừng có nhiều chuyện.”
Trương Ngọc vừa bực mình vừa buồn cười, nói rằng: “Ngươi cầu phật giỏi lắm? Con mẹ nó, ta hỏi ngươi tên họ, ngươi nói cái con khỉ gì vậy?”
Người thanh niên nghe lời tục tĩu thốt ra từ miệng Trương Ngọc, con mắt trừng lên, rất có uy nộ.
Địch Thanh nghe được hai chữ cầu phật thì trong lòng khẽ động, nhớ tới tối hôm qua ở Đại Tướng Quốc Tự hình như có nghe qua giọng nói này. Người này lúc đó không phải cùng chủ trì Đại Tướng Quốc Tự luận kinh phật sao? Cúi đầu xuống phía dưới, Địch Thanh nhìn thấy dưới chân hắn ta có mang một đôi giày, mặc dù đã thay đổi kiểu dáng, nhưng chắc chắn là do Ngũ Hồ Xuân may. Đinh ninh ý nghĩ trong đầu, hắn liền lôi Trương Ngọc sang một bên nói: “Hai người này không có gì khả nghi đâu, thả cho bọn họ đi đi.” Địch Thanh thầm nghĩ, “Người có thể cùng chủ trì Đại Tướng Quốc Tự luận kinh phật thì không phải là kẻ xấu, nếu như là người cao quý thì không cần phải … mạo phạm.”
Trương Ngọc thấy Địch Thanh nháy mắt với hắn lia lịa, ho khan một tiếng nói: “Vậy các ngươi đi đi. Gần đây Đại Tướng Quốc Tự tạm thời không tiếp khách lạ, các ngươi cũng không nên đi tới đó.”
Người thanh niên mỉm cười nói: “Cám ơn đã nhắc nhở.” Hắn hướng về phía Địch Thanh nháy mắt một cái, gật đầu rồi bước nhanh đi. Người trung niên mập mạp kia vội vàng đi theo sát, cái mông lắc qua lắc lại giống như một con vịt.
Trương Ngọc chờ hai người kia đi rồi mới nói với Địch Thanh: “Ngươi biết bọn họ sao?”
Địch Thanh lắc đầu nói: “Mặc dù không nhận ra bọn họ nhưng dù sao ngươi làm cấm quân đã nhiều năm, nhìn đôi giầy kia không phải đã bằng bổng lộc một năm của ngươi sao. Người này không phú thì cũng quý, ngươi làm ầm ĩ với hắn thì được gì chứ?”
Trương Ngọc cười hắc hắc: “Ta chính là thấy hắn phú quý cho nên mới mượn cớ chặn hắn lại. Chúng ta làm việc tận tuỵ thì có cái gì đáng trách?”
Địch Thanh lắc đầu, ngồi xổm xuống gặm cái bánh bao đã nguội, không nhịn được liếc mắt nhìn về hướng người thanh niên rời đi, lại nghĩ tới sự việc đêm qua, nhớ tới Đa Văn Thiên Vương nên lại nghĩ tới Ngũ Long, không kìm lòng nổi mà sờ soạng trước ngực, hắc cầu cứng rắn kia vẫn còn ở đây.
Một ngày vô sự, Địch Thanh báo cáo kết quả công tác xong xuôi, dùng qua bữa cơm tối, liền trở lại phòng mình, móc hắc cầu đó ra, lật qua lật lại mà kiểm tra hết nửa ngày nhưng vẫn hoàn toàn không thu hoạch được cái gì cả. Cuối cùng, hắn nảy sinh ra ý định ác độc là lấy cái búa sắt đập thử xem, nhưng chỉ nghe được hắc cầu truyền ngược lại âm thanh không có ý nghĩa, đành thờ dài để hắc cầu lại trên bàn, nhìn chằm chằm đến nửa đêm.
Hắc cầu vẫn là hắc cầu, không biến thành lụa hồng mà cũng không biến thành trứng vàng.
Địch Thanh nhìn chòng chọc đến nỗi hai con ngươi cay cay, thầm nghĩ chẳng lẽ sáng nay thực sự là nằm mơ tỉnh giấc? Đã đến đêm khuya, Địch Thanh hết sức mệt mỏi bèn dựa vào vách tường nặng nề thiếp đi, nhưng mà vẫn không dám ngủ, trở mình mà tỉnh lại mấy lần.
Địch Thanh mỗi lần tỉnh lại đều liếc mắt nhìn về phía hắc cầu, thấy nó vẫn thâm trầm trong bóng đêm, yên tĩnh nói không nên lời. Có một lần tỉnh lại, đột nhiên hắn cảm thấy hơi buồn cười, thầm nghĩ mình thực sự cho rằng nó là vật sống hay sao? Chẳng qua nó chỉ là là ảo giác, mình lại tưởng là thật mà thôi. Vừa nghĩ tới đây, Địch Thanh thả lỏng tâm tư, ngủ thiếp đi lần nữa, hắn ngủ thẳng đến khi gà trống gáy ba tiếng, mặt trời đỏ đã mọc lên ở hướng đông.
Bên tai nghe thấy tiếng gáy, Địch Thanh thầm nghĩ rằng trời đã sáng. Hắn còn chưa kịp mở mắt thì thân hình đột nhiên rung lên, bởi vì dù cho không mở mắt thì trước mắt hắn cũng là từng vạch hồng quang khác xa bình thường.
Tình cảnh này cũng giống như tối hôm qua vậy!
Trong lòng Địch Thanh chịu đựng chấn động, chậm rãi mở hai mắt ra, khoảnh khắc này, trong lòng hắn kinh hãi khó nói nên lời. Ánh sáng mặt trời từ màn cửa sổ bằng lụa mỏng bắn đến, màu vàng rực rỡ lóa mắt, nhưng càng lóa mắt hơn lại là một dải lụa hồng trước mắt. Dải lụa hồng này cực kỳ lộng lẫy, màu sắc rực rỡ tươi đẹp, từ bên trái tường kéo dài tới tận bên phải tường, phấp phới chuyển động. Mà dải lụa hồng này lại lấy hắc cầu làm gốc. Loại hiện tượng này cực kỳ quái dị, giống như là hắc cầu nhả tơ bó thành dải lụa rộng lớn.
Khi Địch Thanh thấy dải lụa hồng này phấp phới bay thì càng kinh hãi không hiểu gì, không biết nó rốt cuộc là vật gì, vì sao bỗng dưng lại xuất hiện? Hắn không la hét, mà cũng quên mất la hét, chỉ nhìn chằm chằm dải lụa hồng kia, thấy trên mặt nó có ánh sáng di động, lại qua chốc lát, dải lụa hồng vừa di chuyển đã bay về phía hắn, Địch Thanh mặc dù không muốn hét, nhưng không còn nhịn được nữa phát ra tiếng rống động trời.
Không phải lụa hồng, mà là con rồng!
Con rồng khổng lồ màu đỏ thẫm.
Lụa hồng biến thành rồng lớn, ngay lúc Địch Thanh thét lên sợ hãi thì nó nhào tới trước người Địch Thanh. Địch Thanh nhảy bật dậy, vội vàng lui về phía sau, nhưng quên mất phía sau chính là tường, “Phanh” một tiếng đụng vào vách tường, nóc nhà rung động, sống lưng đau buốt. Ngay sau đó trong đầu Địch Thanh “Oanh” một tiếng, chỉ thấy hồng long này đã chui vào bên trong thân thể hắn rồi đột nhiên tan biến. Ánh sáng mặt trời trong phòng phục hồi như cũ, cái bàn cái giường vẫn như cũ nhưng cả người Địch Thanh đã mồ hôi đầm đìa, mí mắt bên trái càng không ngừng giật giật.
Qua một lúc lâu, Địch Thanh phục hồi tinh thần lại, trong lòng gào lên, “Không phải mộng, không phải nằm mơ, ta còn tỉnh táo.”
Hắn lúc này mới phát hiện mình đang đứng ở trên giường liền chậm rãi ngồi xuống, cảm thấy khát nước vô cùng, vội đi tới lấy một tách trà ở trên mặt bàn, chỗ đó còn có tách trà đã nguội mà tối hôm qua hắn chưa uống hết.
Nhưng tay phải hắn vừa chạm vào tách trà thì tách trà sứ men xanh cứng rắn đó lại vang lên tiếng “Sát”, đột nhiên vỡ tan tành. Địch Thanh giật mình, theo phản ứng bản năng mà đưa tay bắt lấy, nửa tách trà còn lại ở trên tay hắn cũng vỡ vụn như đất khô. Địch Thanh ngẩn ra, đưa tay vịn lấy cái bàn, nhưng không ngờ cái bàn này cũng vang lên tiếng “Răng rắc”, chân bàn đã gãy. Địch Thanh bất ngờ không kịp phản ứng, đặt mông ngồi bệt trên mảnh vỡ, nhìn chén bể bàn khuyết, ngây ngốc tại chỗ.
Địch Thanh lúc này vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ: “Làm sao mình lại có sức mạnh lớn như vậy?”
Sau khi tủy hải Địch Thanh bị thương, mặc dù không chết nhưng cây kim vẫn còn ở trong đầu. Thường ngày hắn làm việc và sinh hoạt chẳng khác gì mọi người, nhưng lại không có sức để làm việc nặng, chỉ cần hơi dùng lực mạnh thôi là sẽ đau đầu như búa nện, thậm chí hôn mê ngay tại chỗ.
Mấy năm nay, Địch Thanh vì bị bệnh tật đau đớn giày vò mà cả ý chí lẫn tinh thần cđều sa sút. Cũng may là tính tình hắn lạc quan, chẳng hề hận đời, ngược lại kết bạn với không ít người ở trong cấm quân doanh. Nhưng hắn bị ảnh hưởng của thương bệnh trong người, mấy lần Ma Khám đều không thể thể hiện, năm này tháng nọ không thăng chức được nên cũng khó tránh khỏi chán nản.
Nhưng bây giờ hắn bóp nát tách trà, lại đánh gãy bàn gỗ, cho dù hắn khỏe mạnh hoàn toàn như trước khi bị thương cũng không thể làm được hai việc này, đột nhiên hôm nay lại có sức mạnh này, rốt cuộc là do đâu?
Chương 7 : Diệu Ca.
Địch Thanh ngồi dưới đất kinh ngạc nhìn bàn gãy chén bể, đột nhiên hét lên một tiếng quái dị, bất thình lình đứng bật dậy.
Hóa ra hắn vừa rồi khiếp sợ với hết thảy những việc đã phát sinh, không có để ý vẫn còn ngồi ở trên mảnh sứ vỡ, lúc này mới cảm giác được phần mông đau đớn giống như bị kim đâm. Hiện giờ, hắn mới bất chấp lo lắng cái gì rồng đỏ, lụa đỏ, vội vàng trước tiên cởi quần ra coi, trên cái mông máu đỏ chảy ròng ròng. Hao phí công sức thật lớn, mới gỡ hết những mảnh sứ vỡ trên bờ mông, sau đó bôi thuốc bột lên, băng bó đơn giản xong xuôi, lại đổi một cái quần mới mặc vào.
Sau khi bận rộn một hồi, Địch Thanh nhớ tới hôm nay không cần phải làm đương sai, không khỏi thở một hơi dài nhẹ nhõm. Hắn xoay người cầm lấy chân bàn, hai tay dùng sức bẻ một phát, cảm thấy lòng bàn tay sinh ra đau nhức. Địch Thanh chịu đựng cơn đau nhức ở lòng bàn tay, một lần nữa dừng sức bẻ chân bàn, trong đầu lại đau đớn âm ỷ.
Địch Thanh chỉ sợ ngất đi, không dám phát lực lần nữa, trong lòng một hồi hoang mang. Không hiểu nổi vì sao vừa rồi có thể, mà bây giờ sức lực lại biến mất?
Đúng lúc này, Quách Quỳ chạy ùa vào, nhìn thấy đống bừa bộn trên mặt đất, kinh ngạc hỏi: “Địch nhị ca, có trộm sao?”
Địch Thanh không biết nên giải thích như thế nào, đành phải chiếu theo sự thật nói: “Cái bàn này mục rồi, chén trà cũng bể mất. Là huynh làm bể đó.”
Vốn tưởng rằng Quách Quỳ sẽ truy hỏi đến cùng, không ngờ con ngươi Quách Quỳ đảo một vòng, nói: “Đệ hiểu rồi. Cái bàn đó mục rồi để đệ kêu người mua thêm cái mới là tốt thôi.” Quách Quỳ còn nhỏ nhưng rất thông minh, nó chỉ cho rằng trong lòng Địch Thanh phiền muộn, lúc này mới đập vỡ cái bàn, nên không hề truy hỏi.
Địch Thanh hơi băn khoăn, đáp lại : “Vừa lúc hôm nay không cần làm đương sai, huynh đi là được rồi.”
Quách Quỳ thấy thái độ Địch Thanh kiên quyết, cũng không muốn miễn cưỡng nữa, sau khi giúp Địch Thanh thu dọn xong mới tạm biệt rời đi.
Thấy Quách Quỳ rời khỏi, Địch Thanh vừa muốn ngồi xuống nghỉ ngơi một lát. Bờ mông vừa đặt xuống giường hắn liền giống như con thỏ trúng tên nhảy bật lên.
Địch Thanh chịu đựng đau nhức, nhìn về phía hắc cầu kia, trong mắt tràn đầy hiếu kỳ. Hắn dù sao tuổi tác còn trẻ, hơn nữa cuộc sống nhàm chán, gặp được chuyện kì lạ như thế này, trong lòng chẳng những không sợ, ngược lại còn nóng lòng muốn thử.
Nhưng điều kì dị sẽ không xuất hiện lần nữa, Địch Thanh cảm thấy hai lần xuất hiện cảnh tượng kì dị đều vào lúc sáng sớm, chắc hẳn lần sau tái hiện phải chờ tới bình minh, đành phải trước tiên rời khỏi phủ đi làm việc.
Ra khỏi Quách phủ, Địch Thanh còn nhớ bên cạnh cửa ngõ lớn có một thợ thủ công họ Ô tay nghề không tệ, làm bàn tủ ghế không tính là hoa mỹ, nhưng cực kỳ rắn chắc.
Muốn tới cửa ngõ lớn, trước hết phải đi qua Khúc Viện phố.
Chờ đến Khúc Viện phố, Địch Thanh chỉ cảm thấy bờ mông càng thêm đau nhức, thầm than mình muốn mặt không muốn mông, thực xin lỗi cái bờ mông này rồi.
Giữa lúc cảm thấy khó khăn, Địch Thanh đột nhiên ngửi thấy hương hoa truyền đến, hóa ra cách đó không xa có một lán hoa, đúng lúc hoa mẫu đơn nở xinh đẹp, không khỏi muốn đi tới gần.
Phu nhân bán hoa nhận ra Địch Thanh, thấy dáng đi của Địch Thanh kỳ quái, ân cần thăm hỏi: “Địch Thanh, đệ làm sao vậy?”
Địch Thanh cười khổ đáp: “Chị dâu họ Hùng, đệ ngã bị thương … chân.”
Chị dâu họ Hùng oán trách : “Bị thương chân, không ở nhà nghỉ ngơi đi, còn ra đây làm gì?” Chị bèn xoay người cầm bình thuốc rượu đưa cho Địch Thanh nói: “Đây là rượu xoa bóp, rất công hiệu đó, cầm lấy đi.” Địch Thanh là Thập Tương, nhưng lúc làm đương sai đi tuần cũng không mượn cơ hội bắt nạt vơ vét tài sản, thậm chí khi thấy dân chúng bị người xấu ức hiếp, đều ra mặt giúp đỡ, vì thế dân chúng quanh đây đối với Địch Thanh vô cùng có cảm tình.
Địch Thanh từ chối không được, nhận rượu thuốc rồi hỏi: “Bao nhiêu tiền?”
Chị dâu họ Hùng cười mắng: “Đệ xem thường chị dâu rồi! Một bình rượu thuốc này, còn phải trả tiền sao?”
Địch Thanh không biết làm sao, đành nói: “Đệ mua nhánh hoa này.” Hắn móc ra một xâu tiền đưa cho chị dâu họ Hùng, đột nhiên hỏi: “Nơi này có bán Diêu Hoàng không?”
Chị dâu họ Hùng lắc đầu nói: “Đó là hoa người rất giàu mới có được, cực kỳ hiếm thấy. Địch Thanh! Ở đây không có Diêu Hoàng, ngược lại có Nhãn Nhi Mị, nở hoa rất đẹp, đệ lấy một nhánh đi.”
Địch Thanh thấy bông hoa hiện lên màu đỏ nhạt, cánh hoa tạo thành hình trăng lưỡi liềm, giống như là thiếu nữ thẹn thùng có sóng mắt như trăng, đã đẹp mà còn quyến rũ, không khỏi cười nói: “Cám ơn tỷ nhé.” Hắn mặc dù không thích hoa, nhưng lại không muốn từ chối lòng tốt của người ta. Đưa tay nhận lấy hoa được đưa đến, vừa muốn tạm biệt rời đi, nhưng thấy phía trước có hai người đang đứng, một người trong đó oán giận nói: “Ngươi mau mau nghĩ một biện pháp cho ta.” Người này mi thanh mục tú, trong tay cầm quạt xếp, trên mặt có vẻ giống như tro bụi chưa được tẩy sạch sẽ, chính là người thanh niên mà Địch Thanh đã buông tha ở ngoài Tây Hoa môn.
Bên cạnh người thanh niên vẫn là người trung niên béo trắng không râu kia. Nghe vậy gã cười khổ nói: “Cái này… Cái này….” Nhìn thoáng qua xung quanh, bèn nói: “Tiểu nhân cũng không có cách nào, tiểu nhân … cũng chưa từng đi đến đó…”
Người thanh niên giậm chân nói: “Ta mặc kệ, nếu như ngươi nghĩ không ra biện pháp, ta…” Y dùng quạt xếp gõ đầu người trung niên bên cạnh uy hiếp nói: “Ta sẽ cho cái mông ngươi nở hoa!”
Người trung niên nghe vậy cười khổ nói: “Thánh … công tử, hay là trở về đi, mợ nhỏ chỉ có thể vì người giấu giếm nhất thời, người nếu như không quay về mau, sắc mặt mợ cả chỉ sợ không tốt lắm đâu.”
Người thanh niên cả giận nói: “Ta sẽ không trở về! Ngươi có thể làm gì được ta?” Rồi y đột nhiên trông thấy Địch Thanh, trong mắt y hiện lên vui mừng, bước nhanh đi tới nói: “Này, ngươi còn nhận ra ta không?”
Địch Thanh cũng có chút bất ngờ, bèn cười nói: “Đương nhiên nhận ra. Huynh đài có việc chỉ giáo sao?” Hắn cảm giác được người thanh niên này nỗi lòng tuy nặng, nhưng lời nói và việc làm, vẫn còn giống như một đứa bé.
Người thanh niên cảm thấy thú vị nói: “Ngươi gọi ta là gì?”
Địch Thanh khó hiểu hỏi: “Ta gọi ngươi là huynh đài, có gì không ổn sao?”
Người thanh niên cười ha hả, rất vui vẻ nói: “Thú vị, thú vị! Lại có người gọi ta là huynh đài? Tốt lắm, tốt lắm! Ta biết ngươi, ngươi chắc chắn là tên cấm quân lần trước ở bên ngoài Tây Hoa môn, ngươi tên là gì vậy?”
Địch Thanh chẳng biết tại sao, không hiểu thú vị cái nỗi gì, ngờ vực trả lời: “Tại hạ Địch Thanh! Không biết cao danh quý tánh của công tử là gì?”
Người thanh niên do dự một chút mới nói: “Ta họ … Thượng, tên chỉ có một chữ Thánh, ngươi gọi ta là Thánh công tử được rồi. Địch Thanh, ta muốn nhờ ngươi giúp một việc.”
Địch Thanh thấy hắn nói năng ngay thẳng, cũng vui vẻ đáp: “Nói ta nghe một chút, nếu ta có thể giúp đỡ, sẽ cố gắng hết sức giúp ngươi.”
Người mập trắng kia thấy công tử mình cùng với Địch Thanh vậy mà lại có thể nói chuyện vui vẻ, không khỏi mở to mắt, nét mặt biểu lộ giống như gặp quỷ rồi. Địch Thanh nhìn thấy người mập mạp kia vẻ mặt kì quái, nhưng vẫn không muốn nghĩ nhiều.
Thượng công tử đột nhiên đỏ mặt xuống, nhăn nhó nói: “Thật ra … Ta muốn … Ta muốn…” Hắn nghĩ nửa ngày, nhưng vẫn là nói không nên lời. Địch Thanh thấy thế, ngạc nhiên hỏi: “Cho dù ngươi muốn giết người cướp của, cũng không cần phải khó xử như vậy chứ?”
Thượng Thánh lại càng hoảng sợ, nhìn chằm chằm vào Địch Thanh hỏi: “Ngươi đã từng giết người rồi sao?”
Thấy Địch Thanh gật đầu, Thượng Thánh vội lui về phía sau hai bước, trong ánh mắt lộ ra vẻ đầy cảnh giác, hỏi: “Ngươi giết ai vậy?”
Địch Thanh thở dài nói: “Ta cũng không biết hắn là ai, nhưng mà người nào cũng gọi hắn là Tăng Trường Thiên Vương…” Thượng Thánh đột nhiên có biểu tình giật mình, kêu lên: “Ngươi là Địch Thanh? Ngươi là thuộc hạ Quách Tuân? Ta nhớ ra rồi!”
Địch Thanh rất ngạc nhiên, nghi ngờ hỏi: “Ngươi biết Quách đại ca sao?”
Thượng Thánh hình như cảm thấy mình nói lỡ, úp úp mở mở nói: “Thực không dám giấu diếm, ta ở triều đình biết được một số người. Năm đó Quách Tuân nỗ lực xông pha thung lũng Phi Long, chuyện Phật Di Lặc bị trọng thương, triều đình rất xôn xao, do đó ta cũng biết được. Ta khống biết vì sao lại cảm thấy tên ngươi quen như vậy, thì ra ngươi là người Quách Tuân tiến cử. Người do Quách Tuân tiến cử, ta cũng rất ưa thích.”
Hắn bỗng nhiên ngại ngùng, đột nhiên lẫm liệt. Địch Thanh cảm thấy người này tính tình quái dị, nhớ tới mình còn có việc phải làm, hỏi: “Đúng rồi, rốt cuộc là ngươi muốn nhờ ta làm chuyện gì? Nếu không có việc gấp, ta muốn đi làm những chuyện khác.”
“Ngươi đừng đi!” Một tay Thượng Thánh nắm lấy Địch Thanh, cuối cùng đành phải nói thật: “Ta kỳ thật muốn đi … Trúc Ca lâu … Muốn gặp Trương Diệu Ca.” Sau khi hắn nói ra những lời này, cả khuôn mặt đỏ lên, giống như đã dùng hết sức lực toàn thân.
Địch Thanh nhịn không được cười nói: “Muốn gặp Trương Diệu Ca, đi Trúc Ca lâu là được rồi. Nàng tuy rằng nổi tiếng, nhưng không đến mức khó gặp như Hoàng Thượng?” Hóa ra Trúc Ca lâu chỉ là một cái thanh lâu, mà Địch Thanh cũng biết Trương Diệu Ca ca múa song tuyệt, là người đứng đầu Trúc Ca lâu, nhưng mà hắn chưa bao giờ gặp qua.
Thượng Thánh khẩn trương nói: “Ngươi đã gặp Hoàng Thượng rồi?”
Địch Thanh lắc đầu nói: “Loại người như ta, làm sao có cơ hội được nhìn thấy Hoàng Thượng chứ?” Thực ra lời Địch Thanh là lời nói thật, hắn tuy là cấm quân, nhưng ở trong bát đại cấm quân chỉ có thể xếp hạng bên ngoài. Mỗi lần Thánh Thượng đi tuần, bên người luôn có tam ban điện gần ngàn người mở đường, dân chúng tầm thường nếu như thị lực không tốt, đều không biết có Hoàng Thượng ở trong ngọc lộ hay không, chứ đừng nói chi là thấy được mặt Hoàng Thượng.
Thượng Thánh thoải mái hơn: “Mặc dù Trương Diệu Ca không có khó gặp như Hoàng Thượng, nhưng ta thật sự là chưa từng gặp được nàng. Huynh đài nếu như là người sành sỏi, vậy xin chỉ điểm một tí.”
Địch Thanh cảm khái, lễ hạ vu nhân, tất hữu sở cầu, người xưa thật không có lừa ta. Nhưng hắn thật ra cũng chưa từng đi Trúc Ca lâu, nhưng theo người xưa đã nói: mình là lão mã, dù sao vẫn không đến mức lạc đường. Hắn vỗ lồng ngực, thấy chết không sờn nói: “Được rồi, ta sẽ mang bọn ngươi đi một chuyến.” Nhưng mà lại có chút nghi ngờ nói: “Thánh công tử, ta nhìn ngươi tuổi tác tựa hồ không nhỏ, thật sự chưa bao giờ đi tới nơi bướm hoa này sao?”
Thượng Thánh thở dài nói: “Thực không dám giấu diếm, chưa bao giờ đi tới đó, cho nên mới thực sự muốn đi.”
Địch Thanh gật gật đầu: “Ngươi nói không sai, có vật không chiếm được nào chẳng phải là vật tốt nhất?” Một câu bâng quơ của hắn lại làm cho Thượng Thánh sợ run cả buổi. Địch Thanh thấy hắn ngẩn người, hỏi: “Thượng huynh! Ta vừa nói sai gì sao?”
Thượng Thánh phục hồi tinh thần lại, cười lớn nói: “Ngươi nói rất đúng, có lẽ thật sự là vật không thể chiếm được mới là vật tốt nhất, cho nên mới có thể có người đặc biệt muốn.” Lời hắn nói đầy thâm ý, người trung niên trắng béo nghe vậy sắc mặt liền thay đổi, trong mắt hiện lên vẻ sợ hãi, thấp giọng nói: “Thánh … công tử, hay là trở về đi. Nếu như mợ cả biết được tiểu nhân mang người đi loại địa phương đó, tiểu nhân chỉ sợ bờ mông phải nở hoa rồi.”
Gian Thính Trúc tiểu viện này thật thú vị lạ thường, lấy nét tịch mịch, yên tĩnh, trang nhã, giản đơn làm chủ đạo, khiến Thượng Thánh trên đường đi cứ không ngớt miệng khen. Đúng lúc này, lại có vài tiếng “tình tính tang” vang lên, âm thanh cao vút như vọng giữa mây trời, khiến cho tiểu viện như thêm phần tươi vui.
Âm điệu này sau khi xuyên qua mây vén sương mù, quanh co uốn lượn, dần dần trở nên trầm nhẹ, như oanh hót giữa vườn hoa, như suối buồn lắng đọng, tuyệt vời vô cùng.
Thượng Thánh nghe đến ngây ngẩn cả người, khen ngợi nói: “Khúc nhạc này mới hay làm sao, ta rất thích.”
Địch Thanh thầm nghĩ, nhìn dáng dấp ngươi xem ra cũng là kẻ có tiền, nhưng sao lại giống như kẻ suốt ngày bị giam trong lồng thế, cái này cũng tốt, cái kia cũng hay, cái này cũng mê, cái kia cũng thích?
Ba người bước lên lầu, tuy tiếng đàn đã dứt, nhưng dư âm vẫn chưa tan. Nha hoàn đẩy nhẹ cửa bước vào, chỉ vào chỗ có ba cái ghế trống, thấp giọng nói: “Xin mời ngồi.” Nói xong dẫn ba ngươi đến trước ghế, dâng lên ba chén trà xanh.
Trong lầu các có mười người nữa đang ngồi, trước mặt mỗi người đều chỉ có một chén trà xanh, nhưng nhìn họ sung sướng như thể được ăn sơn hào hải vị vậy.
Người con gái ngồi gần song cửa sổ nghe thấy tiếng cửa phòng mở ra, khẽ ngẩng đầu nhìn sang hướng này. Thượng Thánh vừa nhìn thấy, vốn định ngồi xuống nhưng lại đột nhiên đứng dậy, ngây ngốc nhìn nàng, tròng mắt cũng không đảo lấy một cái.
Ban đầu Thượng Thánh tán thưởng người ngoài, đều nói ta rất thích, nhưng giờ khắc này bờ môi chỉ nhúc nhích được hai cái, rốt cuộc ngay cả nửa chữ cũng không nói ra được.
Đôi mắt của nàng không phải là quá to, miệng cũng không được coi là quá nhỏ, phấn son cũng không quá dầy. Nếu chỉ nói riêng về khuôn mặt nàng thì không phải là quá đẹp, nhưng chỉ thoáng nhìn nàng như thế, thì tựa như gió lay cành liễu, trăng sáng nhìn người, phong tình vạn chủng, thật dễ động lòng người.
Mà chỗ động lòng người nhất của nàng, chính là ở cái phong tình.
Người khác nhìn thấy ánh mắt của cô gái này, giống như trầm mình trong nước biếc, nhìn thấy phong thái quyến rũ của nàng, tựa như được gột rửa bằng gió xuân. Không phải Thượng Thánh chưa từng nhìn thấy con gái, mà ngược lại những người hắn nhìn thấy đều cực đẹp nhưng nếu so sánh với cô gái này, Thượng Thánh chỉ có thể nhận xét những người con gái trước đây, tất cả đều tầm thường!
Cô gái này tất nhiên là Trương Diệu Ca!
Lúc đôi mắt đẹp của Trương Diệu Ca lướt qua Thượng Thánh, mang theo đôi chút kinh ngạc, lúc nhìn người trung niên mập trắng, chau lại đôi mày, khi nhìn thấy Địch Thanh, đột nhiên khẽ bật cười.
Mọi người đều ngạc nhiên, trông theo ánh mắt Trương Diệu Ca, không hiểu vì sao nàng bật cười.
Trương Diệu Ca không cần cất tiếng hát, mỗi cử chỉ và hành động của nàng, một nụ cười, một cái chau mày đều là giọng ca không vang thành tiếng mà vẫn rung động lòng người. Lúc trước, Thượng Thánh mất hai mươi lạng bạc mua hai cái thẻ số còn cảm thấy không đáng, nhưng bây giờ y bỗng cảm thấy chỉ cần gặp được Trương Diệu Ca một lần cho dù mất hai trăm lạng bạc cũng đáng.
Địch Thanh không hồn bay phách lạc như Thượng Thánh. Trên thực tế, bên trong các lâu, chỉ có hai người không hồn bay phách lạc trước Trương Diệu Ca, người thứ nhất là người trung niên mập trắng, người còn lại chính là Địch Thanh.
Người trung niên mập trắng vì lý do riêng của bản thân nên đối với con gái dù xinh đẹp cỡ nào cũng chẳng có cảm giác gì. Còn Địch Thanh thì cảm thấy Trương Diệu Ca có chút đáng thương, thậm chí hắn còn cảm thấy được, bản thân mình, Thượng Thánh và Trương Diệu Ca đều bị nhốt rất sâu vào thứ ngục tù mà không thể nào tự thoát ra được.
Bởi vậy, khi Địch Thánh thấy Trương Diệu Ca mỉm cười nhìn lại, cũng đáp lại bằng nụ cười, bước lên phía trước, cầm theo cành Nhãn Nhi Mị ở trong tay đặt ở trước bàn Trương Diệu Ca, nói: “Tặng cho cô.”
Trương Diệu Ca hơi kinh ngạc, đôi mắt đẹp nhìn chăm chú vào mặt Địch Thanh, nhìn một lúc lâu mới nhẹ nhàng cất tiếng: “Cảm ơn nhé”. Giọng nói của nàng như gió mát trăng thanh, mang theo một chút khí khái. Nàng cầm lấy bó Nhãn Nhi Mị đặt ở trên bàn, đưa lên mũi ngửi, rồi mở môi son khen ngợi: “Hoa đẹp! Quả thực có thể sánh với thơ của Liễu Thất(2).”
Mọi người đều ngạc nhiên, trên mặt vài người đã lộ ra vẻ bất bình. Lúc Thượng Thánh nghe thấy hai chữ Liễu Thất lại khẽ nhíu mày.
Ít ai không biết Liễu Thất, chỗ nào có nước giếng chỗ đó có thơ văn của Liễu Thất!
Liễu Thất không phải quan to mà cũng chưa thi đỗ, dưới cái nhìn của người kinh thành, y chỉ là một thư sinh nghèo khổ. Nhưng tên tuổi của y thậm chí còn vượt qua cả hoàng đế đương triều.
Kim tiêu tửu tỉnh hà xử? Dương liễu ngạn, hiểu phong tàn nguyệt! (3)
(Đêm nay, nơi nao tỉnh rượu? Liễu xanh bờ, gió sớm trăng tan)
Chỉ bằng vào câu này, Liễu Thất đã trở thành tri kỉ của vô số nam nữ si tình trên đời này, và cũng là đối tượng ngưỡng mộ của vô số thiếu nữ khuê phòng cũng như hầu môn thâm phụ (những người vợ hay người thiếp trong gia đình quý tộc).
Thậm chí thanh lâu trong kinh thành còn lưu truyền một câu nói như thế này: “Không cần quân vương triệu, nguyện được Liễu Thất mời, không cần ngàn vàng bạc, nguyện được tâm Liễu Thất, không cần thấy thần tiên, nguyện được gặp Liễu Thất.”
Ở trong mắt của vô vàn ca kỹ, tưởng chừng như Liễu Thất còn oai phong hơn cả Hoàng đế.
Có người mến mộ, có người căm ghét, có người ghi nhớ, có người khinh bỉ. Người trong thiên hạ bình luận về Liễu Thất rất nhiều, tuy những lời nhận xét đều không giống nhau, nhưng không ai có thể phủ nhận, danh tiếng của Liễu Thất quả thực rất lớn, thế gian hiếm có. Nếu như Trương Diệu Ca khen Liễu Thất thì cũng là chuyện bình thường, nếu như bàn về tiền nhiều, mỗi người ngồi ở đây ai cũng đều hơn xa Liễu Thất, nhưng nếu bàn về văn chương thì dù là bóng lưng Liễu Thất cũng khó mà chạm tới được. Tuy nhiên, Trương Diệu Ca không ngờ lại nói đóa hoa của một tên cấm quân quèn tặng cho có thể sánh với thơ văn của Liễu Thất…
Thì không ai có thể phục!
Địch Thanh cũng đã từng nghe qua tên Liễu Thất, nhưng mà chí hướng của hắn với Liễu Thất không giống nhau. Thơ văn của Liễu Thất miêu tả về tình yêu nam nữ, những nỗi sầu triền miên, tình người xa xứ cùng yến tiệc sớm khuya, nhưng chỉ độc khí chất khẳng khái nghĩa hiệp cương trực mà Địch Thanh đang hướng tới thì lại không viết được. Chính vì thế, tuy Địch Thanh biết tiếng tăm của Liễu Thất nhưng không hề có cảm giác tri kỉ. Hắn tặng hoa cho Trương Diệu Ca, đơn giản là vì hắn nhìn thấy nỗi cô đơn tịch mịch trong mắt Trương Diệu Ca, cái loại cô đơn này khiến cho lòng hắn cảm thấy thương xót.
Nghe lời khen của Trương Diệu Ca, Địch Thanh cười nói: “Cám ơn.” Rồi hắn xoay người trở về chỗ ngồi, một cách hết sức tự nhiên. Nhưng khi mông hắn vừa chạm vào ghế, thì liền nhe răng trợn mắt vì đau. Trương Diệu Ca nhìn thấy, cười khúc khích, nụ cười này không mang chút châm biếm nào. Ngón tay gẩy nhẹ dây đàn, vang lên mấy tiếng tinh tinh tang tang, mặc dù không cất tiếng hát nhưng rất nhiều người đều nghe ra đó là giai điệu của bài Vũ Linh Lâm (4),
“Thử khứ kinh niên, ứng thị lương thần hảo cảnh hư thiết. Tiện túng hữu thiên chủng phong tình, canh dữ hà nhân thuyết?” (5)
(Năm dài biền biệt, cảnh đẹp ngày vui chẳng thiết mơ màng. Dẫu rằng có tơ vương trăm mối, cùng ai ngỏ tâm can?)
Mọi người lại càng không vừa lòng, thầm nghĩ dù sao chúng ta cũng đều là những người giàu sang phú quý, vì sao Trương Diệu Ca lại chỉ quan tâm tới Địch Thanh?
Một người đã không nhịn được nữa, bỗng nhiên đứng dậy ra vẻ hào sảng nói: “Nếu như Diệu Ca thích hoa, sao không nói sớm? Với khả năng của tại hạ, dù mua cho Diệu Ca ‘Đan Quế viện’ cũng chỉ là chuyện nhỏ. Đan Quế viện là một vườn hoa có quy mô rất lớn ở kinh thành, chủng loại hoa trong đó rất đa dạng, cực kì xa xỉ. Người này vừa mở miệng đã nói sẽ mua cho người đẹp cả một tòa Đan Quế viện, có thể nói là cực kì xa xỉ. Hơn nữa, chỉ mới nhìn vào trên thân người đó thôi cũng đã thấy vô cùng xa hoa, lúc vừa mới đứng lên, người đã hiện đầy kim quang, trên mười đầu ngón tay đeo đủ mười chiếc nhẫn bằng vàng ròng, nhìn bộ dạng của hắn cứ như thể chỉ hận không mọc thêm được mấy ngón tay nữa mà đeo.
Trương Diệu Ca thản nhiên cười một tiếng nói: “Mặc dù ta rất thích ăn thịt heo, nhưng dẫu sao cũng không đến mức phải đi trông chuồng heo chứ?” Tuy nàng cười, nhưng dễ thấy thiếu đi sự khoan dung mà thêm vào chút ít mỉa mai.
Mọi người nhịn không được cười ầm lên, hóa ra người đứng lên là Chu Đại Thường, người này ngoài tiền ra thì cái gì cũng không có. Lượng heo hơi hằng năm cung cấp cho kinh thành hiện giờ hắn đã chiếm tới một phần ba, có thể gọi là nhà giàu mới nổi. Nghe thấy giọng trào phúng của Trương Diệu Ca, khuôn mặt Chu Đại Thường đỏ giống màu tiết heo, đứng cũng ngượng mà ngồi cũng không yên, nhưng rời khỏi thì không muốn.
Một người ngồi bên cạnh bỗng nhiên đứng dậy, lớn tiếng nói: “Trương Diệu Ca, Chu huynh có ý tốt đối với ngươi, vì sao ngươi không hiểu lòng hắn? Ngươi đã ở đây nhiều năm, thực ra cũng chỉ là nghề “dạng chân” mà thôi, cần gì phải ra vẻ thanh cao như vậy? Ngươi ra giá đi! Ta sẽ chồng đủ như ngươi muốn. Dứt lời, hắn móc ra một thỏi vàng vứt xuống đất nói: “Ngươi hiểu rồi chứ?”
Mọi người không chịu nổi những lời gã này nói ra, sắc mặt đều thay đổi. Bởi vì xưa nay Trương Diệu Ca chỉ bán nghệ không bán thân, những câu người này nói có thể xem là lời sỉ nhục cực lớn đối với Trương Diệu Ca.
Người này gọi là Dương Đắc Ý, không phải là gia đình giàu có nhờ nuôi dê mà chính là thiếu chưởng quỹ của”Thái Bình hành” trong nội thành. Thái Bình hành chủ yếu đảm nhiệm việc vận chuyển hàng bằng đường thủy cùa kinh thành, thỉnh thoảng cũng phụ trách đưa heo đến kinh thành, cho nên cũng có qua lại buôn bán với Chu Đại Thường. Lần này hắn và Chu Đại Thường cùng nhau xếp số để được gặp Trương Diệu Ca, vào đây ngồi uống trà xanh, nãy giờ đã tích đầy một bụng tức, mượn cơ hội này để xả giận.
Vẻ mặt Trương Diệu Ca không thay đổi, chỉ khoát tay áo, liền thấy một tỳ nữ bước lên nhẹ nhàng quẳng hai đĩnh vàng xuống đất.
Trương Diệu Ca cười nhạt một tiếng, nói: “Ngươi có hiểu không?”
Dương Đắc Ý quát: “Ta hiểu cái gì?”
Trương Diệu Ca nói: “Hai đĩnh vàng này ý nói chỉ cần hai người Dương công tử xuống lầu thì chúng sẽ là của công tử đó.” Nói xong, nàng dùng tay gẩy đàn không nói gì thêm nữa, nhưng sự khinh miệt của nàng không cần nói cũng biết.
Tất cả mọi người đều cười, Dương Đắc Ý xấu hổ nóng cả gót chân lên, vừa định phát cáu, một người bỗng nhiên đứng dậy quát: “Hai tên ngu xuẩn này, lại dám vô lễ với Trương cô nương! Cút ra ngoài mau!”
Người nọ hai mắt trợn lên, hết sức giận dữ, Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý nhìn thấy người đó tức giận, trên mặt cuối cùng biểu lộ vẻ sợ hãi, do dự một lát rồi nén giận xoay người ra khỏi lầu.
Đến lúc này người đó mới quay sang Trương Diệu Ca vái một lễ thật sâu nói: “Trương cô nương, hai người kia quá thô bỉ, làm hỏng khung cảnh, mong nàng đừng trách.” Người này ăn mặc kiểu văn sĩ, trên mặt lỗ chỗ mụn, trông rất trẻ, nếu không phải cái mặt dài hơn người ta một phần ba thì cũng được coi là tuấn tú. Lúc này, tuy gã nhận lỗi dùm cho hai người Chu, Dương nhưng gương mặt lại ít nhiều lộ ra vẻ đắc ý.
Thượng Thánh nhìn thấy người đó, nói nhỏ với người trung niên mập trắng: “Người này là ai vậy, sao ta thấy hơi quen mặt?”
Người trung niên mập trắng hạ giọng nói: “Hắn tên là Mã Trung Lập, con trai của Mã Quý Lương.”
Thượng Thánh nhíu mày, chỉ hừ lạnh một tiếng. Địch Thanh ở bên cạnh đã nghe được lời nói thầm của Thượng Thánh, trong lòng cũng có chút cảm giác lạ, thầm nghĩ cái tên Mã Quý Lương này rất quen tai, hình như mình đã nghe qua.
Trương Diệu Ca thấy Mã Trung Lập vì mình mà đuổi dê đuổi bò, nhưng lại che miệng ra vẻ mệt mỏi nói: “Rất cảm ơn ý tốt của Mã công tử, nếu như ….bọn họ không liên quan gì tới ngài, vậy thì ngài….cần gì phải vơ cái lỗi này vào mình?”
Sắc mặt Mã Trung Lập hơi đổi, chớp mắt cười nói: “Hai kẻ này làm sao có quan hệ với tại hạ được? Cô nương nói đùa rồi.”
Trương Diệu Ca nói: “Thiếp thấy hơi mệt.” Nàng nói ra lời ấy, đã có ý đuổi khách, ánh mắt của Mã Trung Lập lộ vẻ cổ quái nói: “Vậy không biết người cô nương muốn mời phẩm trà là ai nhỉ?” Trương Diệu Ca có một nguyên tắc là mỗi ngày chỉ gặp không quá mười người, nhưng có thể sẽ giữ một người ở lại để phẩm trà luận thơ. Những người đến Trúc Ca lâu ai nấy đều coi việc được cùng Trương Diệu Ca phẩm trà luận thơ làm vinh dự, Mã Trung Lập hỏi như vậy đương nhiên là có ý ôm mộng kề cận hồng nhan.
Trương Diệu Ca chỉ một ngón tay, tùy tiện nói: “Vị quan nhân này có vẻ rảnh rỗi, không biết có thể cùng thiếp trò chuyện được không?”
Mã Trung Lập dù có cố vươn cái cổ mình cho dài như cổ cò đi nữa thì ngón tay thon thon vẫn cách gã rất xa, kéo cổ ra cũng chẳng tới. Vừa quay đầu lại, gã đã tức giận đến mức lỗ mũi thiếu chút nữa thì nứt ra. Hóa ra người Trương Diệu Ca chỉ không phải ai khác mà chính là Địch Thanh!
Mọi người đều kinh ngạc vô cùng, một người đứng dậy không phục nói: “Trương tiểu thư, vì sao chúng ta chân thành ngưỡng mộ mà cũng không bằng một nhánh hoa tươi?”
Trương Diệu Ca thản nhiên nói: “Mong cầu với không mong cầu thì khác gì nhau?”
Câu vặn lại khiến người này cực kì xấu hổ, phất tay áo rời đi. Có một người mặc áo lụa khẽ nói: “Như thể gặp cao tăng vậy.” Trong lời nói có ý mỉa mai, nhưng cũng biết rằng không có cách nào để cố chấp ở lại, đành ngượng ngùng rời đi.
Trong mắt Mã Trung Lập hiện lên vẻ oán hận, lại đánh giá Địch Thanh từ trên xuống dưới một lượt, rồi phất tay áo rời đi. Chỉ chốc lát sau, trong phòng chỉ còn lại Địch Thanh, Thượng Thánh cùng người hầu của hắn.
Trương Diệu Ca nhìn về phía Thượng Thánh nói: “Thiếp hình như không có giữ công tử ở lại.”
Thượng Thánh mặt dày mày dạn nói: “Nhưng ta vốn là bằng hữu của Địch huynh, sao nỡ nhẫn tâm bỏ hắn mà đi?”
Địch Thanh vừa bực mình vừa buồn cười, thấy Thượng Thánh đang nhìn mình, trong mắt đầy sự cầu khẩn, nói: “Trương cô nương, Thượng huynh ngưỡng mộ tên tuổi của nàng đã lâu, lần này tới đây chính là vì vậy. Chúng ta chỉ nghe thấy tiếng đàn, nhưng chưa nghe được trọn vẹn một khúc, nếu được cô nương tấu cho một khúc nhạc thì thực là vinh hạnh.”
Đôi mắt đẹp của Trương Diệu Ca vừa đảo qua, rồi dừng lại ở trên mặt Địch Thanh: “Hắn muốn gặp mặt thiếp một lần, vậy còn chàng?” Mặc dù Trương Diệu Ca đang ở thanh lâu nhưng xưa nay chỉ bán nghệ không bán thân, bởi vì nàng hát rất hay nên những người đến gặp có thể nói là đông đuổi không hết. Nàng đã gặp qua rất nhiều người, đã sớm nhìn ra Thượng Thánh tuyệt đối không phải con nhà thường dân, nhưng loại người này nàng đã thấy nhiều nên cũng không để tâm. Trái lại Địch Thanh sau khi ngồi xuống, lại cứ đứng ngồi không yên, hết nhìn đông lại nhìn tây, dường như không thèm để ý tới nàng, khiến cho Trương Diệu Ca dâng lên một cảm giác mới lạ.
Nàng làm sao mà biết Địch Thanh đứng ngồi không yên là vì vết thương ở mông chưa khép miệng, đau như thể bị ai châm lửa sau mông, làm sao mà tập trung cho được. Nhìn đông nhìn tây bởi vì Địch Thanh nhớ tới lời nói dối, nếu giả trang bộ đầu cũng phải diễn được tư thế của bộ đầu, cần phải tìm được dấu vết của đạo phỉ để tránh bị lộ. Không biết trời xui đất khiến làm sao lại được Trương Diệu Ca thêm vài phần kính trọng. Nếu như ba công tử Mã, Chu, Dương biết được, chắc chắn sẽ đập đầu xuống đất, máu tươi văng xa năm bước.
Thấy Trương Diệu Ca sóng mắt đưa tình, Địch Thanh do dự nói: “Thực không dám giấu diếm, trước đây tại hạ không muốn, nhưng hôm nay nghe được khúc nhạc này, nói không chừng sau này sẽ muốn cũng nên.”
Trương Diệu Ca nghe hắn nói xong chỉ mỉm cười. Người trung niên bên cạnh cười lạnh nói: “Địch Thanh, đừng có động tâm, thật sự ngươi cho rằng Trương Diệu Ca thích ngươi sao? Nàng không có ý tốt với ngươi đâu.”
Căn bản Địch Thanh không có ý nghĩ này, thấy người trung niên cứng rắn đột nhiên nhớ tới một điều, tức giận nói: “Hóa ra điều đó làm ngươi không vừa ý sao?”
Trương Diệu Ca thấy Địch Thanh tức giận thì cũng không nói nhiều, mỉm cười ngồi xem kịch hay. Phụ nữ ai mà chẳng thích đàn ông đấu đá tranh giành nàng, Trương Diệu Ca dù thanh cao song cũng chẳng phải ngoại lệ.
Người trung niên mập trắng nói: “Nếu ngươi tưởng ai cũng mê mình, thì đã sai hoàn toàn rồi. Ngươi có biết Mã Trung Lập là người thế nào không?” Thấy Địch Thanh lắc đầu, người trung niên mập trắng lặng lẽ cười lạnh nói: “Hắn là con trai của Mã Quý Lương, ngươi có biết Mã Quý Lương là ai không?”
Địch Thanh thở dài nói: “Ta cần gì biết hắn là ai? Cho dù hắn là hoàng đế thì cũng có liên quan gì đến ta?”
Người trung niên mập trắng cười thâm thúy nói: “Nhất định ngươi phải biết rõ hắn là ai mới được! Mã Quý Lương là Đãi chế(6) ở Long Đồ các (7) và cũng là con rể của Lưu Mỹ, Lưu Mỹ là anh trai của Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu là ai ngươi có biết không?” Thượng Thánh cau mày, muốn nói gì đó nhưng rốt cuộc lại nuốt xuống.
Địch Thanh thầm giật mình, nhưng ngoài mặt lại tỏ ra không thèm quan tâm, nói: “Điều này đương nhiên ta biết. Ta còn biết Hoàng Thái Hậu liêm chính công minh, được thiên hạ ca tụng, tuyệt đối không để hoàng thân quốc thích làm xằng làm bậy đâu!”
Người trung niên mập trắng thoáng run sợ, quay đầu nhìn sang Thượng Thánh, Thượng Thánh nở nụ cười có chút kì quái, bất ngờ nói: “Các hạ nói không sai, một khi đã như thế thì nghe nhạc chẳng phải hay hơn sao.”
Trương Diệu Ca lại nói: “Trái lại thiếp vẫn muốn hỏi vị…tiên sinh này, vì sao vừa rồi ngài nói thiếp không có ý tốt với Địch Thanh?” Lời của nàng không nhanh không chậm, người ta trách móc nàng cũng được, chửi bới nàng cũng được, thoạt nhìn vẫn đối đáp tự nhiên không có chút nào phật lòng.
Người trung niên mập trắng nói: “Đương nhiên ngươi biết rõ Mã Trung Lập không dễ chọc vào, nhưng chắc hẳn cũng không muốn tâm sự cùng hắn…”
Thượng Thánh ở bên cạnh nói: “Mã Trung Lập vừa rồi…hình như cũng không tệ nhỉ.” Hắn bình tĩnh đánh giá thì dù sao Mã Trung Lập cũng nho nhã hơn rất nhiều so với Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý.
Trương Diệu Ca đột nhiên cười khanh khách, nói: “Thiếp đã cho rằng mình ở chốn u lâu, không biết thế sự, không ngờ vị Thượng công tử này còn hiểu thế sự không bằng thiếp.”
Người trung niên mập trắng quát: “To gan…” Hắn đang định nói điều gì đó nhưng Thượng Thánh xua tay ngăn lại, hỏi: “Ý Trương cô nương là sao?”
Trương Diệu Ca nói: “Chu Đại Thường, Dương Đắc Ý mở nghiệp kinh doanh, nếu không có Mã Trung Lập hỗ trợ thì làm sao mà có chỗ đứng ở kinh thành? Bọn họ cùng nhau tới đây, nếu như bảo không quen biết thì thiếp chẳng tin. Chu Đại Thường làm vẻ hào phóng nhưng thực ra vắt cổ chày còn ra mấy chén nước, tên Dương Đắc Ý kia cũng chả kém gì Chu Đại Thường, hai người này rõ ràng biết mục đích của Mã Trung Lập tới đây thì làm sao dám tranh giành cùng hắn?”
Địch Thanh cau mày nói: “Nói như thế, tức là hai người này cố ý chọc giận cô nương để cho Mã Trung Lập có cơ hội làm anh hùng cứu mỹ nhân?”
Thượng Thánh kinh ngạc nói: “Bọn họ thật sự có tính toán như thế?”
Trương Diệu Ca thản nhiên nói: “Loại chuyện này một năm thiếp gặp phải cũng không dưới mười lần.”
Người trung niên mập trắng nói: “Cho nên ngươi cố ý giữ Địch Thanh lại, nhìn giống như yêu thích nhưng chẳng qua là ngươi chỉ muốn từ chối Mã Trung Lập. Nhưng chắc hẳn ngươi biết rõ sau khi Mã Trung Lập thất bại lần này, chắc chắn sẽ trút hết cơn giận dữ vào người Địch Thanh, không phải ngươi đang ưu ái hắn mà chính là hại hắn.”
Trương Diệu Ca mỉm cười, cũng không nói gì nữa. Thượng Thánh nhíu mày, một lúc sau mới nói: “Trương cô nương, thật sự đúng như thế à?”
Trương Diệu Ca gẩy nhẹ dây đàn, hồi lâu mới đáp: “Chuyện tam nhân thành hổ đâu có ít, miệng thế gian xói chảy cả vàng, ngài chắc cũng hiểu.”(8) Nàng nhẹ giọng nói, thôi không gẩy đàn, cũng phông tranh biện nữa.
Thượng Thánh quay đầu nhìn Địch Thanh nói: “Địch Thanh, ngươi không làm gì cả mà tự dưng bị vạ lây, có thấy hối hận không?”
Địch Thanh chậm rãi nói: “Ta chỉ tin Đại Tống bây giờ vẫn còn có bốn chữ ‘công lý lẽ phải’”!
Thượng Thánh vỗ bàn, nói lớn: “Nói rất hay, chỉ bằng vào bốn chữ ‘công lý lẽ phải’, Địch Thanh, dù có chuyện gì đi nữa ta cũng sẽ gánh vác cho ngươi.” Hắn từ trước tới giờ luôn biểu hiện là con nhà thế gia, tính cách mềm mỏng, lúc này mới có vẻ sục sôi ý chí.
Người trung niên mập trắng vội nói: “Thánh công tử, Mã Quý Lương có quan hệ với Thái Hậu đấy.”
“Thì sao?” Thượng Thánh liếc nhìn thủ hạ một cái, rồi quay sang nói với Trương Diệu Ca: “Trương cô nương, ngươi cứ yên tâm tấu nhạc là được.”
Trương Diệu Ca thản nhiên cười một tiếng, cổ tay ngọc duỗi nhẹ, sau mấy tiếng “tinh tang”, nàng khẽ cất tiếng: “Lũng thủ vân phi, giang biên nhật vãn, yên ba mãn mục bằng lan cửu. Nhất vọng quan hà tiêu tác, thiên lí thanh thu, nhẫn ngưng mâu. . . . . .”(9)
Địch Thanh không biết nguồn gốc của bài này, nhưng Thượng Thánh lại biết đây chính là một bài từ của Liễu Thất sáng tác, khẽ nhíu mày. Nhưng giọng hát của Trương Diệu Ca như âm thanh của tự nhiên, nói lên tâm tư của con người, Thượng Thánh nghe một lúc thì vẻ không vui trong người dần dần mất đi. Chỉ nghe Trương Diệu Ca hát rằng: “Yểu yểu thần kinh, doanh doanh tiên tử, biệt lai cẩm tự chung nan ngẫu. Đoạn nhạn vô bằng, nhiễm nhiễm phi hạ đinh châu, tư du du.”(10) Bỗng dưng trong lòng nàng cảm thấy đau xót nhớ tới chuyện cũ nghĩ thầm: “Tuy trong lời ca nói rằng từ biệt không tin tức, chẳng biết người kia sống chết ra sao nhưng mình và ý trung nhân lại không thể không ly biệt, chẳng biết ngày nào mới gặp lại.” Vừa nghĩ tới đây, trong lòng đã cảm thấy thê lương vô hạn, nước mắt cứ vậy lặng lẽ tuôn rơi.
Trương Diệu Ca đàn hát đều tuyệt diệu, gợi lên chuyện cũ đau thương của Thượng Thánh, còn Địch Thanh lại nhớ tới cô gái áo trắng, thầm nghĩ: “Ngay cả tên nàng mình còn chưa biết chứ nói gì đến hồng nhạn truyền tin.”
Chỉ có người trung niên mập trắng nhíu mày, thầm nghĩ chủ nhân bị ràng buộc đã lâu, lần này tới đây biểu lộ chân tình, những ưu sầu phiền muộn trong lòng được giải tỏa bớt, âu cũng là chuyện tốt. Nhưng ở đây dù sao cũng là nơi bướm hoa, đang phải bí mật hành sự, chủ nhân không nên mê muội ở chỗ này mới đúng.
Chương 8 : Quan Ti.
Ba người đều có tâm sự, Trương Diệu Ca cũng đã gẩy đến điệu cuối cùng, cất tiếng du dương:
– Ám tưởng đương sơ, hữu đa thiếu, u hoan giai hội; khởi tri tụ tán nan kỳ, phiên thành vũ hận vân sầu. Trở truy du, mỗi đăng sơn lâm thủy, nhạ khởi bình sinh tâm sự, nhất tràng tiêu ảm, vĩnh nhật vô ngôn, khước hạ tằng lâu!
(Thầm nhớ ngày nao, đã bao lần, gặp nhau mừng tủi, biết rồi cách trở muôn trùng, chợt dâng mưa sầu gió thảm. Bước hoang đàng, trải bao nước non ngàn, gợi về trọn niềm tâm sự, lòng riêng ảm đạm, chẳng thể than van, đành lại xuống thang.)
Trương Diệu Ca hát xong, cổ tay ngọc khẽ đảo vuốt nhẹ lên dây đàn, tuy khúc cuối đã ca xong nhưng dư âm vẫn vang vọng. Nàng nhìn chăm chú vào bó hoa Nhãn Nhi Mị, khẽ nói:
– Liên nhi, tiễn khách.
Nàng nói xong đứng dậy rời đi, ba người Địch Thanh trầm ngâm một lúc lâu, lúc này mới nhìn nhau, nhìn thấy trong mắt ai cũng đầy vẻ phức tạp.
Thượng Thánh thở dài:
– Nếu không có hôm nay, thật không ngờ trên đời còn có khúc nhạc như thế.
Người trung niên mập trắng nói:
– Thánh công tử, đã quá giờ ngọ rồi, phải về thôi. Nếu không tiểu nương nương (mợ nhỏ) sẽ tức giận đấy.
Thượng Thánh ra khỏi các lâu, bấy giờ mới cảm thấy thời gian trôi qua thật nhanh nên có chút lo lắng nói:
– Sao ngươi không nói sớm cho ta biết, vậy thì nguy rồi.
Dứt lời, gã vội vàng bước ra ngoài Trúc Ca lâu. Vừa ra đến ngoài lâu, Thượng Thánh nói với Địch Thanh:
– Địch Thanh, ta nhớ ngươi rồi, lần sau lại tới tìm ngươi.
Địch Thanh thầm nghĩ, ‘người này có lợi mới chịu kết giao’, đến bây giờ ngay cả xưng hô các hạ cũng bỏ đi.
Nhưng thấy Thượng Thánh đúng là có vẻ rất sốt ruột, hắn nói:
– Thật ra, huynh đài chỉ đến nghe đàn, không phải làm chuyện gì sai trái hết, lệnh đường chắc sẽ không quở trách đâu.
Thượng Thánh cười khổ xoay người, nhưng bỗng dừng lại không bước tiếp. Cũng không phải vì giao tình với Địch Thanh mà là ở phía trước có đứng hơn mười người, người đứng đầu chính là Mã Trung Lập!
Thượng Thánh lấy tay đè mũ mềm xuống, hỏi:
– Tên Mã Trung Lập này muốn làm gì? Chẳng lẽ thật sự coi trời bằng vung, muốn chặn đường chúng ta?
Người trung niên mập trắng toát mồ hôi trán nói:
– Thánh công tử, hay là chúng ta đổi đường khác đi.
Thượng Thánh cả giận nói:
– Hắn là cái thá gì chứ, đáng để cho ta nhường đường sao? Địch Thanh, ngươi không phải là huynh đệ của Quách Tuân sao?
Địch Thanh thấy Mã Trung Lập đang đi về phía này, đã biết không ổn, bèn hỏi:
– Thì sao chứ?
Thượng Thánh nói:
– Quách Tuân vũ dũng, ngươi có lẽ cũng không tồi. Một mình ngươi đánh tám tên chắc không thành vấn đề!
Địch Thanh nói:
– Một đánh mười cũng không thành vấn đề, quan trọng là… là đánh người hay bị người đánh?
Hắn lập tức đưa tay kéo Thượng Thánh, hô lên:
– Không muốn bị đánh thì chạy theo ta.
Tiếp đó túm lấy Thượng Thánh, quay đầu bỏ chạy.
Mã Trung Lập không nghĩ tới ba kẻ này ngay cả một lời cũng không thèm nói, tức giận giậm chân quát:
– Đuổi theo!
Trương Diệu Ca nói quả không sai, Mã Trung Lập đã dùng hết tâm cơ lôi kéo bọn Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý diễn trò. Ban đầu, hắn cho rằng hôm nay có thể diễn trò hay anh hùng cứu mỹ nhân để giành được giai nhân, ai ngờ bị Địch Thanh thọc gậy bánh xe, đành phải dẫn heo dê về chuồng. Hắn hận đến nỗi hàm răng cũng thấy ngứa ngáy, vừa ra khỏi Trúc Ca lâu liền triệu tập gia đinh đứng ở ngoài ôm cây đợi thỏ, chuẩn bị đợi đám Địch Thanh đi ra để “nói lý lẽ” với chúng, lấy côn bổng nói cho chúng biết chữ phép tắc viết ra sao. Kết quả, con thỏ vừa mới rời khỏi hang, không cho Mã Trung Lập có cơ hội liền nhanh chân bỏ chạy, mọi công sức của Mã Trung Lập đều trở thành nước chảy lá môn. Lòng hắn càng thêm căm phẫn, thầm nghĩ nếu không dạy dỗ Địch Thanh một trận ra trò thì tối nay sẽ ngủ không được.
Thượng Thánh tay không trói nổi gà, bước chân thì lảo đảo, ráng sức mà nói:
– Không có vương pháp, không có vương pháp! Chạy gì mà chạy?
Tuy là nói như vậy, nhưng tình hình thế này không chạy sao được? Trong lúc bối rối, hắn loạng choạng một cái thiếu chút nữa ngã lăn trên mặt đất, không khỏi rên lên
– Ai ôi!!!
Rồi bụm mắt cá chân.
Địch Thanh vội hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Trán Thượng Thánh mồ hôi chảy ròng ròng, đáp:
– Chân không đi được.
Người trung niên mập trắng cũng thở hồng hộc, thấy thế hạ thấp người xuống phía trước Thượng Thánh nói:
– Thánh công tử, tiểu nhân cõng ngài đi.
Cơ thể của gã vốn béo, cõng Thượng Thánh trên lưng, cơ hồ không thể nhấc bước. Địch Thanh cắn răng, thoáng nhìn thấy bên cạnh vừa khéo có chiếc xe đẩy có chất đầy củi ở phía trên. Cạnh xe có một ông lão đang đứng, dường như đang muốn tránh né trận chiến này.
Địch Thanh quát:
– Quan gia bắt cướp, trưng dụng chiếc xe này.
Rồi hắn đoạt lấy xe, đẩy ngược về phía bọn người Mã Trung Lập. Trong đầu lại dâng lên từng cơn đau đớn. Những gia đinh kia không ngờ Địch Thanh lại dám phản đòn, một tên né tránh không kịp, bị xe tông ngã, tiếp đó còn bị bánh xe cán qua đùi, đau đến nỗi kêu cha gọi mẹ.
Mã Trung Lập sợ hãi cuống quít lui về phía sau, hét lên:
– Đánh cho ta, xảy ra chuyện gì thì đã có bổn công tử phụ trách.
Đám gia đinh nghe lệnh xông lên vây quanh bốn phía. Địch Thanh hét lớn:
– Các ngươi đi trước, không cần lo cho ta.
Vừa quay đầu nhìn lại đã không còn thấy bóng dáng tăm hơi của Thượng Thánh và người trung niên mập trắng, đáy lòng hắn thầm mắng:
– Tên tiểu tử Thượng Thánh này! Ở trước mặt mỹ nhân thì mạnh mẽ vỗ ngực xưng hảo hán, không nghĩ tới lúc xảy ra chuyện thì không có chút nghĩa khí nào!
Lúc này, tình cảnh cực kỳ hỗn loạn, Địch Thanh đã hãm sâu vào lớp lớp vòng vây, trong đầu lại từng cơn đau đớn âm ỷ. Hắn thầm kêu khổ, xoay người nhảy lên xe, ôm quyền nói với Mã Trung Lập:
– Mã công tử, dù sao thì mọi người cũng đã quen biết, hà tất gì gặp nhau là phải dùng quyền cước? Như vậy đi, ta và công tử đều lùi một bước, từ nay về sau ta sẽ không bao giờ đến Trúc Ca lâu nữa, được không?
Hắn thầm nghĩ anh hùng không ăn thiệt thòi trước mắt, ngày xưa Hàn Tín(1) còn có thể chịu nhục chui qua háng, mình tạm thời nhượng bộ cũng coi như là làm theo Hoài Âm hầu(2).
Mã Trung Lập âm hiểm cười nói:
– Không cần nhọc đại giá của ngươi. Để bổn công tử chịu vất vả, đánh gãy chân chó của ngươi, ngươi tất nhiên sẽ không còn đến được nữa.
Vẻ mặt hắn bỗng biến đổi, lạnh lùng quát:
– Ai đánh gãy chân chó của hắn, bổn công tử thưởng mười lượng bạc!
Đám người ùn ùn tiến tới, côn bổng nhất tề vung lên đánh về phía Địch Thanh trên xe. Địch Thanh không ngờ chiêu của Hoài Âm hầu lại không linh nghiệm, vội lăn người một vòng trượt xuống xe, nắm lấy đầu côn.
Nhưng võ nghệ của hắn bây giờ còn chưa bằng năm xưa nên chỉ trong chốc lát đã bị trúng vài côn.
Trong cơn đau nhức kịch liệt, Địch Thanh vung đoản côn lên, chẳng biết tại sao chợt nhớ đến tình cảnh chém giết ở Triệu phủ, liền quát lên:
– Cản ta thì chết!
Hắn dẫu sao cũng xuất thân chợ búa, bưng bít để vào quân doanh, nếu luận về công phu thì không tính là cao cường, nhưng nếu nói ẩu đả đánh nhau, có thể nói là mười mấy năm như một ngày, kinh nghiệm phong phú.
Địch Thanh bỗng phát uy, đánh một gậy vào đầu một tên gia đinh, tên này máu tươi chảy ròng, lảo đảo mấy cái liền hôn mê bất tỉnh. Đám người thấy Địch Thanh dũng mãnh, hô lên một tiếng, nhất tề lui về phía sau. Địch Thanh liếc thấy kẽ hở, bất ngờ xông ra ngoài. Không ngờ có một người đang đi tới phía này, bị Địch Thanh va phải, gào to một tiếng rồi té xuống đất.
Địch Thanh đụng phải người này, loạng choạng bước chân, thầm nghĩ trong lòng: “Gã này điên rồi sao, lúc này còn sáp lại đây?”
Khẽ liếc xéo qua, thấy gã ta bẩn thỉu, quần áo xốc xếch, nhưng không phải là người điên! Địch Thanh thầm kêu khổ, chạy được hai bước thấy gã này vẫn còn nằm trên mặt đất, đã vậy còn không biết tránh ra, vội la lớn:
– Mau tránh ra.
Gã này vẫn ngây ngô nhìn Địch Thanh, cũng không thèm đứng dậy. Địch Thanh không quản nhiều nữa, ba chân bốn cẳng chạy đi.
Cơn giận dữ của Mã Trung Lập không cách nào phát tiết, liền ra lệnh:
– Bắt không được Địch Thanh thì đánh chết tên điên đó cho ta.
Lúc này, dân chúng vây xem càng lúc càng đông, nhưng nhìn thấy cảnh này, không ai dám tới gần. Họ lại không nỡ bỏ qua tràng náo nhiệt này nên đều đứng ở xa xa, chỉ trỏ không ngừng.
Vì đám gia đinh không dám đuổi theo Địch Thanh nên ào ào chạy đến vây tên điên lại. Cuối cùng có một gậy đánh vào đầu gã, tên điên đau quá gào lên:
– Ai dám đánh bổn vương gia?
Tên điên tự xưng là Vương gia, rõ ràng là thần trí mơ hồ, mọi người nghe vậy cười vang.
Mã Trung Lập vốn đang tức giận, lúc này cũng cười to nói:
– Đánh tốt, đánh tốt! Đánh tiếp đi, bổn công tử sẽ có thưởng!
Địch Thanh vốn đã chạy xa, thấy thế thì dừng lại. Thấy còn có gia đinh giơ côn định đánh lên đầu gã điên, vội vàng hét lớn:
– Đừng đánh người vô tội!
Lập tức phóng mạnh côn gỗ trong tay ra, côn bay vun vút trúng vào cổ tên gia đinh kia. Chỉ nghe gia đinh kia kêu thảm một tiếng, cổ suýt nữa bị đánh gãy.
Địch Thanh đột nhiên xông về, quát:
– Các ngươi còn có chút lương tâm nào không đấy?
Đám gia đinh thấy hắn uy như mãnh hổ, không ai dám ngăn cản, nhốn nháo tránh ra. Địch Thanh lách mình đi tới đứng trước người tên điên, rồi ngửa mặt lên trời cười nói:
– Được! Được! Được! Nếu các ngươi muốn đánh, hôm nay ta sẽ đánh với các ngươi một trận thống khoái. Mã Trung Lập, mày có ngon thì tới đây đánh với tao!
Mọi người thấy Địch Thanh đột nhiên phẫn nộ, đều run như cầy sấy. Mã Trung Lập nắm chặt hai tay, quát lên trách móc:
– Một đám ngu xuẩn! Nhiều người như vậy mà còn sợ một thằng nhãi sao? Các ngươi không ra tay, trở về ta sẽ đánh chết các ngươi!
Đám gia đinh thấy chủ tức giận, cố lấy dũng khí tiến lên. Sau một tiếng quát lớn không biết của ai, bọn chúng liền vung gậy đánh tới. Địch Thanh sớm đã đẩy gã điên ra, chân gạt ngang ngáng ngã một tên, vung tay đấm một quyền cực mạnh vào mặt tên thứ hai.
Ngay lúc người này hét lên đau đớn, Địch Thanh cũng cảm thấy choáng váng, ngay cả đứng cũng không vững. Thì ra do xuất quyền quá mạnh, trong đầu lại đau đớn cùng cực.
Một gia đinh nhìn thấy sơ hở, thừa cơ đập một gậy vào lưng Địch Thanh. Địch Thanh còn đang lảo đảo thì bị hai tên khác chèn chân ngăn cản, hắn vấp vào té ‘rầm’ xuống mặt đất. Lúc này, lập tức có gia đinh phi thân lao tới, đè lên người Địch Thanh, những người còn lại túm tay túm chân, trong chớp mắt đã ép chặt Địch Thanh lại.
Đầu óc Địch Thanh đau nhức kịch liệt, mặc dù liều mình giãy dụa nhưng làm sao thoát được nhiều người như vậy?
Mã Trung Lập thấy đám gia đinh đã khống chế được Địch Thanh thì cười to, đi tới nói:
– Hừ! Thằng nhãi như ngươi mà cũng dám tranh giành nữ nhân với lão tử. Đây là kết cuộc của ngươi!
Hắn nói xong thì vung gậy đánh vào đỉnh đầu của Địch Thanh!
Máu tươi từ búi tóc của Địch Thanh chảy ra đầm đìa nhưng hắn chả thèm cầu xin, chỉ cắn răng trừng mắt nhìn Mã Trung Lập nói:
– Ngươi tốt nhất nên đánh chết ta!
Mã Trung Lập nhìn thấy hai tròng mắt của Địch Thanh như muốn phun hỏa, trong lòng run lên, nhưng ở trước mặt đông người làm sao chịu tỏ ra yếu kém, hắn tỏ vẻ khinh miệt nói:
– Đánh chết ngươi thì sao chứ?
Nói xong, để chứng minh lời nói của mình, hắn lại giơ gậy đánh vào đầu Địch Thanh một cái.
Địch Thanh lại choáng váng trong đầu, nhưng chẳng biết tại sao, sau cơn choáng váng này, giác quan hắn bỗng nhạy cảm chưa từng có. Hắn nghe được cách đó không xa có tiếng một người con gái nói:
– Tiểu thư, đây không phải là người tặng hoa cho tiểu thư sao? Không ngờ hắn là hạng người này, vậy mà có thể tranh đoạt nữ nhân với người khác trong thanh lâu.
Tiểu thư kia cũng chỉ nhẹ nhàng thở dài một tiếng, không nói gì thêm.
Địch Thanh khó khăn lắm mới nhìn qua được, thấy cách đó không xa có một đôi giày màu xanh nhạt, phía trên có thêu một đóa hoa cúc. Nhìn đóa hoa cúc này, không ngờ lại giống như đôi giày của cô gái áo trắng mà mình tặng mẫu đơn lần trước. Hắn cố gắng nghiêng đầu nhìn lên, đập vào mắt hắn là một khuôn mặt xinh đẹp vô cùng ngạc nhiên và có lẽ còn kèm theo một chút khinh thường.
Máu tươi chảy xuôi xuống phủ qua hai mắt Địch Thanh, Mã Trung Lập vẫn không chịu bỏ qua, quát lên:
– Còn ngây ra đó làm gì, mau đánh cho ta!
Tiếng nói trở nên văng vẳng, cảm giác côn bổng đánh xuống cũng trở nên như có như không. Trong lòng Địch Thanh mê man, mơ màng, chuyện xưa như khói lượn lờ, nhưng cũng giống như giọt nước in dấu vết lên tảng đá, từng chút một hiển hiện ra. Từ chuyện đánh nhau với ác bá đến chuyện tòng quân bấc đắc dĩ, từ chuyện lẻn vào thung lũng Phi Long đến chuyện giết Tăng Trưởng Thiên Vương, rồi từ chuyện đầu bị thương đến chuyện tinh thần sa sút mấy năm nay, cho đến việc gặp lại Đa Văn Thiên Vương và vô tình gặp được cô gái áo trắng ấy.
Người bên ngoài đối với hắn ra sao, hắn vốn không thèm để ý, nhưng ngay cả cô gái áo trắng cũng chán ghét, xem thường hắn, trong lòng Địch Thanh bỗng dâng lên cỗ lửa giận ngút trời.
Mình rốt cuộc làm sai điều gì mà sao tất cả người trong thiên hạ đều coi thường khinh bỉ mình?
Lúc này, lại thêm một côn đánh vào cổ Địch Thanh, Địch Thanh hét to một tiếng, cảm thấy trong đầu có một mảnh lụa đỏ khua động.
Không!
Không phải lụa đỏ, mà là hồng long!
Cự long bay múa, gào thét rống giận.
Địch Thanh nổi giận gầm lên một tiếng, bất ngờ lật người vùng dậy.
Mấy tên gia đinh đang đè hắn thét lên sợ hãi, bị hất tung lên không ngã văng ra ngoài. Địch Thanh chưa đứng dậy đã bắt được mắt cá chân của Mã Trung Lập, hắn dùng sức mà bóp. Mã Trung Lập kêu thảm một tiếng, hai chân đều gãy!
Địch Thanh vung tay lên, Mã Trung Lập cưỡi mây lướt gió bay lên rồi rơi mạnh vào xe củi. Đám gia đinh kinh hãi, muốn bắt Địch Thanh lại. Nhưng Địch Thanh lại rống to một tiếng, dùng tay nâng xe củi lên.
Dân chúng vây xem đều ngạc nhiên đến ngây người, thầm nghĩ chỉ riêng xe củi thôi đã nặng lắm rồi, huống chi là bên trên còn có Mã Trung Lập, người này có thể nhấc lên, chẳng phải người này có khí lực ngàn cân sao?
Mí mắt Địch Thanh nháy không ngừng, thấy đám gia đinh xông tới cứu chủ, hai tay nhấc xe củi lên đẩy bay ra ngoài, nện cái rầm lên người đám gia đinh. Trong lúc nhất thời, tiếng kêu cha gọi mẹ, gào thảm vang lên không dứt.
Địch Thanh cười như điên cuồng nói:
– Mã Trung Lập, không phải ngươi muốn giết ta sao? Đến đây đi! Đến đi!
Bỗng nhiên có tiếng con gái thét thất thanh, Địch Thanh liếc qua, thấy trong mắt cô gái áo trắng tràn đầy sợ hãi. Hắn thầm nghĩ, “Nàng cũng sợ mình sao? Nhưng mình cần gì phải để tâm tới ý nghĩ của nàng? Mã Trung Lập nếu chết, mình còn sống được sao, tuyệt đối không được làm liên lụy tới Quách đại ca.”
Vừa nghĩ tới đây, một côn nặng nề đánh vào sau đầu hắn, thân thể Địch Thanh lảo đảo hai cái, cảm thấy trời đất quay cuồng, rồi chậm rãi ngã xuống.
Cự long trong đầu Địch Thanh đã biến mất, thay vào đó là hình ảnh một đóa hoa cúc nằm trên chiếc giày thêu hoa màu xanh nhạt.
Trước lúc hôn mê, Địch Thanh nở nụ cười nơi khóe miệng.
Hắn bỗng nhiên cảm thấy, chết, cũng không phải là chuyện đáng sợ gì.
Địch Thanh hôn mê không biết bao lâu, chợt nghe một tiếng gọi to, hắn trở mình ngồi dậy.
Hắn còn chưa chết, nhưng toàn thân đã không còn phân biệt được đau nhức ở đâu nữa. Chỗ nào cũng đều đau đớn!
Những cơn đau đớn này cũng không là gì với Địch Thanh, nhớ lại cảnh tượng trong mơ, toàn thân hắn ướt đẫm, mí mắt giật giật không ngừng.
Trong mộng có rồng có rắn, có hỏa cầu có sấm chớp, có phật Di Lặc cũng có Tứ Đại Thiên Vương. Nhưng khiến cho tim Địch Thanh loạn nhịp lại là một giọng nói.
Giọng nói văng vẳng, tịch liêu, giống như từ trên trời truyền tới và cũng giống như từ u minh truyền về. Nội dung chỉ có ba chữ, “Đến đây đi!”
Đến đây đi? Đến nơi nào? Địch Thanh không biết, nhưng giọng nói này chân thật rõ ràng đến thế, không giống với cảnh trong mơ. Lúc đó, trong mộng, Địch Thanh đang cảm thấy kỳ quái, đột nhiên từ bóng tối nhô ra một cái miệng lớn đầy máu nuốt hắn vào.
Lúc này, Địch Thanh mới bừng tỉnh.
Đó là mộng ư, tại sao lại chân thật đến thế? Đó là thật ư, nhưng sao lại hư ảo như mộng?
Địch Thanh nghĩ mãi không ra, mờ mịt nhìn quanh, chỉ thấy một ngọn đèn dầu lờ mờ và bốn vách tường lành lạnh, trong lúc nhất thời không biết mình đang ở đâu. Hắn chỉ nhớ mình đã đánh bại Mã Trung Lập, sau đó nhấc xe củi ném vào đám người, tiếp đó sau ót bị đánh một côn rất đau, sau đó…
Hắn muốn rướn người đứng dậy nhưng cảm thấy cổ tay lạnh như băng, có tiếng rung động “leng keng” vang lên. Địch Thanh cúi đầu nhìn xuống thì thấy có xích sắt còng tay, hiện tại hắn mới tỉnh ngộ, thì ra mình đang bị nhốt trong lao!
Ngoài phòng giam vang lên tiếng bước chân kéo dài đến trước phòng giam thì dừng lại, tiếp theo đó khóa sắt rung động leng keng, có người đang mở cửa nhà lao. Có tiếng người nói:
– Ngươi nhanh lên, đây là trọng phạm.
Một người khác nói:
– Đa tạ huynh đệ. Có chút bạc vụn, mời các huynh đệ uống rượu.
Địch Thanh ngước mắt nhìn cửa phòng giam, thấy dưới ánh đèn lờ mờ có đứng hai người, một người là Trương Ngọc, người còn lại là Lý Vũ Hanh. Hai người bước tới trước Địch Thanh, đều trầm mặc, hết nhìn trái lại nhìn phải.
Địch Thanh nghi hoặc hỏi:
– Các ngươi nhìn cái gì?
Trương Ngọc thở dài:
– Ta tìm coi nơi nào trên người ngươi có lá gan lớn như vậy, chỗ nào lại có khí lực lớn như vậy? Nghe dân chúng ven đường kể tình cảnh lúc đó, ta thật không thể tin được những chuyện đó là do ngươi làm ra.
Địch Thanh nở nụ cười chua xót,
– Là ta làm.
Lý Vũ Hanh sốt ruột nói:
– Địch Thanh, ngươi có biết, người bị ngươi đánh là Mã Trung Lập, hắn là con trai độc nhất của Mã Quý Lương! Mã Quý Lương là con rể của Lưu Mỹ, mà Lưu Mỹ là huynh trưởng(anh cả) của Lưu Thái hậu! Tuy Lưu Mỹ đã chết nhưng Lưu Thái hậu cực kỳ quan tâm con cháu của Lưu gia. Lần này, ngươi chọc vào tổ ong vò vẽ rồi!
Trương Ngọc hỏi:
– Địch Thanh, trước khi ngươi ra tay, chắc không biết lai lịch của bọn chúng hả?
Địch Thanh dựa vào vách tường lạnh lẽo, bất đắc dĩ nói:
– Ta dù có biết cũng phải ra tay. Nếu không thì cũng chỉ có con đường chết.
Thấy Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh đầy tâm sự trong lòng, Địch Thanh cười an ủi:
– Chuyện nhỏ như con thỏ, cùng lắm thì mất mạng thôi. Tên Mã Trung Lập ấy ra sao rồi?
Trương Ngọc cười khổ nói:
– Mắt cá chân của hắn bị gãy, đã vậy còn bị xe củi nện vỡ xương ngực, bị thương nặng hơn người nhiều. Cũng may còn chưa chết, song … dù sống chắc cũng không ngồi dậy nổi.
Lòng Địch Thanh trầm xuống, biết Mã Trung Lập bị thương nặng thì người Mã gia nhất định sẽ không để cho hắn sống. Cười khẽ nói:
– Được rồi, ít nhất một mạng đổi một mạng.
– Hắn là tên tạp chủng, ngươi sao có thể lấy mạng của mình đổi với hắn chứ!
Trương Ngọc vội la lên:
– Địch Thanh, ngươi đừng nghĩ đến chuyện chết, ít nhất kinh thành vẫn còn có một nơi phân rõ phải trái. Nếu như bọn chúng dám lạm dụng tư hình, cấm quân doanh của chúng ta sẽ không để yên. Nhưng ngươi lần này… rốt cuộc là vì ai mà phải đánh nhau sống chết với Mã Trung Lập? Có phải là vì một vị tuyệt sắc đại mỹ nữ nào không?
Địch Thanh lắc đầu than thở nói:
– Nói ra thực buồn cười, là vì một nam nhân.
Nếu như là trước kia, hai người nói cười không cố kỵ, Trương Ngọc khẳng định sẽ đoán bừa và trêu chọc Địch Thanh là tên đồng tính luyến ái, nhưng bây giờ chỉ ngạc nhiên hỏi:
– Sao? Ngươi kể lại chuyện đó xem, chúng ta cùng nhau thương lượng xem có thể tìm được cách gì cứu vãn không?
Địch Thanh thở dài nói:
– Trương Ngọc, Vũ Hanh, hai ngươi không cần lo cho ta nữa. Chuyện này liên quan đến Thái hậu, đừng nói cấm quân doanh không tiện ra mặt, cho dù là Xu Mật Viện cũng cứu không được ta. Các ngươi cứ như thế mãi, e rằng sẽ liên lụy tới các ngươi.
Dù hắn chưa chết, nhưng biết sự tình trọng đại, sớm đã bỏ ý chống cự rồi.
Mặt Lý Vũ Hanh lộ ra chút sợ hãi, Trương Ngọc nghe vậy cả giận nói:
– Con mẹ nó! Ngươi có phải là đàn ông không! Đến giờ phút này rồi mà còn nói với huynh đệ những lời như thế? Nếu chúng ta muốn bỏ mặc ngươi, hôm nay cũng sẽ không đến đây. Xu Mật Viện cứu không được ngươi, nhưng huynh đệ chúng ta vẫn muốn cứu ngươi!
Địch Thanh nước mắt lưng tròng, cúi đầu xuống, hồi lâu mới nói:
– Chuyện là như vầy….
Hắn kể lại tường tận chuyện xảy ra ngày hôm đó ra. Trương Ngọc nghe xong, nghiến răng nghiến lợi nói:
– Địch Thanh, chuyện này ngươi vốn không sai, chính là bọn chúng cậy vào quyền thế, không nói đạo lý… khăng khăng muốn giết chết ngươi. Hừ, chúng ta không thể để bọn chúng được như ý.
Mặc dù Trương Ngọc nói như vậy, nhưng đối phó ra sao thì không có chút biện pháp nào.
Lý Vũ Hanh vò râu, khàn giọng nói:
– Trước mắt thì phải trông cậy vào Phủ doãn(3) phủ Khai Phong là Trình đại nhân phân rõ trắng đen.
Phủ doãn phủ Khai Phong tên là Trình Lâm, bản án này tất nhiên là phải giao cho phủ Khai Phong thẩm vấn, xét hỏi rồi.
Khuôn mặt ngựa của Trương Ngọc cũng tái mét:
– Nhưng Trình Lâm và Thái hậu là cùng một giuộc. Ta nghe nói Thái hậu vẫn chưa chịu giao trả triều chính cho Hoàng thượng, vẫn tự cho mình là hoàng đế. Tên Trình Lâm thông thạo vuốt mông ngựa, trước đây không lâu còn dâng tặng cái gì “Vũ hậu lâm triều đồ”, khích lệ Thái hậu làm Võ Tắc Thiên!
Lý Vũ Hanh đã nhổ được mấy sợi râu nhưng vẫn hồn nhiên chưa phát hiện ra, chỉ nói:
– Vậy phải làm sao bây giờ?
Địch Thanh thấy hai huynh đệ lúc này còn có thể ra mặt giúp mình, cảm thấy xúc động, nhất thời im lặng.
Trương Ngọc đột nhiên vỗ đầu nói:
– Có rồi, việc trọng yếu nhất trước mắt là phải tìm được Thượng công tử. Nếu như có thể cầu được gã ra mặt làm chứng, chuyện sẽ có thể xoay chuyển.
Địch Thanh thầm nghĩ: “Chuyện này liên quan đến Thái hậu, nếu Thượng công tử không phải là kẻ ngốc thì đã sớm trốn đi rồi, làm sao có thể ra mặt chứ?”
Trương Ngọc hưng phấn nói tiếp:
– Thượng công tử mà ngươi nói có phải là người mang giày của Ngũ Hồ Xuân không? Vậy ta phải đi thăm dò! Địch Thanh, ngươi không nên buồn nữa, bất kể ra sao ta cũng sẽ giúp ngươi tìm ra người này.
Địch Thanh không đành lòng giội cho Trương Ngọc một gáo nước lạnh, cười lớn nói:
– Vậy… làm phiền hai vị huynh đệ.
Trương Ngọc không chút chậm trễ, lập tức chào tạm biệt Địch Thanh, đút lót thêm cho ngục tốt(4), xin bọn họ đừng làm khó Địch Thanh rồi mới cùng Lý Vũ Hanh vội vàng rời đi.
Địch Thanh hiểu rằng dù cho có tìm được Thượng công tử, hắn có thể ra mặt hay không còn chưa biết được. Nhưng có ai đui mù mà dám đối nghịch với Thái hậu chứ? Nghĩ tới đây, Địch Thanh có chút đau đầu, nhưng cảm giác đau nhức kịch liệt trước đây đã giảm đi chút ít. Địch Thanh đột nhiên nhớ tới gì đó, thò tay vào trong ngực, hắc cầu ấy vẫn còn nằm ở đó, hắn thở phào một hơi.
Địch Thanh móc hắc cầu ra. Hắn khẳng định mình có thể đánh Mã Trung Lập bị thương, nguyên nhân nhất định là vì hắc cầu này.
Nhưng hắc cầu rốt cuộc có thần thông gì đây? Địch Thanh nghĩ mãi mà không ra.
Lao phòng hiu quạnh, Địch Thanh không khỏi nhớ tới Đa Văn Thiên Vương trước đây có nói, “Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp…. Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt!”
Ngũ Long vừa xuất hiện, quả nhiên là có người lệ rơi không dứt. Nhưng với Địch Thanh, sau này rơi sẽ chỉ là máu, chứ không phải nước mắt.
Nghĩ tới đây, Địch Thanh ngẩng đầu lên, ánh mắt hiện ra vẻ quật cường. Ánh sáng nhàn nhạt từ ngọn đèn dầu rọi vào Ngũ Long đen tuyền, hiện ra hào quang âm u!
Chớp mắt Địch Thanh đã ở trong phòng giam hơn tháng. Phủ Khai Phong vẫn chưa thẩm vấn hắn nên khiến Địch Thanh càng thêm lo sợ. Hắn nhịn không được mà nghĩ: “Chẳng lẽ mình sớm đã bị định tội chết, ngay cả thẩm vấn cũng không cần, liền trực tiếp mang đi xử trảm sao?”
Nghĩ tới đây, Địch Thanh lại cảm thấy bi thương trong lòng nhưng không thể làm gì.
Mấy ngày này, Quách Quỳ cũng đã đến mấy lần. Nó nói nó đã báo tin cho Quách Tuân hay, nhưng Quách Tuân vẫn còn đang ở bên ngoài, trong lúc nhất thời trở về không kịp. Địch Thanh vốn không muốn để cho Quách Tuân biết chuyện này, với lại sợ liên lụy Quách Tuân nên hi vọng Quách Tuân đừng trở về kinh.
Trương Ngọc cũng tới vài lần, nhưng mỗi lần đều nở nụ cười miễn cưỡng. Hắn vẫn chưa tìm được Thượng công tử.
Tâm Địch Thanh đã nguội như tro tàn, thầm nghĩ, “Việc này rất ồn ào, Thượng công tử không phải kẻ điếc, chắc là biết rồi. Hắn không chịu xuất hiện thì dù có tìm được cũng vô dụng thôi.
Khi biết mình đã không còn hi vọng, ngược lại, tâm tình trở nên phóng khoáng. Mỗi ngày khi rãnh rỗi, hắn đều móc hắc cầu ra xem, nếu trước khi chết có thể nghiên cứu ra bí ẩn của Ngũ Long cũng tốt, nhưng hồng long vẫn không hiện ra.
Cứ như thế, thời gian nửa tháng lại trôi qua. Vào sáng sớm một ngày, ngục tốt đến đây, quát:
– Địch Thanh, hôm nay thẩm vấn, chuẩn bị đi thôi.
Địch Thanh thở dài, thầm nghĩ: người mình đánh là người của Thái hậu, thẩm vấn mình cũng là người của Thái hậu, mình nhất định không thể may mắn thoát tội rồi. Đại ca sao rồi? Rốt cuộc có nên nói cho huynh ấy biết hay không đây?
Trong lúc suy tư, Địch Thanh bị ngục tốt áp giải ra khỏi ngục Khai Phong, đi thẳng tới nha môn phủ Khai Phong. Mới tới trước cửa, đã thấy dân chúng vây ngăn ở trước nha môn. Thấy Địch Thanh bị áp đến, mọi người nhao nhao tiến lên, bảy mồm tám lưỡi quan tâm nói:
– Địch Thanh, ngươi không sao chứ?
Những người này đều là dân thường, có Vương đại thẩm bán bánh bao, có Hùng đại tẩu bán hoa, có Kiều đại ca đốn củi, có Tôn lão hán bán rượu, ngay cả Cao lão đầu, người mà Địch Thanh lần trước giúp đỡ không ngờ cũng tới đây.
Mấy năm nay, dù rằng chỉ nửa cấp quan giai Địch Thanh cũng không thăng được, nhưng làm việc lâu ngày trong chợ, những người dân đến đây đều đã từng được hắn giúp đỡ. Hay tin hắn hôm nay bị thẩm vấn nên đến đây thật sớm để dự thính.
Địch Thanh không nghĩ tới còn có nhiều người nhớ mình như vậy, trong lòng rất cảm động. Cao lão đầu run rẩy đứng ra nói:
– Địch Thanh, người tốt tất được báo đáp, nhất định sẽ không có chuyện gì đâu. Chúng ta đều đến Đại Tướng Quốc Tự thắp hương cho ngươi, xin Bồ Tát phù hộ ngươi.
Địch Thanh thầm nghĩ,
– Nghe nói phật Di Lặc ở Đại Tướng Quốc Tự là do Lưu Thái hậu sai người đắp nặn ra, e rằng sẽ phù hộ Mã Trung Lập.
Nhưng vẫn nói:
– Đa tạ mọi người, Địch Thanh nếu có cơ hội… Nhất định báo ơn!
Nha dịch bên cạnh thầm nghĩ, “ngươi có mà đợi đến kiếp sau đi.”
Bọn nha dịch không để cho Địch Thanh nói thêm nữa, dùng côn bổng tách dân chúng ra, áp giải Địch Thanh vào quan nha.
Phía trên công đường có treo một cái bảng, trên viết bốn chữ “Liêm khiết công chính”. Sau bàn xử án, Phủ doãn Khai Phong – Trình Lâm ngồi nghiêm trang. Nha lại hai bên thấy Địch Thanh tiến vào công đường liền dùng trượng gõ lên nền, đồng thanh hô hai chữ “Uy vũ”. Ở trong Nha môn, hành động này gọi là “Gõ hèo”, một mặt khiến cho dân chúng bên ngoài yên tĩnh, mặt khác chính là hù dọa đám tù phạm, khiến bọn chúng sinh ra sợ hãi.
Địch Thanh đảo mắt nhìn qua, thấy bên tay phải Trình Lâm có đứng một người, nếp nhăn giữa mày giống như đao khắc, lộ ra vẻ cáu kỉnh trời sinh, nhìn cách ăn mặc thì chắc là Thôi quan(5) của phủ Khai Phong.
Chỗ bên tay trái Trình Lâm ngồi một người, mắt tam giác, mũi hèm rượu, cặp mắt hung dữ nhìn chằm chằm Địch Thanh, vô cùng dữ tợn. Địch Thanh run lên, không biết người này là ai.
Trình Lâm thấy Địch Thanh quỳ xuống, vỗ Kinh Đường mộc(6), quát:
– Địch Thanh, ngươi có biết tội của ngươi không?
Địch Thanh lắc đầu nói:
– Tiểu nhân không biết.
Người mắt tam giác đột nhiên đứng lên quát:
– Giỏi cho tên quan quân xảo quyệt, sắp chết đến nơi còn không biết hối cải sao?
Hắn nói dồn dập, giống như bất cứ lúc nào cũng có thể tắt thở, chắc là người có tính nóng nảy.
Địch Thanh không nói gì, ngẫm nghĩ người này có lẽ là thân thích của Mã gia. Quả nhiên, Trình Lâm nói:
– Lưu Tự Sự, bình tĩnh chút, đừng nóng nảy, hết thảy cứ án theo pháp lệnh mà xử lý.
Địch Thanh thầm nghĩ, “Lưu Tự Sự? Người này chắc là con trưởng Lưu Tòng Đức của Lưu Mỹ.”
Trong mấy ngày này, Lý Vũ Hanh đã kể về quan hệ của Mã gia cho Địch Thanh. Địch Thanh biết Mã Quý Lương là con rể của Lưu Mỹ. Lưu Tòng Đức này là vì quan hệ thông gia với Mã Quý Lương mà ra mặt cho con trai Mã Trung Lập của y cũng là bình thường. Nhưng theo gia pháp Đại Tống, thân thích bên ngoại ít nắm quyền cao. Nhà Tống thay đổi quy định trước, trong Cửu Tự Ngũ Giám(7), trừ Đại Lý tự(8) và Quốc Tử giám(9) ra, các chức vị còn lại đều là chức vụ nhàn nhã, không có hoặc có rất ít thực quyền. Lưu Tòng Đức cũng không có tài học, Thái hậu xin chức vị Tự Sự trong Vệ Úy tự(10) cho hắn, thật ra chỉ để lĩnh bổng lộc, cũng không làm được chuyện gì. Nếu bàn về quan giai thực quyền, Trình Lâm hơn xa Lưu Tòng Đức, nhưng Trình Lâm biết địa vị của Lưu Tòng Đức trong lòng Thái hậu, nên lúc này mới khách khí như vậy.
Lưu Tòng Đức phẫn nộ quát:
– Bây giờ chứng cớ đã vô cùng rõ ràng, còn thẩm cái gì vấn nữa không biết? Tên Địch Thanh này lấy võ khinh người, ngay trên đường ngang nhiên hành hung, đánh bị thương mấy người, làm hại Mã Trung Lập đến bây giờ vẫn còn nằm liệt giường, hơi thở thoi thóp, không giết Địch Thanh, không đủ để kiềm chế sự phẫn nộ của dân chúng!
Người có vẻ mặt đầy ưu sầu kia đột nhiên nói:
– Lưu Tự Sự, đây là phủ Khai Phong, chuyện xử án là thẩm quyền của Trình đại nhân, còn chuyện nghị án do hạ quan phụ trách. Kính xin đừng có vượt quá chức phận, để tránh người ngoài đàm tiếu.
Người này nói chuyện trong mềm có khuyến cáo, Lưu Tòng Đức oán hận trừng mắt nhìn hắn, dồn dập nói:
– Bàng Tịch, hôm nay ta xem ngươi làm sao nghị án!
Trong lòng thầm hận nói: Ngươi đừng để ông mày nắm được sai lầm, bằng không ta bẩm báo Thái hậu, cho ngươi đẹp mặt!
Bàng Tịch thấy Lưu Tòng Đức không mở miệng nữa, bèn nói với Địch Thanh:
– Địch Thanh, ngươi hãy đem chuyện xảy ra trước đây kể lại kỹ càng.
Lưu Tòng Đức quát:
– Còn kể lể cái gì chứ? Mấy ngày nay chẳng phải đã tra rõ rồi sao? Cần gì phải lãng phí thời gian!
Trình Lâm ho khan một tiếng, cau mày nói:
– Lưu Tự Sự, ngươi nếu không hài lòng với phần thẩm án của bổn quan, có thể đến Lưỡng Phủ cáo sách. Nhưng nếu còn kêu gào chốn công đường nữa, bổn quan đành phải mời ngươi ra ngoài cho.
Lưu Tòng Đức hừ lạnh một tiếng, không lên tiếng nữa.
Địch Thanh cũng có chút kinh ngạc, không ngờ Trình Lâm, Bàng Tịch lại có chút dáng vẻ cùng làm việc công, chẳng lẽ tin đồn là giả?
Trình Lâm thấy Lưu Tòng Đức đã câm mồm lại, lúc này mới nói:
– Địch Thanh, trước hết ngươi hãy chân thật kể lại chuyện ngày đó.
Giọng điệu y bình tĩnh, nhưng lòng tuyệt không ung dung.
Chỉ vì một cái bản án tầm thường này lại liên quan tới phạm vi rất rộng, quả thực khó có thể tưởng tượng. Trình Lâm tiếp nhận bản án này, cảm thấy áp lực to lớn, không dám khinh xuất.
Những ngày vừa qua, Trình Lâm điều tra càng nhiều thì càng do dự, không dám tùy tiện đưa ra phán quyết. Về phía Mã Trung Lập không cần nói nhiều cũng biết. Mấy ngày nay, Mã Quý Lương ngày ngày đều đến trước mặt Thái hậu khóc lóc kể lể, thỉnh cầu nghiêm trị hung đồ, Lưu Thái hậu nghe tin một tên cấm quân tầm thường lại dám đánh người nhà của mụ, giận tím mặt, lệnh cho phủ Khai Phong nghiêm trị. Nhưng tên cấm quân tầm thường như Địch Thanh lại chả tầm thường tí nào, hắn ta chẳng những rất có hiệp khí trong lòng dân chúng, vả lại còn có quan hệ thân thiết với Quách Tuân. Quách Tuân là thế gia tướng môn, dù chưa quay lại kinh thành, nhưng quan hệ rất rộng, Tam Nha, Xu Mật Viện dù chưa lên tiếng, nhưng đều sát sao theo dõi xem chuyện này xử lý như thế nào.
Vốn một mình Quách Tuân cũng không có tư cách gì mà chống đối Thái hậu, nhưng trong đó còn có nội tình rất trọng yếu —- đã đến lúc Hoàng thượng tự mình chấp chính, Thái hậu vẫn rề rà không nhường triều chính, triều thần đã có rất nhiều người nghị luận. Qua việc này, trước mắt bách quan muốn nhìn xem, quyền của Thái hậu rốt cuộc to cỡ nào, hiện tại Thái hậu đã không còn một tay che trời!
Trình Lâm không biết, mình nên lấy lòng Thái hậu hay là xử lý chuyện này theo lẽ công bằng?
Nếu như nịnh nọt Thái hậu, sau khi Thánh Thượng đăng cơ, tiền đồ của gã chưa biết ra sao. Nhưng nếu theo lẽ công bằng mà xử lý, Thái hậu nói không chừng sẽ lập tức cách chức gã.
Bên ngoài phủ nha, dân chúng xôn xao. Trước ánh mắt của chúng nhân, mỗi quyết định đều có thể ảnh hưởng sâu sắc, Trình Lâm phân vân chưa biết định luận như thế nào. Trước khi nghe Địch Thanh thuật lại, Trình Lâm đã biết chuyện này là do Mã Trung Lập sai, Địch Thanh chả có lỗi gì lớn. Đợi Địch Thanh nói xong, càng thêm chứng thật phán đoán của mình.
Nhưng dù chuyện đã sáng tỏ, xử lý lại trở nên nan giải. Trình Lâm suy nghĩ hồi lâu mới nói:
– Bàng Thôi quan, ý của ông thế nào?
Bàng Tịch nghiêm mặt nói:
– Cổ nhân có dạy ‘Kiêm thính tắc minh, thiên tín tắc ám’(11), hạ quan cho rằng vẫn còn phải nghe lời chứng của người ngoài mới được.”
Trình Lâm trầm ngâm nói:
– Nếu vậy thì…, triệu Trương Diệu Ca của Trúc Ca lâu vào đây!”
Trương Diệu Ca đã chờ sẵn ở hậu đường, nghe triệu liền khép nép e lệ đi ra, đáng điệu phong tình quyến rũ vô cùng.
Địch Thanh vốn đã tuyệt vọng, nhưng thấy Bàng Tịch và Trình Lâm đều có tiềm chất của thanh quan thì thấy có hy vọng. Trước mắt, không tìm được Thượng Thánh, lời chứng của Trương Diệu Ca là rất trọng đại, tim hắn không khỏi đập thình thịch.
Trương Diệu Ca không nhìn Địch Thanh, đến đại đường, quỳ xuống song song với Địch Thanh nói:
– Thiếp thân Trương Diệu Ca bái kiến Phủ doãn đại nhân.
Trình Lâm hỏi:
– Trương Diệu Ca, ngươi trước kia có từng quen biết Địch Thanh?
Trương Diệu Ca lắc đầu nói:
– Chưa từng.
Trình Lâm lại nói:
– Vậy ngươi hãy đem hết thảy mọi chuyện xảy ra ở Trúc Ca lâu, kể lại tường tận một lần.
Trương Diệu Ca khe khẽ nói:
– Trước đây thiếp thân thậm chí không biết người này gọi là Địch Thanh, nhưng mà Phượng mụ mụ bảo thiếp thân cẩn thận tiếp đãi người này, đúng rồi… y còn có hai bằng hữu, một người là Thánh công tử, người còn lại là Diêm Nan Địch.
Địch Thanh nghe đến đó, trong lòng trầm xuống, liền biết không ổn. Hắn nổi máu nhất thời, giả mạo nha sai phá án, nếu như bình thường sẽ không có gì, nhưng bây giờ mà bị vạch trần, chuyện này sẽ vô cùng nghiêm trọng. Bàng Tịch hỏi:
– Phượng mụ mụ vì sao muốn ngươi cẩn thận tiếp đãi Địch Thanh vậy?
Trương Diệu Ca nói:
– Phượng mụ mụ nói, người này gọi là Diệp Tri Đông, là đệ đệ của Khai Phong phủ – Diệp Tri Thu, nói đến Thính Trúc tiểu viện để tra án…
Mọi người xôn xao, Lưu Tòng Đức mừng rỡ, quát:
– Hay lắm, Địch Thanh không những đánh bọn người Mã Trung Lập, mà còn giả mạo nha dịch của phủ Khai Phong, có thể thấy rõ bộ mặt tàn ác của hắn! Trình đại nhân, xin hãy nghiêm trị tên này.
Trình Lâm nhíu mày, không để ý tới Lưu Tòng Đức, nói:
– Trương Diệu Ca, ngươi kể tiếp đi.
Trương Diệu Ca nói:
– Tuy nhiên, người này đi tới Thính Trúc tiểu viện cũng không có gì tàn ác, chỉ cùng hai người còn lại nghe đàn. Rồi hai người Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý tìm cớ bới móc, Mã công tử quát đuổi hai người này đi. Thiếp thân theo lời Phượng mụ mụ nói, giữ ba người Địch Thanh lại Thính Trúc tiểu viện tiếp tục đàn hát một khúc, sau đó mời bọn họ xuống lầu. Còn chuyện xảy ra sau đó, thiếp thân không biết.
Trình Lâm hỏi:
– Vậy ba người này ở trên các lâu, từng có xung đột gì với Mã công tử không?
Trương Diệu Ca che miệng khẽ cười,
– Ngoài mặt thì không.
Trình Lâm cau mày hỏi:
– Lời này có ý gì?
Trương Diệu Ca nói:
– Ngày ấy, Mã công tử đến chắc là muốn ở lại Thính Trúc tiểu viện, nhưng thiếp thân giữ Địch Thanh lại, trong lòng Mã công tử có lẽ có chút bất mãn chăng?”
Lưu Tòng Đức giận dữ nói:
– Trương Diệu Ca, ngươi ăn nói cho cẩn thận!
Trương Diệu Ca cũng không sợ sệt, mỉm cười nói:
– Nếu đại nhân đã hỏi, thiếp thân sẽ dựa theo sự thật mà trả lời. Nếu như có chỗ nào không đúng, kính xin các vị đại nhân xem tiểu nữ tử kiến thức nông cạn, tha thứ cho tiểu nữ.”
Bàng Tịch trầm ngâm nói:
– Vậy ba người Địch Thanh ở trên lầu các của ngươi, còn có hành động hung hăng càn quấy nào không?
Trương Diệu Ca lắc đầu nói:
– Không, bọn họ có thể nói là ba người ngay thẳng nhất mà thiếp thân đã từng gặp qua.
Trình Lâm gật đầu nói:
– Bản phủ đã biết, Trương Diệu Ca lui ra. Triệu tú bà Phượng Sơ Ảnh của Trúc Ca lâu thăng đường.
Trương Diệu Ca lui ra, Phượng Sơ Ảnh õng a ỏng ẹo lên đại đường, quỳ lạy Phủ doãn. Trình Lâm đề cập ngay vào điểm chính:
– Phượng Sơ Ảnh, ngươi có quen người trên công đường này không?
Gã chỉ ngón tay vào Địch Thanh, Phượng Sơ Ảnh thấy Lưu Tòng Đức nhìn mình lom lom, lập tức nói:
– Quen, hắn gọi là Địch Thanh, giả mạo nha sai, nói cùng với cái gì mà đại nội Diêm Nan Địch của Vũ Kinh đường, còn có bộ khoái tài ba Thánh công tử đến phá án, muốn xem xét Thính Trúc tiểu viện một chuyến. Thiếp thân không dám đắc tội bọn họ, mới gọi Diệu Ca tiếp đãi ba người này, không ngờ bọn họ chẳng những giả mạo nha sai, còn đánh Mã công tử trọng thương, thật sự đáng giận đến cực điểm.
Địch Thanh nắm chặt hai đấm, nhưng lại không có cách nào giải bày. Phượng Sơ Ảnh cắt cắt giảm giảm, nói mấy câu đã định hắn là kẻ ác độc, còn khiến người ta không thể nào giải thích.
Mũi cà chua của Lưu Tòng Đức hưng phấn càng thêm đỏ bừng, nhưng lúc này lại không vội yêu cầu Trình Lâm nghiêm trị Địch Thanh.
Trình Lâm bảo Phượng Sơ Ảnh lui ra, bèn hỏi Bàng Tịch:
– Bàng thôi quan, ông có kết luận chưa?
Bàng Tịch chậm rãi nói:
– Chuyện Địch Thanh giả mạo nha dịch, tuy rằng không đúng nhưng chưa gây thành tai họa, phải do chính Tam Nha tự xử trí. Về phần chuyện đánh Mã công tử, lại có nhân quả. Nếu án theo Địch Thanh, Trương Diệu Ca và cùng một số dân chúng đứng xem mà nói, Mã công tử ra tay trước, thậm chí còn đánh kẻ điên. Địch Thanh quay lại cứu giúp, đã ngộ thương Mã công tử. Có thể nói là mỗi bên đều sai…”
Lưu Tòng Đức bỗng nhiên đứng lên nói:
– Bàng Tịch, ngươi là Thôi quan *** chó gì? Loại kết án này mà cũng có thể nói được sao? Trương Diệu Ca chỉ là một ả ca kỹ, địa vị thấp kém. Dân chúng nói, sao lấy làm chuẩn được? Địch Thanh nói, càng không được coi là chính xác!
Bàng Tịch cũng không tức giận, thản nhiên nói:
– Kính xin Tự Sự đại nhân nói năng cẩn thận, chức vị của hạ quan tuy hèn mọn nhưng quan chức dù sao cũng là do Thánh Thượng phong. Ông thuận miệng nhục mạ, sợ rằng không thỏa đáng lắm. Hơn nữa Trình đại nhân hỏi ý kiến, hạ quan chỉ dựa theo thông lệ trả lời, cung cấp chút căn cứ để xử án. Trước mắt, dựa vào những nhân chứng này, hạ quan cũng chỉ có thể rút ra những kết luận như vậy. Ông nếu cảm thấy không ổn, có thể đưa ra ý kiến khác, không cần phải la hét trên công đường.
Lưu Tòng Đức oán hận trừng mắt nhìn Bàng Tịch nói:
– Ta cho rằng nếu muốn biết rõ chân tướng chuyện này, cần phải hỏi đám người của Thính Trúc tiểu viện, chỉ dựa vào lời khai của hai người Địch Thanh và Trương Diệu Ca, làm sao chính xác?
Trình Lâm gật đầu nói:
– Lưu Tự Sự nói cũng có lý. Triệu Chu Đại Thường và những người liên quan thượng đường!”
Cùng thượng đường với Chu Đại Thường không chỉ có Dương Đắc Ý mà còn có ba ngươi khác. Địch Thanh nhận ra ba người này đều là tân khách lúc trước ở Thính Trúc tiểu viện, thấy Lưu Tòng Đức cười gian, trong lòng trầm xuống.
Chúng nhân dưới công đường báo tên ra. Trong ba người ngoài, người mập ụch ịch là Đông Lai Thuận, là thiếu chưởng quỹ của một quán rượu, người mặc áo lụa gọi là Văn Thành, vốn là chủ nhân cửa hiệu tơ lụa Lục Ý, còn người mặt rỗ mở cửa hiệu trái cây, gọi là Cổ Thận Hành.
Chu Đại Thường nói trước:
– Hôm đó, sau khi Mã công tử rời khỏi Trúc Ca lâu, vốn muốn kết bạn với Địch Thanh, cho nên chờ ở ngoài lâu. Không ngờ Địch Thanh sau khi xuống tới, lại dùng lời lẽ ác độc chửi Triệu công tử… Về phần chửi cái gì, không tiện nói ra.
Đông Lai Thuận tiếp lời:
– Có cái gì mà không thể nói ra được chứ? Địch Thanh nói Mã công tử không biết tốt xấu, dám tranh đoạt nữ nhân với y, bảo Mã công tử mau mau cút đi, nếu không thì thấy hắn một lần đánh một lần.
Văn Thành nói:
– Mã công tử lúc ấy rất mất hứng, nhưng dẫu sao cũng là người khiêm tốn, đành nhẫn nhịn. Không nghĩ tới Địch Thanh cho rằng Mã công tử yếu đuối nên cứ lấn tới, hắn bắt đầu nhục mạ … nói … haiz, cái này có quan hệ với Thái hậu, tại hạ không dám nói.
Dứt lời, hắn lắc đầu liên tục, vô cùng đau đớn. Hắn dù chưa nói, nhưng hậu quả so với nói còn muốn nghiêm trọng hơn.
Địch Thanh càng nghe càng kinh, một cổ lửa giận từ đáy lòng bốc lên, quát:
– Ta và các ngươi không cừu không oán, các ngươi vì sao phải vu oan cho ta?
Hai mắt hắn trợn lên, trán nổi gân xanh.
Cổ Thận Hành lui về phía sau một bước, chỉ vào Địch Thanh nói:
– Khi đó, tính khí của hắn tàn bạo như thế đấy, liên tục hò hét. Mã công tử thấy hắn nhục mạ Thái hậu, cãi lại với hắn hai câu, ai ngờ hắn đánh thẳng tay, thực là coi trời bằng vung.
Dương Đắc Ý nói:
– Nhóm tiểu nhân đều không nhịn được, có người đến gần khuyên gã, chẳng ngờ cũng bị gã đấm cho mấy đấm.
Dứt lời chỉ một ngón tay vào khóe mắt bầm tím nói:
– Chỗ này là do hắn đánh.
Địch Thanh cắn chặt răng, thân thể khẽ run, đã biết mục đích của những người này chỉ có một, đó là không giết được hắn thề không bỏ qua!
Chu Đại Thường tiếp lời nói:
– Cũng may gia đinh của Mã công tử chạy đến, họ chỉ muốn khuyên Địch Thanh đừng đánh nữa. Ai dè Địch Thanh lại phát điên như chó, cắn xé khắp nơi, trong lúc hoảng loạn, không biết là ai đẩy nhầm một người qua đường. Mã công tử “thương người như thể thương thân” nên vội vàng chạy đến bảo vệ. Người này dường như là tên điên, sau này không còn biết tung tích nữa. Địch Thanh lúc này đã bị chế trụ, Mã công tử nói: ‘Chỉ cần Địch Thanh nhận sai, sẽ bỏ qua tất cả mọi chuyện.’ Không ngờ Địch Thanh lòng người dạ thú, giả vờ nhận sai rồi nhân lúc gia đinh thả hắn ra, xông tới đánh ngã Mã công tử, trong lúc hỗn loạn, xe củi bị lật đổ, Mã công tử bị đè dưới xe.
Gã nói xong cầm góc áo lau khóe mắt, nức nở nói:
– Đáng thương cho Mã công tử có tấm lòng Bồ Tát, số mệnh lại bị như thế. Bọn tiểu nhân nhịn không được, lúc này mới dũng cảm nói ra chân tướng, chỉ cầu Phủ doãn đại nhân cho Mã công tử công đạo!”
Năm người này muôn miệng một lời, y như là trước đó đã diễn luyện qua. Lưu Tòng Đức đứng dậy chắp tay nói:
– Phủ doãn đại nhân, bây giờ chắc hẳn chân tướng đã rõ rồi chứ? Địch Thanh ăn nói lung tung, vọng tưởng lừa dối, không ngờ lưới trời lồng lộng, lưới trời lồng lộng a.
Lưu Tòng Đức vì muốn định tử tội cho Địch Thanh, đặc biệt tìm một hơi tới năm nhân chứng. Hắn mặc dù thấy dân chúng bên ngoài nha môn không ít, nhưng cũng biết tình cảnh lúc ấy hỗn loạn, rất nhiều người không hiểu tình huống, hơn nữa hắn cũng không tin có người dân nào dám ra đây đối nghịch với Lưu gia, làm chứng cho Địch Thanh.
Trình Lâm lại nhìn Bàng Tịch, nói:
– Bàng thôi quan, ông có kết luận gì không?
Bàng Tịch đi vài bước thong thả trước công đường, đột nhiên hỏi:
– Năm người các ngươi trước đây có biết Mã Trung Lập không?
Năm người không ngờ thôi quan lại hỏi như vậy, có hai người gật đầu, ba người lắc đầu, người gật đầu thấy có người lắc đầu liền vội vàng lắc đầu, người lắc đầu thấy có người gật đầu cũng cuống quýt gật đầu, trong lúc nhất thời vô cùng tức cười.
Bàng Tịch buồn rầu nói:
– Rốt cuộc là quen hay là không quen?
Lưu Tòng Đức ho khan một tiếng, nói:
– Đương nhiên là sau khi đến Trúc Ca lâu mới quen.
Hắn nói như vậy, chỉ muốn tăng thêm độ tin cậy của lời chứng. Năm người đều gật đầu nói:
– Lưu đại nhân nói rất đúng, tất nhiên là sau khi đến Trúc Ca lâu mới quen.
Ánh mắt Bàng Tịch đảo qua trên người năm tên này, nghiêm nghị nói:
– Bọn ngươi cũng biết luật ‘Vu cáo phản tọa(12)’ của bổn triều rồi đấy, nghiêm cấm vu cáo, nếu như bị tra ra vu cáo thì sẽ bị nghiêm trị?
Năm người ngơ ngác nhìn nhau, ẩn ước vẻ sợ hãi. Lưu Tòng Đức cười lạnh nói:
– Bàng Tịch, ngươi đang uy hiếp bọn họ sao? Ngươi chẳng lẽ cho rằng mấy người này là do ta tìm đến để vu cáo Địch Thanh sao?”
Bàng Tịch tỏ vẻ kinh ngạc hỏi:
– Lưu Tự Sự vì cớ gì mà nói ra lời này? Hạ quan chỉ cảm thấy trong lời khai của bọn họ có một số chỗ mâu thuẫn, lúc này mới mở miệng nhắc nhở mà thôi. Nếu như bọn họ làm đúng thì hà tất gì phải nhắc nhở chứ?
Lưu Tòng Đức mặt đỏ tới mang tai, biết Bàng Tịch đang thầm mỉa mai mình. Hắn hừ lạnh nói:
– Vậy phải nghe cao luận của Bàng thôi quan rồi.
Mặt Bàng Tịch vẫn đầy ưu sầu nói:
– Chu Đại Thường, theo như lời Địch Thanh và Trương Diệu Ca nói, là ngươi và Dương Đắc Ý rời đi trước, sau đó Mã công tử và bọn Đông Lai Thuận mới rời đi, sau cùng lại qua khoảng gần nửa canh giờ, ba người Địch Thanh mới rời khỏi Trúc Ca lâu?
Chu Đại Thường nhịn không được nhìn về phía Lưu Tòng Đức, không biết trả lời thế nào. Lưu Tòng Đức có chút bất mãn nói:
– Cứ theo sự thật mà nói, chẳng lẽ còn có người có thể đổi trắng thay đen sao?
Chu Đại Thường lập tức nói:
– Bàng đại nhân nói không sai.
Bàng Tịch mỉm cười hỏi:
– Ngươi và Dương Đắc Ý, còn có mấy người Đông Lai Thuận sau khi đến Trúc Ca lâu mới kết bạn với Mã công tử?
Chu Đại Thường nói:
– Không sai.
– Vậy các ngươi vì cái gì mà trong gần một canh giờ vẫn còn quanh quẩn ở phụ cận Trúc Ca lâu, rề rà không đi? Mã công tử là vì muốn giảng chút đạo lý với Địch Thanh nên mới không rời đi. Còn ngươi và Dương Đắc Ý là vì cái gì chứ? Các ngươi bị Mã công tử trách mắng, nên ở phụ cận Trúc Ca lâu không chịu rời đi là vì lòng sinh bất mãn, muốn trả thù Mã công tử sao?
Chu Đại Thường toát mồ hôi hột đầy trán, vội hỏi:
– Sao có thể như vậy? Hại Mã công tử là Địch Thanh, chứ không phải bọn tiểu nhân.
– Vậy các ngươi ở phụ cận Trúc Ca lâu để làm gì?
Bàng Tịch truy hỏi.
Chu Đại Thường không biết làm sao, Lưu Tòng Đức nháy nháy đôi mắt tam giác, nói:
– Bọn họ chắc là hối hận vì lời nói và việc làm của mình ở Trúc Ca lâu, lúc này mới muốn tìm Mã Trung Lập tạ lỗi. Mã Trung Lập là người thích kết bạn, thấy bọn họ thành tâm sửa đổi nên kết giao với cùng bọn họ, mấy người này vừa gặp như đã quen lâu, ở quán trà bên cạnh Trúc Ca lâu uống trà, uống gần nửa canh giờ, cũng không có vấn đề gì a?
Lưu Tòng Đức dù sao vẫn có chút nhanh trí, giải thích một phen, cơ hồ ngay cả mình cũng tin.
Bàng Tịch trầm ngâm nói:
– Vậy bạn bè rốt cuộc đến mức nào, là bạn nhậu hay là bạn bè tri tâm?
Dương Đắc Ý nói tiếp:
– Đương nhiên là bạn bè tri tâm, chúng tiểu nhân cảm thấy sự nhân nghĩa của Mã công tử, hiềm khích lúc trước hóa không, trở thành tri kỷ. Không ngờ Địch Thanh phát rồ, thậm chí ngay cả người như Mã công tử cũng hại, thật sự là tội ác tày trời.
Ba người còn lại đều gật gù, vội vàng nói:
– Đúng thế, đúng thế.
Bàng Tịch nói với Trình Lâm:
– Phủ doãn đại nhân, nếu như bọn họ đúng là bạn bè tri tâm, vậy lúc chọn lời chứng, cần phải xét lại, để ngừa bọn họ bị tình cảm bạn bè lấn át mà làm ra lời chứng bất lợi cho hung phạm.
Lưu Tòng Đức giận tím mặt nói:
– Bàng Tịch, ngươi rốt cuộc có ý gì? Chẳng nhẽ chứng minh bọn họ kết bạn với Mã Trung Lập chỉ nhằm làm cho lời chứng vô hiệu? Loại Thôi quan như ngươi, bổn quan dù có đến chỗ Thiên tử Thái hậu, cũng tuyệt đối không nhân nhượng!
Trình Lâm nhíu mày, nói:
– Bàng Thôi quan, những người này trước đây không biết nhau, về sau vừa quen đã thân nên mới kết bạn. Mà vụ án phát sinh chỉ là chuyện sau đó, những người này đứng ra làm chứng, cũng không có gì không ổn.
Bàng Tịch gật đầu nói:
– Phủ doãn đại nhân nói rất đúng. Vậy giờ hạ quan kể đầu đuôi câu chuyện lại một lần. Mấy người Chu Đại Thườn
Chương 9 : Thái Hậu.
Lưu Tòng Đức nghe thấy chướng tai sao sao ấy, nhưng trong lúc nhất thời không hiểu ý nghĩ của Bàng Tịch, đành phải trầm mặc. Ba người Đông Lai Thuận thấy Lưu Tòng Đức trầm mặc thì cho rằng hắn đã ngầm đồng ý nên gật đầu liên tục, nói:
– Mặc dù Bàng đại nhân không có mặt ở nơi đó, nhưng phân tích lại như nhìn thấy tận mắt, tiểu nhân bội phục.
Bàng Tịch nói tiếp:
– Sau khi Mã công tử kết bạn với năm người các ngươi, thấy ba người Địch Thanh xuống lầu, Mã công tử rất có khí phách, muốn giao hảo với Địch Thanh nên tiến tới bắt chuyện. Không ngờ Địch Thanh phát điên đánh Mã công tử tơi tả. Chuyện xảy ra sau đó, các ngươi đã nói rất rõ ràng, vì thế không cần ta nói nhiều nữa.
Mọi người sau khi nghe lời phân tích của Bàng Tịch, đều cảm thấy hành vi của vị Mã công tử này thật quái gở, còn có nha dịch cố nín cười. Bọn người Chu Đại Thường đành phải kiên trì đến cùng đáp:
– Đúng là như thế.
Bàng Tịch nhìn Lưu Tòng Đức hỏi:
– Lưu đại nhân, suy luận lần này của hạ quan, không biết ông còn có nghi vấn gì không?
Lưu Tòng Đức rất đau đầu, cảm thấy những lời vừa rồi của Bàng Tịch đúng là suy nghĩ cho bọn họ, đành nói:
– Lần này ngươi nói không sai. Ta không có vấn đề.
Mặt Bàng Tịch càng sa sầm, bắt bẻ nói:
– Lưu đại nhân không có vấn đề, nhưng hạ quan lại có vấn đề.
Lưu Tòng Đức thầm giật mình, thấy Bàng Tịch cầm mấy cuốn sổ sách từ trên bàn lên, không khỏi nghi hoặc khó hiểu. Bàng Tịch thản nhiên nói:
– Đây là ghi chép mấy ngày nay mà hạ quan nhận được từ Thái Bạch Cư, Hỉ Lai Nhạc và Hội Tiên Lâu…
Trình Lâm cau mày hỏi:
– Hành động này của Bàng thôi quan có ý gì?
Bàng Tịch nói:
– Mã công tử quả nhiên hiếu khách, đều để lại dấu chân ở mấy tửu lâu này, dĩ nhiên tất cả là được người khác mời.
Vừa nói hai mắt vừa lướt qua mặt của bọn người Chu Đại Thường, thấy sắc mặt những kẻ này đã tái cả lại. Bàng Tịch chậm rãi nói:
– Mà người mời, chính là mấy người trước mặt: Chu Đại Thường, Dương Đắc Ý, Đông Lai Thuận. Căn cứ vào ghi chép, Mã công tử vốn quan hệ rất thân với mấy người Chu Đại Thường. Nếu có người không tin, ông chủ tửu lâu đang đợi triệu ở hậu đường, không ngại kêu lên mà hỏi.
Chu Đại Thường tuôn mồ hôi đầm đìa, cười lớn nói:
– Chúng tôi…tin.
Sắc mặt Bàng Tịch trầm xuống:
– Bây giờ mới tin, e rằng đã muộn?
Tiếp đó, y bước đến dâng sổ sách lên trước án của Trình Lâm. Bàng Tịch xoay người đối mặt với bọn người Chu Đại Thường, mặt ủ mày chau nói:
– Vừa rồi ta hỏi đi hỏi lại nhiều lần, các ngươi đều nói chưa từng quen biết và giao thiệp với Mã công tử, nhưng sự thật nói rõ, các ngươi và Mã Trung Lập đã sớm là bạn bè. Các ngươi cố ý giấu giếm việc này là vì cớ gì?
Bọn người Chu Đại Thường hoảng hốt lo sợ. Bàng Tịch xoay người kiến nghị với Trình Lâm:
– Phủ doãn đại nhân, trải qua sự tra hỏi của hạ quan, ngay câu đầu tiên mà mấy người Chu Đại Thường đã nói sai, lời chứng về sau của chúng thật khó mà khiến cho người ta tin được nữa. Kính xin Phủ doãn đại nhân tra rõ toan tính của năm kẻ này. Nếu thật sự có hành vi vu cáo, kính xin đại nhân nghiêm trị, lấy làm răn đe!
Giờ phút này, tuy mặt Bàng Tịch vẫn đầy ưu sầu, nhưng sắc mặt đã nhuộm lên phần chính khí, vô cùng nghiêm nghị.
Mặc dù Lưu Tòng Đức không xem Phủ doãn Khai Phong ra cái gì, nhưng đó là nhờ ỷ vào quyền thế của Thái Hậu. Còn nếu luận về tài khôn khéo thì còn thua kém Bàng Tịch nhiều lắm. Lưu Tòng Đức có nhân chứng, Bàng Tịch đã sớm biết được. Bàng Tịch muốn từ trong dân chúng tìm được năm người chịu thẩm vấn trước công đường, không dễ chút nào, mà dù cho có tìm được đi chăng nữa cũng khó mà phân biệt thật giả. Dân chúng rất sợ sa vào trong tranh luận kéo dài, e rằng đến cuối cùng còn có thể ầm ĩ đến mức không thể vãn hồi.
Bàng Tịch muốn tốc chiến tốc thắng, vì thế trước thả sau bắt, sau đó giải quyết tận gốc, trực tiếp đưa năm nhân chứng của Lưu Tòng Đức vào chỗ vạn kiếp bất phục. Y dùng thủ đoạn trực tiếp như thế là muốn cảnh cáo Lưu Tòng Đức, phủ Khai Phong không phải là nơi mà tên hoàng thân ngoại thích như gã có thể một tay che trời.
Trình Lâm nhìn sổ sách trước mặt, lật cũng không thèm lật, trầm giọng hỏi:
– Chu Đại Thường, Bàng thôi quan nói có đúng không?
Hai chân Chu Đại Thường run rẩy, quay qua nhìn Lưu Tòng Đức, Bàng Tịch thở dài nói:
– Chu Đại Thường, ngươi đừng có lúc nào cũng nhìn về phía Lưu đại nhân. Người không biết còn tưởng rằng ngươi bị ông ấy sai khiến đó, vậy chẳng phải sẽ làm vấy bẩn danh dự của Lưu đại nhân sao?
Tuy Lưu Tòng Đức có chút nhanh trí, nhưng lúc này cũng rối loạn cả lên. Hắn vội quát:
– Bàng Tịch, ta không liên quan gì tới bọn chúng, ngươi đừng ngậm máu phun người!
Bàng Tịch lập tức nói:
– Nếu Lưu đại nhân đã nói không có quan hệ gì tới bọn ngươi, vậy bọn ngươi rốt cuộc bị ai xúi giục, còn không mau thành thật khai ra!
Bọn Chu Đại Thường hoàn toàn sụp đổ. Bọn chúng được Lưu Tòng Đức dặn dò đến đây vu cáo Địch Thanh, nhưng giờ Lưu Tòng Đức lại quay lưng vứt bỏ bọn họ, vậy bọn họ còn biết dựa vào ai đây?
Bàng Tịch tranh thủ rèn sắt khi còn nóng, nói tiếp:
– Chẳng lẽ các ngươi tức tối vì Địch Thanh được Trương Diệu Ca giữ lại nên thừa dịp này hãm hại hắn? Nếu như các ngươi chủ động nhận tội, niệm tình các ngươi vi phạm lần đầu, không chừng Phủ doãn đại nhân sẽ xử nhẹ cho.
Mặt Dương Đắc Ý như đưa đám:
– Phủ doãn đại nhân, chúng tiểu nhân sai rồi….
Lời hắn còn chưa dứt, ngoài nha môn chợt có nha lại xướng lên:
– La đại nhân, Mã đại nhân đến…
Lưu Tòng Đức bỗng đứng bật dậy như có lò xo gắn vào mông, vui mừng nói:
– Mau mời.
Lòng hắn rối như tơ vò, vào lúc này cứ tưởng nơi đây là phủ đệ của gã. Trình Lâm bất mãn, song vẫn bảo trì vẻ ổn trọng, nói:
– Mời vào phủ nha.
Trình Lâm vốn định đứng dậy nghênh đón, nhưng thấy Bàng Tịch nhìn mình, trong mắt muôn vàn hàm ý, mặt liền đỏ lên, lập tức ngồi xuống.
Ngoài nha có hai người đi vào. Một người phong lưu phóng khoáng, nhưng mặt có vẻ giận dữ. Người còn lại mặt trắng không râu, vẻ mặt kiêu căng.
Trình Lâm nhận ra người phong lưu phóng khoáng chính là Mã Quý Lương, phụ thân của Mã Trung Lập, cũng chính là cháu rể Thái Hậu, hiện giờ giữ chức Đãi chế của Long Đồ các. Còn người có vẻ mặt kiêu căng kia chính là đệ nhất đại thái giám đương triều, Cung Phụng – La Sùng Huân.
Trình Lâm biết Mã Quý Lương và La Sùng Huân đều là tâm phúc của Thái Hậu, vốn định tỏ vẻ thân mật, nhưng dù sao đệ nhất đại thái giám đương triều, quyền vị cũng không bằng Phủ doãn Khai Phong, nếu như hắn nịnh nọt quá mức thì sẽ làm cho thuộc hạ xem thường, vì vậy chỉ ngồi yên một chỗ chắp tay nói:
– Hai vị đại nhân đến đây, không biết có chuyện gì?
La Sùng Huân cất giọng the thé nói:
– Chúng ta nghe nói nơi này thẩm án, nên tới đây nghe thử để tránh có người ăn đút lót trái với luật pháp, phán sai bản án. Trình đại nhân, án này rốt cuộc như thế nào rồi?
Trình Lâm cười lớn nói:
– Đang thẩm tra, La Cung Phụng nếu như có hứng thú, có thể ở một bên nghe xem. Người đâu! Lấy ghế.
Nha lại đã chuẩn bị xong hai cái ghế dựa, La Sùng Huân đỉnh đạc ngồi xuống. Lưu Tòng Đức ở bên cạnh thì thầm kể lại hết thảy mọi việc cho Mã Quý Lương. Mã Quý Lương thấy Địch Thanh, hận không thể bóp chết hắn, nghe vậy lại càng tức giận, cất tiếng:
– Trình đại nhân, ta cảm thấy việc thẩm tra bản án này thật sự có vấn đề. Dù nói thế nào đi chăng nữa cũng là con ta bị thương nặng, vậy mà lại có người chẳng phân biệt được trắng đen, không ngờ đặt toàn bộ tinh lực trên người không liên quan. Quả thực khiến bổn quan rất thất vọng.
Trình Lâm giải thích:
– Lời này của Mã đại nhân sai rồi. Đã có nhân chứng thì phải thẩm tra phân biệt rõ ràng. Như vậy mới không phụ sự coi trọng của Thánh Thượng và sự tin cậy của Thái Hậu. Hơn nữa, gương sáng trong trời đất, pháp lý phải sáng tỏ, hết thảy cần dựa theo luật mà làm. Mấy người Chu Đại Thường đứng ra tố giác Địch Thanh, bổn quan theo luật dò hỏi, Bàng thôi quan giúp đỡ suy đoán, sao có thể nói đặt toàn bộ tinh lực trên người không liên quan được?
La Sùng Huân lên tiếng bác bỏ:
– Phủ doãn đại nhân, nhưng ta cảm thấy Đãi chế nói không sai, chuyện trước mắt đúng là như vậy. Địch Thanh đánh người, hơn nữa Mã Trung Lập có thể nằm liệt cả đời. Hung đồ như vậy, nếu không nghiêm trị mới không xứng với sự coi trọng của Thái Hậu! Ngươi nên mau mau định tội cho Địch Thanh đi.
Hai người La, Mã vừa đến, lập tức tiến hành đánh võ mồm. Mục đích rõ ràng là muốn tạo áp lực cho Trình Lâm. Không ngờ Trình Lâm lại im lặng, Bàng Tịch ở một bên cất tiếng trả lời:
– Chuyện của phủ Khai Phong đã có người của phủ Khai Phong xử lý, La đại nhân sai khiến như thế, không hợp với luật.
La Sùng Huân vốn là đệ nhất Thị thần(1) nội cung, được Thái Hậu coi trọng. Những năm gần đây, dù là trọng thần của Lưỡng Phủ cũng đều khách khí đối với hắn, dần dần dưỡng thành thói ngang tàng. Thấy một tên Thôi quan của phủ Khai Phong lại dám phản bác hắn, không khỏi giận dữ nói:
– Bàng Tịch, sao ngươi dám vô lễ với ta như thế?
(1) Thị thần: cận thần bên cạnh Hoàng thượng.
Bàng Tịch bình tĩnh nói:
– Hạ quan chỉ phối hợp cùng làm việc công, theo luật xử án, không thẹn với lương tâm, có gì mà ‘dám hay không dám’ chứ? Gia pháp của tổ tông bản triều có dạy, ‘Ngoại thích không được tham gia chính sự, hoạn quan không được nắm quyền’. Trước mắt đang thẩm vấn đại án sống chết, hai vị đại nhân theo lệ cần phải tránh đi, không được làm phiền phủ Khai Phong xử án. Trình đại nhân coi trọng hai vị đại nhân nên mới bố trí chỗ ngồi mời hai vị đại nhân dự thính. Nhưng dự thính thì được, còn nếu thao túng việc phủ Khai Phong xử án, chẳng phải làm hỏng gia pháp của tổ tông hay sao? Nếu La đại nhân không hài lòng chỗ nào đó, có thể cùng hạ quan vào nội cung hỏi ý kiến của Thánh Thượng và Thái Hậu, rồi sau đó hãy quyết định hạ quan đúng hay là sai.
Khuôn mặt trắng nõn của La Sùng Huân sung huyết đỏ như trái cà chua. Hắn căm hận nói:
– Giỏi, giỏi, giỏi lắm!
Mặt Bàng Tịch lại hiện lên vẻ u sầu, nói:
– Nếu La đại nhân không có ý kiến, hạ quan cảm thấy Trình đại nhân tiếp tục thẩm án được rồi.
Trong lòng Trình Lâm có chút xấu hổ, nhưng đối với khí tiết không sợ quyền uy của Bàng Tịch lại có mấy phần kính nể. Hắn liền vỗ kinh đường mộc nói:
– Chu Đại Thường, Dương Đắc Ý, Văn Thành, Đông Lai Thuận, Cổ Thận Hành, tại sao năm người các ngươi vu oan cho Địch Thanh? Còn không mau thành thật trả lời!
Bọn Chu Đại Thường thấy La Sùng Huân đến đây mà cũng không bảo vệ được bọn chúng, mồ hôi tuôn ra như mưa. Vẻ mặt Chu Đại Thường như đưa đám đáp:
– Trình phủ doãn, chúng tôi bất mãn Địch Thanh nổi trội hơn chúng tôi, nên mới vu cáo hãm hại hắn. Còn tình hình lúc đó rốt cuộc như thế nào, chúng tôi cũng không biết rõ.
Trình Lâm hừ lạnh một tiếng,
– Năm người Chu, Dương vu hãm người khác, làm loạn bản án, phạt mỗi người tám mươi trượng. Đem ra ngoài xử trí.
Bọn Chu Đại Thường thấy Lưu Tòng Đức mặt trầm như nước, mặc dù oan uổng nhưng cũng không dám nói ra, thầm nghĩ ráng chịu tám mươi trượng, tránh khỏi tai họa cũng coi như may mắn lắm rồi. Cả đám ủ rũ cúi đầu bị áp giải ra trước công đường, ngay tại đó chịu phạt. Dân chúng đứng xem ngoài nha môn không khỏi hò reo khoái chí.
La Sùng Huân nghe tiếng hèo ‘bôm bốp’ vang lên không dứt, giống như bị tát vào mặt. Hắn thầm nghĩ, Bàng Tịch, Trình Lâm các ngươi đừng vội đắc ý, sau này đừng để cho ta nắm được sơ hở, bằng không, ta nhất định khiến các ngươi sống không bằng chết. Tào Lợi Dụng là Xu Mật sứ, quyền to hơn các ngươi không biết bao nhiêu lần, còn không tránh được bị chúng ta giết chết. Vừa nghĩ đến đây, La Sùng Huân nở nụ cười nham hiểm.
Đợi bọn người Chu Đại Thường được giải xuống, Mã Quý Lương bất mãn nói:
– Phủ doãn đại nhân, tuy hiện giờ nói bọn người Chu Đại Thường sai, nhưng không thể miễn trừ tội ác của Địch Thanh. Bổn quan vẫn hi vọng Phủ doãn đại nhân đặt tinh lực vào người Địch Thanh. Tất nhiên, đây chỉ là hi vọng, cụ thể làm như thế nào, bổn quan không dám sai khiến.
Hắn thấy cái mặt khó ưa của Bàng Tịch, trong lòng thầm hận, nhưng chọn từ cũng thận trọng hơn nhiều.
Trình Lâm nói:
– Nếu đúng như lời Địch Thanh và Trương Diệu Ca nói, Địch Thanh ra tay đánh người cũng là bất đắc dĩ…
Lưu Tòng Đức căm giận nói:
– Chỉ một câu bất đắc dĩ là có thể đánh người sao? Địch Thanh chỉ là tặc quân, Trương Diệu Ca là một ả ca kỹ, lời của hai tên này sao có thể tính chứ?
Bàng Tịch liền phản bác:
– Mong Tự Sự đại nhân thận trọng trong lời nói một chút. Ông nghĩ xem, cấm quân trong thiên hạ tám mươi vạn người, ông một câu ‘tặc quân’ liền đóng băng tâm ý của tướng sĩ cấm quân trong cả nước. Còn Trương Diệu Ca, tuy là ca kỹ nhưng luật lệ bản triều có quy định ca kỹ không được làm chứng sao?
Lưu Tòng Đức suýt chút nữa bị Bàng Tịch làm cho giận điên lên, Mã Quý Lương cắn răng nói:
– Bàng Tịch, theo bổn quan biết, Trương Diệu Ca cũng không biết tình hình bên ngoài Trúc Ca lâu lúc đó. Địch Thanh dẫu sao cũng là người hành hung cho nên lời hắn nói không thể cho là đúng. Nếu muốn làm rõ đúng sai khi đó, phải có người khác làm chứng. Nếu như phủ Khai Phong không có ai đứng ra làm chứng, chúng ta có thể cung cấp nhân chứng thêm lần nữa.
Bàng Tịch do dự trong lòng. Vì tình cảnh lúc đó hỗn loạn, hắn đã tìm rất nhiều người nhưng những người đó cũng khó mà kể lại hoàn chỉnh tình hình lúc đó được. Còn nhân vật mấu chốt là Thượng Thánh và người trung niên mập trắng kia lại biến mất không thấy tăm hơi. Bàng Tịch không sợ La Sùng Huân, nhưng nếu ở phương diện nhân chứng xuất hiện sai sót, bị đám người La Sùng Huân nắm thóp, e rằng sẽ bị chết thảm không toàn thây. Vì thế ở phương diện này, hắn chưa tìm được người nào thích hợp đứng ra làm chứng cả.
Khi Bàng Tịch còn đang chìm trong đắn đo thì Trình Lâm nói:
– Phủ Khai Phong đúng là vẫn chưa tìm được nhân chứng mấu chốt…
Mã Quý Lương lập tức nói:
– Vậy thì chúng ta có thể cung cấp mấy người. Khi đó có không ít gia đinh Mã phủ, đủ để làm chứng chuyện đã phát sinh.
Bàng Tịch âm thầm cười lạnh, nghĩ thầm nếu đám người các ngươi cung cấp nhân chứng, không ngoài khả năng sẽ diễn lại vở kịch của bọn Chu Đại Thường. Cứ như vậy diễn tới diễn lui thì khi nào mới kết thúc được. Nhưng lần này hắn không còn cách nào từ chối, đang lúc khó xử thì ngoài nha môn đột nhiên có người lên tiếng:
– Ai bảo phủ Khai Phong không có người làm chứng?
Mọi người đều biến sắc, không biết lúc này tên nào có lá gan lớn đến như vậy, lại dám đứng ra làm chứng cho Địch Thanh?
Lời còn chưa dứt, ngoài nha môn có hai người không đợi cho phép mà xông thẳng vào!
Trình Lâm nhíu mày, thầm nghĩ ai có lá gan lớn như vậy, dám coi phủ Khai Phong như cửa thành, tùy ý ra vào! Cho dù là La Sùng Huân đến phủ Khai Phong thì cũng không dám hung hăng càn quấy đến thế!
Trình Lâm đang cau mày, nhưng ngẩng đầu nhìn thấy hai người vừa vào cửa, bỗng nhiên đứng dậy, vội vội vàng vàng bước nhanh từ sau án ra nghênh đón. Hắn thi lễ thật sâu với một người trong đó nói:
– Bát Vương gia đến đây, hạ quan không kịp tiếp đón từ xa, mong người thứ tội.
Mới vừa rồi Trình Lâm đa lễ với La Sùng Huân, Bàng Tịch cảm thấy hơi bất mãn, nhưng khi nhìn thấy người này thì cũng phải bước theo sau Trình Lâm thi lễ. Không chỉ Trình Lâm, Bàng Tịch cung kính làm lễ, ngay cả bọn La Sùng Huân khi thấy người đó đến, cũng đành phải đứng dậy thi lễ, không dám thiếu lễ nghĩa.
Tất cả mọi người rất kỳ quái, Bát Vương gia đến nơi này làm gì? Y giống như muốn can dự vào bản án của Địch Thanh. Địch Thanh có quan hệ với Bát Vương gia từ khi nào?
Địch Thanh cũng cảm thấy kỳ quái, bèn liếc nhìn người mà Trình Lâm bái kiến, đó là một người ăn mặc sạch sẽ. Người này thật sự quá sạch sẽ, quần áo ngay ngắn giống như được đánh qua sáp. Móng tay y được cắt tỉa chỉnh chu đều đặn, tóc cực kỳ bóng mượt, chỉ sợ con ruồi đậu vào cũng phải trượt xuống té chết. Một người sạch sẽ như vậy, khiến người đứng trước mặt y đều bị ảnh hưởng mà muốn đi soi gương xem mặt mình rửa sạch chưa.
Địch Thanh biết Bát Vương gia tên là Triệu Nguyên Nghiễm, cũng chính là Bát hoàng thúc của đương kim Thánh Thượng, nhưng lại chưa bao giờ nghĩ tới Bát Vương gia là một người như vậy. Địch Thanh ít nhiều cũng biết chút chuyện về Bát Vương gia. Y chính là con thứ tám của Thái Tông. Thời Thái Tông tại vị, y đã được phong làm Chu vương. Sau khi Chân Tông – Triệu Hằng lên ngôi, lại phong thêm cho Triệu Nguyên Nghiễm làm Tào quốc công, bái Tể tướng, giao giám sát Thái Bảo(2), tiến tước Vinh vương, phong quang vô cùng, nhất thời không ai bằng y.
(2) Thái Bảo: chức quan thấp nhất trong hàng tam công: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo
Về sau Triệu Trinh lên ngôi, Thái Hậu chấp chính, Triệu Nguyên Nghiễm thân là nguyên lão tam triều, tuy rằng tuổi tác chỉ mới bốn mươi, nhưng vì địa vị cực cao, lại được Thánh Thượng bái làm Thái Úy(3), Thượng thư lệnh(4) kiêm Trung thư lệnh(5). Trong triều, ngoại trừ Thái Hậu và Hoàng đế ra, nếu nói thân phận chí tôn, không ai có thể vượt qua Triệu Nguyên Nghiễm. Cho dù là người uy danh hiển hách trong Lưỡng Phủ, Tam Nha, Tam Quán(6), Tam Ban, nhưng nếu so về độ sùng bái, cũng khó mà đuổi kịp cái bóng của Triệu Nguyên Nghiễm.
(3) Thái Uý: chức quan thời xưa, quản lý về quân sự.
Song, người như vậy đến phủ Khai Phong làm gì chứ? Không ai hiểu được, chỉ thấy vị trí cao nhất vốn là của La Sùng Huân, đã sớm có người bố trí lại ghế để mời Triệu Nguyên Nghiễm ngồi xuống, dâng lên trà thơm. La Sùng Huân mặc dù không muốn nhưng cũng phải đổi chỗ, trong mắt lộ ra vẻ ghen ghét.
Sau một hồi bận rộn, phủ nha cuối cùng yên tĩnh trở lại. Trình Lâm trông thấy Địch Thanh đang quỳ mới nhớ ra mình còn phải thẩm án. Đành phải cười xòa nói:
– Không biết Bát Vương gia giá lâm, có gì căn dặn?
Bát Vương gia không nói, chỉ nhìn chăm chú vào đôi tay mình, bàn tay này thanh tú sạch sẽ, ngón tay thon dài. Cổ họng Trình Lâm hơi ngứa nhưng không dám ho, đành phải nhìn về phía người đứng bên cạnh Bát Vương gia. Người này tóc trắng như cước, lưng còng, nếp nhăn trên mặt có thể làm tấm chà quần áo, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể chuẩn bị tẩy sạch cho Bát Vương gia.
Tự dưng có suy nghĩ này, Trình Lâm muốn cười nhưng lại không dám, mặt càng thêm cung kính hỏi:
– Triệu quản gia, không biết Bát Vương gia tới đây, có chuyện gì không?
Trình Lâm biết lão nhân này họ Triệu, khi Bát Vương gia vừa sinh ra thì lão nhân đã là quản gia của Vương phủ. Trình Lâm là người cẩn trọng nên không muốn đắc tội với bất cứ ai.
Triệu quản gia ho khan vài tiếng, cất giọng khàn khàn nói:
– Vương gia mấy ngày nay không thoải mái.
Trình Lâm không hiểu cho lắm, Bàng Tịch thì yên lặng theo dõi diễn biến. Tất cả mọi người đang nghĩ, hóa ra người đã già rồi, nhất định sẽ hồ đồ. Vương gia không thoải mái cũng không đến nỗi tới phủ Khai Phong xem bệnh chứ?
Trình Lâm đành phải nói:
– Vậy Vương gia…cần phải…
Vốn định đề nghị Triệu Nguyên Nghiễm nghỉ ngơi, nhưng lại cảm thấy hai chữ “cần phải” đường đột quá mức, hắn chỉ là Phủ doãn thì có tư cách gì nói với Vương gia những lời này? Trán liền chảy mồ hôi, cho dù là thẩm án Trình Lâm cũng không tốn sức đến thế.
Bàng Tịch ở bên cạnh vội nói:
– Thế không biết có mời thái y hay chưa? Vương gia nếu không thoải mái, cần phải nghỉ ngơi nhiều hơn.
Trình Lâm hùa theo:
– Đúng vậy, đúng vậy.
Triệu quản gia thở dài:
– Trình phủ doãn, ông cũng biết, những năm gần đây, Vương gia bị một loại quái bệnh, lúc thì minh mẫn, lúc thì hồ đồ.
Trình Lâm nhíu mày, chỉ “A” một tiếng. Loại chuyện như vậy, hắn không dám hỏi tiếp. Triệu quản gia mở miệng không cố kỵ, nhưng mỗi một câu nói của mình, Trình Lâm đều phải uốn lưỡi bảy lần trước khi cất tiếng.
Hóa ra Triệu Nguyên Nghiễm đúng là có bệnh, là bệnh điên! Từ lúc Triệu Trinh đăng cơ, rồi Lưu thái hậu buông rèm chấp chính, Triệu Nguyên Nghiễm trở nên có chút không bình thường. Y ủ rủ trong nhà, cả năm hiếm khi ra khỏi Vương phủ. Có lời đồn rằng, Bát Vương gia e sợ Thái Hậu nghi kỵ cho nên không dám ra khỏi cửa. Chẳng bao lâu sau, tính tình của Triệu Nguyên Nghiễm lúc thì cáu kỉnh, lúc thì an tĩnh. Y có thể mới cùng ngươi nói cười vui vẻ, nhưng chớp mắt sau liền gọi gia đinh đánh ngươi tám mươi trượng.
Y là Vương gia, hơn nữa còn giống một nửa tên điên, vì vậy tất cả mọi người đều kính trọng nhưng không dám gần. Trình Lâm cũng không ngoại lệ. Lúc này, trông Bát Vương gia rất an tĩnh, nhưng người hiểu rõ tính khí của Bát Vương gia đều biết rằng điều này có lẽ chỉ là chút bình an trước cơn bão tố.
Vì Địch Thanh đang quỳ nên vừa khéo có thể nhìn thấy gương mặt cúi xuống của Bát Vương gia. Hắn cũng có chút mơ hồ, thậm chí bắt đầu hoài nghi câu nói mới vừa nghe được là ảo giác. Nhưng vào lúc này, Bát Vương gia đột nhiên nháy mắt mấy cái với Địch Thanh, sau đó lại cúi đầu xuống. Địch Thanh nghệch mặt ra, không dám khẳng định đó có phải là Bát Vương gia đang ra hiệu với hắn hay không. Hắn có chút tự giễu, Bát Vương gia thế nào lại đi chào hỏi hắn chứ?
Triệu quản gia trầm mặc một lúc lâu, rồi nói tiếp:
– Lúc Vương gia hồ đồ, thỉnh thoảng sẽ xuất phủ. Nhưng bởi tính cách khiêm tốn nhã nhặn, nên chưa bao giờ gây hấn với người bên ngoài. Thật không nghĩ đến lại có người dám hỗn láo với Vương gia.
Mọi người đều nghĩ, không biết tên nào ăn phải mật báo, dám láo xược với Triệu Nguyên Nghiễm chứ? Nhưng việc đó có quan hệ gì với bản án này nhỉ? Lão già này chạy đến nơi đây phàn nàn, đúng là hồ đồ cực độ rồi! Nếu không phải người nói chuyện là quản gia của Bát Vương gia, chỉ sợ đã sớm bị đánh đuổi ra khỏi Nha môn của phủ Khai Phong.
Trình Lâm cau mày hỏi:
– Ai dám vô lễ với Vương gia?
Triệu quản gia không trả lời câu hỏi của Trình Lâm, tự biên tự diễn nói tiếp:
– Người này chẳng những vô lễ với Vương gia, còn dám kêu người đánh Vương gia. Đầu của Vương gia bị đánh đến nỗi chảy cả máu.
Mọi người đều kinh hãi, Mã Quý Lương bên cạnh cười lạnh nói:
– Xem ra phủ Khai Phong loạn thật rồi. Lại có người dám đánh Vương gia, thật sự coi trời bằng vung? Trước là có tên Địch Thanh gây rối, sau lại có người đánh Vương gia, không coi hoàng thân quốc ra cái gì cả. Trình phủ doãn, ngươi quản lý phủ Khai Phong rất tốt.” Hắn sớm đã bất mãn với Trình Lâm nên ngấm ngầm châm chọc.
Trình Lâm cũng có chút luống cuống, vội hỏi:
– Sau đó thế nào? Có bắt được tên hung đồ kia chưa?
Khuôn mặt già nua của Triệu quản gia giật giật, nói tiếp:
– Chưa, vẫn còn thong dong ở kinh thành. Nếu không phải có người đứng ra cứu Vương gia, e rằng Vương gia bị tên hung hồ đó đánh chết thật rồi.
Mọi người đều lộ ra vẻ mặt không thể tưởng tượng nổi, La Sùng Huân thét to:
– Tốt lắm, phủ Khai Phong không ngờ đã xảy ra chuyện lớn như vậy, Thái Hậu cũng không biết rõ tình hình. Chúng ta nhất định phải báo cho Thái Hậu biết chuyện này.
Hắn bỗng nhiên đứng dậy, nhưng bị Mã Quý Lương kéo lại. Mã Quý Lương thấp giọng nói:
– La đại nhân, cũng nên nghe xem cuối cùng ra sao mới được.
Mã Quý Lương vui sướng khi người khác gặp họa. Lưu Tòng Đức cũng hưng phấn đến nỗi cái mũi hèm rượu đỏ bừng, liếc nhìn Trình Lâm và Bàng Tịch, nói to:
– Triệu quản gia, hung đồ ấy rốt cuộc là ai, nói ra đi, chúng ta giúp ông tìm Thái Hậu làm chủ. Đã có người không quản được chuyện này, vậy thì phải đổi người khác quản lý thôi.
Vẻ mặt Triệu quản gia đầy ưu sầu nói:
– Người cứu Vương gia hiện đang ở phủ Khai phong, nếu không thì ta và Vương gia đến đây làm gì cơ chứ?
Mọi người nghe lão đề cập vào điểm chính, rất đỗi kinh ngạc, nhìn khắp mọi nơi, nhao nhao hỏi:
– Là ai cứu Vương gia?
Triệu quản gia run rẩy đi vài bước, giơ tay lên, đầu ngón tay vẽ ra một đường cong trên không trung, sau đó dừng ở trước chóp mũi của một người:
– Người cứu Vương gia chính là…hắn!
Mọi người thuận theo hướng ngón tay chỉ mà nhìn tới, tròng mắt thiếu chút rớt ra ngoài. Bọn người Mã Quý Lương giống như bị đạp một đạp vào mặt. Người mà Triệu quản gia chỉ không phải ai xa lạ, chính là Địch Thanh, người vẫn đang quỳ gối trước công đường.
Địch Thanh cứu Bát Vương gia? Điều này sao có thể? Địch Thanh cũng ngây ngẩn cả người, suy nghĩ mẻ đầu sứt trán cũng không rõ mình đã cứu Bát Vương gia khi nào?
Tim Mã Quý Lương như bị điện giật, hồi lâu mới nói:
– Triệu quản gia, điều này sao có thể? Chắc ông nhận lầm người rồi?
La Sùng Huân lập tức nói:
– Cho dù không nhận lầm người, Địch Thanh cứu Vương gia là một chuyện, đánh người là chuyện khác, há có thể nhập một mà nói!
Lưu Tòng Đức dụi đôi mắt tam giác nói:
– La đại nhân nói rất đúng!
Mắt Bàng Tịch lóe lên, ở bên cạnh hỏi:
– Triệu quản gia, vậy là ai đánh Bát Vương gia thế? Người này gan to bằng trời, đánh Vương gia chính là tội chết.
Cánh tay Triệu quản gia lại rung rẩy. Mọi người thấy thế, không dám tin người đánh Vương gia cũng đang ở nha môn phủ Khai Phong. Đợi cánh tay ấy dừng lại, mọi người thuận theo hướng ngón tay chỉ mà nhìn tới, liền ngây ngẩn cả người tập hai. Người mà Triệu quản gia chỉ vào, không ngờ lại là người phong lưu tiêu sái – Mã Quý Lương.
Mã Quý Lương vẫn còn trấn tĩnh, thản nhiên nói:
– Triệu quản gia, đây là phủ Khai Phong, không phải muốn nói hàm hồ cái gì cũng được. Không lẽ ý của ông là ta đánh Bát Vương gia sao?
Hắn không có làm, tất nhiên sẽ không sợ.
Triệu quản gia buông cánh tay xuống, chậm rãi nói:
– Không phải ngươi, nhưng người đánh Vương gia lại là con ngươi.
Cơ mặt Mã Quý Lương co giật, thất thanh nói:
– Điều này sao có thể? Khuyển tử dù gan có lớn, cũng nào dám vô lễ với Vương gia?
Triệu quản gia lạnh lùng nói:
– Đúng là hắn không có vô lễ với Vương gia, hắn chỉ muốn đánh chết Vương gia. Ngày đó, Địch Thanh và Mã Trung Lập ở trước Trúc Ca lâu, Vương gia đúng lúc đi ngang qua, bị Mã Trung Lập kéo vào trong ra sức đánh. Nếu không nhờ Địch Thanh, chỉ sợ Vương gia sớm đã chết oan chết uổng rồi.
Tim mọi người đập thình thịch. Mặt Mã Quý Lương như tro tàn, mồ hôi từ trán chảy xuống khóe miệng, cơ mặt giật giật không ngừng:
– Ông nói là… tên điên kia…
Đột nhiên im miệng, mặt lộ vẻ kinh hoảng.
Triệu quản gia rốt cuộc nói:
– Ngươi nói không sai, tên điên mà Mã Trung Lập đánh trên đường, chính là Bát Vương gia!
Nha môn phủ Khai Phong bỗng trở nên yên tĩnh trước nay chưa từng có. Mọi người trợn mắt há hốc mồm, muốn không tin nhưng không thể không tin.
Mã Trung Lập đánh tên điên kia, không ngờ lại là Bát Vương gia?
Địch Thanh đột nhiên ngẩng đầu lên, cũng khó có thể tin. Bên ngoài công đường đã trở thành một vùng ồn ào náo nhiệt. Triệu quản gia nói tiếp:
– Cho nên hôm nay Vương gia là nhân chứng của phủ Khai Phong, cũng là nhân chứng của Địch Thanh! Trình phủ doãn, án kiện đánh Vương gia này, không biết nên xử lý ra sao?
Tim Mã Quý Lương đập dồn dập đến nỗi muốn ngừng cả lại. Không người nào dám nói tiếp. Thật lâu sau, La Sùng Huân thở ra một hơi, nói:
– Triệu quản gia, những điều đó chỉ là lời một phía của ông.
Triệu quản gia phẫn nộ hỏi:
– La đại nhân có ý gì? Chẳng lẽ nói ta bịa đặt vô căn cứ hay sao?
La Sùng Huân thản nhiên nói:
– Triệu quản gia, khi nãy ông vừa nói, Vương gia bị một loại quái bệnh, lúc thì thanh tỉnh, lúc thì hồ đồ. Xin hỏi, khi bị đánh ở trước Trúc Ca lâu, Vương gia là thanh tỉnh hay hồ đồ?
Lời hắn hỏi ẩn chứa thâm ý, Triệu quản gia nếu nói Bát Vương gia thanh tỉnh, điều này tuyệt đối không có khả năng, nhưng muốn nói Bát Vương gia hồ đồ, hắn càng có cớ phản bác. Thử hỏi lời nói của một người hồ đồ, làm sao có thể khiến người ta tin tưởng cho được?
Bàng Tịch nhíu mày, hiểu rõ thâm ý trong đó. Triệu quản gia chưa kịp mở miệng, bỗng có một giọng nói vang lên:
– Ngươi muốn nói ta có bệnh sao?
Giọng nói này cực kỳ uy nghiêm, rất có chừng mực. La Sùng Huân rùng mình, bởi vì người lên tiếng là Bát Vương gia. Bát Vương gia rốt cuộc ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm vào La Sùng Huân, vẻ mặt nghiêm túc.
Người nào cũng cho rằng thần trí của Bát Vương gia không bình thường, nhưng có ai dám nói y có bệnh chứ? La Sùng Huân cũng không dám, đành phải nói:
– Hạ quan chưa bao giờ có ý nghĩ như thế.
– Vậy là ngươi không tin ta bị đánh? Ngươi cho rằng…ta đang nói phét?
Bát Vương gia lại hỏi. Y phát âm rõ ràng, giống như đã khôi phục lại bình thường.
La Sùng Huân ngậm miệng, chỉ có thể lắc lắc đầu. Bát Vương gia thấy La Sùng Huân không đáp, đảo mắt nhìn xung quanh nói:
– Vậy ai cho rằng ta nói phét?
Không ai lên tiếng. Trình Lâm to đẩu ra, bỗng nảy ra ý hay vội la lên:
– Nếu bản án có biến, bản phủ cần phải thẩm đạc lại lần nữa, án này tạm dừng, sẽ xử lý sau, thối đường!
Trình Lâm không có biện pháp thẩm tra tiếp, đành phải thối đường. Một bên là Bát Vương gia, một bên là thân tín của Thái Hậu, bên nào hắn cũng không dám đắc tội. Hắn vốn muốn hi sinh Địch Thanh, nhưng tình thế xoay chuyển một trăm tám mươi độ, Trình Lâm tạm thời không có biện pháp. Trình Lâm nói thối đường, cũng không có ai phản đối. Lúc Triệu quản gia đi, bồi thêm một câu:
– Trên đời này, người tốt ở lao phòng, ác nhân thì tiêu dao a!
Trình Lâm không có cách gì trả lời.
Bọn La Sùng Huân cũng không phản đối thối đường, bọn chúng rất cần mau chóng trở về để thương lượng đối sách. Chúng vốn đinh ninh rằng Địch Thanh không có nhân chứng, nhưng đột nhiên Bát Vương gia lại đứng ra làm nhân chứng, quả thực so với dân chúng toàn thành còn có tác dụng hơn nhiều. Bọn họ đành phải đi tìm Thái Hậu!
Nha môn phủ Khai Phong chẳng mấy chốc yên tĩnh trở lại. Trình Lâm nhíu chặt hai hàng lông mày, chùm râu thưa thớt đã bị y nhổ rơi lả tả, nhưng vẫn nghĩ không ra kế sách song toàn. Y thấy Bàng Tịch vẫn còn ở bên cạnh, nhịn không được hỏi:
– Bàng thôi quan, ông nói xem án này nên xử lý như thế nào?
Bàng Tịch vẫn rầu rĩ ủ ê, trả lời:
– Muốn xử lý án này, chỉ cần bốn chữ là được.
Trình Lâm vui mừng, vội hỏi:
– Bốn chữ đó là?
Bàng Tịch đọc từng chữ:
– Công – bằng – xử – lý!
Trình Lâm ngạc nhiên, thấy trong lời nói của Bàng Tịch có ý châm chọc, liền ngửa mặt lên trời cười haha. Trong lòng thầm nghĩ, ông đứng đó nói, lưng đâu có đau, dù sao đi nữa, án này… Còn đang trầm ngâm thì có cung nhân tiến vào thông báo:
– Trình phủ doãn, Thái Hậu triệu ông vào cung Trường Xuân tiếp kiến.
Trong lòng Trình Lâm giật thót một cái, vội vàng sửa sang lại y quan rồi đi vào hoàng cung. Đến ngoài nơi ở của Thái Hậu là cung Trường Xuân, đứng đợi một lát thì có cung nhân dẫn Trình Lâm đi vào. Bên trong cung Trường Xuân phồn hoa rực rỡ, phục trang đẹp đẽ. Trình Lâm cúi đầu liễm mi, không dám nhìn nhiều. Đi tới trước rèm châu, Trình Lâm quỳ xuống nói:
– Thần tham kiến Thái Hậu.
Rèm châu rũ xuống đất, lấp loáng ánh sáng trắng nhạt làm cho người ta thấy không rõ dung mạo của người ngồi sau bức rèm. Nhưng Trình Lâm biết rõ, người ngồi sau rèm châu chính là đương kim đệ nhất nhân của Đại Tống, mẫu thân của hoàng đế Triệu Trinh, Lưu Nga – Lưu thái hậu!
Năm đó, lúc Chân Tông tại vị thì sùng tín quỷ thần, xây dựng rầm rộ khiến cho dân chúng lầm than, tiếng oán thán khắp nơi. Về cuối đời, Chân Tông ngày càng tệ hơn, một lòng cầu thần, không để ý tới triều chính. Khi đó, Lưu thái hậu đã tiếp quản triều chính, chờ Chân Tông băng hà, Triệu Trinh tuổi còn nhỏ, Lưu thái hậu bắt đầu buông rèm chấp chính. Tuy Lưu thái hậu là nữ giới, nhưng xử lý quốc sự rất chú trọng nguyên tắc, chấn chỉnh triều cương, phục hưng thủy lợi, chỉnh lý quan lại, hoàn thiện khoa cử, hơn nữa còn trục xuất rất nhiều gian thần nịnh bợ trong triều. Từ đó nắm vững triều cương, cực kỳ uy nghiêm.
Trình Lâm có thể lên làm Phủ doãn phủ Khai Phong, cũng là nhờ vào sự tiến cử của Lưu thái hậu. Do đó đối với nữ nhân phía sau rèm châu này, y cực kỳ kính sợ.
Thấy sau rèm vẫn im lặng, Trình Lâm cho rằng Lưu thái hậu giận mình, mồ hôi ứa ra như tắm, lắp bắp nói:
– Thái Hậu, án của Mã Trung Lập… vô cùng rắc rối…
Không đợi Trình Lâm nói xong, Thái Hậu ở phía sau rèm mở miệng nói:
– Ta hôm nay tìm ngươi đến, cũng không phải là hỏi về án Mã Trung Lập.
Thanh âm này rất trầm thấp, nhưng lộ rõ uy nghiêm.
Trình Lâm ngẩn ngơ. Trước khi vào cung, hắn vốn nghĩ rằng Lưu thái hậu muốn hỏi về án của Địch Thanh, nên đã chuẩn bị lí do thoái thác, làm sao nghĩ đến căn bản không phải là chuyện này!
– Vậy không biết Thái Hậu tuyên triệu, có dặn dò gì?
Trình Lâm bèn hỏi.
Phía sau rèm lại yên lặng, rất lâu không có tiếng gì. Đến khi hai chân Trình Lâm quỳ tê dại, Lưu thái hậu mới nói:
– Án tượng phật Di Lặc trong chùa Đại Tướng Quốc bị hủy cách đây không lâu, tra đến đâu rồi?
Trình Lâm khó hiểu, thầm nghĩ tượng phật Di Lặc bị hủy tuy khiến người ta nhức đầu, nhưng Thái Hậu hà cớ gì lại hỏi tới? Đột nhiên nghĩ đến tượng phật Di Lặc vốn là do Thái Hậu sai người xây dựng, hoảng hốt nói:
– Thần đã yêu cầu bọ họ khẩn trương đắp lại thân Phật rồi.
Ở phía sau rèm, Lưu thái hậu hừ lạnh một tiếng, dường như đang tức giận, nói:
– Tượng phật tu sửa hay không có quan trọng gì? Nhưng tên phá hoại thân Phật rốt cuộc có bắt được hay chưa?
Trình Lâm càng thêm không hiểu vì sao Lưu thái hậu đột nhiên xem trọng tới án này, mồ hôi chảy ròng ròng, trả lời:
– Vẫn chưa.
Lưu thái hậu khẽ thở dài:
– Vừa rồi ta nghe người ta nói, ngươi dạo này phá án lề mề, nhưng ta không tin. Hôm nay thấy, mới biết được lời đồn quả không sai.
Trình Lâm biết người nói xấu hắn nhất định là bọn La Sùng Huân, vội nói:
– Thái Hậu, không phải thần làm việc bất lực, mà là tên hung đồ hủy tượng Phật đó hành động không có nguyên tắc, thần như lạc vào sương mù, hơn nữa còn không có đầu mối, không thể nào tra ra. Huống chi thần không biết Thái Hậu quan tâm án này đến thế, sau khi trở về, thần nhất định sẽ phái thêm người đi thăm dò.
Lưu thái hậu chậm rãi nói:
– Ngươi không cần phái thêm người. Tốt nhất ngươi hãy rút toàn bộ người đang điều tra án này về hết đi.
Trình Lâm kinh ngạc hỏi:
– Vì sao thế?
Nếu Thái Hậu quan tâm đến việc này, vì sao không cho người tiếp tục điều tra? Trình Lâm nghĩ bể đầu cũng nghĩ không thông. Phía sau bức rèm lại tĩnh lặng, Trình Lâm không ngừng kêu khổ trong lòng, suy nghĩ mãi không thấu dụng ý của Lưu thái hậu. Lưu thái hậu không phải muốn cách chức quan của mình chứ? Vừa nghĩ đến đây, mồ hôi trên trán lại chảy xuống ròng ròng.
Lưu thái hậu hỏi tiếp:
– Ta nghe nói bộ đầu Khai Phong Diệp Tri Thu làm việc lưu loát, nhiều lần phá đại án. Trình phủ doãn, ngươi đánh giá người này ra sao?
Trình Lâm không dám nói bừa, ậm ờ nói:
– Người này làm việc lưu loát, nhiều lần phá được trọng án.
Hắn nói như chưa nói, nhưng Lưu thái hậu dường như có chút thỏa mãn, trầm giọng hỏi:
– Người này có đáng tin không?
Trình Lâm suy nghĩ hồi lâu mới đáp:
– Diệp gia ba đời đảm đương trách nhiệm bộ đầu Khai Phong, Diệp Tri Thu võ công cao cường, đủ sức đảm nhận chức trách bộ đầu!
Lưu thái hậu trầm ngâm thật lâu:
– Vậy hãy bảo Diệp Tri Thu vào cung, Trình phủ doãn, ngươi lui ra đi.
Trình Lâm lui ra, Diệp Tri Thu lập tức vào cung. Lúc Diệp Tri Thu vào cung, cũng kỳ quái vô cùng, không biết Thái Hậu tìm hắn có chuyện gì. Tuy hắn là danh bộ, nhưng địa vị so với Thái Hậu thật sự kém xa vạn dặm, vốn xưa nay không qua lại, nhưng vì sao Thái Hậu lại muốn gặp hắn?
Phong thái Diệp Tri Thu sắc sảo như kiếm rời vỏ, nhưng khi vào cung thì cố ý thu liễm đi. Thái Hậu ở sau rèm châu trầm mặc một lúc mới nói:
– Diệp Tri Thu, ta biết ba đời nhà ngươi đều nhậm chức tại nha môn phủ Khai Phong ở kinh thành. Năm đó Thái Tổ lập quốc, Biện Kinh nhiễu loạn, tổ phụ Diệp Phóng của ngươi phá ba trăm bảy mươi bảy vụ đại án, giết một trăm sáu mươi ba tên đại tặc, nhất thời uy nhiếp kinh thành, bọn tặc vô lại nghe tên đều run sợ.
Mặt Diệp Tri Thu lộ vẻ cổ quái, trầm giọng đáp:
– Thái Hậu quá khen.
Lưu thái hậu lại nói tiếp:
– Sau này phụ thân ngươi kế thừa nghiệp cha, cũng giống như tổ phụ ngươi, trừ gian diệt ác, trung thành và tận tâm với triều đình. Bây giờ ngươi lại làm bộ đầu. Mấy năm qua, ngươi phá được vô số vụ án, đại tặc cũng bắt được hơn mấy trăm tên. Án ngươi xử lý, chưa từng có oan tình, rất tốt!
Diệp Tri Thu trả lời:
– Thực quân bổng lộc, dữ quân phần ưu(7). Thần không muốn thẹn với chức trách của mình!
(7) Thực quân bổng lộc, dữ quân phần ưu: ăn bổng lộc của vua, phải giúp đỡ cho vua.
Phía sau rèm, Lưu thái hậu gật đầu:
– Nói hay lắm, ngươi có biết hôm nay ta tìm ngươi là vì chuyện gì không?
Diệp Tri Thu lắc đầu nói:
– Thần ngu độn, đoán không ra tâm ý của Thái Hậu.
Lưu thái hậu khẽ thở dài một hơi:
– Vì ta cần một người vừa trung thành tận tâm, vừa có võ công cao cường, bí mật làm giúp ta một chuyện. Ta cảm thấy ngươi phù hợp với yêu cầu của ta.
Lòng Diệp Tri Thu khẽ run, nếu Thái Hậu thận trọng như vậy, chuyện này làm được đến đâu còn chưa tính, chỉ cần nghe được bí mật, e rằng sẽ là mầm họa cả đời.
Lưu thái hậu thấy Diệp Tri Thu trầm mặc, hờ hững nói:
– Ngươi không dám đảm nhận sao?
Diệp Tri Thu xoay chuyển tâm tư, thấy không thể tránh né, cắn răng nói:
– Thần nguyện dốc hết sức lực, không phụ sự ủy thác của Thái Hậu!
Lưu thái hậu hài lòng nói:
– Rất tốt.
Khẽ trầm ngâm, rồi nói:
– Việc tượng phật Di Lặc trong điện Thiên Vương của Đại Tướng Quốc Tự bị hủy, ngươi biết rõ chứ?
Diệp Tri Thu cau mày nói:
– Thần đang phụ trách án này. Nhưng người đó đến đi quỷ dị, căn bản không lưu lại bất kỳ manh mối gì, thần tạm thời vẫn chưa tìm được hung đồ.
Lưu thái hậu đột nhiên hỏi:
– Ngươi cảm thấy hắn có phải là người Thổ Phiên không?
Diệp Tri Thu rùng mình, thất thanh hỏi:
– Thái Hậu vì sao lại đoán như vậy?
Diệp Tri Thu biết Đa Văn Thiên Vương là thuộc hạ của Phật Di Lặc, trước đây Phật Di Lặc nói ngôn ngữ Thổ Phiên, vì thế Diệp Tri Thu mới đi Thổ Phiên tìm kiếm, nhưng mãi vẫn không phát hiện được gì. Diệp Tri Thu không ngờ rằng, Thái Hậu vậy mà cũng hoài nghi tượng phật bị hủy bởi người Thổ Phiên. Thái Hậu vì sao nghĩ như thế? Đa Văn Thiên Vương vì sao muốn hủy tượng phật? Thái Hậu tại sao lại chú ý đến chuyện này? Diệp Tri Thu nghĩ mãi mà không ra, nhưng cũng không dám hỏi nhiều.
Rất lâu sau, Thái Hậu mới nói:
– Ta có cảm giác này.
Diệp Tri Thu cảm thấy Thái Hậu nghĩ một đằng nói một nẻo, nhưng cũng không dám hỏi tiếp, bèn nói tránh đi:
– Thái Hậu muốn thần tận lực tìm tên hung đồ đã phá hỏng tượng phật sao?
Ở phía sau rèm, Thái Hậu lắc lắc đầu nói:
– Không phải! Haiizz, năm đó tiên đế băng hà, có lưu lại chuyện Thiên Thư, chắc ngươi cũng biết.
Diệp Tri Thu nói:
– Thần có biết một ít.
Thật ra thì hắn biết rất nhiều, nhưng không nguyện nhiều lời.
Lúc ấy, Chân Tông sùng đạo, có một ngày nói với quần thần rằng: y nhìn thấy thần tiên hàng lâm ở trong điện. Thần tiên nói với Chân Tông, muốn xây đạo trường tại chánh điện rồi sẽ giáng Thiên Thư cho Chân Tông. Sau đó Chân Tông thật sự xây đạo trường và chờ chực, quả nhiên có Thiên Thư ở phía nam bên trái cửa Thừa Thiên. Điều này làm quần thần chấn động, nhưng phần lớn đều thầm cho rằng, Thiên Thư này là do Chân Tông ngụy tạo, bởi Chân Tông muốn củng cố hoàng uy của mình. Nhưng lúc ấy nào có ai dám nhiều lời?
Kể từ lúc đó, Chân Tông bắt đầu cuồng mê đạo giáo, sùng tín điềm lành, không quan tâm triều chính. Mà các quan lại cũng hùa vào cho là tốt, cả Tống triều tranh nhau tạo nên hình tượng điềm lành, khiến cho không khí thiên hạ ngột ngạt, bách tính khổ không nói nổi.
Sau khi Chân Tông chết, Lưu thái hậu quyết định đem tất cả Thiên Thư, điềm lành đều mai táng theo Triệu Hằng tại lăng Vĩnh Định. Tuy rằng có chút bất kính, nhưng làm cho người trong thiên hạ thở phào nhẹ nhõm. Từ đó về sau, trong triều đều biết Thái Hậu không thích quỷ thần điềm lành, do đó không còn ai dám ở trước mặt Thái Hậu đề cập đến Thiên Thư, điềm lành nữa.
Diệp Tri Thu biết được như vậy, càng thêm khó hiểu vì sao lúc này, Lưu thái hậu lại chủ động đề cập đến chuyện Thiên Thư.
Lưu thái hậu dường như nhận ra vẻ nghi hoặc của Diệp Tri Thu, liền thở dài:
– Vật của tiên đế, đa số được ta chôn tại lăng Vĩnh Định. Nhưng có một vật duy nhất thì ta giữ lại. Sau đó, mỗi lần nhìn thấy vật này, ta lại cảm thấy thương cảm. Vì thế, ta cho đắp nặn tượng phật Di Lặc đặt ở Đại Tướng Quốc Tự và để vật ấy vào bên trong. Mỗi lần bái tế, nhớ đến còn có di vật tiên đế ở đây, cũng cảm thấy an ủi phần nào.
Diệp Tri Thu nhất thời hiểu ra, nói:
– Lẽ nào tên đạo tặc kia biết việc này, do đó mới hủy tượng lấy vật sao?
Lưu thái hậu khen ngợi nói:
– Ngươi quả nhiên thông minh. Tên trộm đó phá hủy tượng phật Di Lặc là vì thèm muốn di vật của tiên đế. Lần này, ta triệu ngươi đến đây là muốn ngươi dốc hết sức tìm ra tung tích của tên trộm. Chuyện này, ngươi tuyệt đối không được để lộ cho người khác biết.
Diệp Tri Thu khó xử nói:
– Thần sẽ dốc hết sức mình. Nhưng vật ấy hình dạng ra sao?
Lưu thái hậu trầm mặc thật lâu, rồi chậm rãi nói:
– Vật này to bằng nắm tay của trẻ nhỏ, hình cầu màu đen, phía trên có khắc hai chữ triện, gọi là Ngũ Long!
Diệp Tri Thu nghi hoặc đầy bụng, thầm nghĩ Ngũ Long rốt cuộc là vật gì? Nếu như quan trọng, vì sao Thái Hậu nhét nó vào tượng? Nhưng nếu không quan trọng, vì sao Thái Hậu lại thận trọng đến thế? Nhưng nếu Thái Hậu không nói, Diệp Tri Thu cũng chỉ có thể truy tìm, không thể hỏi. Hắn kính cẩn nói:
– Thần đã hiểu rõ, cần phải truy bắt tên trộm ấy về quy án, giao Ngũ Long lại cho Thái Hậu.
Lưu thái hậu thản nhiên nói:
– Nhất định phải nghĩ biện pháp thu hồi Ngũ Long. Về phần người nào lấy Ngũ Long, ngươi cứ giết, không cần mang trở về!
Chú thích:
(1) Thị thần: cận thần bên cạnh Hoàng thượng.
(2) Thái Bảo: chức quan thấp nhất trong hàng tam công: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo
(3) Thái Uý: chức quan thời xưa, quản lý về quân sự.
(4) (5) Thượng thư lệnh (尚书令), Trung thư lệnh (中书令):
Trong quan chế lằng nhằng của Trung Quốc, Thượng thư lệnh hoặc Trung thư lệnh có lúc nắm quyền lực rất lớn, có lúc chỉ là hư danh.
Vào thời Tống cả 2 chức này đều chỉ là hư danh, cấp thì trên cả Thái Sư nhưng không có quyền lực cụ thể. Có thể do thân vương làm và kiêm nhiệm việc ban chiếu chỉ. (theo Aficio).
(6) Tam Quán (三馆): gồm có Thống Văn Quán (tức Chiêu Văn Quán, Tu Văn Quán), Tập Hiền Viện, Sử Quán.
(7) Thực quân bổng lộc, dữ quân phần ưu: ăn bổng lộc của vua, phải giúp đỡ cho vua.
Chương 10 : Ninh Minh.
Khi quay trở về phòng giam, Địch Thanh vẫn còn cảm thấy không thể tin được. Chuyện khiến Địch Thanh bất ngờ quá nhiều. Bàng Tịch không ngờ lại nói giúp cho hắn. Tên đại thái giám La Sùng Huân kia rốt cuộc không làm gì được một tên tiểu cấm quân như hắn. Đại lão gia của phủ Khai Phong cũng đau đầu vì hắn.
Mà chuyện khiến Địch Thanh bất ngờ nhất là hắn phẫn nộ với hành vi của Mã Trung Lập. Hắn quay lại đánh gã để cứu người điên, nhưng không ngờ người được cứu lại là Bát Vương gia! Hắn cũng không biết điều này là phúc hay họa nữa, nhưng hắn ít nhiều cũng biết được một điều. Bát Vương gia khá tốt với hắn, ít nhất có thể làm chứng cho hắn.
Một lời nói của Bát Vương gia có tác dụng hơn vạn lời chứng của Chu Đại Thường. Có Bát Vương gia làm chứng thì e rằng ngay cả Mã Quý Lương cũng không dám làm càn. Nhưng vì sao Bát Vương gia lại đứng ra làm chứng cho tên cấm quân quèn này chứ? Y không sợ đắc tội với Thái Hậu sao? Bát Vương gia rốt cuộc có phải bị điên không? Địch Thanh không chắc chắn.
Càng khiến cho Địch Thanh khó hiểu chính là: Trình Lâm chỉ tạm giữ hắn để chờ xử lý, vậy mà lại giam hắn hơn nửa năm.
Trong nửa năm này, phủ Khai Phong vẫn chưa đưa ra kết luận gì về án của Địch Thanh, hắn cũng chỉ có thể ở trong lao mà chờ đợi. Hạ đi thu đến, thu đi đông đến, trong lao ngày nào cũng như ngày nào, nhạt nhẽo vô cùng. May mà Địch Thanh còn có huynh đệ, Trương Ngọc mỗi lần đến đây đều liên tục oán giận, giống như người ngồi tù là gã vậy. Phủ Khai Phong cứ rề rà kéo dài mãi, Trương Ngọc đâu thể có biện pháp gì? Trái lại, Địch Thanh phải an ủi Trương Ngọc, khuyên bảo huynh đệ hãy thoải mái. Rồi một ngày, Quách Quỳ mang quần áo mùa đông đến. Tuy ngoài miệng không nói gì nhưng Địch Thanh cũng hiểu được rằng: mùa đông này, hắn phải tiếp tục sống trong lao ngục rồi.
Khi nào được ra tù, Địch Thanh đã không còn mong mỏi quá mức. Trong lao ngục, lòng hắn tạm thời có sự tĩnh lặng. Cũng may là hắn còn có viên Ngũ Long, sự nhàm chán cũng giảm đi ít nhiều. Trong Ngũ Long này dường như có ẩn chứa một bí mật cực lớn, Địch Thanh xem xét rất nhiều lần mà mãi vẫn chưa tìm ra manh mối. Hồng long cũng không thấy xuất hiện nữa. Dù vậy, Địch Thanh biết đó không phải là ảo giác, nhưng bí mật rốt cuộc ở nơi nào?
Đến một ngày, khi mà Địch Thanh mong mỏi đến tuyệt vọng. Cửa lao chợt vang động, có ngục tốt đi vào nói:
– Địch Thanh, đến phủ nha thôi, có định án rồi.
Địch Thanh rất đỗi kinh ngạc. Hắn đi theo ngục tốt đến nha môn phủ Khai Phong. Dọc đường đi, hắn mới phát hiện tuyết đã phủ khắp kinh thành, bông tuyết tung bay, phủ Khai Phong có phần lạnh lẽo.
Tuyết rơi lả tả ngoài nha môn phủ Khai Phong, cảnh tượng quạnh quẽ thê lương vô cùng, không có dân chúng tụ tập như trước đây. Hiển nhiên, bọn họ cũng giống như Địch Thanh, không biết án này được kết vào lúc nào.
Địch Thanh đến đại đường phủ Khai Phong. Hắn phát hiện chỉ có hai tên nha lại uể oải đứng đấy. Phủ doãn Khai Phong – Trình Lâm ngồi sau công án, râu vẫn thưa thớt như ngày nào. Bàng Tịch đứng ở một bên, mặt vẫn đầy ưu sầu.
Địch Thanh lo sợ trong lòng, hắn đến trước công đường quỳ xuống. Trình Lâm nói:
– Địch Thanh, ngươi chẳng những mạo danh nha dịch làm việc mà còn phá hỏng xe củi của người ta, ngươi có biết tội của mình chưa?
Địch Thanh thầm nghĩ: ‘Sao lôi tới đây rồi? Vì sao không hỏi chuyện Mã Trung Lập?’ Nhưng không thể không đáp:
– Tiểu nhân thật sự có lỗi.
Trình Lâm trầm ngâm, nói:
– Tuy ngươi mạo danh nha dịch Khai Phong, nhưng may là không gây ra hậu quả gì nghiêm trọng. Tuy nhiên, đánh nhau hung hãn thì không thể tha thứ dễ dàng. Án theo lệ, ta phạt ngươi tăng thêm năm năm Ma Khám, sau đó bồi thường tổn thất xe củi một lượng bạc cho ông lão là được ra tù, không biết ngươi có nhận tội không?”
(Ma Khám: thời gian thử thách, để có thể xét thăng quan tiến chức)
Mắt Địch Thanh giật giật, trong lúc nhất thời không biết trả lời ra sao. Phạt năm năm Ma Khám có nghĩa là trong vòng năm năm hắn không được thăng chức. Địch Thanh không bận tâm với chuyện này. Hắn cũng dễ dàng móc ra một lượng bạc để nộp. Nhưng án phạt như vậy thì thật là ‘đơn giản như đang giỡn’! Việc hắn đánh Mã Trung Lập bị thương thì tính thế nào?
Trình Lâm thấy Địch Thanh không trả lời, cau mày hỏi:
– Ngươi không phục án phạt sao?
Địch Thanh ậm ừ hỏi:
– Tiểu nhân nộp tiền phạt là có thể ra tù sao?
Bàng Tịch đứng ở bên cạnh nói:
– Đúng vậy.
Dứt lời, gã trao đổi ánh mắt với Trình Lâm, đều cùng nhìn ra sự bất đắc dĩ và mỏi mệt của đối phương.
Bọn họ rốt cuộc vì sao bất đắc dĩ, chẳng lẽ là vì mình mà mỏi mệt? Địch Thanh không cần nghĩ nhiều, kêu to:
– Tiểu nhân bằng lòng!
Nộp tiền phạt xong, Địch Thanh nhận quần áo trước kia lại. Hắn lặng lẽ bước ra khỏi lao ngục của phủ Khai Phong.
Hắn vào một cách mơ màng, đi ra cũng mông lung không hiểu. Lúc đi vào, cây liễu lả lướt; lúc đi ra, cành trơ trọi lá, tuyết trắng bám đầy. Hơi thở thành sương, mùa đông giá lạnh!
Địch Thanh không nhịn được xoa xoa hai tay, dậm dậm chân. Hắn vừa mới cất bước thì bỗng nhiên dừng lại. Phía trước có một người đang đứng lẻ loi, râu quai nón bám sương, rõ ràng là đã đứng trong tuyết rất lâu, y đang mỉm cười nhìn hắn.
Địch Thanh vui mừng vô hạn, chạy tới hỏi:
– Quách đại ca, sao huynh lại tới đây?
Quách Tuân quan sát Địch Thanh từ trên xuống dưới, nói:
– Ra được là tốt rồi.
Tiếp đó, gã vỗ vỗ bả vai Địch Thanh nói:
– Chuyện này, đệ không làm sai.
Sống mũi Địch Thanh chua xót, một dòng máu nóng bốc lên đầu. Hắn bị bọn người Mã Quý Lương vu oan, không sao cả. Hắn bị cô gái áo trắng hiểu lầm cũng không là gì, nhưng Quách đại ca thông cảm với hắn, lại làm cho hắn hổ thẹn khôn nguôi.
– Quách đại ca, đệ lúc nào cũng gây phiền phức cho huynh.
Quách Tuân thở dài, cười nói:
– Chúng ta là huynh đệ với nhau, cần gì nói ra những lời này? Huynh biết đệ có rất nhiều nghi vấn, vừa đi vừa nói nhé. Huynh còn muốn dẫn đệ đi gặp một người.
Địch Thanh không biết Quách đại ca muốn mình đi gặp ai, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì. Cho dù Quách Tuân bảo hắn nhảy xuống hố lửa thì hắn cũng sẽ nhảy xuống.
Quách Tuân không bảo Địch Thanh nhảy vào hố lửa, hai người chỉ sóng vai đạp tuyết mà đi. Tuyết đóng thành băng, vỡ thành mảnh nhỏ vang lên tiếng lách tách cọt kẹt, giống như tâm tình của Địch Thanh vào lúc này.
– Huynh biết đệ nhất định rất kỳ quái, vì sao tự dưng được ra ngoài như vậy? Vì sao không ai đề cập đến chuyện Mã Trung Lập?
Ánh mắt của Quách Tuân sâu sắc, ngước nhìn mai vàng phía góc tường.
Địch Thanh vội vàng gật đầu đáp:
– Đúng vậy. Bọn chúng không phải loại buông tha đệ dễ dàng như vậy.
– Bọn chúng sẽ không bỏ qua cho đệ. Cho nên từ nay về sau đệ phải cẩn thận.
Quách Tuân bình thản nói tiếp:
– Nhưng chuyện này thì có điểm khác biệt. Mã Trung Lập đánh Bát Vương gia bị thương. Nếu như xử nặng đệ thì Mã Trung Lập chính là tội chết! Điểm này bọn họ hiểu rất rõ.
Địch Thanh rốt cuộc hiểu ra, nói:
– Cho nên bọn họ đành phải để phủ Khai Phong kết án qua loa, toàn bộ chuyện lớn đều hóa nhỏ?
Quách Tuân như nở nụ cười nơi khóe miệng, nói tiếp:
– Đệ nói không sai. Tội danh của đệ là đánh nhau hung hãn, lỡ tay làm người ta bị thương. Cho nên Mã Trung Lập cũng giống thế, vô tình làm Bát Vương gia bị thương. Đệ bị giam nửa năm, gã đó vẫn nằm liệt giường. Chuyện này chỉ cần Bát Vương gia không truy cứu và Thái Hậu không đề cập nữa, như vậy là được rồi.
Trong lòng thì thầm nghĩ: cách xử lý này vốn nằm trong dự liệu. Nhưng kỳ quái là Bát Vương gia vì sao lại đứng ra làm chứng cho Địch Thanh?
Địch Thanh thở dài, nói:
– Cuối cùng đệ cũng hiểu được tác dụng của quyền lực…
Hắn còn định nói tiếp cái gì đó, nhưng rồi lại không thốt ra câu nào.
– Địch Thanh, đệ sai rồi.
Quách Tuân dừng bước, xoay người nhìn Địch Thanh, ánh mắt sáng quắc, nói:
– Ở nơi này, quyền lực cũng không thể một tay che trời, cho dù là Thái Hậu cũng không thể muốn làm gì thì làm. Bởi vì, trong kinh thành còn có chí sĩ chính trực. Chuyện này đệ không có sai nên xử lý công bằng, đệ không cần bận tâm. Nhưng nếu đệ thật sự có lỗi, không ai có thể cứu đệ được.
Địch Thanh lẩm bẩm nói:
– Bốn chữ xử lý công bằng, nói thì dễ nhưng muốn làm không phải chuyện dễ dàng.
Hai mắt đột nhiên sáng ngời, hỏi:
– Quách đại ca, huynh muốn dẫn đệ đi gặp chí sĩ chính trực sao?
Quách Tuân tràn đầy vui mừng:
– Đệ không ngốc tí nào, huynh dẫn đệ đi gặp một người, tên là …
Lời còn chưa dứt liền nghe thấy tiếng keeng keeng thật lớn, là tiếng thanh la truyền đến. Tiếng thanh la này cực kỳ vang dội, chẳng những cắt đứt lời Quách Tuân, mà còn chấn động làm tuyết đọng trên cành cây rơi xuống rào rào.
Quách Tuân chăm chú nhìn, trông thấy một cỗ kiệu dừng ở cách đó không xa. Địch Thanh vừa nhìn thấy cỗ kiệu kia thì kinh ngạc vô cùng, hắn chưa bao giờ trông thấy cỗ kiệu kỳ quái như thế. Cái này có thể gọi là kiệu sao? Còn không bằng gọi là cái giường đi, bởi vì nó không có nóc và không có cái kiệu nào lại rộng lớn đến như vậy. Nhưng gọi là kiệu cũng không sai vì chưa từng thấy ai khiêng một cái giường đi trên đường cái bao giờ cả!
Nơi cuối đường bỗng xuất hiện tám tên Lạt Ma (1), trong tay tám tên Lạt Ma cầm một bộ bạt(2) lớn, mỗi lần bước mười bước sẽ cùng nhau vỗ bạt một cái. Âm thanh vang dội mới vừa rồi, chính là tám bộ bạt cùng vỗ tạo nên, chẳng trách được muốn điếc cả tai.
(1) Lạt Ma (喇嘛): thầy tu ở Tây Tạng (cách gọi tôn kính các nhà sư theo đạo Lạt Ma ở Tây Tạng, Trung Quốc)
(2) Bạt (钹): xập xõa, não bạt, chập cheng (một loại nhạc khí) http://hudong.com/wiki/%E9%92%B9
Sau tám tên Lạt Ma này còn có mười sáu tên Lạt Ma đang khiêng cỗ kiệu rộng lớn kỳ quái kia. Trên kiệu chỉ ngồi một người. Người này cũng là Lạt Ma nhưng cởi trần nửa người. Tuy thân thể hơi gầy gò nhưng bắp thịt săn chắc như sắt. Ở trong tuyết lạnh gió rét, toàn thân người này vẫn tỏa ra nhiệt khí như có như không. Phiên tăng(3) miệng to, đầu to, lỗ mũi hếch lên trời, nhìn thoáng qua sẽ thấy cái lỗ mũi còn muốn to hơn cái mũi.
(3) Phiên tăng: tăng nhân người Thổ Phiên.
Địch Thanh cảm thấy tên Lạt Ma này rất quái dị, cảm nhận này khó nói bằng lời. Đường đường là Biện Kinh mà sao những Lạt Ma này lại càn quấy đến thế? Địch Thanh ở kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa từng nhìn thấy Lạt Ma nào càn quấy như vậy.
– Quách đại ca…
Địch Thanh vốn định hỏi lai lịch của Lạt Ma này, đột nhiên phát hiện sắc mặt Quách Tuân cực kỳ khó coi, trong mắt lộ vẻ cảnh giác và hồi ức. Địch Thanh rùng mình, câu hỏi vừa đến đầu lưỡi liền nuốt trở xuống.
Những Lạt Ma này nhìn bước đi có vẻ chậm, nhưng thoắt cái đã đến bên cạnh Quách Tuân và Địch Thanh. Trời giáng tuyết lạnh, gió rét thấu xương, trên đường phố không người qua lại, cho dù có người thì khi nhìn thấy thanh thế này, cũng sớm tránh sang một bên mà đi. Quách Tuân kéo Địch Thanh lui về phía sau hai bước, y vẫn trầm mặc không nói gì. Lạt Ma trên kiệu đột nhiên hừ lên một tiếng, đôi mắt khép hờ bỗng nhiên mở ra, hắn quay qua nhìn Quách Tuân.
Đôi mắt ấy không ngờ lại có màu xanh biếc.
Địch Thanh cảm thấy trong đôi mắt ấy ẩn chứa bí mật vô cùng vô tận, thiếu chút nữa bị ánh mắt ấy hấp dẫn. Quách Tuân lập tức bước lên nửa bước chắn trước mặt Địch Thanh, che khuất tầm nhìn của hắn. Địch Thanh rùng mình một cái, nhất thời không hiểu vừa rồi bị gì. Ở trên kiệu, Lạt Ma nhìn chòng chọc Quách Tuân trong chốc lát, cỗ kiệu không dừng lại mà dần dần đi xa.
Nhưng ánh mắt thâm thúy và ý vị sâu xa của Lạt Ma kia, vẫn quanh quẩn trong đầu Địch Thanh giống như băng tuyết khó dứt. Sau khi cỗ kiệu biến mất ở đầu đường, Quách Tuân mới thu hồi ánh mắt, hừ lạnh một tiếng, lẩm bẩm nói: Là hắn sao? Sao hắn lại đến nơi này?
Địch Thanh không hiểu hỏi:
– Quách đại ca, Lạt Ma kia có lai lịch gì?
Quách Tuân lắc đầu, nói:
– Đệ không cần biết. Nhưng sau này, đệ đừng có đi trêu chọc kẻ này.
Trong giọng nói của gã tràn đầy vẻ đề phòng, lại như là nhớ tới chuyện gì đó. Đột nhiên nghe ở một bên có người nói:
– Aizz, còn ra thể thống gì nữa.
Quách Tuân nhìn sang, thấy có một người trông có vẻ như văn sĩ ở trên tửu lầu đang lắc lắc đầu. Ánh mắt Quách Tuân chớp động, quay qua nói với Địch Thanh:
– Đến tửu lâu uống vài chén đi.
Địch Thanh thấy Quách Tuân không nói rõ nên cũng không tiện hỏi nhiều. Hắn liền đi theo Quách Tuân lên tửu lầu.
Ngoài lầu băng đông tuyết lạnh, trong lầu lại ấm áp như xuân. Ở đại sảnh tửu lầu, sớm đã có tửu khách nghị luận ồn ào, Quách Tuân cũng không để ý tới, trực tiếp đi lên lầu hai.
Địch Thanh lên tới lầu hai, thấy có một người ngồi dựa vào cửa sổ gần đường phố, hai mắt không khỏi sáng ngời. Quần áo người này đơn sơ, giặt nhiều đến nỗi bạc màu. Vì quay lưng về phía này nên Địch Thanh nhìn không thấy diện mạo của y. Thân hình người này hơi mập, trên bàn chỉ có một bầu rượu và một đĩa muối thạch anh(4).
(4) Muối thạch anh: lấy ra từ mỏ khoáng thạch muối thạch anh thiên thiên. Thường dùng làm đèn, có ánh sáng nhu hòa đặc trưng và tạo nên vùng không khí rất tốt, có lợi cho sức khỏe.
Địch Thanh phát hiện người này là một tửu khách chân chính, bởi vì chỉ có tửu khách chân chính mới không cần đồ nhắm, chỉ dùng muối thạch anh để uống rượu, bọn họ không muốn để cho mùi vị khác làm ảnh hưởng đến hứng thú phẩm rượu. Người này không hề nghèo, bởi vì đĩa muối thạch anh kia không rẻ chút nào. Nhưng nhìn vào quần áo thì lại giống như một thư sinh nghèo. Đây rốt cuộc là dạng người gì? Địch Thanh thầm nghĩ trong lòng, đây là người mà Quách đại ca muốn dẫn mình đi gặp sao? Người này có năng lực gì chứ?
Người này đang nhìn ngắm đường phố, tuy y hơi mập nhưng nhìn bóng lưng lại có cảm giác rất cô độc. Quách Tuân vừa định cất bước thì đột nhiên thấy người đó cầm một cây đũa trúc trên bàn, sau đó gõ nhẹ lên cạnh đĩa sứ men xanh, tiếng đinh đinh đang đang vang lên. Âm thanh này dù không bì được với tiếng đàn êm tai của Trương Diệu Ca, nhưng rất có khí khái.
Quách Tuân bỗng nhiên dừng lại không bước nữa. Y đứng yên lắng nghe âm hưởng này. Địch Thanh không hiểu chút nào, không biết Quách Tuân rốt cuộc định làm gì.
Lúc này người đó lẩm bẩm đọc:
Nhân thế vô bách tuế,
Khuất chỉ tế tầm tư,
Dụng tẫn cơ quan,
Đồ lao tâm lực.
Niên thiếu si,
Lão thành tiều tụy,
Chích hữu trung gian kinh niên,
Xuân phong đắc ý,
Nhẫn bả phù danh khiên hệ?
(Đời người không trăm tuổi, bấm đốt tay nghĩ kỹ, dùng hết cơ mưu, uổng phí tâm lực. Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh?)
Sau khi đọc xong, y bèn nhấp một hớp rượu, khẽ thở dài, hình như đang có chuyện khó xử gì đó. Giọng y u buồn, giống như đã nếm trải đủ mùi đời. Giọng người này tuy trầm thấp, nhưng Quách Tuân và Địch Thanh đều nghe được rõ ràng. Quách Tuân đầy thất vọng, dáng vẻ đăm chiêu.
Địch Thanh nghe xong, không ngờ lại ngây cả người. Hắn cảm thấy bi thương trào dâng, chỉ muốn khóc òa một trận. Thưở nhỏ, hắn rất thích dốc sức đánh nhau, rất ít đọc sách. Mà mẫu thân thì rất kỳ vọng vào hắn nên dạy hắn biết chữ. Vì vậy, Địch Thanh cũng không phải nhìn chữ mà không biết đọc, nhưng nếu bàn tới văn chương thì như đuôi ngựa xuyên đậu hũ – không cần đề cập đến.
Dù vậy hắn vẫn hiểu được ý trong bài từ này, bởi vì bài này chỉ có người khổ tâm mới hiểu. Ý người này nói: đời người không quá trăm năm, thưở nhỏ thì không biết xét đoán, tuổi già lại quá hiểu chuyện, chỉ có giữa khoảng này là có nhiệt huyết nhất, đáng tiếc lại chìm trong mưu cầu danh lợi, lầm lỡ cả đời.
Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh? Chỉ mấy lời hờ hững đã nói hết đời người ngắn ngủi, Địch Thanh suýt nữa rơi lệ.
Tuy Quách Tuân cũng bị gợi lên chuyện xưa, nhưng dù sao vẫn còn nhớ mục đích đến đây. Gã vừa định cất bước đi qua thì thấy một văn nhân đã ở trên lầu từ sớm đến trước người đó, khẽ gật đầu chào nói:
– Hi Văn huynh cho mời, không biết có gì chỉ giáo?
Người ngâm từ đứng lên thở dài nói:
– Tống đại nhân chịu đến đây, hạ quan cảm kích khôn cùng.
Tống đại nhân khoát tay nói:
– Hôm nay chỉ luận thơ phẩm rượu, không bàn việc công. Không biết Hi Văn huynh mời tại hạ đến đây, có định cùng tại hạ đạp tuyết tìm mai(5) không?
(5) Đạp tuyết tìm mai (踏雪寻梅): đề cập đến một thú vui tao nhã của văn nhân, thi sĩ: vừa ngoạn cảnh vừa đàm luận, sáng tác thơ văn.
Hi Văn huynh đổi cách xưng hô nói:
– Tuy Tống huynh không muốn bàn việc nước, nhưng thật không dám giấu diếm, tại hạ lần này mời huynh đến đây, chính là có quan hệ tới việc nước.
Sắc mặt của Tống đại nhân khẽ biến, Hi Văn huynh nói tiếp:
– Tống huynh còn nhớ bốn chữ ‘Vi thần bất trung’ không?
Tống đại nhân tức giận không vui nói:
– Thì ra Hi Văn huynh gọi tại hạ đến đây, chỉ muốn châm biếm tại hạ?
Địch Thanh nghe không hiểu, quay qua nhìn Quách Tuân, thấy y dõng tai lắng nghe nên không tiện dò hỏi. Hắn đành phải nhẫn nại tiếp tục nghe.
Hi Văn huynh lắc đầu nói:
– Cũng không phải, tại hạ chỉ cảm thấy mình ‘bất trung’ mà thôi.
Sắc mặt Tống đại nhân biến đổi không ngừng, hồi lâu mới hỏi:
– Vì sao Hi Văn huynh nói ra lời này?
Hi Văn huynh rót cho Tống đại nhân một chén rượu nói:
– Tống huynh chắc hẳn biết chuyện Giao Tự (6) vào mấy ngày sau?
(6) Giao Tự (郊祀): lễ cúng tế trời đất ở ngoài thành. Phía nam thành cúng trời, phía bắc thành cúng đất.
Tống đại nhân nói:
– Hiện giờ, văn võ trong triều đều biết việc này. Thánh Thượng, Thái Hậu tế bái thiên địa, cầu phúc cho muôn dân, đây là chuyện may mắn của quốc gia.
Hi Văn huynh thản nhiên hỏi:
– Tống huynh nghĩ thế thật sao?
Tống đại nhân cau mày hỏi lại:
– Hi Văn huynh có ý gì?
Hi Văn huynh nói:
– Nếu thật như Tống huynh nói thì đúng là chuyện may mắn của quốc gia. Nhưng Tống huynh có lẽ biết rõ, lần này cũng giống như lễ Trường Ninh, Thánh Thượng sẽ dẫn văn võ bá quan đến điện Hội Khánh chúc thọ Thái Hậu, sau đó mới đến điện Thiên An tiếp nhận triều bái.
Tống đại nhân chậm rãi nói:
– Đó là sự hiếu thuận của Thánh Thượng, hình như…hình như…
Hắn vốn định nói gì đó, nhưng thấy Hi Văn huynh nhìn hắn trân trân. Trên mặt lộ ra vẻ hổ thẹn, rốt cuộc nói không nên lời.
Hi Văn huynh hỏi:
– Hình như cái gì? Sao Tống huynh không nói tiếp? Tưởng Thiên tử hữu sự thân chi đạo, vô vi thần chi lễ; hữu nam diện chi vị, vô bắc diện chi nghi. Nhược phụng thân vu nội, hành gia nhân lễ khả dã! (Khi Thiên tử bày tỏ đạo hiếu, thì không dùng lễ bề tôi; đã ngồi hướng Nam, thì đừng quay hướng Bắc. Nếu phụng dưỡng người thân bên ngoại, thì có thể dùng lễ người nhà vậy!) Nhưng đằng này, Thánh Thượng và bách quan tề tựu, hướng Thái Hậu triều bái, mất quân thể, giảm chủ uy, không thể làm gương cho hậu thế. Cứ thế mãi, thiên hạ đại loạn không còn xa nữa.
Tuy Hi Văn huynh vẫn bình tĩnh, nhưng giọng điệu hùng hồn dọa người.
Địch Thanh nghe được không hiểu gì hết. Hắn thầm nghĩ: hai người này chắc là đang bàn chuyện tế thiên của tiểu hoàng đế và Thái Hậu, Hoàng đế muốn nhân dịp tế thiên đến điện Hội Khánh mừng thọ Thái Hậu, vậy tại sao Hi Văn huynh không đồng ý nhỉ? Hi Văn huynh nói cái gì ‘thiên hạ đại loạn không còn xa nữa’, khiến hắn cũng có chút buồn lo vô cớ.
Tống đại nhân cười lạnh nói:
– Hi Văn huynh nói với tại hạ có tác dụng gì? Chẳng lẽ muốn tại hạ đến nói Thánh Thượng làm không đúng?
Hi Văn mỉm cười nói:
– Tại hạ đúng là có ý nghĩ này.
Tống đại nhân cười ha ha nói:
– Vậy Hi Văn huynh muốn tại hạ làm chuyện gì đây? Chẳng lẽ nghĩ khoe tài miệng lưỡi như Tô Tần(8) sao?
Hi Văn huynh chậm rãi nói:
– Những lời của tại hạ hôm nay, ngày hôm qua đã trình lên Lưỡng Phủ.
Tống đại nhân cứng miệng, mặt hiện lên vẻ xấu hổ. Hi Văn huynh nói:
– Hôm nay mời Tống huynh đến đây, tại hạ không muốn làm khó, chỉ cầu Tống huynh nhớ chuyện ‘Vi thần bất trung’ ngày đó, có thể hoàn toàn giác ngộ, rửa sạch nỗi nhục lúc trước. Đó chính là hạnh phúc của thiên hạ, hạnh phúc trong triều đình. Tại hạ biết mình không có tư cách nổi giận, nhưng nhìn văn võ cả triều, không người nào dám nói, nay từ bỏ hư danh, bị giáng chức là điều chắc chắn. Tại hạ chỉ mong có thể dùng vài câu làm cho chí sĩ tri thức trong triều thức tỉnh, dù chết cũng không hối tiếc.
Lời của Hi Văn huynh càng lúc càng hùng hồn, nói năng rất khí phách, Tống đại nhân dường như xấu hổ, hồi lâu không nói gì. Không biết qua bao lâu, Tống đại nhân rốt cuộc nói:
– Hi Văn huynh, tại hạ cũng muốn kể cho huynh nghe một câu chuyện.
Hi Văn huynh khôi phục lại bình tĩnh, nói:
– Tống huynh, mời kể.
Tống đại nhân nói:
– Cây rừng sum suê, có chim ẩn nấp trong đó. Khi thợ săn đi qua, muôn chim yên lặng, không con nào dám lên tiếng. Nhưng có một chú chim không chịu im lặng, nó hót ríu ra ríu rít nên bị thợ săn phát hiện dấu vết, một mũi tên bắn xuyên qua, lập tức toi mạng. Con chim đó không ngờ mình nhiều chuyện lại gặp tai họa này. Nếu nó chịu im lặng như những con chim khác thì có lẽ đã sống thêm được mấy năm, Hi Văn huynh, huynh nghĩ xem có đúng không?
Hi Văn huynh thở dài nói:
– Đa tạ Tống huynh nhắc nhở. Nhưng thà hót mà chết, không im mà sống!
Giọng nói này tuy trầm thấp, Quách Tuân nghe xong, thân hình vạm vỡ chấn động, trong mắt biểu lộ sự kính trọng. Tuy Địch Thanh không rõ ràng cho lắm, nhưng nghe thanh âm này vang lên hùng hồn, vô cùng có khí phách, chẳng biết tại sao trong lòng cũng sôi trào nhiệt huyết.
Thà hót mà chết, không im mà sống! Tám chữ này mạnh mẽ sắc bén, đâm thẳng vào lòng khiến cho khuôn mặt Tống đại nhân tái nhợt. Nó cũng phá đi sự yên lặng khó tả trong tửu lầu, còn khuấy động làm khí phách hăng hái không lùi bước thức tỉnh khỏi cơn ngủ mê.
Tiếng gió rét ngừng lại, trên lầu im ắng tĩnh lặng. Chỉ còn tuyết nhẹ nhàng bay, giống như bóng lưng cô độc kia, không lời —– nhưng cố chấp như mùa đông.
Trong mắt Tống đại nhân cuối cùng hiện lên vẻ tôn kính. Y dường như bị tám chữ kia kích động tâm tình, trầm ngâm thật lâu mới nói:
– Hi Văn huynh sẽ không lẻ loi!
Nói xong câu này, y uống cạn chén rượu rồi đứng dậy đi xuống lầu.
Hi Văn huynh cũng không ngăn lại và cũng không đưa tiễn, y chỉ thở dài một tiếng rồi nhấc chén rượu lên, sau đó trầm mặc. Lúc này, Quách Tuân mới đi qua ôm quyền nói:
– Phạm đại nhân, Quách Tuân có lễ.
Hi Văn huynh nghe thấy, xoay người nhìn lại, khóe miệng nở nụ cười, nói:
– Thì ra là Quách chỉ huy sứ.
Nhìn thoáng qua Địch Thanh bên người Quách Tuân, Hi Văn huynh hỏi:
– Đây là Địch Thanh sao?
Địch Thanh lúc này mới nhìn thấy dung mạo Hi Văn huynh. Khuôn mặt này vô cùng trắng trẻo, nhưng có chút ảm đạm. Khóe mắt đã có nếp nhăn, tràn đầy gian khổ. Lần đầu tiên nhìn thấy Hi Văn huynh, Địch Thanh cảm thấy người này rất cô đơn, nhưng khi nhìn đôi mắt người này, Địch Thanh lại phát hiện mình đã sai, rất sai.
Đôi mắt sáng ngời cố chấp này, ôn nhu đa tình, làm cho người ta sau khi nhìn thấy sẽ đột nhiên phát hiện ra. Thì ra con người đa tình này sở dĩ u sầu thở than, tuyệt không phải vì bản thân. Y không cần người ta cảm thông, bởi vì y đang thương cảm đến chính người đời.
Quách Tuân nói tiếp:
– Phạm đại nhân đoán không sai, hắn chính là Địch Thanh. Lần này hắn có thể ra ngoài, còn phải rất cảm ơn Phạm đại nhân dâng thư nói thẳng, minh oan cho Địch Thanh.
Địch Thanh sửng sốt, ngơ ngác nhìn Phạm đại nhân. Hắn có phần không thể tin nổi. Một người như vậy, không quen biết gì với hắn, lại không sợ đắc tội với Thái Hậu, dâng thư kêu oan cho hắn?
Phạm đại nhân nở nụ cười, nói:
– Chỉ huy sứ không cần cảm tạ, đây là bổn phận của ta mà thôi.
Quách Tuân xúc động nói:
– Nếu trên đời này ai cũng như Phạm đại nhân thì….
Phạm đại nhân khoát khoát tay cắt đứt lời Quách Tuân, nhấc bầu rượu lên rót đầy ba chén nói:
– Hôm nay từ biệt, không biết lúc nào gặp lại, một ly rượu nhạt, hẹn ngày tái ngộ.
Y uống cạn chén rượu, rồi gật gật đầu chào, sau đó đi xuống lầu. Quách Tuân bưng chén rượu lên, cất giọng nói:
– Phạm đại nhân, gió mạnh tuyết lạnh, mong người bảo trọng!
Phạm đại nhân gật đầu rồi đi xuống lầu, chẳng mấy chốc đã khuất bóng vào màn đêm. Quách Tuân cau mày, chán nản ngồi xuống. Địch Thanh bây giờ mới có dịp hỏi:
– Quách đại ca, Phạm đại nhân này rốt cuộc là người nào? Vừa rồi bọn họ đang thảo luận chuyện gì thế?
Quách Tuân phục hồi lại tinh thần, uống một hơi cạn sạch rượu trong chén, giải thích nói:
– Phạm đại nhân tên là Phạm Trọng Yêm, hiện nay đang giữ chức Giáo lý(9) của Bí Các(10). Tống đại nhân tên là Tống Thụ, hiện đang là Hàn Lâm học sĩ của triều đình.
(9) Giáo lý (校理): chức quan quản lí các sự vụ về Bí Các, như chỉnh lí, khảo đính.
(10) Bí các (秘閣): Tàng Thư, là nơi cất chứa sách vở, thư họa… của triều đình Trung Quốc xưa.
Địch Thanh đem tên của Phạm Trọng Yêm nhớ thật kỹ, không nhịn được nói:
– Chức vị Giáo lý của Bí Các thua kém hơn nhiều Hàn Lâm học sĩ, nhưng thoạt nhìn đối với Phạm đại nhân, Tống Thụ rất … tôn kính?
Hắn trong lúc nhất thời không tìm được từ phù hợp, ngược lại cảm thấy Phạm Trọng Yêm giống như là cấp trên của Tống Thụ.
Quách Tuân dõi mắt nhìn Địch Thanh nói:
– Đệ phải hiểu một điều, muốn nhận được sự tôn trọng của người khác thì không thể nào dựa vào quyền thế và quan chức, mà phải nhìn vào cách đối nhân xử thế của người đó. Quyền thế và quan chức chỉ có thể khiến cho người ta e ngại, chứ không thể khiến cho người ta kính trọng!
Địch Thanh lặng yên nghiền ngẫm lời mà Quách Tuân nói, rồi cảm thấy có chút giác ngộ.
Quách Tuân tự rót cho mình một chén rượu, nói tiếp:
– Phạm đại nhân dù quan vị thấp kém, nhưng trong kinh thành được rất nhiều người kính trọng. Nếu bảo huynh đánh giá Phạm đại nhân, huynh chỉ có thể dùng tám chữ để hình dung, ‘Lòng lo thiên hạ, vì nước quên thân!’
Quách Tuân hiếm khi đánh giá người khác, nhưng khi nói đến Phạm Trọng Yêm, trong mắt tỏ vẻ tôn kính.
Lòng lo thiên hạ, vì nước quên thân, Địch Thanh nghe đến tám chữ này, hồi lâu mới hỏi:
– Quách đại ca, người này thực sự xứng với lời bình này sao?
Quách Tuân bưng chén rượu, ngắm tuyết bay, một lúc sau mới nói:
– Y vốn tên là Chu Thuyết, Phạm Trọng Yêm là tên sau này của y. Phụ thân y mất sớm, mẫu thân vì là thiếp nên bị người Phạm gia do tranh giành gia tài mà đuổi ra khỏi nhà, nàng tái giá đến Chu gia. Y thuở nhỏ hiếu học, đến khi biết thân thế chân chính của mình thì hổ thẹn vì đổi họ nên bỏ đến phủ Ứng Thiên cầu học. Huynh nghe nói khi đó y cực kỳ bần hàn, vào mùa đông, dựa vào cháo nóng mà sống qua ngày. Mỗi ngày y cho cháo đông lại rồi chia thành bốn phần, mỗi ngày hai bữa, mỗi bữa thì ăn hai phần. Lúc tiên đế tại vị, y vượt qua khảo thí khoa cử trở thành tiến sĩ, từ đó theo đường quan trường. Sau đó y đón mẫu thân lên phụng dưỡng, cũng sửa trở lại họ Phạm, tự lập môn hộ.
Địch Thanh cảm khái nói:
– Phạm đại nhân ý chí kiên cường, khiến cho người ta kính nể.
Quách Tuân ảm đạm cười nói:
– Một người như vậy, cho dù có chút căm ghét thế tục, nhưng huynh nghĩ cũng có thể cảm thông. Dù tuổi thơ y bất hạnh và gặp nhiều trắc trở, nhưng sau khi tham chính thì thanh liêm như nước, cứu tế thiên hạ. Chỉ cần gặp chuyện bất bình, mặc cho đối thủ là ai. Y đều muốn chống lại đến cùng. Vì thế tuy y có tài cao, nhưng tại quan trường chìm nổi vẫn thủy chung khó mà được triều đình trọng dụng. Khi y bị giáng chức đến Thái Châu, thấy đê biển không được tu sửa liền dẫn người xây đắp mấy trăm dặm đê biển, giúp cho ngàn vạn dân chúng tránh khỏi cảnh cửa nát nhà tan. Khi y đến phủ Ứng Thiên dạy học thì trợ giúp vô số thư sinh nghèo khổ, bản thân quanh năm chỉ mặc một bộ quần áo. Y mặc dù có quan vị thấp kém nhưng khi gặp bất bình sẽ phản đối, tuyệt không lặng yên mà sống. Như chuyện của đệ vậy, mặc dù rất nhiều người biết đệ oan uổng, nhưng thật sự dám dâng thư, đắc tội Thái Hậu, trong triều chỉ có một mình y!
Tâm tình Địch Thanh kích động, hối hận nói:
– Khi nãy, đệ quên cảm tạ người rồi. Dường như người đang gặp chuyện rất khó khăn, lúc đó nói với Tống Thụ cái gì mà ‘Vi thần bất trung’, nghĩa là gì vậy?
Quách Tuân giải thích:
– Năm đó, Thái Hậu mới vừa nhiếp chính, nịnh thần Đinh Vị nắm hết quyền hành. Hắn liền ra lệnh cho Tống Thụ, lúc đó là Tri Chế cáo(11), khởi thảo chiếu thư vu cáo tất cả các đối thủ chính trị như danh thần Khấu Chuẩn, Lý Địch, sau đó giáng chức đuổi khỏi kinh thành. Khi đó, văn võ bá quan toàn triều đều khuất phục dưới bạo quyền của Đinh Vị, Tống Thụ cũng không ngoại lệ. Tuy Tống Thụ biết Khấu Chuẩn và Lý Địch đều là trung thần, nhưng trên chiếu thư lại khiển trách Khấu Chuẩn là “Vi thần bất trung” , còn phê bình Lý Địch là “Phụ hạ tế ác”(12). Tống Thụ tự cho mình là thanh liêm chính trực, nên chuyện này có thể nói là nỗi nhục cả đời của hắn. Phạm công đề cập đến chuyện “Vi thần bất trung”, cũng không phải là muốn vạch trần vết sẹo của Tống Thụ mà quá nửa là muốn khích lệ Tống Thụ, lần trước không kiên định nên để lại tiếc nuối cả đời, hi vọng lần này hắn có thể kiên định.
(11) Tri Chế cáo (知制诰): Chức vị thời xưa, người khởi thảo chiếu lệnh.
(12) “Phụ hạ tế ác”: bao che cấp dưới làm chuyện ác.
Địch Thanh không hiểu hỏi:
– Phạm đại nhân muốn Tống Thụ khuyên Hoàng Thượng đừng chúc thọ Thái Hậu sao? Điều này cũng đâu có vấn đề gì đâu?
Quách Tuân nhìn quanh bốn phía, thấy xung quanh không còn tửu khách nào nữa mới nhỏ giọng nói:
– Địch Thanh, có rất nhiều chuyện đệ chưa biết. Bây giờ, tuy Thái Hậu buông rèm chấp chính, nhưng Thiên tử đã trưởng thành. Rất nhiều người đều hi vọng Thái Hậu sớm trao trả triều chính cho Thiên tử, nhưng Thái Hậu dường như không hề có ý định này. Vì vậy rất nhiều người lén lút rỉ tai nhau, Thái Hậu muốn làm Hoàng đế.
Địch Thanh rùng mình, nhớ tới lời của Trương Ngọc đã nói ở Tây Hoa môn trước đây, bừng tỉnh hỏi:
– Cho nên Thái Hậu thà chết chứ không dùng Khấu Chuẩn, chỉ dùng người thân tín là vì muốn chuẩn bị để cướp ngôi sao?
Quách Tuân thở dài nói:
– Thái Hậu rốt cuộc có cướp ngôi hay không, không ai biết rõ ràng. Nhưng mấy năm gần đây, Thái Hậu khi vi hành đều dùng Ngọc Lộ của Thiên tử, quy cách triều bái cũng càng ngày càng giống lễ nghi của Thiên tử. Mấy ngày nữa là triều đình tổ chức cúng tế đầu Đông, Thiên tử muốn dẫn quần thần đến chúc thọ Thái Hậu trước, sau đó mới cúng tế. Điều này chắc chắn sẽ làm cái bóng của Thái Hậu bao trùm lên người Thiên tử càng lớn. Thái Hậu được một tấc lại muốn tiến một thước, từng bước dò xét suy nghĩ của quần thần. Phạm công sợ Thái Hậu soán vị sẽ làm cho thiên hạ sẽ đại loạn, cho nên dâng thư phản đối việc này. Bây giờ quần thần trong triều đều ‘giữ miệng’, chỉ có Phạm công mới dám đứng mũi chịu sào. Huynh dẫn đệ đến đây chính là muốn đệ trò chuyện với y vài câu.
(13) Lộ: một loại xe lớn thời xưa. – Ngọc Lộ: Xe ngọc của vua dùng khi vi hành
Địch Thanh chợt hiểu, nói:
– Quách đại ca sợ đệ sa sút tinh thần nên muốn lấy chuyện Phạm công cổ vũ đệ?
Hắn giờ mới biết được dụng tâm sâu xa của Quách Tuân, trong lòng rất cảm kích.
Quách Tuân cười cười, thầm nghĩ: Địch Thanh cuối cùng trưởng thành rồi. Haiz, hy vọng sau này đệ ấy ít phải chịu khổ. Cả hai người đều có suy nghĩ riêng. Địch Thanh uống cạn chén rượu, cảm động nói:
– Mấy ngày nữa, đệ nhất định phải đến phủ Phạm công bái tạ. Người như vậy, thật đáng để kính trọng.
Quách Tuân lắc đầu nói:
– Không cần! Huynh nghĩ chẳng bao lâu nữa y phải rời khỏi kinh thành rồi.
Địch Thanh cả kinh nói:
– Vì sao?
Quách Tuân buồn bã nói:
– Vừa rồi, chẳng lẽ đệ không nghe thấy lời Tống Thụ nói sao? Chim đầu đàn luôn chết trước. Lần này, Phạm công dâng thư phản đối chuyện Thiên tử dẫn văn võ bá quan đến chúc thọ Thái Hậu, e rằng không đến hai ngày nữa y sẽ bị tống cổ khỏi kinh thành! Vừa rồi, lúc y xướng: ‘nhưng lại vương vấn hư danh?’, huynh đã biết rõ dụng ý của y.
Địch Thanh kinh ngạc hỏi:
– Ý huynh là Phạm công biết mình sẽ bị giáng chức, nhưng vẫn muốn dâng thư?
Đột nhiên nghĩ đến lúc sắp chia tay, Phạm Trọng Yêm có nói: “Hôm nay từ biệt, chẳng biết lúc nào gặp lại.” Địch Thanh rốt cuộc hiểu rõ, nhớ tới bóng lưng cô độc kia, trong lòng bỗng dưng thấy chua xót.
– Đúng vậy, đây chính là Phạm Trọng Yêm, một Phạm Trọng Yêm liêm chính!
Quách Tuân đặt chén rượu đã cạn xuống, gõ nhẹ lên bàn thở dài:
– Người như thế, đệ nên gặp mặt một lần. Đó cũng là lí do hôm nay huynh dẫn đệ đến đây.
Gã đứng dậy bỏ chút bạc vụn xuống, cất bước đi xuống lầu. Chẳng bao lâu sau, có một cấm quân vội vàng chạy đến, mừng rỡ nói:
– Chỉ huy sứ, quả nhiên người ở chỗ này, Thái Hậu triệu người vào cung gấp.
Quách Tuân ngạc nhiên, không biết Thái Hậu tuyên triệu có chuyện gì. Quay đầu nói với Địch Thanh:
– Đệ về trước đi, huynh vào trong cung.
Địch Thanh gật đầu. Hắn thấy gió tuyết đầy đường, dõi mắt nhìn Quách Tuân rời đi, khi bóng đã khuất mới xoay người cất bước về hướng Quách phủ. Hắn uống chút rượu, mượn cảm giác say, nhớ lại những chuyện đã phát sinh trong quán rượu mới nãy, lúc thì tâm tình kích động, lúc thì đau lòng xót dạ.
Tuổi thơ của hắn vốn gắn liền với miền thôn quê, bản tính thiện lương, hắn dựa vào chút bản lãnh, khi gặp phải chuyện bất bình rất thích dây vào. Nhưng sau mấy lần gặp tai họa, tính cách đã thay đổi rất nhiều. Hắn có phần căm ghét thế tục, có phần ăn năn hối hận, nhưng hôm nay biết chuyện của Phạm Trọng Yêm, đột nhiên nghĩ tới Phạm đại nhân nhiều lần trải qua trắc trở, nhưng lòng vẫn lo cho thiên hạ, cớ gì mình phải cam chịu chứ?
Vừa nghĩ đến đây, Địch Thanh cảm thấy phấn chấn, gió tuyết phả vào mặt không cảm thấy rét lạnh, trái lại còn hào hứng bừng bừng. Mượn men rượu, hắn ưỡn ngực cao giọng ngâm: “Đời người không trăm tuổi, bấm đốt tay nghĩ kỹ, dùng hết cơ mưu, uổng phí tâm lực. Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh?” Địch Thanh không thích thơ văn, nhưng thích ý cảnh thê lương của bài từ này. Đang đạp tuyết trở về, vừa tới bên cạnh một ngõ hẻm nhỏ, gió tuyết lấp đường. Hắn bỗng thấy trên một cây đại thụ ở bên kia tường hẻm có con diều giấy mắc vào.
Con diều được làm vô cùng khéo léo, phía trên có vẽ chú chim. Chú chim này có cánh hoa lệ, mỏ chim màu đỏ, hai cánh lại có lốm đốm đỏ vàng. Cả kinh thành chìm trong màu trắng xóa khiến nó tỏ ra rất rực rỡ. Địch Thanh vừa nhìn thấy con chim đó, dù không biết tên nó là gì nhưng cũng cảm thấy rất ưa thích.
Hiện giờ không phải là mùa thích hợp để chơi diều, nhưng sao lại có con diều mắc trên cành cây? Địch Thanh đột nhiên nghĩ đến, thời tiết thế này mà chơi diều, người này cô quạnh y chang con diều này. Không nghĩ thêm nữa, Địch Thanh quyết định vượt tường trèo lên cây lấy con diều xuống. Vừa định hành động, đột nhiên hắn nghe thấy có tiếng cô gái nào đó gọi:
– Này, ngươi giúp chúng ta lấy con diều xuống được không?
Địch Thanh quay đầu nhìn lại, trong lòng run lên, ở đầu ngỏ bên kia đang đứng hai cô gái. Người vừa lên tiếng là ả nha hoàn, nha hoàn này đứng bên cạnh một cô gái đang kinh ngạc nhìn hắn. Nàng mặc áo lông màu trắng, da trắng mịn màng như ngọc, bông tuyết đầy trời như những cánh hoa đang nhảy múa quanh người nàng, tôn lên khuôn mặt xinh đẹp như tranh, đôi mắt lóng lánh có thần, giống như một bức tranh sơn thủy, tuyệt diệu vô cùng.
Địch Thanh ngẩn ngơ không thốt nên lời, không ngờ còn có thể gặp lại nàng. Người này không phải ai khác, chính là cô gái mà hắn vô tình gặp được ở điện Thiên Vương.
Cô gái trước là kinh ngạc, sau đó vui vẻ hỏi: “Huynh… huynh ra rồi? Hóa ra….” Nàng bỗng đỏ mặt, mới nhớ tới mình và Địch Thanh không quen không biết, bèn khép miệng lại, về phần “hóa ra” cái gì, rốt cuộc không có nói ra.
Địch Thanh ậm ừ nói:
– Vừa mới ra không bao lâu.
Hắn đột nhiên cảm thấy tự ti mặc cảm, nghĩ mình không xứng để nói chuyện cùng nàng. Cô gái này thanh cao như thế, mình chỉ là tên cấm quân quèn, lại còn từng bị nhốt trong lao, mà các nàng trước đây còn coi mình là người không ra gì đi tranh giành nhân tình với người khác. Khi đó, mình còn đâm đầu vào nàng, làm nàng bị thương. Mặt nàng xấu hổ, có phải là cảm thấy hối hận vì đã nói chuyện với mình hay không?
Nghĩ tới đây, Địch Thanh quay đầu định đi, cô gái ấy vội gọi: “Địch Thanh, huynh chờ chút.”
Địch Thanh dừng lại, trầm ngâm một lúc rồi mới quay đầu lại hỏi: “Sao cô biết tên tôi?”
Cô gái lại có chút xấu hổ, cúi đầu không nói. Nha hoàn bèn nói:
– Ở kinh thành có ai mà không biết tên ngươi chứ? Một tên cấm quân quèn mà lại dám tranh giành nữ nhân, đánh hoàng thân quốc thích trọng thương.
Cô gái quát khẽ nói:
– Nguyệt nhi, đừng nói bừa.
Nàng ngẩng đầu lên nhìn Địch Thanh đáp:
– Địch Thanh, em ấy chỉ nói đùa với huynh, mong huynh đừng trách.
Địch Thanh cười giễu, nói:
– Tại hạ có tư cách gì mà quở trách người khác chứ? Vị cô nương này, nếu như không có chuyện gì khác, tại hạ xin đi trước.
Lần đầu gặp gỡ thì sợ hãi, lần tiếp theo thì hiểu lầm, gặp lại lần nữa thì ngỡ ngàng, tất cả đều hóa thành mây khói theo tiếng cười này.
Cô gái thấy Địch Thanh muốn đi, vội hỏi:
– Huynh có thể gỡ giúp con diều đó xuống rồi hãy đi, được không? Cây này cao quá, muội lấy xuống không được.
Địch Thanh nhìn con diều, hỏi:
– Cô làm con diều này?
Thấy nàng gật đầu, Địch Thanh không nói thêm nữa, đi tới vài bước, một chân đạp lên tường, vọt lên, lại nhảy tiếp, bắt lấy cành khô, đứng ở chóp tường. Tường này cao khoảng một trượng, Địch Thanh lại có thể dễ dàng trèo lên. Hắn cảm thấy bất ngờ với thân thủ nhanh nhẹn của mình. Đồng thời cũng có chút ngạc nhiên, hắn dùng sức như thế, vậy mà trong đầu không hề đau đớn. Bệnh đau đầu tra tấn hắn nhiều năm, lẽ nào ở trong lao ngục hơn nửa năm, bây giờ nó trở nên tốt hơn rồi?
Lòng bàn tay đau rát, Địch Thanh mới phát hiện mình chỉ tập trung leo tường, tay đã bị nhánh cây quẹt chảy máu lúc nào không biết. Nhưng vết thương nhỏ này đối với Địch Thanh mà nói, thật sự không đáng bận tâm. Cẩn thận trèo lên cây, tốn một lúc lâu hắn mới gỡ được con diều xuống. Địch Thanh từ trên cây nhảy xuống, chìa tay đưa con diều cho cô gái: “Của cô.”
Cô gái vừa muốn nhận con diều, đôi mắt đẹp khẽ chuyển, chợt che miệng thốt lên:
– Tay huynh chảy máu rồi!
Nàng loạng choạng mấy cái, dáng vẻ giống như sắp té xỉu đến nơi. Địch Thanh vội đỡ lấy nàng, hỏi:
– Cô không sao chứ?
Đột nhiên cảm thấy có chút không ổn, lại thấy ả nha hoàn nhìn mình lom lom, hắn vội vàng buông tay ra nói: “Nàng… Ngươi mau đỡ nàng.”
Nha hoàn hừ lạnh một tiếng, đỡ cô gái nói:
– Tiểu thư, nơi này lạnh, chúng ta trở về nhà đi.
Cô gái nhìn Địch Thanh nói:
– Cám ơn huynh.
Nhìn thấy tay Địch Thanh vẫn còn chảy máu, nàng đột nhiên nói:
– Tay huynh bị thương kìa, phải băng bó lại.
Nàng nói xong, không để ý tới ánh mắt kinh ngạc của nha hoàn, không đợi Địch Thanh từ chối. Nàng lấy ra lấy ra một chiếc khăn lụa, giữ chặt tay Địch Thanh, cúi đầu băng bó vết thương cho hắn.
Địch Thanh cúi nhìn xuống, thấy làn tóc đen như mực chảy xuôi theo cái cổ mảnh khảnh trắng như tuyết, trong lòng hơi loạn, vội nghiêng đầu đi không dám nhìn nữa. Hơi thở nàng như hương lan, ngón tay có chút lạnh buốt và khăn lụa mềm mại chạm vào bàn tay, khiến Địch Thanh run rẩy sững sờ như vách đá.
Không biết qua bao lâu, cô gái cuối cùng thở ra một hơi nhẹ nhỏm, nàng nói:
– Đã băng bó kỹ rồi.
Địch Thanh vội hỏi:
– Trời lạnh, cô mau trở về đi thôi, coi chừng cảm lạnh.
Cô gái khẽ cười xinh xắn, nhận lấy con diều từ trên tay nha hoàn, dịu dàng nói:
– Cảm ơn huynh. Còn … Cảm ơn hoa của huynh.
Nàng nói xong, khuôn mặt như bạch ngọc hơi ửng hồng, lập tức xoay người rời đi.
Địch Thanh muốn giữ lại, nhưng không có cớ gì. Hắn chợt hận miệng mình kém cỏi, khi nhìn thấy con diều kia, trong lòng chợt động, kêu lên:
– Cô nương, con chim này tên là gì vậy?
Vừa nói xong, hắn lại có chút hối hận, hối hận vì sao mình lại không hỏi tên của nàng. Nhưng hắn cất tiếng hỏi một câu này, khí lực đã giống như chảy hết ra khỏi cơ thể, thốt không nổi câu hỏi thứ hai.
Thân hình cô gái dừng lại, bóng lưng dường như thẹn thùng, nói:
– Con chim này…. gọi là …. Hồng Chủy Ngọc.
Dứt lời, bước nhanh rời đi.
Địch Thanh ngơ ngác nhìn hình bóng của nàng, lẩm bẩm nói: “Hồng Chủy Ngọc? Tên không tệ.” Thật ra, hắn biết mình muốn gì, nhưng không có dũng khí tiếp tục bắt chuyện. Không biết qua bao lâu, hắn chợt cảm thấy toàn thân rét lạnh, không khỏi rùng mình một cái. Hắn phát hiện tuyết đã phủ dầy trên người. Trông hắn giống như người tuyết….
————————–
Chú thích:
(1) Lạt Ma (喇嘛): thầy tu ở Tây Tạng (cách gọi tôn kính các nhà sư theo đạo Lạt Ma ở Tây Tạng, Trung Quốc).
(2) Bạt (钹): xập xõa, não bạt, chập cheng (một loại nhạc khí) http://hudong.com/wiki/%E9%92%B9 .
(3) Phiên tăng: tăng nhân người Thổ Phiên.
(4) Muối thạch anh: lấy ra từ mỏ khoáng thạch muối thạch anh thiên thiên. Thường dùng làm đèn, có ánh sáng nhu hòa đặc trưng và tạo nên vùng không khí rất tốt, có lợi cho sức khỏe.
(5) Đạp tuyết tìm mai (踏雪寻梅): đề cập đến một thú vui tao nhã của văn nhân, thi sĩ: vừa ngoạn cảnh vừa đàm luận, sáng tác thơ văn.
(6)
Nhân thế vô bách tuế,
Khuất chỉ tế tầm tư,
Dụng tẫn cơ quan,
Đồ lao tâm lực.
Niên thiếu si,
Lão thành tiều tụy,
Chích hữu trung gian kinh niên,
Xuân phong đắc ý,
Nhẫn bả phù danh khiên hệ?
(Đời người không trăm tuổi, bấm đốt tay nghĩ kỹ, dùng hết cơ mưu, uổng phí tâm lực. Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh?)
Đời người trăm tuổi mấy ai
Lao tâm khổ tứ một ngày trôi xuôi
Tuổi trẻ khờ dại đã rồi
Già thì tiều tụy da mồi tóc sương
Thanh niên đang tuổi huy hoàng
Lại đem tự trói vào đường hư danh
(7) Giao Tự (郊祀): lễ cúng tế trời đất ở ngoài thành. Phía nam thành cúng trời, phía bắc thành cúng đất.
(8) Tô Tần ( 蘇秦)
(9) Giáo lý (校理): chức quan quản lí các sự vụ về Bí Các, như chỉnh lí, khảo đính.
(10) Bí các (秘閣): Tàng Thư, là nơi cất chứa sách vở, thư họa… của triều đình Trung Quốc xưa.
(11) Tri Chế cáo (知制诰): Chức vị thời xưa, người khởi thảo chiếu lệnh.
(12) “Phụ hạ tế ác”: bao che cấp dưới làm chuyện ác.
(13) Lộ: một loại xe lớn thời xưa. – Ngọc Lộ: Xe ngọc của vua dùng khi vi hành.