Tống Xác [ Hành Hương ]
Tập 1: Sống có tiền chết cũng có tiền (c1-c10)
❮❯Chương 1: Sống có tiền chết cũng có tiền
Dân làng đang tụ tập rất đông ở bến để coi người tự xưng là “thầy Tư Lĩnh” làm phép vớt xác, đuổi ma da. Hơn mười ngày nay, khúc sông đi qua làng Hưng Trị, tổng Thanh Phong, Bạc Liêu như đảo lộn bởi tin đồn có ma da.
Cứ độ bốn năm giờ sáng, người nào chài lưới đánh cá ngang khúc sông này đều kéo lưới được thứ gì đó trông như cái đầu lâu. Lưới vừa kéo ra khỏi mé nước thì thứ ấy gào lên, khiến ai cũng hồn vía lên mây, có người té ra sông, sợ quá bơi một mạch vào bờ, lát sau mới cùng hơn chục người khác ra xem thì thấy lưới bị đứt tan tành, tựa như có thứ gì đó xé toạc ra.
Ban đầu chỉ là sợ hãi, vì có câu: “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”, nghề chài lưới đánh cá làm gì có kết cục tốt đẹp, sông nước lúc nào chẳng bí ẩn ma quái, có người đánh bạo, cho rằng sông có thuồng luồng thủy quái, chỉ có thứ đó mới đủ sức cào rách tấm lưới đến như vậy.
Thấy ý kiến này có vẻ khả dĩ, nhiều người lại bàn thêm, kể ra đủ thứ hình dạng, nào là có cá sấu to bằng hai cái xuồng, có người nói thấy thứ như con trăn, người nói là con cá hô. Dù là gì, thì đều như vắt chanh, sáng sớm nào, khúc sông này cũng gặp thứ ấy cào rách lưới, nói không hoảng sợ lại thành ra nói xạo. Chuyện ấy được chừng năm, sáu ngày, chẳng ai dám bén mảng đến khúc sông đó mà đánh cá chài lưới gì nữa, con nít không dám tắm, đàn bà không dám giặt giũ.
Mới đây, đang lúc nửa đêm, ông Sáu Đèn Cầy đang nửa đêm nằm ngủ thì nghe nhà sau, chỗ sàn nước, có tiếng “oàm oạp” như con gì đó quẫy nước. Nghĩ rằng có cá sấu, ông bật dậy, kêu thằng lớn cầm theo cây chĩa, đốt đèn dầu, hai cha con cùng tiến ra nhà sau. Ra nhà sàn, ở vùng miền tây này thời đầu thế kỷ trước, hầu như nhà nào đều có một nửa nằm trên đất, mặt tiền hướng ra đường lớn, nửa sau dựng cột tràm, làm sàn gỗ, vừa mát mẻ, vừa tiện sinh hoạt. Sàn gỗ này thường cặp nhau, nhà này làm động, nhà kia nghe ngay, nhờ vậy, ông Sáu Đèn Cầy mới thấy, mấy nhà xung quanh cũng đều có người đốt đèn ra coi, chắc vì tiếng động này lớn quá, nhà nào cũng nghe.
Ông Sáu lớn tuổi, chỉ mấy người hàng xóm: “Bây coi, kiểu này là cá sấu chắc rồi. Thằng Tư Hớt có bận mày đi săn sấu rừng U Minh, mày coi dẫn thằng hai thằng nữa nhử coi sao?”
Nhà kế bên vang lên tiếng: “Con thấy không phải sấu đâu ông Sáu. Sấu không động kiểu như vầy, với lại, rọi đèn mà có thấy con nào nổi lên đâu? Cái này… cái này con thấy hay quây lưới lại, rồi phóng chĩa vào cho chắc!”
Ông Sáu gật đầu, cả đám thanh niên chừng tám, chín người mới chuẩn bị lưỡi và xuồng lớn, bơi sát mé, lăm lăm chĩa, đuốc sáng rực, soi sáng cả khúc sông. Mặt nước lúc này bỗng tĩnh lặng đến lạ thường. Đám thanh niên bơi xuồng không xa, hướng đuốc vào dưới sàn gỗ, nơi vừa mới nãy còn phát ra tiếng động. Mãi chẳng thấy gì, có một hai người bạo gan thấy bực mình, liền phóng xuống, đứng nước ngang thắt lưng, bảo những người khác yểm trợ, hai ba người lùng sục kỹ bên trong. Có ba thanh niên đi xuống. Đuốc không soi hết được không gian bên trong sàn nước, lại bị che bởi những cột tràm, tầm nhìn hết sức hạn chế. Bỗng nhiên một bọt nước rất lớn nổi lên ngay góc sàn nước của ông Sáu Đèn Cầy, lớn đến nỗi nó phát ra tiếng “bụp”, khiến mấy chục người để ý. Tiếng động ấy vừa vang lên, bỗng nhiên tứ phía, tiếng quạ bỗng kêu lên dồn dập liên hồi, nghe qua tưởng như đang ở nơi tử địa vậy. Tiếng quạ kêu làm những người trên xuồng phân tâm, lúc này nước lại quẫy lớn cái nữa, quay lại thì đã thấy ba người thanh niên kia đang cắm đầu xuống nước, hai tay chổng lên trời như bị ai giật ngược lên!
Khỏi nói cũng biết mọi người hoảng hốt, liền phóng xuống, lao đến cứu, ai dè khi kéo ba người lên, thấy họ ai nấy mắt trợn trắng, họng đầy tóc, tóc dài, nhớp nhúa tanh hôi vô cùng. Lúc kéo, cảm thấy có thứ gì đó nắm rị họ lại, ai dè lúc để lên xuồng thì thấy dấu tay rõ mồn một.
Phen này gặp ma da thật rồi. Đám thanh niên kia khi tỉnh dậy hỏi thì u u mê mê, chỉ nhớ được có một ánh mắt dữ tợn nhìn họ, rồi họ không còn tri giác gì nữa. Sáu Đèn Cầy chủ trì mọi người họp lại, phen này nên làm cái gì. Bỗng lúc đang họp thì có một người đàn ông trung niên, vẻ mặt đạo mạo, râu dài tóc hoa râm, hai mắt sắt quắc, mặc áo Tàu, đội nón nỉ, đeo tay nải bạc, dắt theo một con dã nhân, trông sơ qua như khỉ, vai ông ta có một con mèo mù. Người đàn ông này nhắm mắt, đi xăm xăm đến trước mặt Sáu Điệp, vật cản đều tránh né hết sức thuần thục như đang mở mắt. Con dã nhân đi theo sau.
Đến trước mặt Sáu Đèn Cầy, ông ta mới mở mắt, điềm tĩnh nhìn ông Sáu và dân làng, nói: “Bần đạo vô tình đi ngang qua đây, vốn dĩ cũng rất bận, nhưng thấy họa không thể không cứu, làng này có ma nước, oán khí nó lên cao lắm rồi, tuy hiện nay chưa có ai chết nhưng không sớm thì muộn, nó cũng bắt vong làng này để thế mạng cho nó mà thôi!”
Sáu Đèn Cầy nghe xong thì bán tín bán nghi, nhìn dân làng, thấy họ cũng nghĩ như ông, bèn nói thử: “Vị đạo trưởng đây quả thực có tài phép có thể bắt được ma nước hay sao?”
Người kia đáp: “Hái sao trên trời, cân mây đếm gió thì bần đạo không làm được, nhưng chuyện này bần đạo đã kinh qua không ít lần.”
Một người đứng dậy, nói: “Ông anh, có nói có, không nói không, làm được thì làng này hậu tạ, không được thì ông anh tính làm sao?”
Người kia cười lớn, nói: “Khi ấy mạng của bần đạo tùy hỷ quý vị định đoạt!”
Người đạo sĩ là Tư Lĩnh. Đàn tế được bày ra, loáng cái lễ vật cúng kiến đều đủ cả. Khi ấy đã gần giữa trưa, ông Sáu hỏi rằng đợi chính ngọ mới hành lễ hay sao, Tư Lĩnh cười, nói: “Không cần, nhanh thôi!”
Tư Lĩnh quay sang con dã nhân, kêu “xùy xùy” mấy tiếng, nó hiểu ra gì đó, liền phóng ùm xuống sông, bơi một mạch ra giữa sông, đập tay liên hồi. Dân làng hiếu kỳ đổ ra xem rất đông, Tư Lĩnh đứng chắp tay trên bờ, trông thư thái lạ thường, con mèo vẫn ngồi trên vai không lay động. Chừng nửa nén nhang, con dã nhân kêu “khẹc khẹc”, rồi bơi lại vào bờ, lúc này giữa sống nổi bọt trắng rất nhiều. Con dã nhân lên bờ, Tư Lĩnh cầm lư hương, bốc hết tro ra, rải đều xuống sông, bốc ba chân nhang ngậm ngang miệng, ba chân nhang nhét vào dây đai lưng, miệng vừa ngậm nhang vừa lầm rầm thứ gì đó như khẩu quyết, hai tay ông cầm theo một số cây nhang đang cháy, rồi đi từ từ ra sông.
Sông này khá sâu, giữa sông dễ đến bảy mét, ấy vậy mà thấy Tư Lĩnh bước ra đã xa mà nước chỉ tới thắt lưng, tay ông chắp trước ngực, tựa như ông đang đứng thẳng trong nước. Lúc này, dân làng không giấu được sự thán phục, kêu lên vì tài phép của Tư Lĩnh. Tư Lĩnh rõ ràng đứng ở giữa sông, vẫn tư thế ấy, hai tay ông dang ra, rồi lại chắp vào, nhang chưa cháy hết thì thấy ông cắm nhang xuống mặt nước, rồi trở lại bờ. Tổng cộng Tư Lĩnh “cắm” ba cây nhang lên…sông, trước sự chứng kiến của hàng trăm người.
Tư Lĩnh lên bờ, Sáu Đèn Cầy run cầm cập, chưa kịp hỏi gì thêm thì thấy nhang bị thứ gì đó kéo tuột xuống nước, chưa kịp định thần lại thì thấy có thứ gì đó rẽ nước, tiến đến bờ chỗ Tư Lĩnh đang đứng, đến khi thứ ấy tấp vào rồi, dân làng mới tá hỏa thì ra là ba xác người tím tái căng phồng, tóc trên đầu đều rụng cả, da đầu lở loét, mắt bị cá rỉa, người tròn như bơm hơi.
Tư Lĩnh nói với dân làng: “Ba người này chết ở đầu nguồn, trôi xuống đây, mắc kẹt dưới nhà sàn, hàng ngày hứng chịu xú uế mọi người đổ xuống, oán khí tích tụ lại nên mới bày trò quậy phá dân làng, nay mỗ đã thanh tẩy cho họ, giờ sẽ đem họ đi tìm chỗ đế chôn cất tử tế, làng ta hãy gom góp một chút tiền bạc làm lễ cho họ, bần đạo không cần lấy gì thêm!”
Mọi người nghe xong, cho là phải, bèn rủ nhau mỗi người góp một chút, ai cũng cám ơn Tư Lĩnh đã làm phước giúp làng, Tư Lĩnh cúi chào, rồi xin một chiếc xe kéo để chở xác ba người này đi. Dân làng tiễn đi hơn một dặm, ai cũng coi Tư Lĩnh như thánh sống.
-0-
Khuya. Lúc này đã qua canh hai. Con dã nhân kéo xe đi sau, Tư Lĩnh đi trước, vừa đi vừa vuốt râu, ánh trăng mờ ảo soi mặt lão ta, trông nham hiểm vô cùng, lão vừa vuốt râu vừa ngâm nga mấy câu: “Tại nhân hữu kim tiền, y nhân bất tri phiên, quan nhân kim ngọc khẩu, cổ nhân tác trọng thiền…”
Con đường Tư Lĩnh đi càng lúc càng tối và vắng vẻ, thôn xóm gần nhất cũng cách cả dặm, xung quanh chỉ toàn là đồng ruộng. Bỗng Tư Lĩnh hướng về con dã nhân, kêu lên: “Tới rồi, thằng ngu! Tụi bây kéo tụi nó vào đây!”
Con dã nhân hoảng sợ kêu: “Dạ, dạ!”
Một cái xác trong ba cái xác cũng ngồi dậy, lột phăng cái thứ nhớp nhúa vốn là da mặt ra, để lộ bên trong dung mạo quái dị, mắt to, lồi, không có môi, miệng trề ra, trông chẳng khác gì con cá trê. Thứ này cũng lên tiếng cùng lúc với con dã nhân: “Dạ ông.”
Tư Lĩnh đứng chắp tay sau lưng, nhìn con quái cá trê và con dã nhân bồng hai cái xác vào con đường mòn, hai bên toàn tre và chuối mọc dày đặc, nhìn lên không thấy trăng, nhìn hai bên cũng chỉ một màu đen đặc. Tư Lĩnh để hai tên kia dẫn đường, ngoằn ngoèo một chút thì đến một nghĩa địa rộng mênh mông.
Tư Lĩnh thận trọng quan sát. Cả nhóm Tư Lĩnh đều mặc toàn đồ đen, trong nghĩa địa vốn dĩ từ cách năm sáu bước chân thì nhìn chẳng ra được, Tư Lĩnh chỉ là cẩn thận mà quan sát, không hiểu sao hôm nay ông ta cảm giác như có ai đó đang theo dõi. Sau đó, Tư Lĩnh dẫn đến một ngôi mộ mới đắp, có lòi ra một mảnh ván hòm ẩn sau bụi cỏ. Con dã nhân đặt xác chết xuống, kéo cái nắp quan ra, trông như vô cùng quen việc. Nắp quan mở ra, bên trong là một cái huyệt rỗng, vách bên trái có một thống đạo nhỏ.
Con dã nhân và con quái cá trê đặt hai xác chết còn lại nằm song song đối diện với huyệt, Tư Lĩnh móc trong túi ra hai gói vải, bên trong mỗi gói là hai con mắt mờ đυ.c, trông như bị lấy ra lúc người ta vừa chết. Lúc này, trời đang lặng gió bỗng rít lên từng cơn lạnh ngắt khiến Tư Lĩnh giật mình, trăng bị mây kéo đến che khuất, Tư Lĩnh bấm quẻ, chỉ kịp kêu lên: “Con mẹ nó, hỏng rồi! Lấy dầu cho tao, nhanh!”
Con dã nhân và quái cá trê liền móc trong túi ra hai lọ gốm nhỏ, nhưng chưa kịp làm gì thì một trong hai cái xác bật dậy, nắm chặt lấy tay Tư Lĩnh, đớp lão một phát, cái xác còn lại lao đến con dã nhân.
Tư Lĩnh phản xạ nhanh chóng, biết rằng đã gặp cương thi, có giật tay lại cũng chẳng ăn thua, bèn ngả người ra sau, dùng chân đạp mạnh vào mặt cái xác, chỉ nghe tiếng chân lão đá sượt qua lớp da thịt bủn, Tư Lĩnh xoay người để khóa cái xác, nhưng nó quá nhanh, một tay cào trúng ngực Tư Lĩnh, để lại vết thương sâu hoắm! Tư Lĩnh gào lên đau đớn, gom hết sức bình sinh, đá thẳng vào yết hầu cái xác, làm nó rụng cả da cổ, nhờ vậy lão mới thoát ra được, lui ra sau mấy bước.
Gió vẫn gào thét tại nghĩa địa, nhưng không hiểu sao mây đang dày, lại tản đi hết cả, để lộ ánh trăng mờ ảo, soi dáng một người thanh niên đang đứng trên đυ.n đất gần đó. Người thanh niên lên tiếng: “Hành tẩu coi ý trời, cắm Hương coi ý đất, Hành Hương qua nhà tổ?”
Tư Lĩnh nghe thì mừng rõ, vội kêu lên: “Hành Gia! Hành Gia! Nghe giọng có phải Đường huynh?”
Chương 2: Vạn Thi Gia, cắm hương ngàn nắm đất!
Tư Lĩnh trong cơn tuyệt vọng, thấy có người xuất hiện liền kêu lên cầu cứu, ai ngờ người đó đáp lời, nhận ra giọng người quen, Tư Lĩnh mừng như vớ được vàng, thậm chí đúng như tình cảnh lúc này, là chết đi sống lại. Con mèo mù bốn chân bấu chặt vào Tư Lĩnh, lúc này lão mới vuốt đầu nó, nó hiểu ý, liền phóng xuống đất, trốn vào một bụi cỏ.
Tư Lĩnh mặc kệ con dã nhân và quái cá trê bị tấn công bên kia, lão bò thối lui đến phía người thanh niên, một tay chụp miệng vết thương, một tay khuỵu xuống, miệng chỉ còn chút hơi cũng dồn ra hết: “Đường huynh! Đường huynh, đệ, Tư Lĩnh đây, cứu mạng đệ!”
Người thanh niên tiến đến, bỏ đồ nghề một bên, chụp vai Tư Lĩnh, ghé sát mặt mới sửng sốt: “Là em hả, trời đất, sao lại ra thân hình như vầy?”
Người này vẻ mặt dạn dày sương gió, nhưng thần thái ngút trời, ánh mắt rực sáng, mũi cao, để râu hùm, tóc búi củ hành, mình mặc áo bà ba, khoác ngoài tấm vải chéo, đeo túi điều bên hông. Tư Lĩnh chưa kịp kể lại sự tình, con cương thi lồm cồm bò đến, đánh hơi được hai người phía bên này thì như chạy bằng cả bốn chân. Tư Lĩnh chỉ tay, hét lên: “Mộ tổ, huynh cẩn thận!”
Người thanh niên nọ thân thủ vô cùng linh hoạt, dù đang ngồi quỳ một chân kế bên Tư Lĩnh, đỡ vai lão ta, khi Tư Lĩnh hét lên thì liền xoay người, tung ra một cú Mã Đề Cước trúng thẳng mặt cương thi. Không để kẻ địch có thêm chút thời gian nào, người này chụp lấy đồ nghề đã bỏ ra, đó là một đoạn ống tre, dài chừng hai thước, tay trái chụp lấy ống, chân phải quét một cú Càn Khôn Nghịch Đảo, mũi giày có bọc một lớp thép, đập vào đầu cương thi nghe một tiếng “chát” khô khốc khiến cổ của nó gãy, gập sát vào vai. Người này dùng lực của chân, lộn một vòng, tay trái giơ lên cao, bổ thẳng xuống, nhưng không đập vào cương thi, vì đầu của ống tre là một thòng lọng dây thừng có màu đỏ. Đầu kia vừa lỏng dây, thòng lọng đầu này mở rộng ra, chụp gọn phần hông ngang cùi chỏ cương thi, thắt chặt lại, khiến nó rú lên đau đớn, cựa quậy vô ích!
Tư Lĩnh ném bọc vải đựng hai con mắt cho người thanh niên, kêu lên: “Nhị ca, Miêu Ngọc đây!”
Người thanh niên mặc dù đang siết chặt con cương thi, một tay vẫn kịp chụp lấy bọc vải, ngón tay uyển chuyển hệt như năm con rắn, tháo lớp vải ra, nắm chặt hai con mắt người bên trong, người thanh niên giật mạnh ống tre, con cương thi mất đà lao đến. Ngón trỏ và giữa kẹp một con mắt, ngón áp út và ngón út kẹp một ngón, cái xác lao đến thì người này đâm thẳng vào hai hốc mắt đen sì rỗng không của cương thi, bốn ngón tay khi hoàn thành nhiệm vụ thì rút ra vô cùng gọn gàng, hai con mắt thì đã nằm yên bên trong, ngón vừa rút ra, cả bàn liền khép lại, cứ thế mà đập vào mặt con cương thi. Người này lầm rầm đọc chú, tay còn lại thọc vào túi trước ngực, hai ngón trỏ và giữa dính một chút nước màu đỏ thẫm, đoạn anh bôi lên trán cương thi, do da nó đã hư hoại quá nhiều, nên phải bôi đến mấy lần mới không bị lở thịt, màu đỏ in lên trán như con mắt thứ ba.
Người này quăng cái túi cho Tư Lĩnh, kêu: “Đắp thuốc lên vết nhang mộ tổ, nhanh! Còn lại anh xử lý cho!”
Tư Lĩnh chỉ còn biết nhăn mặt gật đầu, miệng không còn nói được gì, mặt nhăn nhó ra vẻ vô cùng đau đớn. Phía bên này, con cương thi kia đã cắn nát đầu quái cá trê còn con dã nhân đang nằm gục dưới đất, máu ra rất nhiều. Người này gỡ thòng lọng tre, phi đến xử lý con còn lại cũng vô cùng nhanh gọn, đã giật ngửa nó ra sau, Tư Lĩnh lấy Miêu Ngọc đắp vào.
Tư Lĩnh tuy bị thương thế rất nặng, đau đớn vô cùng, nhưng nhờ thuốc được bôi kịp thời, tánh mạng không còn nguy hiểm nữa, không để người sư huynh một mình chiến đấu, cũng đến tiếp ứng, tiếc là quái cá trê và con dã nhân đều đã chết.
Tư Lĩnh nói: “Đường huynh, hiện tại đệ không đủ sức để “đốt lư hương”, anh giúp đệ chuyến này!”
Người kia đáp: “Đệ yên tâm, đồng môn với nhau, Quán này đâu thể thấy chết không cứu!”
Người đó chỉ nói vậy, lấy trong túi ra một cuộn vải trắng có những chữ Hán màu đỏ, ngang chừng bốn tấc, được cuộn lại như một cuốn thư cổ, anh ta quấn quanh hai cái xác cương thi, vốn lúc này vẫn còn đang rên ư ử, run rẩy như người bị sốt. Quán hỏi: “Lĩnh, em coi dùm anh, tầm canh mấy rồi?”
Tư Lĩnh lấy cái thước có cọng dây dọi, thứ này gọi là Tinh Quan Thời Toán, nghĩa là một dụng cụ đo thời gian ban đêm, bằng cách quan sát sao trời. Tư Lĩnh dóng thước về hướng Bắc, nhẩm rất nhanh, nói: “Canh hai, năm khắc! Sắp qua canh ba!”
Quán đanh mặt: “Mộ tổ Thân Tý Thìn?”
Tư Lĩnh đáp: “Mộ tổ Thìn, “lấy nhang” tứ xung về Dần, “cắm nhang” tất phải tam hạp về Tý! Đệ tính toán tưởng đã chu toàn, ai dè gặp phải mộ tổ, phen này chết thật quá nhị ca!”
Quán quấn vải nhanh hơn, vừa dứt xong vòng cuối cùng của cả hai xác, phủi tay, nói: “Chuyện này phải xem Hành Gia Lão Tổ Tông có thương tình hai anh em mình không mà thôi!”
Tư Lĩnh bê một xác, Quán bê một xác đến bên huyệt khi nãy, Quán nói: “Em cứ ở đây, “cắm nhang” để anh làm dùm cho!”
Tư Lĩnh cảm thấy xấu hổ, nhưng tình cảnh này chẳng thể làm gì khác, đành gật đầu. Quán chui tọt vào thông đạo dưới huyệt, Tư Lĩnh đưa xác xuống, đầu bên kia Quán kéo xác ra.
Nơi Quán chui vào là một hầm đất, bên trong có hai cái Liên Hoa Quan, là loại mà hai đầu của quan tài cong ra, vạt tròn, tựa như hoa sen đang nở, loại này dân bản địa ít dùng, chỉ có những bậc phú hào dư dả mới thuê thợ ở Định Tường làm. Chân quan tài là bốn con hươu, tượng trưng cho tài lộc kiếp sau, con cháu hưng thịnh, âm đức dày dặn. Quán vừa nhìn sơ qua đã biết Tư Lĩnh bốc bát hương ngay phần mộ nhà quyền quý, của cải tùy táng sớm đã vét đi hết, nay đến lúc “cắm nhang” lại gặp ngay khẩu quyết cấm kỵ: “Độc địa, kỵ thì, bạo phong xuy; minh thiên, vân hậu, lôi quang dã.” Nghĩa là sợ những lúc gặp phải đất xấu, thế đất hung hiểm, lúc “cắm nhang” gặp gió thổi mạnh bất thường hoặc khi trời đêm mà trăng sáng vằng vặc nhưng xung quanh trăng lại có một đám mây dày, lúc này mà sấm chớp lên thì chắc chắn gặp cương thi.
Quán nhẩm một chút, kể từ khi Tư Lĩnh bảo canh hai năm khắc, chỉ còn chừng một nén nhang nữa sẽ hết giờ làm thủ tục “cắm nhang”, Quán sợ khi ấy cương thi bộc phát ma tính, e rằng chỉ có thiên binh thiên tướng mới cản nổi, một mình Quán thì lo không đủ sức. Quán không chần chừ thêm, đặt hai cái xác đã quấn vải vào quan trở lại.
Nhìn vào cũng đủ để biết hai cái xác trương phình hư hoại ấy là một nam một nữ, hầm mộ lại có hai quan tài đặt kế bên nhau, Quán biết rằng đây là vợ chồng, liền xem bên trong áo quan, áo quan có gối ngọc là của nữ, quan tài có gối cửu châu là của nam. Gối ngọc thực ra là may bằng vải kim tuyến màu xám ánh bạc có họa tiết con Ương, nghĩa là con vịt mái, tương tự vậy, gối cửu châu là gối may bằng chỉ kim tuyến đỏ ánh vàng, có thêu họa tiết con Uyên, nghĩa là vịt đực, ám chỉ đến tình cảm vợ chồng son sắt thủy chung.
Đặt đúng xác nam và nữ vào đúng quan tài, Quán lấy ra một nắm nhang, đầu quan tài cắm ba cây, chân quan tài cắm năm cây, đập nắp quan, sau đó đóng đinh ở góc Tây của quan tài. Đóng được một cây, lúc này Quán nhẩm chỉ còn một xíu nữa sẽ qua canh ba, phạm vào giờ cấm, không thể “cắm nhang” được, mà hai cái xác bắt đầu rung lắc mạnh, vải quấn dần rách ra, chỉ e không cầm cự được đến lúc đóng đinh xong!
Cây thứ hai vừa được tra lên quan tài, Tư Lĩnh hét vọng xuống: “Nhị ca, sao rồi! Canh ba tới rồi đó!”
Quán nghe thấy quan tài chưa đóng này có dấu hiệu “mộ tổ” quậy phá, nó rung lên bần bật, Quán phải nhảy lên trên, đè xuống, gom hết sức, đóng một búa, đinh lút trong thớ gỗ, đến nứt toác ra mấy đường! Vừa đập búa xong, Quán lo sợ “cắm nhang” trễ giờ, liền nhảy lui về sau, cúi thấp người vừa quan sát vừa đưa tay lên thủ thế.
Hai quan tài rung lên lần cuối rồi im lặng, bốc lên một làn khói xanh nhẹ. Tư Lĩnh lại hét: “Nhị ca! Nhị ca! Huynh sao rồi? Cắm nhang xong chưa?”
Quán lúc này mới thở phào nhẹ nhõm, đáp: “Đã cắm xong! Vừa đúng canh ba, tính ra Hành Gia Lão Tổ Tông vẫn còn độ anh em mình!”
Nói xong, Quán thu dọn đồ nghề, lụi cụi chui ra khỏi huyệt giả, rồi cùng Tư Lĩnh hỏa táng xác con dã nhân và quái cá trê. Con mèo mù lúc này lững thững đi đến bên cạnh Tư Lĩnh rồi leo lại trên vai, cúi đầu như chưa có gì xảy ra. Quán nhìn con mèo, rồi thở dài, nói với Tư Lĩnh: “Sao em vẫn còn giữ nó làm gì?”
Tư Lĩnh nhìn đống lửa, bùi ngùi nói: “Không bỏ nó được nhị ca à, mà không chắc là nó gây tai kiếp cho đệ, hay là đệ gây tai kiếp cho những người xung quanh, mãi mới thu phục được hai người đệ tử, nay lại để chúng chết oan uổng! Làm sao đệ sống mà thiếu tụi nó được đây, giờ nhớ lại những lúc chửi mắng bọn nó, thấy thương quá, chúng nó cái gì cũng nghe đệ hết, con mèo này cũng vậy…”
Quán định hỏi thêm, nhưng thấy Tư Lĩnh sụt sùi khóc thì thấy không nên hỏi nữa, cũng thở dài nhìn vào ngọn lửa.
Hai người đốt một nhúm lửa nhỏ, nướng con chồn vừa bắt được, cứ thế ngồi ngay bãi tha ma mà nhậu. Quán nói: “Thịt chồn bãi tha ma, nhiều người bảo rằng đồ dơ bẩn không thể ăn được, anh lại rất thích cái món này, thơm ngon hơn chồn thường rất nhiều!”
Tư Lĩnh nãy giờ uống rượu, mặt vẫn u sầu, Quán đưa cho một cái đùi thơm phức, nói: “Ăn đi em, không ăn làm sao có sức đi Hành Hương. Với lại uống ít thôi, coi chừng “phỏng nhang mộ tổ” lại tái phát mà chết bây giờ!”
“Nhị ca cho em uống một chút nữa đi!”
“Cũng được, nhưng em kể anh nghe, từ lúc xuống núi đến giờ, đã bốn năm, lần trước có nghe tin đệ bốc bát nhang ở Vĩnh Long, anh đến tìm thì không thấy, nay vô tình đi ngang Bạc Liêu này lại gặp!”
Quán trút hơi thở nặng trịch, kể lại chuyện y đi Hành Hương mấy năm qua.
Trước tiên, hãy nói về Hành Gia. Có câu “Bắc tống xác, Nam hành hương”, Bắc và Nam ở đây ám chỉ Trung Quốc và lục tỉnh Nam Kỳ. Câu này chỉ mới có từ nửa cuối thế kỷ XIX, đến nay đã hơn năm mươi năm. Hành hương ở đây, chữ Hành nghĩa là viên ngọc trên dây đeo của bậc quyền quý, Hương nghĩa cổ là thứ đồ quý giá, ám chỉ công việc là “thăm mộ”, nhưng không chỉ lấy đồ quý tùy táng, mà còn mượn cả xác người. Hành Hương cũng đúng với hình thức của họ, đi đâu thì ra dấu với nhau bằng bát hương mà họ cầm, trên đấy đều có in nổi “Hành Hương Lão Tổ Tông”.
Vậy sao có câu “Bắc tống xác – Nam hành hương” ấy? Thuật tống xác nổi tiếng vùng Tương Tây của Hồ Nam, phát triển rất mạnh vào thời Thanh bên Tàu. Thầy tống xác là những đạo sĩ, chuyên thu thập những người chết nơi đất khách quê người, cho xác họ cứng lại, gọi là “hóa bích”, sau đó dùng bùa phép, khiển những cái cương thi ấy vượt núi trèo non, về quê nhà để an táng. Vùng Tương Tây của Hồ Nam, hay cả Hồ Nam, đều được bao bọc bởi núi non trùng điệp, ba phía đều là vách đá cao sừng sững, địa hình khó khăn, áng ngữ trên trục giao thương chính, nên nhiều người, không kể thương gia hay thi nhân mặc khách, quá trình di chuyển qua đây chết rất nhiều, vì thế nên nghề tống xác mới phát triển và hoàn thiện dần, nói ra vô cùng dài và rối rắm, nếu có dịp sẽ bàn đến sau.
Một nhóm người này trốn tránh truy sát triều đình, theo dân Triều Châu Quảng Đông di cư đến Việt Nam cũng nhiều. Ở vùng đất mới là lục tỉnh, nghề tống xác coi như bỏ, nhưng vốn kiến thức xưa không lẽ vứt, lại chẳng có kế sinh nhai, họ đành phát triển ra nghề “giỡn mặt” với âm phần khác, gọi cao sang là Hành Gia, gọi tục tĩu thì là phường trộm mộ, nhưng trộm mộ với kỹ thuật vô cùng tinh vi, khôn khéo.
Hành Gia có câu thơ: “Tại nhân hữu kim tiền, y nhân bất tri phiên, quan nhân kim ngọc khẩu, cổ nhân tác trọng thiền”, dịch thơ thì vô cùng hoa mĩ, nào là “Y Nhân”, rồi “Quan Nhân”, “Cổ Nhân”, kỳ thực đều là tiếng lóng cả. Y Nhân là người vừa mới chết, “bất tri phiên” nghĩa là đừng nên động tới, mộ mới chôn, động vào dễ bị dòm ngó. “Quan Nhân” là người chết đã lâu, “kim ngọc khẩu” là mộ càng xưa, mộ phần vẫn còn kiên cố, tức là bên dưới có đồ tốt; “Cổ Nhân” là mộ cổ, hầu như đều là mộ của vương công quý tộc, dân thường làm gì còn nấm mộ sau bao phen loạn lạc cho được, vậy nên mới nói “tác trọng thiền”, chữ “thiền” này là chữ cổ, nghĩa chỉ việc “quét” lúc tế lễ, ngày xưa thiên tử đi tuần thú, phong núi Thái Sơn mà tế trời, quét núi nhỏ mà tế núi sông gọi là “phong thiền”, mộ cổ của quý tộc thì nên vét sạch, lấy sạch, nhưng phải thanh cao như thiên tử đi tế núi sông!
Vậy Hành Gia trộm mộ, cách thức ra sao? Thì như Tư Lĩnh đã làm, ấy là đào một cái huyệt giả, cách mộ mình muốn trộm không quá hai mươi thước, tốt nhất nên nằm về hướng đông của phần mộ muốn cướp. Làm lễ táng thì cho người giả vờ nằm trong quan tài, loại của Hành Gia dùng thì có tên riêng là “nhà đạp”, ám chỉ loại nhà tranh của người nam bộ xưa, dựng tạm bợ, mỗi lần dọn nhà đi xứ khác ở, chỉ cần đạp vào cột, là nhà tự sập. “Nhà đạp” của Hành Gia cũng vậy, một bên vách, thường là vách phải, rất dễ bung, người nằm bên trong đạp vách, sau đó bắt đầu khoét đường đến mộ muốn cướp, khi ấy thần không biết, quỷ không hay!
Nhưng mục hay nhất và cũng là “thất đức” nhất của Hành Gia là “bốc bát hương”, nghĩa là lấy xác người ra, làm trò tống tiền, mỹ miều thì gọi là “sàng tro”. Khi tống tiền xong, trả lại, gọi là “cắm nhang”. Bốc bát hương phải ngay giờ nghịch tuổi của người chết, khi cắm nhang lại thì lựa giờ hạp tuổi, vậy là xong, còn tránh những thứ cấm kỵ thì đã có nói ở trên, cũng để tránh gặp cương thi, tiếng lóng là “mồ tổ” mà thôi. Tại sao cương thi lại được gọi là mồ tổ? Nghe đâu dân Hành Gia đời đầu mỗi lần gặp cương thi đều chửi: “Mồ tổ cha nó, chạy!” Thế là có cái tên mộ tổ.
Tư Lĩnh khi đến nơi đây, thấy có mộ bề thế, nóm chỉ là y nhân, nhưng nảy sinh lòng tham, cướp mộ, sẵn tiện còn bốc cả bát hương đi, đến làng khác, dùng xác giả làm ma da, dọa dân làng tống tiền.
Chuyện ấy thực hư ra sao? Tư Lĩnh thu phục hai người đệ tử, không phải là yêu quái hay dã nhân gì cả, mà chỉ là người thường có những biến đổi quái dị, quái cá trê có thể lặn lâu, dã nhân có sức khỏe. Tư Lĩnh khi bốc bát hương thì khoét mắt người chết, nếu gặp xác chết quá lâu, mắt phân hủy thì thay bằng một cặp mắt mèo được chuẩn bị sẵn. Đặt mắt mèo vào cái xác, niệm chú, cho mắt mèo và nhục thể đồng nhất lại, sau đó móc mắt mèo ra, bỏ vào túi vải, từ đó có thể làm cho xác chậm phân hủy hơn trong thời gian đem đi tống tiền, chưa kể nếu tu luyện đủ lâu thì còn khiển được thi!
Tư Lĩnh sàng tro trong làng, đến khi cắm nhang gặp phải hung hiểm, xác hóa cương thi, nếu không nhờ Quán xuất hiện kịp thời thì đã mất mạng. Tư Lĩnh uống thêm hớp rượu, hỏi: “Nhị ca, gần đây huynh có bốc bát không?”
Quán cười, đáp: “Anh không bốc bát, anh chỉ đi tìm Thi Nhân!”
Thi Nhân trong câu của Quán nghĩa là sao? Khác với Cổ Nhân, Thi Nhân không phải ám chỉ mộ, mà ám chỉ người. Thi Nhân là người dùng xác người chết luyện ma thuật, hoặc như vốn dĩ là yêu ma, hồ ly tái thế, có hình dáng như người, đạo hạnh vô cùng cao thâm, nhưng không thể nào là người hoàn toàn, vẫn bị những thứ thuần dương khắc chế.
Tư Lĩnh trố mắt: “Thi Nhân Hành Gia? Thứ ấy sư phụ cũng bị nó hại chết mà, Thi Nhân rất khó xuất hiện, diệt được Thi Nhân có thể lấy đó làm phương thuốc chữa bệnh, huynh có manh mối hay sao?”
Quán đáp: “Anh cắm hương ngàn nắm đất, chưa gặp được Thi Nhân, nhưng cũng may gặp được thứ này!”
Quán hào hứng vén cổ áo, đó là một sợi dây chuyền có đầu lâu một con mèo nhỏ, kỳ lạ là mắt mèo vẫn còn dính trong hộp sọ chứ không bị hư hại gì cả.
Tư Lĩnh trầm trồ: “Thi Nhân Hành Gia, cắm hương ngàn nắm đất, Hành Gia tìm miêu thủ, miêu thủ tầm Thi Nhân, Thi Nhân hóa quan, kim tiền muôn vạn!”
Quán cười lớn: “Đường Hồng Quán anh đây, dù cắm hương ngàn nắm đất rồi, dù có cả miêu thủ ở đây rồi, nhưng Thi Nhân có biết được ở đâu đâu, vậy nên mới nói, chớ tin lời người xưa hư cấu ra quá!”
Cả hai cùng cười, bỗng nhiên gió lại rít lên, mây kéo đến bất chợt, vây quanh mặt trăng, một đường chớp rạch trời rọi sáng bãi tha ma, cả hai nhìn nhau biết rằng lại có biến, phen này là mồ tổ nào nữa đây? Chưa biết là mồ tổ hay là cô hồn dã quỷ, nhưng Tư Lĩnh thấy vết thương đau nhói. Quán nhìn phía cuối bãi tha ma, cách họ chừng năm sáu chục thước, có một đoàn đưa tang, lúc ấy là canh ba năm khắc!
Chương 3: Rước tang, đưa cưới
Hồng Quán chụp vai Tư Lĩnh, chỉ về hướng của đoàn đưa tang kỳ quặc. Không khí này đúng là tổng hợp lại tất cả điều cấm kỵ của khẩu quyết: mây dày, trăng sáng, gió lạnh, sấm vang chớp giật, đều là những thứ bất thường cả. Hai người thấy xung quanh bất chợt lạnh ngắt, tưởng như hơi thở bị ngưng đọng, không gian chìm trong mơ ảo ma quái.
Hồng Quán ăn bát cơm Hành Gia cũng đã lâu, hành sự tuyệt đối kín kẽ, mắt vừa thấy có đoàn người, chân lập tức quét một đường, hất cát dập lửa, tay đập thêm mấy nhánh cỏ lên, loáng cái đống lửa ban nãy chỉ còn lại tro than, thậm chí cả làn khói mỏng cũng không còn. Cả hai người kéo nhau, nấp sau một bụi cỏ. Tư Lĩnh nói: “Thứ đó là gì vậy nhị ca, giờ này ai đâu mà đi đưa tang kỳ cục như vậy?”
Hồng Quán: “Chính xác. Mặc dù thiên tượng đang phạm vào những điều cấm kỵ của Hành Gia, nhưng anh thấy chuyện này có điều chưa ổn, tạm thời cứ nấp vào đây đã!”
Đoàn đưa tang vô cùng bề thế, cũng đầy đủ kèn trống, cờ, đi đầu là hai người nam, chừng ba mươi tuổi, mặc đồ tang, xõa tóc, cúi mặt cầm một bát hương đỏ cả nhang. Kế bên anh ta là một người thanh niên khác, chừng hai mươi ngoài, mặc áo bà ba, chân quấn xà cạp, ra dáng là dân học võ. Phía sau là đoàn đưa tang hơn hai mươi người, quan tài có hình dáng kỳ lạ, trông như một cái kiệu dài, cao chừng nửa thước, dù vẫn có mái và rèm hệt như kiệu xưa, được sơn đỏ, tay kiệu sơn đen, đầu tay kiệu có vẻ chạm khắc hình đầu con phụng và con hoàng. Hồng Quán cố quan sát kỹ, cũng nhờ có ánh đuốc từ đoàn người, Hồng Quán có thể tin rằng đúng là có họa tiết ấy, quan tài được giả làm kiệu, hông kiệu vẫn là họa tiết “Phụng Hoàng Đằng Hải”, nghĩa là phụng hoàng bay qua biển, ngụ ý nam nữ cùng nhau vượt qua khó khăn sóng gió.
Tư Lĩnh giục: “Nhị ca, đệ thấy ở đây làm chi, cuốn gói đi là hơn, lỡ như bị phát hiện thì sao?”
Hồng Quán chặn tay, lại, “suỵt” một tiếng rồi nói: “Linh cảm của anh quả không sai! Cái này không phải đưa tang đâu!”
Tư Lĩnh ngơ ngác: “Rõ ràng là đưa tang mà?”
Hồng Quán cười nhẹ, hỏi: “Em có nghe đến chuyện “rước tang mồng mười đưa cưới mồng ba” chưa?”
“Chưa nghe qua, phải là đưa tang rước cưới chứ? Phải chăng là từ đồng dao?”
Hồng Quán lắc đầu: “Không phải đâu, đồng dao là để con nít đọc lúc chơi trò chơi ngoài ruộng đồng, ai lại dạy con nít mấy thứ đồng dao vớ vẩn ấy. Em xuống núi đã lâu mà chưa biết đến chuyện rước tang đưa cưới, thì còn thiếu sót lắm đó!”
Hồng Quán kể, tập tục mai táng, hoặc những thứ liên quan đến tâm linh ở vùng này từ thuở xa xưa tồn tại rất nhiều điều kỳ quặc. Nếu có một cặp vợ chồng chẳng may bệnh chết cùng lúc, người ta tin rằng họ vì sống chết có nhau mà chẳng nhớ được đường về nhà, cũng như là dễ bị ngạ quỷ lôi kéo, gây chia cách, cho nên có một tập tục trước ngày “cửu tức”, nghĩa là bốn mươi chín ngày, chọn ra một ngày mùng mười, làm lễ thỉnh họ từ phần mộ, đưa vong hồn quay về nơi thờ tự tại gia để tránh thành ma đói, cái đó gọi là rước tang.
Đưa cưới thì thấy nhiều hơn, nếu có người chết trẻ, mà chưa thành gia lập thất, nếu họ là con nhà quyền quý, thế nào gia đình cũng sợ kiếp sau họ cô đơn lẻ loi, lại trở thành cô hồn vất vưởng, bèn làm lễ cưới cho họ với một hình nhân giấy, nếu nhà giàu hơn nữa thì dùng người thật. Lựa canh ba mồng ba đến bên mộ, làm lễ y như cưới thật, xong xuôi cho người đó ngủ lại trên nắp quan qua đêm thì coi như đã làm xong “đám cưới ma”. Dĩ nhiên trường hợp này, người kia hẳn phải nghèo mạt rệp mới chọn cách như vậy. Dân ở đây không gọi là “đám cưới ma” đơn thuần, mà gọi là “đưa cưới”, ngụ ý rằng dù người chết kia có là nam hay nữ, thì hành động “cưới” này cũng như là thủ tục để tiễn họ về thế giới bên kia, như cô dâu về nhà chồng, mới dùng từ “đưa” cho thuận miệng.
Hồng Quán chỉ vào đoàn người đằng kia, quan tài kiệu, họa tiết phụng và hoàng, kiệu đỏ tay đen, lại có chạm khắc phụng hoàng song thủ ở hai đầu tay kiệu, Quán cho rằng đây chính là “rước tang” chứ không gì khác. Tư Lĩnh nghe xong, tuy đã hiểu “rước tang đưa cưới” là cái gì, nhưng vẫn không hiểu tại sao Hồng Quán muốn ở lại.
Hồng Quán thở dài: “Em thử nghĩ xem, để làm đám rước tang như anh nói, một là nhà đó giàu, hai là phải chưa quá bốn mươi chín ngày, em đoán xem đoàn rước tang đó đang đi rước mồ nào?”
Tư Lĩnh giật mình: “Trời đất, chẳng lẽ là cái mộ mà đệ “bốc bát”?
Hồng Quán gật đầu: “Chứ còn gì nữa! Người đứng ra làm mấy cái vụ rước tang này, đều là dân thầy bà đạo hạnh cao thâm, nếu để họ phát hiện ra xác bên dưới đã bị “bốc bát”, thế nào cũng lần ra được manh mối của đệ, Hành Gia kỵ nhất chuyện bị phát hiện, đệ “sàng tro” lại quá bất cẩn, nên chú ý hơn!”
Tư Lĩnh chậc lưỡi, chuyện đi “sàng tro”, tức là đem xác dưới mộ đi lừa gạt, lão tiến hành tương đối gần nơi bốc bát, trời xui đất khiến thế nào lại dính ngay bát hương chuẩn bị rước tang, may mà Hồng Quán phát hiện sớm, bằng không sắp tới Tư Lĩnh không về Bạc Liêu làm ăn được nữa.
Tư Lĩnh hỏi: “Làm sao bây giờ nhị ca?”
Hồng Quán suy nghĩ, kề tai Tư Lĩnh nói nhỏ gì đó. Cả hai chia ra hai hướng để hành động.
Đoàn người tiến lại gần mộ, người nam đi đầu nói: “Phía trước đó đạo trưởng, mời ngài qua xem!”
Người mặc áo bà ba kia tiến lên. Khuôn mặt vô cùng uy dũng, mắt như diều hâu, mũi to, trán rộng, không để râu, nhìn khuôn mặt tuy trẻ nhưng vô cùng rắn rỏi. Người này đảo mắt qua phần mộ, chính xác là mộ mà Tư Lĩnh đã bốc bát, hệt như dự đoán của Hồng Quán. Bỗng nhiên, anh ta thấy có người nằm sõng soài giữa hai nấm mộ, đang rên lên ư ử, vội chạy đến xem, thì ra là Hồng Quán!
Đám người đằng sau kêu lên nhao nhao: “Gì vậy cậu Hai Sửu?”
Người cầm lư hương là Hai Sửu, quay ra sau nói: “Tụi bay để yên cho thầy làm, hình như có biến, tránh ra xa một tí!”
Người mặc áo bà ba đến bên Hồng Quán, xem còn thở không, đưa đèn đến soi kỹ khuôn mặt, thấy dính đầy đất cát, trong họng còn rất nhiều sình non, cổ có dấu tay bóp, kẽ miệng rỉ ra bọt trắng, đoán chừng là bị ma giấu.
Người này dựng Hồng Quán dậy, cho người xoa dầu, móc họng, anh ta thì lấy ra một nhúm cỏ khô để trong túi, vò nát, trộn với dầu gió, đổ vào miệng Quán, chừng nửa nén nhang thì Quán ho sặc sụa rồi từ từ mở mắt ra, vừa thấy đám người trước mặt liền kêu rống lên: “Đừng gϊếŧ tôi, đừng gϊếŧ tôi, trời ơi ma!”
Người đạo trướng chụp lấy vai Quán, bóp mạnh, nói: “Đừng sợ, chúng tôi là người!”
Tất cả đứng im nhìn, Quán sợ hãi, run lập cập: “Người… người gì mà…đi đưa tang nửa đêm như vầy? Mà đây là chỗ nào?”
Người đạo trưởng giải thích cho Quán nghe là anh ta đang làm một số thủ tục giúp âm phần của nhà này, vô tình gặp Quán, trông như bị ma giấu, bèn hỏi lại sự tình. Quán uống nước, ngồi thở lại bình thường rồi kể.
Bận chiều, Quán đi bộ về hướng xã, đi ngang con đường đất cỏ cây um tùm thì thấy có hai người, một nam một nữ, trông như cặp vợ chồng, đang bán bánh bao. Bánh bao thơm lừng, Quán cũng đang đói bụng, liền ghé vào mua hai cái. Ngộ cái là hai người kia chẳng ai nói lời nào, cứ cúi đầu, ra dấu. Quán thấy bánh thơm ngon, ăn liền hai cái, lát sau tự dưng thần trí bất minh, thấy hai ông bà kia đứng lên, rẽ cỏ đi vào trong bụi cây thì đi theo, tỉnh dậy thì thấy mình đã nằm ở nghĩa địa này!
Đạo trưởng nghe xong liền thất kinh, vội bấm quẻ, nói: “Không ổn rồi! Hành xung gặp quỷ khí, thiên tượng “quang dã lôi dã”, là điềm bất tường, không khéo bên dưới đã thành cương thi rồi cũng nên!”
Quán nghe đến đó thì giật mình, phen này gặp phải cao nhân, may mà bày mưu ra trước, bằng không thì hỏng với tên đạo trưởng này.
Người kia lui ra, bảo Quán đứng về sau, nói đoạn anh ta quay sang, kêu gia đinh lên đập mộ ra nhanh lên, bằng không khi để hóa cương thi hoàn toàn, cả làng cả tổng này sẽ gặp họa lớn. Quán nghe thấy vậy thì im lặng lui ra, không biết Tư Lĩnh liệu có làm đúng như lời dặn hay không.
Tám người lên đập mổ, đạo trường ngồi xếp bằng trước bia mộ, im lặng, nhưng khóe môi mấp máy như đang đọc chú. Quán hồi hộp chờ đợi. Chừng sáu nén nhang, phần mộ ở trên đã dọn xong, bắt đầu đào lên, bỗng người ở kêu: “Cậu Hai ơi, không hiểu sao đất nóng quá!”
Hai Sửu chạy lên, lay vai đạo sĩ: “Thầy Ba, Thầy Ba coi dùm con, có cái gì vậy Thầy?”
Người kia trừng mắt, đứng dậy, sờ đất trong huyệt, nói: “Mấy người leo lên nhanh!”
Đám người ở phải đi rước tang trong đêm ma quái thế này vốn đã sợ cúm giò, nay đào huyệt gặp đất lạnh thì không nói, lại là đất nóng, nghe đạo sĩ kêu vậy thì ba chân bốn cẳng phóng vèo lên hỗ, đứng ngóng xuống, xem đạo sĩ làm gì. Đạo sĩ đứng ở mé huyệt, dùng một cây đòn gánh to dùng để khiêng những cái rương lớn phía sau, một tay đóng thật mạnh xuống huyệt. Đất lập tức sụp xuống.
Trong sát na đó, Quán chợt kêu lên: “Á trời ơi ma!”
Cả đám người rước tang đang lo sợ nơm nớp, nghe tiếng kêu thất thanh bất chợt vang lên, ai nấy cũng hồn vía lên mây cả, đồng thanh hét lên, quay sang nhìn thì thấy Quán đang bò lui dưới đất, nói: “Lúc nãy có cái đầu bay ngang qua đây!”
Đám người lại nhao lên lo sợ, Hai Sửu vội lắp bắp nói với đạo sĩ: “Thầy Ba, có gì đó…” chưa nói hết câu thì Hai Sửu giật mình khi nhìn xuống huyệt, một cột lửa phụt lên, bên trong huyệt đang cháy rất mạnh, nồng nặc mùi hôi thối như đốt một con thú bị thối rữa bằng dầu thông!
Đạo sĩ khoanh tay trước ngực, thở dài: “Thiên kiếp, thiên kiếp, xác nhị vị song thân đã hóa cương thi, bần đạo đã thi triển đạo pháp, chỉ còn cách hỏa thiêu mới tránh được!”
Hai Sửu nhìn cột lửa mà sợ đến ngồi thụp xuống, mặt cắt không còn giọt máu, nói: “Được… được… không sao không sao, nhà tôi yên ổn làm ăn là được rồi… giờ… giờ về được chưa Thầy Ba?”
Đạo sĩ lại thở dài, nói: “Các người về trước đi, tôi thu xếp chỗ này ổn thỏa mới về được!”
Hai Sửu nhìn đường ra khỏi bãi tha ma, nhăn mặt: “Có cần gấp vậy không thầy? Hay thầy đi cùng bọn con về, sáng mai làm?”
Đạo sĩ đanh mặt: “Hay anh muốn vong hồn song thân anh về nhà vật cho chết không chừa ai anh mới sợ? Đông người lắm chuyện, cứ về trước đi, tôi phải làm xong mới về được!”
Hai Sửu sợ quá, đành lủi về, không quên kêu mấy đứa người ở đi đầu cho đỡ sợ ma. Hồng Quán thấy chuyện êm xuôi, định hòa vào đám người kia, bỗng nhiên vị đạo sĩ cười lớn, nói: “Đường Hồng Quán, đệ tử của Hành Gia Thiên Quân mà nay phải giả trò này để che giấu chuyện bốc bát hương à?”
Hồng Quán vừa nghe thì giật mình, may là đám người kia đã đi xa, không nghe được. Quán giả điếc, tiếp tục đi, đạo sĩ nói thêm: “Không định đến lôi đồng bọn của anh ở cái huyệt giả đằng kia lên à? Đồng đội gì mà thiếu trách nhiệm vậy?”
Đến lúc này, Hồng Quán không thể giả điên được nữa, quay lại đối mặt với người đạo sĩ nọ. Quán chắp tay thi lễ, nói: “Đường Hồng Quán, Hành Gia, chẳng hay cao danh quý tánh của đạo hữu?”
Người đạo sĩ cười lớn, cũng chắp tay, nói: “Đoàn Phúc Nguyên, Lý Tôn Tử, nghe danh đã lâu, đúng là muốn diện kiến lại không được, vô tình mà lại có duyên là đây!”
Tư Lĩnh nấp dưới huyệt, nghe được cuộc nói chuyện, biết lúc này đã có thể xuất hiện, liền đứng lên, đi về phía Phúc Nguyên.
Phúc Nguyên nhìn Tư Lĩnh thì chào: “Nghe danh Cao Ma Lĩnh đã lâu, hân hạnh hân hạnh!”
Tư Lĩnh nói: “Nhị ca, tên này là sao vậy?”
Hồng Quán nhìn Phúc Nguyên một hồi, nói: “Có nghe danh ông anh đây giỏi trừ yêu diệt ma, nằm trong một giới bí mật của giang hồ lục tỉnh, nay sao lại che giấu chuyện bọn tôi bốc bát ở đây?”
Phúc Nguyên nói: “Ôi, quan tâm đám trọc phú ác ôn đó làm gì, chúng chết rồi, bị Hành Gia các anh bốc bát, e cũng là chưa đền được tội đâu, tôi còn định hạch sách hù dọa chúng thêm nữa, nhưng khi phát hiện các anh là Hành Gia, tôi lại hết hứng, chỉ muốn đuổi chúng về để nói chuyện cùng các anh mà thôi!”
Hồng Quán hỏi làm sao Phúc Nguyên biết được anh là Hành Gia? Phúc Nguyên nói, nhìn anh giả vờ bị ma giấu rất đạt, nhưng trong nghề cả, xem sình non trong miệng anh có dấu dùng tay anh nhét vào, rồi đất dưới huyệt có mùi dầu hỏa tràm keo, vốn là thứ Hành Gia đem theo đốt cương thi. Phúc Nguyên đoán biết được, có lẽ mộ này đã bị bốc bát, Hồng Quán câu giờ để Tư Lĩnh lẻn vào, đổ dầu châm lửa, thiêu quan tài, xóa vết tích.
Hồng Quán gật đầu: “Khen cho anh biết rõ về Hành Gia như vậy!”
Phúc Nguyên cười: “Không dám không dám, tôi quả thực cũng lăn lộn giang hồ đã lâu, nhưng dĩ nhiên vẫn có nhiều chuyện thua các anh!”
Tư Lĩnh nói: “Hia đây chớ nên vòng vo như thế, phải chăng có kèo muốn hợp tác cùng làm ăn?”
Phúc Nguyên cười, đáp: “Ô hay, Cao huynh nói đúng lắm, Nguyên tôi đến với thiện ý muốn hợp tác!”
Hồng Quán hỏi: “Chuyện gì mà giang hồ ẩn mật bọn anh lại muốn hợp tác cùng Hành Gia bọn tôi?”
“Dĩ nhiên là có thứ nằm dưới mộ, tôi muốn lấy, nhưng trong tuyệt kỹ của giới bọn tôi, chẳng có cách nào làm được, vậy nên đi tìm Hành Gia giỏi để cùng bốc cái bát. Bát hương này rất dày, thuộc loại Cổ Nhân, của nả các anh cứ lấy, tôi chỉ lấy một thứ!”
Con mèo mù trên vai Tư Lĩnh dường như linh cảm được gì đó, nó dựng lông, rên lên hừ hừ.
Chương 4: Mộ Thiên Can, Quan La Sát
Giữa bãi tha ma, lúc này đã qua canh bốn, xung quanh nổi lên từng trận gió lạnh, con mèo mù trên vai của Tư Lĩnh không biết vì lý do gì mà kêu lên hừ hừ, như lườm một địch thủ nào đó trong tưởng tượng. Giọng kêu cho thấy nó đang có điều bất an, nhưng nó dựng lông lên, nhưng chẳng di chuyển đi đâu mà ngồi lỳ trên vai của Tư Lĩnh.
Phúc Nguyên lúc này mới để ý đến con mèo, lấy tay vuốt thử đầu nó, làm nó kêu lên một tiếng sởn cả gai ốc. Phúc Nguyên nói: «Mèo Lộn Mắt, lại còn là lông đen ánh bạc, móng ngọc mũi hồng, ông anh có thú nuôi thật là quá khác người đó, không sợ có ngày chết thảm hay sao?»
Hồng Quán và Tư Lĩnh đều giật mình, đích thị Mèo Mắt Lộn này, với những miêu tả như vậy, là điềm bất tường, không sạch sẽ của dân Hành Gia, vậy nên nói đâu xa, ngay ban nãy Hồng Quán cũng thắc mắc sao Tư Lĩnh chưa gϊếŧ con mèo ấy đi. Tư Lĩnh nhìn Phúc Nguyên, nói: «Hình như huynh đây là người của Hành Gia luôn hay sao vậy? Vậy sao bảo là còn cần bọn tôi cho chuyến đi bốc bát hương?»
Phúc Nguyên cười hiền, đáp: «Sở dĩ tôi hiểu rõ về Hành Gia như vậy, âu cũng là do có cao nhân Hành Gia dạy bảo, chỉ biết được những thứ râu ria bên ngoài, ví như có biết về Mèo Mắt Lộn, chứ chẳng thể biết được cách bốc bát sàng tro, cắm nhang chạy mả của người trong nghề như các anh đây!»
Tư Lĩnh vuốt vài cái để trấn tĩnh con mèo, trả lời Phúc Nguyên: «Đừng gọi nó là Mèo Mắt Lộn hoài, nó nghe được đấy, tên nó là Bảo An. Xui xẻo thì chưa biết, mình thích thì mình nuôi thôi, không phải ngại gì cả.»
Hồng Quán nãy giờ quan sát thái độ, cử chỉ của Phúc Nguyên, thấy anh ta không thể nào là dân xoàng xĩnh tôm tép, ắt hẳn thuộc hàng phá núi ngăn sông chứ chẳng đùa, tự nhiên đương không xuất hiện một cách vô cùng trùng hợp, lại đề xuất cùng đi bốc bát hương, dĩ nhiên Hồng Quán không khỏi sinh nghi, liền hỏi: «Trở lại chuyện chính, anh nói có biết một bát hương của cổ nhân, là ở đâu, ở đó có cái gì?»
Phúc Nguyên rút tay về, xoa hai tay với nhau, chậc lưỡi, nói: «Nửa đêm nửa hôm, bàn chuyện lớn tại nơi như thế này quả là không phải lễ, hai huynh nếu không phiền, có thể về chung với tôi được không? Khi ấy cùng bàn, hẳn chưa muộn!»
Tư Lĩnh nhìn Hồng Quán, thấy nhị ca của mình gật đầu, cũng đồng ý đi về chung, dĩ nhiên hai người vẫn đề phòng, không đi trước Phúc Nguyên vì sợ bị dính bẫy. Phúc Nguyên hiểu ý thì nhoẻn cười, sấn bước lên đi trước cả hai người, vô cùng thoải mái khoan khoái, khiến Hồng Quán cảm thấy bản thân quá lo xa, thoáng chút xấu hổ. Tư Lĩnh từ đầu tới cuối đều cảm thấy chuyện này có gì đó chưa đúng, vẫn không thôi đề phòng, dù gì thì đây cũng là chốn giang hồ hiểm ác, chẳng thể dễ dàng tin người được.
Cả ba người đi ra khỏi bãi tha ma, đi chừng trăm thước đã thấy có một ngã ba, thì ra hướng Tư Lĩnh đi từ làng Hưng Trị, nếu đi thêm vài chục thước nữa thì sẽ đến ngã này. Tại ngã ba có một cây gừa rất lớn, gốc dễ phải đến ba người ôm, tán rộng chừng chục thước, bên trong lấp lánh đầy đom đóm, trông vừa lung linh huyền ảo, vừa ma quái đến đáng sợ. Những đốm sáng chớp tắt giữa chốn hiu quạnh, trông chẳng khác gì âm hồn người chết đang vật vờ nơi tán cây.
Đứng tại cây gừa, nhìn về cuối con đường rẽ này là một thôn xóm, cách chừng hai trăm thước, trông cũng có vẻ trù phú. Phúc Nguyên lúc này lên tiếng, phá vỡ sự im lặng nãy giờ: «Đây là làng Hưng Phú, vẫn thuộc tổng Thanh Phong, trong làng có tay Cả Điều, hống hách bạo ngược, hai vợ chồng mới chết, chính là cái bát hương mà Cao huynh bốc nhầm đấy. Tên này tôi định dạy cho một bài học, nhưng thôi, hắn chết rồi thì lừa tiền con hắn cũng được!»
Tư Lĩnh vẫn còn thấy bối rối vì chuyện bốc bát nhầm mộ Y Nhân, lại sắp rước tang, lão còn chưa hết xấu hổ với Hồng Quán, giờ lại bị Phúc Nguyên nhắc lại, không khỏi hổ thẹn, liền nói: «Thì ra cùng là người đi sàng tro cả, đã là sàng tro đâu thể toàn thắng, ít ra cũng có lúc lọt hố chứ!»
Ý của Tư Lĩnh cho rằng Phúc Nguyên cũng chỉ là loại người lừa đảo hệt như mình mà thôi, vậy nên chuyện nhầm lẫn là không tránh khỏi, vì lừa đảo thì đều do tham mà ra, đã tham rồi thì mấy ai tỉnh táo.
Phúc Nguyên lại cười, nói: «Để cho Cao huynh chê cười rồi, thực ra Đoàn mỗ chỉ thích trừ tà diệt ma, săn bảo vật, chuyện lừa người, rất ít khi nhúng tay vào!»
Hồng Quán nghe vậy liền nói: «Nghe danh Đoàn Phúc Nguyên đã lâu, ai cũng nói anh có một thân võ nghệ cao cường, thích hành hiệp trượng nghĩa, nay có duyên được gặp, lại nghe anh tâm sự như vậy, Quán tôi tự lấy làm hổ thẹn!»
«Đường huynh chớ khách sao! Tới khách điếm của mỗ rồi, chúng ta vào trong cùng đàm đạo.»
Khách điếm này nằm ngay đầu làng, kế bên là cổng tam quan đã cũ, sau lưng khách điếm là một bến nước, có vẻ như buổi sáng ở đây cũng là chợ, từ đây có thể đến được nhiều nơi, lục tỉnh miền tây nổi tiếng nhiều kênh rạch, đan xen chằng chịt, vậy nên di chuyển tiện nhất bấy giờ phải kể đến là ghe, tàu.
Khách điếm không lớn, nhưng sạch sẽ, đẹp mắt. Bên trong vẫn còn một ông lão đang ngồi bên ánh đèn dầu uống trà, ve một điếu thuốc rê, mắt lim dim. Phúc Nguyên gật đầu chào rồi đi ra nhà sau, Hồng Quán và Tư Lĩnh cũng làm theo. Qua một dãy hành lang nhỏ hẹp, với hơn bảy phòng nhỏ, đến phòng cuối là chỗ của Phúc Nguyên. Phòng sàn đất, vách tre đan, cửa sổ sập, nhìn ra bến sông, bên dưới cửa sổ là bãi đất bồi với những rễ bần mọc ngược lên, tua tủa như hầm chông. Tán bần phủ kín trên phòng, gió đêm thổi qua làm cành lá cọ vào mái kêu xào xạc.
Phúc Nguyên đóng cửa phòng, cài then cửa sổ, châm một cây đèn dầu để lên bàn giữa phòng, rồi mời Hồng Quán và Tư Lĩnh ngồi. Phúc Nguyên lấy trong tay nải để đầu giường ra một túi vải, đặt giữa bàn, sau đó nhắm mắt tựa như quan sát bằng linh cảm, xem xung quanh có ai theo dõi hay không mới quyết định nói chuyện với Hồng Quán và Tư Lĩnh.
Phúc Nguyên cảm thấy an tâm, anh ta mới mở gói vải, có ba lớp vải, một lớp lụa vàng, bên trong là hai miếng vải. Một miếng vải vuông, màu xám tro, trông cũ kỹ vô cùng, thậm chí có cả một số vết ố màu đen, trông không khác gì vết máu khô, một miếng vải dài hơn, màu xanh rêu nhạt. Phúc Nguyên lấy ra tấm dài, cất tấm vuông lại vào.
Phúc Nguyên đặt tấm vải dài đó ra giữa bàn, nhờ Tư Lĩnh cầm cây đèn cầy lên cao một tí cho đừng bị khuất sáng. Ba người chụm vào nhau, xem một tấm bản đồ, chia làm ba phần, một phần ba bên trái là các chữ Hán, hai phần ba còn lại là đường đi nước bước đến một nơi gọi là Thiên Tướng Cung.
Hồng Quán nhìn sơ qua, nói với Phúc Nguyên: «Thiên Tướng Tiên Cung, có phải là thứ để lại từ loạn Lâm Sâm từ hồi tiền triều hay không?»
Phúc Nguyên gật đầu, bảo rằng đúng là vậy. Tư Lĩnh hỏi: «Loạn Lâm Sâm? Có phải vào triều vua Thiệu Trị Nguyên niên của tiền triều, từng làm mưa làm gió, chỉ thua khi gặp Nguyễn Tham tri cùng Nguyễn Tổng đốc*?»
(*: Thiệu Trị Nguyên niên tức năm 1841, Nguyễn Tham Tri tức Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tổng đốc tức Nguyễn Tri Phương.)
Kể rằng, thủ đoạn xách động của Lâm Sâm là dùng bùa ngải, do các tên thầy bùa đưa ra rồi loan tin thất thiệt, ai không theo chúng sẽ bị Trời Phật hại, ai theo thì được cứu thoát, nên có lúc loạn quân lên đến bảy, tám ngàn. Ngoài Lâm Sâm, còn có tên tổng Cộng và một tên tự xưng là phò mã Đội. Còn vũ khí là đao mác, chà gạc, phãng kéo cổ thẳng. Đám quân của Sâm đều bị huyễn hoặc, tự cho mình là tiên thánh hạ phàm, thậm chí lúc chết vẫn không tỏ ra run sợ, cứ bảo là sẽ hồi sinh tái thế, tiếp tục tạo phản đến kỳ được thì thôi.
Tư Lĩnh nói : «Loạn Lâm Sâm thì biết, nhưng nhị ca à, cái Thiên Tướng Tiên Cung gì đó, sao lại liên quan vào đây?»
Hồng Quán kể, theo sử viết, Lâm Sâm vì tin lời một thuộc hạ gọi là Đạo Liễn mới khởi binh tạo phản. Đạo Liễn xuất xứ bất minh, chẳng biết gốc gác ở đâu, chỉ thấy hay tu ở động Thâm Vân, núi Anh Vũ, An Giang, có tài đi mây về gió, nhờ vậy những lời y nói Lâm Sâm mới nghe. Khi Lâm Sâm bị xử trảm, Đạo Liễn không bị bắt, nghe đâu đã nương lại quanh quẩn ở vùng Ba Thắc, Trà Vang, Trà Vinh, tuy không thu thập đồ đệ, nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện, dùng tài phép lừa gạt dân lành.
Những lần như vậy, Đạo Liễn nói rằng sẽ dùng tiên thuật, thỉnh ý nguyện của Tam Thanh mà tái sinh cho Lâm Sâm, hoàn thành cơ nghiệp. Từ đó, rất nhiều xác của quân Lâm Sâm biến mất, quan trọng nhất là bốn mươi chín ngày sau khi xử trảm Lâm Sâm, xác ông ta cũng biến mất. Bỗng nhiên có thêm một số vụ mất tích, sau có người về báo, rằng anh ta bị Đạo Liễn bắt cóc, bỏ bùa ngải, bắt làm nhân công xây dựng hầm mộ, nghe đâu là chỗ để tu luyện, gọi là Thiên Tướng Tiên Cung, nằm trong một khu rừng nhỏ, cách sông Cổ Chiên về hướng Tây chừng bốn dặm.
Khi quan binh đến, trong rừng khắp nơi vương vãi đất đá, dấu vết xây dựng đúng là còn, nhưng chẳng thấy có cung điện thành quách gì cả, chỉ là cái chằm nước ngập quá mắt cá một chút, lau sậy mọc đầy, chướng khí dày đặc. Người kia nói mãi chẳng ai tin, chuyện từ đó chìm vào quên lãng, người này mới nhân chuyện bị bắt cóc đó mà vẽ bản đồ lại nơi mà Đạo Liễn xây dựng Thiên Tướng Tiên Cung, định bụng sẽ cùng những người khác điều tra, nhưng mãi vẫn không thấy tung tích. Người này truyền bản đồ lại cho con cháu, để sau này đừng quên đường đến khu rừng năm xưa, chung quy lại, ông ta vẫn tin rằng, Đạo Liễn cất giấu bên dưới là rất nhiều châu báu tiên đơn.
Tư Lĩnh nhìn kỹ lần nữa tấm bản đồ, nó vẽ một khu rừng cách sông Cổ Chiên bốn dặm, nằm giữa sông Long Bình và Rạch Thuồng Luồng, trông như là địa phận của làng Cái Xuôi, quận Bàng Đa, Trà Vinh.
Chữ Hán bên trái mô tả lại các vật mốc và cách đi đứng, hoặc mô tả lại quy mô của thứ gọi là Thiên Tướng Tiên Cung.
Hồng Quán trầm ngâm, hỏi: «Cái bát này không phải là cái bát khó mà anh nói đúng không? Tôi cho rằng, vẫn còn một cái nữa!»
Phúc Nguyên vỗ đùi, nói: «Đúng là không qua mắt được Đường Hồng Quán anh mà!»
Hồng Quán đặt tay lên bàn, nhích người về phía Phúc Nguyên, hạ giọng nói nhỏ: «Tôi đoán ra sơ sơ. Nhưng trước hết, tôi cứ nghĩ không cần phải biết quá nhiều về anh, nhưng sau khi xem thứ này, tôi phải hỏi kỹ, anh là ai? Tại sao có được thứ này?»
Phúc Nguyên chậc lưỡi, nói: «Không phải tôi muốn giấu, mà chuyện khá dài, và không biết nói ra các anh có tin hay không, thôi thì trước khi bốc cái bát nhỏ này, tôi cũng muốn kể lại một chút truyện có liên quan đến các anh.»
Phúc Nguyên nhân đó kể lại câu chuyện hơn ba tháng trước.
Hành Gia đặt dấu chân của mình tại lục tỉnh ngót ngét gần sáu mươi năm, môn đệ kỳ thực không nhiều, nhưng đa phần đều là những người học một biết mười, gan dạ. Vùng lục tỉnh địa hình đồng bằng, nếp sống khác xa Hồ Nam quê cũ, chẳng có ai chết xa nhà để mà dùng lại cái mánh tống xác, đành dựa vào những bí thuật tống xác như «hóa bích», «đào thủy», «tiềm thi» mà tạo ra các bí quyết «hành hương», làm cho xác bị kéo ra khỏi quan mà vẫn còn tươi mới, lâu phân hủy, thậm chí dùng Miêu Ngọc còn có thể khiển thây dễ như múa rối. Trong các môn đồ của Hành Gia Lão Tổ Tông có một người xưng là Hành Gia Thiên Quân, vốn từ nhỏ theo sư phụ đi tống xác, sau về lục tỉnh cũng là những người đầu tiên đi hành hương, bảy mươi tuổi mới nhận đồ đệ. Thiên Quân có ba đệ tử, người thứ nhất là Thái Văn Khởi, thứ hai là Đường Hồng Quán, thứ ba là Cao Ma Lĩnh.
Thiên Quân về sau đi săn Thi Nhân Hành Gia, bị vật, tuy chưa chết ngay nhưng nội thương rất nặng, chẳng lâu sau thì mất. Thiên Quân để lại cho Văn Khởi một số đồ vật, trong đó có Thiên Tướng Tiên Cung Đồ, là thứ đang ở trong tay của Phúc Nguyên.
Ba tháng trước, Phúc Nguyên kể, trong một lần y tìm bảo vật tại mộ cổ hơn bốn trăm năm tại Vĩnh Long thì phát hiện ra một bức mật đồ. Trên đường đi tìm thêm tung tích để có thể hiểu được mật đồ, Phúc Nguyên gặp một toán thổ phỉ đang vây đánh một người. Phúc Nguyên liền trợ ứng, hai người liên thủ đuổi được phỉ. Người kia sau đó mới xưng là Văn Khởi. Hai người kết giao, đối ẩm cảm thấy như tri kỷ lâu năm, cả hai đều đem tuyệt kỹ trong giới của mình ra để trao đổi nhau.
Qua lời kể, Phúc Nguyên mới biết được tên gọi chính thức của Hành Gia, dù trước đây cũng đã biết về những người chuyên đi trộm mộ. Việc làm tuy nghe qua có vẻ thất đức, nhưng thời cuộc vốn là thứ khó định, chẳng dễ dàng gì phân định được tính đúng sai phải trái, thông qua lời kể của Văn Khởi, Hành Gia chỉ chuyên trộm mộ của kẻ cường hào ác bá mà thôi.
Văn Khởi kể qua về Hồng Quán và Tư Lĩnh thì Phúc Nguyên đều đã nghe qua danh. Đường Hồng Quán vốn mồ côi từ nhỏ, làm nghề khiêng hòm, đào huyệt, lấy cốt từ nhỏ, bản tính lanh lẹ, gan dạ, hay hành hiệp trượng nghĩa, từ ngày học xong đạo thuật của Thiên Quân thì thường đi đó đây trừ cương thi.
Tư Lĩnh thực chất lớn tuổi hơn cả Văn Khởi, nhưng vì nhập môn sau hai người kia, Hành Gia lại là nơi có bang quy khắt khe, Tư Lĩnh phải xưng em với hai người sư huynh. Tư Lĩnh vốn có xuất thân thương gia, nhưng gia sản sớm lụn bại, sau đó học đạo, làm thầy pháp, trên vai lúc nào cũng có con Mèo Mắt Lộn.
Trong cơn say, Phúc Nguyên kể về mật đồ mà mình tìm được, Văn Khởi hết sức tò mò, mới lấy tấm của mình ra, thấy cách trình bày của cả hai rất giống nhau, đều nói đến hai khu mộ, đối xứng nhau qua con sông Cổ Chiên, hệt như vòng âm dương vậy! Hai bát hương Cổ Nhân này, theo lời Văn Khởi, sư phụ Thiên Quân từng nói bên dưới mộ «âm» có «dương», và bên dưới mộ «dương» có «âm». Thứ mà Phúc Nguyên đang tìm, chính là thứ cực âm, nên nó sẽ để trong mộ dương. Văn Khởi nói bản thân không quan tâm đến việc bốc cái bát cổ nhân ấy, vì nó quá nguy hiểm!
Phúc Nguyên từ ngày đặt chân vào giới giang hồ ẩn mật, nghe truyền thuyết về thứ cực âm bên trong mộ dương kia, lòng đã luôn nghĩ về nó, nay manh mối lại xuất hiện sờ sờ trước mặt, dễ gì vì hiểm nguy mà bỏ qua. Phúc Nguyên bèn hỏi nguy hiểm ấy là gì, Văn Khởi nói: «Bố cục mộ vô cùng hung hiểm, chính là thứ mà Hành Gia bọn huynh gọi là Mộ Thiên Can, Quan La Sát, mười người vào đều không ai trở ra, nói gì đến việc bốc bát!»
Cả đêm ấy, Văn Khởi trình bày cho Phúc Nguyên nghe sơ lược về cái gọi là Mộ Thiên Can, Quan La Sát, nhưng tiếc là không thể đi theo Phúc Nguyên được, vì lòng đã quyết là sẽ rửa tay gác kiếm, rút khỏi giới giang hồ, lui về sống cùng vợ con. Phúc Nguyên thấy không thể thuyết phục được cũng thoáng buồn, Văn Khởi nói: «Việc này, ta tin hai sư đệ của ta có thể sẽ đồng ý đi bốc bát hương với đệ, đệ cứ đi tìm Hồng Quán và Ma Lĩnh, hai đứa bọn nó rất giỏi, đặc biệt là thằng Quán, đem theo Thiên Tướng Tiên Cung Đồ này làm tin cho bọn nó, bảo rằng đã gặp được ta, hẹn chúng mồng một tết năm nay nhớ đến nhà ta uống rượu mừng!»
Phúc Nguyên cầm Thiên Tướng Tiên Cung Đồ trên tay, định hỏi thêm thì Văn Khởi đã hiểu ý, nói: «Dù gì thì đệ cũng sẽ cần đồ này cho chuyến bốc bát sắp tới, đây là mộ âm có vật dương bên dưới, thu được vật dương, ít nhiều sẽ giúp ích cho chuyến vào mộ dương lấy vật âm!»
Phúc Nguyên từ biệt Văn Khởi, sau ngày ấy thì đi khắp lục tỉnh, tìm kiếm tung tích của Hồng Quán, mãi không xong, ai ngờ vừa lúc hết tiền, định «sàng tro» một ít từ nhà Cả Điều thì lại gặp ngay Hồng Quán và Tư Lĩnh.
Phúc Nguyên kể xong, Hồng Quán và Tư Lĩnh đều trầm ngâm, hồi lâu sau, Hồng Quán mới nói: «Mộ Thiên Can, Quan La Sát thú thực trước giờ Quán tôi chỉ nghe thôi, chưa bốc được bát hương nào bố phòng theo kiểu ấy cả, nhưng nay nghe anh nói vậy, trong lòng không khỏi phấn khích, muốn liều cái mạng này một phen!»
Tư Lĩnh cầm bản đồ, xem qua địa thế, phát hiện được gì đó, liền kéo Hồng Quán đến xem: «Nhị ca, cái này là Toàn Can đó, trên dưới trái phải, tất cả đều hung hiểm, sao vào được đây?»
Phúc Nguyên nghe xong không tránh khỏi hàng tá câu hỏi trong đầu về độ nguy hiểm của thứ gọi là Mộ Thiên Can Quan La Sát này!
Chương 5: “Kênh vắng, trời chiều, ma trêu quỷ chọc”
Tư Lĩnh vừa nói dứt lời, Hồng Quán liền cười, đáp: “Đến giờ em mới phát hiện sao? Chính vì nó là Toàn Can nên anh mới hứng thú như vậy đó!”
Phúc Nguyên nãy giờ nghe đến Mộ Thiên Can Quan La Sát đã ù ù cạc cạc, vốn kiến thức sơ sơ mà Văn Khởi nói lần trước, từ sớm đã không đủ giải thích, nên nhân dịp này cũng muốn hỏi kỹ về thứ bố cục mộ phần kỳ lạ đó.
Hồng Quán giải thích, Mộ Thiên Can Quan La Sát có hai loại, một là thứ du nhập vào cùng thời với sự xuất hiện của Hành Gia ở lục tỉnh, có thể gọi là khắc tinh số một của Hành Gia; hai là loại dành cho bát hương của Cổ Nhân, có từ xa xưa, chính là thứ để đời sau học theo mà ngăn chặn Hành Gia.
Chuyện mộ phần bị trộm, đời nào chẳng có, nhưng chỉ đến khi Hành Gia xuất hiện, chuyện thất đức như vậy được nâng lên tầm cao mới, khiến những nhà lắm tiền nhiều của không khỏi đau đầu khi lo sợ mộ phần của mình bị bốc bát hương, báu vật chôn theo thậm chí là cả thân xác cũng bị đem đi lừa lọc, nghĩ thôi ai mà chẳng tức, vậy nên mới sinh ra những người ngày đêm nghiên cứu các phần mộ đã bị bốc bát, hoặc những Hành Gia bị bắt lại, từ đó tạo ra một kiểu mộ phần an toàn, khiến con cháu Hành Gia Lão Tổ Tông bỏ mạng không ít. Thứ ấy là Mộ Thiên Can, Quan La Sát.
Thiên Can ở đây chính là mười Thiên Can, gồm Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm Quý. La Sát là cạm bẫy.
Thiên Can được phân theo tính chất.
Giáp có nghĩa là mở, chỉ vạn vật bắt đầu phân tách.
Ất nghĩa là kéo, chỉ vạn vật hội tụ.
Bính là đột ngột, chỉ vạn vật xuất hiện.
Đinh là mạnh, chỉ vạn vật bắt đầu mạnh lớn lên.
Mậu là rậm rạp, chỉ vạn vật phát triển sinh sôi.
Kỷ là ghi nhớ, nghĩa là vạn vật bắt đầu có sự sai khác.
Canh là chắc lại, chỉ vạn vật bắt đầu có quả.
Tân là mới, chỉ sự thu hoạch.
Nhâm là gánh vác, chỉ vạn vật được nuôi dưỡng.
Quý là đo, chỉ vạn vật được đo đếm, tính toán, ghi chép.
Đó chỉ mới là sơ khởi về ý nghĩa của Thiên Can. Các Can này lại được chia theo Âm – Dương, Phương Vị, Ngũ Hành, mỗi thuộc tính lại sắp một số Can vào đó. Mộ Thiên Can thông thường, Hành Gia đơn sơ gọi là Nhất Can, chỉ được xây dựng dựa trên một cách chia của Can, và một Can được lấy theo tuổi của mộ chủ. Ứng với mộ kiểu này, cũng chỉ có một Sát được dùng, ấy vậy mà Hành Gia còn không bốc bát được, thì Toàn Can còn cỡ nào nữa. Nói về Toàn Can, Hành Gia chỉ biết ghi chép từ đời này qua đời khác, hỏi nhau về những trải nghiệm khi gặp Mộ Thiên Can, không phải vì mong muốn được bốc bát trọn vẹn, mà chỉ là mong còn cái mạng đi ra, rút nhanh khi thấy mà thôi.
Quan La Sát, nghĩa là quan tài của chủ mộ được chế tác đặc biệt, có khóa, có bẫy rập cơ quan, đa phần dùng khí độc, trùng độc, hễ mở quan ra thì lập tức dính bẫy, chết đau đớn vô cùng.
Nếu nói Mộ Thiên Can xưa nay chưa có Hành Gia vào được, vậy làm sao biết được có Quan La Sát? Thực ra phương thức sơ khai của Quan La Sát chính là muôn hình vạn trạng loại quan tài có cài bẫy mà người ta đặt vào hầm mộ, bảo vệ mộ chủ, vì lỡ như trộm mộ vào được rồi, cứ cho bọn chúng lấy hết báu vật, để yên cho thân xác mộ chủ là được.
Loại này Hành Gia trước đây vẫn hay gặp, gọi là bát hương cũ, kỳ thực phá giải không phải không được, nhưng rất mất thời gian và nguy hiểm, nên khi Hành Gia gặp thứ này, ít khi lấy xác ra làm gì cho thêm chuyện.
Vậy Mộ Toàn Can là sao? Khi người xây mộ áp dụng hết thảy các đặc tính của Thiên Can, mộ sẽ có nhiều lớp, đoán chừng là lớp Âm Dương, Phương Vị, Ngũ Hành. Mộ này vừa bảo vệ mộ chủ, vừa áp dụng phong thủy, xây được dĩ nhiên không phải dễ, Hành Gia xưa nay chỉ gọi như vậy, chưa nghe được người nào phá trận thành công.
Vậy điểm khác biệt giữa hai loại Mộ Thiên Can Quan La Sát, giữa một bên là có từ xa xưa, và một bên mới được tạo ra khi Hành Gia xuất hiện, nằm ở điểm nào, chính là không gì khác ngoài mộ thất.
Bát hương Cổ Nhân có mộ thất, rộng, thường có số đo theo quy chuẩn phong thủy, có đường đi, có cửa vào, dĩ nhiên sau khi hạ táng thì đã lấp lại. Miền tây do địa hình phần lớn đất mềm, ít đồi núi, bát hương Cổ Nhân tuy lớn, nhưng cũng ít khi to quá cái nhà tranh. Thiên Can ứng vào trường hợp này có diện tích lớn, bố phòng có khoảng cách, tường dày, đá cứng.
Bát hương sau này nhỏ, mộ phần lộ thiên, thường có người trông coi, chu vi mộ chỉ tầm trăm thước đã là lớn, nhưng phần mộ bên dưới không lớn, do vậy Thiên Can dùng có giới hạn, lại liền kề nhau liên tục, độ khó để phá giải cũng tăng lên.
Chung quy thì loại nào cũng khó cả, nhưng Hành Gia là nơi quy tụ những người liều mạng, chuyện thất đức phạm đến âm phần còn làm không ghê tay, chẳng sợ quả báo, vậy nên bát càng khó, thể nào cũng sẽ có những Hành Gia lại càng khoái.
Hồng Quán tuy tránh xa chuyện bốc bát sàng tro thất đức ấy, nhưng dù gì cũng là con cháu của Hành Gia Lão Tổ Tông, chuyện liều mạng đã ăn sâu vào máu, nghe có một bát hương Cổ Nhân thì lòng đã nóng hơ, chỉ tiếc không đến ngay được.
Lại nói chuyện nhìn bản đồ đoán được đó là mộ nào, đây không phải là chuyện gì cao siêu cả, chỉ là căn cứ vào Phương Vị, địa thế và bố phòng xung quanh, có thể luận ra ít nhiều về bát hương bên dưới. Vì muốn dùng Thiên Can, phải căn cứ Phương Vị, Âm Dương, Ngũ Hành của đất đó. Mộ này nằm gần sông, trong rừng, theo bản đồ thì hướng gió và nắng vẫn đủ đầy, đã nghe đến những lần bốc bát gặp loại này của tiền bối, nên đời sau luôn cẩn thận khi bốc bát Cổ Nhân, xem có vướng phải thứ khó gỡ này hay không.
Hồng Quán nói xong, Phúc Nguyên trầm trồ kinh ngạc, không ngờ được rằng một nhóm người như Hành Gia mới xuất hiện chưa được trăm năm lại đúc kết được nhiều thứ như vậy, nói thế chẳng phải bao nhiêu cái bát hương đã bị những người này vét sạch rồi? Phúc Nguyên thoáng chau mày, đúng là giới giang hồ ẩn mật tại lục tỉnh này, sống bằng đủ thứ nghề, có khi cái nghiệp tạo ra sẽ đến ngày giáng xuống một cách giận dữ!
Hồng Quán thấy Phúc Nguyên suy tư liền hỏi: “Vậy đại ca của tôi có đưa anh Thiên Tướng Tiên Cung Đồ này, dặn đi lấy bảo vật bên trong mộ Đạo Liễn, sau đó anh mới đi đến mộ còn lại?”
“Đúng vậy. Cũng may tìm được các anh, không thì biết đến bao giờ tôi mới vào được hai cái mộ đó!” Phúc Nguyên thấy Hồng Quán hỏi thì đáp, trong bụng vẫn không thoát khỏi gánh nặng của suy nghĩ vừa rồi.
Tư Lĩnh nói: “Bốc bát hương Cổ Nhân đã khó, gặp Toàn Can nữa thì làm sao đây nhị ca?”
“Chúng ta phải chuẩn bị dụng cụ lại mới được, Tỏa Sơn Tiên của anh, e là không dùng được trong mộ đó rồi!”
Hồng Quán vừa nói, vừa cầm cây tre mà ban nãy đã thít thòng lọng hai con cương thi. Thứ này là dụng cụ của Hành Gia, làm từ cây tre già, ngâm dầu, hơ lửa, dẻo dai cứng chắc vô cùng. Bên trong đυ.c rỗng, một đầu là thòng lọng, một đầu là dây kéo, nói thẳng ra chẳng khác gì thòng lọng chụp đầu chó kéo đi cả. Hành Gia gọi là Tỏa Sơn Tiên cũng là nói lên công dụng của thứ này, Tiên là “roi”, thường dùng cho loại vũ khí bằng sắt, đập vào một phát xương cốt gãy nát. Cây tre ngâm dầu cứng chắc, lại có thòng lọng trói chặt, nên gọi là Tỏa Sơn Tiên.
Hành Gia cũng không thể thiếu thứ vải trắng bó thành cuộn, gọi là đắp chiếu mộ tổ, trên ấy ghi rất nhiều những bùa chú, làm cho ma quỷ đều khó lòng dùng được tài phép, thường đắp chiếu chỉ dành cho khi cắm chân nhang gặp mộ tổ mà thôi.
Phúc Nguyên nói: “Vậy chuẩn bị cần những gì, cứ nói, Phúc Nguyên tôi sẽ chuẩn bị chu đáo!”
Hồng Quán cười: “Những thứ ấy cần phải gặp thợ chuyên rồi. Tôi có quen một người thợ rèn rất có tiếng ở Mỹ Tho, anh ta sẽ làm được những thứ mà tôi cần, giờ chúng ta nằm nghỉ một chút, sớm mai bắt ghe đi Mỹ Tho một chuyến cũng không muộn!”
Phúc Nguyên cứ lo rằng không chuẩn bị được, nghe Hồng Quán nói có người quen có thể làm những thứ ấy thì vui vẻ hẳn, liền đích thân chuẩn bị chỗ ngủ cho Hồng Quán và Tư Lĩnh.
Đêm ấy cả ba chẳng ngủ được bao nhiêu, mỗi người đều lo một kiểu.
Giữa giờ Mão, ba người đã chuẩn bị sẵn sàng, nai nịt gọn gàng, đón ghe ở bến sông. Tư Lĩnh sợ Bảo An bị người ta để ý, nên bỏ nó vào túi vải, chừa một khoảng để nó thở.
Mỹ Tho ngày ấy là nơi phồn hoa, muốn đi cũng không khó, có điều ngồi ghe hơn hai ngày mới đến, ghe dừng ở nhiều nơi để đón trả khách. Thường là các ghe chở hàng, đón thêm khách để kiếm thêm tiền mà thôi, người quá giang sẽ mắc võng trên khoang, hay trước mũi, hoặc trải chiếu uống trà, đánh bài, ghe rộng hơn tí thì đá gà giải khuây.
Nhóm ba người đón được một chiếc ghe lúa đi lên Mỹ Tho, trên ghe có hai vợ chồng già chủ ghe, ba người khách quá giang khác. Ghe đi đến chiều thì vào đoạn kênh nhỏ, theo lời chủ ghe thì từ đây đổ ra sông Hậu còn chạy đến tầm giữa đêm.
Ba người nhìn hai bên bờ toàn một cảnh rừng cây âm u rậm rạp, thê lương vô cùng. Những đoạn đất yếu, sóng dập nhẹ gây ra xói lở, hình ảnh sông đôi bờ bên lở bên bồi không hề thơ mộng chút nào. Một số nơi, lâu lắm trước kia còn là đất xa sông, người ta chôn cất ở đó, sau này do nhiều lý do mà ly tán khỏi cố hương, mồ mả không ai trông coi, bờ sông sạt lở vào tận trong, khiến mộ sụp xuống, một số chỗ còn lòi ra cả quan tài, hay quan tài bị mục lòi ra tay chân người chết không phải là hiếm. Nãy giờ có hơn chục ngôi mộ bị như vậy, trong cái không gian chập choạng sáng tối, hình ảnh ấy vừa ma quái vừa buồn bã đến nao lòng.
Kỳ thực những đoạn kênh kiểu như vầy ở lục tỉnh nơi nào chẳng có, bản thân ba người bọn họ đi qua không biết bao nhiêu lần, ấy vậy mà lần này đi lại thấy lạnh lẽo đến lạ, khỏi cần nói cũng đủ biết họ đã dự phòng tình huống xấu nhất, dù gì cũng đều là dân lăn lộn qua không ít hiểm nguy.
Tư Lĩnh nói: “Sao đệ thấy có chút bất an nhị ca? Phen này có khi nào bị quấy phá không?”
Hồng Quán nói: “Chưa biết được, cứ chuẩn bị là hơn.”
Đột nhiên ông chủ ghe nóng lạnh như trúng gió, cứ thế đổ gục ra, mọi người chạy vào xem thì thấy bị trúng gió thật, mắt đờ đẫn. Người vợ liền nhờ một người trong nhóm khách lên chạy tiếp, để ông chủ đắp mền nằm kế bên, rên lên hừ hừ, trông sốt cao lắm, miệng cứ lẩm nhẩm: “Sắp tới rồi, sắp tới rồi…”
Người vợ thấy vậy mới nói đợi bà cạo gió cho thì ông ta không chịu, nói lí nhí: “Tôi lạnh quá, lạnh quá, đừng cạo gió, đoạn đằng trước quẹo trái, chạy xíu tới xóm Nhà Lá tìm ông Tư, cho tôi uống thuốc…”
Người vợ vuốt trán, thấy trán ông nóng hổi, sợ quá, nói: “Ráng lên ông ơi để tui nhờ cậu này chạy vào đó…”
Người vợ nhờ người khách đánh ghe quẹo trái, quả nhiên chạy xíu đã thấy ngã rẽ, nhỏ hơn con kênh này, nhưng cũng đủ chạy, lát sau thì dần rộng ra. Đã qua cuối giờ Dậu, trên trời đã thấy sao hiện ra lốm đốm phân nửa, nửa kia chìm dần sang tối. Trước mặt có một thôn xóm đúng như lời ông chủ ghe nói, có chừng bốn, năm mái nhà lá bắt sàn ra một phần ba con kênh. Bên trên có đường đi và đèn đuốc, người cầm lái liền cho ghe tấp vào một bến nước duy nhất ở đây, cầu ở bến có treo mấy cái đèn l*иg màu đỏ, cả bọn hè nhau cõng ông chủ ghe lên bờ, tìm thầy Tư gì gì đó.
Phúc Nguyên nhìn Hồng Quán và Tư Lĩnh, cả ba ngờ ngợ chuyện xảy ra quá đột ngột.
Tư Lĩnh nói: “Có khi nào là ma trêu quỷ chọc mình không hả nhị ca? Khúc sông này sao có thôn xóm được?”
Hồng Quán chậc lưỡi: “Dĩ nhiên thiên hạ rộng lớn, mình làm sao biết chính xác hết được, với lại nhìn thì không thấy âm khí, nếu có thì cái đầu mèo này đã cảnh báo anh rồi!”
Hồng Quán vừa nói vừa sờ vào đầu lâu mèo đeo trước ngực. Phúc Nguyên cũng đồng ý, cho rằng dù gì cũng lên bờ xem thế nào, trông nơi này không giống như có ma quỷ gì cả.
Hồng Quán nói: “Dĩ thiên biến ứng vạn biến, nếu có gì bất tường, cứ uyển chuyển mà hành xử, tránh hiểu lầm người tốt!”
Ba người phụ giúp bà chủ ghe, chuẩn bị một số thứ, đem ông lão lên bờ thì thấy có một ông già chừng tám mươi, tóc bạc trắng, búi thành củ hành, râu dài bạc phơ, mặc áo bà ba nâu, đang cầm chổi tre quét sân, bên trong là một tiệm mì, có vài người khách đang ngồi ăn. Cuối phòng có một bàn thờ, không thấy bài vị hay tượng tranh gì cả, chỉ có một tấm vải đề chữ Thiện rất to.
Bà chủ ghe thấy người, liền chạy đến hỏi: “Ông ơi, cho tui hỏi ở đây là xóm Nhà Lá đúng không?”
Ông lão đưa mắt nhìn, đôi mắt rất sáng, như quét qua cả bọn một lượt, rồi hỏi: “Phải. Mọi người tìm ai?”
“Tui tìm nhà thầy Tư, chồng tui bệnh đột ngột, ổng nói đến đây tìm thầy Tư…Ông thương tình chỉ giúp tui với!”
“Tui là Tư đây, để tôi xem!”
Ông Tư nói xong liền chạy đến bên cạnh ông chủ ghe, lúc này đã hôn mê, đưa tay sờ vào cổ, nói: “Nguy hiểm, bị âm phong nhập thể, may mà tới sớm, vào đây, vào đây nhanh lên!”
Dứt lời, hai người khách quá giang liền bế ông chủ ghe vào trong, đặt xuống giường, thầy Tư liền lấy ra một hũ thuốc cao đơn hoàn tán màu đen, nói: ” m phong ai cũng bị nhiễm, trước khi bị nó công tâm thì uống thuốc này ức chế lại, Tư tôi xem cho ông này rồi sẽ coi qua mọi người!”
Bảy người còn lại đều chia nhau, mỗi người uống một viên, thuốc rất thơm, vị đắng, hậu ngọt. Hai người khách mới bế ông chủ ghe khi nãy thấy sẵn nhà thầy Tư có bán mì, lại có vài người khách đến ăn, họ đói bụng quá liền kêu hai tô.
Chỉ có bà chủ ghe vào ngồi kế chồng, còn lại ai cũng ăn một phần. Người bán là một đứa bé gái, tầm mười ba tuổi, là cháu nội thầy Tư. Nó kể thầy Tư trước đây làm nghề đạo sĩ bắt ma, về già thì dựng xóm ở đây, bán đồ chay và làm thuốc cứu người.
Đứa bé vô cùng lanh lợi hoạt bát, ai nhìn cũng thấy mến. Bên trong thầy Tư đang châm cứu cho ông chủ ghe. Phúc Nguyên, Hồng Quán cùng với Tư Lĩnh ban đầu không định ăn mì, nhưng thấy mọi người ăn thì thèm quá, cũng ăn rất mạnh.
Hồng Quán với Phúc Nguyên ăn xong, bảo rằng muốn đi nhà xí, đứa bé gái chỉ ra sau nhà, tối đen và có mấy bụi chuối.
Hai người vừa đi khuất, Tư Lĩnh đột nhiên gào lên, thổ huyết, ngã lăn ra, trúng vào cái lò than đỏ rực, làm nồi nước đổ lênh láng, vài cái đầu lâu lăn lông lốc trên nền đất!
Chương 6: Áp Mộ Đáy Giếng
Tư Lĩnh kêu lên đầy đau đớn, hai tay bóp chặt cổ, ánh mặt trợn trắng, từ miệng không ngừng tuôn ra thứ dịch đỏ như máu, có vẻ như không còn biết đau đớn là gì, đến nỗi lão sấn vào nồi nước sôi ùng ục, cứ thế lăn ra giãy giụa, không khác gì heo bị chọc tiết. Về phần Hồng Quán và Phúc Nguyên, vừa ra đến phía sau nhà, còn chưa thấy chỗ để mao xí thì bất chợt nghe tiếng Tư Lĩnh gào lên ở nhà trước, cả hai nhìn nhau giật mình, dư sức biết rằng đã có chuyện không hay xảy ra.
Hồng Quán không nói không rằng, quay người lại, vυ”t chạy về hướng nhà trước, Phúc Nguyên cũng theo sát chân, ai ngờ vừa đi chưa qua ba bước, một đám lù lù những thứ như tay người mọc ra tứ phía, quất vào mặt hai người kêu lên chan chát, họ không nhanh tay thủ thế đỡ lấy thì e là mặt mày không còn lành lặn.
Phúc Nguyên lùi lại, ánh đuốc từ con đường phía trước hắt vào làm anh nheo mắt mới thấy được thứ quái dị đã tấn công bất ngờ, chúng là những búp chuối.
Hồng Quán lấy tay chùi mủ chuối dính trên vai, nhanh chân lùi về sau, đề phòng đám quái ấy tấn công bất ngờ, nói: “Thứ gì đây? Anh Nguyên có gặp mấy thứ này bao giờ chưa?”
Phúc Nguyên đứng sát bên, nói: “Chưa hề, mà quái lạ, rõ ràng chẳng thể cảm nhận được âm khí, sao lại có thứ này được?”
“Trời đất bao la, đúng là càng đi nhiều càng học nhiều! Coi chừng!”
Hồng Quán chưa dứt câu thì từ sau lưng vang lên hàng loạt tiếng “xồng xộc”, hệt như có cả đàn bò cùng tiến đến một lúc, từ trong màn đêm tối đen, trên đầu hai người chỉ kịp nghe tiếng “vυ”t”, tức thì hàng chục búp chuối rất to, như đùi người lớn, đập mạnh xuống. Dù là búp chuối, bẹ chuối, mềm thì có mềm nhưng đập với tốc độ như vậy, đỡ không khéo còn gãy xương như chơi, nói gì đến việc lãnh trọn một đòn đó vào đầu!
Hồng Quán rút dao giắt bên hông, lập tức tả xông hữu đột, ngăn chặn rất nhiều đòn tấn công từ thứ yêu quái chuối hay gì đó. Phúc Nguyên không dùng dao, Hồng Quán quay sang thấy anh ta xắn tay áo lên cao quá khuỷu tay, miệng lầm rầm gì đó rồi hô “Khai!”, tức thì lòng bàn tay đen lại, mu bàn tay phát ra ánh sáng mờ màu tím, Phúc Nguyên cứ thế dùng tay không mà chặn hết đợt này đến đợt khác. Hồng Quán nhìn mà thán phục, nghĩ trong đầu sau này có dịp phải hỏi Phúc Nguyên thứ ấy là gì mà lợi hại quá, chắc chắn sẽ ráng học.
Phúc Nguyên và Hồng Quán tuy cố ra sức chống trả nhưng vẫn không đẩy lùi được những đợt tấn công tới tấp, Phúc Nguyên quay ra nói với Hồng Quán: “Tôi đếm đến ba, anh nhắm chặt mắt lại, đừng mở ra đến khi tôi kêu nhé!”
Hồng Quán chưa kịp hỏi lại mô tê gì thì Phúc Nguyên đã hét lớn: “Một… Hai … Ba!”
Hồng Quán biết rằng Phúc Nguyên nói vậy ắt hẳn có lý do, nên dù chưa hiểu nhưng nghe giọng của người đồng hành, hiểu rằng tình huống cấp bách, không thể vòng vo, cũng đành nhắm chặt mắt lại. Phúc Nguyên sau tiếng đếm thứ ba thì hô “Khai!” một tiếng như xé tai, mắt Hồng Quán dù nhắm chặt vẫn thấy một ánh sáng tựa như thái dương, khắp nơi bao phủ hơi ấm của sự sống, thoải mái vô cùng!
Hồng Quán không thể kìm được, chưa đợi Phúc Nguyên ra hiệu, đã hé nhẹ mắt ra xem đòn thế vừa rồi là gì. Từ lòng bàn tay của Phúc Nguyên là một đốm sáng, tròn như trái dừa, gân máu khắp người Phúc Nguyên nổi đầy, nhưng chúng có màu xanh lơ, phát sáng như lân tinh, trông như là đang tiếp thêm năng lượng cho “trái dừa” phát sáng kia.
Ánh sáng soi rọi xung quanh, lúc này hai người mới hiểu được mình đang đối đầu với thứ gì. Họ đang đứng trong một vườn chuối, mà thân chuối có màu như da người chết, dưới mỗi một tán lá chuối là một khuôn mặt người đang há miệng, bắp chuối, bẹ chuối là một cánh tay vươn dài, chúng rất đông, bao quanh hai người họ đến mấy lớp.
Đòn đánh được Phúc Nguyên thi triển dường như có hiệu nghiệm với đám chuối kỳ dị, khiến bọn chúng trong một khoảnh khắc có sơ hở, không áp sát hai người nữa. Họ chỉ đợi có thế, Phúc Nguyên chụp vai Hồng Quán: “Đi! Nhanh!”
Hai người như con sóc nhanh nhẹn luồn qua đám chuối, chạy về nhà trước.
Tư Lĩnh nãy giờ không còn kêu gào gì nữa khiến Hồng Quán vô cùng lo lắng, không biết sư đệ của mình sống chết ra sao, bất giác tăng tốc, vừa qua khỏi đám chuối thì đến nhà trước.
Cảnh tượng đập vào mắt của hai người là chẳng còn ai khác ở đây nữa, trước mặt họ là Tư Lĩnh đang nằm trên đất, miệng mồm đầy dịch đỏ, mắt nhắm nghiền, không biết sống chết ra sao, trong khi đứa cháu gái thầy Tư đang nhe nanh định cắn vào cổ Tư Lĩnh, bên trong nhà, thầy Tư đang cười khúc khích, ngồi chồm hổm trên bàn thờ, bên dưới là hai vợ chồng chủ ghe cùng ba người khách quá giang.
Hồng Quán giận hơ người, kêu lên một tiếng, cứ thế nhảy xổ đến, định bổ một dao vào đứa bé. Nó ngước lên, cười một tràng rồi nhảy phóc một cái đã lên xà nhà, may mà Hồng Quán rút dao về kịp, bằng không có khi lỡ đà mà chém nhầm vào Tư Lĩnh.
Gian nhà trước bây giờ chỉ là một phần nhà tranh xơ xác, mái lá thủng lỗ chỗ, khắp nơi phất phơ những tấm vải trắng, trông chẳng khác gì chốn âm tào địa phủ trong truyền thuyết.
Hồng Quán lui về, nói: “Khốn thật! Chuyện này là sao chứ!”
Cháu gái thầy Tư đang đu mình trên xà nhà, nó nhìn hai người, cười lên khằng khặc, di chuyển qua lại nhanh vô cùng, định làm họ phân tâm thì nhảy bổ xuống. Đột nhiên sau lưng Hồng Quán vang lên tiếng mèo kêu rất lớn, thì ra là Bảo An.
Cái túi vải của Tư Lĩnh rơi ra, Bảo An thấy chủ mình gặp nguy thì lần mò chui khỏi túi, lúc này nó đang đứng bằng hai chân sau, đôi mắt mù thường ngày chỉ là một cặp màu trắng đυ.c, giờ đây đang phát ra ánh sáng xanh lơ, ma quái hơn mèo thường, khiến người ta nhìn vào nếu yếu vía dễ run tay như chơi. Bảo An đi chầm chậm lên trước hai người, nó vẫn kêu lên bằng chất giọng gầm gừ, vừa đe dọa, vừa ma mị, khiến cháu gái thầy Tư không đu người nữa, mà ngồi lên xà nhà, nhìn nó hết sức cẩn thận.
Hồng Quán thấy vậy thì bước lên, định kéo Tư Lĩnh về thì thấy Phúc Nguyên xắn tay áo lên, nói: “Tôi thi triển đòn ban nãy, anh nhớ nhắm mắt nhé!”
Hồng Quán gật đầu, Phúc Nguyên vừa lầm rầm, chưa hô khai, thì con bé cháu thầy Tư cũng rít lên đầy giận dữ, hai bên tưởng như sắp tử chiến thì không gian bỗng tối sầm lại, một giọng nói rất trầm âm vang trong không khí: “Đủ rồi… dừng tay đi Hải Tang Tử, con không phải đối thủ của hai vị này đâu…”
Hồng Quán mặc kệ chuyện gì đang xảy ra, cứ kéo Tư Lĩnh về sát bên mình, Phúc Nguyên cũng đứng bên cạnh, hai người căng mắt ra quan sát xung quanh, không thấy con bé cháu thầy Tư đâu cả.
Đột nhiên từ mặt đất, bàn ghế như mọc ra, hệt như nãy giờ không biến đi đâu mất, căn nhà trở lại như cũ, thậm chí mấy người khách ban nãy đang ngồi ăn cũng còn ngồi ăn, trông tô mì không có gì thay đổi, tất cả chỉ như là ảo ảnh sương khói mà thành. Nơi lúc nãy có một thầy Tư đang ngồi chồm hổm, nơi bức vẽ chữ Thiện, hiện giờ là một cái ghế mây to bề thế, bên trên là một ông lão, rất già, râu dài đến bụng, đầu trọc, mắt nhắm lại. Ông lão chắp tay trước bụng, chân đắp mền, ngả ra ghế, trông như đang ngủ. Cháu gái thầy Tư đứng kế bên khoanh tay như đứng hầu.
Hồng Quán nhìn Phúc Nguyên, cả hai người đều không hiểu đang xảy ra chuyện gì. Ông lão giơ tay ra, tựa như đang kêu hai người lại gần. Ông lão cất tiếng: “Hiểu lầm… Hiểu lầm… Hai vị cứ qua đây!”
Phúc Nguyên đứng dậy, nhìn ông lão, nói: “Hiểu lầm? Hôm nay để coi yêu quái các người làm sao thoát được đây, còn dám dụ dỗ bọn ta?”
Đứa cháu gái nghe Phúc Nguyên nói xong, nó liền há cái miệng lởm chởm răng nhọn, gào lên một tiếng, dường như cũng không chịu thua, quyết đấu sinh tử. Ông lão thở dài, nói: “Hòa khí sinh tài, hòa khí sinh tài, nhị vị bình tĩnh, nghe lão trình bày cái đã…”
Hồng Quán và Phúc Nguyên nhìn nhau, biết rằng hiện tại cứ đề cao cảnh giác, nhưng cũng đã thả tay lỏng ra, bảo ông lão nói những gì ông muốn.
Kể, làng này có từ rất lâu, trước đây là một làng trù phú, người dân sống bằng nghề làm gỗ, con kênh này từng một thời ngược xuôi náo nhiệt, con đường này từng có lúc phố chợ đông đúc. Hơn năm mươi năm trước có một thầy pháp đến bảo rằng làng sắp gặp đại họa, nên dọn đi nơi khác mà sống, vì làng đã tàn phá quá nhiều cây rừng, khiến những oan hồn bất tán không còn nơi trú ngụ, sẽ hè nhau đến quấy phá. Dân làng dĩ nhiên đang yên đang lành, làm gì dễ mà nghe lời ấy, cho rằng đó toàn là xằng bậy, mới đuổi người thầy pháp ấy đi.
Người thầy pháp ấy có dẫn theo một thanh niên là đệ tử, năm ấy đã gần hai lăm, trong làng có một cô gái vừa mới đôi tám, xinh đẹp tuyệt trần, hai người gặp nhau đã vướng phải tiếng sét ái tình. Chàng trai định bụng ở lại làng, người thầy pháp thấy vậy thì thở dài, bảo rằng cô gái đó chính là cái họa mà làng này phải gánh chịu. Chàng trai vô cùng thảng thốt, hỏi ra mới biết, cô gái đó sinh vào bát tự và chiếu tinh cực xấu, khuôn mặt thuộc loại vô cùng hung hiểm, ngàn vạn người trên thế gian chỉ gặp một người, thuật tướng số gọi là Khốc Tàng hoặc Trảm Thôi, nhẹ thì cả họ chết, nặng thì những người có liên quan đều chết cả. Người thầy pháp đi ngang vùng này, thấy một đám mây âm khí dày đặc, cô hồn dã quỷ đã tụ về, sống quanh cô gái đó từ rất lâu, chỉ riêng âm khí đã chất chồng, huống hồ còn có thêm oán khí, nộ khí, hung chồng hung, bất tường lại càng thêm bất tường, phen này cả làng chỉ có nước chết thảm mới hết cái họa đó.
Chàng trai hỏi vậy có cách nào có thể cứu được hay không, người thầy pháp lắc đầu, bảo rằng cô gái thì hết cách, chỉ có cách cứu dân làng thôi. Để ngừa được họa này, trước mắt vẫn là cần phải gϊếŧ cô gái, sau đó đào một giếng nước, làm sao mà đón được mạch nước ngầm chảy theo chiều đông – tây, giếng phải sâu bốn trượng hai xích, rộng sáu xích, phải lót bằng gạch bát quái, miệng giếng xây một mái ngói, lợp ngói âm dương, thùng nước phải là thùng làm bằng gỗ đào, dây buộc gàu dài đúng mười trượng, tất cả đều không được sai khác, đó gọi là Ngọc Liên Huyệt, dùng để áp chế yêu tinh, hoặc những thứ quỷ dữ âm khí mạnh.
(Chú thích : một xích bằng 40cm, một trượng ~4m theo số đo ngày nay)
Tại sao lại phải làm cái giếng cho kỳ công ra như vậy? Bởi vì giếng này không phải để lấy nước, mà là để trấn yểm thứ bên dưới, chính là phần mộ của cô gái. Quan tài cô gái sẽ nằm ở đáy giếng, hướng tây, quan quay về hướng đông. Trong vòng sáu mươi năm không được dùng giếng, hoặc như khi chôn cất xong, đang đêm nghe gàu nước kêu leng keng, tuyệt đối không đến gần, sẽ bị quỷ hồn cô gái bắt lôi xuống dưới. Hình thức dùng Ngọc Liên kiểu như vầy còn gọi là Áp Mộ. Áp Mộ có nhiều loại Quan, như là Ngọc Liên, Hoàng Khuê, Đại Mộc, Xử Trạch,… đều là dùng một vật tự tạo chế áp thứ gì đó của thiên nhiên, sau đó căn cứ phương vị phù hợp mà đặt quan quách.
Người con trai nghe thầy mình nói vậy thì vô cùng đau buồn, làm sao xuống tay với người thương cho được, thầy pháp cho rằng dân làng đã có ý đuổi, họ không thể nán lại được nữa, kẻo lại mang tiếng, thế là hai thầy trò đành lủi thủi ra đi, nhưng vừa ra khỏi làng thì trời mưa rất to, không thể đi được, bèn ở lại trong cái miếu hoang.
Đêm ấy, cô gái hay tin chàng trai bỏ đi, định bụng sẽ bỏ trốn cùng chàng trai, đang đêm mưa gió không kịp khăn gói đồ đạc gì cả, chạy đến miếu hoang tìm. Chàng trai nghe động, mở mắt tỉnh dậy thì thấy cảnh tượng thô bỉ vô cùng, người thầy pháp đang cưỡиɠ ɧϊếp người con gái. Chàng trai tuy lửa giận ngút trời, nhưng khi lao đến cứu người thương liền bị tên thầy pháp đánh văng ra một góc, gãy một bên chân.
Cô gái bị làm nhục, vô cùng phẫn uất, liền cầm một mảnh sành vỡ, nhằm lúc tên thầy pháp không phòng bị, cắt đứt cổ hắn ta, xong rồi cũng quyên sinh.
Dân làng phát hiện ra liền bắt chàng trai nhốt lại, định bụng đi báo quan. Ai ngờ ngày đó với hôm sau, rất nhiều dân làng cùng thấy cô gái nọ đã hóa quỷ, bay khắp làng, thậm chí còn gϊếŧ mấy người tò mò đứng xem. Dân làng hoảng quá, liền nhớ lại chàng trai, mới đến cầu cứu. Chàng trai đã nghe cách khắc chế cô gái, đành cắn răng trấn yểm người yêu lại. Lần ấy, cái chân gãy khi giao chiến đã bị đứt lìa. Giếng làm xong, chàng trai đau lòng bỏ đi.
Một năm sau, chàng trai quay trở về làng với một thân phận khác, thời gian đã làm khuôn mặt anh ta biến đổi nhiều thứ, định bụng đến làng để xem thực hư chuyện âm khí của cô gái năm xưa có bộc phát hay không. Anh vô cùng sửng sốt khi đến nơi, ngôi làng năm xưa chỉ còn lại tan hoang, khắp nơi là người chết không kịp chôn, quan tài nằm la liệt, quạ bay đầy trời, chuột bò khắp đất, mùi hôi thối cách cả dặm đã nghe được.
Chàng trai tìm lại giếng năm xưa, không hiểu bản thân mình đã làm gì sai, đến thì thấy mọi thứ vẫn bình thường, xung quanh giếng lúc này mọc lên một dãy cây còng vô cùng cao lớn, chúng cao chừng hai trượng, tán chụm lại như mái vòm, che kín miệng giếng, khiến không khí bên trong ma quái vô cùng.
Chàng trai định xuống giếng, nhưng vừa vào bên trong thì âm khí đã xộc lên, khiến toàn thân anh ta bủn rủn tay chân, không thể nào tiến vào phá mộ diệt quỷ được. Chàng trai đành dùng đạo thuật, tạo ra một trận bùa, bao quanh miệng giếng, dùng máu mình để vẽ chú, để lại trên đó một lời nguyền, dùng chính sinh lực của mình để kiềm chế ma khí trong cái giếng ấy lại, hàng tháng cứ ngày rằm thì đến trích máu, vẽ lại đạo bùa mới, hễ chàng trai càng mạnh thì ma khí bị ức chế, chàng trai yếu đi thì máu không đủ trấn áp, làm ma khí dâng cao, nghịch chiều như vậy, vẫn kiên trì xuống giếng, có điều bị nhiễm phải thứ âm khí ấy ngày này qua tháng nọ, chẳng thể làm gì khác.
Thế là chàng trai ở làng này thấm thoắt sáu mươi năm. Hàng ngày trông coi mồ mả, những cái mả cũ bờ sông sạt lở, lộ thiên, đều là của người trong làng này cả. Chàng ta lúc còn khỏe thì quy tập mồ mả, tránh bị thú hoang ăn mất, sau này yếu rồi thì không làm được nữa. Người thanh niên đó không biết mình đã già đi từ bao giờ, tóc rụng cả, râu dài bạc trắng, thân thể nhiễm âm khí từ vô số lần xuống giếng bất thành, đã trở nên hư nhược, hiện giờ đã sắp lìa thế.
Người thanh niên đó, chính là ông lão trước mặt Hồng Quán và Phúc Nguyên, ông ta chính là thầy Tư.
Về chuyện tại sao ông ta dụ chiếc ghe của Hồng Quán vào tận đây, mục đích là để nhờ một chuyện. Đứa cháu gái mà ông ta gọi là Hải Tang Tử, kỳ thực là linh hồn của cây bần trăm tuổi ở làng này, Hải Tang nghĩa là cây bần. Dọc đường vào con kênh này, Hải Tang Tử cảm nhận được “mùi” âm khí vướng trên người Hồng Quán và Tư Lĩnh, mới báo lại cho thầy Tư. Thầy Tư mới đưa một vong ra, nhập vào ông chủ ghe, dẫn dụ cả nhóm đến đây. Khi nãy đều là ảo giác mà thầy Tư tạo ra để thử xem bản lĩnh của ba người khách này thế nào, xem có phải là người giúp được hay không. Trong nhóm có Tư Lĩnh do đạo hạnh còn yếu, nên đổ vật ra ngất đi, chứ chẳng phải do trúng độc hay gì cả.
Hồng Quán và Phúc Nguyên không nhận ra âm khí được là vì nơi này chỉ có ông thầy Tư và linh hồn cây bần trăm tuổi, cái vong nhập vào ông chủ ghe không có ác ý, nên cũng chẳng bị phát hiện.
Hồng Quán đưa mắt nhìn xung quanh, đúng là không còn thấy gì ghê sợ nữa, nhưng vẫn hỏi: “Biết đâu hiện giờ lão chẳng đang dùng thuật lên người bọn tôi?”
Thầy Tư cười khà khà, nói: “Cậu nói vậy cũng đúng, nếu như cậu không tin, lão đây sẽ để mọi người đi, nếu lão có ý đồ xấu với mọi người, thì đã chẳng cất công bày ra mấy thứ lộ liễu để thử đạo hạnh hai vị như vậy!”
Phúc Nguyên lấy trong túi ra một thứ bột màu vàng, rất mịn, đưa lên múi hít một hơi, sau đó hắt xì liền mấy cái, nước mắt nước mũi lèm nhèm, rồi anh đưa mắt nhìn quanh, nói với Hồng Quán: “Đúng là không còn ảo giác nữa!”
Phúc Nguyên nói trong giới của anh ta, thứ bột này chống lại ảo giác vô cùng hiệu quả, có điều sau đó thì hắt xì rất nhiều, khi không thực sự cần thì chớ nên dùng. Ban nãy lên bến cũng đã định thử, nhưng do ỷ y quá, thành ra lại dính vào chuyện thử thách của thầy Tư.
Hồng Quán nói: “Vậy thằng đệ tôi…”
Thầy Tư xua tay, đáp: “Lát nữa là tỉnh thôi… không sao không sao!”
Phúc Nguyên hắt xì nãy giờ chưa hết, nói lắp bắp: “Ông nói là…định nhờ…gì đó… mà sao biết bọn tôi mà nhờ?”
Thầy Tư thở dài, nói: “Mùi âm phần dính trên người Hành Gia làm sao mà gột rửa được. Dĩ nhiên Hành Gia lão vẫn biết đến. Có điều ngày ấy Hành Gia chưa được mạnh như hôm nay. Ta chờ đợi Hành Gia có đạo hạnh đã rất lâu, để nhờ một thứ… là chuyên môn của Hành Gia…”
Hồng Quán chau mày: “Bốc bát hương? Không lẽ là bát hương dưới cái giếng đó?”
Thầy Tư trầm ngâm: “Dưới ấy ngoại trừ tình đầu của ta thì có cái gì khác đâu, cho nên không gọi là bốc bát hương được… có điều… Lão muốn đem đứa con của cô ấy lên, đừng để nó hóa thành quỷ mạnh hơn nữa!”
Hồng Quán và Phúc Nguyên trợn mắt: “Con? Cô ta chết rồi vẫn sinh con trong huyệt hay sao?”
Thầy Tư gật đầu: “Đúng vậy, oán khí của nó lớn lắm rồi… Ta thì khí số sắp tận, ngày ta chết đi, trận bùa bị phá vỡ, còn có ai ở đây để ngăn chặn nó nữa, khi ấy tai họa còn lớn đến chừng nào?”
Hồng Quán chau mày, nói: “Lão à, chuyện hành hiệp trượng nghĩa vẫn biết là nên làm, nhưng bọn tôi làm sao đủ tài năng mà bốc được cái bát ấy, thần thông quảng đại như lão vẫn bó tay kia mà?”
Thầy Tư bỗng nghiêm mặt lại, chỉ tay vào Phúc Nguyên: “Thứ cậu vừa xài ban nãy ở vườn chuối là tuyệt kỹ của giới giang hồ ẩn mật lục tỉnh, còn cậu này không biết thứ đó, chứng tỏ là dân Hành Gia chính hiệu. Xưa nay hai giới không liên quan nhau, nay lại đi chung, gấp gáp lên Mỹ Tho, xứ Mỹ Tho Hành Gia nhiều, lão đoán có phải là đang đi tìm thợ chế tác hay không? Bốc bát Cổ Nhân khó quá nên định đi làm thêm đồ nghề…”
Hồng Quán và Phúc Nguyên vô cùng bất ngờ vì bị ông lão nhìn thấu hết tất cả, chưa nói được gì thì thầy Tư nói tiếp: “Hai cậu đang thắc mắc tại sao lão biết nhiều như vậy về Hành Gia đúng không? Ngày xưa, sư phụ ta chính là một trong những người khởi tạo ra cái thứ mà ngày nay hậu bối cậu gọi là Hành Gia Lão Tổ Tông…Bên trong mộ dưới giếng là một pháp bảo của Hành Gia mà bây giờ chẳng ai đủ tài năng làm được cái thứ hai!”
Thầy Tư vừa nói đến đó, từ phía xa, mông lung, vọng về tiếng cười của con nít, và tiếng nước xối, tiếng gàu nước đập vào thành giếng và một âm thanh nỉ non than khóc.
Chương 7: Thập Hương
Không gian xung quanh đang chìm dần vào đêm khuya, Hồng Quán và Phúc Nguyên đang chăm chú lắng nghe câu chuyện của thầy Tư, đột nhiên những âm thanh ma quái vọng về khi trầm khi bổng, lúc nghe rất gần, khi lại xa xôi, khiến da gà bất chợt nổi đầy, hơi lạnh chạy dọc sống lưng. Phúc Nguyên nhìn về hướng nhà sau, đoạn quay sang hỏi thầy Tư: “Thứ đó… là nó đúng không?”
“Đúng vậy…” – thầy Tư chậm rãi đáp, ông lấy tay vuốt chòm râu bạc, tiếp: “Lão đã yếu lắm rồi, đêm nào chúng cũng quấy phá… Ta chẳng thể làm gì khác…”
Hồng Quán nói: “Thưa lão, tôi nói này có bất kính mong lão bỏ qua, tại sao lão đã cố sức bao nhiêu năm qua mà chẳng được, lại phải nhờ bọn tôi làm gì?”
Trong lòng Phúc Nguyên cũng có câu hỏi hệt như vậy, thấy Hồng Quán đã nói ra trước thì cũng hướng ánh mắt về thầy Tư để tìm câu trả lời. Thầy Tư thở dài, nói: “Chuyện đâu đơn giản như vậy… Thứ nhất là bí thuật Ngọc Liên Huyệt là một trong những tuyệt kỹ đời đầu của Hành Gia, nó chính là một liên đạo bùa, phong tỏa cả trong và ngoài, có thể dễ hình dung, là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ngày ấy sư phụ chưa kịp truyền khẩu quyết Hành Gia cho ta, ta chỉ có hiểu biết về trừ yêu diệt ma mà thôi, thế nên làm sao mà phá được liên đạo bùa đó. Thứ hai, lúc xưa ta nào biết cụ thể về Ngọc Liên Huyệt, kết quả là đạo bùa tương thông liên kết áp chế mà ta đặt ở thành giếng đã làm hư hoại năng lực áp chế của Ngọc Liên Huyệt, hai thứ triệt tiêu lẫn nhau… điều đó…”
Thầy Tư bỏ lửng câu nói, chỉ thở dài, Hồng Quán hiểu ra, liền tiếp lời: “Điều đó có nghĩa là hiện giờ nếu lão xuống dưới sẽ vướng phải lớp phong bế của Ngọc Liên Huyệt, chưa kịp diệt quỷ đã bị âm khí nhập thể. Vậy nên lão nhờ bọn tôi, vốn không có sự liên kết với năng lực của Ngọc Liên Huyệt, xuống dưới diệt mộ tổ bằng khẩu quyết của Hành Gia?”
Thầy Tư gật đầu: “Đúng vậy…”
Phúc Nguyên vịn vai Hồng Quán, nói nhỏ: “Anh Quán, chuyện này do anh quyết định, dù sao thì đây cũng là chuyện liên quan đến Hành Gia, có điều… anh cũng nên cân nhắc lợi hại thiệt hơn!”
Hồng Quán cúi mặt nghĩ ngợi, đoạn quay lên nhìn Phúc Nguyên đáp: “Dĩ nhiên Quán tôi biết chứ, để tôi hỏi lão đây thêm ít điều nữa…”
Hồng Quán hỏi thầy Tư, thứ trong mộ mà thầy Tư bảo rằng là pháp bảo Hành Gia, xưa nay hiếm có, bây giờ chẳng còn ai có thể làm được tương tự, rốt cuộc là thứ gì. Thầy Tư gật gù, như đang nhớ lại chuyện xưa, lão bắt đầu kể.
Hồi lúc thầy Tư còn bé tí, nhà cha mẹ mất sớm, chỉ có anh chị nương tựa nhau, cuối cùng cũng vì mưu sinh mà tứ tán cả, chỉ còn thầy Tư đi theo người sư phụ, đầu tiên chỉ biết người thầy ấy làm nghề thu hài cốt. Thu hài cốt cũng có năm bảy loại, có loại thu hài cốt tại mồ mả cố định, loại này thường thấy trong dân gian; loại thứ hai là thu hài cốt tại những nơi sắp sửa xây nhà, hoặc làm cơ sở gì đó, vô tình đào nền đất ra lại gặp xương cốt, đa phần đều là của những người chết trận năm xưa, loại này ít gặp hơn; loại thứ ba là thu hài cốt trực tiếp tại những chiến trường, ban ngày chiến loạn, đêm đến thì hè nhau ra gom xác về chôn, thực ra cũng là buôn xác người chết, vơ vét của cải còn gì lấy nấy mà thôi.
Thầy Tư cùng sư phụ làm nghề thu hài cốt người chết trận. Lúc ấy tuy còn nhỏ, nhưng vẫn nhớ được, cứ độ canh ba mỗi đêm sau khi gom xác ngoài bãi chiến trường, sư phụ lại gọi ông dậy, cùng đi với mấy cái xác, băng rừng lội suối, đêm đi ngày ngủ, mấy ngày sau đến vùng Đồng Nai, Trấn Biên, giao xác lại cho các đạo sĩ.
Đó là những thầy tống xác đầu tiên di cư qua lục tỉnh! Lúc ấy thì thầy Tư chưa biết rõ được. Lớn lên một chút, lúc này sư phụ của lão đã dạy cho lão một số phép trừ tà, trói ma, bắt vong, còn chuyện tống xác thì không thấy nói tới nữa, có khi thầy Tư hỏi, sư phụ chỉ nói rằng “Tống xác đã hết thời!” rồi thôi.
Lại nói về thuật tống xác, thầy Tư nhớ rằng lúc nào sư phụ mình cũng có đeo sau lưng một cây roi, làm từ tre, có lẽ là hình mẫu ban đầu của Tỏa Sơn Tiên sau này. Một đầu bè như cái thuổng đất, một đầu nhọn như dùi đυ.c, những đêm tống xác, sư phụ lão lấy thứ ấy xiên qua vai trái cách xương đòn ba thốn của xác, rồi dùng thuật dẫn, vô cùng cầu kỳ phức tạp.
Theo sư phụ được bốn, năm năm gì đó, có một bận, sư phụ để thầy Tư ở một mình tại ngôi miếu hoang chừng mười ngày, bảo rằng ông bận hội họp gì đó với đồng đạo. Thầy Tư nhớ đó là vùng Thất Sơn, gần động Thâm Vân, núi Anh Vũ. Sư phụ cùng chín người nữa đi vào, đóng cửa động, mười ngày sau trở ra trông ai nấy tuy gầy đi nhiều nhưng thần khí đều tăng vọt.
Họ tự gọi là Thập Hương, là nền móng cho Hành Gia. Thập Hương mỗi người có một pháp bảo, dùng để lại cho đệ tử chân truyền. Sư phụ từ khi tạo ra Hành Gia, cho rằng thầy Tư sức khỏe yếu nhược do từ nhỏ tiếp xúc với xác chết quá nhiều, khó lòng theo Hành Gia được, nên chỉ dạy cho phép trừ tà, ít ra là bắt vong có thể dùng nhiều cách gián tiếp, chẳng như Hành Gia muốn bốc bát hương phải vào tận mộ huyệt, như vậy thì làm sao thọ quá ba mươi!
Sư phụ thầy Tư giữ một pháp bảo, gọi là Toản Địa, nghĩa là cây dùi đυ.c đất, sư phụ lão còn gọi nó là Thiết Bút, Dùi Kim Cang.
Thiết Bút trông như một cây bút sắt luyện chữ rất to, thân dài ba xích, hình tròn như tre, đường kính xấp xỉ nửa xích, một đầu nhọn, có gờ và móc, mũi như búp sen thon dài, phía đầu còn lại có chốt lẫy, mỗi lần đóng mở sẽ kích hoạt ra một số cơ chế khác nhau của Thiết Bút.
Bình thường, Thiết Bút có thể đυ.c, thân rỗng ruột, có thanh kim loại hình trụ trượt tới lui được bên trong, nếu kéo hết ra thì dài ba xích, dồn sức đẩy mạnh tới thì lực đυ.c được tăng gấp nhiều lần. Chốt lẫy bên dưới khi đóng mở làm đầu bút hoặc mở ra như búp sen, dùng để gạt, đỡ đòn đánh trực diện rất tốt, ngoài chuyện đυ.c tường mộ, phá quan quách, đều chỉ cần một Thiết Bút là có thể thực hiện khá trơn tru.
Chín người còn lại của Thập Hương đều giữ những pháp bảo khác nhau, sau đó mỗi người hành sự riêng một khu, Hành Gia mạnh nhất là ở ba tỉnh miền tây nhưng không phải là ở Đồng Nai hay Trấn Biên không có Hành Gia.
Lại nói về Thiết Bút, pháp bảo được tạo ra từ đạo thuật, kết hợp với kim loại được chế tác công phu, bản thân nó có khắc kinh văn, cũng lăn lộn với sư phụ thầy Tư không biết qua bao nhiêu bát hương, những lần đó thầy Tư chỉ ở ngoài trợ ứng, không làm chuyện bốc bát cắm nhang bao giờ, mỗi tháng thầy Tư đều thấy sư phụ mình làm lễ cúng cho Thiết Bút vô cùng kính cẩn, chẳng biết tự bao giờ lão thấy khối kim loại ấy có linh tính riêng, cầm lên vừa nặng tay vừa lạnh da thịt, người yếu vía sờ vào có khi nằm ốm cũng không chừng.
Ngày áp mộ Ngọc Liên Huyệt, bản thân thầy Tư chẳng có pháp bảo gì khác, chỉ đành ghim Thiết Bút vào quan tài, lão cho rằng từng ấy thời gian, có khi nhờ Thiết Bút mà vong quỷ nhi bên dưới chưa quậy nát Ngọc Liên Huyệt.
Thầy Tư kể xong, Hồng Quán không giấu nổi kinh ngạc. Từ lúc mới vào nghề này, Hành Gia Thiên Quân đã kể cho ba người đệ tử rất nhiều truyền thuyết về Thập Hương, thậm chí uy danh của Thiết Bút anh cũng đã nghe qua, không ngờ rong ruổi vô tình thế nào trong chuyến này lại gặp được pháp bảo trấn môn cứ ngỡ chỉ là huyền thoại. Nếu có được Thiết Bút, Hồng Quán không cần làm lại Tỏa Sơn Tiên, chỉ cần Thiết Bút là đủ.
Thập Hương không chia ra huynh đệ, tất cả đều ngang hàng nhau, Hành Gia Thiên Quân không phải đệ tử chân truyền từ Thập Hương, mà chỉ là học lại từ một người đệ tử của Liêu Tích, vậy nên Hồng Quán chẳng thể nào mong cầu được pháp bảo, vậy mới nói, mọi chuyện xảy ra trên đời đều có nguyên cớ riêng của nó, người mà ta gặp, ắt có duyên gì đó đưa đẩy.
Hồng Quán nói: “Nếu thực bên dưới có Thiết Bút, Quán tôi có lẽ sẽ thử bốc cái bát này, nhưng phải đợi sư đệ tôi tỉnh lại đã!”
Phúc Nguyên nghe kể xong, ghé tai Hồng Quán nói nhỏ: “Động Thâm Vân, núi Anh Vũ, có phải…”
Hồng Quán gạt tay, ra ý đã hiểu vấn đề.
Hồng Quán nhìn Tư Lĩnh nãy giờ vẫn còn mê man, mặt mày vẫn còn hồng hào nhưng có kêu cỡ nào cũng không tỉnh, Bảo An thì nằm lên trên bụng, ai động vào Tư Lĩnh nó đều gào lên như đe dọa.
Thầy Tư nói: “Chuyện này đúng là lạ, đáng lẽ nãy giờ cậu này đã tỉnh rồi… Chẳng lẽ hai người không đủ sức bốc cái bát này hay sao?”
Hồng Quán nói: “Hành Gia cắm nhang, một bước lên mây hoặc nửa chân rớt huyệt, đều là chẳng thể biết trước được, dù gì có thêm người cũng tốt!”
Thầy Tư nhìn Hải Tang Tử, con bé vẫn còn lườm ba người và rít lên, lão nói: “Hải Tang Tử, con có thể giúp cậu này được không?”
Con bé gật đầu, thầy Tư tiếp lời: “Hai cậu, coi như lão hạ mình, nhờ hai cậu tiến hành ngay được không? Lão đã rất yếu… chẳng biết đêm nay hay ngày mai là tận số, khi ấy, lão e rằng chuyện sẽ khó khăn hơn rất nhiều…”
Hồng Quán nhìn Phúc Nguyên, thấy Nguyên có vẻ chần chừ, liền nói: “Chuyện này… Hồng Quán tôi chắc phải nhờ anh ở đây trông coi Tư Lĩnh trong lúc tôi đi bốc bát hương, thật mong anh thông cảm!”
Phúc Nguyên nói: “Tôi cũng hết sức tò mò về chuyện bốc bát hương của Hành Gia, nếu theo lời thầy Tư đây, bên dưới nếu có vong ác ma, tôi sẽ giúp anh được, cũng coi như là dịp mở mang tầm mắt!”
Thầy Tư gật gù: “Lão nghĩ hai cậu nên hợp sức để việc trơn tru hơn, về phần sư đệ cậu, lão sẽ trông coi cẩn thận, chuyện cậu này chưa tỉnh tuy có chút lạ, nhưng Hải Tang Tử có linh lực cao, chẳng để xảy ra gì bất trắc đâu!”
Hồng Quán nhìn lại sư đệ mình, rồi liếc qua Hải Tang Tử, dù con bé ban đầu có dễ mến, nhưng lúc nãy nhìn nó biến thân thật quá sức kinh hãi, khó lòng mà không lo sợ cho được, trong khi nãy giờ nó cứ lườm lườm cả bọn.
Lúc này, không gian chỉ vừa chùng xuống do sức nặng của câu chuyện, đột nhiên từ khắp nơi xung quanh lại vọng về tiếng con nít cười, tiếng người khóc, tiếng xối nước, nghe như ngàn vạn linh hồn đang cùng lúc than khóc, ma quái đáng sợ vô cùng. Biết lúc này không thể chần chừ được nữa, nhưng dù gì cũng phải cắt đặt mọi chuyện cho ổn thỏa thì Hồng Quán mới an tâm.
Hồng Quán nhìn Phúc Nguyên, dường như có điều gì đó muốn nói, đoạn mới quay sang thầy Tư, trình bày: “Tôi nghĩ kỹ rồi, dù gì tôi cũng không thông thuộc đặc tính âm dương thủy thổ nơi này, bốc bát sẽ rất khó, chi bằng để Hải Tang Tử đi với tôi, Phúc Nguyên sẽ ở lại, cùng lão trông coi cho sư đệ tôi, như vậy là đảm bảo nhất, lão thấy sao?”
Thầy Tư nãy giờ nhắm mắt, nghe đến đó thì mở mắt ra, không được nhiều lắm, nhưng nãy giờ mới lộ được con ngươi mờ đυ.c của lão, lão khò khè: “Quá nguy hiểm, Hải Tang Tử chỉ là linh hồn của cây bần trăm tuổi, làm sao giúp cậu bốc bát hoặc là trừ yêu diệt ma gì được?”
Hồng Quán lắc đầu, nói: “Không cần, nếu quả thực bên trong có Thiết Bút, Quán tôi tự khắc xoay sở được, trước khi hết canh ba sẽ bốc bát xong, Hải Tang Tử tuyệt đối không bị nguy hiểm!”
Phúc Nguyên sực nhớ gì đó thì hỏi nhỏ: “Chẳng phải bốc bát còn cần xem bát tự để lựa giờ phù hợp hay sao? Anh đi đại xuống dưới có quá liều lĩnh không?”
Hồng Quán cũng đáp bằng cách kề sát tai: “Không sao, đây không phải bốc bát hoàn toàn, nên có thể uyển chuyển thay đổi được… Uyển chuyển, dĩ thiên biến ứng vạn biến, anh biết mà!”
Phúc Nguyên nghe xong cũng thấy tiếc, cơ hội xem Hành Gia bốc bát hương nhưng lại không đi được, dù gì ở lại trông coi Tư Lĩnh cũng quan trọng không kém, nhưng Hồng Quán có thái độ như vậy, Phúc Nguyên cảm giác anh đã lo liệu toàn vẹn.
Thầy Tư nhìn Hải Tang Tử, nó xụ cái mặt xuống, miệng mếu, dường như không muốn xa rời thầy Tư, nó níu tay lão, lão chụp tay nó, trông lão cũng áy náy đầy vẻ lo âu cho đứa cháu linh mộc này, lão nói: “Con dẫn đường cho vị này, chuyện nhanh thôi..” nói đoạn, lão quay sang Hồng Quán, nói: “Cậu hãy đảm bảo an toàn cho nó giúp tôi…”
Hồng Quán gật đầu, nói: “Lão cứ yên tâm, lúc nãy chẳng phải lão cũng đã thử sức bọn tôi rồi mà đúng không? Tôi cắm nhang ngàn nắm đất, chuyến này không để ông thất vọng đâu!”
Hồng Quán nói xong thì sờ vào Miêu Thủ đeo trước ngực, cảm giác như lúc này nó nóng như hơ lửa, khiến Hồng Quán cũng nôn nao trong lòng.
Thầy Tư đẩy Hải Tang Tử ra, lão gật gù cái đầu, tựa như đang động viên cô bé. Nó chậm chậm đi đến kế bên Hồng Quán, con bé cao đến ngực Quán, trên người quấn tấm vải có lẽ đã từng có màu trắng, hiện giờ thì đã biến thành một màu đen xỉn, lấm lem. Nó mặc cái quần vải cộc, tới đầu gối, đi chân đất, đôi mắt sáng lạ thường, nổi bật giữa làn da hơi sạm đen, nó rít lên trong cổ họng, Hồng Quán chú ý lắm mới nghe được: “Không… Thích… Ông!”
Hồng Quán định xoa đầu nó, nó gạt tay ra, lại rít lên: “Không… Thích…” và thứ gì đó “A … A” khác nghe không rõ.
Phúc Nguyên hỏi thầy Tư: “Ban nãy con bé nói nhiều lắm mà?”
Thầy Tư lắc đầu: “Đấy chỉ là ảo ảnh thôi, cây làm gì nói chuyện như người được…”
Hồng Quán nhờ Phúc Nguyên ở lại trông nom sư đệ, sẵn tiện theo dõi thầy Tư, nếu tình hình chuyển biến xấu, cứ chạy thẳng ra giếng trợ ứng, đề phòng quỷ khí bên dưới bộc phát toàn bộ. Phúc Nguyên lấy cây dao bên hông đưa cho Hồng Quán, nói: “Đây là dao đi rừng có thoa tro xá lợi, anh bọc trong da cá, xuống huyệt rồi thì thấm ít máu mình vào đó, loại này có thể gặp ma chém ma gặp quỷ chém quỷ, ít nhiều sẽ hữu dụng hơn cây dao anh đang dùng!”
Hồng Quán gật đầu cảm tạ Phúc Nguyên, mới hỏi thầy Tư xem cái giếng ấy nằm ở đâu, công việc cụ thể sẽ là gì. Thầy Tư nói cứ đi ra nhà sau, băng qua khỏi vườn chuối là đến một khu còng mọc dày đặc, bên trong đám còng ấy là cái giếng. Leo xuống giếng, gần đến mấp mé mép nước sẽ có một thông đạo bên tay trái, chui vào đấy là đến Ngọc Liên Huyệt. Vào huyệt, phá quan, hủy thi, khả năng cao là sẽ có một quỷ nhi bên trong, chụp nó vào trong cái chum gốm, bịt vải đỏ, buộc chỉ đỏ lại, đem lên để lập đàn diệt vong, thiêu hủy. Bên dưới giếng, có thể cả cô gái và đứa bé đều đã trở thành âm hồn bất tán, thân xác chỉ là thứ liên kết lỏng lẽo, chớ nên hủy xác sớm, cứ đợi chúng xuất hiện hoàn toàn rồi mới diệt. Trong quan sẽ có Thiết Bút và một xấp vải liệm quấn quanh một cái hộp gỗ, đem hai thứ đó trở lên, thầy Tư nói, có lẽ ông sẽ chết vào canh tư đêm nay, nên Hồng Quán chỉ còn hơn một canh giờ để làm tất cả mọi việc.
Hồng Quán gật đầu, chuẩn bị lại mọi thứ, nai nịt gọn gàng, hai bên hông giắt hai cây dao, một cây cũ của anh, một cây Phúc Nguyên mới đưa. Phúc Nguyên thấy Hồng Quán chuẩn bị đuốc thì mới nhớ, lấy trong túi ra một xấp vải trắng loang lổ vết tím, nói: “Vải liệm có ghi bùa, thứ này bọn tôi dùng làm đuốc, ma quỷ khó mà liếʍ tắt được, anh cứ lấy mà dùng!” Hồng Quán cầm lấy, đốt thành một cây to, chào Phúc Nguyên và thầy Tư rồi bước ra ngoài, Hải Tang Tử dẫn đường. Lúc vừa ra cửa, Hồng Quán vô tình liếc ngang Bảo An, nó vẫn nằm im trên bụng của Tư Lĩnh, miệng nó há nhẹ ra, tựa như định nói gì đó, mắt nó nhìn Quán trân trân.
Vườn chuối chỉ vừa mới nãy thôi còn tấn công Hồng Quán vô cùng ghê rợn, nên bây giờ bước chân lại trong này, cảm giác không tránh khỏi có chút e dè, Hồng Quán sực nhớ lại, bảo Hải Tang Tử dừng bước, rồi tìm một bụi chuối để tiểu tiện, nãy đến giờ làm gì đã rảnh để đi được. Hải Tang Tử quay mặt chỗ khác, Hồng Quán vẫn nghe được nó rít trong họng gừ gừ như một con chó dữ canh nhà, giờ thấy quen nên không còn ác cảm với con bé nữa.
Hồng Quán vừa thắt dây lưng lại, bỗng đâu từ phía bên kia rừng chuối vang lên tiếng xào xạc, hệt như có con gì đó chuyền cành đu qua lại, kèm theo tiếng nghe như cười “hí hí” của con nít. Hồng Quán vội đến sau Hải Tang Tử, cô bé vẫn còn bình thường, chẳng tỏ ra vẻ gì là sợ sệt cả. Hồng Quán nói: “Bé gái, có thứ gì đó đang đến hay sao? Sao bé không sợ?”
Đến gần rồi Hồng Quán mới thấy, con bé đang giơ hai tay ra phía trước, âm thanh Hồng Quán nghe nãy giờ, chính là do đám chuối như chịu một lực tác động của bàn tay vô hình, khiến chúng đồng loạt cúi rạp xuống, Hồng Quán sửng sốt, cầm đuốc đến gần soi thì nghe những tiếng kêu “ré ré”, Hải Tang Tử lại rít lên: “Đừng … Soi … Gần … Như … Vậy…”
Hồng Quán ngạc nhiên nhìn kỹ lại, thứ tạo ra âm thanh đó , là một cái bắp chuối rất to, da nó hệt như da người, các nải chuối non nhỏ xíu bên trong trông không khác gì một hàng những ngón tay đặt kề nhau, ngọn của bắp chuối, phần cùi dính vào ngọn, bên dưới là một cái đầu tròn lẳng đang há miệng, lưỡi chúng vươn dài xuống đất, từ đó kéo rạp thân chuối xuống, mềm oặt như làm từ bột nhão, thứ này có lẽ sợ ánh sáng từ đuốc vải liệm, nên mới kêu lên như vậy.
Trước mặt Hồng Quán là một con đường thẳng tắp, dài chừng ba trăm thước, dẫn đến một đốm đen sì tít phía kia, trông thì có thể đoán được đấy là đám còng mọc thành tán cao mà thầy Tư đã nói. Hải Tang Tử giục: “Đi… Nhanh …Ông!”
Hồng Quán hít một hơi dài, băng băng tiến về trước. Trong đầu anh hiện giờ có rất nhiều câu hỏi, Hành Gia có kinh nghiệm, cắm nhang ngàn vạn nắm đất, hành sự chẳng thể khinh suất. Hồng Quán luôn tâm niệm, thứ gì xảy ra cũng có nguyên do của nó, và hôm nay anh xuất hiện ở đây ắt hẳn không nằm ngoài dòng chảy của số kiếp.
Tại sao anh lại đi chiếc ghe ấy, đúng khúc sông ấy? Thầy Tư chờ đợi sáu mươi năm qua, nếu Hồng Quán xuất hiện trễ một ngày, có khi ông đã chết, vậy có quá trùng hợp không? Thiết Bút, pháp bảo Hành Gia, sao lại nằm ở dưới Ngọc Liên Huyệt, thứ huyệt trấn yểm cao thâm? Những ngôi mả cũ sạt lở khắp đoạn kênh vào đây liệu có còn ý nghĩa gì khác không?
Hồng Quán hỏi Hải Tang Tử: “Thường ngày có hay nói chuyện không bé?”
Cô bé không quay lại nhìn Hồng Quán, chỉ nghe nó rít: “A… Ít …O”
Hồng Quán siết chặt dây lưng, tay nắm chặt vào cây dao tẩm tro xá lợi, ngoảnh nhìn lại về căn nhà, miệng anh lẩm bẩm: “Dĩ thiên biến ứng vạn biến!”
Chương 8: Rễ
Hồng Quán miệng lẩm nhẩm: “Dĩ thiên biến ứng vạn biến…”, ánh mắt anh lóe lên tia sáng, hệt như đang toan tính một kế hoạch tỉ mĩ. Anh quay đầu nhìn về căn nhà, chân cứ chần chừ không biết nên bước về hướng nào, tay thì càng lúc càng siết chặt hơn cây dao tẩm tro xá lợi mà Phúc Nguyên đưa cho. Hải Tang Tử đi phía trước, thấy Hồng Quán chần chừ mới rít lên: “Sao… Không… Đi?”
Hồng Quán nhìn nó, không nói, khuôn mặt anh thể hiện nhiều thứ cảm xúc lẫn lộn đan xen, anh ngước nhìn lên tán còng, nó chỉ hiện lên một tảng đen sì to như trái núi, cách chừng hai, ba mươi thước nữa mới đến nhưng cái lạnh nơi này đã dày đặc lắm, mỗi lần hít thở như nuốt phải mưa tuyết! Hồng Quán cười nhẹ, nói: “Đi đi bé gái, tui đi sau đây mà!”
Hải Tang Tử lườm Hồng Quán, gừ gừ mấy cái rồi đi tiếp. Hồng Quán ngước nhìn trời, nhìn đất, nhìn rừng chuối xung quanh rồi siết chặt lại cán dao, bước nhanh hơn, đến ngay sau lưng Hải Tang Tử, vung dao lên, cùng lúc chớp lóe sáng, đập chuôi dao vào đầu Hải Tang Tử!
-0-
Hồng Quán khi vừa nhận dao tẩm tro xá lợi cùng với đuốc vải liệm thì vội từ biệt Phúc Nguyên và thầy Tư, đi vòng ra sau nhà, tiếng bước chân rẽ cỏ của hai người họ dần nhẹ đi rồi mất hẳn. Bên trong, Phúc Nguyên định kéo Tư Lĩnh để lên tấm phản bên chái nhà nhưng chỉ vừa đến gần thì Bảo An cứ gào lên liên tục, mỗi lần kéo là một lần nó cào, cắn, đủ cả, thế là Phúc Nguyên chỉ lấy tay nải kê đầu cho Tư Lĩnh mà thôi.
Thầy Tư bỗng thở rất nặng nề, mắt lại nhắm nghiền, không biết là đã ngủ quên hay bị gì nữa, Phúc Nguyên chỉ ngồi ở góc nhà, chưa đến gần ông để hỏi.
Phúc Nguyên chống tay lên đất, thấy hơi lạnh đang truyền đi rất mạnh, anh đưa mắt về phía Thầy Tư, ông ta ngồi lù lù giữa nhà, trên cái ghế mà nếu nhìn kỹ thì nó lại to quá, mền đắp phần chân từ nãy giờ, thể trạng trông thì đã ốm yếu lắm, Phúc Nguyên nghĩ không biết với cái chăn đấy, thầy Tư có còn thấy lạnh hay không.
Phúc Nguyên chợt cảm thấy lông tóc dựng ngược, linh cảm có chuyện chẳng lành sắp ập đến, anh từ từ đứng dậy, đưa mắt quan sát xung quanh một lượt. Trước nhà vẫn chỉ có bến sông vắng ngắt, mấy cái đèn l*иg đu đưa trong gió, dường như những đốm lửa ma trơi, cười khẩy vào Phúc Nguyên. Do quỷ khí dưới giếng chăng? Phúc Nguyên nuốt nước bọt, tia mắt toát lên sự căng thẳng, những ngón tay di chuyển chầm chậm quanh thắt lưng.
Giữa lúc Phúc Nguyên đang nghĩ ngợi, trên trần nhà có thứ gì đu đưa qua lại, nó phóng xuống, như một con báo sắp vồ mồi.
-0-
Hồng Quán vung tay, đập mạnh cán dao vào phần đầu, gần ót Hải Tang Tử, đồng thời lấy ra mảnh vải liệm dùng làm đuốc mà ban nãy Phúc Nguyên đưa cho, chụp vào miệng con bé, nó chỉ kêu lên một tiếng rồi ngã ra đất, nếu là người thường có khi đã gãy cổ.
Hồng Quán lấy vải liệm bịt miệng nó, quấn chặt tay và chân nó lại, con bé có lẽ còn ngất lâu lắm, Hồng Quán nhìn lên trời, mây đen bắt đầu tụ lại thành một dải dày đặc trên đầu, che kín ánh trăng. Đó chẳng khác gì ngoài âm khí đang nhả ra từng đợt từng đợt, từ miệng giếng.
Hồng Quán lấy dao bới nhẹ lớp đất, lấy tay bốc lên một nắm, vò nát ra thì bên trong chi chít những rễ cây nhỏ. Hồng Quán chậc lưỡi, ngay lúc ấy từ phía nhà thầy Tư vang lên tiếng “rầm” rất lớn, tưởng như bàn ghế bên trong có lẽ bị đập nát cùng lúc.
Tưởng như Hồng Quán sẽ quay trở về để xem chuyện gì đang xảy ra, nhưng không, anh chỉ liếc nhìn một cái rồi sấn bước tới bên tán còng. Đến gần mới thấy nó cao lớn như một tảng đá khổng lồ nhọn hoắt vô duyên vô cớ mọc lên từ đất bằng.
Tán còng rộng lớn này ước chừng có đường kính dễ cũng phải ba bốn trượng, còng mọc chi chít, khít như bụi tre, thân cây đều nghiêng về phía miệng giếng, thân còng đen, vỏ trơn nhẵn chứ không xù xì, chạm vào thì lạnh như đá, nhớt như rêu, có mùi hôi như chuột chết, Hồng Quán soi đuốc vào thì thấy có một số lỗ nhỏ xíu như chân nhang, rỉ ra thứ chất dịch không màu, là nguyên nhân gây ra mùi khó chịu kia. Từ rìa ngoài của tán còng phải len lỏi rất chậm mới đến được giếng. Kỳ thực không phải nơi tán còng này là chỗ có thể dễ dàng ra vào, dĩ nhiên từ cái lạnh ấy mà suy ra, ma quỷ nơi đây dĩ nhiên là có, ẩn trong những cây còng, Hồng Quán cũng đã nghe câu “chuối che, tre đóng, còng chui”, ngụ ý ba nơi ma quỷ thích ẩn náu, và cách những loại cây đó che chở cho chúng, làm sao không khỏi có chút e sợ khi len lỏi trong đám cây kỳ lạ này, có điều anh biết được rằng cây đuốc và lưỡi dao Phúc Nguyên đã đưa ban nãy thực sự có công dụng xua đuổi được âm giới, cộng thêm bản lĩnh kinh qua không biết bao nhiêu hiểm nguy, nên bước chân Hồng Quán đi không bị quấy phá. Anh biết rằng đó vừa là điềm tốt, mà cũng là điềm xấu, vì nếu như trường hợp ngược lại, đám ma quỷ ấy không tấn công ngay mà chờ lúc Hồng Quán từ giếng lên mới xổ ra thì sao? Hoặc giả như xuống giếng làm hư dao mất đuốc thì làm sao?
Len qua khỏi đám còng dày đặc là đến một khoảnh đất trống nhỏ, không có cỏ cây gì mọc được, rộng chừng hơn thước, bao quanh lấy miệng giếng. Hồng Quán nhìn tới lui, không gian trong này đặc sệt âm khí, lạnh lẽo như hang đá, lại âm u như tra tấn tinh thần của những ai lạc vào đây, từ miệng giếng cao lên chừng hơn trượng thì tới tán lá, nhưng có soi đuốc cỡ nào cũng không thấy lá có màu gì khác ngoài một mảng đen sì sì. Miệng giếng bốc lên một làn âm khí mỏng, nhưng đều, cho thấy bên dưới còn đậm hơn rất nhiều, như lời thầy Tư nói. Thành giếng vẫn còn mấy đạo bùa rách nát dán quanh mép, Hồng Quán sờ vào thử thì thấy đã mục nát cả, và thứ kỳ lạ nhất trong khu vực này chính là từ phần trung tâm của tán còng, có một thứ trông như thân cây, không phải còng, mọc thẳng đứng, xuyên từ đáy giếng lên tít phía trên. Hồng Quán không biết được là nó cây mọc từ đáy giếng lên, hay là một loại nhánh của thứ cây kỳ lạ nào đó mọc ngược xuống, vì thứ ấy không có lá, chỉ có lớp vỏ sần sùi chạy ngang dọc.
Hồng Quán chọn hai nhánh còng thấp vươn ra, lấy dao chặt đứt, lập tức bên trong rỉ ra thứ dịch trong suốt ấy, nó chính là nhựa cây. Hồng Quán mặc kệ thứ nhựa, quấn vải liệm quanh cây rồi đốt thêm đuốc, cắm cạnh miệng giếng, hai cây đối xứng nhau, có vẻ như mục đích của Hồng Quán là bảo đảm ánh sáng bên trên miệng giếng này, để anh có thể theo dõi được thứ gì đó ở phía trên khi đang ở bên trong giếng.
Không gian bị bao kín bởi tán còng, ba cây đuốc vải liệm cháy hừng hực, bốc lên khói cay xè, hôi mùi như mật cá. Hồng Quán đi vòng quanh giếng, ướm chừng cách để có thể bốc bát. Bên dưới giếng tối om, vừa đưa đầu vào nhìn xuống dưới thì bị âm khí làm cho choáng váng mặt mày, dù gì cũng chẳng thấy được bên dưới có thứ ma quỷ ra sao, Hồng Quán ước chừng thời gian hành động của anh chỉ được vỏn vẹn tầm hai khắc mà thôi, trước khi Hải Tang Tử dậy.
Hồng Quán lấy Miêu Thủ ra, đưa lên mũi, kề mũi mình vào xương mũi Miêu Thủ rồi hít một hơi thật mạnh. Sau đó lấy dao cạo ra một lớp xương đỉnh đầu của nó, chấm vào đầu lưỡi, chuẩn bị tiến vào giếng.
Kết cấu của Ngọc Liên Huyệt rộng bốn xích, cao bốn trượng, Hồng Quán lấy trong túi ra sợi dây, đo thì thấy không đủ bốn trượng, chỉ chừng ba trượng hơn chút, nhưng trong tình thế như vầy thì có còn hơn không, vì theo lời thầy Tư thì có một thông đạo dẫn vào, cách mép nước không nhiều. Đột nhiên Hồng Quán nhìn thứ thân cây kỳ lạ ở giữa giếng, bèn lấy tay giật mạnh, thấy khá cứng chắc, bèn nghĩ đến việc nhờ vào nó mà đu xuống.
“Dĩ thiên biến ứng vạn biến”, dù sao thì thông tin về Ngọc Liên Huyệt đã có, Hồng Quán đặt ngang Tỏa Sơn Tiên, buộc dây thừng vào. Tỏa Sơn Tiên vừa vặn với thành giếng, lại dẻo dai, cứ thế Hồng Quán buộc đầu dây còn lại vào mình, bám vào thân cây kỳ lạ để đu xuống, vì vướng phải âm khí nên phải làm nhanh gọn. Thành giếng trơn tuột, nhiều rong rêu, Hồng Quán để ý kỹ có một số chỗ lõm vào, tựa như nơi đây từng có cuộc giao chiến sinh tử.
Nước trong này đang dâng cao, nên dâng sát lên cửa thông đạo. Hồng Quán thấy đúng như thầy Tư nói, thông đạo chỉ là một lỗ hổng vừa đủ một người chui vào. Thông đạo cách thân cây giữa giếng không xa, có thể đặt chân đu qua được. Thứ cây này đâm thẳng xuống lớp nước bên dưới, xung quanh mép nước là vô số rễ bám dày đặc, len lỏi cả vào trong thông đạo. Hồng Quán nhìn thứ ấy thì trở nên căng thẳng vô cùng, thận trọng lách người vào thông đạo.
Khi đã đứng bên trong, nó là một hốc đất, chui thêm chừng một thước nữa mới vào đến mộ thất. Hồng Quán cúi người, nắm lấy sợi dây, giật mạnh, khiến Tỏa Sơn Tiên nảy lên, rơi xuống, Quán đưa tay ra chụp gọn, kéo vào mộ thất, Hành Gia bốc bát, không thể thiếu dụng cụ như Tỏa Sơn Tiên được.
Thứ đầu tiên Hồng Quán cảm nhận được là mùi ẩm mốc và hôi hám từ phân chuột. Khói đuốc nhanh chóng tỏa ra cả căn phòng, ánh đuốc bỗng cháy mạnh hơn, Hồng Quán không hiểu đó là điềm gì, nhưng nhờ vậy mà soi được không gian bên trong. Ngọc Liên Huyệt ước chừng chu vi tầm mười sáu, mười bảy thước, cao gần ba thước, cột chống làm bằng những khúc gỗ to tròn, bắc các kèo ngang chịu phần trần, khắp nơi là rễ cây, lần theo rễ đó thì đến cuối phòng, là nơi đặt quan tài, Hồng Quán nuốt nước bọt vì thứ mà anh đang thấy đang diễn biến khác xa với những gì anh nghĩ!
Quan tài là bằng gỗ, không có họa tiết gì cả, chỉ là bốn tấm ván dày ghép lại vào nhau, quan tài nghiêng về hướng cửa thông đạo, không phải là do sụp lún, mà là do phần bệ bên dưới được xây như cái dốc nhỏ, bằng đá thềm. Khắp quan tài là rễ cây, nhìn thì có thể đoán được đây chính là nơi phát tích của đám rễ kỳ lạ ngoài kia, và khả năng cao gốc rễ này chính là thứ dẫn đến chuyện có một cách quái đản nào đó mà chúng mọc ngược thân cây, xuyên qua lớp đất, vòng lên phía trên kia thông qua đáy giếng. Quan tài có cắm một thứ xuyên vào nắp quan, ước chừng là ở phần đầu của xác bên trong, thứ ấy bám đầy bụi bặm mạng nhện nhưng áng chừng ánh kim bên trong vẫn còn chói mắt. Kỳ lạ là chỉ có chỗ ghim thứ ấy là không có rễ cây bám vào, hệt như chúng e sợ thứ ấy mà né ra. Hồng Quán nhìn thấy thì tim liền đập mạnh hơn hẳn, vì thứ ghim vào quan ấy chính là Thiết Bút, đúng như lời thầy Tư nói.
Hồng Quán thận trọng đến kế bên, trông như là đang muốn xác minh một thứ trước khi chạm vào Thiết Bút. Khi ánh đuốc soi đến góc phải, cạnh quan tài, Hồng Quán thấy một xác người gục bên quan, một tay đang với lên, như là muốn nắm lấy Thiết Bút, hay là như vừa buông tay khỏi nó. Bộ xương ấy mặc áo đạo đã mục nát, trông sơ qua không thể nào biết được nguyên nhân chết là do đâu. Hồng Quán mới đến bên cái xác, xem kỹ qua y phục, xương khớp, thấy người này có đeo một túi vải vàng có vòng âm dương, bên trong toàn là đồ nghề của Hành Gia. Hồng Quán xem xương cốt xong, thấy người này có thân thể tráng kiện, rắn chắc, chính là dân có thân thủ cao cường, võ nghệ một thân. Hồng Quán căng thẳng đến quên lau mồ hôi, chảy vào mắt không chớp mắt, liền thở dài nói: “Vãn bối Đường Hồng Quán, đệ tử Hành Gia, xin cung kính trước Thập Hương lão tiền bối, ngài đã cực khổ nhiều rồi!”
Dứt lời, Hồng Quán nắm chặt Thiết Bút, kéo mạnh ra, nói: “Phúc Nguyên, anh hãy bảo trọng!”
Tay Hồng Quán vừa chạm vào Thiết Bút, quan tài bỗng rung lên, như ai đó lắc mạnh, Hồng Quán rút tay lại, vừa lúc đó, nắp quan nứt ra những đường dài, vang lên tiếng thứ gì đó cào vào nắp.
-0-
Lại nói về Phúc Nguyên, đúng lúc đang đảo mắt theo dõi xung quanh, một bóng đen từ trần nhà nhảy xổ xuống, trông như định ra đòn chí mạng vào cổ, cứ tưởng đã cắt cổ được Phúc Nguyên, ai ngờ anh hành động trông có vẻ là đã sớm biết nguy hiểm, lách người né tránh, thuận đà đưa thêm một đòn Đảo Mã Cước vào thứ bóng đen ấy, nhưng nó cũng không phải dạng vừa, tránh né dễ dàng, thân thể trơn tuột, cú đá ấy không chắc là trúng vào nó hay chưa hay là nó đã né được. Đòn đánh diễn ra nhanh như chớp, hai bên ra đòn xong đều lui về sau thủ thế. Phúc Nguyên chọn phía có Tư Lĩnh, đứng che trước người đồng hành mới biết, nhìn về phía trước, khịt mũi nói: “Quả nhiên chốn giang hồ hiểm ác, điều gì cũng có thể xảy ra được, đúng không hả thầy Tư?”
Thầy Tư, nãy giờ ngồi im, tay chân như rệu rã, nay lão đã ngẩng đầu dậy, ánh mắt tuy không mở to ra, nhưng dù chỉ một khóe mắt cũng bốc lên sự tà ác đến ghê người. Trước mặt lão là những cái xác bị quấn đầy rễ cây, xác nào cũng đều phân hủy gần hết, chỉ còn chút ít xương thịt, tanh hôi vô cùng, có vẻ vừa nãy Phúc Nguyên đã đánh với nó, mũi giày vẫn còn dính chút nhớt từ thịt thối rữa ghê tởm.
Thầy Tư thấp giọng: “Có vẻ như… ta đã không qua mắt được bọn bây. Làm sao bọn bây biết?”
Phúc Nguyên khịt mũi: “Ba người bọn tôi đi chung, chỉ có mỗi Tư Lĩnh là xỉu mãi chưa tỉnh, đoán chừng đã trúng độc. Có hai vấn đề, tại sao lại là độc và tại sao là Tư Lĩnh. Tôi và Hồng Quán không thể nào chẳng bị gì cả, còn Tư Lĩnh lại mê man nãy giờ như vậy được, có chăng là muốn ngăn chặn Tư Lĩnh một việc gì đó.”
Phúc Nguyên nhìn thầy Tư, thấy lão im lặng thì nói tiếp: “Tại sao lại có độc? Vì có người sợ Tư Lĩnh biết được âm mưu của hắn ta! Làm sao Tư Lĩnh biết được? Vì con mèo Bảo An này, nó là Mèo Mắt Lộn sứ giả âm giới, mắt mù nhưng có thể nhìn bằng miêu pháp, thấu đạt được những thứ dơ bẩn. Tư Lĩnh để con mèo trong túi, ông sợ nếu để Tư Lĩnh nghe kế hoạch bốc bát Ngọc Liên Huỵêt thì sẽ đem Bảo An ra, khi đó là đổ vỡ. Vậy nên ban đầu ông bày chuyện người chủ ghe bị vong nhập, để Tư Lĩnh không dám đem con mèo ra, sau đó đợi tình hình lắng xuống thì hạ độc Tư Lĩnh, tiếp theo là ra sức an ủi và đề nghị bọn tôi bốc bát, với cân lượng từ xuất thân, ông cho rằng Hồng Quán dễ dàng nghe theo, tôi và anh ta đi xuống giếng theo như ông nói là tưởng như giúp Hồng Quán có được Thiết Bút, chỉ cần bọn tôi lấy nó là xong, ông tính đến vậy, nhưng sự xuất hiện của Bảo An một cách bất ngờ không có trong kế hoạch này đúng không?”
Thầy Tư im lặng, gật gù như đồng ý. Phúc Nguyên đứng thẳng dậy, nói: “Câu chuyện ông bịa ra hay đó, nhưng chỉ vì chạy tội cho bản thân, ông đã quên đi một chuyện là nó quá vô lý, tôi và Hồng Quán đã đoán chừng được từ sớm, vốn dĩ chẳng có chuyện sư phụ lão hϊếp cô gái trẻ kia, mà người làm chính là lão, sau đó cô gái mới mang oán hờn mà chết. Lão muốn mượn tay Hành Gia để giúp lão thoát khỏi thứ bị nguyền rủa bên dưới kia à?” Phúc Nguyên chỉ tay vào cái mền lão đang đắp.
Thầy Tư thở dài, giọng có vẻ mệt mỏi pha lẫn bực tức: “Hay đó, mà bây sai rồi… thứ này không phải thứ nguyền rủa, mà là thứ ta theo đuổi cả đời!” Thầy Tư kéo mền ra, để lộ bên dưới là khối rễ cây quấn chặt quanh chân lão… Phúc Nguyên nuốt nước bọt, đối thủ trước mặt không cần vận khí, hay chính xác là không vận khí vậy mà vẫn làm Phúc Nguyên thoáng run tay.
Chương 9: Xác tươi
Thầy Tư trút ra từng hơi thở nặng nề, mặt lão cúi gằm khi dùng tay giật chiếc mền ra, để lộ bên trong là thứ quái dị: một cái cẳng chân ốm tong teo, như lấy giấy mỏng bọc quanh xương, trắng bệch, chân còn lại thì rễ cây quấn chặt, trông từ xa thì hệt như lấy lưới đánh cá quấn xung quanh. Rễ cây cắm vào cả chiếc ghế, hay nói chính xác hơn, chiếc ghế được tạo ra từ một đống rễ cây đan cài lại.
Phúc Nguyên cố kìm nén bất ngờ, nói: “Ngải Còng Chui? Thứ này đâu phải của Hành Gia, ông là ai?”
Thầy Tư ngẩng đầu lên nhìn Phúc Nguyên, từ đỉnh đầu đến yết hầu của lão như bị tách ra, bên trong dần dần hiện rõ hai bàn tay đang kéo da đầu lão sang hai bên, đôi mắt lão lồi hẳn, trắng hếu, miệng lão mấp máy: “Sắp chết rồi, hỏi nhiều làm gì?”
Phúc Nguyên hiểu ra thứ mình sắp đối đầu thuộc loại ghê gớm ra sao, liền lao đến không chần chừ, vung dao định cắt phăng đầu lão, thầy Tư trông thấy liền giật đám rễ cây, điều khiển mấy cái xác thối rữa như hình nhân thế mạng, hứng dùm lão một nhát chém cực mạnh, lưỡi dao trong tay Phúc Nguyên xé gió vυ”t lên một tiếng, hai cái xác đứt lìa nửa người, đầu lưỡi dao suýt chút đã chạm đến yết hầu của thầy Tư, lão tuy mắt đã lồi muốn rớt ra ngoài, nhưng đường dao này dường như nằm trong dự tính, lão nắm chặt hai tay vào ghế, ngả ra sau, lưng ghế lập tức mềm nhũn ra, kỳ thực phần lưng ghế toàn là dây leo, trong gang tấc giúp lão thoát được.
Phúc Nguyên lao đến chém một dao tận lực, thực ra chỉ là hành động nhất thời, chẳng có hậu chước trù bị, ai ngờ thầy Tư thoát được, lập tức anh tự khiến bản thân rơi vào tình thế khó xoay sở, dao đã phạt đứt được hai cái xác, nhưng vẫn còn mấy cái khác, chưa kể chém hết lực tay, lưỡi dao đã xuống thấp, đà chém vẫn còn, thầy Tư biết rằng thể nào trong tình huống này, Phúc Nguyên cũng sẽ chém bồi thêm mấy phát nữa, lão không thể để bản thân bị động, lập tức kéo rễ cây, giật đến mấy cái xác hôi hám, chúng ngoác mõm, giơ tay có móng nhọn hoắc, hai bên trái phải cùng lúc giáp công. Thầy Tư rống lên một tiếng như bò kêu, da đầu lão toác ra một mảng, hai bàn tay bên trong thoát hẳn ra ngoài, vươn dài, lão cúi đầu hướng bàn tay đó lao đến Phúc Nguyên. Tình thế vô cùng nguy khốn, ba hướng đều có hiểm nguy, Phúc Nguyên mặc dù có xoay dao chém ngược lên thì chẳng thể cứu được!
Tưởng như trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, một quyết định sai lầm là sẽ mất mạng, Phúc Nguyên lại quyết đoán, không vung dao lên, mà cúi thấp người xuống tựa như ngồi, nhưng khi co gối thì phóng tới nhắm vào hướng bên phải của thầy Tư, dưới chân ghế, do ghế cao nên có thể chỗ đó rơi vào góc chậm chạp nhất mà thầy Tư xoay sở. Khi phóng, anh xoay thân một vòng từ trái sang phải, tay phải đang cầm dao theo đà xoay thì chém thẳng lên trên, tưởng như tay lão sắt đứt lìa, nhưng do lực yếu nên thầy Tư dễ dàng né tránh.
Cứ tưởng mục đích của Phúc Nguyên là như vậy, nhưng ai ngờ anh đã quan sát rất kỹ, nếu ban nãy nhảy lùi về sau thì đã dính thiên la địa võng của thầy Tư giăng sẵn, bên trên của hướng ấy là ba bốn con cương thi đã đu lơ lửng trên xà nhà sẵn, chỉ đợi Phúc Nguyên vừa lùi về là tấn công ngay. Phúc Nguyên biết không lui ra sau được, cũng khó mà chạy qua trái phải, vì chuyện cần làm hiện tại là phân tán được năng lực thầy Tư, anh chọn cách liều lĩnh là nhảy về hướng chân ghế, thầy Tư lo né tránh hai cánh tay vươn ra từ đầu thì Phúc Nguyên đã rơi đúng chỗ, một dao chém từ dưới lên, rạch vết thương rất sâu từ hông cho đến ngực của thầy Tư, lão rống lên vô cùng điên dại, làm cho mấy con cương thi chịu sự điều khiển từ lão cũng trơ ra bất động, nên chúng chẳng tấn công Tư Lĩnh để uy hϊếp Phúc Nguyên được.
Vết thương kia nhất định không thường, thầy Tư rống như thú hoang, hai tay bịt miệng vết thương, nhưng bên trong túa ra thứ dịch đen tanh hôi mùi cá chết, bắn tung tóe, cả căn nhà vì thế cũng chao đảo theo từng cơn kêu gào cũng lão.
Phúc Nguyên liền kéo Tư Lĩnh ra bên ngoài, Bảo An không còn gầm gừ nữa, nó dựng lông, đi chắn trước mặt Phúc Nguyên và Tư Lĩnh, tựa như đang bảo vệ cho hai người, tất cả cùng lùi dần ra ngoài sân.
Phúc Nguyên đặt Tư Lĩnh lên chỗ đất khô, vuốt Bảo An, nói: “Tao tin Tư Lĩnh nói rằng mày hiểu tiếng người là đúng! Mày ở bên cạnh chủ mày đi, tao sẽ giải quyết thằng ác ôn lừa gạt này!”
Bảo An kêu lên meo meo mấy tiếng rồi nhảy lên bụng Tư Lĩnh nằm. Phúc Nguyên chợt hiểu ra, chuyện không đơn giản là Bảo An nằm lên người Tư Lĩnh chỉ vì nó muốn gần chủ, mà kỳ thực là nó đang truyền dương khí, giữ ấm vùng bụng của Tư Lĩnh, tránh bị âm khí nhập tâm, thổ huyết mà chết. Bảo An hướng cặp mắt vô hồn nhìn về Phúc Nguyên, anh không tài nào hiểu được, Bảo An rốt cuộc là loại Mèo Mắt Lộn như thế nào mà lại có linh tính cao như vậy, không chừng nó đang tu thành yêu thú? Thật khó biết được.
Chuyện xảy ra nãy giờ thực ra là vô cùng nhanh chóng, Phúc Nguyên không kịp suy nghĩ gì thêm nữa thì tứ phía vang lên tiếng rên ư ử, chẳng gì khác ngoài mấy cái xác, chúng bò từ dưới đất lên, có vẻ chịu sự điều khiển của thầy Tư. Căn nhà phát ra tiếng động vô cùng lớn, tựa hồ như tất cả bàn ghế đều vụn vỡ, sắp sập đến nơi. Phúc Nguyên chửi thầm trong bụng: “Con mẹ nó, phen này đành chơi tới bến!”
Anh cởϊ áσ ra, lưng và ngực đều xăm vô số hình trông như ác quỷ, mỗi hình nằm trong một khung bát giác, giữa mỗi hình đều là những câu kinh văn tiếng Phạn. Phúc Nguyên rạch nhẹ vào lòng bàn tay, nhuốm chút máu vào lưỡi dao, sau đó thoa lên ngực và hông, miệng lầm bầm: “Cha thi cha tha kurawe itti cha mah bru ma vanna… Khai!”
Vừa dứt lời, lưng và ngực Phúc Nguyên đỏ ửng lên, việc ấy có vẻ đau đớn khiến mặt anh thoáng nhăn lại, mắt khép chặt, rồi khi mở ra, khuôn mặt anh đột ngột trở về trạng thái không còn cảm xúc gì cả, Phúc Nguyên hét lớn: “Dạ Xoa Tàn Diệt Vô Lượng!”
Câu Chú vừa dứt, xung quanh như rơi vào một không gian tối đen, hoàn toàn chẳng còn âm thanh gì khác, từ lưng Phúc Nguyên tỏa ra bốn phía một làn khói đen, tức thì nuốt chửng mọi vật. Hai tay Phúc Nguyên bắt bài Chú, ngón tay rời ra thì chắp tay lại, hai cánh tay nằm ngang, Phúc Nguyên lại hô lớn: “Sát!” Làn khói đen ấy lập tức rút trở về lưng Phúc Nguyên, xung quanh cảnh vật lại trở về bình thường, nhưng tiếng kêu rên ư ử đã không còn nữa, thay vào đó là một tiếng hét vang dậy, đám cương thi hóa thành tro bụi!
Phúc Nguyên thở lấy hơi, hai tay chắp trước ngực, hét lên thêm một lần nữa: “Thiên Đăng Ẩn Quang! Khai!”
Ánh sáng chói lóa bộc phát vô cùng dữ dội, tuy không lâu, nhưng mục đích của Phúc Nguyên là kiềm chế sự chuyển hóa của thầy Tư. Ai ngờ, sau đòn Thiên Đăng ấy, căn nhà đổ sụp xuống, giữa đống đổ nát sừng sững một bóng đen to lù lù, tròn nhẵn như khối thịt. Phúc Nguyên đang im lặng đợi động tĩnh tiếp theo thì khối thịt ấy mở ra một con mắt rất to, nhìn chòng chọc về hướng anh!
-0-
Hồng Quán tay vừa chạm Thiết Bút thì bị âm thanh động đậy trong quan làm cho có chút giật mình, vội rút tay về, lui qua một bên, đứng sát vào vách mộ thất mà thủ thế. Quan tài gỗ rung lên càng ngày càng mạnh, Hồng Quán nghe bên trong cục cựa, vẻ như có thứ gì đó bị đánh thức, đang muốn phá quan tài thoát ra khiến Hồng Quán vô cùng khó hiểu, chẳng phải áp mộ kiểu này rồi lại còn trấn yểm bằng Thiết Bút thì làm sao xác hóa cương thì khi chưa lấy Thiết Bút cho được?
Hồng Quán chưa biết nên làm gì tiếp theo thì cái quan tài lắc mạnh, xem chừng sắp rơi xuống, Hồng Quán bỗng kêu lên, với tay giật Thiết Bút, vì anh vừa nhớ ra thứ bên trong có thể là thứ gì, tay chạm lấy Thiết Bút cũng là lúc thứ bên trong giật mạnh, nắp quan bật tung, văng lên cao chừng cả thước rồi rơi qua một bên, bụi văng tung tóe…
Hồng Quán trút ra hơi thở nặng trịch, từ trong quan bốc lên một làn khói xanh rất đậm, một thứ gì đó vội bò ra ngay khi nắp quan vừa rời ra, nó quá nhanh khiến Hồng Quán không chắc rõ ràng thứ mình nhìn thấy có hình thù ra sao, chỉ có tên gọi của nó là anh đoán được: Con Hòm Khôn.
Quan tài từ xưa tới nay đều là vật mang âm tính vô cùng nặng, mặc dù là quan tài mới làm xong, chưa có người chết nào trong đấy, nhưng nhìn vào cũng đủ khiến người ta lạnh gáy nổi da gà, huống gì những loại quan được tạo ra chuyên biệt cho việc trấn yểm, áp mộ như vầy. Trong quan tài, hay còn gọi là hòm, mặc dù được làm kỹ lưỡng nhưng không phải không có con gì sống được. Không ít chuyện kể về khi bốc cốt gặp phải hàng đống cá trê trắng béo nục, sống trong quan tài từ khi còn là trứng, do ăn xác người lớn lên nên không chui ra được nữa, cứ thế sinh nở đầy ra, con này lại ăn con kia mà lớn, kinh dị là vậy nhưng rất hiếm khi gặp.
Con Hòm Khôn là từ của Hành Gia, ám chỉ những con vật kỳ quái được để vào bên trong quan tài dùng lúc áp mộ, chúng được nuôi bằng những nguyên lý phức tạp, có thể chỉ cần ngủ liên tục vẫn có thể to ra được, bảo vệ kẻ nào có ý định xâm phạm quan tài, suy cho cùng, Con Hòm Khôn cũng là một dạng Quan La Sát, chỉ là thay vì dùng cơ quan làm bẫy bằng gỗ, thì đây dùng thú độc làm bẫy chết người.
Con Hòm Khôn có muôn hình vạn trạng, đa phần đều rất cổ quái, kỳ dị, mang hình dáng lai tạp của hai ba loài gì đó, vì đều được nuôi bằng bùa đặc chế, rất khó giải thích cho tường tận.
Nắp quan rơi ra, làn khói bốc lên cao, thứ bên trong bò đi, lẩn vào bóng tối, mộ thất vang lên tiếng chân bò loạt xoạt, Hồng Quán trách thầm, biết vậy ban nãy cứ tranh thủ rút Thiết Bút ra thì giờ đã đỡ rối hơn. Nắp quan cách trước mặt hơn ba thước, Hồng Quán tay siết chặt dao, tay còn lại cầm đuốc, nhìn quanh một lượt, nếu thấy tình hình ổn sẽ lao đến giật lấy Thiết Bút, ai ngờ vừa nhìn lên trần thì suýt chút nữa đã giật mình vì sợ.
Con Hòm Khôn này co ro một góc trên trần, đầu như cá trê, thân rết, chân bám như thằn lằn. Nó có tám cái chân, mắt lồi, mỏ trề, nanh nhọn, lưỡi đỏ, thở ra làn khói xanh, nước dãi nhiểu nhão, trông qua thì biết chẳng có gì tốt đẹp nếu để nó đớp cho một cái. Hồng Quán vừa nhìn, con vật quái đản kia thấy con mồi đã phát hiện ra mình, cũng chẳng chần chừ, liền co giò, phóng thật mạnh đến, vồ một phát. Không gian mộ thất chỉ được soi sáng bởi bó đuốc, mờ tỏ khó đoán, Hồng Quán chỉ vừa thấy bóng con vật, còn chưa hết ngạc nhiên vì sự kỳ lạ của nó thì nó đã phóng đến vồ, Hồng Quán chỉ làm theo bản năng, tránh qua một bên, né được cú đớp ấy. Con Hòm Khôn to như con nghé, linh hoạt vô cùng, vừa đáp bằng hai chân trước, nó đã xoay đầu, dùng mấy chân sau tiếp tục định hướng Hồng Quán mà lao vào cắn tới tấp, dù anh có huơ đuốc thì nó cũng chẳng tỏ ra chút gì e sợ, hết cắn lại lấy đuôi như trăn đập tới tấp, móng tay sắc nhọn, cong vυ”t, tay nó vươn dài, kể cả móng ước chừng gần cả thước, cho nên Hồng Quán chống trả trong không gian nhỏ như mộ thất này có phần khó khăn.
Hồng Quán lui thế nào không biết, vô tình vấp phải cái xác khô, ngã ra, cứ nghĩ trong đầu rằng phen này coi như tận số, nhắm mắt chịu đựng cú đớp của Con Hòm Khôn, ai dè nó khựng lại, khịt khịt mũi, kêu ré ré mấy tiếng rồi há to cái miệng, gào vào mặt Hồng Quán, bò tới bò lui, trông như đang sợ hãi thứ gì đó mà không dám tiến đến. Hồng Quán lập tức ngồi dậy, vừa nhìn thấy thì liền hiểu được, Con Hòm Khôn này sợ thứ gì đó ở đây chăng? Khi nãy, lúc nắp quan vừa mở ra, nó cũng đã lập tức phóng lên trên trần, có cái gì ở gần quan tài đã làm nó sợ đến vậy? Không khó để Hồng Quán đoán biết được, Con Hòm Khôn sợ hoặc là cái xác này, hoặc là thứ cái xác này có.
Hồng Quán loại trừ trường hợp Con Hòm Khôn sợ cái xác. Vì nếu nó sợ cái xác, điều đó nghĩa là nó từng là thú nuôi của ông ta, nhưng nếu là thú nuôi thì sẽ không có chuyện nó khựng lại, chỉ vì anh đang té cạnh bên cái xác khô.
Vạn vật thế gian đều không tránh khỏi quy luật sinh khắc chế hóa, nếu như vị đạo trưởng Hành Gia ngày xưa từng trấn yểm Con Hòm Khôn này vào quan để áp mộ, nghĩa là ông đã biết được điểm yếu của thứ này, Hồng Quán suy ra có thứ gì đó từ cái xác khô có thể khống chế Con Hòm Khôn. Thứ ấy, biết đâu được lại nằm trong túi vải kia? Hồng Quán thận trọng, mắt vẫn hướng về Con Hòm Khôn, tay thì lần mò trong túi vải, ngoài mấy thứ đồ lặt vặt dùng để mở quan, đυ.c tường, cắt khóa của Hành Gia, Hồng Quán mò thấy một thứ như cục đất, lấy ra xem thì quả là cục đất khô, có màu vàng sậm như nghệ, đưa mũi lại gần thì nghe mùi như lưu huỳnh. Hồng Quán thử cạo lấy ít bột từ nó ra, khi ấy mùi nồng hơn một chút, Con Hòm Khôn lúc này gào rú như điên dại, bò lui về một góc, thì ra nó sợ mùi từ cục đất này.
Hồng Quán đã rõ, liền cắm cây đuốc xuống, lấy tay cầm cục đất, tay kia cầm dao, tiến đến gần Con Hòm Khôn khiến nó l*иg lên, phát ra một tràng điếc tai những tiếng réc réc. Hồng Quán không dám ép nó vào đường cùng, vì sợ nó sẽ liều mạng quật lại, khi ấy lại lành ít dữ nhiều. Hồng Quán suy nghĩ, dù gì Con Hòm Khôn là những con vật chỉ chuyên sống trong quan tài, dùng để trấn yểm, có ra ngoài cũng chẳng sống được là bao, nên có ý định không gϊếŧ nó. Anh rút tay lại, Con Hòm Khôn nhận ra có đường thoát, nó gào lên một cái rồi cúi đầu rụt cổ, phóng một mạch, chạy ra khỏi mộ thất, thoắt cái đã mất dạng.
Hồng Quán gỡ ra một mẩu đất nhỏ, bỏ vào túi áo, phần còn lại thì nhét vào túi vải của mình. Anh không biết rõ thứ đất kỳ lạ này là gì, nó cứng chắc hơn đất rất nhiều, nhưng không như đá.
Hồng Quán sực nhớ lại, nãy giờ đã gần hai khắc, thời gian hành động sắp hết, vội chạy đến bên quan tài, một tay nắm chặt Thiết Bút định kéo mạnh thì vướng, do nắp quan cũng rơi sấp xuống, nên Hồng Quán phải lật nắp quan lên mới biết thứ gì đã khiến Thiết Bút không rút ra được. Ai ngờ vừa lật mặt dưới lên, Hồng Quán liền giật mình, vội đưa mắt vào thứ bên trong quan tài.
Bên trong quan tài là hai cái xác, một của người con gái tuổi chừng mười tám mười chín, da thịt vẫn còn hồng hào vô cùng, tựa như chỉ mới chết mà thôi. Cô ta mặc áo lụa trắng, tóc xõa dài, được chải cẩn thận qua hai vai, môi đỏ, cổ đeo kiềng đồng, hai tay chắp trước ngực. Phần thân dưới, bộ quần áo lụa trắng ố loang lổ vết máu đã đen đi, thứ nằm phần bên dưới khiến Hồng Quán không khỏi kinh ngạc, lập tức rút dao chặt đứt thứ đang quấn chặt Thiết Bút.
Bỗng nhiên, từ ngoài cửa thông đạo, Hồng Quán nghe một tiếng rít lạnh người…
-0-
Đã gần ba khắc kể từ khi Hồng Quán đi xuống giếng, Phúc Nguyên cầm cự với thầy Tư chừng ấy thời gian mà tưởng chừng cả năm trời. Anh dư sức biết được dưới giếng cũng không ít hiểm nguy đang đợi Hồng Quán, nhiệm vụ mỗi người đều đã được phân chia, cứ theo vậy mà làm, hiện giờ Phúc Nguyên cần phải cầm chân lão, trong khi Hồng Quán lấy Thiết Bút, diệt áp mộ nếu có.
Thứ quấn xung quanh chân thầy Tư cũng chính là thứ đã làm lão biến đổi thành một con quái vật. Lại kể lúc căn nhà sập xuống, Phúc Nguyên chỉ cần hít thở thôi cũng đã thấy không gian ngập mùi nguy hiểm. Sau hai đòn đánh chấn động ban nãy, cơ bản ma quỷ trong khu vực này đã suy yếu đi rất nhiều, vậy nên thứ hiện giờ có thể làm khó Phúc Nguyên, chỉ là lão thầy Tư với độc chiêu Ngải Còng, loại ngải tà ác, có quyền năng thay hình đổi dạng, giúp kẻ dùng ngải có được cả sức mạnh và sức sống mãnh liệt, khó bị gϊếŧ. Nói về Ngải Còng vô cùng dông dài phức tạp, lại chia ra Bắc phái Nam phái, Còng Miến Điện hay Còng Nam Vang, Còng Đực hay Còng Cái, có lẽ khi thuận tiện khác sẽ bàn đến.
Thầy Tư dùng Ngải Còng, đến đúng thời điểm khi ngải sắp bị suy yếu, liền dẫn dụ Hồng Quán và Phúc Nguyên vào bẫy hòng giúp lão một chuyện gì đó, thực hư chuyện lấy Thiết Bút còn quá nhiều mờ ám chưa thể tỏ tường được, nên Phúc Nguyên đành đợi Hồng Quán trở về mới biết được. Thầy Tư hóa thành nhục thể, tròn, to như hai con bò, vỏ bên ngoài có màu xám tro, chính giữa có con mắt rất to, mở ra trừng trừng nhìn Phúc Nguyên. Thứ nhục thể kỳ quái đó không có miệng, hai bên mắt lần lượt mọc ra mỗi bên tám cái tay, ốm trơ xương, mười sáu cánh tay chống đỡ cái trứng thịt, mắt nó chớp chớp, nhìn vào chỉ thấy sự thù hận lấp đầy trong đó.
Phúc Nguyên biết được mỗi quá trình biến đổi của Ngải Còng đều đưa vật chủ trở về hình dạng quả trứng, rồi lại tái sinh ra một cơ thể mới, cơ thể mới chui ra khỏi vỏ trứng thịt, chỉ trong khoảnh khắc là sẽ cứng da cứng thịt, sức mạnh vượt trội. Có thể nói lúc này, thầy Tư vừa mạnh nhất nhưng cũng vừa yếu nhất. Mạnh nhất là vì quả trứng rất khó xuyên thủng, yếu nhất là vì hiện giờ tà thuật nó có thể dùng không nhiều.
Quả trứng thịt hầu như không di chuyển nhiều, Phúc Nguyên tấn công bằng nhiều đòn thế kết hợp, có ra sao đi chăng nữa, cái trứng ấy cũng đứng im một chỗ, hoặc di chuyển qua lại, hoặc đỡ, gạt, chẳng có khoảng trống tấn công.
Phúc Nguyên thi triển hơn mười bài Chú, kể cả những cấp Chú cao nhất như Toàn Sát, Khai Sát, Đản Sát, chỉ làm vỏ trứng hư hoại chút ít, nhưng dường như nó không chịu tổn hại gì đáng kể.
Đột nhiên trăng trở nên sáng tỏ lạ thường, trời đang đêm âm u, bỗng được soi bởi ánh sáng dịu nhẹ, gió ngừng bặt, không còn tiếng lá cây xào xạc, mấy cái đèn l*иg cũng không còn đong đưa qua lại, không gian hệt như lúc Phúc Nguyên thi triển Dạ Xoa Tàn Diệt Vô Lượng. Phúc Nguyên nghĩ thầm: “Hỏng rồi, thứ này sắp biến đổi, phải nhanh lên mới được!” Vừa nghĩ vậy, Phúc Nguyên vận Chú Thiên Thủ Quan Âm Công, tụ hết pháp khí vào lòng bàn tay, định sẽ tung một chưởng xem coi có xuyên qua được vỏ trứng thịt hay không, tay còn lại sẽ vung dao chém thật mạnh, ra sao thì ra. Anh chạy đến, lấy đà, hô: “Sát!” một tiếng đầy uy dũng, lưỡi dao vung lên xé gió, tưởng như có thể chặt đứt lìa cây gỗ cứng, mười sáu cánh tay của trứng thịt hành động bỗng trở nên chậm chạp, bị phạt đứt lìa hết mấy cái, lưỡi dao chạm vào vỏ trứng nghe “keng” một tiếng!
Phúc Nguyên sững người. Vỏ trứng thịt nứt ra những đường kỳ dị, bên trong lóe lên ánh sáng màu xanh lá nhạt, lạnh lẽo ma quái vô cùng, trong khoảnh khắc Phúc Nguyên phân tâm bởi ánh sáng ấy, một cánh tay trong vỏ trứng tung một chưởng ra, Phúc Nguyên chỉ kịp rút dao đỡ, khiến lưỡi dao bị cong qua một bên, bản thân anh thì bị văng ra mấy thước.
Bảo An có vẻ mệt mỏi, nhưng dường như nó cũng hiểu được tình cảnh nguy khốn hiện giờ nên cứ gào lên liên hồi. Vỏ trứng nứt dần, với ra một cánh tay và cái đầu thầy Tư, nhưng trông trẻ hơn. Ngũ quan còn lộn xộn, mắt lồi, to, miệng méo xệch, nhưng dần dần chúng mới trở về vị trí, lão rên hừ hừ: “Có vẻ thằng ngu Hồng Quán đã lấy được Thiết Bút, chắc đã bỏ mạng dưới đó rồi…”
Thầy Tư chưa nói xong thì từ vườn chuối vυ”t lên tiếng kim loại xé gió bay đến. Thầy Tư hoảng hồn dùng tay đỡ thì bị gãy xương, kêu răng rắc, thứ kim loại ấy vừa bay đến làm thầy Tư trọng thương, dường như có thứ gì đó giật mạnh, làm nó quay ngược trở lại nơi xuất phát, hướng đằng ấy có người đang chạy đến, không ai khác chính là Hồng Quán, trên lưng đang cõng Hải Tang Tử.
Hồng Quán hét lớn: “Phúc Nguyên, cẩn thận, Ngải Còng của hắn có thể hoán xác! Hắn muốn dùng chúng ta để đi bốc bát hương cái mộ ở sông Cổ Chiên đó!”
Phúc Nguyên giật mình, thầy Tư cũng muốn vào Thiên Tướng Tiên Cung hay sao? Vừa nghĩ như vậy, thầy Tư liền nhảy xổ đến trước Phúc Nguyên.
Chương 10: Mèo cho mạng
Phúc Nguyên giật mình, Hồng Quán vừa nhắc đến năng lực thật sự của Ngải Còng mà thầy Tư sử dụng là để hoán xác, anh hiểu ra nên lập tức quay về thủ thế, may sao vừa khi lão ta nhảy xổ đến, lão buông thõng hai cánh tay bị đánh gãy lặt lìa, ngoác cái miệng to như thúng, định vồ lấy Phúc Nguyên bằng cái miệng ấy. Hồng Quán tay cầm Thiết Bút, vặn chốt lẫy, sau đó lấy đà thật mạnh phóng Thiết Bút lao đi xé gió, nhắm vào đầu thầy Tư, tay trái nắm sợi dây, điều khiển hướng Thiết Bút, chính vì vậy nên ban nãy Thiết Bút đánh gãy tay thầy Tư xong liền thu về, tay vừa chụp Thiết Bút, đồng thời cũng đặt Hải Tang Tử xuống cạnh bên Tư Lĩnh.
Thiết Bút lao đến như ánh chớp, nhưng thầy Tư cũng rất nhanh, lão nhân lúc Phúc Nguyên rối loạn thì hành động như cắt săn mồi, vồ một cú gọn gàng, miệng lão tựa như miệng trăn khi nuốt con mồi lớn, một phát chụp gọn nửa thân trên của Phúc Nguyên, khiến anh lập tức như đờ ra. Hồng Quán thấy thầy Tư đã nuốt Phúc Nguyên thì lập tức giật dây làm Thiết Bút lệch đi một chút, đánh trúng vai của lão, làm vai lão toác ra, bay đi mất một mảng thịt xương, nhưng lão không hề kêu la. Thầy Tư dựng ngược thân thể lên, miệng lão chụp lấy đầu và thân trên Phúc Nguyên, thân dựng đứng, chân đu đưa qua lại như cành cây, Phúc Nguyên thì cứng đờ tay chân.
Hồng Quán nhìn tình cảnh này, nhất thời không biết nên làm thế nào, đành vung Thiết Bút, nhắm vào bụng thầy Tư, xem lão có nhả Phúc Nguyên ra hay không. Miệng thầy Tư thì mỗi lúc một nhích dần xuống, từng chút một nuốt Phúc Nguyên.
Hồng Quán phóng Thiết Bút, thầy Tư dùng hai cái chân đang đung đưa, bắt chéo lại, đỡ một đòn tất sát, nát cả hai ống quyển, nhưng lão vẫn không mảy may suy suyển, Hồng Quán hiểu rằng lão cố tính đỡ bằng chân, vì từ hai cù lẳng bầy nhầy thịt, chân lão đang mọc lại từ từ, đây là năng lực thực sự của Ngải Còng! Hồng Quán thấy phen này đành liều tiếp cận, một dao xả thịt lão thì mới cứu được Phúc Nguyên, thế là liền nhảy đến, rút dao tương trợ, ai dè chỉ mới chạy đã thấy tay Phúc Nguyên cử động, đưa ra trước ngực bắt ấn, xung quanh vang lên âm thanh tựa hồ như có cả ngàn người cũng niệm kinh Phật bằng Phạn ngữ. Áp lực xung quanh lập tức thay đổi, một luồng sức mạnh pháp khí lan tỏa ra từ vị trí của Phúc Nguyên khiến Hồng Quán đứng sững lại, thầy Tư nhận ra có gì đó không ổn, liền thay đổi tư thế, định nhảy ra khỏi Phúc Nguyên, nhưng chưa kịp làm thì cơ thể lão như bị khóa chặt lại. Nhìn kỹ, thì ra là vì xung quanh Phúc Nguyên đã hiện lên một lớp khói màu vàng nhạt, lớp khói ngưng kết thành hình dạng một con khỉ cao lớn, mặc giáp vàng, đội kim khôi, tay cầm chùy, hình ảnh tựa như hư ảo, lại tựa như hình ảnh thật, làm Hồng Quán sững sờ: rốt cuộc Phúc Nguyên là người như thế nào?
Hồng Quán thấy lớp khói ngưng kết bao bọc lấy thầy Tư khiến lão bắt đầu co giật khó chịu, kêu ư ử, hai tay Phúc Nguyên vẫn chắp lại bắt ấn, thân hình đứng vững chắc như trái núi, Hồng Quán mới phát hiện ra, thứ khói mờ ảo ấy phải chăng là hiện thân của Hầu Thần Ha Nô Mạn trong Ấn Giáo?
Hầu Thần Ha Nô Mạn, dù chỉ hiện thân bằng lớp khói, nhưng cử động lại hết sức chân thật, thần dùng một tay móc vào khóe miệng của thầy Tư mà giật mạnh ra, khiến lão nứt toác da từ ám lên đến đầu, Hầu Thần ném thầy Tư vào gốc cây gần đó, lần nữa làm xương cốt lão kêu lên răng rắc.
Phúc Nguyên đứng hiên ngang, hai tay bắt ấn, mắt nhắm, miệng lầm rầm đọc chú, Hầu Thần bao bọc lấy cơ thể khi mắt Phúc Nguyên mở trừng ra, Ha Nô Mạn như nhấc bổng Phúc Nguyên lên, nhảy vồ đến chỗ thầy Tư, táng một chùy đầy uy lực.
Thầy Tư dù gãy tay, xương cốt vụn vỡ, nhưng năng lực Ngải Còng vốn không xoàng xĩnh, trong phút chốc vẫn có thể xoay xở, nhảy một bước thật dài, thoát khỏi phạm vi tấn công của Hầu Thần. Phúc Nguyên lệnh cho Hầu Thần liên tục vây ép, Hồng Quán cơ bản thấy bản thân mình cảm giác nhỏ bé trước loại năng lực kỳ lạ mà Phúc Nguyên đang dùng, với lại thấy đồng bạn của mình cũng đang chiếm thế thượng phong, nên không định lao vào trợ ứng, mà quan sát bên ngoài, đồng thời kéo Tư Lĩnh và Hải Tang Tử ra xa vùng đánh nhau.
Phúc Nguyên cùng với vị Hầu Thần của mình liên tục dồn ép thầy Tư, còn lão thầy tà ác, tuy liên tục né tránh, nhưng đó là điều lão cần làm để chờ đợi cơ thể hồi phục hoàn toàn trở lại, những vết rách da ở mặt, gối, tay, lưng, đang dần dần lấp đầy bởi thứ dịch nhầy màu xanh lá, rồi lành hẳn, Hồng Quán hét lên: “Hắn đang hồi phục! Mau kết liễu hắn đi!” Tuy nhiên Phúc Nguyên có vẻ không nghe được gì cả. Tay anh vẫn chắp phía trước, mắt nhắm, miệng đọc chú, thân hình thì di chuyển theo làn khói mang hình dạng Hầu Thần. Hồng Quán cảm giác có gì đó không ổn, có vẻ như Phúc Nguyên cũng không hẳn kiểm soát được năng lực này chăng? Hay anh ta đang có dự tính gì khác?
Một chùy của Hầu Thần đập nát cả gốc cây lớn, thầy Tư lãnh một đòn, cánh tay đứt lìa ra, lão gào lên một tiếng, lăn mấy vòng, nằm gục cạnh một gốc cây cũng vừa mới bị chùy của Hầu Thần đánh tan nát mới nãy. Trông như lão đã kiệt sức, bị dồn vào đường cùng. Phúc Nguyên cùng Hầu Thân cao to sừng sững đứng trước mặt lão, Hầu Thần khịt mũi, tựa như đang coi thường con người nhỏ bé trước mặt. Hồng Quán lúc này đứng cách chừng mười mấy thước, nhìn toàn cảnh hơn, thấy một hiện tượng lạ, liền hét lên lần nữa: “Cẩn thận cái tay hắn ta phía sau kìa! Phúc Nguyên!”
Lần nữa, Phúc Nguyên dường như không nghe được gì cả. Cánh tay thầy Tư lúc nãy đứt lìa, thực ra là do lão cố tình để nó rơi tại đó, lão cũng sắp đặt vị trí mình nằm vật xuống là một gốc cây, mục đích là thông qua rễ tại gốc cây chỗ lão đứng để kết nối và điều khiển cánh tay đứt lìa kia mà tấn công Phúc Nguyên từ phía sau lưng, quả nhiên là một chùm rễ từ dưới đất gắn vào cánh tay, khiến nó lao đến định đánh úp. Hồng Quán thấy Phúc Nguyên chỉ đang lo dùng chùy Hầu Thần mà đập thầy Tư, bỏ qua đòn tấn công lén kia, lập tức dùng Thiết Bút phóng đến ngắn chặn. Phía bên kia, thầy Tư cũng bộc phát nộ khí, kình lực phát ra bỗng chốc mạnh đến không tưởng, khiến làn khói ngưng kết của Hầu Thần bay tứ tán, Hầu Thần chới với, đặt ngang cây chùy, Phúc Nguyên gồng mình trụ lại, tình thế ba bên vô cùng căng thẳng.
Sự việc sau đó diễn ra hết sức nhanh, cánh tay đánh lén bị Thiết Bút đánh chặn, nát bét, Hồng Quán bị kình lực từ lần vận khí của thầy Tư đẩy ngã, lăn mấy vòng, thầy Tư vừa vận khí xong, cơ thể đã bình phục, lần nữa ngoác rộng mồm, định tấn công Phúc Nguyên một lần nữa, liền nhảy đến, cũng may là chút ít pháp khí từ Hầu Thần còn sót lại, khiến lão không nuốt Phúc Nguyên được mà chỉ tung một đấm, khiến Phúc Nguyên lăn ra ngất đi, pháp khí cũng theo đó mà biến mất.
Thầy Tư chậm rãi đi đến, nắm đầu Phúc Nguyên mà dựng dậy, nói: “Hộ Pháp Ha Nô Mạn cơ à? Mày cũng giỏi đấy! Kiếp sau ráng mà tu luyện thêm, nhưng nhớ là vẫn không là đối thủ của tao đâu!”
Bất ngờ, miệng lão lại há rộng, rộng hơn ban nãy, định một phát đớp trọn Phúc Nguyên, ai dè trong phút giây ấy, mắt thầy Tư lóe lên một ánh phản chiếu của kim loại đang bay đến – là Thiết Bút.
Tiếng vυ”t vừa vang lên, thầy Tư phải lập tức xoay người mới tránh được đòn hiểm, suýt chút nữa đã bay mất đầu chứ chẳng đùa! Thầy Tư một tay nắm đầu Phúc Nguyên, một tay thọc mạnh xuống đất, tức thì Thiết Bút trong lúc quay về tay của Hồng Quán thì bị chùm rễ cây chặn lại, khóa chặt, Hồng Quán có giật mạnh thế nào cũng không nhúc nhích được. Thầy Tư quát: “Thằng súc sinh mày còn chưa chết? Hôm nay để lão tiễn bọn bây xuống suối vàng!”
Dứt lời, lão dường như định vận khí để ra chiêu tất sát thì giọng Phúc Nguyên vang lên: “Ai mới là người chết đây?”
Phúc Nguyên đã tỉnh dậy, lại ở cự ly gần như vầy, lập tức vung một dao, cũng chính là cái lưỡi dao cong queo do đỡ đòn từ lão, phạt một đường rất mạnh từ bụng lên yết hầu của thầy Tư. Hồng Quán nhân lúc lão sơ hở, đám rễ cây nới lỏng Thiết Bút thì giật mạnh, Thiết Búc quay về phi thẳng vào đầu lão, làm bay mất một tảng thịt từ tai đến cổ, làm lão gục xuống đất. Phúc Nguyên chắp hai tay lại, hét lên: “Đại Hắc Thiên. Sát!” Lòng bàn tay anh bỗng trở nên đen sì, cứ thế tung một chưởng rất mạnh vào giữa ngực thầy Tư, đẩy lão văng dính vào gốc cây ban nãy, ngực lão thủng một lỗ lớn lộ cả xương sườn và nội tạng, có màu như rêu.
Thầy Tư gào lên, định vùng dậy, Hồng Quán nào để cho lão tự do, liền phóng Thiết Bút, lần nữa như mũi tên thép, cắm vào bụng lão, ghim chặt lão vào gốc cây, Phúc Nguyên lúc này nhảy lên cao, hai tay vận khí, lại hét lên: “Thiên Thủ Quan m Công. Sát!” Tay Phúc Nguyên đập mạnh xuống, tựa hồ như có cả ngàn vạn cánh tay cùng đập xuống đầu thầy Tư một lúc, khiến lão gập người lại, gối đang khụy chịu không nổi lực lớn như vậy, xương chân nát ra, Thiết Bút như lưỡi dao, khi tay Phúc Nguyên ấn xuống, liền rạch thêm một đường to tướng.
Hồng Quán cứ tưởng đã giải quyết xong, ai ngờ Phúc Nguyên mặc dù đang rất mệt, thở hổn hển, một tay đặt lên đầu thầy Tư, tay còn lại đưa hai ngón giữa và áp út ra, chạm vào đầu ngón cái, ngón trỏ và ngón út chĩa về trước, miệng hét lên: “Thập Điện Diêm Vương. La Sát. Khai!”
Xung quanh thầy Tư nổi lên một trận gió, bụi đen từ đâu xoáy quanh, tạo ra một lỗ hổng lớn trên đầu lão, từ bên trong lỗ hổng, một bàn tay khổng lồ, xương xẩu, thò ra ngoài, chụp lấy đầu lão, vừa chạm vào thì da thịt thầy Tư như bỏng rát, lão kêu la thảm thiết. Bàn tay ấy giật mạnh, thầy Tư như con lợn bị xả thịt, bầy nhầy, bị kéo lên, từ lỗ khói bụi đen ấy há ra cái miệng rất lớn, nanh nhọn, lưỡi đỏ, bàn tay quăng thầy Tư vào trong, tức thì cái miệng ấy nhai rau ráu, máu xanh trào qua kẽ răng, kinh dị vô cùng. Làn khói đến ấy thì dần dần biến mất, khi nó tan biến hẳn thì Phúc Nguyên gục xuống, thổ huyết, mặt mày tái xanh. Hồng Quán vội chạy đến đỡ dậy thì Phúc Nguyên nói rằng anh chỉ đang mệt do vận sức nhiều, chỉ cần nằm nghỉ một chút là khỏe.
Hồng Quán gật gù khen: “Công nhận, từ khi vào đây đến giờ, anh thi triển những đòn thế vô cùng mạnh mẽ, pháp lực rất cao, dám hỏi anh, đó là chiêu gì vậy?”
Phúc Nguyên ngồi dậy, lưng dựa vào gốc cây, thở điều hòa lại rồi nói : “Những đòn đánh tôi dùng gọi là Chú. Chú của bọn tôi được xăm trên người, khi dùng thì khai mở liên kết ấy, đem năng lực bộc phát ra ngoài. Còn khi nãy có lớp khói màu vàng bao quanh tôi, thứ ấy gọi là Hộ Pháp. Tôi may mắn luyện được Hộ Pháp Ha Nô Mạn…”
Hồng Quán ngạc nhiên nói: “Thứ Hộ Pháp ấy thật mạnh… sao anh không dùng từ sớm?”
“Không được đâu, Hộ Pháp một năm chỉ được dùng ba lần, không rơi vào lúc sinh tử, tuyệt đối không nên dùng, với lại mỗi lần triệu hồi Hộ Pháp vô cùng tổn hao nguyên khí, như anh thấy đó, tôi ra thương thế này, phần lớn đều vì vận khí cho Hộ Pháp mà thôi… Phen này phải tịnh dưỡng mấy ngày mới khỏi hẳn!”
Hồng Quán hỏi tiếp: “Vậy thứ lúc anh kết liễu thầy Tư, thứ ấy là gì?”
“Thứ đó vẫn là Chú. Tên của nó là Thập Điện Diêm Vương La Sát Chú. Chú ấy thực chất là tạo ra liên kết giữa bản thân và âm giới. Thầy Tư dùng ngải đến mức đồng nhất, đòn đánh của chúng ta chẳng làm gì được lão, tôi đành phải mở cổng âm giới mà đẩy lão vào trong đó…”
Hồng Quán thắc mắc : “Vậy chẳng phải anh dùng nó hơi trễ sao?”
“Lại không được đâu. Thập Điện Diêm Vương là kết nối âm giới vào chính cơ thể mình, mỗi lần mở cổng, cơ thể đều chịu sự va chạm với âm khí, điều ấy chẳng tốt, nếu để âm khí nhập thể, ngay cả bản thân người xăm Chú cũng bị hút vào chính cổng âm giới mà mình đã tạo ra!”
Hồng Quán nghe thì thán phục vô cùng, rõ ràng giới của Phúc Nguyên ẩn chứa rất nhiều huyền cơ khó lường, cao thủ trong ấy liệu có thể mạnh đến mức nào? Phúc Nguyên lúc này có thể ngồi thẳng dậy được, liền sờ vào Thiết Bút, hỏi: “Đây là Thiết Bút đó sao? Vỏ chắc, tinh xảo, uy lực mạnh mẽ, đòn đánh ảo diệu, xứng danh hảo pháp bảo trấn môn Hành Gia, hôm nay Phúc Nguyên được mở rộng tầm mắt!”
Hồng Quán nói: “Hổ thẹn rồi, Hành Gia bọn tôi, suy cho cùng cũng chỉ là hạng trộm mồ đào mả thất đức, dù có tạo ra pháp bảo tốt, cũng làm vì mục đích xấu, thấy mà tự hổ thẹn…”
Phúc Nguyên mới hỏi ban nãy Hồng Quán vào Ngọc Liên Huyệt như thế nào, làm sao biết được Ngải Còng của thầy Tư có năng lực hoán xác, Hồng Quán liền đem chuyện trong giếng kể lại, lúc xuống ra sao, gặp Con Hòm Khôn thế nào.
Khi Hồng Quán mở nắp quan ra, thấy bên trong là đầu của Thiết Bút, được quấn chặt bởi một thứ như thịt khô, vốn đã đứt khi Con Hòm Khôn đạp nắp quan thoát ra ngoài. Hồng Quán nhìn vào bên trong thì thấy xác cô gái, bên dưới là một hình thù quái dị mà anh bất ngờ: phần đầu của nó hệt như Hải Tang Tử, nhưng phần thân lại là của một đứa trẻ sơ sinh. Nhìn vào vết ố trên phần quần, Hồng Quán đoán chừng, có khi nào cô gái này chết rồi mới sinh ra thứ này trong quan tài hay không? Phần đầu của nó lớn như vậy, có khi lại do Con Hòm Khôn nuôi dưỡng, chuyện nghe có vẻ vô lý, nhưng ở đời chuyện vô lý có thật không thiếu, làm sao biết chắc được. Đúng lúc ấy, Hồng Quán nghe tiếng rít sau lưng mình, quay ra sau thì thấy Con Hòm Khôn đang cõng theo Hải Tang Tử bò vào thông đạo.
Hồng Quán ngạc nhiên, vội giật mạnh Thiết Bút ra, hướng về Hải Tang Tử thủ thế. Hải Tang Tử lườm lườm Hồng Quán, rít lên: “Sao … Đánh … Tôi!”
Hồng Quán chẳng biết trả lời làm sao, cứ im lặng, Con Hòm Khôn lúc này cũng không kêu réc réc nữa, nó nằm sát đất, cúi đầu xuống, mắt nhìn về phía quan tài. Hải Tang Tử dang hai tay ra, Con Hòm Khôn cắn nhẹ vào tay nó, liếʍ ít mủ rồi nó cứ khục khặc như mắc nghẹn, khịt ra từ mũi một làn khói màu xanh. Hồng Quán hoảng sợ, đưa áo lên che mũi, Hải Tang Tử liền nói: “Đừng… Sợ … Giúp … Mẹ!”
Hồng Quán ngơ ngác, nhưng quả thật nghe giọng của Hải Tang Tử lúc này không hề có ác ý, anh mới buông tay ra, lúc này làn khói tỏa ra khắp phòng, bên trong hiện lên khung cảnh bến sông, nhìn vào Hồng Quán có thể đoán ra chính là nơi đây, anh nghĩ trong đầu, Hải Tang Tử đang muốn kể lại chuyện xưa hay sao ?
Làn khói ấy đúng là kể chuyện xưa thật. Một câu chuyện buồn.
Sáu mươi năm trước, Nguyên Hỏa Đạo Sĩ dẫn theo đệ tử là Lê Tư, đi ngang làng Nhà Lá này thì thấy có âm khí rất nặng. Con gái của ông Cả Su tên Huệ, mười tám tuổi, xinh như hoa, nhưng do số mệnh mắc phải mệnh Trảm Thôi, vô cùng nguy hiểm. Nguyên Hỏa Đạo Sĩ tìm đến, nói rằng kỳ thực Trảm Thôi đúng là có thể diệt cả họ, nhưng cách trị không phải không có. Cách đó là lập ra một căn hầm riêng dưới giếng ngọc, cô gái sẽ ở trong đó đủ một năm, ngày đêm học thuật để hoán mạng, khi hết một năm, da thịt máu huyết sẽ trở nên đổi khác, coi như là cải số, kỳ thực cũng không sống quá ba chín tuổi, nhưng được cái là hạn tử cho cả họ thì được hóa giải.
Cả Su nghe được cách cứu con gái và dòng họ thì mừng lắm, bèn y lời Nguyên Hỏa Đạo Sĩ mà làm. Đạo Sĩ cắt đặt xong xuôi thì có việc bận, không ở lại canh giữ được, mới để Lê Tư ở lại, thay ông kiểm soát tình hình tu tập của cô Huệ. Ai ngờ đâu, được hơn tháng, Lê Tư và Huệ nảy sinh tình cảm, cô Huệ có thai, ông Cả Su phát hiện, mắng chửi Lê Tư, vì như vậy coi như là hỏng, cả họ nhà Cả Su sẽ chết. Lê Tư bị mắng chửi, tức quá, liền xô ngã Cả Su, ông đập đầu vào cạnh bàn, chết tươi. Người nhà Cả Su trông thấy, liền truy hô lên, Lê Tư cứ thế, gϊếŧ hết người này đến người khác trong đêm… Đến sáng, cả họ nhà Cả Su đều chết dưới cơn điên loạn của Lê Tư.
Lê Tư đứng dưới ánh mặt trời thì mới hoàn hồn tỉnh dậy, nhưng đã quá muộn. Sớm muộn ngày sư phụ quay về, gã cũng bị trừng phạt. Lê Tư không chấp nhận chuyện đó. Gã nhớ lại những gì đã học, gã lên kế hoạch.
Một năm sau, Nguyên Hỏa Đạo Sĩ quay lại xóm Nhà Lá, những gì ông thấy là sự tan hoang. Ông thấy Cả Su đang ngồi trong nhà, đau khổ, tóc bạc đi rất nhiều, mới hỏi chuyện, thì ra cô Huệ không vượt qua được kiếp nạn, đã hóa thành quỷ, Lê Tư trong lúc phong ấn cô Huệ lại thì đã gục chết bên dưới mộ. Nguyên Hỏa Đạo Sĩ vội xuống giếng xem, thấy quan tài của cô Huệ bám đầy rễ cây, giật mình quay ra sau thì bị Cả Su ở sau lưng đâm một dao xuyên qua ngực, Nguyên Hỏa gục lên nắp quan, lúc sắp chết mới phát hiện ra Lê Tư đã dùng Ngải Còng, hoán xác qua Cả Su, lừa gϊếŧ cả sư phụ mình, đoạt Thiết Bút, mục đích ban đầu là vậy thôi, ai ngờ cái thai bên trong chịu oán khí quá lớn, đã thoát ra ngoài ngay lúc ấy, Lê Tư buộc phải dùng Thiết Bút đóng chặt nó lại, ghim vào nắp quan, bằng không thì đã bị nó vật chết ngay tại chỗ.
Rốt cuộc gốc Ngải Còng mà Lê Tư nuôi, lại liên kết với thứ được sinh ra bên trong quan tài, chính là Hải Tang Tử.
Hải Tang Tử trong quan tài là phần linh hồn, Hải Tang Tử bên ngoài là thể xác, được sinh ra từ linh hồn của Hải Tang Tử trú ngụ trong cây bần trăm tuổi. Điều này làm Lê Tư bất ngờ, vì trong lúc phong ấn cái thai bằng Thiết Bút, một phần linh hồn bên trong, thông qua Thiết Bút, đã sống sót trong cây bần. Lê Tư định bụng sẽ nuôi đến khi lớn, để nhờ xuống mộ lấy Thiết Bút lên cho lão.
Tại sao lão cần Thiết Bút? Mục đích là để cân bằng Ngải Còng bên trong, lão cần một thứ ngọc thuần dương, tên là Xuyên Giang Thổ Long Ngọc. Từ một bản đồ cổ của sư phụ lão, lão biết có một cái bát hương Cổ Nhân ở gần sông Cổ Chiên, mộ thất có tên là Thiên Tướng Tiên Cung có viên ngọc. Chỉ cần nuốt ngọc, hai bên cân bằng, lão sẽ thực sự trở thành bất tử. Lão cần Thiết Bút để đi đến đó.
Rốt cuộc, lão đợi sáu mươi năm, mấy lần xuống giếng đều bị Thiết Bút ngăn lại, vì ngày xưa, khi lão găm vào, Thiết Bút như một nguồn năng lượng, cung cấp pháp lực cho cái thai bên trong, vô tình cái thai đó là Hải Tang Tử lại có liên kết với gốc ngải mà Lê Tư nuôi bây lâu, rốt cuộc Thiết Bút cũng áp chế luôn cả lão. Lão muốn bỏ đi cũng không được, vì Ngải Còng chưa đến lúc thích hợp để có thể có đầy đủ sức mạnh.
Năng lượng từ Thiết Bút dẫn dụ Con Hòm Khôn, kỳ thực là một con thằn lằn, vào quan sống, và nó lớn lên cùng với linh hồn của Hải Tang Tử suốt ngần ấy thời gian. Khi Hồng Quán vào mộ thất, Con Hòm Khôn tính đâu anh định gϊếŧ Hải Tang Tử thì tấn công, nhưng Hồng Quán tìm được cục đất kỳ lạ, nó sợ quá, chạy thoát ra ngoài, vừa ra khỏi giếng thì gặp một Hải Tang Tử khác, nó cứ tưởng rằng là con bé bên trong quan tài nên cõng con bé chui xuống lại dưới này, định là trốn lại vào quan.
Hải Tang Tử bên cạnh thầy Tư chỉ là phần xác ký sinh trong cây bần trăm tuổi, nó không thể biểu đạt đầy đủ suy nghĩ, vì bị thầy Tư ngăn cấm.
Kế hoạch ban đầu của thầy Tư là lão sẽ giữ Tư Lĩnh để uy hϊếp hai người là Hồng Quán và Phúc Nguyên, dùng truyền thuyết về Thiết Bút dẫn dụ họ xuống mộ thất, tại đây thầy Tư sẽ khống chế Hải Tang Tử, bất ngờ tấn công khi họ vừa rút Thiết Bút ra. Ai dè Hồng Quán nhìn ra được âm mưu đó, yêu cầu để Hải Tang Tử dẫn đường, Phúc Nguyên ở lại khống chế khiến thầy Tư không thể làm đúng kế hoạch, Hồng Quán còn đánh ngất Hải Tang Tử để đề phòng.
Hải Tang Tử bên ngoài cùng với Con Hòm Khôn chui vào mộ thất, dù Con Hòm Khôn không phân biệt được Hải Tang Tử phần xác và Hải Tang Tử phần hồn, nhưng nó vẫn biết rằng đó đều là người mà nó nuôi lớn. Nó đem cô bé xuống, tại đây, Hải Tang Tử phần xác được kết nối với đám rễ cây, vốn là của phần hồn, có lại ý thức, liền kể lại câu chuyện xa xưa cho Hồng Quán nghe, sau đó thì hai thực thể hòa vào làm một, trở lại là Hải Tang Tử. Cái xác bên trong quan tài, cả cô Huệ và đứa bé, đều rã thành tro bụi, phần tro của đứa bé thì nhập vào Hải Tang Tử, tạo ra một hình hài hết sức đặc biệt: một cái thai mang yêu khí, sinh ra trong quan tài, ngủ một giấc sáu mươi năm trong thân thể một con bé yêu tinh cây bần.
Hồng Quán lấy Thiết Bút, cõng Hải Tang Tử ra khỏi mộ thất, Con Hòm Khôn nhìn hai người rồi cúi đầu, nó chui lại vào quan, gục chết, số mạng nó đã đến hồi tận, chẳng thể làm khác được. Hồng Quán bỗng thấy thương cảm, một bên là con vật được tạo ra để trấn áp vong linh người khác mà lại sống có tình có nghĩa hơn con người như thầy Tư.
Vừa lúc đó, Phúc Nguyên đánh nhau với thầy Tư long trời lở đất, làm chấn động lan đến tận mộ thất bên dưới, Hồng Quán biết tình hình nguy cấp, liền cõng Hải Tang Tử lên rồi chạy lên trên. Vừa ra khỏi miệng giếng, Hải Tang Tử không quen dương khí, liền ngất đi. Hồng Quán đoán rằng đây là chuyện thường, vì trước giờ anh có bao giờ gặp thân thể đặc biệt như vầy đâu, vậy nên cứ để một hai ngày là sẽ quen. Hồng Quán cứ thế cõng con bé, chạy một mạch về, đến nơi thì hét lên cảnh báo Phúc Nguyên, chuyện về sau thì đã biết.
Phúc Nguyên nói: “Tư Lĩnh vẫn chưa tỉnh, làm sao đây? Với lại, Hải Tang Tử anh tính sao?”
Hồng Quán chậc lưỡi: “Hải Tang Tử đáng thương quá, chắc tôi sẽ đem theo, mặc dù hiện giờ nó đang rất yếu… Còn đệ tôi, chẳng biết nên làm gì bây giờ…”
“Tình hình đúng là lão Tư đã bỏ độc vào, nhưng không biết độc gì thì làm sao chữa?”
Bỗng nhiên Bảo An đứng dậy, tiến đến nhìn thẳng vào Hồng Quán, nó giơ chân trước bên phải ra, liếʍ mấy cái, sau đó kêu meo meo, hệt như đang muốn trình bày một cái gì đó. Hồng Quán quay sang nhìn Phúc Nguyên, chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra, Bảo An quay lại, nhảy lên đứng trên ngực của Tư Lĩnh, nó cắn vào cổ Tư Lĩnh, máu đen từ đó trào ra, chốc sau nó liếʍ sạch vết máu.
Hồng Quán và Phúc Nguyên đều biết Bảo An là con mèo đặc biệt có linh tính cao, cả hai vì thế im lặng xem nó sẽ làm gì. Bảo An liếʍ sạch máu ở cổ Tư Lĩnh xong thì nó dùng móng vuốt giữa của bàn chân trước bên phải, liếʍ sạch móng, sau đó đâm móng vào dưới ngực, hai bên nách, bẹn và hai bên hông Tư Lĩnh, mỗi nơi bị đâm, máu rỉ chừng mươi giọt thì ngưng. Bảo An lại liếʍ sạch chỗ máu đó, lúc này Tư Lĩnh trông đã hồng hào hơn. Bảo An ngưng liếʍ máu, nó dựng người dậy, bắt đầu nôn, đẩy một cục máu nhỏ chừng ngón út vào miệng Tư Lĩnh, Hồng Quán giật mình: “Không lẽ nó đang cho mạng mình cho Tư Lĩnh?”
Phúc Nguyên nói: “Con mèo có chín mạng, nhưng ít phách hơn người, tám mạng mèo bằng một mạng người, nhưng phách thì thiếu, mèo cho mạng xong rồi sẽ chết, cứ tưởng đây là truyền thuyết chứ?”
Bảo An bắt đầu run rẩy, nó liếʍ mấy cái vào má Tư Lĩnh, rồi lết từng bước đến kế bên Hải Tang Tử. Hồng Quán sực nhớ ra gì đó, nói: “Hay là… Hay là ghép mạng còn lại của nó vào Hải Tang Tử?”