[Audio] Ỷ Thiên Đồ Long Ký
Tập 2: Võ Đương Sơn (c3-c4)
❮ sau❯Chương 3: Võ Đương Sơn Đính Tùng Bách Trường
Nắng mưa đã có cổ tùng,
Suối nguồn róc rách bạn cùng kỳ nhân.
Khai tông lập phái một thân,
Võ Đương so với Thiếu Lâm kém gì
Hai người chậm rãi lên núi, thẳng đến tận cửa chùa, vẫn không thấy một bóng người. Hà Túc Đạo nói:
– Thôi tôi cũng không vào làm gì, chỉ mời hòa thượng đó ra đây nhắc lại câu nói đó cũng đủ.
Y cao giọng:
– Hà Túc Đạo ở núi Côn Lôn đến thăm chùa Thiếu Lâm, có một lời phụng cáo.
Câu nói đó vừa dứt, chỉ thấy trong chùa hơn một chục chiếc đại hồng chung cùng rền vang một lượt, tiếng kêu boong boong, vang động khắp cả dãy núi.
Đột nhiên cửa chùa mở rộng, hai bên hai hàng tăng nhân mặc áo màu tro cùng tiến ra, bên trái năm mươi bốn người, bên phải năm mươi bốn người, cả thảy một trăm lẻ tám người, đó là đệ tử của La Hán Đường, phù hợp với số một trăm linh tám la hán. Đằng sau là mười tám tăng nhân, trên áo bào màu tro có phủ thêm cà sa màu vàng nhạt, tuổi tác so với đệ tử La Hán Đường có phần hơn, đó là đệ tử của Đạt Ma Đường, ở trên La Hán Đường một bậc. Đi sau một quãng là bảy nhà sư già mặc cách tử tăng bào[1]. Những nhà sư đó mặt mũi nhăn nheo, niên kỷ ít ra cũng phải hơn bảy mươi, già có thể đến ngoài chín mươi, đó là Tâm Thiền Đường thất lão. Kế tiếp nữa là Thiên Minh phương trượng chầm chậm bước tới, bên trái là thủ tọa Đạt Ma Đường Vô Tướng thiền sư, bên phải là thủ tọa La Hán Đường Vô Sắc thiền sư. Phan Thiên Canh, Phương Thiên Lao, Vệ Thiên Vọng ba người đi ở đằng sau. Cuối cùng là khoảng bảy, tám mươi tục gia đệ tử của phái Thiếu Lâm.
Hôm Hà Túc Đạo lẻn vào La Hán Đường, để lại tờ thiếp trên tay pho tượng Hàng Long La Hán, võ công như thế khiến cho phương trượng cùng Vô Sắc, Vô Tướng đều thật kinh sợ. Mấy hôm sau, anh em Phan Thiên Canh từ Tây Vực đến, nói chuyện ước hẹn tỉ võ, các cao tăng trong chùa càng thêm lưu tâm. Chi phái Thiếu Lâm Tây Vực vì đường sá xa xôi, mấy chục năm qua ít tin tức qua lại với phái Thiếu Lâm trung châu, nhưng tăng chúng trong chùa đều biết rằng, vị sư thúc tổ Khổ Tuệ thiền sư ?đi qua Tây Vực khai phái năm đó võ công kinh người, truyền xuống đồ tử đồ tôn danh tiếng cũng rất ư vang động. Thấy bọn Phan Thiên Canh nói về Côn Lôn Tam Thánh không dám khinh thường chút nào, ai nấy đều nghĩ rằng nếu như tốt lành chắc đã không đến, đã đến chắc cũng không phải hiền lành gì, nên trong chùa càng thêm gia tâm phòng phạm. Phương trượng lại truyền pháp chỉ xuống, tất cả đệ tử tăng tục trong vòng năm trăm dặm chung quanh, phải trở về chùa nghe điều động.
Lúc đầu chúng tăng cũng tưởng Côn Lôn Tam Thánh gồm có ba người, sau mới biết chỉ có một người, còn như dung mạo, tuổi tác, bọn Phan Thiên Canh cũng không rõ, chỉ? biết y tự phụ cầm, kỳ, kiếm tam tuyệt mà thôi. Đánh đàn và đấu cờ khiến cho tâm hồn tranh đua, lại nuôi dưỡng tính nhàn nhã, vốn là điều đại kỵ của Thiền tông, tăng chúng trong chùa Thiếu Lâm trước nay không ngó tới, nhưng những cao thủ trong chùa tinh thông kiếm thuật đều gia công rèn luyện, để cùng kẻ điên cuồng xưng mình ?kiếm thánh? kia một phen cao thấp.
Anh em bọn Phan Thiên Canh nghĩ rằng vì mình mới xảy ra cớ sự, vì thế ngày ngày cưỡi tuấn mã, đi tuần đằng trước đằng sau núi, định bụng sẽ ngăn chặn kẻ dám xưng mình là “cầm kỳ kiếm tam thánh? kia, đánh cho y không vào được đến cửa chùa, rồi sau sẽ trở lại cùng các hòa thượng trong chùa so tài, để cho từ nay ai ai cũng biết Tây Vực Thiếu Lâm giỏi hơn Trung Nguyên Thiếu Lâm. Nào ngờ ở tại thạch đình, Hà Túc Đạo chỉ mới đưa ra một nửa sức lực, đã cho ba anh em thua xiểng liểng.
Thiên Minh thiền sư vừa nghe tin, biết rằng chùa Thiếu Lâm vinh nhục thịnh suy cũng chỉ ở một lúc này, nhưng xét ra võ công của chính mình và Vô Sắc, Vô Tướng ba người vị tất đã hơn được anh em Phan Thiên Canh bao nhiêu, cho nên đành phải mời Tâm Thiền Đường thất lão ra áp trận. Có điều Tâm Thiền thất lão võ công cao thấp mức nào không ai biết được, nhưng trong lúc khẩn cấp có thể ra tay chế ngự được Côn Lôn Tam Thánh chăng, điều đó trong lòng phương trượng và Vô Sắc, Vô Tướng cũng chỉ cầu may thôi.
Lão phương trượng Thiên Minh thiền sư vừa thấy Hà Túc Đạo và Quách Tương? liền chắp tay chào và nói:
– Vị này chắc là người được gọi là Côn Lôn Tam Thánh Hà cư sĩ phải không? Lão tăng không kịp ra xa nghênh đón, xin thứ tội.
Hà Túc Đạo cúi mình hành lễ, nói:
– Vãn sinh Hà Túc Đạo, ba chữ Tam Thánh cuồng danh, nào dám nói đến! Đến đây làm rộn bảo sát, thật lòng không an, nhọc lòng chúng vị cao tăng ra khỏi chùa nghênh đón, quả thực không dám.
Thiên Minh nghĩ thầm: ?Gã cuồng sinh này nói năng chẳng thấy cuồng chút nào. Xem y chỉ độ trên dưới ba mươi, sao có thể vừa ra tay đã đánh bại ba anh em Phan Thiên Canh được?? liền nói:
– Hà cư sĩ không phải khách khí, xin mời vào chùa dùng trà. Còn vị nữ cư sĩ thì ?
Lời nói có chút ngập ngừng tỏ ra khó xử.
Hà Túc Đạo nghe giọng ông có ý cự tuyệt không cho Quách Tương vào chùa, tính ngông cuồng bỗng phát tác, ngửng mặt lên cười lớn, nói:
– Lão phương trượng, vãn sinh đến bảo sát này, vốn là do người khác ủy thác, cốt để nhắn lại một câu thôi. Câu đó nói xong rồi, sẽ phủi tay đi khỏi. Thế nhưng nhà chùa trọng nam khinh nữ, sao thanh qui giới luật ở đâu mà lắm thế, điểm đó vãn sinh xem ra không được vừa mắt. Nên biết Phật pháp vô biên, chúng sinh như nhất, nếu như vọng phân nam nữ chẳng phải tâm còn có chỗ vướng mắc hay sao?
Thiên Minh phương trượng là bậc cao tăng hữu đạo, thiền tâm trong sáng, có lòng bao dung rộng rãi, nghe thấy Hà Túc Đạo nói như vậy, mỉm cười:
– Đa ta cư sĩ chỉ điểm. Chùa Thiếu Lâm chúng tôi cưỡng phân nam nữ, quả thực có điều nhỏ nhen. Như thế thì xin Quách cô nương cùng vào uống trà luôn thể.
Quách Tương nhìn Hà Túc Đạo mỉm cười, thầm nghĩ: ?Miệng anh chàng này khéo thật, chỉ một lời đã thuyết phục được lão hòa thượng?. Thấy Thiên Minh phương trượng đứng tránh qua một bên, đưa tay mời khách, nàng đang toan cất bước tiến vào chùa, bỗng từ bên trái của Thiên Minh bước ra một lão tăng khô gầy, nói:
– Chỉ vì một lời của Hà cư sĩ, khiến cho chùa Thiếu Lâm chúng ta phải bỏ đi một lề luật đã có hàng ngàn năm, tuy không phải là không thể được, nhưng cũng phải xem người nói ra thực có bản sự, hay chỉ được cái hư danh. Xin Hà cư sĩ lưu lại một ngón nghề để chúng tăng chùa này mở mắt, tất cả tâm phục, biết được do ai mà phải bỏ đi thiên niên qui củ.
Người đó chính là thủ tọa Đạt Ma Viện Vô Tướng thiền sư. Tiếng nói của ông oang oang, chứng tỏ trung khí sung túc, nội lực thâm hậu.
Bọn Phan Thiên Canh nghe câu này, mặt hơi biến sắc. Lời nói của Vô Tướng hiển nhiêm hàm ý coi ba người không vào đâu, Hà Túc Đạo tuy đánh bại họ, nhưng thực sự chưa chắc đã có bản lãnh. Quách Tương thấy Vô Sắc thiền sư có vẻ lo âu, nghĩ thầm lão hòa thượng này đối với người thật tốt bụng, lại là bạn của đại ca ca, nếu Hà Túc Đạo vì mình mà tranh chấp với tăng chúng Thiếu Lâm, dù bên nào thua, lòng cũng áy náy, nên cao giọng nói:
– Hà đại ca,? chùa Thiếu Lâm không phải là không vào không xong. Ông chuyển lại câu nói đó đi, rồi chúng ta đi.
Chỉ vào Vô Sắc, nàng tiếp:
– Vị Vô Sắc thiền sư này là hảo bằng hữu của tôi, các vị hai bên đừng để làm tổn thương hòa khí.
Hà Túc Đạo sững người, nói:
– A, hóa ra là thế.
Quay lại nói với Thiên Minh:
– Lão phương trượng, chẳng hay quí tự có một người tên là Giác Viễn thiền sư chăng? Có người ủy thác tại hạ, chuyển một câu nói đến cho vị đó.
Thiên Minh nhỏ giọng hỏi lại:
– Giác Viễn thiền sư?
Giác Viễn ở trong chùa địa vị rất thấp, mấy chục năm ẩn thân nơi Tàng Kinh Các, không ai nghe đến, trước nay chưa ai kèm thêm vào pháp danh của ông ta hai chữ ?thiền sư ? bao giờ, cho nên nhất thời Thiên Minh không nghĩ ra. Ông ngẫm nghĩ giây lát, mới hỏi:
– A, có phải là người làm mất bộ Lăng Già kinh nên mất chức giữ Tàng Kinh Các. Hà cư sĩ tìm y, phải chăng việc có quan hệ đến bộ kinh Lăng Già?
Hà Túc Đạo lắc đầu:
– Tôi? cũng không biết nữa.
Thiên Minh nói với một tên đệ tử:
– Ngươi truyền cho Giác Viễn đến đây gặp khách.
Người đệ tử đó lãnh mệnh hấp tấp đi ngay. Vô Tướng thiền sư lại nói:
– Hà cư sĩ hiệu xưng cầm kiếm kỳ tam thánh, chữ thánh đó người thường chẳng ai dám màng. Ắt là cả ba món Hà cư sĩ đều có tài nghệ quán tuyệt thiên hạ. Hôm trước để thư cho tệ tự, nói là muốn phô bày võ công, hôm nay quang giáng, không lẽ không tứ giáo cho toàn thể chúng tôi được xem tuyệt kỹ.
Hà Túc Đạo lắc đầu:
– Vị cô nương này đã nói rồi, hai bên không nên làm tổn thương hòa khí.
Vô Tướng bừng bừng nổi giận, nghĩ thầm: ?Ngươi để thư gây sự trước, nay việc đến thì lại từ chối, hàng nghìn năm nay, có ai dám vô lễ với chùa Thiếu Lâm như thế bao giờ đâu? Huống chi bọn Phan Thiên Canh đã bị bại dưới tay ngươi, trên giang hồ sẽ truyền ra là đại đệ tử của phái Thiếu Lâm bị thua thì hai chữ kiếm thánh kia càng thêm vang dội? Xem ra trong đám đệ tử không ai có thể là đối thủ của ngươi, đành phải chính mình xuất mã thì mới ổn.? Nghĩ thế ông bước lên hai bước, nói:
– Tỉ thí võ nghệ, chưa hẳn đã tổn thương hòa khí, Hà cư sĩ không nên chối từ.
Rồi quay đầu lại nói với đám đệ tử Đạt Ma Đường:
– Mang kiếm ra. Chúng ta xin lãnh giáo kiếm thuật của ?kiếm thánh?, để xem chữ ?thánh? đó tới bực nào.
Binh khí trong chùa đã chuẩn bị sẵn có điều chư tăng dàn ra nghênh đón khách không tiện mang theo để khỏi mang vẻ nhỏ nhen. Các đệ tử nghe Vô Tướng dặn dò, quay mình trở về chùa, mang ra bảy tám thanh trường kiếm, hay tay bưng đến trước mặt Hà Túc Đạo, nói:
– Hà cư sĩ dùng bảo kiếm chính mình mang theo? Hay mượn binh nhận tầm thường của tệ tự để sử dụng?
Hà Túc Đạo không trả lời, cúi xuống nhặt một viên đá sắc cạnh, đột nhiên vạch ngang, vạch dọc trên nền đá tại trước sân chùa. Chỉ trong khoảnh khắc, y đã vạch ngang dọc mỗi chiều mười chín đường thành một bàn cờ lớn. Đường kinh đường vĩ đều thẳng tắp, tưởng như dùng thước mà đo, mỗi nét đều sâu ngập vào đá khoảng nửa tấc. Phiến đá đó vốn đẽo bằng đá xanh của núi Thiếu Thất, cứng như thép, mấy trăm năm qua biết bao người lai vãng cũng không mòn đi chút nào. Y thuận tay dùng một cục đá vẽ lên mà vào sâu cả tấc, nội công như thế trên đời ít thấy. Chỉ thấy y cười nói:
– Tỉ kiếm e rằng bá đạo, đánh đàn thì không có cách gì mà so tài. Nếu đại hòa thượng cảm thấy cao hứng, chúng ta đánh với nhau một ván cờ xem sao?
Việc y dùng đá vạch thành bàn cờ quả là một tuyệt kỹ kinh người, Thiên Minh, Vô Sắc, Vô Tướng và cả đến Tâm Thiền Đường thất lão ai cũng mặt mày ngơ ngẩn, thầm sợ trong lòng. Thiên Minh phương trượng biết rằng nội lực hồn hậu như thế trong chùa không ai bì kịp, tâm địa ông quang phong tễ nguyệt, đang định mở miệng chịu thua, bỗng nghe tiếng xích sắt loảng xoảng kéo lê trên đất vọng tới.
Chỉ thấy Giác Viễn gánh đôi thùng sắt lớn đi tới trước mặt, theo sau là một thiếu niên cao ráo. Giác Viễn tay trái vịn lấy mép thùng nước, tay phải đơn chưởng chỉ lên trời hướng về Thiên Minh hành lễ, nói:
– Theo lệnh lão phương trượng cho gọi đến.
Thiên Minh nói:
– Vị Hà cư sĩ này có lời muốn nói với ngươi.
Giác Viễn quay người nhìn lại, thấy Hà Túc Đạo nhưng không nhận ra là ai, nói:
– Tiểu tăng là Giác Viễn, cư sĩ có điều gì muốn sai bảo?
Hà Túc Đạo vạch xong bàn cờ, kỳ hứng bột phát, nói:
– Chuyện đó để nói sau cũng không muộn. Bây giờ đại hòa thượng nào cùng ta đánh cờ trước?
Thực ra y không cố ý hiển thị công phu, có điều trong đời đối với ba món cầm kỳ kiếm ham quá hóa mê, mỗi khi hứng tới thì dù có trời sập cũng không coi vào đâu, nên khi muốn đánh cờ chỉ mong có người đối cục, còn quên hết việc tỉ thí võ công.
Thiên Minh thiền sư nói:
– Hà cư sĩ vạch đá thành bàn cờ, thần công như thế, lão nạp từ khi sinh ra chưa thấy bao giờ, tăng chúng trong tệ tự cam chịu hạ phong.
Giác Viễn nghe Thiên Minh nói như vậy, nhìn xuống thấy bàn cờ lớn trên nền đá xanh, biết rằng người này đến đây cốt để phô bày võ công, lập tức xốc lại đôi thùng sắt, hít một hơi, đem hết công lực một đời tu luyện dồn xuống hai đùi, theo những đường vạch của bàn cờ từng bước đi tới.
Chỉ thấy dây xích trên chân ông ta đi đến đâu thì trên phiến đá hiện ra một vết lõm rộng chừng năm tấc, những đường vạch của Hà Túc Đạo bị xóa sạch. Chúng tăng thấy thế không nhịn được đều lớn tiếng hoan hô. Thiên Minh, Vô Sắc, Vô Tướng vừa lạ lùng vừa mừng rỡ, không ngờ vị lão tăng si si ngốc ngốc này lại có nội công thâm hậu đến thế, tuy cùng sống dưới một mái chùa mấy chục năm, mà mình không hề hay biết gì. Bọn Thiên Minh biết rằng nếu chỉ trông vào nội lực của con người thì dù mạnh cách mấy cũng không thể nào đạp lên đá xanh mà in dấu được. Cũng nhờ Giác Viễn gánh thêm đôi thùng sắt đầy nước, tổng cộng phải đến hơn bốn trăm cân. Hơn bốn trăm cân đó từ vai truyền xuống dưới xích sắt ở đôi bàn chân, đi tới chẳng khác gì một cái đục lớn đục lên đá, cào sạch những đường vạch dọc ngang của Hà Túc Đạo. Nếu Giác Viễn chỉ đi chân không, thì không cách nào có thể làm được. Tuy thế, mặc dù có mượn lực thật, nhưng cũng là thần công ít có ở trên đời.
Hà Túc Đạo không đợi cho ông ta xóa hết ba mươi tám đường dọc ngang của bàn cờ, kêu lên:
– Đại hòa thượng, nội công thâm hậu của ông, tại hạ không sao bì kịp.
Đến lúc ấy tuy chân khí trong đan điền Giác Viễn mỗi lúc một thịnh, nhưng hai chân dẫu sao cũng chỉ là thịt da con người, đã cảm thấy đau nhức, nghe Hà Túc Đạo kêu? lập tức ngừng lại, mỉm cười ngâm nga:
Nhất bình tụ thủ tương trí chi,
Hà hạ vi cừ phân hắc bạch?
(Một nước cờ đi xem cũng đủ,
Đâu cần quyết liệt đến hơn thua)
Hà Túc Đạo nói:
– Đúng thế. Cuộc cờ này không cần phải đi quân, tôi dĩ nhiên thua rồi. Để xin lãnh giáo ông về kiếm pháp.
Nói xong nghe xoẹt một tiếng, từ đáy chiếc dao cầm y đã rút ra một thanh trường kiếm, mũi kiếm hướng thẳng về ngực mình, cán kiếm nghiêng nghiêng ra bên ngoài. Chiêu khởi thủ này đã thật quái dị, chẳng khác gì dùng kiếm tự giết mình, trong những kiếm pháp của thiên hạ, chưa từng thấy một chiêu nào kỳ lạ như thế.
Giác Viễn nói:
– Lão tăng chỉ biết niệm kinh đả tọa, quét nhà phơi sách, võ công một chiêu cũng không biết.
Thế nhưng Hà Túc Đạo đời nào lại tin. Y cười khẩy mấy tiếng, tung mình vọt đến, trường kiếm phóng bật ra, mũi kiếm đâm thẳng vào ngực Giác Viễn, xuất chiêu nhanh như thế không một loại kiếm pháp nào bì kịp. Hóa ra chiêu kiếm này không đâm thẳng vào đối phương mà trước hết phải tụ nội lực sau đó gom kình bắn ra. Thế nhưng nội công Giác Viễn đã đến mức tòng tâm sở dục, thu phát tự như, kiếm của Hà Túc Đạo tuy có nhanh, nhưng tâm của Giác Viễn lại động còn nhanh hơn, ý đến đâu thì tay đến đó, thân ý là một. Tay phải ông thu vào, cái thùng sắt lập tức tạt qua che ngay trước mặt, chỉ nghe keng một tiếng, mũi kiếm đã đâm vào cái thùng sắt. Thân kiếm uốn lại, cong thành như chiếc cung. Hà Túc Đạo thu trường kiếm về, thuận tay lại vung ra, thùng sắt bên trái của Giác Viễn tạt qua, chặn lại một lần nữa.
Hà Túc Đạo nghĩ thầm:
– Võ công ông có cao nhưng đôi thùng này nặng nề chậm chạp làm sao có thể đỡ nổi đường khoái kiếm của ta? Giá như ông tay không đối chiêu thì ta còn e ngại ba phần.
Y co tay búng vào thân kiếm một cái, kêu lên u u như tiếng rồng ngâm, kêu lên:
– Đại hòa thượng, xin cẩn thận!
Trường kiếm rung lên, trước sau trái phải, chỉ trong nháy mắt tấn công bốn bốn mười sáu chiêu liền. Chỉ nghe keng keng keng liên tiếp, mười sáu đường ?Tấn Lôi Kiếm? của Hà Túc Đạo đều đâm vào hai chiếc thùng sắt. Người đứng ngoài thấy Giác Viễn tay chân loạng quạng, lạng trái né phải, quả thực hết sức lúng túng, đúng là không biết tí võ công nào. Thế nhưng mười sáu chiêu kiếm của Hà Túc Đạo dù thần diệu đến đâu, đều bị Giác Viễn lấy cái hết sức vụng về, hết sức nực cười dùng thùng sắt đỡ được cả.
Bọn Vô Sắc, Vô Tướng ở bên ngoài không khỏi lo lắng, đều kêu lên:
– Hà cư sĩ kiếm hạ lưu tình.
Quách Tương cũng nói:
– Xin đừng dùng sát thủ.
Mọi người đều thấy Giác Viễn không biết võ, thế nhưng trong trận đấu này, dù Hà Túc Đạo thi triển toàn lực vẫn không làm sao đụng đến đối phương một mảy. Không ai biết rằng vì Giác Viễn chưa học võ bao giờ nhưng có thể đỡ được kiếm chiêu chỉ bởi vì vô tình luyện thành thượng thừa nội công. Hà Túc Đạo tấn kích không thành công, bất thình lình hét lên một tiếng, một ánh lấp lánh, đâm thẳng kiếm vào bụng dưới Giác Viễn. Giác Viễn kêu lên: ?Ối chao? trong cơn bối rối hai tay chập lại, nghe bình một tiếng, hai chiếc thùng sắt đã kẹp cứng thanh trường kiếm. Hà Túc Đạo cố gắng giựt về, nhưng thanh kiếm nào có nhúc nhích. Y ứng biến thật nhanh, lập tức bỏ kiếm, song chưởng cùng đánh ra, chưởng lực như bài sơn đảo hải đánh thẳng vào mặt Giác Viễn.
Lúc ấy Giác Viễn đâu còn tay nào mà đỡ, trong tình thế nguy cấp Trương Quân Bảo nghĩa thầy trò sâu đậm, liền nhảy tới dùng chiêu Tứ Thông Bát Đạt trước đây Dương Quá đã dạy cho y, đánh chéo vào vai Hà Túc Đạo. Cũng lúc đó, nội lực của Giác Viễn truyền vào thùng sắt, hai cột nước từ trong thùng vọt ra, phun thẳng vào mặt Hà Túc Đạo. Chưởng lực và cột nước đụng nhau, nước văng tung tóe khiến hai người đều ướt đẫm, tuy nhiên sức đánh của Hà Túc Đạo cũng tiêu tan.
Hà Túc Đạo đang toàn lực cùng Giác Viễn chiến đấu nên không đỡ được thế đánh của Trương Quân Bảo, chỉ nghe bịch một cái, vai y đã trúng chưởng. Không ngờ Trương Quân Bảo tuổi còn nhỏ nhưng chưởng pháp thật kỳ diệu, nội lực cũng thật thâm hậu, Hà Túc Đạo đứng không vững, phải lao đao đổ về phía trái ba bước. Giác Viễn kêu lên:
– A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, xin Hà cư sĩ tha cho. Mấy đường kiếm của cư sĩ làm cho lão tăng sợ hết cả hồn vía.
Vừa nói ông vừa lấy vạt áo lau những giọt nước trên mặt, lui về tránh qua một bên. Hà Túc Đạo giận dữ nói:
– Thiếu Lâm tự là nơi ngọa hổ tàng long, quả thực không vừa. Cả đến một đứa bé con thân thủ cũng đã như thế. Này cậu bé kia, ra đây đấu với ta, nếu ngươi tiếp được mười chiêu, Hà Túc Đạo này suốt đời sẽ không đặt chân vào Trung Thổ nữa.
Vô Sắc, Vô Tướng đều biết rằng Trương Quân Bảo chỉ là một đứa bé tạp dịch trong Tàng Kinh Các, chưa từng luyện qua võ công, không biết trời xui đất khiến thế nào lại đánh trúng y một chưởng, nếu như thực sự động võ, nói gì mười chiêu, chỉ sợ một chiêu cũng đã táng mạng dưới tay Hà Túc Đạo rồi. Vô Tướng ngang nhiên nói:
– Lời nói đó của Hà cư sĩ sai rồi. Tên hiệu ông là Côn Lôn Tam Thánh, võ học chấn cổ thước kim, sao lại động thủ với một thằng bé pha trà quét sân? Nếu như không hiềm, để lão tăng ra tiếp cư sĩ mười chiêu.
Hà Túc Đạo lắc đầu:
– Cái nhục một chưởng vừa rồi, đâu có như thế mà bỏ qua được. Tiểu tử, coi chiêu đây.
Nói xong nghe vù một tiếng, y nhắm ngực Trương Quân Bảo đánh tới một quyền. Quyền đó thế đánh thật nhanh, y và Trương Quân Bảo lại đứng thật gần, Vô Sắc, Vô Tướng muốn cứu viện cũng không sao kịp. Mọi người đều kêu khổ thầm, chỉ thấy Trương Quân Bảo hai gót chân không động, đầu bàn chân lướt sang bên trái, thân mình lại thuận thế nghiêng về bên phải, thành hữu cung tả tiễn bộ, nhẹ nhàng khéo léo tránh được quả đấm, tiếp theo bàn tay bên trái nắm lại thành quyền để bảo vệ bên hông, chưởng bên phải đánh ra, chính là một chiêu quyền pháp cơ bản của phái Thiếu Lâm tên gọi ?Hữu Xuyên Hoa Thủ?. Chiêu đó đánh ra khí ngưng trọng như núi cao, thế hùng hậu như bể rộng sông dài, thực là phong phạm của danh gia kỳ túc, ai dám bảo là thân thủ của một thiếu niên.
Hà Túc Đạo từ lúc bị y đánh trúng một chưởng vào vai, biết rằng thiếu niên này nội lực còn hơn xa bọn Phan Thiên Canh, nhưng tin rằng chỉ mười chiêu sẽ bị đánh bại. Y thấy chiêu ?Hữu Xuyên Hoa Thủ? chỉ là công phu nhập môn của phái Thiếu Lâm, nhưng cách thức phát chưởng chuyển thân, kình lực hùng hồn, thân hình trầm ổn, không chỗ nào sơ hở để có thể phản kích lại, nhịn không nổi phải kêu lên khen ngợi:
– Hảo quyền pháp.
Vô Tướng chợt động lòng, nhìn Vô Sắc mỉm cười:
– Chúc mừng sư huynh ám trung thu được một đệ tử đắc ý.
Vô Sắc lắc đầu:
– Không phải ?
Chỉ thấy Trương Quân Bảo liên tiếp sử ba chiêu Ảo Bộ Lạp Cung, Đơn Phượng Triều Dương, và Nhị Lang Đảm Sam, pháp độ nghiêm nhặt, kình lực vững vàng, không kém bất cứ cao thủ nào trong phái Thiếu Lâm. Thiên Minh, Vô Sắc, Vô Tướng và cả Tâm Thiền thất lão thấy Trương Quân Bảo đánh mấy chiêu của Thiếu Lâm xuất sắc như thế, ai nấy đều kinh ngạc. Vô Tướng nói:
– Quyền pháp của y nghiêm cẩn thì đã đành, nhưng nội công cao như thế ?
Vừa nói đến đây, Hà Túc Đạo đã đánh đến chiêu thứ sáu, bụng nghĩ thầm:
– Đến một thằng bé chưa ráo máu đầu mình chưa đối phó nổi, vậy mà dám đến chùa Thiếu Lâm đưa thư khiêu chiến, chẳng khiến anh hùng trong thiên hạ cười vẹo cả răng ư?
Đột nhiên y chuyển mình vùn vụt, đánh ra chiêu Thiên Sơn Tuyết Tiêu, bốn phương tám hướng bay múa, chỉ nháy mắt đã bao phủ toàn thể thân hình Trương Quân Bảo trong chưởng ảnh. Trương Quân Bảo trừ bốn chiêu do Dương Quá dạy cho trên đỉnh núi Hoa Sơn, chưa được một võ sư nào giảng giải võ công, bỗng dưng thấy hàng trăm hình bóng huyễn ảo, chưởng pháp biến hóa vô cùng, chẳng biết cách nào sách giải. Trong cơn nguy cấp,? y chuyển eo về phía trái thành hàn kê thế, hay tay giơ lên trên trán, hổ khẩu tay trái đối chiếu với hổ khẩu tay phải, đó chính là Song Khuyên Thủ của Thiếu Lâm quyền. Chiêu này nặng nề như núi, chiêu của địch không cần giải mà tự giải được. Bất luận Hà Túc Đạo từ hướng nào tấn công tới, đều vướng vào trong vòng Song Khuyên Thủ của Trương Quân Bảo.
Chỉ thấy tất cả các đệ tử của Đạt Ma Đường, La Hán Đường cùng reo hò như sấm động, bội phục Trương Quân Bảo dùng một chiêu hết sức bình thường không có gì kỳ lạ hóa giải được tất cả những chiêu thức cực kỳ phức tạp, ảo diệu của đối phương.
Trong khi mọi người còn đang reo hò, Hà Túc Đạo bỗng hú lên một tiếng dài, nghe vù một cái, đã nhắm ngực Trương Quân Bảo đánh ra một quyền. Quyền pháp của y đang từ khéo léo chuyển sang vụng về, nhưng kình lực thật là phi phàm. Trương Quân Bảo lập tức dùng chiêu Thiên Hoa Thất Tinh, hai chưởng cùng đánh ra. Quyền chưởng gặp nhau, chỉ nghe bình một tiếng, Hà Túc Đạo thân hình hơi loạng choạng, còn Trương Quân Bảo phải lùi về sau ba bước. Hà Túc Đạo hừ một tiếng, quyền pháp không đổi, nhưng tiến lên hai bước, quyền đánh ra đều hết sức cương mãnh. Trương Quân Bảo lại dùng chiêu Thiên Hoa Thất Tinh hai chưởng đánh tới. Lại nghe bình một tiếng thật lớn, lần này Trương Quân Bảo phải lùi năm bước. Hà Túc Đạo thân mình bổ về phía trước, mặt biến sắc, quát lên:
– Chỉ còn một chiêu nữa, ngươi hãy đem toàn lực ra chống đỡ.
Y tiến lên ba bước, xuống mã bộ thật ổn, một quyền từ từ đánh ra. Lúc ấy toàn thể mấy trăm người trong chùa Thiếu Lâm đều yên lặng không nghe một tiếng động, ai cũng biết rằng quyền này là toàn thể anh danh một đời của Hà Túc Đạo, không thể không kiệt tận toàn lực.
Trương Quân Bảo lại ra chiêu Thiên Hoa Thất Tinh lần thứ ba, nhưng lần này quyền chưởng đụng nhau, vô thanh vô tức, hai người chỉ hơi rung động một chút, rồi thúc đẩy nội lực ra kháng cự. Nói đến võ công gia số,? Hà Túc Đạo phải giỏi gấp trăm lần Trương Quân Bảo. Thế nhưng khi tỉ đấu nội lực, Trương Quân Bảo đã từng học được tâm pháp Cửu Dương Chân Kinh, nội lực liên miên nối kết, hồn hậu tràn ra. Chỉ trong chốc lát, Hà Túc Đạo liệu thế không thể thắng được y, nên tung mình nhảy lên, để chưởng lực Trương Quân Bảo rơi vào khoảng không, lấy tay để vào lưng y đẩy nhẹ một cái. Trương Quân Bảo té lăn ra đất, nhất thời không đứng dậy được.
Hà Túc Đạo xua tay phải, cười khẩy:
– Hà Túc Đạo ơi là Hà Túc Đạo, sao ngươi cuồng vọng đến thế.
Y hướng về phía Thiên Minh thiền sư vái một cái thật sâu, nói:
– Võ công chùa Thiếu Lâm dương danh đã hàng nghìn năm, quả nhiên không phải tầm thường, hôm nay cho kẻ cuồng sinh này được mở mắt, thật đúng là người có thịnh danh không thể là kẻ hư sĩ. Phục thay, phục thay.
Nói xong quay mình, đầu ngón châm điểm một cái, đã vọt ra xa mấy trượng.
Y ngừng lại, quay đầu nói với Giác Viễn:
– Giác Viễn đại sư, người đó nhờ tôi chuyển cáo một câu, nói là: ?Kinh thư ở trong dầu?.
Nói vừa dứt, đầu ngón chân lại điểm mấy cái, trong chớp mắt đã đi thật xa, thân pháp nhanh như thế quả trên đời ít thấy.
Trương Quân Bảo từ từ đứng dậy, mặt mũi, đầu tóc dính đầy bùn đất. Tuy y bị Hà Túc Đạo đẩy ngã, nhưng những cao thủ đều thấy rằng Hà Túc Đạo ăn gian để bỏ đi. Tuy nhiên, trong lời y nói vẫn xác định là không địch nổi thần công của phái Thiếu Lâm.
Một nhà sư già gầy gò trong Tâm Thiền Đường thất lão bỗng hỏi:
– Võ công của đệ tử này ai dạy cho đó?
Thanh âm của ông ta hết sức sắc nhọn, chẳng khác gì tiếng cú kêu trong đêm khuya, người nào nghe thấy cũng không khỏi rùng mình. Bọn Thiên Minh, Vô Sắc, Vô Tướng đều mang cái nghi vấn đó trong lòng, nên cùng hướng về phía Trương Quân Bảo và Giác Viễn. Thầy trò Giác Viễn đứng trơ trơ, nhất thời không sao trả lời được. Thiên Minh nói:
– Giác Viễn nội công tuy tinh thông, nhưng chưa học quyền pháp. Còn Thiếu Lâm quyền của thiếu niên này, do ai dạy cho vậy?
Các đệ tử của Đạt Ma Đường và La Hán Đường đều không ai tưởng nổi nguy nan của bản tự hôm nay, lại do thằng bé đó đứng ra cản được cường địch, lão phương trượng thể nào cũng trọng thưởng, và người dạy y quyền pháp nội công, cũng được vinh sủng.
Vị lão tăng đó thấy Trương Quân Bảo đứng yên không động, bất thần lông mày nhướng lên, mặt đầy sát khí, gay gắt hỏi:
– Ta hỏi ngươi, bài La Hán quyền ai dạy cho ngươi đó?
Trương Quân Bảo từ trong bọc lấy ra đôi la hán bằng sắt Quách Tương tặng cho, nói:
– Đệ tử coi theo tư thức đôi thiết la hán này, tự mình học lấy vài miếng, chứ thực không có ai truyền thụ võ công cả.
Lão tăng đó tiến lên một bước, thanh âm trầm xuống, nói:
– – Ngươi một lần nữa minh minh bạch bạch nói lại là “Bài La Hán quyền này không phải một vị sư phụ nào trong chùa dạy cho, mà chỉ tự học lấy”.
Ông ta tuy hạ giọng, nhưng trong lời nói lại càng uy hiếp thêm. Trương Quân Bảo trong lòng thản nhiên, tự cho rằng mình không làm điều gì xấu xa, tuy lão tăng đó thần thái dồn ép, nhưng cũng không sợ, lớn tiếng nói:
– Đệ tử ở trong Tàng Kinh Các quét nhà, châm trà, hầu hạ Giác Viễn sư phụ, không một ai trong chùa dạy đệ tử võ công. Bài La Hán quyền là do đệ tử tự học, nếu sử không được đúng cách, xin lão sư phụ chỉ điểm.
Vị lão tăng đó mắt như tóe lửa, trừng trừng nhìn Trương Quân Bảo một hồi thật lâu, không nói một lời. Giác Viễn biết rằng vị này trong Tâm Thiền Đường thất lão vai vế thật cao, là sư thúc của phương trượng Thiên Minh thiền sư. Khi thấy ông ta đối với Trương Quân Bảo có vẻ thù hận như thế, không hiểu tại sao, nhưng mắt ông ta chứa đầy oán độc, trong đầu bỗng dưng nảy ra một điều, chẳng khác gì một tia lửa xẹt, nhớ lại một năm xưa vô tình đọc được trong Tàng Kinh Các một cuốn sách nhỏ.
Cuốn sách mỏng đó chép lại một đại sự trong chùa:
Khoảng hơn bảy mươi năm trước, phương trượng chùa Thiếu Lâm là Khổ Thừa, chính là sư tổ của Thiên Minh thiền sư. Trung thu năm đó,? trong chùa có phiên khảo thí hàng năm tại Đạt Ma Đường, do phương trượng cùng hai vị thủ tọa Đạt Ma Đường, La Hán Đường cùng xét võ công các đệ tử, để xem trong năm qua đã tiến bộ đến mức nào. Sau khi các đệ tử biểu diễn xong, thủ tọa Đạt Ma Đường là Khổ Trí thiền sư thăng tọa bình phẩm.
Bỗng nhiên từ trong đám đông, một đầu đà để tóc[2] vượt mọi người tiến ra, lớn tiếng phê bình Khổ Trí thiền sư nói năng chẳng đâu vào đâu, không biết căn bản võ công là gì, vậy mà lại giữ chức thủ tịch Đạt Ma Đường, thật đáng xấu hổ. Chúng tăng ai nấy đều kinh ngạc, nhìn kỹ lại, hóa ra y là một người nhóm lửa nấu ăn trong nhà bếp. Các đệ tử Đạt Ma Đường không đợi sư phụ mở lời, đều lên tiếng quát mắng. Hỏa công đầu đà cũng quát lại:
– Sư phụ thì nói năng bậy bạ, đệ tử chúng bay cũng chẳng ra quái gì!
Nói xong nhảy vào đứng giữa sân. Các đệ tử từng người bước ra cùng y động thủ, đều bị y cho mỗi người vài cú đấm, vài cái đá là thua cả. Thực ra tại Đạt Ma Đường khi đấu với nhau, đồng môn so tài, chỉ tới mức hơn thua là ngừng lại, ai ai cũng thủ hạ lưu tình. Thế nhưng gã hỏa công đầu đà ra tay cực kỳ tàn độc, y liên tiếp đánh bại chín đại đệ tử của Đạt Ma Đường, chín nhà sư đó không gãy tay thì cũng què chân, người nào cũng bị trọng thương.
Khổ Trí thiền sư vừa kinh hãi, vừa tức giận, thấy sở học của gã hỏa công đầu đà toàn là võ công bản môn, chứ không phải cao thủ môn phái khác lẻn vào quấy phá, nên cố nén giận, hỏi y do ai truyền dạy. Gã hỏa công đầu đà đáp:
– Không ai dạy tôi cả, tôi tự học một mình.
Hóa ra nhà sư giám quản bếp Hương Tích tính tình cực kỳ nóng nảy, đối với đầu đà nhóm lửa, hơi sai một tí là giơ quyền thoi ngay. Y thân mang võ nghệ nên mỗi lần đánh rất nặng tay. Gã hỏa công đầu đà trong ba năm liền bị đánh hộc máu ba lần, trong lòng tích oán, nên lén lút học võ. Đệ tử chùa Thiếu Lâm ai cũng biết võ, nếu muốn học lén các chiêu thức, thật rất nhiều cơ hội. Y quyết tâm học để báo thù, lại trí tuệ hơn người, nên sau hơn hai mươi năm đã luyện thành võ công thượng thừa. Tuy nhiên y dấu kín không ai hay biết,? vẫn lặng lẽ ẩn thân dưới bếp chụm lửa, gã tăng nhân giám trù có đánh đập, y cũng không đánh trả, có điều nội công đã tinh nên không còn bị thương nữa. Tên hỏa công đầu đà đó tính tình âm hiểm, đợi tới lúc tin rằng võ công cao hơn hết mọi người trong chùa, nhân kỳ khảo thí Trung Thu mới xuất đầu lộ hiển thân thủ. Uất ức tích trong mấy chục năm nay, khiến y thù hận tất cả mọi tăng nhân, nên khi xuất thủ không một chút dung tình.
Khổ Trí thiền sư hỏi kỹ đầu đuôi xong, cười nhạt ba tiếng, nói:
– Cái khổ tâm của ngươi, quả thật đáng kính.
Lập tức rời ghế đi xuống, ra tay cùng y tỉ thí. Khổ Trí thiền sư là cao thủ của chùa Thiếu Lâm, nhưng phần vì niên kỷ đã cao, còn gã hỏa công đầu đà đang tráng niên, hai nữa Khổ Trí ra tay dung tình, ngược lại hỏa công đầu đà ra chiêu nào cũng đều là sát thủ, thành ra đấu đến hơn năm trăm hiệp, Khổ Trí mới thắng được đối phương. Khi hai người sách đến chiêu Đại Triền Ti, bốn cánh tay xoắn vào nhau, nhưng hai tay của Khổ Trí thiền sư đã ấn vào tử huyệt trên ngực của địch thủ, chỉ cần phát nội lực là hỏa công đầu đà phải táng mệnh, không còn cách gì giải nữa. Khổ Trí thương tình y tiềm tâm tự luyện, nên tới đó là coi như đã xong, không nỡ giết y, hai tay vừa rời nhau, hét lớn:
– Lùi ra ngay.
Nào ngờ hỏa công đầu đà hiểu lầm ý của ông, lại tưởng là đối phương sử dụng một chiêu trong Thần Chưởng Bát Đả. Thần Chưởng Bát Đả là một trong những tuyệt học của phái Thiếu Lâm. Y đã từng xem đại đệ tử của Đạt Ma Đường sử qua chiêu này, hai tay chém ra, đánh gãy một cái cột gỗ, kình lực thật là kinh hồn. Hỏa công đầu đà võ công tuy cao, nhưng đều là học lén, chưa được minh sư chỉ điểm, tuy thời gian có dài, nhưng đâu có thể học được hết phái Thiếu Lâm bác đại tinh thâm. Thực ra chiêu đó của Khổ Trí thiền sư là Phân Giải Chưởng, mượn sức để chế ngự sức, cả hai bên cùng lui ra, có ý ngừng tay thôi không đấu nữa. Nào ngờ hỏa công đầu đà lại tưởng là chiêu? thứ sáu trong Thần Chưởng Bát Đả là Liệt Tâm Chưởng, nghĩ thầm: ?Ngươi định giết ta, đâu có dễ dàng như thế?. Lập tức tung mình nhảy lên, hai chưởng đánh ra một lượt.
Hai chưởng đó như bài sơn đảo hải ào tới, Khổ Trí thiền sư hốt hoảng thu chưởng về đỡ, nhưng không còn kịp nữa. Chỉ nghe lách cách mấy tiếng, xương cánh tay trái? cùng bốn rẻ xương sườn đã bị đánh gãy nát.
Chư tăng đứng bên kinh hoàng biến sắc, lập tức xông lên cứu viện, nhưng Khổ Trí thiền sư chỉ còn thoi thóp, nội tạng đã bị trọng thương, không nói được một lời nào. Nhìn lại tên hỏa công đầu đà thì nhân lúc hỗn loạn đã trốn mất không biết đi đâu. Tối hôm đó, Khổ Trí thiền sư vì bị thương quá nặng nên qua đời. Trong khi cả chùa đang sầu thảm, gã hỏa công đầu đà lại lẻn trở vào, dùng trọng thủ đánh chết nhà sư giám quản Hương Tích trù và năm tăng nhân khác có hiềm khích với y. Cả chùa náo loạn, phương trượng phái vài chục cao thủ đi bốn phương tìm kiếm, nhưng khắp Giang Nam, Giang Bắc, không thấy tung tích y đâu.
Vì việc này mà các nhà sư vai vế cao trong chùa tranh chấp, người nọ đổ lỗi cho người kia. Thủ tọa La Hán Đường là Khổ Tuệ thiền sư giận dữ bỏ đi, khai sáng phái Thiếu Lâm Tây Vực. Ba người Phan Thiên Canh, Phương Thiên Lao, Vệ Thiên Vọng chính là đệ tử tái truyền của Khổ Tuệ thiền sư.
Cũng tại thế mà võ học chùa Thiếu Lâm bị suy đồi suốt mấy chục năm. Từ đó chùa ra qui định rằng, phàm người nào không được thầy truyền thụ mà tự mình học lén võ công, nếu phát hiện ra nặng thì bị xử tử, nhẹ thì cắt hết cân mạch toàn thân cho thành phế nhân. Từ đó tới nay trong chùa phòng phạm nghiêm mật, không ai dám thâu học võ công, nên điều tự qui này dần dần mọi người quên lãng.
Vị lão tăng trong Tâm Thiền Đường này chính là một đệ tử nhỏ của thủ tọa Đạt Ma Đường Khổ Trí thiền sư xưa kia, cái cảnh thảm tử của ân sư mấy chục năm trước vẫn in đậm trong đầu. Bây giờ thấy Trương Quân Bảo lại là kẻ không được thầy truyền mà học lén võ công, nên vừa buồn rầu vừa giận dữ.
Giác Viễn giữ sách tại Tàng Kinh Các, sách nào cũng đọc qua, giật mình nhớ lại câu chuyện này, mồ hôi lạnh chảy ướt đẫm lưng, kêu lên:
– – Lão phương trượng, cái này … cái này không trách Quân Bảo được .
Nói chưa dứt câu, chỉ thấy thủ tọa Đạt Ma Đường Vô Tướng thiền sư quát lớn:
– Tất cả đệ tử Đạt Ma Đường cùng xông lên, bắt thằng nhỏ đó.
Lập tức mười tám tăng nhân đệ tử của Đạt Ma Đường đều tiến lên, vây quanh Giác Viễn và Trương Quân Bảo làm thành một vòng tròn rất lớn, cả Quách Tương cũng bị vây ở bên trong. Vị lão tăng Tâm Thiền Đường lại cao giọng gay gắt tiếp:
– La Hán Đường đệ tử, sao còn chưa hết sức xông lên?
Cả một trăm linh tám đệ tử La Hán Đường cùng cất tiếng đáp, giọng rền vang như sấm:
– Tuân lệnh!
Họ lập tức vây thêm ba vòng nữa bên ngoài Đạt Ma Đường.
Trương Quân Bảo chân tay lúng túng không hiểu vì đâu, cho rằng tại mình ra tay đánh Hà Túc Đạo bỏ chạy, phạm phải tự qui, nên kêu lên:
– Sư phụ, con ?
Giác Viễn hơn mười năm nay đối với đứa học trò chẳng khác gì chính bản thân mình, tình như cha con, biết rằng một khi Trương Quân Bảo bị bắt, nếu không bị giết, thì cũng thành phế nhân. Lại nghe thấy Vô Tướng thiền sư quát tiếp:
– Sao chưa động thủ, chờ đến bao giờ?
Mười tám đệ tử Đạt Ma Đường cùng niệm Phật hiệu, tiến bước đi lên. Giác Viễn không còn suy nghĩ gì nữa, vội đứng tại chỗ quay luôn một vòng, hai chiếc thùng sắt vung ra, một luồng kình phong đẩy những nhà sư không ai dám tiến lên nữa. Giác Viễn lại xoay người hắt nước trong thùng đổ ào ra, rồi tiện thế bên trái múc Quách Tương, bên phải múc Trương Quân Bảo. Ông liên tiếp xoay bảy tám vòng liền, hai chiếc thùng sắt được nội lực hùng hậu vô tỉ truyền vào chẳng khác nào hai chiếc lưu tinh chùy có sức nghìn cân, thiên hạ nào ai dám đỡ. Chúng đệ tử Đạt Ma Đường tứ tán tránh ra.
Giác Viễn bước lẹ như bay, gánh Quách Tương và Trương Quân Bảo chạy thẳng xuống núi. Các tăng nhân miệng hò chân đuổi, chỉ nghe tiếng xích sắt loảng xoảng mỗi lúc một xa, đuổi độ bảy tám dặm, tiếng xích không còn nghe thấy nữa.
Chùa Thiếu Lâm qui luật cực nghiêm, thủ tọa Đạt Ma Đường đã ra lệnh bắt Trương Quân Bảo, tuy các nhà sư thấy đuổi không kịp nữa rồi, nhưng vẫn hết sức rượt theo. Thời gian càng lâu, cước lực càng rõ kẻ nhanh người chậm, những người khinh công kém một chút bị bỏ lại sau. Đuổi đến lúc trời tối, dẫn đầu chỉ còn năm người đại đệ tử, trước mặt lại thấy năm ba ngả đường, chẳng biết Giác Viễn chạy theo đường nào. Đến lúc này, giá như có đuổi kịp thì năm tăng nhân cũng không thể địch lại Giác Viễn và Trương Quân Bảo, nên chỉ còn cách lủi thủi quay về chùa bẩm báo.
Giác Viễn gánh thêm hai người chạy một mạch mấy chục dặm mới ngừng bước. Chỉ thấy nơi ông dừng chân là một vùng núi sâu, mây mù bốn bề, những đàn quạ bay về nườm nượp. Giác Viễn nội lực tuy cao, nhưng qua một trận chạy bán sống bán chết như thế, gân cốt cũng rã rời đến nỗi nhất thời không để đôi thùng sắt xuống được.
Trương Quân Bảo và Quách Tương từ trong thùng nhảy ra, mỗi người đỡ một bên thùng, từ trên vai ông xuống. Trương Quân Bảo nói:
– Sư phụ,? thầy nghỉ một lát, con đi kiếm xem có gì ăn không.
Thế nhưng chỉ thấy bốn bên cỏ mọc đến ngang đầu gối, ở nơi núi sâu hoang vắng thế này, còn có gì mà ăn được. Trương Quân Bảo đi kiếm cả nửa ngày, chỉ hái được? một vốc dâu dại, đem về ba người chia nhau ăn ngấu nghiến rồi dựa lưng vào đá mà nghỉ.
Quách Tương nói:
– Đại hòa thượng, tôi xem các nhà sư chùa Thiếu Lâm, trừ ông và Vô Sắc thiền sư ra, người nào cũng thật là hồ đồ cổ quái.
Giác Viễn chỉ hừ một tiếng nhưng không đáp lời. Quách Tương nói tiếp:
– Gã Côn Lôn Tam Thánh kia đến chùa Thiếu Lâm, trong chùa không ai địch nổi,? chỉ nhờ hai thầy trò ông đánh đuổi được y, mới bảo toàn được danh dự của môn phái. Họ đã không cám ơn ông thì thôi, lại hung hăng định bắt Trương huynh đệ, không phân biệt trắng đen phải trái, thật chẳng có lý do nào hết.
Giác Viễn thở dài một tiếng, nói:
– Việc đó không trách lão phương trượng và Vô Tướng sư huynh được, chùa Thiếu Lâm vốn có một điều tự qui ?
Nói đến đây, hơi bị đứt đoạn, ông ho lên sù sụ. Quách Tương nhè nhẹ đấm lưng cho ông, nói:
– Ông mệt rồi, nằm ngủ một giấc đi, chuyện đó để từ từ kể sau cũng không muộn.
Giác Viễn thở dài:
– Đúng vậy, tôi mệt lắm.
Trương Quân Bảo đi gom một mớ củi, nhóm một đống lửa, để hơ cho khô quần áo của mình và Quách Tương. Cả ba người ngồi dưới gốc cây to mà ngủ.
Quách Tương ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe có tiếng Giác Viễn lẩm bẩm nói một mình, hình như đang niệm kinh, mơ mơ màng màng tỉnh dậy, chỉ nghe ông ta đọc:
– ? bỉ chi lực phương ngại ngã chi bì mao, ngã chi ý nhập bỉ cốt lý. Lưỡng thủ chi tràng, nhất khí quán xuyên. Tả trọng tắc tả hư, nhi hữu dĩ khứ, hữu trọng tắc hữu hư, nhi tả dĩ khứ khứ … (… sức của người vừa mới phớt qua bên ngoài da thịt ta, ý của ta đã vào đến xương của người. Hai tay vừa đụng nhau, một khí đã thông qua rồi. Bên trái nặng ắt bên trái cũng nhẹ, bên phải đã đến rồi, bên phải nặng ắt bên phải cũng nhẹ, bên trái đã đến rồi )
Quách Tương bỗng thấy rùng mình: ?Ông ta không đọc kinh Phật kiểu không tức thị sắc, sắc tức thị không, mà lại gì là tả trọng tả hư, hữu trọng hữu hư, giống như võ học quyền kinh thì phải.?
Thấy ông ta ngưng lại một lát rồi niệm tiếp:
– khí như xa luân, chu thân cụ yếu tương tùy, hữu bất tướng tùy khứ, thân tiện tán loạn, kỳ bệnh ư yêu thoái lai chi ? (khí tựa như bánh xe, tùy chỗ nào trên cơ thể cần mà chạy đến, nếu không tới lui theo ý mình, thân sẽ tán loạn, ắt sẽ bị bệnh ở hông và đùi rồi..)
Quách Tương nghe đến câu: ?kỳ bệnh ư yêu thoái lai chi?, trong bụng không còn nghi ngờ gì nữa, biết là ông ta đang đọc những yếu chỉ trong võ học, nghĩ thầm:
– Vị đại hòa thượng này chẳng biết tí võ nào, chỉ vì say mê đọc sách, trong sách có gì, đều coi như thiên kinh địa nghĩa cả. Năm trước gặp ông ta lần đầu trên đỉnh núi Hoa Sơn, đã từng nghe ông ta nói rằng, trên mép lề cuốn kinh Lăng Già do tự tay Đạt Ma lão tổ chép ra, lại có chép bộ Cửu Dương Chân Kinh, ông ta cho rằng đây là kinh thư dạy về thuật giúp người ta được thân thể khỏe mạnh, nên theo đó mà tu tập. Hai thầy trò ông ta không được ai dạy dỗ gì cả, nhưng vô hình chung lại đạt tới mức cao thủ trong thiên hạ. Hồi đó Tiêu Tương Tử đánh ông ta một chưởng, ông chỉ đứng yên mà chịu, vậy mà chính Tiêu Tương Tử lại bị trọng thương, thần công như thế, chưa chắc cha ta hay đại ca ca đã đạt tới được. Hôm nay thầy trò ông ta lại khiến cho Hà Túc Đạo phải cúi đầu bỏ đi, chắc cũng nhờ công lực của Cửu Dương Chân Kinh. Hiện giờ miệng ông ta lẩm bẩm tụng đọc kia, phải chăng chính là bộ kinh đó?
Nàng nghĩ như thế, lại e làm dao động Giác Viễn, chỉ âm thầm ngồi dậy, lắng nghe kinh văn, cố gắng ghi nhớ, tự nhủ:
– Nếu quả thực ông ấy đang đọc bộ Cửu Dương Chân Kinh thì những chỗ ảo diệu tinh vi, không phải chỉ một lúc mà hiểu ngay được. Chi bằng mình cứ ghi nhớ, sau này nhờ ông ta giảng lại cho cũng chưa muộn.
Lại nghe nhà sư già đọc tiếp:
– ? tiên dĩ tâm sử thân, tòng nhân bất tòng kỷ, hậu thân năng tòng tâm, do kỷ nhưng tòng nhân. Do kỷ tắc trệ, tòng nhân tắc hoạt. Năng tòng nhân, thủ thượng tiện hữu phân thốn, xứng bỉ kình chi đại tiểu, phân lý bất thác; quyền bỉ lai chi trường đoản, hào phát vô sai. Tiền tiến hậu thoái, xứ xứ kháp hợp, công di cữu nhi kỹ di tinh ? (trước là dùng tâm để sai khiến thân mình, theo người mà không theo mình, sau sẽ đến lượt thân đi theo tâm, do mình nhưng tùy theo người. Theo mình thì sẽ vướng mắc, do người thì sẽ linh hoạt. Biết theo người thì tay mình có gang tấc, cân đo được sức của người lớn hay nhỏ, một ly một phân cũng không chạy; cân lượng của người dài ngắn, một sợi lông cũng không sai. Lúc trước tiến nhưng sau lại lùi,? mọi chỗ đều ăn khớp với nhau,? công phu càng lâu thì kỹ thuật càng tinh vi..)
Quách Tương nghe đến đó, không khỏi lắc đầu, trong bụng nghĩ thầm: ?Sai rồi, sai rồi. Cha mẹ ta thường nói là, khi lâm địch, phải chế ngự người chứ không để người chế ngự mình. Đại hòa thượng này nói không đúng? Lại nghe Giác Viễn tụng tiếp:
– Bỉ bất động, kỷ bất động, bỉ vi động, kỷ dĩ động. Kình tự khoan nhi phi túng, tương triển vị triển, kình đoạn ý bất đoạn ? (người chẳng động thì ta cũng chẳng động. Người vừa hơi động, ta đã động rồi. Kình tưởng như chậm chạp mà không lơi lỏng, sắp buông ra nhưng lại chưa bung, kình đứt rồi nhưng ý chưa đứt ?)
Quách Tương càng nghe càng thấy mù mờ, từ nhỏ tới giờ nàng học võ chỉ nghe thấy nói tới việc ra tay trước để chế ngự người, ra tay sau thì bị người ta chế ngự mình (tiên phát chế nhân, hậu phát chế ư nhân) lúc nào cũng cần nhanh nhẹn, lúc nào cũng cần đi trước. Bây giờ nghe Giác Viễn đọc quyền kinh yếu quyết, cái gì mà ?theo mình thì sẽ vướng mắc, do người thì sẽ linh hoạt?, khác hẳn với những gì nàng đã biết, nghĩ thầm: ?Khi gặp địch phải ra tay, hai bên tính mệnh đem ra đánh đổi, nếu như mình cứ bỏ mình, theo người, địch bảo mình bên đông thì mình đi bên đông, bảo mình qua bên tây thì mình qua bên tây, thì có khác gì đứng yên cho người ta đánh??
Nàng còn đang trù trừ suy nghĩ nên những gì Giác Viễn đọc tiếp nàng không nghe thấy, nghe mà không vào. Dưới ánh trăng suông, bỗng thấy Trương Quân Bảo cũng đang xếp bằng lắng tai nghe. Quách Tương nghĩ thầm: ?Không cần biết những gì ông ta đọc đúng hay không đúng, ta cứ ghi nhớ là được. Lão hòa thượng này chấn thương Tiêu Tương Tử, lại dọa cho Hà Túc Đạo chạy dài, đều chính mắt mình trông thấy. Những gì ông ta đọc là pháp môn võ công, ắt phải có lý do cả.? Nghĩ thế nên nàng dụng tâm cố nhớ.
Giác Viễn thuận miệng đọc, chắp chắp nối nối, có lúc lại xen vào vài đoạn kinh Lăng Già, nói về việc Phật tổ trên đảo Lăng Già thuyết pháp trên núi. Nguyên lai bản Cửu Dương Chân Kinh này viết lẫn bên cạnh hay giữa những hàng chữ của cuốn kinh Lăng Già, Giác Viễn đọc sách vốn có điểm hơi lẫn thẫn, cứ thuận miệng mà đọc, nên vì thế cũng đọc luôn cả kinh Lăng Già. Bản kinh Lăng Già này vốn viết bằng chữ Thiên Trúc, Giác Viễn đọc là đọc bản dịch, nên càng thêm lẫn lộn. Quách Tương càng nghe lại càng không mò ra đầu mối, nhưng cũng may là nàng bản tính thông minh, tuy Giác Viễn đọc kinh lẫn lộn qua lại, nàng cũng vẫn nhớ được hai ba thành.
Mặt trăng từ từ chếch về hướng tây, bóng người cũng dần dần dài ra, tiếng tụng kinh của Giác Viễn càng lúc càng nhỏ, âm thanh phát ra mơ hồ không rõ tiếng. Quách Tương khuyên:
– Đại hòa thượng, ông đã mỏi mệt cả ngày rồi, ngủ thêm một giấc nữa đi.
Thế nhưng dường như Giác Viễn không nghe nàng nói, vẫn tiếp tục đọc:
– ? lực tòng nhân tá, khí do tích phát. Hà năng khí do tích phát? Khí hướng hạ trầm, do lưỡng kiên thu nhập tích cốt, chú ư yêu gian, thử khí chi do thượng nhi hạ dã, vị chi hợp. Do yêu triển ư tích cốt, bố ư lưỡng bác, thi ư thủ chỉ, thử khí chi do thượng nhi hạ dã, vị chi khai. Hợp tiên thị thu, khai tiện thị phóng. Năng đổng đắc khai hợp, tiện tri âm dương ? (lực theo người mà mượn, khí do xương sống mà ra. Tại sao khí lại do xương sống mà ra? Khí đi xuống dưới, từ hai vai thu vào trong xương sống, chảy vào eo, khí đó từ trên chạy xuống dưới vậy, nên gọi là hợp. Từ eo chạy vào xương sống, rồi ra hai cánh tay, đi ra tới tận ngón tay, khí đó từ dưới mà chạy lên trên vậy, nên gọi là khai. Hợp nên thu vào, khai nên thả ra. Biết được lẽ khai hợp, tức là biết được âm dương ?)
Ông ta càng tụng đọc, thanh âm càng nhỏ dần, sau cùng không còn nghe thấy gì nữa, chắc đã ngủ thiếp đi rồi. Quách Tương và Trương Quân Bảo không dám kinh động, chỉ cố gắng nhớ những kinh văn vừa mới nghe.
Thời gian trôi đi, trăng đã lặn về hướng tây, từ đâu đến các đàn chim bay lại, làm đen cả một vùng. Lại thêm độ tàn một bữa ăn, phương đông trời sáng dần, chỉ thấy Giác Viễn mắt nhắm nghiền, vai xuôi xuống, tĩnh tọa không động đậy, nét mặt trông như đang mỉm cười.
Trương Quân Bảo chợt quay đầu, thấy sau gốc cây có bóng người thấp thoáng, nhưng cũng kịp nhìn thấy một góc áo cà sa màu vàng. Y giật mình kinh hãi, quát lớn:
– Ai đó?
Chỉ thấy một lão tăng gầy cao từ sau gốc cây bước ra, chính là thủ tọa La Hán Đường Vô Sắc thiền sư. Quách Tương vừa mừng vừa lo, hỏi:
– Đại hòa thượng, sao ông nhất định không bỏ cuộc, đuổi tới tận đây? Chẳng lẽ không bắt thầy trò y về chùa không được hay sao?
Vô Sắc nói:
– Thiện tai, thiện tai! Lão tăng biết lẽ phải trái, đâu phải là người chấp nhặt cái qui luật cũ từ đời nảo đời nao? Lão tăng đến đây từ lúc nửa đêm, nếu như muốn động thủ, đâu có chờ đến bây giờ. Giác Viễn sư đệ, Vô Tướng sư đệ chỉ huy tăng chúng trong Đạt Ma Đường đang tìm ở hướng đông, các ngươi mau nhắm thẳng hướng tây mà chạy.
Chỉ thấy Giác Viễn vẫn cúi đầu nhắm mắt, dường như chưa tỉnh. Trương Quân Bảo tiến lên thưa:
– Sư phụ tỉnh dậy đi, thủ tọa La Hán Đường đang nói chuyện với sư phụ đó.
Giác Viễn vẫn không động đậy. Trương Quân Bảo kinh hoảng chạy tới, giơ tay sờ vào trán ông ta, thấy lạnh ngắt, hóa ra đã viên tịch từ lâu rồi. Trương Quân Bảo đau đớn quá, phục xuống kêu lên:
– Sư phụ, sư phụ!
Thế nhưng ông ta làm sao có thể sống lại được. Vô Sắc thiền sư chắp tay hành lễ, đọc một bài kệ:
Chư phương vô vân ế,
Tứ diện giai thanh minh.
Vi phong suy hương khí,
Chúng sơn tĩnh vô thanh.
Kim nhật đại hoan hỉ,
Xá khước nguy thúy thân.
Vô sân diệc vô ưu,
Ninh bất đương hân khánh?
(Bốn phương không mây phủ,
Mọi mặt đều sáng trong,
Gió nhẹ đưa hương tới,
Tĩnh lặng núi thinh không.
Hôm nay thật hoan hỉ,
Cởi được thân mong manh.
Không giận cũng không lo,
Lẽ đâu không chúc khánh?)
Tụng xong ông lặng lẽ bỏ đi.
Trương Quân Bảo khóc lóc một hồi, Quách Tương cũng sụt sùi mãi. Tăng chúng chùa Thiếu Lâm khi viên tịch đều hỏa hóa. Cho nên hai người đi kiếm cành khô thiêu pháp thân của Giác Viễn. Quách Tương nói:
– Trương huynh đệ, tăng chúng chùa Thiếu Lâm chắc chưa bỏ qua cho ngươi đâu, ngươi nên hết sức cẩn thận. Chúng ta từ biệt nhau nơi này, sau này có lúc gặp lại.
Trương Quân Bảo gạt lệ đáp:
– Quách cô nương, cô đi đâu? Cho tôi đi theo với được không?
Quách Tương thấy y hỏi mình đi đâu, trong lòng chua chát, nói:
– Ta chân trời góc biển, hành tung không nhất định, chính mình cũng chưa biết đi đâu. Trương huynh đệ, ngươi tuổi còn nhỏ, lại không có chút lịch duyệt giang hồ nào, tăng chúng chùa Thiếu Lâm đang đi tìm bắt ngươi ở hướng đông, chỉ biết thế.
Nàng tháo chiếc vòng đeo tay đưa cho y, nói:
– Ngươi đem chiếc vòng này đến thành Tương Dương kiếm cha mẹ ta, hai ông bà ắt sẽ đối đãi với ngươi tử tế. Chỉ cần ngươi ở với cha mẹ ta thì dù tăng chúng chùa Thiếu Lâm có hung ác đến đâu, cũng không dám đến tìm ngươi làm khó dễ.
Trương Quân Bảo nuốt lệ nhận chiếc vòng. Quách Tương lại nói tiếp:
– Ngươi nói với cha mẹ ta rằng, ta vẫn khỏe mạnh, ông bà đừng mong đợi. Cha ta rất yêu kẻ thiếu niên anh hùng, thấy ngươi là một nhân tài thế này, không chừng sẽ thu ngươi làm đồ đệ. Em trai ta trung hậu thật thà, chắc sẽ thân thiết với ngươi lắm đấy. Chỉ có chị ta tính tình hơi nóng, mỗi khi không vừa ý, ăn nói chẳng nể nang ai. Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn vâng lời, thì không sao cả.
Nói xong nàng quay đầu đi thẳng.
Trương Quân Bảo thấy trời đất mênh mông nhưng sao không có chỗ nào cho mình an thân, đứng trước đống tro hỏa táng sư phụ trầm ngâm cả nửa ngày, mới ra đi. Đi được một quãng, chợt quay đầu, gánh đôi thùng sắt sư phụ để lại, thất thểu bước đi. Trong núi rừng hoang vu, một thiếu niên gầy gò lặng lẽ theo hướng tây mà đi, lòng buồn rười rượi, nói sao cho xiết cái cảnh thân cô chiếc bóng, lênh đênh không nhà.
Đi được nửa tháng, đã đến cảnh giới tỉnh Hồ Bắc, không còn cách thành Tương Dương bao xa. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm trước sau vẫn không đuổi kịp y chính vì Vô Sắc thiền sư có lòng che chở, cố ý dẫn tăng chúng theo hướng đông mà tìm, thành ra hai bên càng lúc càng xa hơn.
Xế trưa hôm đó y đến trước một ngọn núi lớn, thấy cây cối rậm rạp um tùm, sơn thế cực kỳ hùng vĩ. Hỏi thăm những người dân quanh đó, mới biết núi này tên gọi là Võ Đương. Y ngồi dưới chân núi, tựa lưng vào một hòn đá mà nghỉ, bỗng thấy một đôi nam nữ nhà quê từ con đường nhỏ bên núi đi tới. Hai người sánh vai mà đi, trông thật thân mật, rõ ràng là một đôi vợ chồng trẻ. Người đàn bà vừa đi vừa liến thoắng luôn mồm phiền trách anh chồng. Người đàn ông thì chỉ cúi đầu, lặng thinh không đáp.
Bỗng nghe người vợ nói với chồng:
– Anh là một nam tử hán, đại trượng phu, lại không chịu tự mình làm ăn riêng, lại đến ăn nhờ ở đậu chị và anh rể, nếu không đâu đến nỗi bị nhục nhã như thế. Vợ chồng mình còn mạnh chân khỏe tay, tay làm hàm nhai, dù rau dưa cà muối, cơm cháo qua ngày cũng được, có phải thảnh thơi không? Chứ anh không dám tự lập ở riêng, sinh ra trên đời này cũng uổng.
Người đàn ông ậm ừ mấy tiếng, người đàn bà lại tiếp:
– Người đời có nói rằng, ngoài cái chết ra chẳng có cái gì gọi là lớn hết, chẳng lẽ không nhờ vả người khác không sống được hay sao?
Người chồng nghe vợ dồn cho một trận không dám mở lời đáp lại, cái mặt bành bạnh bây giờ tím lại.
– Những câu nói của người vợ từng chữ len vào tim Trương Quân Bảo: ?Anh là một nam tử hán, đại trượng phu, lại không chịu tự mình làm ăn riêng ? nếu không đâu đến nỗi bị nhục nhã như thế ? Người đời có nói rằng, ngoài cái chết ra chẳng có cái gì gọi là lớn hết, chẳng lẽ không nhờ vả người khác không sống được hay sao??
Y nhìn theo đôi vợ chồng nhà quê, đứng ngơ ngẩn một hồi, trong lòng trăn qua trở lại, nghĩ đến những câu của người đàn bà. Chỉ thấy người đàn ông đứng thẳng người lên, không biết nói mấy câu gì với vợ, mà nghe hai người cười rộ lên, tựa hồ người chồng đã quyết chí tự lập, nên cả hai đều sung sướng.
Trương Quân Bảo lại nghĩ tiếp: ?Quách cô nương có nói rằng, bà chị cô ta tính tình nóng nảy, ăn nói không nể mặt ai nên muốn ta chiều lòng bà ấy. Ta đường đường là một người đàn ông, đâu lẽ phải hạ mình quị lụy người khác, cong lưng uốn gối mong được yên thân. Đến như hai người nhà quê kia còn dám hiên ngang đứng ra ở riêng, ta Trương Quân Bảo lẽ nào lại phải nép mình trong hàng rào nhà người ta, chờ người ta sai bảo.
Y nghĩ tới đó, trong lòng đã quyết nên gánh đôi thùng sắt, trèo lên núi Võ Đương, kiếm một cái hang, khát thì tìm suối, đói ăn trái hoang, chăm chỉ tập luyện Cửu Dương Chân Kinh mà Giác Viễn đã truyền cho.
Vài năm sau, bỗng dưng hiểu ra: “Đạt Ma tổ sư là người Thiên Trúc, dẫu có biết viết chữ Trung Hoa, thì văn lý cũng thô sơ. Bộ Cửu Dương Chân Kinh này văn chương kỳ diệu khúc chiết, người nước khác nhất định không sao viết ra được, hẳn là nhân sĩ Trung Thổ đời sau sáng tác. Có lẽ là tăng lữ của chùa Thiếu Lâm, giả thác tên tuổi Đạt Ma tổ sư , viết trong những mép lề cuốn kinh Lăng Già.?
Cái đạo lý đó, người vốn dĩ tin tưởng hoàn toàn vào kinh điển, không dám thay đổi biến hóa như Giác Viễn không sao hiểu được. Có điều lý lẽ không có gì để chứng minh, Trương Quân Bảo lúc đó tuổi còn nhỏ, cũng không biết chắc là suy định của mình có đúng hay không.
Y được Giác Viễn dạy dỗ đã lâu, bộ Cửu Dương Chân Kinh này mười phần cũng biết được năm sáu, trong mươi năm sau nội lực lại càng tiến bộ. Về sau y lại đọc kỹ Đạo Tạng, tâm đắc được phép luyện khí của đạo gia. Một ngày kia, y tại trong núi nhàn du, ngửng lên xem mây bay, nhìn xuống ngắm nước chảy, cảm thấy sở ngộ nên trở về động suy nghĩ liên tiếp bảy ngày bảy đêm, bỗng nhiên quán thông được cái lẽ nhu khắc cương trong võ học, vui sướng quá, ngẩng mặt lên cười một hồi dài.
Chính tiếng cười đó đã khai sinh ra một vị đại tông sư trước chưa có ai mà sau cũng không ai theo kịp. Những gì y tự mình tìm ra, cộng thêm với lẽ xung hư viên thông của Đạo gia, và nội công của pho Cửu Dương Chân Kinh đã khai sáng ra nền tảng cho võ công của phái Võ Đương mà nghìn năm sau vẫn còn chói lọi.
Về sau y du ngoạn phương Bắc đến vùng Bảo Minh, nhìn thấy ba ngọn núi tú lệ hùng vĩ, ?vươn lên đâm vào mây, lại nhân đã sở ngộ về võ học nên tự đặt cho mình tên hiệu Tam Phong. Đó chính là kỳ nhân Trương Tam Phong trong lịch sử võ học của Trung Quốc.
Chương 4: Bảo Đao Bách Luyện Sinh Huyền Quang
Lửa hồng nung đốt trăm lần nóng,
Đen sì đao cứng vẫn trơ gan.
Tráng sĩ nguy nàn đâu nhụt chí,
Dẫu đành một thác chẳng than van.
Hoa nở rồi hoa tàn, hoa tàn hoa lại nở, người thiếu niên năm nào nay đã già, cô gái hồng nhan kia tóc mai cũng đã bạc. Năm đó là năm Chí Nguyên thứ hai đời Nguyên Thuận Đế, nhà Tống đã bị diệt vong hơn năm chục năm rồi.
Lúc đó chính vào tháng ba cuối mùa xuân, ở bờ biển Giang Nam có một tráng sĩ ước chừng ba mươi tuổi chân đi giày cỏ mặc áo màu lam, đang rảo bước trên đường cái, thấy trời đã xế chiều, tuy hai bên đường đầy đào hồng, liễu xanh, xuân sắc đang độ tốt tươi nhưng chàng không tâm trí đâu mà thưởng ngoạn, trong đầu chỉ tính toán thầm: “Hôm nay đã là hai mươi bốn tháng ba, đến mồng chín tháng tư chỉ còn mười bốn ngày, đường đi không có gì trở ngại thì mới kịp ngày giờ về núi Võ Đương chúc mừng đại thọ chín mươi của ân sư.”
Tráng sĩ đó họ Du, tên Đại Nham, là đệ tử thứ ba của tổ sư phái Võ Đương Trương Tam Phong. Đầu năm đó, chàng vâng lệnh thầy xuống Phúc Kiến tiêu diệt một bọn giặc cướp không việc ác gì không làm, chuyên tàn hại lương dân. Tên đầu đảng nghe tin, lập tức trốn mất, Du Đại Nham phải mất hai tháng trời mới tìm ra được sào huyệt bí mật của y, tiến đến khiêu chiến, sử dụng Huyền Hư đao pháp của thầy truyền cho, đến chiêu thứ mười một mới giết được tên giặc. Lúc đầu chỉ định mười ngày là xong, nhưng lại mất đến hơn hai tháng, bấm đốt ngón tay, kỳ hạn đại thọ chín mươi của sư phụ chẳng còn bao xa, nên vội vàng từ Phúc Kiến quay về, hôm nay đã đến phía nam sông Tiền Đường ở vùng Triết Đông.
Chàng rảo bước một hồi, con đường hẹp lại, nhìn thấy một bên là biển cả, có những khoảng đất bằng sáng loáng như gương, mỗi mảnh chừng bảy tám trượng vuông, nếu thực là do nước biển bào mòn mà thành sao lại nhẵn đến thế. Du Đại Nham đã đi khắp mọi miền Giang Nam, Giang Bắc, kiến văn cũng rộng, nhưng chưa thấy cảnh lạ đó bao giờ, hỏi thổ dân, không khỏi bật cười, hóa ra đó là những ruộng muối.
Nơi đây dân chúng dẫn nước từ biển vào ruộng, phơi cho khô bớt, nước mặn đó lại dẫn vào ruộng khác, mỗi lúc một mặn thêm, sau cùng mới khô còn lại muối hột. Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Ta ăn muối ba mươi năm, nhưng chưa biết để làm được một hạt muối, phải nhọc nhằn đến thế.?
Chàng đang đi bỗng thấy từ con đường nhỏ phía tây một bọn chừng hơn hai chục người đang gánh đồ đi rảo bước. Du Đại Nham liếc mắt để ý, thấy cả bọn đều mặc quần áo ngắn màu xanh, đầu đội nón rộng vành, hai bên quang đều là muối cả. Chàng biết rằng hiện nay chính sách hà khắc, thuế đánh vào muối rất cao, nên tuy ở ngay cạnh bờ biển, dân chúng cũng không được ăn muối quan, mà phải đi mua lén của dân buôn muối lậu. Bọn người này hành động nhanh nhẹn, táo tợn, thân thể rắn chắc, xem chừng là một bọn buôn lậu. Trên vai họ cũng không phải là đòn gánh bằng tre hay bằng gỗ vì không thấy nhún nhẩy chi cả, trông đen sì đúng là đòn gánh bằng sắt. Mỗi người phải gánh ít ra cũng hai trăm cân nhưng đi rất nhanh. Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Bọn diêm kiêu này ai cũng có võ. Nghe nói ở Giang Nam, phái Hải Sa độc quyền muối lậu, thanh thế rất lớn, trong môn phái này không ít những tay danh gia võ học. Thế nhưng có đến hai mươi hảo thủ cùng ở một đoàn gánh muối lậu đi bán thì thật không hợp lý chút nào.?
Giá như bình thời, ắt là chàng sẽ đi theo dọ thám, nhưng lúc này đang phải tính chuyện chúc thọ sư phụ chín mươi, không hơi đâu mà mua chuyện thiên hạ. Nghĩ thế chàng lại rảo bước đi.
Chiều hôm đó, Du Đại Nham đã đến huyện Dư Diêu, trấn Am Đông. Từ đây chỉ qua sông Tiền Đường là đến Lâm An, rẽ qua hướng tây đi về phương bắc, qua Giang Tây, Hồ Nam là đến Hồ Bắc, địa phận núi Võ Đương. Trời đã tối không có thuyền sang sông, chàng chỉ còn cách ở lại Am Đông, kiếm một tiểu điếm trọ qua đêm.
Ăn cơm chiều xong, Du Đại Nham rửa chân toan lên giường nằm, bỗng nghe trong quán có tiếng lao xao, một đám người vào thuê phòng. Nghe giọng thấy họ là người Triết Đông, nhưng trung khí sung mãn, hiển nhiên đều là nội gia, chàng thò đầu ra xem, hóa ra chính là bọn buôn muối lậu gặp trên đường cái. Du Đại Nham không để ý, ngồi xếp bằng trên giường, hành công đủ ba lần, rồi mới nằm xuống ngủ.
Ngủ đến giữa đêm, bỗng nghe phòng bên cạnh có tiếng lách cách nhè nhẹ, Du Đại Nham lập tức tỉnh dậy. Chỉ nghe thấy một người hạ giọng nói:
– Anh em mau mau ra đi, đừng kinh động đến người khách ở phòng bên cạnh, thêm phiền ra.
Mọi người tất cả nhè nhẹ mở cửa phòng, đi ra ngoài. Du Đại Nham nhìn qua khe cửa, thấy đám diêm kiêu đã gồng gánh đi ra cửa, nhớ đến câu kẻ kia nói: ?đừng kinh động đến người khách ở phòng bên cạnh, thêm phiền ra? nghĩ thầm: ?Bọn buôn muối lậu này lén lén lút lút, hẳn là đang tính làm điều gì sai quấy, nên mới sợ mình trông thấy, không thể bỏ qua. Nếu có ngăn bọn họ làm điều thương thiên hại lý, cứu được một hai mạng người lương thiện, dù cho có lỡ tiệc thọ ngàn tuổi của ân sư, thì lão nhân gia chắc cũng vẫn vui lòng.? Chàng đeo túi đựng binh nhận, ám khí lên lưng, vượt cửa sổ, nhảy qua tường ra ngoài.
Chỉ nghe thấy tiếng chân người đi về hướng đông bắc, chàng thi triển khinh thân công phu, lặng lẽ đuổi theo. Đêm đó mây đen đầy trời, ánh trăng không có, trong bóng đêm dày đặc, thấp thoáng bóng hai chục tên buôn muối lậu gánh hàng chạy trên những bờ ruộng, Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Bọn buôn lậu ban đêm gánh hàng chạy thì cũng là chuyện thường tình. Thế nhưng những người này thân thủ bất phàm, nếu muốn làm chuyện phi pháp, chẳng nói chi trộm cướp nhà giàu, có đến vào công khố ăn cướp, quan binh cũng chưa chống nổi, việc gì phải lén lén lút lút đi buôn muối, kiếm chút lợi nhỏ? Ắt hẳn bên trong có chuyện gì khác.”
Chỉ chưa đầy nửa giờ, bọn buôn lậu đã chạy trên hai chục dặm, nhưng Du Đại Nham khinh công rất cao, bước chân không một tiếng động, bọn kia lại chừng như có chuyện gì gấp, chỉ để ý đến lộ trình trước mặt, không quay đầu lại, nên chẳng hề phát giác. Lúc đó họ đã đến ven biển, tiếng sóng vỗ vào đá ỳ ào không dứt.
Đang trên đường đi, bỗng nghe tiếng tên đầu lĩnh huýt một tiếng còi nhỏ, cả bọn đều đứng lại. Tên chỉ huy hỏi nhỏ:
– Ai thế?
Trong bóng tối có tiếng một người khàn khàn:
– Có phải các bạn là nhóm ?ba chấm thủy? chăng?
Người đầu lĩnh đáp:
– Chính thế. Các hạ là ai?
Du Đại Nham thắc mắc: ?Nhóm ?ba chấm thủy? là bọn nào thế nhỉ?? Nhưng chỉ một thoáng chàng chợt nghĩ ra: ?Ồ, quả nhiên là phái Hải Sa. Ba chữ phái Hải Sa có ba chấm thủy ở bên cạnh. Tiếng người khàn khàn lại nói tiếp:
– Vụ đao Đồ Long, ta khuyên các người đừng nhúng tay vào.
Tên đầu lĩnh nói:
– Tôn giá cũng vì đao Đồ Long mà đến đấy ư?
Âm thanh dường như có vẻ vừa tức giận, vừa sợ hãi. Trong đêm tối chỉ nghe mấy tiếng cười khẩy ?hắc hắc hắc? nhưng không nghe người kia trả lời.
Du Đại Nham náu mình sau những tảng đá ở ven biển, trườn đến phía trước, chỉ thấy một người đàn ông thân hình cao gầy đứng chắn trên đường. Vì trời tối nên không nhìn rõ mặt y, chỉ thấy y mặc một chiếc áo bào trắng, đi đêm mà mặc áo trắng hẳn phải tự phụ võ công của mình có chỗ hơn người.
Người đầu lĩnh phái Hải Sa nói:
– Thanh đao Đồ Long đó đã thuộc về bản phái, nhưng bị người ta lấy trộm mất, nay phải đi đòi lại.
Gã áo trắng lại cười khẩy ?hắc hắc hắc? ba tiếng nhưng vẫn nghênh ngang đứng chắn đường. Từ phía sau tên đầu lĩnh một người gằn giọng quát lên:
– Mau tránh ra, quân chó dữ chặn đường kia, bộ ngươi muốn chết hay sao ?
Y chưa dứt lời, đột nhiên ?A? lên một tiếng thảm khốc, ngã lật người ra sau. Mọi người kinh hãi, chỉ thấy trong bóng đêm, tà áo trắng thấp thoáng, người khách chắn đường không còn thấy đâu nữa.
Bọn buôn muối phái Hải Sa nhìn lại tên đồng bọn ngã dưới đất, chỉ thấy y nằm còng queo, hiển nhiên đã chết rồi. Ai nấy đều vừa sợ vừa tức, có mấy người bỏ quang gánh xuống theo hướng người áo trắng đuổi theo, nhưng y chạy nhanh quá, trời tối còn làm sao kiếm ra được nữa.
Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Gã này ra tay nhanh thực, ngón trảo đó dường như là Đại Lực Kim Cương Trảo của phái Thiếu Lâm. Tuy nhiên trời tối, ta không nhìn rõ. Nghe giọng nói của người này thì có vẻ từ quan ngoại mạn tây bắc đến. Không ngờ phái Hải Sa kết hạ oán cừu xa đến như thế.?
Chàng thu mình sau những tảng đá, không dám cử động, sợ bọn người phái Hải Sa phát giác, sẽ thêm rắc rối. Lại nghe gã đầu lĩnh nói:
– Hãy đem thi thể lão tứ để qua một bên, khi về hãy mang đi, sau này thể nào mình cũng tìm ra y là ai.
Cả bọn đáp lời, lại mang gánh lên, chạy về phía trước.
Du Đại Nham đợi bọn họ đi một quãng xa mới đến xem thi thể, thấy cổ họng có hai cái lỗ nhỏ, máu tươi vẫn còn chảy ra không ngừng, hiển nhiên là bị ngón tay đâm thủng. Chàng biết việc này có nhiều điều khác thường, nên gia tăng cước bộ, cố đuổi theo cho kịp bọn diêm kiêu. Đoàn người lại đi thêm vài dặm nữa, gã đầu lĩnh huýt một tiếng còi, cả hai mươi người đều dàn ra, hướng về phía một tòa nhà lớn ở mạn đông bắc chầm chậm tiến tới. Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Bọn họ nói gì Đồ Long đao, chẳng lẽ ở trong cái nhà này sao??. Chỉ thấy từ cái ống khói của căn nhà đó một cột khói bốc thẳng lên, tụ lại một hồi mới tan. Bọn diêm kiêu bỏ quang gánh xuống, mỗi người cầm một cái gáo, múc cái gì đó trong thúng, rải ra khắp bốn bề. Du Đại Nham nhìn thấy họ rắc một loại phấn trắng như tuyết, rõ ràng là muối biển, nghĩ thầm: ?Họ rắc muối trên đường làm gì thế nhỉ? Thật là kỳ lạ, mai này mình có kể cho sư huynh đệ nghe, chắc họ không tin đâu.?
Du Đại Nham thấy họ rắc muối rất chậm chạp, kỹ lưỡng, hình như sợ muối đó dính vào mình, chàng liền vỡ lẽ, biết rằng muối này có chất kịch độc, đám người đó đem rải chung quanh, hẳn có ý đồ ám hại người trong nhà nên tính trong bụng: ?Mình chẳng biết hai bên bên nào phải bên nào trái, nhưng bọn này hành sự lén lút, không quang minh chút nào. Mình phải bằng mọi giá thông tri cho người trong nhà, để họ khỏi bị bọn tiểu nhân này ám hại.? Chàng thấy phái Hải Sa vẫn còn đang rắc phía trước nhà nên đánh một vòng thật lớn đi ra phía sau, nhẹ nhàng nhảy qua tường vào bên trong.
Căn nhà đó lớn trước sau cả thảy năm khu, có đến ba bốn chục gian phòng, trong nhà lại tối mò không đèn đuốc gì cả. Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Khói đen từ giữa một khu nhà bay lên, nơi đó ắt là có người.? Ngẩng lên nhận định rõ khu vực khói bốc ra, rảo bước đi tới, nghe thấy trong phòng có tiếng lửa cháy bừng bừng, củi kêu tí tách. Chàng đi vòng qua một bức tường ngang, thì vào được vào chính sảnh, bỗng thấy sáng lòa, một làn hơi nóng phả vào mặt. Giữa phòng là một cái lò lớn xây bằng đá, lửa bừng bừng bốc lên cao, chung quanh có ba người đứng, mỗi người kéo một cái bễ, thổi lửa vào lò. Trong lò là một thanh đơn đao đen sì, dài ước chừng bốn thước.
Ba người đó đều mặc áo bào xanh, khoảng sáu chục tuổi, đầu tóc đầy tro, trên áo dài cũng lỗ chỗ đầy vết thủng do tàn lửa bắn vào. Chỉ thấy ba người cùng ra sức thổi bễ, lửa lên cao đến năm thước, bao phủ lấy thanh đao, phát tiếng vù vù. Chỗ Du Đại Nham đứng phải cách cái lò đến mấy trượng nhưng cũng còn thấy nóng đủ biết lửa trong lò lợi hại đến bực nào. Ngọn lửa từ đỏ biến thành xanh, từ xanh thành trắng, nhưng thanh đao đó vẫn nguyên một màu đen, chưa thấy đỏ một tí nào.
Vừa khi đó, trên mái nhà có tiếng người khàn khàn nói:
– Làm hư hại thanh bảo đao, thật là thương thiên hại lý, mau ngừng lại!
Du Đại Nham nghe tiếng, biết ngay là người khách áo trắng gặp trên đường cái đã đến. Ba ông già đang quạt lò nung đao kia dường như không nghe, lại càng kéo bễ nhanh hơn. Lại nghe thấy từ mái nhà ba tiếng cười nhạt ?hắc hắc hắc?, phía trước nghe một tiếng cạch, gã áo trắng đã nhảy vào.
Lúc đó lửa trong lò đang phừng phừng nên Du Đại Nham nhìn rõ. Người áo trắng ước chừng trên dưới bốn mươi, mặt tái mét, ẩn ẩn màu xanh, hai tay không, lạnh lùng nói:
– -???? Trường Bạch Tam Cầm, tưởng các ngươi chiếm đoạt bảo đao đã quá lắm rồi, lại còn dám lớn mật đem lửa nung bảo vật?
Nói xong y tiến lên phía trước.
Ông già phía tây lao tới vươn tay trái ra, chộp vào mặt người áo trắng. Người khách lách đầu sang một bên, tiến lên một bước nữa. Ông già phía đông thấy y tới gần mình, cầm ngay cái búa sắt lớn dựng bên cạnh lò, nghe vù một tiếng, nhắm ngay đầu gã áo trắng nện xuống. Bạch bào khách hơi nghiêng người, búa sắt giáng vào khoảng không, nghe bình một tiếng, lửa bắn tóe ra như sao sa, hóa ra nền nhà không phải là đá xanh mà là đá hoa cương cứng dị thường. Ông già phía tây lại tấn công từ bên hông, hai tay cong cong như chân gà, nhảy lên hụp xuống, thế đánh thật là lợi hại.
Du Đại Nham thấy gã áo trắng ra chiêu võ công hiển nhiên thuộc phái Thiếu Lâm, nhưng xuất thủ rất âm độc tàn nhẫn, khác hẳn lối cương mãnh nhưng chính đại quang minh của danh môn. Đấu được vài hiệp, ông già cầm búa quát lên:
– Các hạ là ai? Muốn chiếm bảo đao này, hãy để tên lại.
Người áo trắng chỉ cười khẩy mấy tiếng, không trả lời. Chỉ thấy y xoay mình một cái, hai tay chộp ra, nghe hai tiếng lách cách, hai cổ tay ông già phía tây đã gãy lìa, cái búa trong tay ông già phía đông cũng tuột ra, văng thẳng lên trời, phá vỡ mái nhà, rơi xuống trở lại, nghe bình một tiếng thật lớn. Lão già đó lập tức cúi mình nhặt một chiếc kìm, đưa ngay vào lò kẹp thanh đơn đao.
Ông già đứng ở phía nam tay cầm ám khí lăm lăm chờ cơ hội đả thương địch thủ, nhưng thấy gã áo trắng nhanh nhẹn dị thường, chưa kịp ra tay, bỗng thấy ông già phía đông dùng kìm kẹp thanh bảo đao, lập tức thò tay vào lò, cầm cán đao trước, lôi luôn ra ngoài. Y vừa cầm vào cán đao, một luồng khói trắng lập tức bốc lên, mọi người ngửi thấy mùi khét lẹt, bàn tay y đã bị cháy phỏng. Thế nhưng y không chịu buông, cả người lẫn đao nhảy vọt về sau, nghe bịch một tiếng, ngã lăn ra đất. Tay trái y vươn ra, đỡ vào sống đao, bấy giờ mới đứng lên được, xem chừng thanh đao đó quá nặng, một tay cầm không nổi, nhưng cũng vì thế bàn tay trái y cũng bị cháy nghe xèo xèo.
Mọi người ai nấy kinh hãi, còn đang ngơ ngẩn, chỉ thấy ông già đó hay tay múa thanh đơn đao, chạy thẳng ra ngoài. Người áo trắng cười nhạt:
– Đâu có dễ dàng như thế?
Cánh tay y vung ra, đã chộp vào giữa lưng ông già. Ông già đó xoay người, thuận tay chém lại một nhát. Lưỡi đao chưa tới, hơi nóng đã phà vào mặt, tóc râu, lông mày người áo trắng đã quăn cả lại. Y không dám đỡ, kình lực trên tay đẩy ra, ném ông già cả người lẫn đao vào trong lò lửa.
Du Đại Nham thấy bọn người đó ai ai cũng hung ác, chuyện không liên quan gì đến mình nên chẳng muốn ra tay. Thế nhưng lúc này mạng ông già chỉ trong đường tơ kẽ tóc, chỉ cần rơi vào lò, thì sẽ thành tro ngay. Chàng thấy cứu người là việc khẩn cấp, lập tức tung mình nhảy lên, vừa xoay người vừa lắc mình một cái, giữa không trung thò tay ra, chụp lấy búi tóc của ông già nọ, nhẹ nhàng khéo léo rơi sang một bên.
Người áo trắng và Trường Bạch Tam Cầm vốn đã thấy chàng đứng ở một bên, từ trước đến giờ không làm gì, đột nhiên thi triển khinh công thượng thừa, cả bọn đều kinh hãi. Bạch bào khách nhướng đôi lông mày, hỏi:
– Thân thủ đó có phải là ?Thê Vân Túng? mà thiên hạ hằng nghe danh chăng?
Du Đại Nham thấy y nói lên được tên của lộ khinh công mình vừa sử dụng, lúc đầu hơi kinh hoảng, nhưng sau trong lòng không khỏi đắc ý: ?Công phu của phái Võ Đương chúng ta quả danh dương thiên hạ, chấn động đến tận nơi xa xôi.? Chàng liền đáp:
– Không dám, xin thỉnh giáo quí tính đại danh của tôn giá? Chút công phu nhỏ nhặt của tại hạ có gì đáng nói đâu.
Gã áo trắng nói:
– Hay lắm, hay lắm. Khinh công của phái Võ Đương quả nhiên cũng có đôi phần đáng kể.
Khẩu khí của y nghe thật ngạo mạn. Du Đại Nham trong lòng tức giận, nhưng không nổi nóng, nói:
– Trên đường đi, tôn giá vừa giơ tay là đã giết ngay một cao thủ của phái Hải Sa, công phu thần xuất quỉ một như thế, khiến cho không ai biết đâu mà đo lường.
Người đó hơi giật mình, nghĩ thầm:
– Việc đó quả nhiên ngươi đã trông thấy, vậy mà ta lại không thấy ngươi. Không biết khi đó gã tiểu tử này ẩn náu ở chỗ nào?
Y liền lạnh lùng đáp:
– Không sai. Môn võ công đó của ta, người ngoài không dễ gì lãnh hội. Không nói các hạ mà cả đến ông già họ Trương chưởng môn của phái Võ Đương, cũng chưa chắc đã hiểu nổi.
Du Đại Nham nghe gã áo trắng làm nhục cả đến ân sư làm sao nhịn nổi. Tuy nhiên, đệ tử phái Võ Đương trước nay vẫn coi trọng việc tu tâm dưỡng tính, chàng nghĩ thầm: ?Y cố ý khiêu khích, không biết bên trong còn có ý định gì? Người này công phu quái dị, không nên vì một vài câu nói mà bản môn phải có thêm một cường địch.? Bèn mỉm cười:
– Võ công trong thiên hạ vô cùng vô tận, chính phái tà đạo, hàng nghìn hàng vạn, sở học của phái Võ Đương chỉ là một hạt nước trong biển cả. Công phu của tôn giá, giống Thiếu Lâm mà không phải Thiếu Lâm, e rằng bản sư cũng không biết được.
Câu đó nghe có vẻ khách khí, nhưng bên trong hàm nghĩa là phái Võ Đương không thèm biết đến võ công của bọn bàng môn tả đạo. Người đó nghe thấy câu ?giống Thiếu Lâm mà không phải Thiếu Lâm? lập tức biến sắc.
Trong khi hai người ngôn ngữ châm chọc đối lại với nhau thì thanh đao nóng hừng hực ấy đã cháy hết thịt da, ăn vào tới xương ông già ở phía nam rồi. Hai ông già ở phía đông và phía tây vẫn khom mình thủ thế, đang tìm cơ hội đoạt lại thanh đao. Đột nhiên nghe một tiếng vù, ông già phương nam lại huy động đơn đao chạy ra ngoài lần nữa. Y múa đao, tuy không chủ ý chém ai nhưng Du Đại Nham đang đứng chắn lối, nên đao đó chém chàng trước hết. Du Đại Nham không ngờ mình vừa mới cứu ông ta thoát chết, nay y lại ra tay ngay với mình, vội vàng nhảy lên tránh khỏi đường đao.
Ông già đó hai tay cầm thanh đao như điên như cuồng chém lung tung, vượt được ra ngoài. Gã áo trắng và hai người kia đều sợ đao thế hung hiểm không ai dám cản, chỉ luôn mồm kêu gào, đuổi theo sau. Ông già cầm đao loạng choạng chạy ra khỏi cửa, bỗng thấy chân vấp một cái ngã nhào về trước, chỉ nghe một tiếng kêu thảm thiết, hình như đột nhiên bị trọng thương.
Gã áo trắng và hai ông già kia lập tức nhảy tới, cùng giơ tay cướp thanh đơn đao, nhưng cả ba cùng kêu lên một lượt, tưởng như dưới đất có rắn độc, quái trùng gì cắn phải. Gã áo trắng chỉ loạng choạng rồi gượng lại được, chạy thẳng ra ngoài, còn ba ông già thì lăn lộn dưới đất, không sao đứng lên nổi.
Du Đại Nham nhìn thấy thảm trạng đó, toan nhảy ra cứu người, bỗng giật mình, nhớ đến việc phái Hải Sa rắc muối độc bên ngoài tòa nhà, biết là chung quanh đều là độc diêm, mình không còn cách gì chạy ra được. Chàng nhìn quanh bốn bề, thấy bên trong cánh cửa có dựng mấy chiếc ghế dài, vội thò tay dựng hai chiếc, nhảy lên mỗi chân một bên dùng như cà khêu đi ra cửa. Thấy ba ông già kêu la thảm thiết, không ngừng lăn qua lộn lại, Du Đại Nham dùng một miếng giẻ lót tay, chộp vào hậu tâm ông già cầm đao, lênh khênh chạy ra hướng đông.
Việc xảy ra ngoài ý của bọn người phái Hải Sa, tuy trông thấy nhưng không ngăn kịp, vội tứ tán đuổi theo, kêu la om sòm, cương tiêu tụ tiễn, cùng khoảng một chục món binh khí khác đều nhắm sau lưng Du Đại Nham ném tới.
Du Đại Nham sử kình vào hai chân, đẩy mạnh vào hai chiếc ghế, vọt ra xa hơn một trượng, ám khí đều rơi vào khoảng không. Hai chân chàng móc vào hai chiếc ghế thành thử dài thêm mấy thước nên chỉ chạy bốn năm bước là đã bỏ bọn người phái Hải Sa một quãng xa. Nghe thấy tiếng người rầm rập đuổi theo, Du Đại Nham một mặt nhắc ông già kia nhảy lên, đồng thời đá mạnh hai chiếc ghế vọt về phía sau. Chỉ nghe hai tiếng bình bình, lại có ba bốn người kêu la, hiển nhiên đã bị ghế văng trúng. Vì trở ngại này, Du Đại Nham chạy thêm được mươi trượng nữa, trong tay tuy cầm thêm một người, nhưng càng lúc càng xa, phái Hải Sa không sao đuổi kịp.
Du Đại Nham chạy một hồi nghe thấy tiếng sóng ỳ ào, đằng sau không còn ai đuổi theo, mới hỏi:
– Ông thấy sao?
Ông già đó chỉ hừ một tiếng nhưng không trả lời, rồi lại rên rỉ. Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Người y dính đầy muối độc, phải rửa sạch y trước đã.? Chàng chạy xuống bãi biển, kiếm một chỗ nước nông nhúng y xuống một chập, đang toan nhắc lên, bỗng đâu một làn sóng lớn xô tới đẩy ông già lên trên mặt cát.
Du Đại Nham nói:
– Hiện giờ ông đã thoát hiểm, tại hạ có việc cần, không thể giúp ông hơn được nữa, thôi mình từ biệt nhau ở đây.
Ông già đó nhỏm dậy, lắp bắp:
– Ngươi ? ngươi ? không cướp thanh bảo đao ư?
Du Đại Nham cười:
– Bảo đao có quí, nhưng không phải của tôi, tôi lấy làm gì?
Ông già đó trong lòng thấy kỳ quái, không tin, nói:
– Ngươi quả thực trong bụng có ngụy kế gì, định lừa ta?
Du Đại Nham nói:
– Tôi với ông không thù không oán, lừa ông làm gì? Đêm nay tôi vô tình qua đây, thấy ông trúng độc bị thương nên ra tay cứu thôi.
Ông già nọ lắc đầu, hằn học nói:
– Tính mệnh ta ở trong tay ngươi, muốn giết thì cứ việc giết. Còn như muốn dùng độc thủ để gia hại ta, dù ta có chết cũng thành quỉ sứ không tha ngươi đâu.
Du Đại Nham biết rằng y bị thương rồi, thần trí không còn tỉnh táo, nên không thèm chấp, chỉ mỉm cười, đang toan bước đi, một làn sóng lớn nữa lại từ biển xô tới. Ông già đó lại rên rỉ, chỉ nằm mọp trong nước biển mà run rẩy. Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Cứu người thì cứu cho tới cùng, ông già này trúng độc không phải là nhẹ, nếu mình bỏ y ở đây, y thể nào cũng chết chìm dưới nước.? Chàng đưa tay nhắc ông già lên một cái gò nhỏ, nhìn quanh bốn bề, thấy phía đông bắc có một mỏm đá, trên đó có một căn nhà, hình dáng dường như một cái miếu, nên xách ông ta chạy đến đó. Chàng nhìn lên biển ngạch, thấy thấp thoáng ba chữ ?Hải Thần Miếu?, nên đẩy cửa bước vào, thấy cái miếu này thật là sơ sài, nền đầy bụi đất, bên trong chẳng có gì cả.
Chàng để ông già lên trên tấm gỗ đằng trước thần tượng, lần trong bọc thấy đồ đánh lửa đã bị nước biển làm ướt, mò quanh bàn thờ, tìm thấy bùi nhùi và đá lửa và một cây nến thắp dở. Đốt nến lên, chàng nhìn lại ông già thấy y mặt mày tím ngắt, hiển nhiên trúng độc rất nặng, vội lấy trong bọc ra một viên ?Thiên Tâm Giải Độc Đơn? nói:
– Ông uống viên thuốc giải độc này đi.
Ông già đó hai mắt đang nhắm nghiền, thấy chàng nói thế, mở choàng ra nhìn trừng trừng nói:
– Ta không uống thuốc độc hại người của ngươi đâu.
Du Đại Nham tâm tính thật tốt nhịn, nhưng cũng không chịu nổi, nhướng lông mày nói:
– Ngươi coi ta là hạng người gì? Môn hạ phái Võ Đương không lẽ đi hại người sao? Đây là một viên thuốc giải độc, chỉ vì ngươi trúng độc rất nặng, viên thuốc này chưa chắc đã giải cứu được đâu, nhưng ít nhất cũng giúp ngươi sống thêm được ba ngày. Ngươi mau mau đem thanh đao này giao lại cho phái Hải Sa, đổi lấy thuốc giải độc của họ.
Ông già đó bỗng đứng lên, gay gắt nói:
– Cái gì chứ lấy đao Đồ Long của ta thì không thể được.
Du Đại Nham nói:
– Tính mệnh của ngươi chẳng còn, có bảo đao cũng để làm gì?
Ông già đó quyết liệt nói:
– Ta thà chết thì thôi, chứ thanh đao Đồ Long này là của ta.
Nói rồi y ôm thanh đao lên, áp má vào sống đao, trông hết sức yêu quí, tay kia cầm viên thuốc ?Thiên Tâm Giải Độc? nuốt vào bụng. Du Đại Nham thấy hiếu kỳ, toan hỏi vài câu xem thử thanh đao này có cái gì quí giá, nhưng nhìn lại hai mắt lão già thấy đầy nét tham tàn hung ác, trông như con thú muốn vồ người ăn thịt, bỗng thấy chán ghét cùng cực, xoay mình toan đi ra. Bỗng nghe ông già hậm hực nói:
– Đứng lại, ngươi định đi đâu thế?
Du Đại Nham cười:
– Ta đi đâu việc gì đến ngươi?
Nói rồi chàng cất bước đi ra. Đi được vài bước nghe thấy ông già nọ khóc òa lên, Du Đại Nham quay đầu lại, hỏi:
– Ngươi khóc gì thế?
Ông già nói:
– Ta trăm cay nghìn đắng mới lấy được thanh đao Đồ Long này, nhưng chỉ trong khoảnh khắc tính mệnh cũng không còn, có bảo đao để làm gì?
Du Đại Nham hừ một tiếng:
– Trừ việc ngươi đem đao đổi lấy thuốc giải độc của phái Hải Sa ra không còn cách nào khác nữa.
Ông già vẫn khóc òa:
– Nhưng bảo ta bỏ nó thì không được, ta không bỏ nó được.
Thần thái của y trong cái sợ hãi có thêm ba phần hoạt kê. Du Đại Nham muốn cười nhưng không cười nổi, một lát sau mới nói:
– Người học võ toàn do công phu bản thân để khắc địch chế thắng, trượng nghĩa hành đạo, để lại tiếng thơm cho đời sau. Bảo đao bảo kiếm chỉ là bên ngoài, được cũng chẳng đáng vui, mà mất cũng chẳng đáng buồn, lão trượng việc gì phải lo lắng đến thế?
Ông già đó giận dữ nói:
– Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng![1] Câu nói đó ngươi đã nghe tới bao giờ chưa?
Du Đại Nham không nhịn được cười, hỏi lại:
– Câu đó lẽ dĩ nhiên tôi đã nghe nói tới, sau đó còn hai câu nữa, gì gì ?Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?[2]? phải không? Đó là nói về chuyện một đại sự kinh thiên động địa trong võ lâm mấy mươi năm trước, chứ đâu phải nói về bảo đao nào đâu.
Ông già đó lại hỏi:
– Thế đại sự kinh thiên động địa đó là cái gì?
Du Đại Nham nói:
– Đó là chuyện năm xưa Thần Điêu đại hiệp Dương Quá giết được hoàng đế Mông Cổ Mông Kha, làm hả cơn giận cho người Hán chúng ta. Từ đó, Dương đại hiệp ra lệnh gì, anh hùng trong thiên hạ ?không thể không theo?. ?Long? đây chỉ hoàng đế Mông Cổ, ?Đồ Long? có nghĩa là giết hoàng đế Mông Cổ, chứ trên đời này làm gì có con rồng thật đâu?
Ông già cười khẩy:
– Ta hỏi ngươi, năm xưa Dương Quá đại hiệp dùng binh khí gì thế nhỉ?
Du Đại Nham sững người, nói:
– Tôi nghe sư phụ nói rằng, Dương đại hiệp cụt một cánh tay, bình thời không dùng binh khí nào cả.
Ông già hỏi lại:
– Thế ư! Vậy Dương đại hiệp giết hoàng đế Mông Cổ bằng cách nào?
Du Đại Nham nói:
– Ông ấy dùng đá ném chết Mông Kha, thiên hạ ai ai chẳng biết chuyện ấy.
Ông già thật là đắc ý, nói:
– Dương đại hiệp bình thời không dùng kinh khí, giết hoàng đế Mông Cổ thì dùng đá ném, vậy bốn chữ ?bảo đao Đồ Long? kia ở đâu ra?
Câu hỏi đó khiến cho Du Đại Nham không sao trả lời được, một hồi sau mới nói:
– Cái đó chắc là trong võ lâm thuận mồm mà nói cho xuôi, chứ chẳng lẽ nói ?thạch đầu Đồ Long? ư, nghe chối tai làm sao?
Ông già lại cười nhạt:
– Cưỡng từ đoạt lý, nói lấy được thôi. Ta hỏi ngươi thêm, thế còn ?Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong? hai câu đó giải nghĩa thế nào cho phải?
Du Đại Nham trầm ngâm một hồi, nói:
– Tôi không biết. Ỷ Thiên có lẽ là một người nào đó chăng? Nghe nói Dương đại hiệp học võ công từ bà vợ ông ấy, chắc Ỷ Thiên là tên của phu nhân, hay cũng có thể là chỉ Quách Tĩnh đại hiệp tử thủ thành Tương Dương.
Ông già nói:
– Thế à. Ta xem chừng ngươi không biết gì cả, chỉ nói nhăng nói cuội thôi. Để ta cho ngươi hay, Đồ Long là tên thanh đao, chính là thanh đao này. Ỷ Thiên là tên một thanh kiếm, gọi là Ỷ Thiên kiếm. Sáu câu đó ý nghĩa như sau: ?Trong võ lâm vật cao quí hơn cả là thanh đao Đồ Long, ai có được thanh đao đó, không kể ra bất cứ lệnh lạc gì, anh hùng hảo hán trong thiên hạ đều phải nghe theo mà hành động cả. Nếu như thanh kiếm Ỷ Thiên không xuất hiện, Đồ Long đao là khí giới sắc bén hơn hết.?
Du Đại Nham nửa tin nửa ngờ, nói:
– Ông đưa thanh đao tôi xem, có cái gì thần kỳ?
Ông già đó ôm chặt thanh đơn đao, cười khẩy:
– Bộ ngươi tưởng ta là đứa trẻ lên ba ư? Định lừa ta để lấy đao hả?
Y sau khi trúng độc vốn dĩ thần suy lực kiệt, chỉ nhờ uống viên thuốc giải độc Du Đại Nham đưa cho, nên mới phấn chấn được một chút, lúc này lại cố gượng sức nên lại rên rỉ luôn mồm. Du Đại Nham cười:
– Không cho tôi xem thì thôi. Ông có bảo đao Đồ Long trong tay, nhưng có ra lệnh cho ai được đâu? Chẳng lẽ tôi thấy ông ôm thanh đao đó là tôi phải nghe lệnh ông sao? Nghe thật là tức cười, ông đang mạnh khỏe bình thường, nghe những lời nói vu vơ ở đâu, bây giờ sắp chết đến nơi, vậy mà còn mê man không tỉnh ngộ. Nếu ông không ra lệnh cho tôi được, đủ biết thanh đao này chẳng có chỗ nào gọi là kỳ lạ.
Ông già đó ngẩn ngơ một hồi, không nói nên lời, một lúc lâu sau mới nói:
– Này lão đệ, hai người mình đính ước với nhau, ngươi cứu mạng ta, ta sẽ đem những gì lợi lộc thu được từ thanh đao này chia cho ngươi một nửa.
Du Đại Nham ngửng đầu cười lớn, nói:
– Lão trượng, ông xem thường phái Võ Đương chúng tôi quá. Cứu khổn phò nguy, đó là bổn phận của chúng tôi, chứ đâu phải mong chuyện báo đáp? Trên người ông nhiễm đầy muối độc, tôi cũng không biết độc dược đó là loại gì, ông nên đi kiếm phái Hải Sa mà cầu cứu.
Ông già nói:
– Thanh đao này chính là chúng tôi ăn cắp của phái Hải Sa, họ hận tới xương tủy, đâu có chịu cứu tôi?
Du Đại Nham nói:
– Thì ông cứ giao hoàn lại thanh đao, oán cừu tự nhiên sẽ cởi, bọn họ còn giết ông làm gì?
Ông già nói:
– Ta xem ngươi võ công cao siêu lắm, hãy đến phái Hải Sa lấy trộm thuốc giải ra đây cứu ta.
Du Đại Nham nói:
– Một là tôi đang có việc gấp, không thể trì hoãn, hai là chính ông đi ăn trộm của người ta, làm điều trái trước, lẽ nào tôi lại điên đảo thị phi? Lão trượng, ông mau mau đi kiếm phái Hải Sa đi, đừng chậm trễ nữa, độc tính phát ra, không cứu kịp đâu.
Ông già đó thấy chàng lại dợm bước toan bỏ đi, vội nói:
– Khoan đã, để ta hỏi ngươi thêm một câu, khi ngươi xách ta lên, thấy có cái gì khác thường không?
Du Đại Nham nói:
– Tôi thấy có điều kỳ quái, thân thể ông gầy yếu ốm o, nhưng phải nặng đến hai trăm cân, không biết vì duyên cớ gì, lại cũng không thấy ông mang gì nặng trên người cả.
Ông già đó bỏ thanh đao xuống đất, nói:
– Bây giờ ngươi thử nhắc ta lên xem nào?
Du Đại Nham nắm vai ông ta nhắc lên, thấy tay nhẹ bỗng, chỉ độ chừng tám mươi cân là cùng, chợt hiểu ra: ?Hóa ra cái thanh đơn đao nhỏ bé này, lại nặng tới hơn một trăm cân, quả thực là cổ quái, không như những võ khí thường.?
Chàng đặt ông già xuống, nói:
– Thanh đao này quả thực là nặng.
Ông già lại ôm chặt thanh đao vào người, nói:
– Không phải chỉ nặng mà thôi đâu. Này lão đệ, ngươi họ Du hay họ Trương?
Du Đại Nham đáp:
– Tôi họ Du, thảo tự là Đại Nham, sao lão trượng lại biết?
Ông già đáp:
– Trương chân nhân của phái Võ Đương thu bảy người đệ tử, trong Võ Đương thất hiệp thì Tống đại hiệp phải khoảng bốn mươi, Ân, Mạc hai vị chưa đến hai mươi, còn lưỡng hiệp thứ hai, thứ ba họ Du, lưỡng hiệp thứ tư, thứ năm họ Trương, trong võ lâm ai ai cũng biết cả. Hóa ra là Du tam hiệp, thảo nào công phu cao siêu đến thế. Võ Đương thất hiệp uy chấn thiên hạ, hôm nay được gặp, quả thực danh bất hư truyền.
Du Đại Nham tuy tuổi tác chưa lớn, nhưng lịch duyệt giang hồ đã nhiều, thấy y giở trò nịnh nọt, biết rằng chỉ vì muốn cầu mình giúp đỡ, trong lòng càng thêm chán ghét, hỏi lại:
– Lão trượng tôn tính đại danh là gì?
Ông già đáp:
– Tiểu lão nhi họ Đức, tên một chữ Thành. Bạn bè ở Liêu Đông tặng cho tôi một cái ngoại hiệu, gọi là Hải Đông Thanh.
Hải đông thanh là tên của một giống chim ưng lớn ngoài Liêu Đông, hung ác lắm, chuyên bắt các con thú nhỏ để ăn, là một mãnh cầm trứ danh ở quan ngoại. Du Đại Nham chắp tay:
– Ngưỡng mộ đã lâu, ngưỡng mộ đã lâu.
Nói rồi ngửng đầu nhìn trời xem xét. Đức Thành biết chàng muốn đi, không đem đại lợi ra nhử sẽ không nhờ cứu mệnh mình được, nên nói:
– – Ngươi không biết nghĩa sâu xa của câu “hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng”. Tám chữ đó không phải chỉ là ai cầm thanh Đồ Long đao này mở miệng ra lệnh thì mọi người phải nghe theo. Không phải vậy, không phải vậy, nghĩ thế là hoàn toàn sai.
Y vừa nói tới đây, Du Đại Nham mặt hơi biến sắc, tay phải vẫy một cái, nghe một tiếng phụp nhỏ, ngọn nến trên bàn thần tượng tắt ngay, hạ giọng nói nhỏ:
– Có người đến đấy.
Đức Thành nội công so với chàng kém nhiều, nên không nghe thấy tiếng động nào, còn đang trù trừ, bỗng thấy từ xa có mấy tiếng còi, lại có người nói lao xao, chạy về phía miếu. Đức Thành hoảng sợ nói:
– Địch nhân đuổi tới rồi, mình mau mau theo lối sau chạy đi.
Du Đại Nham nói:
– Đằng sau cũng có người rồi.
Đức Thành nói:
– Chẳng biết ?
Du Đại Nham nói:
– Đức lão trượng, bọn người đến đây là phái Hải Sa, ông nên hỏi họ thuốc giải độc. Tại hạ không muốn dây dưa vào chuyện này làm gì.
Đức Thành vươn tay trái ra chụp lấy cổ tay chàng, run run nói:
– Du tam hiệp, ông đừng bỏ tôi, đừng ?
Du Đại Nham thấy năm ngón tay y lạnh như băng, bấu chặt vào da thịt mình, nên xoay cổ tay một cái, dùng nửa chiêu ?Cửu Chuyển Đơn Thành?, vòng nửa vòng, đã thoát ra khỏi tay y.
Bấy giờ nghe tiếng chân người rầm rập, chạy đã đến bên ngoài miếu. Nghe bình một tiếng, có người đã đá toang cửa miếu, kế đó nghe tiếng loạt soạt, trong đêm tối có vật gì nho nhỏ ném vào. Du Đại Nham rụt người, nhảy vào sau tượng hải thần bồ tát. Chỉ nghe Đức Thành ?A? lên một tiếng nho nhỏ, lại nghe loạt soạt, ám khí đã trúng người y, rồi rơi xuống đất.
Ám khí đó hết lượt này đến lượt khác, liên tiếp ném vào không ngớt. Du Đại Nham nghĩ thầm:
– Đây là muối độc của phái Hải Sa.
Lại nghe thấy tiếng lách cách trên nóc nhà, đã có người nhảy lên gỡ ngói ra, lại ném độc diêm từ trên xuống.
Du Đại Nham đã thấy người áo trắng cùng Trường Bạch Tam Cầm bị trúng muối độc, người áo trắng tuy võ công cao cường như thế, nhưng vừa trúng độc đã phải kêu la thảm thiết bỏ chạy ngay, đủ biết loại này lợi hại như thế nào. Trong cái miếu nhỏ, độc diêm bay tứ tán, biết rằng chỉ trong giây lát, không thể nào không trúng mình, trong tình hình nguy cấp, chàng liền đấm mấy cái vỡ lưng pho tượng, co mình chui vào nằm bên trong bụng, lập tức thành một cái áo dày bằng đất, muối độc tuy nhiều, nhưng không sao trúng chàng được.
Chỉ nghe bên ngoài người của phái Hải Sa bắt đầu bàn bạc với nhau:
– Tên đó không nghe tiếng gì, chắc mê man rồi.
– Tên trẻ tuổi kia tay chân đáng ngại lắm, chi bằng chờ thêm một chốc, việc gì phải gấp gáp?
– Sợ rằng gã đã đi mất đâu rồi không còn trong hải thần miếu nữa.
Chỉ nghe một người kêu lên:
– Này, tên chó chết kia, mau mau ra đầu hàng đi.
Trong khi đang hỗn loạn, bỗng nghe từ xa có tiếng vó ngựa, chừng mươi con khoái mã ở đâu chạy tới. Trong tiếng chân ngựa, bỗng nghe có người lớn tiếng nói:
– Nhật nguyệt quang chiếu, ưng vương triển sí.[3]
Người phái Hải Sa ở bên ngoài miếu lập tức im lặng không một tiếng động, một lát sau, có tiếng run run:
– Đây là Thiên ?. Thiên Ưng giáo, bọn mình chạy mau ?
Nói chưa dứt lời, vó ngựa đã ngừng ngay trước miếu. Phái Hải Sa có người rụt rè:
– Chạy không kịp đâu.
Nghe thấy tiếng chân rầm rập, mấy người đã chạy vào trong miếu. Du Đại Nham ẩn bên trong bụng pho tượng, thấy hình như có ánh sáng, đoán chừng người đi vào mang theo đèn lồng. Một lát sau, có người hỏi:
– Các ngươi có biết bọn ta là ai không?
Trong phái Hải Sa có mấy người cùng đáp:
– Biết, biết, các vị là bằng hữu trong Thiên Ưng giáo.
Người kia lại nói:
– Vị này là Thiên Thị Đường Lý đường chủ trong Thiên Ưng giáo. Lão nhân gia lâu nay không ra ngoài, hôm nay các ngươi vận số may mắn lắm, mới gặp được. Lý đường chủ hỏi các ngươi, Đồ Long đao ở đâu, mau mau đưa ra, Lý đường chủ mở lòng từ bi, bọn ngươi sẽ không mất mạng.
Nghe thấy một người trong phái Hải Sa đáp:
– Chính y ? y ăn trộm đem ra đây, chúng tôi đuổi vừa tới, Lý ? đường chủ ?
Người của Thiên Ưng giáo lại nói:
– Hừm, thanh đao Đồ Long đâu?
Câu hỏi đó hiển nhiên là hỏi Đức Thành. Đức Thành không trả lời, bỗng nghe một tiếng huỵch, có người ngã xuống đất. Mấy người khác kêu lên:
– -???? Ối chà.
Người Thiên Ưng giáo nói:
– Y chết rồi, mau tra xét trong người y xem.
Lại nghe có tiếng áo quần loạt soạt, tiếng thân người lật qua lại. Người của Thiên Ưng giáo nói:
– Bẩm báo đường chủ, trong thân gã này không có gì lạ.
Tên đầu lĩnh của phái Hải Sa run run nói:
– Lý đường … đường chủ, rõ ràng là gã này ăn trộm bảo đao … chính y …, chúng tôi quyết không dám dấu diếm …
Nghe giọng của y, hiển nhiên y bị nhãn quang của Lý đường chủ uy hiếp, sợ quá nên không còn hồn vía nào. Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Thanh đao đó rõ ràng Đức Thành ôm ở trong tay, sao lại không thấy nhỉ??
Chỉ thấy gã trong Thiên Ưng giáo nói tiếp:
– Các ngươi nói là y ăn trộm thanh đao đem ra đây, sao không thấy đâu cả? Chắc là chúng bay đã lén dấu đi rồi. Nếu đã thế, người nào nói thật ra, Lý đường chủ sẽ tha cho người đó. Trong cả bọn các ngươi, chỉ một người được sống thôi, ai nói trước, người đó khỏi chết.
Trong miếu lặng yên, một hồi sau, tên đầu lĩnh phái Hải Sa mới nói:
– Lý đường chủ, quả thật chúng tôi không biết, nếu như Thiên Ưng giáo đã đòi, chúng tôi đâu dám giữ ?
Lý đường chủ chỉ ?hừ? một tiếng, không trả lời. Gã hạ thuộc lại nói:
– Ai trả lời trước, người đó được sống.
Lại thêm một lát nữa, trong phái Hải Sa không ai nói gì. Bỗng nhiên một người kêu lên:
– Chúng tôi tới trước để đoạt đao, nhưng còn đứng bên ngoài chưa vào, các ông đã đến rồi. Chính các ông Thiên Ưng giáo vào trong miếu trước, làm sao chúng tôi có đao được? Nếu các ông không tin, đằng nào cũng chết, hôm nay quyết thí mạng. Vật đó có phải của Thiên Ưng giáo đâu, sao lại ép uổng bá đạo, xem ra ?
Nói chưa dứt lời, nghe một tiếng bịch, hình như y đã chết rồi. Lại nghe một người run rẩy đáp:
– Có một tên chừng ba mươi tuổi, cứu lão già này ra, người đó khinh công rất cao, bây giờ không biết đi đâu, bảo đao có lẽ y cướp đi rồi.
Lý đường chủ nói:
– Xét trên người bọn chúng xem sao.
Mấy người cùng lên tiếng đáp, chỉ nghe thấy trong điện có tiếng sột soạt, có lẽ là tiếng động do bọn Thiên Ưng giáo đang xét người phái Hải Sa. Lý đường chủ nói:
– Có lẽ gã đó lấy mất thật rồi. Thôi mình đi.
Lại nghe thấy tiếng bước chân bọn người Thiên Ưng giáo ra khỏi miếu, rồi nghe tiếng vó ngựa đi về phía đông bắc mỗi lúc một xa hơn. Du Đại Nham không muốn ẩn thân trong bụng thần tượng chật hẹp này lâu hơn nữa, chỉ chờ phái Hải Sa đi khỏi là chui ra. Thế nhưng một lúc lâu sau vẫn không nghe động tĩnh gì, tưởng chừng cả bọn phái Hải Sa bỗng dưng biến mất. Chàng từ sau thần tượng thò đầu ra thăm dò, thấy hơn hai chục tên diêm kiêu đứng sừng sững không động đậy, có lẽ đã bị người ta điểm trúng huyệt đạo.
Chàng từ trong bụng tượng đất nhảy ra, lúc ấy những ngọn đuốc dưới đất cũng còn cháy lập lòe nên bên trong miếu vẫn còn sáng, nhưng Du Đại Nham thấy những người của phái Hải Sa mặt mày thật dễ sợ, nghĩ thầm:
– Thiên Ưng giáo này không biết là giáo phái nào, sao mình chưa từng nghe đến? Bọn phái Hải Sa vốn dĩ cũng đâu phải hiền lành gì, sao vừa gặp người của Thiên Ưng giáo đã bị trói chân trói tay, quả thực đúng là vỏ quít dày gặp móng tay nhọn.
Chàng thò tay vỗ vào huyệt Hoa Cái của người đứng kế bên để giải huyệt cho y.
Nào ngờ chàng dùng lực khá mạnh nhưng người đó vẫn đứng trơ trơ, vội đưa tay thăm mũi y thì không còn thở nữa, hóa ra đã bị điểm vào tử huyệt. Chàng đi soát quanh một vòng, hơn hai chục người của phái Hải Sa đều chết đứng, chỉ còn một người nằm còng queo dưới đất, thở hổn hển, là người nói sau cùng, đã được tha cho khỏi chết. Du Đại Nham vừa kinh hoàng, vừa nghi ngại: ?Khi Thiên Ưng giáo hạ độc, không thấy tiếng động gì cả, thủ pháp đó quả thực quái dị âm độc.?
Chàng đỡ gã diêm kiêu chưa chết kia lên, hỏi:
– Thiên Ưng giáo là giáo phái nào thế? Giáo chủ của họ là ai?
Hỏi luôn mấy câu, người đó chỉ trợn trắng mắt ra, thần sắc đờ đẫn. Du Đại Nham vội cầm tay y, chỉ thấy mạch chạy tán loạn, biết rằng tính mệnh tuy không chết, nhưng đã bị người ta dùng trọng thủ đánh đứt một số kinh mạch, thành người ngớ ngẩn.
Lúc này chàng không còn sợ mà trở nên giận dữ, nghĩ thầm: ?Bọn Thiên Ưng giáo này sao hạ độc quá ư tàn nhẫn?? Nhưng nghĩ đối phương võ công cực cao, mình chỉ có một thân, không thể nào địch lại, chi bằng trước là về lại núi Võ Đương bẩm lại sư phụ xin ý kiến, xét cho rõ lai lịch của bọn Thiên Ưng giáo rồi sẽ tính sau.
Du Đại Nham thấy mặt đất đầy những muối độc trắng xóa như tuyết, nghĩ thầm: ?Sớm muộn gì cũng có dân chúng vào đây, vô tình không biết thể nào cũng bị tai ương. Dọn dẹp muối độc và chôn cất những xác chết này quả thực khó khăn, chi bằng đốt luôn cái miếu hải thần này cho khỏi hậu họa.? Nghĩ thế chàng kéo người bị chấn động kinh mạch ra ngoài, rồi quay trở vào thấy hơn hai mươi người chết đứng đầy trong điện, hình dáng thật là kỳ bí, lại thấy bên cạnh bàn thờ có một người phủ phục, trên lưng có vết máu chảy. Du Đại Nham hơi kỳ quái, nắm cổ áo người đó định kéo ra xem, thấy khác thường đến nỗi đẩy chàng ngã về phía trước. Chàng tự hỏi sao thân hình y cũng chỉ bình bình, không to béo gì, sao lại nặng nề như thế?
Nhìn kỹ hơn, thấy trên lưng y có một vết thương dài, Du Đại Nham đưa tay vào vết thương xem thử, thấy lạnh như băng, lôi ra một thanh đao, nặng ít nhất cũng phải hơn một trăm cân. Đó chính là đao Đồ Long mà bao nhiêu người tranh đoạt đến mất mạng. Chàng chỉ suy nghĩ một tí biết ngay nguyên do: Đức Thành khi sắp chết đã cả đao lẫn người ngã xuống, chém ngay vào lưng một tên diêm kiêu phái Hải Sa. Thanh đao đó vừa nặng vừa sắc bén, chỉ rơi xuống đã đâm lút vào trong cơ thể. Thiên Ưng giáo khi tra xét người bọn phái Hải Sa đã không tìm thấy.
Du Đại Nham chống đao đứng nhìn bốn bề, cảm thấy bâng khuâng, nghĩ thầm: ?Con đao này có thực sự là võ lâm chí bảo hay không, khó mà biết được, nhưng xem ra là một vật chẳng lành, Hải Đông Thanh Đức Thành cùng bao nhiêu người của phái Hải Sa cũng vì nó mà táng mạng. Trước mắt chỉ còn cách đem về trình cho sư phụ để xem lão nhân gia định đoạt thế nào.?
Nghĩ thế chàng nhặt một mồi lửa dưới đất châm lên mái nhà, đợi đến lúc lửa đã bén lên mới ra khỏi miếu. Chàng lau sạch thanh Đồ Long đao, bên ánh lửa xem lại cho kỹ. Thanh đao đó đen sì, chẳng phải sắt cũng không phải vàng, không biết bằng kim loại gì, trước đã bị Trường Bạch Tam Cầm nung như thế nhưng không hề suy suyển, quả là dị vật. Du Đại Nham lại nghĩ: ?Thanh đao này nặng nề như thế khi đối địch làm sao có thể thi triển chiêu thức? Quan vương gia[4] thần lực hơn người, nhưng Thanh Long yển nguyệt đao cũng chỉ nặng tám mươi mốt cân.?
Chàng gói đao vào bọc, hướng về phía thi thể Đức Thành khấn thầm:
– Đức lão trượng, tôi không phải là tham thanh đao này, nhưng đao này là một dị vật trong thiên hạ, nếu rơi vào tay kẻ ác, có khác gì hùm thêm cánh, ắt là di họa cho người đời. Sư phụ tôi vốn là người chí công, lão nhân gia ắt sẽ có cách xử trí cho tốt đẹp.
Chàng buộc bao lên lưng, rảo bước về hướng bắc, chỉ trong nửa tiếng đã đến bờ sông. Dưới ánh trăng mờ, mặt nước long lanh, lấp loáng tưởng như sao rụng đầy sông. Chàng nhìn quanh một vòng không thấy một bóng thuyền nào. Nước sông xuôi về hướng nam, chàng đi theo dòng độ chừng một bữa cơm, thấy trước mặt có ánh đèn lấp lánh, một chiếc thuyền chài đậu cách bờ chừng vài trượng đang giăng câu. Du Đại Nham kêu lớn:
– Anh đánh cá ơi, làm ơn giúp tôi qua sông, tôi xin hậu tạ.
Thế nhưng chiếc thuyền đó cách bờ quá xa, người trên thuyền dường như không nghe thấy, nên không động tĩnh gì. Du Đại Nham hít một hơi, vận sức kêu lên, tiếng chàng vang ra thật xa.
Một lúc sau, bỗng thấy từ trên thượng lưu một chiếc thuyền nhỏ xuôi dòng, ghé vào bờ. Người lái đò kêu lên:
– Khách quan muốn qua sông phải không?
Du Đại Nham mừng đáp:
– Chính thế, phiền anh chèo đò giúp cho.
Người thuyền chài nói:
– Xin mời ông xuống thuyền.
Du Đại Nham tung mình nhảy lên, đầu thuyền chìm hẳn xuống. Người lái đó kinh sợ, nói:
– Ông mang gì mà nặng thế?
Du Đại Nham cười:
– Có gì đâu, tại thân thể tôi hơi đẫy đà, khai thuyền đi thôi.
Chiếc thuyền dựng buồm lên, thuận nước, thuận gió, đi chéo thật nhanh về hướng đông bắc để qua sông. Được độ hơn một dặm, nghe xa xa có tiếng sấm ầm ầm vang đến, Du Đại Nham nói:
– Bác lái đò ơi, xem chừng mưa lớn đến nơi chăng?
Người lái đó cười:
– Đấy là thủy triều ban đêm ở sông Tiền Đường, cứ theo nước triều mà đi, chỉ chớp mắt thôi là đến bên kia bờ, nhanh lắm.
Du Đại Nham nhìn về hướng đông, thấy ở chân trời một làn nước trắng xóa ùn ùn kéo tới. Tiếng thủy triều mỗi lúc một thêm vang, chẳng khác gì tiếng quân reo ngựa hí. Sóng sông đổ ào, từ xa một bức tường nước xô tới. Chàng nghĩ thầm: ?Trời đất sao có cảnh hùng tráng đến thế này, hôm nay mình thật là mở mắt, cũng bõ cho những cay đắng phải trải qua.?
Chàng còn đang say sưa ngắm cảnh, bỗng thấy một chiếc thuyền dương buồm chạy đến, trên buồm trắng vẽ một con chim ưng lớn màu đen, hai cánh giang ra, tưởng như đang muốn chồm tới vồ mồi. Du Đại Nham nghĩ ngay đến Thiên Ưng giáo nên vội chuẩn bị đề phòng. Đột nhiên, gã lái đò nhảy phắt lên, rơi ùm xuống nước, không còn thấy tung tích y đâu nữa. Chiếc thuyền nhỏ không ai chèo chống, sóng vừa đánh tới đã xoay vòng vòng. Du Đại Nham vội nhảy ra phía sau bẻ lái, thì ngay lúc đó, chiếc thuyền buồm có thêu con hắc ưng kia đã lao vào nghe bình một cái. Đầu chiếc thuyền đó có bịt thép nên vừa đụng chiếc thuyền con đã vỡ ngay một lỗ lớn, nước sông theo đó đổ vào như trút. Du Đại Nham vừa sợ, vừa tức:
– Bọn Thiên Ưng giáo các ngươi gian ác thật. Hóa ra gã lái đó là người của các ngươi, đánh lừa ta như thế này.
Chàng thấy chiếc thuyền nhỏ không còn có thể dùng được nữa nên tung mình nhảy lên, nhắm mũi chiếc thuyền buồm kia hạ xuống. Nào ngờ ngay lúc đó có một làn sóng lớn vừa kéo đến, lắc mạnh chiếc thuyền buồm khiến đầu thuyền bị đẩy lên cao hơn một trượng. Du Đại Nham đang ở trên không, chiếc thuyền kia vừa nhô lên nên chàng rơi ngay ra ngoài khoang. Trong tình thế nguy cấp, chàng hít một hơi chân khí, tay trái đánh một chưởng vào mạn thuyền, mượn sức, hay cánh tay đẩy một cái, thi triển khinh công ?Thê Vân Túng?, lại vọt lên hơn một trượng, rơi xuống trở lại mũi thuyền buồm.
Chàng thấy cửa vào khoang thuyền vẫn đóng chặt, không một bóng người. Du Đại Nham kêu lớn:
– Có phải bằng hữu của Thiên Ưng giáo chăng?
Chàng gọi luôn mấy bận, trong thuyền không thấy ai đáp lời nên đẩy vào cửa khoang thuyền, thấy lạnh ngắt, hóa ra cánh cửa đó đúc bằng sắt, không nhúc nhích gì. Du Đại Nham vận sức vào hai cánh tay, quát lên một tiếng, hai chưởng đánh ra, chỉ nghe lách cách, cánh cửa không mở nhưng bản lề hai bên đã bị đánh gãy. Cửa sắt đã rung rinh nên chỉ thêm một chưởng nữa liền tung ra.
Chàng nghe thấy trong khoang thuyền tiếng một người nói:
– Khinh công Thê Vân Túng và chưởng lực Chấn Sơn Chưởng của phái Võ Đương, quả nhiên không phải là hư danh. Du tam hiệp, xin ông để con đao Đồ Long trên lưng lại, chúng tôi sẽ tiễn ông qua sông.
Lời nói tuy có vẻ khách khí nhưng ngữ khí mười phần ngạo mạn, tưởng như ra lệnh không bằng. Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Tại sao y biết được tên mình nhỉ??
Người kia lại nói tiếp:
– Du tam hiệp, trong bụng ông thấy lạ, tại sao tôi lại biết tên ông, phải không? Thực ra không có gì là khó hiểu, Thê Vân Túng và Chấn Sơn Chưởng, trừ những cao thủ của phái Võ Đương, làm sao có ai sử được xuất thần nhập hóa như thế? Du tam hiệp đến Giang Nam, Thiên Ưng giáo chúng tôi là địa chủ, trên đường đi không tiếp đãi chào hỏi, xin thứ lỗi cho.
Du Đại Nham không biết phải trả lời sao cho phải, chỉ nói:
– Cao tính đại danh của tôn giá là gì, xin hiện thân để cho được gặp mặt.
Người kia đáp:
– Thiên Ưng giáo cùng quí phái vô thân vô cố, không oán không cừu, không gặp nhau thì tốt hơn. Xin du tam hiệp để thanh đao Đồ Long tại đầu thuyền, chúng tôi xin đưa ông qua sông.
Du Đại Nham bừng bừng nổi giận, nói:
– Thanh đao Đồ Long này là của quí giáo chăng?
Người kia đáp:
– Cái đó không phải. Đao này là võ lâm chí tôn, kẻ học võ trong thiên hạ, ai ai chẳng muốn có nó trong tay.
Du Đại Nham nói:
– Chính thế, đao này bây giờ rơi vào tay tại hạ, nên phải đem về núi Võ Đương cho sư tôn phát lạc, tại hạ không được quyền tự tiện.
Người kia nói thêm mấy câu nho nhỏ, thanh âm như muỗi vo ve, Du Đại Nham nghe không rõ, hỏi lại:
– Ngươi nói gì thế?
Lúc ấy một ngọn sóng lớn đánh tới, nâng bổng chiếc thuyền buồm lên, Du Đại Nham thấy trên ngực và đùi mình, bỗng như bị muỗi cắn. Lúc ấy đang vàng đầu mùa xuân, làm gì có muỗi, nhưng chàng không để ý, lại lớn tiếng nói:
– Quí giáo chỉ vì một thanh đao mà giết bao nhiêu nhân mạng, trong miếu hải thần còn thi thể mấy chục người, không khỏi hạ thủ quá tàn nhẫn.
Người trong khoang thuyền đáp:
– Thiên Ưng giáo trước nay hạ thủ có nặng có nhẹ, với kẻ ác thì ra tay nặng, với người tốt thì ra tay nhẹ. Du tam hiệp danh chấn giang hồ, chúng tôi không muốn hại đến tính mệnh. Ông hãy để thanh đao Đồ Long lại, tại hạ xin dâng lên giải dược cho Văn Tu Châm[5].
Du Đại Nham nghe thấy ba chữ Văn Tu Châm, giật nảy người, vội lấy tay ấn vào những chỗ vừa bị muỗi đốt trên ngực, trên đùi, chỉ thấy hơi ngứa, quả thực là cảm giác mới bị côn trùng cắn, nhưng nghĩ lại liền tỉnh ngộ: ?Y cố tình nói mơ hồ, nhỏ giọng để dụ ta tới gần, thừa cơ ném ám khí nhỏ bé này.? Nghĩ đến bọn diêm kiêu phái Hải Sa sợ Thiên Ưng giáo như rắn rết, ám khí này ắt là tàn độc vô cùng, trước mắt phải làm sao bắt được y, ép y phải đưa cho mình giải dược cứu trị, nên chàng hừ một tiếng, tay trái che mặt, tay phải bảo vệ ngực, tung mình nhảy vào trong khoang thuyền.
Chân chưa chạm đất, trong bóng tối bỗng thấy kình phong ùa vào mặt, người trong thuyền đã múa chưởng đánh ra. Du Đại Nham tay phải đánh ra, trong cơn thịnh nộ, chưởng này sử đến mười thành công lực. Hai bên song chưởng đụng nhau, nghe bình một tiếng, người trong thuyền bị đánh bật về phía sau, nghe tiếng loảng xoảng, làm đổ vỡ không biết bao nhiêu bàn ghế.
Du Đại Nham cũng thấy lòng bàn tay đau nhói. Nguyên lai khi hai người giao chưởng, trong bàn tay người kia có dấu vật gì nhọn sắc, nên khi đụng nhau, vật đó liền xuyên thủng bàn tay Du Đại Nham. Đối phương tuy bị chàng đánh trúng bị thương không nhẹ, nhưng trong bóng tối không biết phía địch đông người, ít người ra sao, chàng không dám mạo hiểm xông lên bắt người, nên vội lui ra ngoài đầu thuyền.
Chỉ nghe người kia ho húng hắng mấy tiếng, nói:
– Du tam hiệp chưởng lực kinh người, quả nhiên không phải tầm thường, bội phục a bội phục. Thế nhưng Thất Tinh Đinh trong tay tại hạ cũng có chỗ dùng, thành ra chúng mình kẻ nửa cân, người tám lượng, lưỡng bại câu thương.[6]
Du Đại Nham vội vàng lấy mấy viên Thiên Tâm Giải Độc Đơn ra uống ngay, cởi bao ra, lấy thanh đao Đồ Long, hai tay cầm cán, nghe vù một tiếng, chém tạt ngang. Chỉ nghe xoẹt một tiếng nhỏ, thanh đao này quả nhiên sắc bén lạ thường, đã chặt cái cửa sắt ra làm hai. Chàng chém liên tiếp bảy tám nhát, tấm cửa sắt gặp phải bảo đao chẳng khác gì làm bằng giấy, bằng rơm, người trong khoang thuyền phải nhảy lùi lại phía sau, kêu lên:
– Ngươi liên tiếp trúng hai loại độc, còn hung hăng nữa ư?
Du Đại Nham múa đao chém tới, phạt ngang lưng người kia. Người kia thấy thế đến hung mãnh, thuận tay cầm một cái neo sắt lên đỡ, nghe soẹt một tiếng nhỏ, cái neo đã đứt làm đôi khiến y phải nhảy vọt qua một bên, kêu lên:
– Ngươi muốn tính mệnh hay muốn bảo đao?
Du Đại Nham nói:
– Được rồi, ngươi đưa giải dược cho ta, ta đưa bảo đao cho ngươi.
Khi ấy chàng thấy những chỗ trên đùi trúng phải Văn Tu Châm càng lúc càng ngứa, biết rằng Thiên Tâm Giải Độc Đơn không giải nổi chất độc, thanh đao Đồ Long này chàng cũng vô tình mà được, nên cũng không coi trọng lắm, nên tiện thể cầm đao ném xuống sàn thuyền.
Người kia mừng quá, cúi xuống nhặt ngay lên, không ngừng vuốt ve, xem chừng thích lắm. Người kia quay lưng về phía ánh trăng nên không nhìn rõ mặt, tuy nhiên y chỉ nhìn ngắm thanh đao mà không lấy thuốc giải, Du Đại Nham thấy lòng bàn tay đau bắt đầu đau nhói, nói:
– Giải dược đâu?
Người kia cười ha hả, tựa như nghe một chuyện thật nực cười. Du Đại Nham giận dữ:
– Ta hỏi ngươi đưa thuốc giải, có gì đáng cười đâu?
Người kia lấy ngón tay trỏ để lên má, cười:
– Hì hì, sao ngươi lại ngốc đến thế, không đợi ta đưa giải dược mà lại đưa đao cho ta trước?
Du Đại Nham giận nói:
– Nam nhi chỉ nói một lời, ngựa chỉ ra roi một lần, ta bằng lòng đem đao để đổi lấy thuốc giải, không lẽ còn lần khân không đưa. Đưa trước hay đưa sau có gì khác đâu?
Người kia cười nói:
– Nếu như đao còn trong tay ngươi, ta còn e ngại ba phần, vì như ngươi đánh không lại ta, ném đao xuống sông, chưa chắc ta đã tìm lại được. Bây giờ đao đã ở trong tay ta rồi, ngươi còn mong ta đưa giải dược ư?
Du Đại Nham nghe vậy, một làn hơi lạnh từ tim bốc lên, vẫn tưởng Thiên Ưng giáo và phái Võ Đương không thù không oán, người này võ công không phải tầm thường, chắc hẳn cũng có chút thân phận, như đã được đao Đồ Long rồi, lẽ nào nói không giữ lời? Chàng trước nay hành sự ổn trọng, không phải là kẻ khinh suất, không ngờ phen này lại mất đi thế mạnh, một mình rơi vào trong thuyền địch, ắt rằng đối phương phải chuẩn bị sẵn sàng, trong thuyền ắt có người tiếp tay, lại thêm thân trúng hai loại độc, muốn có giải dược gấp, nên rơi vào gian mưu của người, lập tức hít một hơi, hừ một tiếng hỏi:
– Tôn giá cao tính đại danh là gì?
Người kia cười đáp:
– Tại hạ chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt trong Thiên Ưng giáo, phái Võ Đương có đi tìm Thiên Ưng giáo để báo thù, thì đã có giáo chủ bản giáo cùng các đường chủ tiếp đón. Thêm nữa, Du tam hiệp hôm nay chết không minh bạch, dù tổ sư quí phái Trương Tam Phong có tài thông thiên triệt địa chăng nữa, cũng chắc gì biết Du tam hiệp chết ở tay ai.
Y nói mà coi như Du Đại Nham đã chết rồi. Du Đại Nham thấy lòng bàn tay như có muôn vạn con kiến đang cắn nhí nhói, vừa đau vừa ngứa không sao chịu nổi, lập tức chụp lấy một nửa cái neo sắt gãy, nghĩ thầm: ?Nếu hôm nay ta không sống được, thì cũng cùng với ngươi đồng qui ư tận.?
Nghe người kia nói năng thao thao, đang lúc cao hứng đắc ý, Du Đại Nham quát lên một tiếng, nhảy vọt tới, tay trái múa cái neo gãy, tay phải đánh ra một chưởng, nhắm thẳng vào ngực, vào mặt người kia đánh tới. Người kia kêu ?Ối chà? một tiếng, vung đao Đồ Long lên đỡ, nào ngờ đâu thanh đao nặng nề lạ thường, y thuận tay múa lên, chỉ nhấc được một nửa thước, cổ tay liền trùng xuống. Cứ như võ công của y, không phải không thể sử dụng con đao này, chỉ vì lúc vận lực không lường đủ sức nặng của binh khí, lực đạo bất túc, nên thanh đao mới rơi trở lại, chém ngay vào đầu gối y. Y kinh hãi vội vàng vận sức lên cánh tay, vừa cố gượng lại thì đã thấy kình phong ùa vào mặt, nửa cái neo gãy đánh thẳng tới. Cái neo đó uy mãnh lăng lệ, không cách gì đỡ, y vội vàng sử kình đạp mạnh hai chân, lật ngửa một cái, lộn mèo xuống sông.
Người đó tuy tránh thoát được nửa cái neo sắt đánh vào mặt nhưng tay phải của Du Đại Nham vẫn còn đánh tới, chưởng đó trúng ngay bụng dưới của y, chỉ thấy lục phủ ngũ tạng đều đảo lộn, kêu lên một tiếng, bất tỉnh nhân sự trước khi rơi tõm vào trong sóng nước.
Du Đại Nham thở phào một cái, thấy người nọ tuy trúng một chưởng mà vẫn nắm chặt thanh Đồ Long đao không buông, cười nhạt nghĩ thầm: ?Ngươi có chiếm được bảo đao rồi cũng táng mệnh nơi đáy nước.?
Bỗng nhiên có một bóng trắng lấp loáng, một dải lụa trắng lao vụt xuống sông, cuốn lấy ngang lưng người nọ, luôn cả thanh đao, kéo lên thuyền. Du Đại Nham giật mình, theo dải lụa nhìn theo, chỉ thấy tại mũi thuyền có một bóng người gầy nhỏ, mặc áo bào xanh, đang luôn tay cuốn lụa. Du Đại Nham lại muốn nhảy tới đầu thuyền đánh tiếp, nhưng độc tính trong thân đã phát tác, mắt bỗng tối sầm, ngã ra sàn thuyền, ngất đi không còn biết gì nữa.
Không biết qua bao nhiêu thời gian, khi mở mắt ra, vật đầu tiên Du Đại Nham nhìn thấy là một lá tiêu kỳ, trên lá cờ có thêu một con lý ngư màu vàng. Chàng nhắm mắt lại, rồi lại mở ra lần nữa, vẫn chỉ thấy lá cờ nhỏ đó. Lá cờ đó cắm trong một chiếc bình sứ màu cánh trả, có hoa màu xanh, ánh một màu vàng lấp lánh, trên lá cờ thêu một con cá đang vùng vẫy trong làn sóng. Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Đây là lá cờ của Long Môn tiêu cục ở phủ Lâm An. Mình đang ở đâu thế này?? Lúc ấy đầu chàng mơ mơ màng màng, chỉ thấy hỗn loạn, không thể suy nghĩ nhiều. Cố gắng định thần, mới hay mình đang nằm trên một cái cáng, trước sau có người khiêng, còn chỗ đang ở dường như là một tòa đại sảnh. Chàng định quay đầu nhìn hai bên, nào ngờ thấy cổ cứng ngắc, không cách gì cử động.
Chàng kinh hãi quá, muốn nhảy ra khỏi cái cáng nhưng chân tay dường như không còn là của mình nữa, không những không sử lực được, mà ngay cả động đậy cũng không nốt, nên nghĩ ngay: ?Ta bị trúng độc của Thất Tinh Đinh và Văn Tu Châm trên sông Tiền Đường.?
Chàng nghe thấy hai người đang nói chuyện. Một người tiếng oang oang, nói:
– Các hạ họ gì?
Người kia trả lời:
– Ông không cần phải hỏi tên tôi, tôi chỉ hỏi ông, món hàng này ông nhận hay không nhận?
Du Đại Nham nghĩ thầm: ?Giọng người này nghe yểu điệu, dường như đàn bà.?
Người có tiếng nói to hơi sẵng giọng:
– Long Môn tiêu cục chúng tôi làm ăn cũng chẳng ế ẩm gì, các hạ như nếu không cho biết tính danh, xin mời kiếm tiêu cục khác vậy.
Tiếng đàn bà kia đáp:
– Ở phủ Lâm An này chỉ có Long Môn tiêu cục là hơn cả, các tiêu cục khác xem ra không bằng. Nếu như ông không quyết định được thì mau mau đi mời Tổng tiêu đầu ra đây.
Giọng người này có vẻ hơi vô lễ khiến người kia có vẻ không mấy vui, nói:
– Chính tôi là Tổng tiêu đầu. Tại hạ lúc này đang bận, không tiện tiếp khách, xin mời tôn giá để dịp khác.
Người đàn bà kia nói:
– A, hóa ra ông là Đa Tí Hùng Đô Đại Cẩm ?
Ngừng lại một lát, y tiếp:
– Đô tổng tiêu đầu, ngưỡng mộ đã lâu, đã lâu, tôi họ Ân.
Hình như trong lòng Đô Đại Cẩm thấy hơi khoan khoái, mới hỏi:truyện tiên hiệp audio
– Tôn giá có việc gì cần sai khiến?
Người khách họ Ân nói:
– Tôi hỏi ông trước đã, xem ông có nhận được không. Món hàng này rất là quan trọng, không thể sai sót nửa phân.
Đô Đại Cẩm cố dằn cơn giận, nói:
– Long Môn tiêu cục của chúng tôi mở ra đã hai chục năm nay, quan tiêu, diêm tiêu, kim ngân châu báu, lớn mấy chăng nữa cũng đã từng tiếp qua, trước nay chưa hề sai sẩy bao giờ.
Du Đại Nham đã từng nghe danh Đô Đại Cẩm, biết rằng y là tục gia đệ tử của phái Thiếu Lâm, quyền chưởng đơn đao, đều xuất sắc, lại thêm tài ném cương tiêu, có thể một hơi ném liền bảy lần bảy bốn mươi chín mũi, vì thế trên giang hồ đặt cho y một ngoại hiệu là Đa Tí Hùng.[7] Long Môn tiêu cục của y ở Giang Nam cũng khá nổi danh. Tuy nhiên đệ tử hai phái Võ Đương, Thiếu Lâm trước nay ít lai vãng, thân cận nên tuy có nghe tiếng, nhưng hai người không biết nhau.