[Audio] Tuyết Sơn Phi Hồ
Tập 5: Quần Hùng Khám Phá Kho Tàng (Hết)
❮ sau❯Chương 12: Quần Hùng Khám Phá Kho Tàng
Ðám người đó, mỗi người kể một đoạn, sau khi ghép lại thì mối nghi ngờ trong lòng mọi người đã tan đi quá nửa. Chỉ phải nỗi cái đói dày vò, càng uống trà càng cồn cào ruột gan.
Ðào Bách Tuế lớn tiếng nói:
-Bây giờ sự việc đã nói rõ ra rồi, thanh bảo đao này do chính tay Ðiền Quy Nông trao cho con trai tôi, các vị khỏi cần tranh giành nữa chứ?
Lưu Nguyên Hạc cười:
-Ðiền đại ca chỉ trao một cái hộp rỗng cho Ðào thế huynh mà thôi. Nếu huynh muốn lấy cái hộp rỗng đó, tại hạ không có gì để nói. Còn thanh bảo đao thì huynh làm gì có phần?
Ân Cát nói:
-Thanh đao này nên trở về với Nam Tông Thiên Long Môn chúng tôi, điều đó chẳng còn nghi vấn gì nữa.
Nguyễn Sĩ Trung nói:
-Hồi đó Ðiền sư huynh đã làm lễ trao đao đâu? Ðao này vẫn thuộc Bắc Tông Thiên Long Môn?
Tiếng tranh cãi ngày càng một to. Bảo Thụ bỗng cao giọng hỏi:
-Các vị tranh nhau thanh đao này để làm gì?
Mọi người ngớ ra, không biết trả lời ra sao. Bảo Thụ cười nhạt:
-Lúc trước các vị chỉ biết thanh đao này chém sắt như bùn, sắc ngọt không bì,nhưng chưa biết rõ nó còn liên quan đến một kho báu rất lớn. Bây giờ có người nói,nên ai nấy mới vằn mắt lên, mới nảy lòng ham muốn. Có điều lão hoà thượng tôi đây muốn thỉnh giáo: nếu không có bản đồ kho báu thì riêng thanh đao này dùng được vào việc gì?
Mọi người hơi thất vọng, dồn mắt nhìn vào chiếc thoa ngọc trên mái tóc Miêu Nhược Lan mảnh mai yếu ớt, muốn lấy chiếc thoa trên đầu cô dễ như trở bàn tay,song nghĩ cha cô lừng danh thiên hạ, nếu ai đó dám xúc phạm sàm sỡ với cô thì cha cô sẽ truy cứu đến cùng, cho nên ai còn dám động đến? Mắt thấy chiếc thoa rung rung, song chẳng ai lên tiếng trước. Lưu Nguyên Hạc nhìn xéo mọi người một cái, vẻ mặt ngạo nghễ đến trước mặt Miêu Nhược Lan, bất chợt thò tay rút luôn chiếc thoa ngọc trên mái tóc cô.
Miêu Nhược Lan vừa thẹn vừa tức giận, tái mặt đi,lùi về phía sau hai bước. Mọi người thấy Lưu Nguyên Hạc dám cả gan như vậy thì đều thất sắc.
Lưu Nguyên Hạc nói:
-Ta đây phụng chỉ làm nhiệm vụ, sợ quái gì Miêu đại hiệp với Mầm đại hiệp? Vả chăng lúc này Kim Diện Phật sống hay chết, hừm, cũng còn là điều chưa biết kia!
Mọi người ồ lên hỏi:
-Sao thế?
Lưu Nguyên Hạc mỉm cười, đáp:
-Xem ra lúc này Kim Diện Phật vẫn còn ở trên đời, nhưng có đến chín phần mười đang bị cùm chân khoá tay ngồi trong ngục rồi đấy!
Miêu Nhược Lan kinh hãi, quên cả nỗi nhục bị lấy mất thoa ngọc, chỉ nghĩ đến an nguy của cha nên vội hỏi:
-Ông… ông bảo cha tôi làm sao?
Bảo Thụ nói:
-Ông nói cho rõ đi!
Lưu Nguyên Hạc nghĩ đến lúc lên núi bị lão kéo ngược kéo xuôi trên tuyết,không ra thể thống gì, nhưng khi nói đến việc phụng chỉ thi hành thì thần sắc Bảo Thụ thay đổi hẳn, bây giờ nghe lão hỏi vậy bèn hỏi lại:
-Bảo Thụ đại sư này, tại hạ hỏi ông trước đã, chủ nhân nơi này là ai?
Mọi người lên núi đã nửa ngày mà vẫn không biết chủ nhân là ai, nay nghe Lưu Nguyên Hạc hỏi đúng với ý mình, đều cùng nhìn vào Bảo Thụ. Lão cười rồi nói:
-Các vị đã không giấu giếm thì lão tăng cũng không cần giả bộ làm gì. Chủ nhân nơi đây họ Ðỗ tên Hi Mạnh, là nhân vật lừng danh trong giới võ lâm.
Ai nấy đưa mắt nhìn nhau, nhẩm thầm “Ðỗ Hi Mạnh? Ðỗ Hi Mạnh?” song không nhớ ra người này là ai. Bảo Thụ cười nói thêm:
-Vị lão anh hùng họ Ðỗ đánh giá cao về mình lắm, ngày thường không giao du với ai, cho nên võ công tuy cao cường song người thường đâu có biết. Còn những nhân vật đứng đầu chốn giang hồ thì ai nấy đều rất khâm phục vị lão anh hùng này.
Chỉ mấy câu nói qua thế thôi nhưng khiến tất cả đều mếch lòng. Rõ ràng có ý cho mọi người thực chẳng đáng kể gì. Bọn Ân Cát, Nguyễn Sĩ Trung đều giận lắm,nhưng lại nghĩ trên câu đối Miêu Nhân Phượng gọi ông ta là “Hi Mạnh nhân huynh”, còn bản thân họ quả chưa đủ gọi huynh xưng đệ với Kim Diện Phật, cho nên tuy bực với câu nói của Bảo Thụ song không dám bắt bẻ. Lưu Nguyên Hạc lại nói:
-Lúc chúng ta lên núi, viên quản gia nơi này có nói chủ nhân anh ta tới tháp Ninh Cổ để mời Kim Diện Phật, lại cử người đi mời bang chủ họ Phạm của Hưng Hán Cái Bang nữa. Câu này có điều không thật, bởi Phạm bang chủ bị bắt ở phủ Khai Phong tỉnh Hồ Nam rồi. Tại hạ cũng góp chút sức lực trong vụ này.
Ai nấy kinh ngạc hỏi:
-Phạm bang chủ bị bắt rồi sao?
Lưu Nguyên Hạc cười nhạt:
-Vụ này chính Trại tổng quản, Tổng quản ngự tiền thị vệ ra tay. Xem ra Phạm bang chủ tuy cũng được kể là một nhân vật có cỡ song bất tất phải làm phiền đến Trại tổng quản. Chúng tôi tóm Phạm bang chủ coi như làm miếng mồi thơm dùng để nhử con kim ngao lớn hơn, con kim ngao ấy tất nhiên là Kim Diện Phật rồi. Ðỗ trang chủ định mời Miêu Nhân Phượng để đối phó với Tuyết Sơn Phi Hồ nào đó,nhưng làm sao mời nổi? Lúc này Miêu Nhân Phượng hẳn đi Bắc Kinh để nghĩ cách giải cứu Phạm bang chủ. Hừm, Trại tổng quản đã bố trí thiên la địa võng ở Bắc Kinh, chỉ còn đợi Miêu Nhân Phượng đến mà thôi. Nếu Miêu Nhân Phượng không trúng kế này thì chúng tôi cũng không thể làm gì được, còn nếu ông ta tới Kinh cứu bạn thì thế gọi là chim gõ kiến mổ gỗ hoàng liên, tự mình chuốc lấy quả đắng.
Khi chia tay với cha, Miêu Nhược Lan quả có nghe cha nói có việc lên Kinh,dặn cô lên núi tuyết trước, đếm ở tạm nhà họ Ðỗ. Lúc này nghe Lưu Nguyên Hạc nói thế, cô chỉ sợ cha mình lành ít dữ nhiều, bất giác tái mặt đi. Lưu Nguyên Hạc dương dương đắc ý, nói tiếp:
-Chúng ta đã có bản đồ và cả bảo đao nữa, hãy đi đào kho báu của Lý Tự Thành dâng lên thánh thượng. Mọi người ở đây sẽ đạt được công danh, vợ con cũng đều được phong tặng.
Thấy có người mừng ra mặt, có người do dự. Lưu Nguyên Hạc thầm biết những người như Ðào Bách Tuế chẳng hạn, coi thăng quan nặng hơn phát tài, nên nói thêm:
-Hẳn kho báu ấy của cải chất cao như núi, mọi người tiện tay nhặt lấy ít nhiều cũng đủ ăn thừa thãi cả đời, chảng hay lắm sao?
Mọi người khen phải ầm ĩ, không còn nói đi nói lại gì nữa.
Ðiền Thanh Văn từ lúc nãy xấu hổ quá tránh vào phòng, nay nghe ngoài sảnh không ngớt tiếng khen, biết rằng họ không còn bình luận về chuyện xấu xa của mình nữa bèn rón rén đi ra đứng bên ngoài cửa. Lưu Nguyên Hạc nhổ một sơi tóc trên đầu xuống thong thả xỏ qua mỏ con phượng trên chiếc thoa ngọc, rồi theo cách làm của Miêu Nhân Phượng nhìn thấy hôm đó, khẽ kéo sợi tóc. Cái lẫy trên đầu con phượng bật ra, quả nhiên có viên giấy nhỏ rơi ra, mọi người kêu ồ lên. Lưu Nguyên Hạc trải mảnh giấy trên bàn, ai nấy xúm lại xem. Mảnh giấy ấy mỏng như cánh ve, tuy lâu năm nhưng được cất giữ kín trong chiếc thoa nên không hề bị rách mủn. Trên giấy có vẽ một đỉnh núi thẳng đứng cao chót vót, bên cạnh đỉnh núi có viết chín chữ: “Sau ngọn Ngọc Bút, núi Ô Lan, Liêu Ðông”.
Bảo Thụ kêu to:
-A¨i chà, trong thiên hạ sao lại có chuyện khéo đến thế? Nơi chúng ta đang đứng đây chẳng phải là ngọn Ngọc Bút núi Ô Lan hay sao?
Mọi người nhìn hình vẽ trên giấy quả nhiên thấy giống hệt ngọn núi tuyết này;cả ba cây thông già cỗi bên vách núi trông thấy khi leo núi cũng được vẽ rành rành trên đấy, ai nấy đều tấm tắc khen lạ. Bảo Thụ nói:
-Lão anh hùng họ Ðỗ trên trang trại này nghe nhiều biết rộng, hẳn là có nghe tin về kho báu ở nơi này nên mới xây riêng trang trại ở đây, nếu không, nơi đây khí hậu lạnh giá, lên xuống khó khăn, hà tất phải tốn phí nhiều công của đến thế?
Lưu Nguyên Hạc giật mình vội nói:
-Trời ơi, thế thì hỏng rồi! Trang trại này xây dựng đã lâu, ông ta lại chẳng khoắng sạch kho báu từ trước rồi sao?
Bảo Thụ mỉm cười nói:
-Chưa hẳn thế đâu! Lưu đại nhân nghĩ coi, ông ta đã tìm được nơi để kho báu thì nhất định đã sớm dọn đi nơi khác rồi, quyết không khi nào còn ở lại đây.
Lưu Nguyên Hạc vỗ đùi kêu lên:
-Phải lắm, phải lắm! Mau đến sau núi đi!
Bảo Thụ chỉ vào Miêu Nhược Lan:
-Còn tiểu thư đây với người của trang trại thì sao?
Lưu Nguyên Hạc quay người lại, thấy viên quản gia và người giúp việc trên trang trại đã tản đi đâu hết cả. Ðiền Thanh Văn từ cửa sau đi ra nói:
-Không biết làm sao, bon đàn ông đàn bà trên trang trại đều trốn mất tăm cả rồi!
Lưu Nguyên Hạc iật lấy một thanh đao, tới trước mặt Miêu Nhược Lan nói:
-Việc chúng ta nói ra, ngươi đã nghe hết từng câu một. Mầm họa này phải diệt!
Nói rồi giơ đao lên toan bổ xuống đầu Miêu Nhược Lan. Cầm Nhi từ sau lưng ghế nhảy ra, ôm chặt lấy tay của Lưu Nguyên Hạc ra sức cắn cho một miếng. Lưu Nguyên Hạc bất ngờ bị đau điếng ở tay, thanh đao rơi xoảng xuống đất. Cầm Nhi la mắng:
-Ðồ độc ác chết toi này, mi dám động đến một sợi lông chân của tiểu thư thì lão gia ta lên đến núi sẽ rút gân mi, lột da mi! Còn những kẻ khác cũng không khỏi bị liên can đấy!
Lưu Nguyên Hạc giận quá, trở tay định đấm cho Cầm Nhi một cái vào mặt thì Hùng Nguyên Hiến đã giơ tay phải gạt nắm đấm đó, nói:
-Sư huynh, việc cần nhất của chúng ta là tìm kho báu, bất tất làm tổn thương đến tính mệnh người khác.
Phải biết rằng Hùng Nguyên Hiến cả đời làm bảo tiêu xưa nay vốn nhát gan sợ liên lụy, cẩn thận chín chắn, không như sư huynh họ Lưu làm đến thị vệ của hoàng đế, giết vài mạng dân đen chẳng coi ra gì. Hắn nghe Cầm Nhi nói, cũng nghĩ nếu động đến Miêu Nhược Lan, vạn nhất cha cô thoát khỏi cầm tù thì thật là khó tránh khỏi tai vạ.
Ân Cát cũng nghĩ như hắn nên nói:
-Lưu sư huynh, chúng mau đi tìm kho báu thôi!
Lưu Nguyên Hạc trừng mắt, chỉ vào Miêu Nhược Lan nói:
-Còn con bé này thì thế nào?
Bảo Thụ mỉm cười bước tới hai bước, vén tay áo lên, giơ ngón tay điểm vào huyệt “thiên đột” ở cổ, vào huyệt “thần thông” ở lưng Miêu Nhược Lan. Toàn thân cô té nhũn ngồi phịch xuống ghế, tuy vừa thẹn vừa tức nhưng không thốt lên lời.
Cầm Nhi tưởng tiểu thư bị người đánh, liền liều nắm chặt lấy tay tên sư già định cắn một miếng.
Bảo Thụ cứ để cho cô gái nắm chặt tay phải đưa lên miệng, lão chỉ hơi đông đậy là ngón tay điểm luôn vào huyệt “nghênh hương” bên mũi và huyệt “địa thương” bên mép, khiến Cầm Nhi rùng mình một cái là ngã lăn xuống đất.
Ðiền Thanh Văn nói:
-Tiểu muội nhà họ Miêu ngồi đây thì khó coi quá!
Liền nghiêng mình đỡ lấy Miêu Nhược Lan, vừa dìu sang phòng phía Ðông vừa nói:
-Ngươi nhẹ thật, như không có xương vậy!
Phòng phía Ðông vốn là phòng khoản đãi khách khứa của Ðỗ trang chủ, nào giường màn bàn ghế cùng các vật dụng khác đầy đủ, đồ bầy biện cũng rất sang.
Ðiền Thanh Văn khoá cửa lại, giúp Miêu Nhược Lan cởi bỏ áo ngoài, giày tất ra,chỉ để lại quần áo lót, rồi quấn cô vào trong chăn, buông màn xuống. Từ tuổi lên bảy, lên tám, Miêu Nhược Lan đã không khi nào cởi bỏ quần áo trước mặt người lạ, nay người lạ tuy là nữ song cô vẫn thẹn đỏ cả mặt. Ðiền Thanh Văn nhìn thân hình cô, mỉm cười nói:
-Sợ tỉ tỉ nhìn à? Muội này, muội xinh đẹp quá khiến ngu tỉ cũng không cầm lòng cảm động được đấy?
Nói xong, Ðiền Thanh Văn ôm đống quần áo của Miêu Nhược Lan ra ngoài sảnh nói:
-Tôi đã cởi bỏ quần áo cô ta đây rồi, nếu giờ huyệt đạo được giải thì cô ta cũng chẳng dám đi ra ngoài đâu.
Mọi người cười ầm cả lên. Bảo Thụ nói:
-Tất cả lại đây mà xem đi! Từ thanh đao này tìm đến kho báu ra sao đây?
Nói xong, lão lấy ra chiếc hộp sắt, mở hộp sắt cầm lấy thanh đao, thấy ngoài mấy chữ khắc trên bao da ra, chẳng có gì khác lạ cả. Một tay nám bao da, một tay nắm đốc đao, lão rút soạt thanh đao ra, chợt thấy luồng sáng xanh chiếu ra bốn phía, lạnh đến rợn người, bất giác lão rùng mình mấy cái liền. Cả bọn cùng lúc kêu ầm lên.
Bảo Thụ đặt thanh đao xuống bàn, ai nấy vây quanh xem, thấy thân đao một phía nhẵn thín, một phía chạm hoa văn hai rồng tranh nhau một hạt ngọc. Ðôi rồng này một to một nhỏ, hình dáng xấu xí, rồng không ra rồng, rắn không ra rắn mà như hai con sâu róm, nhưng hạt ngọc chúng tranh nhau lại là một viên ngọc, sáng long lanh, đúng là vật quý.
Tào Vân Kỳ cầm đao lên nhìn kỹ hỏi:
-Ðao này có gì lạ đâu?
Bảo Thụ đáp:
-Hai con vật này nhất định có liên quan đến kho báu, chúng ta đi ra sau núi ngắm xem rồi hãy nói. Ðưa đao đây cho ta!
Nói xong lão giơ tay toan đỡ thanh đao. Tào Vân Kỳ lẳng lặng rút đao về che lấy người rồi chạy bổ ra ngoài.
Bảo Thụ quát đuổi theo:
-Ngươi định làm gì đấy!
Ra đến cổng, thấy Tào Vân Kỳ xách đao chạy rảo chân về phía trước, lão giơ tay phải lên, thế là một hạt tràng sắt bay ra, trúng vào xương bả vai bên phải của Tào Vân Kỳ. Cánh tay hắn tê dại đi, nắm không chắc, thanh đao rơi xoảng xuống nền đất băng giá. Bảo Thụ bước nhanh tới, nhặt thanh bảo đao lên. Tào Vân Kỳ không dám tranh nữa, lùi sang một bên, ngây mắt nhìn Bảo Thụ và Lưu Nguyên Hạc,người cầm bảo đao, người cầm bản đồ, sánh vai cùng bước về mé sau núi. Lúc này cả bọn cũng ùa ra khỏi cổng, đi theo. Bảo Thụ vừa cười, vừa nói:
-Lưu đại nhân, lúc nãy bần tăng có lỡ mạo phạm, xin đừng trách!
Lưu Nguyên Hạc thấy lão cười tạ lỗi thì vui vẻ đáp:
-Ðại sư võ nghệ cao cường, tại hạ rất cảm phục, sau này còn có lúc nhờ vả đến ngài!
-Không dám -Bảo Thụ đáp.
Hai người đi được một thôi, thấy đỉnh núi đã hết đường đi, nhìn ra xung quanh toàn một màu tuyết trắng xoá. Tuy biết kho báu chỉ ở dưới ngọn Bút Phong này thôi nhưng đỉnh núi lớn nhường kia, khắp nơi tuyết phủ, không dể lại chút dấu vết nào, thì biết tìm ở đâu? Nếu phải xúc hết băng tuyết đi, thì dù có sức lực hàng trăm người, hàng tháng trời cũng chưa chắc đã dọn hết, huống hồ xúc hôm nay, ngày mai tuyết lại phủ đầy. Nghĩ tới Ðỗ Hi Mạnh đã ở trên đỉnh núi tuyết này mấy chục năm, ắt ngày đêm khổ công suy nghĩ trăm phương ngàn kế để tìm ra kho báu mà đến nay vẫn chưa thành công, đủ biết việc tìm kiếm kho báu quả không dễ dàng gì.
Cả bọn đứng cạnh vách núi nhìn đông ngó tây, đành chịu bó tay. Ðiền Thanh Văn bỗng chỉ một dải núi nhỏ lên xuống uốn lượn dưới đỉnh núi mà kêu lên:
-Các vị trông kìa!
Mọi người nhìn theo hướng tay chỉ vẫn không nhận ra có gì lạ. Ðiền Thanh Văn lại gọi:
-Trông xem kìa, hình dáng dải núi này có giống hoa văn chạm trổ trên thanh đao không nào?
Ðược nhắc nhở, mọi người ngắm kĩ dải núi. Chỉ thấy một dải từ Ðông Bắc chạy sang Tây Nam, một dải khác chạy từ chính Nam lên Bắc, chỗ hai dải gặp nhau có một ngọn núi thấp hình tròn như cái nồi.
Bảo Thụ nâng đao lên xem rồi lại ngắm dải núi, quả nhiên thấy vị trí và thế đi của dải núi giống hệt bức hình lưỡng long tranh ngọc chạm trổ trên thân đao, bất giác reo lên:
-Ðúng rồi, đúng rồi, kho báu nhất định ở đỉnh núi tròn tròn kia!
-Ta mau xuống đó đi -Lưu Nguyên Hạc giục.
Lúc này, cả bọn chỉ chăm chăm tìm kho báu nên có thể gọi là đồng tâm hiệp lực,không ai cón có ý nghi ngờ làm hại người khác. Ai nấy xé vạc áo lấy vải quấn vàobàn tay, nắm lấy dây thừng từ từ tụt xuống núi. Người đầu tiên xuống là Lưu Nguyên Hạc, người cuối cùng là Ân Cát.
Ân Cát toan cắt thừng đi, để tránh mối lo,nhưng thấy mọi người đi đã xa, sợ khi tìm thấy kho báu thì mình mất phần, bèn không dám chậm trễ nữa, giở khinh công đuổi cho kịp.
Từ ngọn Bút Phong nhìn xuống thì đỉnh núi tròn thấp ở ngay trước mặt, nhưng đường bộ để tới nơi thì chẳng gần chút nào, cũng phải tới chừng hai chục dặm. Cả bọn đều giỏi khinh công, chưa tới nửa giờ đã tới được đỉnh núi tròn. Họ quanh đi quẩn lại nơi này để tìm vị trí kho báu. Ðào Tử An bỗng chỉ sang trái kêu lên:
-Kia là ai?
Nghe tiếng kêu gấp gáp, mọi người cùng nhìn theo, chỉ thấy một bóng người áo trắng nhờ đang đi rất nhanh trên tuyết, thân pháp nhanh nhẹn thực khó hình dung.
Chỉ trong chớp mắt, cái bóng trắng đó đã chạy lên phía đỉnh Ngọc Bút.
Bảo Thụ kêu thất thanh:
-Tuyết Sơn Phi Hồ! Con trai của Hồ Nhất Ðao ghê gớm thật!
Trong lúc thốt lên câu này, mặt lão tối sầm, rõ ràng là trong lòng lo lắng lắm.
Lão còn đang trầm tư, chợt nghe Ðiền Thanh Văn kêu ré lên, vội vàng quay đầu lại nhìn: trên đỉnh núi tròn hổng ra một lỗ lớn, chẳng thấy Ðiền Thanh Văn đâu cả.
Ðào Tử An và Tào Vân Kỳ vẫn luôn ở bên Ðiền Thanh Văn, nay thấy cô ta sẩy chân rơi xuống hố. đều không hẹn mà cùng gọi to:
-Thanh muội!
Cả hai toan nhảy xuống cứu nhưng Ðào Bách Tuế đã kịp giữ con trai mình lại,quát lên:
-Làm gì thế?
Ðào Tử An không đáp và ra sức vùng ra rồi cùng Tào Vân Kỳ nhảy xuống. Nào ngờ cái hố này rất nông, hai người nhảy xuống đều đè lên Ðiền Thanh Văn. Cả ba kêu oai oái khiến người đứng trên đều bật cười, giơ tay kéo cả ba lên. Bảo Thụ nói:
-Có thể kho báu ở ngay dưới hố cũng chưa biết chừng. Ðiền cô nương thấy gì ở dưới đó?
Ðiền Thanh Văn xoa những chỗ đau do va phải đá ở trên người, lên tiếng ca cẩm:
-Tối thui, có nhìn thấy gì đâu!
Bảo Thụ nhảy xuống, giơ đuốc lên soi, thấy cái hố đó bề ngang chưa quá một trượng, trong hố toàn là nham thạch và băng đá rất cứng, ngoài ra không còn gì khác, lão đành tung thân nhảy lên.
Bỗng Chu Vân Dương và Trịnh Tam Nương hoảng hốt kêu ré lên rồi kẻ trước người sau sa xuống hai cái hố, một đằng đông, một đằng nam ở trong tuyết.
Nguyễn Sĩ Trung và Hùng Nguyên Hiến phải chia nhau kéo họ lên. Xem ra trên đỉnh núi tròn này xung quanh đều là hố, ai nấy đều sợ sẩy chân rơi xuống những cái hố sâu hơn và nguy hiểm hơn nên chẳng ai dám đi bừa mà chỉ đứng nguyên tại chỗ.
Bảo Thụ than thở:
Ðỗ trang chủ ở trên ngọn núi Bút Phong này đến mấy chục năm cũng không biết kho báu ở đâu. Ông ta không có bảo đao và bản đồ, không biết đầu mối ở đâu mà tìm nên chẳng kể làm gì. Còn chúng ta biết rõ là ở trên ngọn đồi tròn này, vậy mà vẫn không biết bắt tay từ chỗ nào, thật đúng là vô dụng.
Ðứng mãi cũng mỏi, mọi người đành ngồi xuống, bụng càng đói cồn cào, mệt mỏi và chán nản ra mặt. Vết thương của Trịnh Tam Nương lại đau, bà ta phải nghiến răng lấy tay ấn chặt xuống. Trong lúc quay đầu, bà ta thấy viên ngọc trên thanh đao trong tay Bảo Thụ loé sáng dưới ánh tuyết, trông càng lóng lánh tuyệt mĩ.
Trịnh Tam Nương nhiều năm cùng chồng làm nghề bảo tiêu, tận mắt trông thấy không ít của quý hiếm, lúc này thấy viên ngọc kia phát sáng khác thường, nảy ý muốn xem, bèn nói:
-Ðại sư, xin ngài cho tôi mượn xem thanh bảo đao một lát.
Bảo Thụ nghĩ thầm: “Mụ ta là đàn bà, chân lại bị thương, có ngại gì!”. Nghĩ thế,bèn đưa bảo đao cho Trịnh Tam Nương cầm đao xem kĩ, quả nhiên thấy viên ngọc ấy được gắn mặt trái vào đao. Ðá quý vốn phân biệt giữa mặt phải và mặt trái, mặt âm và mặt dương. Một số nghệ nhân giỏi có thể chuốt mài cả hai mặt như nhau,nhưng con mắt người sảnh sỏi vẫn phân biệt được ngay. Trịnh Tam Nương bèn nói:
-Ðai sư, viên ngọc này mặt trái lộn ra ngoài, có thể bên dưới có gì lạ chăng?
Bảo Thụ đang lúc lúng túng vô kể, nghe Trịnh Tam Nương nói vậy bèn nghĩ:
“Bất kể mụ ta nói đúng hay sai, cứ cậy ra xem sao đã!”, bèn cầm lấy đao, rút dao găm rồi dùng mũi dao khêu nhẹ viên ngọc một cái, viên ngọc rơi bật xuống đất.
Bảo Thụ nhặt viên ngọc lên, xem kỹ cả hai mặt chẳng thấy có gì lạ. Nhìn đến chỗ lõm lắp viên ngọc trên thân đao, lão bỗng kêu lạc cả giọng:
-Ðây rồi!
Thì ra trong vết lõm đó có khắc một mũi tên, đầu mũi tên chỉ theo hướng Ðông Bắc nhưng lệnh về phía Bắc, tận đầu mút có một vòng tròn nhỏ xíu. Bảo Thụ mừng khôn xiết, đoán giữa vết lõm là đỉnh núi tròn. Lão ước lượng cự li khoảng cách,nhằm đúng hướng từng bước một tiến tới; khi sắp bước tới nơi dự tính, quả nhiên đất dưới chân tơi xốp, người lún xuống ngay. Lão đã phòng bị sẵn, hai chân vừa tới chỗ đất chắc là huơ đuốc gạt băng, lộ ra một đường hầm dài ngay trước mặt, bèn đi ngay vào. Bọn Lưu Nguyên Hạc cũng nhảy xuống theo sau.
Ðuốc cháy được một lúc thì tắt, còn hang núi thì quanh co, vòng vèo, ngoặc liền mấy chỗ mà vẫn chưa tới nơi.
Tào Vân Kỳ nói:
-Tôi đi kiếm ít cành cây khô.
Nói rồi chạy trở ra ngoài, ôm vào một mớ cành khô, châm lửa thành bó đuốc khác. Tuy nóng này, nhưng hắn cũng có mặt tốt là làm việc mạnh bạo dứt khoát.
Tay cầm đuốc, Tào Vân Kì dẫn đầu đi trước.
Trong hang, khắp nơi toàn là băng đóng dày chắc từ rất lâu, một số nơi có những lưỡi băng chìa ra nhọn hoắt như lưỡi kiếm. Ðào Bách Tuế vác một hòn đá to, đập vỡ hết những lưỡi băng cản đường. Khi lên núi, ai nấy đều coi chừng nhau, nhưng lúc này đều mong tìm thấy kho báu nên dìu đỡ nhau đi cùng hội cùng thuyền.
Ngoặt qua mấy khúc quanh nữa, Ðiền Thanh Văn bỗng: “ối trời” một tiếng, chỉ tay vào một vật vàng choé ngay dưới đất trước mặt Tào Vân Kỳ.
Tào Vân Kỳ cúi nhặt lên, thì ra là một cây bút đúc bằng vàng, cán bút khắc chữ “An”, giống hệt cây bút trong tay Ðiền Thanh Văn trước khi lên núi. Tào Vân Kỳ nghi hoặc, ngoảnh đầu lại nghiêm giọng bảo Ðào Tử An:
-Hừm, thì ra là ngươi đã đến đây!
Ðào Tử An nói:
-Ai bảo ta từng đến đây? Ngươi xem, lối vào có vết chân người đâu nào?
Tào Vân Kỳ nghĩ thầm: “Trong hang này quả không thấy dấu chân người, nhưng sao cây bút bằng vàng của hắn lại rơi ở đây được?”. Hắn đã nghĩ việc gì là không sao để bụng được, bèn lập tức xoè tay ra cho thấy cây bút vàng, miệng nói:
-Ðây chẳng phải vật của ngươi là gì? Rành rành khắc tên ngươi đây này!
Ðào Tử An liếc nhìn vội lắc đầu:
-Ta chưa thấy vật này bao giờ!
Tào Vân Kỳ nổi giận, ném ngay bút xuống đất, rồi túm áo Ðào Tử An nhổ luôn một bãi nước bọt, quát to:
-Còn định chối hả? Rõ ràng ta thấy Thanh muội cầm cây bút ngươi tặng mà?
Hang núi này không tiện xoay trở người, Ðào Tử An sao tránh kịp? Bãi nước bọt ấy trúng ngay cạnh mũi anh ta. Ðào Tử An giận quá, phi chân phải ra đá trúng bụng dưới Tào Vân Kỳ, đồng thời hai tay ra chiêu “Yến quy sào” đánh trúng ngực đối phương.
Tào Vân Kỳ rùng người, vứt luôn bó đuốc, tay phải đánh trả một quyền, “bịch” một phát vào giữa mặt Ðào Tử An. Ðuốc tắt, trong hang tối om, chỉ nghe tiếng hai người giận giữ chửi rủa nhau xen lẫn những tiếng “bịch”, “bịch”. Cả
hai tay đấm chân đạp, chiêu nào cũng trúng đối phương, sau đó vồ lấy nhau lăn lộn dưới đất.
Mọi người vừa bực lại vừa buồn cười, đều lên tiếng can ngăn. Hai người nào có chịu nghe.
Ðiền Thanh Văn bỗng cao giọng nói:
-Người nào không chịu dừng tay, từ nay tôi không thèm nói chuyện với nữa!
Tào Vân Kỳ, Ðào Tử An đều khựng lại, bất giác buông nhau ra đứng bên. Trong bóng tối chỉ nghe Hùng Nguyên Hiến nhỏ nhẹ nói:
-Tôi là Hùng Nguyên Hiến tìm đuốc thắp lên đây. Hai vị chớ có ghen xằng mà đấm đạp vào người tại hạ nhé.
Hắn đưa tay khua dưới đất tìm được đuốc, đốt lên soi rõ Tào, Ðào hai người mắt tím mũi sưng, bàn tay nắm chặt, thở hồng hộc, giận dữ nhìn nhau.
Ðiền Thanh Văn lấy từ trong áo ra cây bút vàng, nhặt cây bút vàng dưới đất cầm lên, nói với Tào Vân Kỳ:
-Hai cây bút này quả thật là một đôi, nhưng ai bảo với huynh rằng Ðào huynh cho muội?
Tào Vân Kỳ ngớ ra, lắp bắp đáp:
-Không phải hắn cho muội, vậy sao muội lại có? Tại sao trên bút có tên hắn?
Ðào Bách Tuế cầm bút lên xem, hỏi Tào Vân Kỳ:
-Sư phụ ngươi là Ðiền Quy Nông, còn sư tổ ngươi là ai?
Tào Vân Kỳ ngẩn ra đáp:
-Sư tổ ư? Sư tổ là cha sư phụ tôi, sư tổ tên húy là An Báo.
Ðào Bách Tuế cười nhạt:
-Ðúng rồi! Ðiền An Báo. Ông ta dùng thứ ám khí gì?
-Tôi… tôi chưa từng được gặp sư tổ -Tào Vân Kỳ đáp.
Ðào Bách Tuế nói:
-Ngươi chưa gặp nhưng võ nghệ của Nguyễn sư thúc ngươi là do Ðiền An Báo đích thân truyền thụ, ngươi cứ hỏi ông ta.
Tào Vân Kỳ chưa kịp đáp thì Nguyễn Sĩ Trung đã nói:
-Vân Kỳ đừng gây lộn xộn nữa! Cây bút bằng vàng này là ám khí của sư tổ ngươi sử dụng đó.
Tào Vân Kì cứng họng, không nói được nhưng trong lòng vẫn không nguôi nghi ngờ. Bảo Thụ nói:
-Hai người muốn đọ tài cao thấp thì xin mời ra ngoài kia mà sống mái với nhau,còn chúng ta đi tìm kho báu đã.
Hùng Nguyên Hiến giơ cao đuốc đi trước dẫn đường, ngoặc qua một khúc quanh nữa.
Ðường vào hang ngày càng hẹp, ai nấy đều phải khom lưng mà đi, có lúc đầu va vào những nhũ băng rắn chắc đau điếng, nhưng nghĩ đến sắp được có được kho báu nên không còn thấy khổ sở nữa.
Ði hết khoảng uống cạn chung trà, trước mắt đã hết lối, chỉ thấy một tảng đá to hình tròn chồng lên một tàng đá hình tròn khác. Hai tàng đá này chắn hết lối đi,giữa hai tảng đá đều là băng đông cứng.
Hùng Nguyên Hiến giơ tay đẩy, tàng đá không hề nhúc nhích, liền quay lại hỏi Bảo Thụ:
-Làm sao đây?
Bảo Thụ lắc đầu không đáp. Trong đám cao thủ này, Ân Cát là người nhiều mưu trí nhất.
Ân Cát trầm ngâm giây lát rồi nói:
-Hai tảng đá tròn chồng lên nhau ắt phải đẩy được, chỉ do băng đông cứng lại mà thôi.
-Ðúng vậy, chỉ cần làm tan băng ra là được -Bảo Thụ vui mừng nó.
Hùng Nguyên Hiến bèn giơ đuốc đến gần một tảng đá, hơ cho băng đóng giữa hai tảng đá này chảy ra. Bọn Tào Vân Kì, Chu Vân Dương đi trở ra ngoài nhặt thêm cành khô chụm vào. Ngọn lửa cháy càng to, băng tan thành nước, chỉ nghe thấy những tiếng rạn lách tách rồi từng đám băng vụn rơi xuống nền đất.
Chừng thấy băng đóng quanh hai tảng đá tròn đã tan được quá nửa, Bảo Thụ nôn nóng vận lực lên hai tay đẩy đá nhưng đá vẫn đứng trơ trơ. Lại hơ một chập nữa,băng tan ra nhiều hơn, Bảo Thụ lại đẩy. Lần này tảng đá nhúc nhích mầy cái rồi từ từ chuyển dịch đẻ lộ một kẽ hở, chẳng khác gì cánh cửa đó do trời đất tạo nên vậy.
Cả bọn mừng quá, reo hò ầm lên. Nguyễn Sĩ Trung hợp sức cùng Bảo Thụ đẩy tiếp cho khe hở rộng thêm ra. Bảo Thụ nhặt một cành củi cháy đi vào trước, ai nấy cũng cầm đuốc ào ào vào theo. Vừa qua cửa đá, một luồng ánh sáng chiếu ra chói mắt khiến ai nấy đều im hơi nín thở, miệng há hốc ra.
Thì ra trước mặt là một cái hang cực lớn, xung quanh xếp kín nhưng khối vàng bạc, đá quý không biết bao nhiêu mà kể, nhưng số vàng bạc đá quý này đều ẩn sau những tảng băng trong suốt. Xem ra năm ấy, sau khi thuộc hạ của Sấm Vương cất giấu châu báu vàng bạc xing, đã tưới nước vào. Nơi đây quanh năm lạnh giá, băng tuyết không tan, thành thử châu báu vàng bạc như được giấu sau một lớp thủy tinh vậy. Tiếng reo vui ồn ào hẳn lên. Bảo Thụ, Ðào Bách Tuế cùng nhiều người khác đều nhào tới, chẳng còn biết nói gì lúc này. Chợt Ðiền Thanh Văn hoảng hốt kêu
lên:
-Có người!
Cô chỉ tay vào vách hang. Dưới ánh lửa soi, quả nhiên là có hai bóng đen đứng sát bên vách. Mọi người kinh sợ quá chừng, không ngờ có người ở trong hang. Lẽ nào còn có lối khác vào hang? Ai nấy cầm chắc vũ khí trong tay và bất giác đứng tụm lại với nhau. Một lúc lâu sau, hai bóng đen kia vẫn không hề động đậy, Bảo Thụ bèn quát to:
-Ai?
Nhưng hai bóng đen kia không đáp. Thấy hai người không có động tĩnh gì, mọi người càng nghi hoặc hơn. Bảo Thụ nói to:
-Không biết hai vị tiền bối cao nhân nào, xin mời ra đây tương kiến!
Tiếng lão đập vào bốn vách hang dội lại, vang đến nỗi ù cả tai rất khó chịu,nhưng hai người kia vẫn không đáp, cũng chẳng bước ra.
Bảo Thụ giơ cao đuốc lên, tiến lại gần mấy bước, nhìn rõ hai bóng đen kia ở ngoài một lớp băng. Lớp băng này thẳng đứng như một bức tường thuỷ tinh, ngăn thành hai gian trong và gian ngoài. Bảo Thụ lấy hết cam đảm tiến sát đến bức tường băng, thấy hai người kia dáng vẻ kì cục mà không hề động cựa, rõ ràng là bị điểm trúng huyệt đạo. Lúc này, lão không sợ nữa, gọi to:
-Tất cả đến đây!
Lão sải chân bước quanh bức tường, tay phải giơ đao, tay trái cầm đuốc soi vào mặt hai người, bất giác hít một hơi thật sâu. Thì ra hai người này đã chết từ lâu,mặt mũi gớm ghiếc, các thớ thịt trên mặt nhăn nhúm lại. trông thật dễ sợ.
Trịnh Tam Nương và Ðiền Thanh Văn thấy xác chết thì đều sợ hãi rú lên.
Những người khác tới gần xem, thấy hai người tay phải đều cầm dao găm đâm vào người đối phương, một mũi trúng vào bụng dưới, một mũi trúng ngực, đều là đâm chết lẫn nhau.
Nguyễn Sĩ Trung nhìn rõ mặt một xác chết, bèn phủ phục xuống đất khóc rống:
-Ân sư ơi, thì ra sư phụ ở chốn này!
Mọi người thấy hắn gọi thế đều kinh ngạc xúm lại hỏi:
-Thế nào, hai người này là ai?
-Sư phụ của ngươi sao?
-Làm sao lại chết ở đây chứ?
Nguyễn Sĩ Trung gạt nước mắt, chỉ vào cái xác hơi thấp hơn nói:
-Vị này là Ðiền ân sư của tôi. Chiếc bút bằng vàng vừa nãy Vân Kỳ nhặt được là của sư phụ tôi.
Mọi người nhìn mặt Ðiền An Báo chỉ chừng dưới bốn mươi tuổi, còn trẻ hơn cả Nguyễn Sĩ Trung, song nghĩ lại thì hiểu ra ngay. Hai người này thật ra đã chết mấy chục năm, chỉ vì trong hang giá rét nên xác vẫn còn nguyên vẹn như vừa mới chết mấy ngày vậy.
Tào Vân Kỳ chỉ vào cái xác thứ hai, hỏi:
-Sư thúc, còn người này là ai? Làm sao hắn lại dám giết sư tổ của chúng ta?
Nói xong, hắn đá một phát vào cái xác kia. Mọi người thấy xác này cao gầy,chân tay rất dài thì cũng đoán ra được tám chín phần. Nguyễn Sĩ Trung nói:
-Ông này là cha Kim Diện Phật, hồi nhỏ tôi vẫn gọi là Miêu gia. Ông rất thân với ân sư tôi. Có một năm hai người rủ nhau ra ngoài quan ải, lúc ấy chúng tôi không biết là có việc gì, chỉ thấy hai người vui vẻ lắm, song từ đấy không thấy họ trở về nữa. Sau này các huynh đệ trong giới võ lâm truyền nhau là họ bị Hồ Nhất Ðao ở Liêu Ðông làm hại, cho nên Kim Diện Phật và Ðiền sư huynh mới nhất quyết báo thù Hồ Nhất Ðao. Nào ngờ cái người họ Miêu… nảy lòng tham, thấy châu báu trong động liền hạ độc thủ đối với ân sư tôi.
Nói xong, Nguyễn Sĩ Trung đá một phát vào đùi cái xác ấy. Người họ Miêu và họ Ðiền sau khi chết, toàn thân đông cứng nên dù Nguyễn Sĩ Trung có đá, cái xác vẫn đứng thẳng không đổ, còn ngón chân hắn đá lại đau ê ẩm. Cả bọn đều nghĩ “Biết đâu sư phụ ngươi nẩy lòng tham, hạ độc thủ trước cũng nên”. Nguyễn Sĩ Trung giơ tay đẩy xác người họ Miêu, toan tách người đó ra khỏi sư phụ mình nhưng hai người bị dính với nhau đã mấy chục năm, tay liền với đao, đao liền với người, băng đóng cứng lại, sao có thể đẩy rời họ ra? Ðào Bách Tuế thở dài:
-Năm xưa, Hồ Nhất Ðao có nhờ người báo cho Ðiền Quy Nông và Miêu đại hiệp hay rằng ông ta biết ông cha của hai dòng họ bị chết vì nguyên nhân gì. Có điều hai người này chết không được đẹp mặt cho lắm nên ông ta không tiện nói ra, chỉ muốn đưa họ đến tận nơi xem mà thôi. Bây giờ chúng ta đã tận mắt thấy cả rồi, lời Hồ Nhất Ðao không sai. Như vậy Hồ Nhất Ðao ắt đã tới hang này, song thấy kho báu mà bỏ qua, thực không biết vì sao?
Ðiền Thanh Văn bỗng nói:
-Hôm nay tôi gặp một chuyện rất lạ…
-Chuyện gì thế?-Nguyễn Sĩ Trung hỏi.
Ðiền Thanh Văn đáp:
-Sáng hôm nay chúng ta đuổi theo… -cô vừa nói vừa nhếch môi về phía Ðào Tử An, mặt hơi đỏ lên -Sư thúc, sư huynh phi ngựa trước, tiểu diệt tụt lại phía sau…
Tào Vân Kỳ không nén được, gằn giọng:
-Muội cưỡi con ngựa tốt nhất, làm sao tụt lại đằng sau được? Muội. . muội không muốn ra tay với tên họ Ðào chứ gì?
Ðiền Thanh Văn không thèm nhìn hắn, chỉ khẽ nói:
-Huynh hại cả một đời muội, lại còn muốn dằn vặt đến thế nào nữa thì cũng tùy.
Nhưng Ðào Tử An là chồng chưa cưới của muội, muội có lỗi với Ðào huynh. Tuy Ðào huynh không cần muội nữa, nhưng ngoài anh ấy ra, trong lòng muội cũng không thể có ai khác.
Ðào Tử An lớn tiếng nói:
-Không, huynh cần muội chứ! Thanh muội, huynh cần muội mà!
Ðào Bách Tuế và Tào Vân Kỳ cùng quát ầm lên. Một người quát:
-Mày muốn lấy con đê tiện đó à? Tao không cần thứ con dâu đó đâu!
Một người quát:
-Ngươi có giỏi thì hạ thủ ta trước đi!
Hai người cùng quát một lúc, tiếng vọng lại trong hang rất lớn, quyện vào nhau khiến chẳng ai nghe họ nói gì.
Ðiền Thanh Văn cúi nhìn xuống đất, chờ họ quát xong mới khẽ nói:
-Tuy chàng cần muội, nhưng muội còn mặt mũi nào mà về với chàng. Ra khỏi hang rồi, chàng đừng bao giờ tìm gặp muội nữa.
Ðào Tử An cuống lên nói:
-Không, không, Thanh muội, lỗi là do hắn. Hắn ức hiếp muội, dày vò muội, ta phải liều với hắn.
Nói xong xách đao sấn tới Tào Vân Kỳ. Lưu Nguyên Hạc ngăn lại, nói:
-Hai người ghen tuông thì ra ngoài kia mà đánh nhau.
Dứt lời, Lưu Nguyên Hạc vung bàn tay trái nhứ một cái, tay phải vươn ra nắm chặt lấy cổ tay Ðào Tử An vặn khẽ một cái, đoạt luôn được thanh đao trong tay ném xuống đất.
Còn phía bên kia, Tào Vân Kì nhảy đựng lên cũng bị Ân Cát cản lại. Ai nấy đều thấy Ðiền Thanh Văn lùi mà lại hoá tiến, làm cho hai chàng họ Tào và họ Ðào trở nên ngoan ngoãn dễ bảo thì đều cười thầm trong dạ. Bảo Thụ nói:
-Ðiền cô nương thương ai thì lấy người đó, chứ không thể nào lấy hoà thượng ta đây. Cho nên bần tăng muốn hỏi cô nương sáng nay gặp chuyện gì mà bảo là quái lạ?
Mọi người cười ha hả. Ðiền Thanh Văn cũng bật cười, đáp:
-Con ngựa tôi cưỡi đi rất chậm, không đuổi kịp sư thúc. Tôi đang đi chợt nghe có tiếng vó ngựa, một con ngựa từ phía sau vọt lên. Người cưỡi ngựa cầm trong tay một bầu rượu lớn, ngửa cổ lên tu. Tôi thấy y râu ria đầy mặt, say ngất ngưởng trên mình ngựa mà còn tu rượu ừng ực nữa, bất giác cười thành tiếng. Y quay đầu lại hỏi: “Cô nương là con gái Ðiền Quy Nông, phải không?”. Tôi đáp: “Phải, tôn giá là ai?”. Y nói: “Cho cô cái này!”. Ngón tay vừa búng một cái thì cây bút vàng này bay sạt qua làm rơi một bên hoa tai của tôi. Tôi giật mình, còn y thúc ngựa bỏ đi. Tôi
phân vẫn mãi, không biết tại sao y lại búng cho tôi cây bút vàng này.
-Cô nương có nhận ra ai không? -Bảo Thụ hỏi.
Ðiền Thanh Văn gật đầu, khẽ đáp:
-Chính là Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ. Khi y chuyển cây bút cho tôi, tôi không hề biết y là ai. Sau này, khi y lên núi nói chuyện với Miêu cô nương, tôi nhận ra giọng nói của y, rồi lại nhìn qua khe vách, thì đúng là y thật.
Tào Vân Kỳ lại nổi cơn ghen, hỏi:
-Cây bút vàng này đã là của sư tổ, vậy Hồ Phỉ làm sao mà có được? Hắn ta cho muội để làm gì?
Ðiền Thanh Văn đang ôn tồn nói chuyện với mọi người, nghe Tào Vân Kỳ hỏi thế, lập tức thấy bực mình, không thèm bắt lời hắn. Lưu Nguyên Hạc nói:
-Hồ Nhất Ðao từng đến nơi này, hẳn là nhặt được ở dưới đất hoặc lấy được trên người Ðiền An Báo. Nhưng khi Hồ Nhất Ðao chết, Hồ Phỉ ra đời mới được mấy ngày, làm sao có thể chuyển cây bút lại được?
Hùng Nguyên Hiến nói:
-Có thể Hồ Nhất Ðao để cây bút này lại ở nhà, sau này khi lớn lên, Hồ Phỉ trở lại nhà cũ và hẳn là tìm thấy trong số di vật của cha mình.
Nguyễn Sĩ Trung gật đầu nói:
-Rất có thể như thế. Cây bút này rỗng ruột, đầu bút có thể vặn ra. Thanh Văn,cháu xem bên trong bút có gì không?
Ðiền Thanh Văn trước hết tháo đầu chiếc bút nhặt được ở trong hang ra, trong ruột bút không có gì, lại tháo đầu cây bút của Hồ Phỉ ném cho, thấy trong ruột bút có cuộn giấy bé xíu. Ai nấy xúm lại, nghĩ thầm nếu không có Nguyễn Sĩ Trung ở đây thì chưa dễ đã nghĩ được thứ ám khí này được tạo tinh xảo đến thế, có thể giấu vật ở trong quản bút.
Ðiền Thanh Văn mở mẩu giấy ra, trên giấy có viết mười sáu chữ như sau:
Thiên Long chư vị
Ðến được Liêu Ðông
Cưỡi ngựa khi đến
Cưỡi gió về không!
Góc dưới tờ giấy vẽ hình con chồn có cánh mọc ở trên lưng, những chữ này chính là bút tích của Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ.
-Hừm, chắc gì đã đến nỗi như thế -Nguyễn Sĩ Trung sa sầm nét mặt nói.
Tuy miệng nói vậy nhưng nghĩ đến bản lính của Hồ Phỉ, lại nghĩ đến việc y biết rõ mọi hành tung của người thuộc Thiên Long Môn thì Nguyễn Sĩ Trung cũng không khỏi lo lắng. Tào Vân Kỳ nói:
-Sư thúc, “cưỡi gió về không” là thế nào?
Nguyễn Sĩ Trung đáp:
-Hừ, hắn bảo chúng ta sẽ chết ở Liêu Ðông, biến thành ma đất khách, hồn phách phiêu diêu như cưỡi gió trở về.
-Tổ cha thằng đó -Tào Vân Kỳ buộc miệng chửi.
Bọn người trong Thiên Long Môn ai nấy trầm ngâm suy nghĩ về những chữ viết trên mảnh giấy đó. Còn bọn Bảo Thụ, Ðào Bách Tuế, Lưu Nguyên Hạc thì chuyển ánh mắt tới số vàng bạc châu báu ở xung quanh. Bảo Thụ lấy một thanh đao chém vào băng; chém mấy nhát đã phá được một tảng băng, lấy ra được vàng ngọc cầm trên tay, lão cười ha hả. Dưới ánh đuốc, vàng ngọc trên tay lão toả ánh sáng rực rỡ kì ảo. Mọi người thấy vậy đều hăng hái hẳn lên, đều cầm đao chém vào băng lấy của báu. Song chém một hồi thì đao kiếm đều quằn lưỡi, không còn sắc bén nữa.
Thì ra đao kiếm của mọi người đã bị hai chú tiểu đồng chém gẫy từ lúc ở trên đỉnh núi, mang vào hang đều là đao kiếm tiện tay lấy ở Ðỗ gia trang chứ không phải vũ khí được chọn lựa kĩ lưỡng. Số châu báu lấy được, ai nấy nhét luôn vào túi áo, càng lấy được càng say sưa, nhưng đao kiếm ngày một cùn nên sức chém ngày một chậm.
Ðiền Thanh Văn nói:
-Chúng ta đi nhặt thêm ít củi đốt cho chảy băng ra mà lấy.
Mọi người khen hay. Việc này đáng lẽ phải nghĩ ra từ trước nhưng thấy vàng bạc châu báu đã đến tay, ai cũng nôn nóng vung đao kiếm lên chặt băng. Bây giờ tuy mọi người tán thành ý kiến hay của Ðiền Thanh Văn song không ai chịu ngừng tay để đi kiếm củi cả. Thì ra ai cũng sợ mình bỏ ra ngoài thì người khác sẽ lấy được nhiều hơn.
Bảo Thụ liếc xéo mọi người một cái rồi phân công:
-Chu thế huynh của Thiên Long Môn, Ðào thế huynh của Ẩm Mã Xuyên, Hùng tiêu đầu của tiêu cục, xin ba vị đi kiếm củi cho. Còn những ai ở lại trong hang đều phải dừng tay nghỉ, không ai được tự ý lấy vàng.
Ba người Chu, Ðào và Hùng bán tín bán nghi nhưng lại sợ Bảo Thụ cưỡng ép,đành ra ngoài hang đi kiếm củi.
Chương 13: Hồ Phỉ Si Tình Miêu Cô Nương
Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ đã hẹn cùng trang chủ Ðỗ Hi Mạnh trên đỉnh Ngọc Bút núi Ô Lan là đến ngày rằm tháng ba sẽ lên núi tính sổ một món nợ cũ, nhưng lần đầu lên núi, Ðỗ trang chủ lại đi vắng chưa về, chỉ ứng đáp với Miêu Nhược Lan một lúc mà thôi. Xuống đến núi, lòng chàng ngơ ngẩn, nhìn đâu cũng như thấy hình dáng xinh đẹp của cô, nghe gì cũng như vang vọng tiếng cô đàn hát. Chàng cùng Bình A Tứ và hai tiểu đồng hầu thân cận ăn lương khô thật no bụng trong hang. Thấy Bình A Tứ tuy bị thương khá nặng song tính mạng không hề gì, chàng yên lòng nằm dài dưới đất nhắm mắt dưỡng thần. Song chàng vừa nhắm mắt thì khuôn mặt xinh đẹp dịu dàng của Miêu Nhược Lan lại hiện ra trong đầu.
Hồ Phỉ mở to mắt nhìn vào vách đá đen sì trong hang, Tiếng hát của Miêu Nhược Lan lại như thoang thoảng từ vách đá vọng ra. Chàng thở dài nghĩ bụng “Mình cứ nghĩ mãi tới nàng làm gì nhỉ? Cha nàng là kẻ thù giết cha mình, nghe nói cha nàng lúc ấy không cố ý nhưng cha mình vì vậy mà chết. Mình cả đời lẻ loi cô quạnh, không cha không mẹ, đều là do cha nàng gây nên, vậy sao mình còn nghĩ tới nàng?”. Nghĩ đến đây, chàng căm giận không nguôi, song bất giác lại nghĩ: “Lúc ấy nàng chưa ra đời, oán thù của đời trước có liên quan gì với nàng? Ôi, nàng là một trang thiên kim tiểu thư, mình là thằng con trai lưu lạc giang hồ, có gì lại tự chuốc lấy ưu phiền cho khổ?”.
Hồ Phỉ tuy nghĩ thế nhưng dễ gì đã giũ bỏ được ưu phiền? Nếu tơ lòng vừa gạt một cái đã đứt thì sao gọi là tơ lòng được?
Hồ Phỉ nằm trong hang chừng một giờ, mọi nhớ nhưng suy nghĩ đều dồn cho một mình Miêu Nhược Lan. Bất chợt chàng cũng nghĩ: “Hay là bọn họ đối đầu sợ không địch nổi ta nên sắp đặt mĩ nhân kế?”. Nhưng vội cảm thấy ngay ý nghĩ này đã làm vẩn đục nàng, chàng thốt lên trong lòng: “Không, không, một người chẳng khác gì tiên trên trời như nàng sao có thể làm chuyện bỉ ổi đó được? Sao ta có thể xúc phạm nàng bằng lòng dạ kẻ tiểu nhân?”. Thấy trời đã tối dần, không sao dằn lòng được nữa, chàng bảo Bình A Tứ:
-Tứ thúc à, tiểu điệt lên núi lần nữa đây! Thúc thúc cứ nằm nghỉ nhé!
Vận khinh công, trong chớp mắt chàng đã tới chân núi, bám dây leo lên. Nhìn thấy cổng trang trại họ Ðỗ, tim chàng đã đập thình thịch. Chàng đến đại sảnh chẳng thấy ai trong trang ra đón tiếp, chàng lấy làm lạ, lớn tiếng gọi:
-Vãn bối Hồ Phỉ xin được ra mắt, Ðỗ trang chúa đã về chưa?
Ðánh tiếng mấy lần nhưng chàng chẳng thấy ai đáp, chàng mỉm cười thầm nghĩ:
“Ðỗ Hi Mạnh thật uổng công mang tiếng là anh hào Liêu Ðông, có vậy mà cũng tránh né, lập lờ. Dù ngươi giở gian kế ra thì Hồ Phỉ này đâu có sợ?”.
Chàng ngồi lại đại sảnh một lát, toan để lại mấy chữ cho Ðỗ Hi Mạnh biết nhục rồi xuống núi, nhưng không hiểu sao chàng lưu luyến không muốn rời ngay nơi này. Chàng bèn đi tới phòng phía Ðông, đẩy cửa ra, thấy bốn phía tường đều là sách, trang trí sắp đặt rất trang nhã. Bước vào phòng, chàng thuận tay rút ra một cuốn, ngồi giở ra xem, nhưng lật qua lật lại mà chẳng đọc nổi chữ nào, trong lòng chỉ vang lên câu hỏi: “Nàng đi đâu rồi? Nàng đi đâu rồi?”.
Lát sau trời càng tối, chàng lấy lửa ra đang định châm nến thì bỗng nghe thấy mấy tiếng lạo xạo rất khẽ trên tuyết ở mé Ðông ngoài trang trại. Biết là có cao thủ đạp tuyết đi tới, chàng hơi giật mình. Ai cũng biết, nếu đi trên đất, muốn khẽ thì nhón chân lên mà đi. Nhưng đi trong tuyết dày thì không có tài nghệ là không xong. Người có tài nghệ cao chân giẫm rất nhẹ, người tài nghệ còn kém thì chân bước nặng nề, nghe là biết liền. Hồ Phỉ lắng nghe tiếng chân bước ấy, thầm nghĩ:
“Phải xem cao thủ phương nào tới mới được!”. Nói rồi cất giấy đánh lửa vào bọc,nghiêng tai lắng nghe.
Nhưng trên tuyết còn có tiếng chân của mấy người nữa, mà đều là người có võ công rất cao. Hồ Phỉ thử đếm, có đến năm người. Chợt nghe xa xa, thoang thoảng có ba tiếng vỗ tay, rồi ở cổng trang trại cũng vỗ tay đáp lại ba tiếng. Lát sau, có thêm sáu người nữa đến. Hồ Phỉ tuy võ nghệ cao, lại gan góc nhưng thấy các cao thủ tập trung về đây, trong chốc lát có đến mười một người thì trong lòng cũng nghi ngại không yên. Lát sau nghĩ: “Việc cần kíp trước hết là rời ngay đây. Ðối phương mời nhiều người giúp sức, một mình ta e không địch nổi”. Chàng ra khỏi phòng,đang tính nhảy lên mái, bỗng nghe mái nhà có tiếng lách cách, lại có thêm người đến.
Hồ Phỉ vội vàng lui lại, nhìn kĩ người trên mái nhà, thì ra có thêm đến bảy cao thủ nữa. Tiếp đó nghe trên mái nhà có người vỗ tay ba cái, ngoài trang trại đáp lại ba cái, rồi bảy người trên mái nhà nhẹ nhàng nhẩy xuống sân đi thẳng vào buồng trong. Hồ Phỉ nghĩ kẻ thù qúa đông, lần này phải xuất kì bất ý mơi mong thắng nổi.
Lúc trước chàng chỉ nghĩ Ðỗ Hi Mạnh mời người đến trợ lực, song không ngờ lại có nhiều cao thủ đến thế. Chàng nghe bảy người này bước tới cửa buồng, liền thu mình núp sau bình phong để xem họ bàn tính gì, đối phó với mình như thế nào.
Chỉ nghe tách tiếng, có người đã đánh lửa lên. Hồ Phỉ nghĩ không thế ẩn thân sau bình phong mãi được, đưa mắt tìm kiếm, thấy màn trướng trên giường rủ thấp thoáng, dưới giường không có giày hẳn không có ai nằm trên giường, bèn đánh bạo rón rén đến vạch màn ra, ngồi lên giường rồi chui luôn vào chăn. Hành động của chàng rất nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, bảy người ở bên ngoài cửa buồng tuy đều là cao thủ song không một ai phát giác ra.
Nhưng Hồ Phỉ vừa chui vào chăn thì giật nảy mình. Tay chàng chạm phải da thịt một người, mềm mại mà mịn màng, hóa ra trong chăn có cô gái đang ngủ. Chàng đang định lao xuống gầm giường thì ánh lửa nhấp nhoáng trước mắt, có người đã vào phòng. Người này cầm nến soi bình phong nói:
-Trong này không có người, chúng ta ngồi đây nói chuyện vậy.
Nói xong, người đó ngồi luôn xuống.
Lúc này mùi thơm phả vào mũi Hồ Phỉ, chính là mùi thơm chàng ngửi thấy khi xướng họa cùng với Miêu Nhược Lan hồi trưa. Tim chàng dường như nhảy ra khỏi lồng ngực, thầm nghĩ: “Lẽ nào người này chính là Miêu cô nương? Lần này mình đường đột với giai nhân, thật tội đáng muôn chết. Nhưng nếu bây giờ mình nhảy ra, mấy người kia thấy nàng cùng giừơng chung chăn với mình ắt bảo là có chuyện ám muội. Miêu cô nương xưa nay vẫn giữ thanh danh, thế mà bị ta huỷ hoại. Thôi đành chờ mấy người đi khỏi, mình sẽ xuống giường tạ lỗi”.
Chàng hơi nghiêng người thì mu bàn tay chạm phải da thịt trên cánh tay cô gái. Da thịu nàng mềm mại vô cùng tựa hồ như không mặc áo, khiến chàng kinh hãi rụt ngay tay lại. Thực ra Ðiền Thanh Văn chỉ cởi bỏ áo ngoài của Miêu Nhược Lan thôi, còn áo lót vẫn để nguyên nhưng Hồ Phỉ lại tưởng nàng ở trần nên nhắm mắt lại không dám nhìn, chân tay càng không dám động đậy, rồi thu mình lại, khẽ dịch ra phía mép giường, để khoảng cách giữa hai người xa hơn một chút.
Hồ Phỉ tuy nhắm mắt nhưng vẫn ngửi thấy mùi thơm ngát nứa mũi khiến người ngây ngất, tai nghe tim nàng đập nhanh thì không cầm lòng được lại mở mắt ra.
Chàng nhìn cô gái nằm ngoảnh mặt ra ngoài, khuôn mặt e lệ phơn phớt hồng như hoa hải đường, chẳng phải Miêu Nhược Lan thì còn ai vào đây nữa. ánh nến rọi qua bức màn chiếu vào càng làm cho khuôn mặt trên gối ấy xinh đẹp lạ thường.
Hồ Phỉ chỉ định nhìn một cái rồi nhắm mắt lại ngay, không nhìn nữa, nhưng vừa nhắm mắt thì lại nghĩ vẩn vơ không dứt, thế là đành phải hé mắt nhìn nàng lần nữa.
Miêu Nhược Lan bị điểm trúng huyệt đạo không cựa quậy được nhưng vẫn tỉnh táo. Thấy Hồ Phỉ đột nhiên lên giường nằm sóng đôi với mình thì kinh hoàng tột độ, chỉ sợ chàng làm điều phi lễ, nhưng cũng đành nhắm mắt mặc cho ý trời và số phận. Nào hay chàng vừa nằm giây lát, chẳng những không xáp lại mà còn dịch ra xa ra ngoài thì bất giác nàng bớt sợ và đâm tò mò, cũng hé mắt ra. Cái hé mắt này gặp đúng lúc Hồ Phỉ cũng hé mắt, bốn mắt nhìn nhau, chỉ cách nhau chừng gang tay khiến cả hai đều ngượng chín người.
Chợt nghe ngoài bình phong có tiếng người nói:
-Trại tổng quản, ngài tính toán như thật như thần, không ai lường được. Người ấy thực đáng là anh hùng hào kiệt “Ði khắp thiên hạ không địch thủ”, nay đã rơi vào lưới của ngài thì có mà mọc cánh cũng không thoát.
Người cầm nến cười ha hả rồi đặt đài nến xuống đi ra ngoài bình phong, nói:
-Trương hiền dệ, thôi đừng khen mãi tôi nữa. Việc thành rồi, tôi không quên công của tất cả đâu!
Nghe hai người nói, Hồ Phỉ và Miêu Nhược Lan đều giật nẩy mình. Rõ ràng những người này sắp đặt mưu kế để hại Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng. Miêu Nhược Lan không hiểu chuyện trên giang hồ thì không sao, cô chỉ nghĩ cha mình võ công vô địch nên chăng sợ người khác hãm hại. Còn Hồ Phỉ biết Trại tổng quản là cao thủ số một Mãn Châu, nội ngoại công phu đều đạt mức tinh diệu, tính tình lại xảo trá hung hãn, không biết đã hãm hại bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ. Hắn là vệ sĩ thân tín số một của vua Càn Long, nay đích thân dẫn tay chân từ Bắc Kinh đến ngọn Ngọc Bút này. Nghe tên họ Trương nói thì chúng đang ngầm sắp đặt kế gian, dù Miêu Nhân Phượng có lợi hại thì cũng khó mà thoát khỏi độc thủ. Nghe Trại tổng quản đã bước ra bên ngoài bình phong, Hồ Phỉ nghĩ không thể để mất cơ
hội, liền khẽ vén màn, bàn tay phải nhằm ánh nến phất nhẹ, thế là một luồng gió mạnh xô tới, “phụt” một tiếng làm nến tắt ngấm. Tiếng một người kêu:
-Ô, nến tắt rồi kìa!
Ngay lúc ấy lại có người lục tục bước vào phòng, gọi to:
-Mau châm lửa cho nến sáng lên!
Trại tổng quản nói:
-Chúng ta ngồi trong tói nói chuyện mà hay đấy. Miêu Nhân Phượng nhanh ý lắm. Nếu hắn đứng ngoài ngắm nhìn thấy ánh lửa thì không chừng dù như cá cắn câu vẫn thoát được như thường đấy.
Có mấy người cũng hoạ thêm vào:
-Trại tổng quản mưu trí sâu xa, làm việc tỉ mỉ chu đáo, quả thực khác hẳn người thường.
Lại có người khẽ đẩy lùi bình phong lui ra. Lúc này trong phòng người ngồi đầy bốn phía xung quanh, có người ngồi đất, người ngồi trên bàn, lại có ba người ngồi trên mép giường.
Hồ Phỉ sợ ba người này ngồi mãi cũng mỏi, ngả về phía sau rồi nằm xuống thì lộ tẩy hỏng việc, đành khẽ nhích vào phía trong giường. Như thế chàng cách Miêu Nhược Lan rất gần, hơi thở nàng thơm như mùi hoa lan khiến tâm
hồn ngây ngất. Hồ Phỉ chỉ sợ chạm vào ba người ngồi trên mép giường thì hoen ố đến danh tiết của Miêu Nhược Lan, lại sợ râu minhg tua tủa chọc vào đôi mắt non tơ của nàng. Chàng định sẳn, nếu bị phát hiện sẽ phải giết hết mười tám người trong phòng này, dù mình mất mạng cũng không thể để lại một bằng chứng sống làm liên lụy đến cô gái trong trắng như ngọc này.
May sao ba người kia ngồi rất ngay ngắn, không động cựa gì. Hồ Phỉ không biết Miêu Nhược Lan bị điểm huyệt, thấy cô không tránh lùi vào phía trong bất giác vừa sợ vừa mừng, người lơ lửng chơi vơi như trên mây trên gió.
Lại nghe Trại tổng quản nói:
-Thưa các vị, chúng ta xin mời Ðỗ trang chủ ra để giới thiệu mọi người với nhau.
Một người có giọng trầm đục nói:
-Ðược các vị có lòng hạ cố, anh em cảm thấy vô cùng vinh dự. Vị này là Trại đại nhân, Tồng quản ngự tiền thị vệ. Trại đại nhân uy danh vang dội giang hồ, đương nhiên các vị đã ngưỡng một từ lâu.
Người vừa nói chính là Ðỗ Hi Mạnh, trang chủ trang trại Ngọc Bút. Mọi người ầm ĩ tỏ lòng ngưỡng mộ.
Lắng nghe Ðỗ Hi Mạnh nêu tên giới thiệu, Hồ Phỉ càng nghe càng kinh ngạc.
Thì ra ngoài bọn Trại tổng quản bảy người là ngự tiền thị vệ ra, số người còn lại đều là cao thủ số một đã thành danh trên chốn giang hồ. Huyền Minh Tử phái Thanh Thành có mặt, Linh Thanh cư sĩ núi Côn Lôn có mặt, vị Lão huyền sư họ Tưởng thuộc Vô Cực Môn miền Hà Nam có mặt, ngoài ra, nếu không phải chưởng môn, hoặc cao thủ hàng đầu của môn phái ấy thì cũng là Tổng đà chủ của bang hội này, Tổng tiêu đầu của tiêu cục kia, không một ai là không có tên tuổi. Còn bảy viên thị vệ cũng đều là những tay cứng cựa, nổi danh đã lâu trong giới võ lâm.
Miêu Nhược Lan trong lòng suy nghĩ ngổn ngang, thầm tính: “Ta chỉ mặc chút ít quần áo mà lại nằm trong lòng anh ta. Người này ân oán nhằng nhịt với gia đình ta,không biết anh ta định làm gì mình đây? Hôm nay lần đầu tiên được gặp mặt anh ta, tuy tướng mạo có thô kệch đấy nhưng là nam nhi kì tài văn võ song toàn, thế mà không ngờ anh ta lại dám vô lễ với mình như vậy”. Nàng cảm thấy Hồ Phỉ đối xử với mình như thế thật không nên, song không biết làm sao, trong lòng cô không hề có ý bực bội oán trách, trái lại bất giác còn có chút vui thích. Phía ngoài hơn chục người lớn tiếng bàn bạc nhưng cô không để tâm nghe được một câu nào.
Hồ Phỉ lớn hơn cô đến mười tuổi, từng trải đã nhiều, biết rằng việc trước mắt có liên quan không nhỏ, nên tuy vừa mừng vừa lo, tâm thần bất định nhưng câu chuyện của người ngồi ngoài màn, chàng đều nghe kĩ không bỏ sót một câu. Nghe Ðỗ Hi Mạnh giới thiệu từng người, chàng gập ngón tay lại đếm. Khi đếm đến người thứ mười sáu là lúc Ðỗ Hi Mạnh ngừng lại, không nói gì nữa. Hồ Phỉ nghĩ thầm: “Trong phòng này có tất cả mười tám người, trừ Ðỗ Hi Mạnh còn mười bảy người, không biết người thứ mười bảy là ai?”. Ðiều Hồ Phỉ thắc mắc thì trong phòng có mấy người kĩ tính cũng để ý. Có người hỏi:
-Còn một vị nữa là ai thế?
Ðỗ Hi Mạnh không đáp. Một lúc sau, Trại tổng quản mới nói:
-Thôi được, để tôi nói cho các vị biết, vị ấy là Phạm bang chủ Cái Bang Hưng Hán.
Ai nấy giật mình. Trong số đó có vài người thạo tin, biết Phạm bang chủ đã từng bị quan gia bắt, còn những người khác chỉ biết Cái Bang xưa nay đối đầu với phủ quan, quyết không tiếp tay cho ngự tiền thị vệ. Nay đột nhiên Bang chủ xuất hiện lại xuất hiện trên núi ai nấy đều lấy làm lạ. Trại tổng quản nói:
-Sự việc là như thế này. Các vị nhận lời mời của Ðỗ trang chủ lên núi trợ sức để dối phó với Tuyết Sơn Phi Hồ. Nhưng trước khi tóm cổ con hồ ly này, chúng ta phải khiêng một vị Bồ tát xuống núi trước đã.
-Kim Diện Phật ư? -Có người cười hỏi.
Trại tổng quản đáp:
-Ðúng thế. Chúng ta làm kinh động Phạm bang chủ vốn để dụ Miêu Nhân Phượng tới Bắc Kinh cứu bạn. Trong nhà lao đã sắp đặt sẵn rọ lồng đợi hắn tới.
Không ngờ hắn cũng tinh khôn không chịu cắn câu.
Trong đám thị vệ có người hắng giọng song không nói ra. Thì ra trong lời nói vừa rồi của Trại tổng quản có che dấu một điều. Miêu Nhân Phượng chẳng đến Bắc Kinh rồi sao? Ông một mình xông vào nhà đại lao cứu Phạm bang chủ. Tuy chưa cứu được người ra, song một thanh trường kiếm đã giết mười một lính thị vệ trong đại nội. Ngay Trại tổng quản cũng bị một nhát kiếm trúng tay. Tuy Trại tổng quản bố trí chu đáo, chặt chẽ song rốt cuộc, đối phương võ công quá cao nên không bắt được. Ðây là mối nhục lớn nhất trong cả đời lão nên trước mặt người khác lão câm nín là phải.
Trại tổng quản nói:
-Hai vị Ðỗ trang chủ và Phạm bang chủ đều là người nghĩa khí sâu nặng với bạn bè, đồng lòng giúp chúng ta một tay, tại hạ thực vô cùng cảm kích. Khi nào nên việc, tại hạ xin tâu rõ Hoàng thượng, thế nào cũng có phong thưởng hậu hĩnh…
Nói đến đây, lão bỗng nghe thấy ngoài trang trại có tiếng chân người đi tới. Tai lão cực thính, bước chân tuy vừa khẽ vừa xa nhưng lão vẫn nghe rõ mồn một. Lão hạ thấp giọng bảo:
-Kim Diện Phật đến rồi đó. Những ai giúp việc trong cung thì mai phục ở đây,còn các vị khác xin ra ngoài nghênh tiếp.
Ðỗ Hi Mạnh, Phạm bang chủ, Huyền Minh Tử, Linh Thanh cư sĩ, quyền sư họ Tưởng… đều đứng dậy ra khỏi phòng. Trong phòng chỉ còn lại bẩy thị vệ đại nội.
Lúc này tiếng bước chân đã tới ngoài cổng trang trại, ai cũng không ngờ Kim Diện Phật lại đi nhanh đến thế. Thật chẳng khác gì thuyền gặp bão giữa biển khơi,vừa mới thấy triệu chứng bão là mưa to gió lớn đã ập xuống; lại như sét đánh chẳng kịp bịt tai, vừa loé sáng đã dậy sấm.
Trại tổng quản và sáu tên thị vệ đều giật mình, không hẹn mà cùng đều rút binh khí ra. Trại tổng quản vừa hô: “Nằm xuống!” là có người đã giơ tay vén màn toan chui vào trong giường. Trại tổng quản quát:
-Ðồ ngu! Chui vào giường thì ai chẳng tìm được?
Người kia rụt tay lại. Thế rồi cả bảy người hoặc chui xuống gầm giường, hoặc trốn trong tủ, hoặc nấp sau giá sách.
Hồ Phỉ cười thầm: “Ngươi mắng người khác là đồ ngu nhưng chính ngươi là đồ ngu thì có!”. Hơi thở Miêu Nhược Lan phả nhẹ vào mặt chàng khiến chàng không giữ mình được, khẽ ghé môi thơm vào má nàng một cái. Miêu Nhược Lan vừa sung sướng vừa thẹn, định né tránh song khốn nỗi tay chân không động cựa được.
Hồ Phỉ hôn má nàng rồi, bất giác chợt cảm thấy ngượng thay cho mình, thầm nghĩ:
“Nàng dịu dàng thanh nhã nhường kia, sao ta lại dám làm nhục nàng?”. Chàng đang định dịch người tránh ra, không áp sát tới nàng như thế nữa thì bỗng nghe dưới gầm giường có tiếng lục đục và tiếng mắng nhau khe khẽ. Thì ra mấy viên thị vệ cùng chen chúc dưới gầm giường, cùi trỏ người này tông vào mũi của người kia.
Hồ Phỉ xưa nay thích bỡn cợt kẻ thù, nếu phải như mọi khi thì lúc này chàng sẽ tung chăn ra, tiểu tiện một bãi thật to xuống gầm giường, làm ướt đẫm đám thị vệ theo pháp “đề hồ quán đính”, song vừa nảy ra ý nghĩ này, chàng đã nghĩ ngay đến Miêu Nhược Lan còn nằm bên cạnh, làm sao có thể làm bậy được?
Một lúc sau, Ðỗ Hi Mạnh và quyền sư họ Tưởng cùng vài người nữa nói cười hỉ hả đưa một người bước vào phòng. Người đó chính là Miêu Nhân Phượng, đi theo một người cầm đài nến soi đường.
Ðỗ Hi Mạnh trong lòng thắc thỏm, không biết người nhà mình cùng người hầu đi đâu hết cả, làm sao không thấy một người nào. Nhưng Trại tổng quản vừa tới rồi Miêu Nhân Phượng cũng tới luôn, thực không còn lúc nào rảnh để xem xét việc nhà, liếc sang Miêu Nhân Phượng, trại chủ thấy ông này vẻ mặt thản nhiên, không biết trong lòng ông ta nghĩ gì.
Trong phòng, mọi người đã ngồi yên chỗ. Ðỗ Hi Mạnh nói:
-Miêu huynh, đệ có hẹn với Tuyết Sơn Phi Hồ hôm nay tới đây để tính sổ một món nợ cũ. Miêu huynh cùng mấy bằng hữu tình nghĩa cao cả này từ xa xôi tới đây trợ lực, đệ thực vô cùng cảm kích. Chỉ có điều bây giờ trời đã muộn mà Tuyết Sơn Phi Hồ kia còn chưa tới, hẳn là nghe tên tuổi của các vị, hắn đã sợ quắp đuôi hồ ly lại mà xa chạy cao bay rồi.
Hồ Phỉ nghe nói giận quá, chỉ muốn nhảy ra cho một chưởng vào giữa mặt hắn.
Miêu Nhân Phượng “hừ” một tiếng, quay sang hỏi Phạm bang chủ:
-Cuối cùng Phạm huynh cũng thoát hiểm ư?
Phạm bang chủ đứng dậy chắp tay vái dài một cái, đáp:
-Miêu gia không ngại hiểm nguy, đích thân vào đất dữ để cứu bạn, ơn đức đó đệ suốt đời không dám quên. Sau khi Miêu gia đại náo kinh sư, không bao lâu anh em của tệ bang cũng kéo tới cứu, may mà người đông thế mạnh, lại nhờ uy phong của Miêu gia nên đệ mới may mắn thoát nạn!
Những lời này của Phạm bang chủ tất nhiên toàn là dối trá. Miêu Nhân Phượng đích thân vào đại lao, tuy chưa bị Trại tổng quản bắt được, song sau khi đại náo một trận cũng không sao cứu thoát được Phạm bang chủ. Còn việc Cái Bang xông vào đại lao… vv toàn là chuyện bịa đặt. Kế thứ nhất không thành, Trại tổng quản lại nghĩ ra kế khác, đích thân vào đại lao trao đổi với Phạm bang chủ và lấy cái chết ra đe. Phạm bang chủ là người cứng cỏi, mặc cho Trại tổng quản đe dọa và dụ dỗ thế nào cũng không hề chịu khuất phục. Song Trại tổng quản lại là kẻ xảo quyệt già đời, hiểu tâm lí người khác. Sau mấy ngày liên tục thuyết phục, lão biết đối phó với một kẻ cứng đầu như Phạm bang chủ không thể lấy lợi lộc ra nhử, cũng không thể đe bằng búa rìu; nếu tâng bốc lên tận mây xanh có khi lại được việc.
Thế là Trại tổng quản đích thân đón Bang chủ vào Phủ tổng quản ở, sai một người giỏi xu nịnh trong đám tay chân hàng ngày đem những câu nịnh bợ như “bang chủ anh hùng vô địch”, “bang chủ uy danh vang dội giang hồ”… vv rót liền vào tai Bang chủ. Lúc đầu, Phạm bang chủ còn lấy làm bực mình, nhưng qua vài ngày nghe mãi lời đường mật cũng thấy bùi tai, nói cười thích thú. Tiếp đến, Trại tổng quản thân chinh xuất mã, tâng bốc càng cao hơn nữa. Trong câu chuyện, khi bàn luận anh hùng thời nay, Phạm bang chủ tuy rất tự phụ song vẫn tôn Miêu Nhân Phượng là số một trong thiên hạ. Trại tổng quản cười, bảo:
-Phạm bang chủ nói vậy là khiêm tốn quá. Kim Diện Phật tuy tên hiệu là “Ði khắp thiên hạ không địch thủ”, nhưng theo ý ngu đệ thì chắc gì ông ta đã thắng được bang chủ?
Ðược tâng bốc, Phạm bang chủ khoan khoái vô cùng, bụng nghĩ Miêu Nhân Phượng tên tuổi vang dậy, võ công cực cao, song bản thân mình chưa chắc đã thua kém bao nhiêu.
Hai người nói chuyện đến nửa đêm, sáng hôm sau bỗng Trại tổng quản chuyển câu chuyện sang võ công của mình. ít lâu sau, các thi vệ trong Phủ tổng quản cũng bàn tán với nhau về chuyện dạo trước Trại tổng quản tiếp chiến với Miêu Nhân Phượng. Lúc đầu hai người ra đến hai trăm chiêu mà không phân thắng bại; sau đó Trại tổng quản đã nắm chắc phần thắng, nếu Miêu Nhân Phượng không thừa cơ bỏ chạy thì chỉ cần một trăm chiêu là họ Miêu ắt thua. Phạm bang chủ nghe lời bàn tán đó thì tỏ vẻ không tin.
Một hôm Trại tổng quản cười, nói:
-Bấy lâu hâm mộ Ngũ hổ đao gồm tám mươi mốt đường của Phạm bang chủ là tuyệt thế vô song, lần này chúng tôi mạo phạm oai hổ, tuy nói là có chỉ dụ của Hoàng thượng, song một phần cũng vì các anh em muốn được thấy võ công của Phạm bang chủ. Chỉ đáng tiếc là anh em chỉ muốn lập công nên cả mười tám cao thủ trong đại nội đều ra tay mới thỉnh được Phạm bang chủ về đây. Ngu đệ chưa từng ra được chiêu một chọi một với bang chủ thực là chưa cam tâm. Lúc này chúng ta chuyện trò đang cao hứng, xin lĩnh giáo Bang chủ mấy chiêu ngay tại đây có được chăng?
Phạm bang chủ nghe xong nói:
-Cả Miêu Nhân Phượng cũng bại trong tay Trại tổng quản thì chỉ e tại hạ không phải là địch thủ của ngài.
-Bang chủ khách khí quá! -Trại tổng quản cười.
Hai người nói qua nói lại vài câu khách sáo rồi ngay sau đó liền so tài trong sảnh luyện võ tại Phủ tổng quản.
Phạm bang chủ sử dụng thanh đao, còn vũ khí của Trại tổng quản thì thật lạ lùng, chỉ là một đôi lang nha bổng ngắn cán. Tổng quản người khỏe, ra chiêu dũng mãnh, quả nhiên võ công mười phần lợi hại. Hai người xoay tròn đấu đến hơn trăm chiêu cũng không phân hơn kém. Lại đấu khoảng ăn xong bữa cơm nữa thì dần đần Trại tổng quản đuối sức bị thanh đao của Phạm bang chủ đòn vào góc sảnh. Tổng quản mấy lần xông ra song không thoát được đường đao vây kín, bất đắc dĩ phải lên tiếng:
-Quả nhiên bản lĩnh Phạm bang chủ rất cao, tai hạ xin chịu thua.
Phạm bang chủ mỉm cười, xách đao nhảy ra khỏi vòng đấu. Trại tổng quản giận dữ vứt đôi lang nha bổng xuống đất, than thở:
-Tại hạ tự phụ anh hùng vô địch, ngờ đâu ngoài trời lại còn có trời nữa, người giỏi lại có người giỏi hơn!
Nói rồi lấy áo chùi mồ hôi, hổn hển thở mãi.
Sau trận so tài ấy, Phạm bang chủ lại được mọi người tâng bốc lên tận mây xanh, bang chủ cũng coi đám thị vệ là bạn bè chí cốt, còn với Tổng quản thì càng tin cậy. Vị bang chủ thô thiển này đâu có biết Trại tổng quản có ý nhường nhịn mình, nếu lão trổ hết công phu thực lực ra thì e trong vòng trăm chiêu, bang chủ ắt thua vì đôi lang nha bổng rồi.
Nhưng làm sao Trại tổng quản phải tốn nhiều sức lực, trăm phương ngàn kế thu nạp ông ta? Thì ra võ công của Phạm bang chủ tuy chưa phải cao thủ số một,nhưng ông ta có món tuyệt kĩ gia truyền không ai sánh được, đó là “Long trảo cầm nã thủ” gồm hai mươi ba đường, ai bị dính thì như bị đóng đinh, móc gân móc cốt.
Bất kỳ kẻ địch võ công cao cường đến thế nào, chỉ cần bất kì một bộ phận nào trên cơ thể bị ngón tay ông ta bặp vào thì lập tức bắt dính, không sao thoát ra được. Trại tổng quản nghe lời Ðiền Quy Nông, mấu chốt để lấy được kho báu là phải bắt giam Miêu Nhân Phượng. Nhưng kế “đặt bẫy trong đại lao” không thành, thế là lão nghĩ tới mượn tuyệt kĩ đó của Phạm bang chủ. Kim Diện Phật tuy có bản lĩnh cao,Phạm bang chủ nếu giao đấu chính diện với ông ta, không đời nào ông ta để cho “Long trảo cầm nã thủ” dính được đến người. Nhưng Phạm bang chủ là bạn thân của ông ta nhiều năm qua, nếu như xuất kỳ bất ý đánh trộm thì may có cơ hội thành công.
Miêu Nhân Phượng thấy Phạm bang chủ chắp tay thì cũng đứng lên vái trả,miệng nói:
-Một việc nhỏ mọn, hà tất phải nhắc tới!
Rồi nghoảnh sang hỏi Ðỗ Hi Mạnh:
-Không biết tên Tuyết Sơn Phi Hồ ấy là người như thế nào, vì sao Ðỗ huynh lại kết oán với hắn?
Ðỗ Hi Mạnh đỏ mặt lên, đáp hàm hồ:
-Tại hạ vốn không biết con người ấy, chẳng hiểu hắn nghe lời dèm pha của ai,bảo tai hạ giữ một vật báu gia truyền của hắn, mấy lần đến đòi tại hạ. Tại hạ biết võ nghệ của hắn cao cường, bản thân đã lớn tuổi, không thể là đối thủ của hắn, cho nên mời các vị lên núi để mọi người phân giải rõ ràng. Nếu hắn cậy mạnh không phục thì xin các vị dạy cho kẻ hậu sinh ấy một bài học.
Miêu Nhân Phượng hỏi:
Hắn nói Ðỗ huynh lấy báu vật gia truyền của hắn là gì vậy?
Ðỗ Hi Mạnh đáp:
-Có báu vật gì đâu? Hoàn toàn là điều bịa đặt.
Năm xưa, khi Hồ Nhất Ðao chết, Miêu Nhân Phượng buồn bực trong lòng bèn đi ngay tới Liêu Ðông tìm gặp bạn bè và người thân cũ của Hồ Nhất Ðao để hỏi thăm chuyện cũ và những nghĩa cử của người bạn tri kỉ duy nhất trên đời này. Sau khi hỏi dò, biết Ðỗ Hi Mạnh là người quen cũ của Hồ Nhất Ðao, ông bèn lên Ðỗ gia trang trên ngọn Ngọc Bút viếng thăm. Ðỗ Hi Mạnh không cho biết thêm được bao nhiêu về Hồ Nhất Ðao nhưng đón tiếp Miêu Nhân Phượng cực kì chu đáo, lại đích thân đưa ông tới nhà cũ của Hồ Nhất Ðao. Lúc ấy, căn nhà đã tường xiêu vách nát,bỏ hoang từ lâu.
Từ tình nghĩa với Hồ Nhất Ðao, Miêu Nhân Phượng bèn kết bạn với Ðỗ Hi Mạnh, đây là việc đã hơn hai chục năm về trước. Lúc này nghe Ðỗ Hi Mạnh nói ấp a ấp úng, Miêu Nhân Phượng bèn bảo:
-Nếu vật gì đó quả thật là của Tuyết Sơn Phi Hồ thì lát nữa hắn đến đây, Ðỗ huynh trao trả cho hắn là xong.
Ðỗ Hi Mạnh cuống quýt nói:
-Làm gì có vật báu nào? Làm sao tôi biết được mà trả hắn?
Phạm bang chủ thầm nghĩ Miêu Nhân Phượng là người sáng suốt cơ trí, ngồi lâu lúc nữa ắt thế nào cũng phát hiện ra có người mai phục trong phòng, liền vội khuyên:
-Ðỗ trang chủ, lời Miêu gia nói không sai chút nào. Vật nào cũng có chủ, huống hồ lại là đồ gia bảo truyền đời? Ngài trả cho hắn đi là xong, hà tất phải dấy binh đao, làm tổn thương tới hoà khí?
Ðỗ Hi Mạnh luống cuống nói:
-Ngài nói như thế, chẳng hoá ra không tin lời tôi sao?
Phạm bang chủ nói thêm:
-Tại hạ không biết rõ nguyên uỷ câu chuyện này nhưng Miêu gia Kim Diện Phật đã nói như thế, hẳn là không sai. Phạm mỗ này dọc ngang giang hồ, không dễ tin bất kỳ lời người nào, chỉ tin một mình Miêu gia Kim Diện Phật mà thôi.
Bang chủ vừa nói vừa đi tới phía sau Miêu Nhân Phượng, hai tay huơi lên để trợ thanh thế cho lời nói.
Thấy trong lời lẽ của ông ta có ý thiên vị mình, Miêu Nhân Phượng thầm nghĩ:
“Ông ta đứng đầu một bang nên nhìn sự việc cũng sáng tỏ thật”. Chợt cảm thấy huyệt “phong tài” và huyệt “thần đạo” sau lưng tê dại đi, ông biết là có chuyện bèn vội vàng túng cánh tay trái đánh qua. Nào ngờ hai huyệt quan trọng này bị dính “Long trảo cầm nã thủ” của Phạm bang chủ nên ngay lập tức toàn thân tê dại, dù ông có võ công cao đến đâu, thần thông nhiều mặt đến mấy cũng không thể thi triển được chút nào. Nhưng Kim Diện Phật với tên hiệu “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” một đời đã trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm lạ lùng, há có thể vì thế đã bó tay chờ chết hay sao? Ông hét to một tiếng, cúi đầu thấp, dùng sức lưng quăng tấm thân to lớn của Phạm bang chủ qua đầu. Bọn Trại tổng quản cũng kêu to, ai nấy từ sau chỗ nấp chui ra.
Phạm bang chủ bị Miêu Nhân Phượng quăng vọt qua đầu nhưng “Long trảo cầm nã thủ” vẫn bám chặt lấy huyệt đạo như hình với bóng, như giòi theo phân, người tuy ở trước mặt Miêu Nhân Phượng mà tay vẫn ở sau lưng ông ta. Miêu Nhân Phượng thấy xung quanh có người chui ra thì thầm nghĩ: “Ta một đời dọc ngang giang hồ, hôm nay lại bị lật thuyền dưới cống, bị kẻ tiểu nhân hạ độc thủ”. Ngay lúc ấy một viên thị vệ nhào tới, giơ hai tay ghì chặt lấy đầu. Miêu Nhân Phượng giận sôi lên, biết không tránh được bèn ngửa cổ ra phía sau rồi vươn mạnh đầu húc mạnh ra phía trước. Lúc này, tất cả nội lực bản thân đều tập trung ở đầu, vừa húc là đâm ngay vào khoảng dưới hai mắt của viên thị vệ kia, “rắc”một tiếng viên thị vệ chết ngay lập tức. Ai nấy đều thất kinh, vốn định xô cả lại nhưng rồi đứng ngây ra cách Miêu Nhân Phượng đến mấy thước. Miêu Nhân Phượng tứ chi tê dại nhưng đầu vẫn chuyển động được, lập tức vươn cổ ra toan húc Phạm bang chủ. Hắn táng đởm kinh hồn song còn kịp nhanh trí trong lúc nguy cấp ôm lấy mạng sườn Miêu Nhân Phượng, cúi đầu áp chặt vào bụng dưới ông ta. Tứ chi như đã hồi phục được,
Miêu Nhân Phượng đá tung viên thị đứng gần mình rồi lập tức giơ tay đập vào lưng Phạm bang chủ. Nào giờ vừa giơ lên nửa chừng thì chân tay lại tê dại, cú đập tay không tới được đích. Thì ra Phạm bang chủ lại cẩm nã huyệt đạo ở lưng ông rồi.
Mấy đòn đánh qua trả lại này biến hoá nhanh trong nháy mắt. Trại tổng quản biết đòn đánh trộm của Phạm bang chủ chỉ có hiệu lực trong khoảng khắc, nếu kéo dài, Miêu Nhân Phượng ắt hoá giải được. Lập tức lão sấn tới, giơ ngón tay điểm hai cái vào huyệt “tiếu yêu” của ông. Công phu điểm huyệt của lão lúc ra tay thì chậm nhưng xuống tay rất nặng. Miêu Nhân Phượng “hự” một tiếng là xỉu đi, toàn thân mềm oặt.
Phạm bang chủ lúc này như nép trong vòng tay Miêu Nhân Phượng, không biết việc xảy ra bên ngoài, mười ngón tay vẫn nắm cứng huyệt đạo của Miêu Nhân Phượng. Trại tổng quản cười bảo:
-Phạm bang chủ, ông lập được kì công rồi, buông tay ra đi!
Lão nói đến lần thứ ba, Phạm bang chủ mới nghe thấy. Hắn ngẩng đầu lên nhưng vẫn chưa dám buông tay. Một thị vệ lấy trong đẫy ra một cái còng bằng sắt còng tay còng chân Miêu Nhân Phượng lại. Lúc đó Phạm bang chủ mới buông tay.
Trại tổng quản rất kiềng Miêu Nhân Phượng, chỉ sợ ông lại tìm cách thoát thân,nếu vậy thì mối lo về sau sẽ vô cùng vô tận. Lão cầm lấy thanh đao trong tay một thị vệ bảo:
-Này Miêu Nhân Phượng, chẳng phải họ Trại ta đây không tốt với bạn bè mà chỉ vì bản lĩnh của ngươi cao quá. Nếu không cắt đứt gân chân gân tay của ngươi thì bọn ta ăn không ngon, ngủ không yên đâu.
Lão giơ tay trái nắm chặt tay phải của Miêu Nhân Phượng, tay phải lão cầm đao toan cắt gân trên cánh tay đó. Chỉ cần bốn nhát đao là lập tức Miêu Nhân Phượng thành người tàn phế.
Phạm bang chủ gạt tay Trại tổng quản nói:
-Không được làm tàn phế ông ta. Ngài đã nhận lời với tôi, lại còn thề độc nữa mà.
Trại tổng quản cười nhạt, thầm nghĩ: “Ngươi tưởng ta thực sự không địch nổi ngươi ư? Không cho ngươi nếm mùi lợi hại, e ngươi còn rồ dại suốt đời!”. Lập tức lão chùng tay xuống, vận sức ngang lưng, vai phải đột ngột hích luôn Phạm bang chủ. Một là vì cú hích này cực mạnh, hai là vì họ Phạm không đề phòng, “bình” một tiếng, cả người Phạm bang chủ lao vọt qua vách, làm vách ván gian phòng thủng một mảng lớn. Trại tổng quản cười ha hả, giơ đao chém xuống cánh tay phải của Miêu Nhân Phượng.
Nằm trong màn, Hồ Phỉ nghe rõ mồn một, thầm nghĩ: “Miêu Nhân Phượng tuy là kẻ thù giết cha mình nhưng là một đại hiệp đời nay, sao có thể bỏ mạng dưới tay loài chuột bọ được?”. Nghĩ rồi, hét to một tiếng, nhảy vọt từ trong màn ra, bay một chưởng tới khiến một tên thị vệ ngã xô vào Trại tổng quản. Trại tổng quản không kịp đề phòng tình thế biến đổi mau lạ thường này, bỏ luôn đao xuống đỡ lấy tên thị vệ. Thừa dịp Trại tổng quản sểnh tay, Hồ Phỉ hai tay túm hai tên thị vệ, đập đầu chúng vào nhau khiến chúng vỡ đầu ra chết ngay. Rồi tay trái phát chưởng, tay phải ra quyền, đánh tiếp luôn hai người nữa. Trong lúc hỗn loạn, bọn họ không biết có bao nhiêu kẻ địch, chỉ thấy Hồ Phỉ vừa ra tay đã oai phong như thần, ai nấy bất giác sợ hãi.
Hồ Phỉ cho một quyền vào đầu tên thị vệ, tên này ngất xỉu; tay trái vung ra một chưởng, bỗng cảm thấy kẻ địch ra chiêu vừa thu tay vừa đẩy, khiến bàn tay chàng trượt xuống. Lòng thầm kinh hãi, trấn tĩnh lại nhìn, chàng thấy đối thủ râu trắng như cước dài quá rốn, mặt mũi hồng hào, tuy chưa biết là ai, song chiêu “hỗn độn sơ khai” vừa công vừa thủ của ông ta vừa nãy quả phải là một danh thủ nội công nếu chẳng phải quyền sư họ Tưởng thuộc Vô Cực Môn thì còn ai vào đấy nữa!
Hồ Phỉ thấy kẻ địch đông, lại toàn là những cao thủ, bèn nẩy ra một kế. Chàng nhảy vọt lên đá thật mạnh vào ngực Linh Thanh cư sĩ. Cư sĩ quen luyện công pbu ngoại công, thấy cú đá bay tới bèn giơ tay chém vào sống chân Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thừa cơ rụt chân lại, giơ hai tay ra quơ trong đám đông. Cửa phòng nhỏ hẹp, hơn mười người túm tụm lại với nhau, chửng có chỗ nào mà tránh. Trong tiếng hò hét,một tay Hồ Phỉ đã tóm được ngực Ðỗ Hi Mạnh, tay kia nắm được bụng dưới Huyền Linh Tử. Chàng dùng hai người này làm vũ khí, đẩy mạnh tới, họ chỉ sợ người của mình bị thương nên không dám đánh lại, đành lui dần. Thế là hơn mười người bị dồn vào góc nhà, tình thế thật khó coi.
Trại tổng quản thấy tình hình bất lợi vội nhảy vọt từ đám đông ra, mười ngón tay như móc sắt chụp mạnh xuống đỉnh đầu Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đang muốn dụ lão ra tay,thấy thế cười ha hả, nhảy vọt về phía sau mấy bước kêu to:
-Lão Trại ơi lão Trại, lão thật chẳng còn biết liêm sỉ là gì!
Trại tổng quản ngẩn người ra hỏi:
-Cái gì mà không biết liêm sỉ?
Trong tay Hồ Phỉ vẫn nắm chặt Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử và đều nắm vào những huyệt quan trọng khiến hai ngươì còn gượng một chút sức lực mà không sao thi thố được, mặc cho chàng điều khiển thân xác mềm oặt của mình. Hồ Phỉ nói:
-Lão gộp sức hơn mười người, lại giở mưu gian quỷ kế mới bắt được Kim Diện Phật, thế mà dám xưng là cao thủ bậc nhất Mãn Châu sao?
Bị chàng nói cho ngượng chín mặt, Trại tổng quản vẫy tay trái bảo mọi người dàn ra bốn góc phòng, vây chặt lấy Hồ Phỉ, miệng quát:
-Ngươi là Tuyết Sơn Phi Hồ phải không?
Hồ Phỉ cười:
-Không dám, chính là tại hạ. Trước đây nghe nói Bắc Kinh có Trại tổng quản gì đó cũng đáng kể là một nhân vật, nào ngờ té ra chỉ là kẻ tiểu nhân vô liêm sỉ đến thế. Ðồ giẻ rách như vậy mà ngoài vênh vang tên tuổi cái nỗi gì? Thôi mau về nhà trông trẻ đi!
Trại tổng quản bình sinh tự phụ, làm sao nuốt trôi được nỗi nhục đó? Thấy Hồ Phỉ tuy râu ria đầy mặt nhưng còn ít tuổi, lão nghĩ thầm: “Bản lĩnh ngươi cao cường đến mấy thì công phu sao thâm hậu bằng ta được?”. Sông thấy chàng nắm chặt Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử giơ lên như không, chẳng tốn sức lực nào thì không khỏi thầm sợ hãi, không dám ra miệng thách đấu. Còn đang trù trừ thì Hồ Phỉ gọi:
-Mau đến đây so tài vớí nhau nào! Nếu ba chiêu mà không thắng được ngươi thì họ Hồ ta đây xin cúi lạy ngươi!
Trại tổng quản đang khó xử, nghe thấy vậy nghĩ thầm: “ta chưa chắc đã thắng được ngươi nhưng dù ngươi có bản lĩnh tài giỏi đến mấy mà định thắng ta chỉ trong ba chiêu thì trừ phi ta là kẻ chết rồi!”. Giận lắm song lão vẫn cười đáp:
-Ðược lắm, họ Trại này sắn sàng tiếp ngươi!
Hồ Phỉ hỏi:
-Nếu trong vòng ba chiêu ngươi bị ta đánh bại thì sao?
Trại tổng quản đáp:
-Tuỳ ngươi muốn xử trí ra sao cũng được. Trai mỗ đây là người thế nào, đến nước ấy há còn mặt mũi nào sống trên đời nữa? Không phảỉ nói nhiều, hãy xem chiêu đây!
Nói rồi vung thẳng hai quyền đấm mạnh vào ngực Hồ Phỉ. Thấy Hồ Phỉ vẫn túm Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử, Trại tổng quản chỉ e chàng dùng thân hai người này để đỡ, bèn giả đò tiến sát đến, buộc Hồ Phỉ phải buông hai người kia ra để giơ chưởng lên đón đánh.
Ðợi nắm đấm của lão tiến tới ngực, Hồ Phỉ không tránh cũng không đỡ mà đột ngột thót ngực lại, hóa giải nắm đấm đó thành công. Không ngờ chàng trai trẻ này mà nội công tinh thâm đến thế. Trại tổng quản giật mình vội nhảy lui về phía sau,đề phòng chàng vận lực đánh trả. Mọi người đồng thanh hô:
-Chiêu thứ nhất!
Thực ra chiêu này là Trại tổng quản xuất trước còn Hồ Phỉ chưa phản công song bọn họ có ý bênh nhau nên cũng tính là một chiêu. Hồ Phỉ mỉm cười, chợt ho lên một tiếng, bắn bãi nước miếng vào giữa mặt Trại tổng quản, dồng thời hai chân theo thế “Uyên ương liên hoàn” đá về phía trước. Trại tổng quản thất kinh. Muốn tránh bãi nước miếng này, không nhảy vọt lên thì phải chùng người xuống. Nếu nhảy lên thì bụng dưới không tránh khỏi chân trái địch thủ đá trúng, nếu chùng người thì hàm dưới giơ ra đón cú đá chân phải của địch thì. Cả hai cách đều khó xử. Trại tổng quản đành xoay ngang tay che ngực, thế là bãi nước miếng trúng đánh “đẹt” vào giữa hai đầu lông mày. Bãi nước bọt này vốn dĩ trẻ con cũng tránh được, khốn nỗi địch thủ phục ngầm thế đánh hiểm ác khiến Trại tổng quản đành trơ mặt ra mà lãnh vậy.
Ai nấy đều thấy Trại tổng quản bị nhổ giữa mặt mà vì đề phòng địch đột kích nên đã không dám đưa tay lên chùi. Tình cảnh bê bối đến thế nên tiếng hô “Chiêu thứ hai” không còn vang to như lần đầu nữa.
Trại tổng quản nghĩ thầm “Ta tuy bị nhục nhưng che đỡ thật kín thì đón thêm chiêu nữa của hắn cũng chẳng khó gì. Tớí lúc đó sẽ xem hắn ăn nói ra sao!”. Nghĩ vậy liền lớn tiếng nói:
-Còn một chiêu nữa, ra đi!
Hồ Phỉ mỉm cười, bước lên một bước, rồi đột ngột xách Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử lên đánh thẳng vào mặt Trại tổng quản. Lão đã đoán chiêu này của chàng và đã nhẩm sẵn: “Người ta thường nói không độc ác không phải trượng phu, trong lúc nguy cấp này để bạn bè bị thương là điều khó tránh, âu cũng là do bất đắc dĩ vậy”. Thấy thân thể hai bạn quét ngang tới, Trại tổng quản lập tức xòe hai tay lên,vung mạnh ra. Hai tay Hồ Phỉ nắm chặt huyệt đạo quan trọng của hai người, đợi tới khi thân thể họ sắp chạm tới tay Trại tổng quản, lập tức chàng buông tay chuyển
sang túm bắp thịt, nơi không có huyệt đạo quan trọng.
Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử bị Hồ Phỉ túm chặt lưng tung lên không trung thì mụ mị cả người, không còn biết thân mình đang ở đâu. Bỗng cả hai thấy huyệt đạo được buông ra, tay chân cử động được thì không hẹn mà cùng đưa tay ra đánh tới. Họ vốn chỉ muốn thoát ra khỏi vòng tay kẻ thù, vả chăng đều là đòn tuyệt chiêu xưa nay nên họ liều chết một phen dữ dằn vô hạn. Chỉ nghe Trại tổng quản rống lên một tiếng, bốn chỗ trên người là thái dương, ngực, bụng dưới, cạnh nách đều đồng thời dính đòn; không còn đứng được nữa, hai chân sụn xuống ngồi bệt xuống đất. Hồ Phỉ vừa buông hai tay đã bắt lấy huyệt đạo trọng yếu của hai ngươi,miệng hô “Chiêu thứ ba!”.
Lời vừa ra khỏi miệng, hai tay vận sức, Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử chưa kịp kêu đã ngất xỉu. Lần này chàng bóp huyệt rất mạnh, lực thấu tới kinh mạch, dù được cao thủ giải cứu thì trong vòng mươi bữa nửa tháng, hai người này cũng khó chữa lành. Sau đó chàng xách hai gã Ðỗ, Huyền thuận tay quăng vào hai người khác đứng trước mặt, hai người này giật mình, chỉ sợ hai gã Ðỗ, Huyền lại cho mình ăn đòn như đối với Trại tổng quản, liền vội vàng vọt lên tránh. Hồ Phỉ tung người lên, thừa lúc hai người này đang trên không trung chưa kịp rơi xuống, đã mỗi tay bắt lấy một người rồi ngoảnh sang hỏi Trại tổng quản:
-Ông nói sao đây?
Trại tổng quản ngồi bệt xuống dưới đất, hùng tâm tráng sĩ tiêu tan, thất vọng trăm bề, lắp bắp nói:
-Ngươi muốn sao được vậy, còn hỏi ta làm gì?
-Thả ngay Miêu Nhân Phượng ra! -Hồ Phỉ nói.
Trại tổng quản khua tay về phía hai tên thị vệ, hai tên này bước tới mở còng cho Miêu Nhân Phượng.
Huyệt đạo trên người Miêu Nhân Phượng do Trại tổng quản điểm, hai thị vệ không biết giải huyệt. Hồ Phỉ đang định giơ tay giải cứu, nào ngờ Miêu Nhân Phượng đã ngầm vận khí để tự mình thông giải. Còng vừa được tháo bỏ, ông liền hít một hơi thật sâu cho bụng dưới thót lại, thế là giải ngay được huyệt đạo. Chân trái vừa nhấc lên đã đá văng Linh Thanh cư sĩ, đồng thời một quyền tung ra, “binh” một tiếng, tống bay một người khác ra ngoài phòng.
Phạm bang chủ bị Trại tổng quản hích bay qua vách, một lúc lâu mới đứng đậy được. Ðang tính trèo vào phòng qua lỗ ván thủng thì bất ngờ người bị Miêu Nhân Phượng tống bay ra ngoài vừa hay tông vào người. Cú tông này sức đi cực lớn, khí huyết trong người hai gã bốc lên làm mụ cả đầu óc, không phân biệt được bạn thù,thế là cả hai gã cùng xuất tuyệt chiêu, quấn lấy nhau mà đánh không thôi. Linh Thanh cư sĩ tuy bị Miêu Nhân Phượng đá văng đi nhưng gã dù sao cũng là danh hào phái Côn Lôn, võ công luyện đến mức độc đáo nên khi thân mình đang bay trong không trung, gã chỉ vặn lưng một cái đã đảo thuận người, đầu trên chân dưới rồi “phịch” một tiếng, gã ngồi trên mép giường.
Hồ Phỉ kinh sợ, đang định sấn tới đẩy gã ra khỏi giường thì bỗng thấy một luồng gió mạnh thổi thốc vào ngực, đồng thời mé phải bên người lại có tiếng kim đao chém gió. Thì ra quyền sư họ Tưởng và một tên thị vệ đồng thời đánh tới. Nhát đao của tên thị vệ không khó tránh, còn chiêu “Ðấu bính đồng chỉ” của quyền sư họ Tưởng thì không dễ hoá giải, chàng đành đứng vững hai chân, vận lực tiếp một chiêu. Nhưng Vô Cực Quyền nối liền nhau như một giải sông, chiêu này vừa qua chiêu khác đã tới, trong một lúc khiến chàng không lơi tay được.
Linh Thanh cư sĩ ngã ngồi trên giường, “soạt” một tiếng, kéo đứt một nửa bên màn trướng. Hắn vụt đứng lên lại làm lật tấm chăn đắp trên người Miêu Nhược Lan khiến người nàng lộ phần trên. Miêu Nhân Phượng đánh đang hăng chợt thấy trên giường có cô thiếu nữ đang nằm, áo lót không che được kín người, hai má ửng hồng, ngay dơ không động đậy, đó chính là con gái yêu độc nhất của mình. Ông hoảng quá, kêu lên:
-Lan nhi, con sao thế?
Miêu Nhược Lan không mở được miệng, chỉ ngước mắt nhìn cha, vừa thẹn vừa luống cuống.
Miêu Nhân Phượng vươn đôi tay ra, lách ra được vòng vây của bốn người đến kéo con gái dậy, nhưng người cô mèm oặt không cử động được, lúc ấy mới biết cô bị cao thủ nào đó điểm trúng huyệt đạo. Chính mắt ông trông thấy Hồ Phỉ nhảy từ trên giường ra, thì ra tên này xử bậy với con gái yêu của mình. Ông giận tái người,không kịp giải huyệt cho con đã chửi “Gian tặc!” rồi vung hai nắm tay sấn tới đánh Hồ Phỉ.
Lúc này mắt Miêu Nhân Phượng như tóe lửa, hai quyền đánh ra với tất cả công lực gộp lại trong đời, thế đi chẳng khác nào đào núi lấp sông. Hồ Phỉ thất kinh.
Chàng đang chăm chú hoá giải chiêu thức của lão quyền sư họ Tưởng, không để ý tới xung quanh, không thấy Miêu Nhân Phượng kéo con gái dậy như thế nào.
Chàng chỉ cảm thấy khó hiểu vì rõ ràng chàng vừa cứu ông ta, vì sao ông ta quay ra đánh mình? Nhưng thế đánh của Miêu Nhân Phượng rất lợi hại, chàng không kịp hỏi đã vội tránh sang phía trái. Một tiếng “binh” vang lên, hai quyền của Miêu Nhân Phượng đã đánh trúng vào lưng đệ nhất quyền sư họ Tưởng.
Quyền sư này luyện công phu đứng tấn như bàn thạch, một khi đặt chân xuống đất thì dù mấy trai tráng khỏe mạnh có ra sức cũng không kéo nổi. Khi song quyền của Miêu Nhân Phượng đánh tới thì lão đang đứng xây lưng lại Hồ Phỉ, nào ngờ một người đánh gấp, một người tránh nhanh, hai quả đấm thôi sơn trúng ngay lưng lão. Nếu là người khác, trúng hai quyền này đã ngã giập mặt, nhưng công phu đứng tấn của lão quyền sư thật giỏi, nên cứng va với cứng, một tiếng “rắc” vang lên, xương sống lão đã gẫy từ bên trong thành hai đoạn, chỉ còn thân hình mềm oặt
trên đôi chân bám vững đất. Rồi nửa người trên cũng đổ xuống, trán đập xuống đất, không đứng lên được nữa.
Bọn kia thấy Miêu Nhân Phượng dũng mãnh ghê gớm thì kêu la, tản ra tứ phía.
Miêu Nhân Phượng quét ngang chân trái, lại đá vào Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ thấy Miêu Nhược Lan mình trần dưới ánh đèn, mấy kẻ tâm địa bất chính đang nghiêng ngó hau háu nhìn cô thì thầm nghĩ, việc cần nhất là phải bảo vệ tấm thân trinh bạch ấy. Chàng thuận tay kéo luôn một tên thị vệ cho đứng chắn bên mình và Miêu Nhân Phượng rồi nhào tới bên giường keó chăn đắp lên người cho cô. Mấy động tác này nhanh nhẹn vô cùng, mọi người chưa kịp nhìn rõ thì chàng đã bế cô chui qua lỗ hổng bên vách ra khỏi phòng.
Miêu Nhân Phượng tung chân đá thốc tên thị vệ lên tận mái nhà, thấy Hồ Phỉ bắt mất con gái mình thì vừa giận vừa sợ, quát to:
-Gian tặc giỏi thật, mau để con gái ta lại!
Nói rồi ông tung người đuổi theo. Nhưng phòng hẹp người đông, ông bị mấy địch thủ sấn lại làm vướng chân tay, chúng để mặc cho ông đấm đá nên tạm thời chưa vọt theo được.
Chương 14: Câu Chuyện Không Có Ðoạn Kết
Thấy Miêu Nhân Phượng một khi nổi giận thì thần uy lẫm liệt, Hồ Phỉ cũng thầm sợ hãi, ôm chặt Miêu Nhược Lan không dám dừng chân. Tới sườn núi, chàng kéo thừng bằng một tay, tuột luôn xuống dưới chân núi. Chàng biết gần đó có một cái hang rất ít người qua lại, liền giở hết khinh công chạy luôn đến đó. Tuy chàng phải bế Miêu Nhược Lan song người cô rất nhẹ, không làm giảm tốc độ chạy chút nào.
Chừng chưa uống xong một chung trà, chàng bế Miêu Nhược Lan vào hang,quấn chặt cô trong chăn rồi để cô ngồi tựa vào vách đá. Chàng thầm tính toán, nếu muốn giải huyệt đạo thì phải dựng đến người cô; nếu không giải cứu, cô lại không biết nội công càng để lâu chỉ sợ có hại chi sức khỏe. Thực là vô cùng khó xử,chàng bèn lấy mồi lửa nhóm cháy một cành cây khô.
Dưới ánh lửa, đôi mắt Miêu Nhược Lan như gợi sóng thu, khuôn mặt xinh xắn ngời sáng, chàng bèn nói:
-Miêu cô nương, tại hạ không hề có ý mạo phạm nhưng nếu muốn giải thông huyệt đạo cho cô nương thì khó tránh khỏi đụng chạm đến quý thể, vậy việc này nên như thế nào?
Miêu Nhược Lan tuy không thể gật đầu tỏ ý, song ánh mắt nàng dịu dàng như thẹn thùng cảm ơn chứ không hề có vẻ giận dữ. Hồ Phỉ mừng lắm, bèn thổi tắt lửa đi, đưa tay vào trong chăn khẽ ấn vào mấy chỗ huyệt đạo để làm thông kinh mạch cho cô.
Tay chân Miêu Nhược Lan dần dần cử động được, cô khẽ nói:
-Ðược rồi, xin đa tạ.
Hồ Phỉ vội rụt tay lại, đang định nói nhưng lại không biết nói gì. Một lúc lâu sau, chàng mới nói:
-Vừa nãy mạo phạm, thực là lỗi không cố ý. lòng này phân minh sáng láng, trời chứng giám cho, chỉ mong cô nương thứ lỗi.
Miêu Nhược Lan đáp:
-Tôi biết rồi!
Rồi hai người lại im lặng ngồi trước mặt nhau trong bóng tối. Ngoài hang tuy băng tuyết xuống đầy nhưng hai người thấy lòng ấm áp, thấy trong hang như có gió xuân dịu mát, ngày xuân tươi vui.
Một lúc sau, Miêu Nhược Lan lên tiếng:
-Không biết cha tôi bây giờ thế nào?
Hồ Phỉ đáp:
-Lệnh tôn là anh hùng vô địch, bọn chúng đâu phải địch thủ của ông. Cô nương yên tâm.
Miêu Nhược Lan khẽ thở dài:
-Ðáng tiếc, cha tôi tưởng rằng chàng… chàng không tốt với tôi.
Hồ Phỉ nói:
-Ðiều đó không đáng trách. Tình thế vừa nãy cũng thật khó xử.
Miêu Nhược Lan đỏ mặt lên, nói:
-Cha tôi có chuyện thương tâm cho nên hay nghĩ ngợi, xin Hồ huynh miễn thứ!
-Chuyện gì vậy? -Hồ Phỉ nói.
Lời vừa thốt ra, Hồ Phỉ đã biết ngay là lỡ lời, toan nói gì đó để đánh trống lảng nhưng nhất thời không biết nên nói gì. Chàng lấy hiệu là Tuyết Sơn Phi Hồ, ngày thường thông minh lanh lợi, mưu trí cơ biến, song hôm nay trước cô gái dịu dàng này thì không biết vì sao lại biến thành một người khác hẳn, tỏ ra hết sức vụng về.
Miêu Nhược Lan nói:
-Việc này nói ra thật xấu hổ nhưng tôi không muốn giấu huynh, đó là câu chuyện về mẹ tôi.
Hồ Phỉ kêu “A” một tiếng. Miêu Nhược Lan nói tiếp:
-Mẹ tôi đã xử sự sai lầm một việc.
Hồ Phỉ nói:
-Ai chẳng có lỗi lầm! Chuyện đó chẳng cần để dạ làm gì!
Miêu Nhược Lan thong thả lắc đầu nói:
-Ðây là việc sai lầm lớn lắm, là việc mà một người đàn bà không thể mắc phải trong đời, dù chỉ một lần. Sai lầm đó hủy hoại mẹ tôi, cả cha tôi suýt nữa cũng bị hủy hoại vì nó.
Hồ Phỉ lặng thinh, lòng thầm đoán ra được mấy phần. Miêu Nhược Lan nói tiếp:
-Cha tôi là hào kiệt giang hồ, mẹ tôi lại là tiểu thư lá ngọc cành vàng xuất thân từ một nhà quan. Một lần tình cờ cha tôi cứu được tính mệnh mẹ tôi, sau đó hai người thành thân. Hai người vốn không tương xứng lắm với nhau, nếu thế cũng chẳng có chuyện gì, nhưng cha tôi làm một chuyện rất sai là hay khen thân mẫu chàng trước mặt mẹ tôi.
-Khen mẹ tôi ư? -Hồ Phỉ ngạc nhiên.
Miêu Nhược Lan đáp:
-Ðúng thế. Hồi cha tôi so tài với lệnh tôn, ông thấy thân mẫu chàng oai phong lẫm liệt, có khí phách hơn cả đàn ông. Ngày thường nói chuyện phiếm, cha tôi tỏ ý hâm mộ lệnh tôn, nói rằng: “Hồ đại hiệp được người vợ vừa ý đến thế, sống một ngày hơn người khác sống trăm năm!”. Mẹ tôi nghe vậy, tuy không nói ra nhưng trong lòng rất không vui. Sau đó, Ðiền Quy Nông bên Thiên Long Môn đến nhà chúng tôi. Ông ấy tướng mạo tuấn tú, nói cười phong nhã, lại biết thủ thỉ làm vui lòng người. Mẹ tôi trong một lúc thiếu suy nghĩ, đã bỏ tôi lại, lẻn đi theo ông ấy.
Hồ Phỉ nhè nhẹ thở dài, không còn biết nói gì. Miêu Nhược Lan nghẹn ngào nói:
-Lúc ấy tôi mới lên ba, cha tôi bế tôi đuổi theo suốt đêm, không ăn không ngủ,cuối cùng đã đuổỉ kịp họ. Ðiền Quy Nông thấy cha tôi đâu dám động thủ. Còn mẹ tôi thì ra sức bênh vực cho ông ta. Thấy mẹ tôi thực lòng yêu ông ấy, cha tôi không có cánh nào khác là bế tôi về. Về tới nhà, ông ốm một trận suýt chết. Ông bảo tôi,nếu không vì sợ tôi bơ vơ côi cút, trên đời này không ai chăm nom thì ông đã chết quách rồi. Liền trong ba năm, ông không ra khỏi cổng lấy một bước, có lúc gọi mẹ tôi: “Lan ơi Lan. sao nàng dại dột thế?”. Tên của mẹ tôi cũng có chữ Lan.
Nói đến đây, Miêu Nhược Lan hơi đỏ mặt. Tên đàn bà con gái thường giữ kín,người ngoài chỉ được biết họ mà thôi. Riêng những người chí thân, gần gũi nhất mới nghe cô kể tên thật của mình ra. Hồ Phỉ ngà ngà ngây ngất như say rượu, lên tiếng nói:
-Miêu cô nương, Ðiền Quy Nông cố tình phá đám như thế thì chắc gì đã thật sự có tình ý với thân mẫu chăng?
Miêu Nhược Lan thở dài đáp:
-Cha tôi cũng nói như vậy, song ông thường trách mình, cho rằng nếu ông ân cần chăm sóc mẹ tôi thì bà chẳng đến nỗi bị người khác lừa. Cha tôi lấy hiệu là “Ði khắp thiên hạ không địch thủ”, song về mặt xử thế và giao tiếp với người thì ông thua xa Ðiền Quy Nông. Gã họ Ðiền lừa dối mẹ tôi thực ra là muốn lấy được bản đồ kho báu gia truyền của nhà họ Miêu. Tuy hắn khiến gia đình tôi tan nát, khiến tôi mất mẹ từ thửa ấu thơ song rốt cuộc vẫn là uổng phí tâm cơ. Mẹ tôi đã nhìn thấy tâm địa của hắn nên trước lúc lâm chung vẫn gửi trả chiếc thoa ngọc có giấu tấm bản đồ ở thoa ngọc cho cha tôi.
Thế rồi Miêu Nhược Lan kể lại tất cả những điều Lưu Nguyên Hạc mắt thấy tai nghe từ gầm giường, kể tới việc bọn Bảo Thụ giật lấy tờ bản đồ cùng bọn người này dựa vào thanh quân đao của Sấm Vương và tấm bản đồ để đi tìm kho báu như thế nào cho Hồ Phỉ nghe.
Hồ Phỉ căm tức nói:
-Lòng dạ gã họ Ðiền thật vô cùng thâm độc. Hắn sợ cha nàng nên không lấy được tờ bản đồ bèn mượn nhà quan bắt giam ông để buộc ông phải giao tờ bản đồ.
Nào ngờ lưới trời lồng lộng, cuối cùng không thoát khỏi quả báo oan nghiệt! Ôi,kho báu ấy không biết đã làm hại bao người rồi!
Ngừng giây lát rồi Hồ Phỉ nói:
-Miêu cô nương, cha tôi thành thân với mẹ tôi lại là nhờ kho báu ấy đấy!
Miêu Nhược Lan kêu lên:
-Ôi! Thật thế sao? Mau kể cho tôi nghe đi!
Cô tuy giữ gìn nhưng do ít tuổi, lúc háo hức liền giơ tay nắm chặt lấy tay Hồ Phỉ,song ngay sau đó nhận ra không tiện liền rụt tay về. Hồ Phỉ khẽ cầm lấy tay cô,không chịu buông. Miêu Nhược Lan mặt đỏ thôi không rút tay về nữa. Cô cảm thấy sức nóng ở bàn tay chàng thấm sâu đến tận tim mình. Hồ Phỉ nói:
-Cô nương biết mẹ tôi là ai không? Là em họ của trang chủ họ Ðỗ đấy!
Miêu Nhược Lan càng lấy làm lạ, nói:
-Tôi từ bé đã biết Ðỗ bá bá nhưng cha tôi chưa nhắc đến chuyện ấy bao giờ.
Hồ Phỉ nói:
-Tôi biết được chuyện này là từ thư để lại của cha mẹ tôi, có thể lệnh tôn chưa biết tỉ mỉ. Ðỗ trang chúa lần được một vài manh mối, đoán rằng kho báu phải ở quanh vùng núi tuyết này nên ở lâu đài trên núi đẻ tìm kiếm. Có điều ông ta xưa nay suy nghĩ chậm chạp, lại không có cơ duyên nên rút cục không tìm ra nơi để kho báu. Cha tôi ngầm tìm hiểu và tìm ra trước ông ta. Cha tôi vào trong hang để kho báu thấy cha Ðiền Quy Nông và ông nội cô nương chết trong hang. Ông đang định khui kho báu thì bất ngờ mẹ tôi cũng vào theo. Bản lĩnh mẹ tôi cao hơn Ðỗ trang chúa nhiều. Mấy ngày liền cha tôi loanh quanh trong vùng gần đấy nên mẹ tôi nhận ra được đầu mối. Bà vào tới trong hang liền ra tay với cha tôi. Hai người so tài thành quen nhau và khâm phục lẫn nhau, thế là cha tôi ngỏ lời cầu thân. Mẹ tôi cho biết từ nhỏ bà được anh họ là Ðỗ Hi Mạnh nuôi dưỡng nếu để cha tôi lấy hết kho báu thì bà mắc lỗi với anh họ, vì vậy hỏi cha tôi muốn có bà hay muốn kho báu, trong hai đằng chỉ được chọn một.
Cha tôi cười lớn, trả lời rằng châu báu có tới ngàn vạn cũng không bằng mẹ tôi.
Ông thuật lại việc này trên giấy, cất kín trong hang để sau này người nào tìm ra kho báu, đọc bài viết ấy tất hiểu rằng vật quý nhất trên đời này là tình yêu chân thành giữa hai trái tim thương mến nhau, quyết không phải là của báu đáng giá hàng mấy toà thành.
Miêu Nhược Lan nghe đến đây bất giác mơ màng khẽ, nói:
-Tuy cha mẹ huynh mất sớm nhưng sung sướng hơn cha tôi mẹ tôi nhiều.
Hồ Phỉ đáp:
-Còn tôi không cha không mẹ côi cút từ nhỏ thì đáng thương hơn cô nương.
Miêu Nhược Lan nói:
-Nếu cha tôi biết huynh còn sống trên đời này thì dù phải vứt bỏ tất cả cũng nuôi nấng huynh từ nhỏ. Như vậy từ nhỏ chúng ta đã được gặp nhau.
Hồ Phỉ đáp:
-Nếu tôi sống cùng gia đình cô nương, thì chỉ e lại bị ghét bỏ…
Miêu Nhược Lan cướp lời:
-Không, không đời nào! Nhất định tôi sẽ đối xử rất tốt với huynh như đối với anh trai ruột thịt của mình!
Tim đập rộn lên, Hồ Phỉ nói:
-Bây giờ mới gặp mặt nhau, có muộn không?
Miêu Nhược Lan không đáp, một lúc lâu sau mới nói:
-Không muộn đâu!
-Muội rất mừng! -Lát sau cô nói thêm.
Lòng mến mộ giữa nam nữ chỉ cần nửa câu là đủ truyền hết ý cho nhau. Hồ Phỉ nghe được câu ấy thì mừng quá, đáp:
-Suốt đời Hồ Phỉ không dám phụ lòng!
Miêu Nhược Lan nói:
-Muội nhất định học theo thân mẫu huynh chứ không học theo mẹ mình.
Mấy câu này cô chân tình nói với vẻ ngây thơ song ý tứ tỏ ra là quyết như vậy,đó là trao trọn số phận cả đời mình cho Hồ Phỉ, bất kể phận xấu hay tốt, bất kể mai sau là khổ hay sướng cũng đều chia xẻ với chàng.
Hai người nắm tay nhau không nói gì thêm, dường như hang núi bé nhỏ này là cả thế giới khác mà họ đặt mình trong đó.
Một lúc lâu sau, Miêu Nhược Lan nhắc:
-Chúng ta đi tìm cha muội đi, cùng đi nhé, mặc kệ những người của của Ðỗ trang chủ.
-Nào đi! -Hồ Phỉ đáp.
Tuy nói vậy nhưng trong đời, Hồ Phỉ chưa từng có được niềm hạnh phúc như vừa qua nên thực tình chàng không muốn rời hang. Miêu Nhược Lan cũng chung tâm trạng như thế, cảm thấy còn muốn nói chuyện thêm, gần nhau chút nào hay chút ấy, bèn hỏi:
-Ðỗ trang chủ là bề trên trong họ, sao huynh lại làm khó dễ cho ông ấy?
Hồ Phỉ căm tức nói:
-Việc này nói ra thật đáng giận, khi lâm chung, mẹ tôi nhờ cậy cha muội trông nom nuôi nấng tôi thành người. Trong đám tã lót của tôi, bà có để lại một số thứ và một số giấy tờ, trong đó ghi rõ ngày sinh tháng đẻ của tôi, quên quán họ Hồ, tên tuổi tổ tông cùng họ hàng thân quyến còn sống. Sau đó xảy ra sự biến, Bình Tứ thúc thúc ẵm tôi bỏ trốn. Ông tưởng cha muội muốn hại tôi nên thấy trong giấy tờ để lại có tên họ Ðỗ trang chủ nên liền bế tôi tìm tới. Nào ngờ Ðỗ trang chủ sinh lòng xấu xa, nghĩ rằng cha tôi có quyển sách võ học bí truyền, lại lờ mờ đoán rằng cha mẹ tôi biết điều bí mật về kho báu nên đã lục soát số di vật mà mẹ tôi để lại.
Bình Tứ thúc thúc biết chuyện không hay, suốt đêm bế tôi chạt trốn khỏi núi, mang theo được quyển sách võ học bí truyền đó, nhưng gói di vật mẹ tôi để lại cho tôi thì thất lạc trên trang trại. Lần này tôi hẹn với ông ta là muốn hỏi tại sao ông bắt nạt đứa trẻ mồ côi là tôi và đòi lại số di vật mẹ tôi để lại đó.
Miêu Nhược Lan nói:
-Ðỗ trang chủ xưa nay đối xử với người ôn hoà khiêm nhường, lại rất hiếu khách, không ngờ lại đối xử với huynh tồi tệ đến vậy.
Hồ Phỉ đáp:
-Con người này giả nhân giả nghĩa, chỉ một việc ông ta mưu hại cha muội có thể nhận ra những việc khác…
Nói đến đây, giọng chàng dịu hẳn lại:
-Nhưng bây giờ tôi không oán hận ông ta nữa. Nếu không có ông ta, làm sao tôi gặp được muội?
Lúc này ngoài hang chợt có tiếng binh khí va chạm nhau, văng vẳng xen kẽ với tiếng quát tháo chửi bới. Những tiếng này trầm đục, Hồ Phỉ lờ mờ nhận ra được còn Miêu Nhược Lan chỉ tưởng đó là tiếng gió lay tùng bách, tiếng tuyết rơi từ trên núi.
Hồ Phỉ nói:
-Tiếng này vang lên từ lòng đất, thật lạ! Muội ở đây, tôi ra xem sao!
Nói xong đứng ngay dậy. Miêu Nhược Lan nói:
-Không, cho muội đi cùng!
Hồ Phỉ cũng không muốn để nàng một mình trong hang liền nói “Thôi được!” rồi cầm tay nàng ra khỏi hang lần theo tiếng động mà đi.
Hai người thong thả đạp tuyết đi chừng mấy chục dặm. Hôm ấy là ngày rằm tháng ba, trăng đang độ tròn, ánh trăng như bạc rót xuống ánh tuyết như bạc lại phản chiếu trên da dẻ trắng ngần của Miêu Nhược Lan, thật là cảnh tiên trên cõi trần gian, nào biết đêm nay là cái đêm gì? Lúc này Hồ Phỉ đã cởi áo ngoài khoác lên vai cho Miêu Nhược Lan. Dưới ánh trăng, bốn mắt nhìn nhau, thật là không còn gì vướng bận trong lòng nữa.
Hai người thấy lòng êm dịu, những câu thơ ca vịnh tình ý gắn bó của người xưa bỗng từng câu buộc ra từ miệng họ. Hồ Phỉ bất giác ngâm khẽ:
-Nghĩ ngôn ẩm tửu, dữ tử giao lão.
Miêu Nhược Lan ngẩng đầu nhìn lên vào mắt chàng khe ngâm theo:
-Cầm sắt tại ngư, mạc bất tĩnh hảo.
Ðó là những câu đối đáp giữa một đôi vợ chồng được ghi lại trong Kinh Thi, tình ý triền miên, dịu dàng vô hạn. Chợt tiếng người trong lòng đất vang rõ hơn.
Hồ Phỉ nhận biết tinh hơn, nói:
-Bọn họ đã tìm đến nởi cất giấu kho báu đang tranh giành chém giết nhau dưới đó.
Từ lá thư để lại của cha, chàng biết nơi để kho báu, đã từng vào đó mấy lần và lấy ra tờ giấy cha mẹ cất giấu năm nào và cả cây bút bằng vàng của cha Ðiền Quy Nông. Sáng hôm nay, chàng búng cây bút vàng cho Ðiền Thanh Văn là có ý cảnh cáo. Tuy biết rõ kho báu nhưng thể theo ý cha mẹ, chàng không muốn khui nó ra.
Lúc này lần theo hướng tiếng động chàng đoán bọn Bảo Thụ thấy châu báu vàng bạc thì vằn mắt lên, đang tranh cướp lẫn nhau.
Hồ Phỉ đoán không sai một li. Dưới hang sâu, người của các phái Thiên Long Môn, ẩm Mã Xuyên sơn trại, Bình Thông tiêu cục đang lăn xả chém giết nhau để tranh giành của báu. Bảo Thụ khoanh tay đứng xem, chỉ cười nhạt, thầm nghĩ cứ để cho chúng mày đâm chém nhau vãn đi, lão hoà thượng này sẽ thong thả dọn dẹp chúng mày. Chu Vân Dương giằng co với Hùng Nguyên Hiến, cả hai lăn lộn dưới đất. Bỗng cả hai lăn đến cạnh đống lửa. Lúc đầu cả hai đều muốn đè đối phương trên đống lửa, nào ngờ lăn lộn một lúc suýt nữa làm tắt cả lửa. Bảo Thụ chửi mắng:
-Muốn chết cóng cả lũ hay sao mà dập lửa đi thế?
Lão giơ chân phải kê dưới thân mình Chu Vân Dương rồi hất tung cả hai gã cùng bay lên rồi rơi biu bịch xuôngs đất. Bảo Thụ cười hì hì, cúi xuống nhặt mấy thanh củi to bỏ thêm vào đống lửa. Ðang định ưỡn thẳng lưng đứng lên, lão chợt thấy dưới ánh lửa bập bùng soi rõ hai bóng người trên vách băng trước mặt. hai bóng người này cùng đang rung rinh khiến lão giật mình quay lại nhìn. Thì ra ở cửa hang có hai người sánh vai nhau cùng đứng, một người có vẻ e lệ, đó là Miêu Nhược Lan, người kia râu ria tua tủa, mặt đầy sát khí, đó là Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ.
Bảo Thụ “A!” lên một tiếng, vẫy tay phải ra, một xâu tràng hạt sắt bay đi. Tràng hạt lúc đầu ném ra liền như một chuỗi nhưng thực ra dây xâu đã bị lão ngắt từ trước nên mâý chục hạt bỗng chia ra trên dưới, tả hữu đánh vào những huyệt đạo quan trọng trên người Hồ Phỉ và Miêu Nhược Lan. Ðây là tuyệt kĩ do lão khổ luyện hơn mười năm mới thành, chuyên nhằm bảo vệ mình và cứu người, chưa bao giờ dùng để đón đánh địch thủ cả. Lúc này, gặp địch thủ tài giỏi quá đột ngột,trong lúc cấp bách, lão phải giở chiêu sát thủ này ra.
Hồ Phỉ cười nhạt, bước tới một bước, che chắn cho Miêu Nhược Lan. Bảo Thụ thấy chàng không có công phu kì lạ nào chống đỡ thì mừng lắm, thầm nghĩ: “Thì ra ngươi chỉ phách lối, công phu chẳng qua có vậy, phen này phải khiến cho ngươi không có đất chôn mới được!”. Lão đang lúc đắc ý chợt thấy Hồ Phỉ vung hai tay áo ra là đã thu hết mấy chục hạt sắt đang vun vút bay tới, rồi từ tay áo có tiếng lách tách như tiếng băng rơi, mấy chục viên sắt đã bay cả sang vách băng, làm băng vụn toé ra tứ phía.
Bảo Thụ thấy thế thì bất giác sợ mất mặt, vội nhảy lùi về phía sau Tào Vân Kỳ.
Sợ Hồ Phỉ đuổi theo, lão la lên “Hỏng rồi!” hai tay chộp lấy lưng Tào Vân Kỳ, nhấc tấm thân cao lớn ấy lên ném vào đống lửa. Lão định dập tắt lửa đê Hồ Phỉ không thấy được lão, nào ngờ đống lửa vừa được bỏ thêm củi khô đang rực cháy, Tào Vân Kỳ ngã vào lửa, lửa bén vào quần áo hắn khiến trong hang càng thêm sáng.
Hồ Phỉ thấy Bảo Thụ vừa bước lên đã giở ngay độc thủ ra với mình và Miêu Nhược Lan, lại nghĩ tới những điều Miêu Nhược Lan vừa kể, đủ thấy lão hoà thượng này bỉ ổi ham tiền, đã hại đến tính mạng cha mình thì lửa giận trong lòng bùng lên chẳng khác gì đống lửa đang cháy trong hang vậy. Chàng cúi nhặt một vốc châu báu đặt lên lòng bàn tay trái, dùng ngón tay trỏ bên phải không ngừng búng đi.
Chỉ thấy nào trân châu, san hô, bích ngọc, mã não, phỉ thuý, bảo thạch, ngọc mắt mèo, ngọc xanh tố mẫu… thôi thì đủ thứ quý hiếm bay tới như mưa trên người Bảo Thụ. Mỗi hạt ngọc bắn tới khiến lão đau đớn khôn cùng. Lão vọt lên, cui xuống cố tránh nhưng hễ ngón tay Hồ Phỉ búng ra, châu báu bắn tới đều trúng cả không chệch chút nào. Người trong hang khá đông, vậy mà số châu báu này không khi nào chạm vào người khác.
Nhìn thấy cảnh đó, bọn Lưu Nguyên Hạc, Ðào Bách Tuế đều nép sát người vào vách hang không dám động đậy. Lúc đầu Bảo Thụ còn né đông tránh tây, sau mắt cá chân trúng liền hai viên ngọc bích lão ngã ngay xuống, không đứng dậy được,đành kêu gào lăn lộn dưới đất. Lúc trước, lão chỉ sợ châu báu không nhiều, lúc này lão lại mong càng ít châu báu càng hay.
Hồ Phỉ càng búng càng nặng tay song cố ý tránh những chỗ nguy hiểm đến tính mạng lão, để cho lão nếm đủ mùi cay đắng. Những người kia lùi cảvào một góc hang chăm chú ngó xem, ai nấy hồn xiêu phách lạc, thở cũng không dám thở mạnh.
Miêu Nhược Lan thấy Bảo Thụ kêu rên thê thảm quá, trong lòng không nỡ bèn nói nhỏ:
-Người này xấu xa nhưng lão nếm đòn thế đủ rồi, tha cho lão đi!
Bình sinh Hồ Phỉ đã trừ ác là trừ tận gốc, huống hồ kẻ đó chính là kẻ thù đã giết hại cha mẹ mình, nhưng vừa nghe Miêu Nhược Lan nói vậy, chàng bỗng thấy mình đã hưởng hạnh phúc cực lớn nên lòng căm giận kẻ thù độc ác nhất trên đời cũng vơi đi nhiều. Chàng bèn vung tay trái ra, hơn mười mảnh ngọc quý còn lại trên tay bắn ra kêu lách tách, găm hết vào trong vách băng. Mọi người đều kinh hãi, thầm nghĩ: “Số đá quý ấy nếu cho Bảo Thụ nếm mùi, thì chỉ một mảnh thôi, cũng đủ lấy đi tính mệnh lão!”.
Hồ Phỉ quét ánh mắt giận dữ từ trái sang phải, ánh mắt tia đến mặt người nào,người ấy bất giác cúi gầm mặt xuống, không dám đón ánh mắt chàng. Trong hang im lặng như tò, Bảo Thụ tuy đau đớn trên người song không dám rên nửa tiếng.
Một lúc sau, chàng quát lên:
-Các vị ham châu báu đến thế thì ở lạ trong hang này mà làm bạn với châu báu nhé!
Nói xong chàng dắt tay Miêu Nhược Lan quay gót bước ra.
Cả bọn không ngờ chàng chịu dễ dàng buông tha bon họ đến thế nên đều mừng rỡ khi nghe tiếng bước hcân hai người xa dần trong đường hầm. Họ kêu lên vui vẻ rồi cúi xuống nhặt châu báu.
Ra khỏi đoạn có hai tảng đá tròn, Hồ Phỉ nói:
-Chúng mình ngồi đây đợi một lát xem họ có chịu ra không. Ai ít lòng tham,chịu rút ra ngoài thì tha mạng sống của người đó.
Lúc này trong hang mọi người dùng tay bới nhặt lung tung, chỉ giận cha mẹ không sinh cho mình vài cái tay nữa. Một lúc lâu sau, bỗng trong đường hầm vang lên một hồi tiếng đóng nện nặng nề, bọn họ lúc đầu không hiểu, sau mới nghĩ ra thì ai nấy hoảng sợ, mặt xám ngoét, cùng kêu lên:
-Trời ơi, nguy mất rồi!
-Hắn lấp chặt lối ra rồi!
-Liều mạng với hắn thôi!
Trong lúc nguy cấp, mọi người tranh nhau ùa ra. Ðến được chỗ hai tảng đá tròn thì hai tảng đá đó đã bị Hồ Phỉ đẩy về chỗ cũ, chặn cứng lối ra. Ðường hầm chật chội, ở phía ngoài còn có chỗ để đẩy, còn phía trong chỉ đủ chỗ cho mọi người đứng. Mặt đá lại trơn nhẵn không bám vào đâu được mà xê dịch, bị lấp kín như thế này, chỉ một lúc sau số băng tan thành nước sẽ đông cứng lại, nếu bên ngoài không có người đến cứu thì người trong hang không sao thoát ra ngoài được.
Miêu Nhược Lan thấy không nỡ, nói:
-Huynh định chôn sống họ hay sao?
Hồ Phỉ đáp:
-Muội nói đi, trong số đó ai là người tốt, đáng được tha mạng nào.
Miêu Nhược Lan thở dài:
-Trên đời này, ngoài cha muội và huynh, muội không còn biết có ai thực sự là người tốt cả. Song huynh không thể giết hết kẻ xấu trong thiên hạ được.
Hồ Phỉ sững người, hỏi:
-Huynh sao kể được là người tốt?
Miêu Nhược Lan ngẩng lên nhìn chàng, đáp:
-Muội biết huynh là người tốt. Khi chưa gặp huynh, muội đã biết rồi kia! Ðại ca,đại ca có biết lúc nào trái tim muội đã thuộc về đại ca không?
Ðây là lần đầu tiên nàng buộc miệng gọi chàng là “đại ca”, nhưng tiếng này gọi tự nhiên, trôi chảy, dường như đã quen gọi như thế từ rất lâu. Hồ Phỉ không sao kìm nén được nữa, dang tay ra ôm chặt lấy nàng. Miêu Nhược Lan cũng vòng tay ôm lại, cả người tựa vào lòng chàng. Hai người ôm lấy nhau, chỉ mong sao giây phút này dài vô tận.
Hai người ôm nhau như thế không biết đã được bao lâu thì ngoài cửa hang vang lên mấy tiếng bước chân. Hồ Phỉ thầm nghĩ: “Hỏng rồi, mình lấp cửa đường hầm để chôn sống bọn kia thì lại có: “con sẻ vàng rình con bọ ngựa bắt con ve”, thế là lại có kẻ khác lấp cửa hang chôn sống mình!”. Tay vẫn ôm Miêu Nhược Lan, Hồ Phỉ nhanh chóng đưa nàng rời khỏi hang.
Dưới ánh trăng, họ thấy trên tuyết có hai người ra sức chạy trốn, hiển nhiên là hai khách võ lâm đã so tài với Hồ Phỉ trên đỉnh núi tuyết. Chàng cười, bảo:
-Cha muội đuổi chúng đấy.
Chàng cúi xuống vốc một nắm tuyết, vận lực ra ngón tay nắm tuyết thành hòn cứng như đá. Chàng vung tay ra, hòn tuyết bay thẳng đánh trúng sau lưng một người, người này ngã xuống không dậy được. Người chạy sau thất kinh, ngoái cổ lại nhìn thì một hòn tuyết khác bay trúng vào ngực, lập tức ngã ngửa ra. Tuy hai kiểu ngã khác nhau song cả hai đều không sao đứng dậy được.
Hồ Phỉ cười ha hả rồi chợt dịu giọng hỏi:
-Trái tim muội thuộc về huynh từ khi nào? Huynh nghĩ chắc không thể sớm hơn huynh được. Phút đầu tiên nhìn thấy muội, huynh… huynh đã không còn làm chủ được bản thân nữa.
Miêu Nhược Lan thủ thỉ:
-Mười năm trước đây, khi mới lên bảy, muội nghe cha kể chuyện về cha mẹ đại ca, lòng muội chỉ toàn nghĩ tới đại ca. Muội tự nhủ, nếu cậu bé đáng thương đó còn sống trên đời này muội sẽ chăm lo cho cậu ta suốt đời để cậu ta đưọc sung sướng,quên thủa nhỏ đã bị người ta bắt nạt, xử tệ như thế nào.
Hồ Phỉ cảm kích trong lòng, không biết nói gì hơn, chỉ biết ôm chặt nàng vào lòng, qua vai nàng trông ra, bỗng chàng thấy trên đỉnh núi tuyết có mấy bóng đen đang bám dây trượt xuống. Hồ Phỉ kêu lên:
-Chúng mình chặn bọn xấu xa này cho cha muội nhé!
Nói xong, chàng vận lực vào gan bàn chân rồi ôm Miêu Nhược Lan chạy gấp,chốc lát đã tới chân đỉnh núi tuyết. Lúc này hai người đã đặt chân lên đất chỗ chân núi, mấy người khác đang tuột theo sau. Hồ Phỉ đặt Miêu Nhược Lan xuống, hai tay nắm hai hòn tuyết rồi cùng lúc vung ra, hai người khách dưới chân núi ngã liền.
Chàng đang định vung tuyết đánh bọn chưa xuống tới đất, chợt nghe lưng chừng núi có có người tiếng nói rành rọt:
-Ta thả chúng đi đấy, đừng ai cản chúng!
Từng tiếng một trong hai câu này vang lên từ lưng chừng núi xuống, âm vang và rành rọt, đó chính là tiếng nói của Miêu Nhân Phượng. Miêu Nhược Lan mừng rỡ gọi:
-Cha!
Tiếng nói ấy xa ngoài trăm trượng nhưng âm thanh từ xa vang tới chẳng khác nào người nói ở ngay trước mặt. Hồ Phỉ thấy nội lực Kim Diện Phật quả thực thâm hậu hơn hẳn mình, bất giác càng thêm khâm phục. Chàng vung hai tay ra, hai hòn tuyết nằm trong tay chàng lại cùng bay đi, lại trúng vào huyệt đạo hai người nằm dưới đất, song lần trước là điểm huyệt, lần này là giải huyệt. Hai người này nhúc nhích mấy cái rồi chống tay đứng lên, bỏ chạy thục mạng.
Tiếng Miêu Nhân Phượng từ lưng chừng núi lại vang lên:
-Quả nhiên công phu rất khá, chỉ tiếc là học chưa tốt!
Lời bình gồm mười hai chữ này, mỗi tiếng lại gần thêm ra, rồi một người cao gầy bám thừng tụt xuống. Chữ “tốt” vừa ra khỏi miệng thì người này đã đứng ngay trước mặt Hồ Phỉ. Hai người giương mắt nhìn nhau, đều không nói gì, chỉ nghe xung quanh tiếng lạo xạo vang lên, đó là bước chân trên tuyết của những kẻ lên núi lần này được thoát chết chạy tản ra tứ phía.
Dưới ánh trăng, một người khập khiễng bước tới gần, chính là trang chủ Ðỗ Hi Mạnh. Lão đưa một cái bọc dài chừng hai gang tay cho Hồ Phỉ, run run nói:
-Ðây là di vật cũ của mẹ cháu, trong này không thiếu một thứ gì, cháu hãy nhận lấy đi!
Hồ Phỉ nhận lấy cái bọc, cảm thấy như có một luồng hơi nóng từ đấy truyền vào tim, khiến chàng run rẩy cả người. Nhìn theo bóng Ðỗ Hi Mạnh cà nhắc xa dần trong tuyết, Miêu Nhân Phượng thầm nghĩ: “Người này văn võ toàn tài, kết giao khắp thiên hạ, cũng gọi được là một hào kiệt, tình bạn với mình cũng đã trải hơn hai chục năm. Chỉ vì một sai lầm một lúc mà thân tàn mang tiếng xấu, thực là đáng tiếc!”. Ông không biết Ðỗ Hi Mạnh và mẹ Hồ Phỉ là chỗ họ hàng gần gũi, càng không biết Hồ Phỉ là đứa con côi mà mình thương nhớ không quên trong hơn hai chục năm qua. Ông thong thả quay người lại, thấy con gái mình đang khoác áo đàn ông thẹn thò đứng trong tuyết. Ông thầm nghĩ, chàng trai kia tuy cứu mình thoát chết nhưng lại làm hoen ố sự trinh trắng của con gái mình, lại nghĩ đến chuyện
người vợ thất tiết bỏ nhà, giận không thể giết hết bọn đàn ông vô hạnh đểu cáng trong thiên hạ. Nghĩ đến đây ngực ông như muốn vỡ ra, khàn khàn bảo Hồ Phỉ:
-Theo ta!
Nói xong sải chân bước đi. Miêu Nhược Lan kêu lên:
-Cha, Hồ đại ca là…
Miêu Nhân Phượng vốn trầm mặc ít nói, xưa nay không thích nói thừa dù chỉ một tiếng, cũng không thích nghe thừa một lời nào, lúc này lại đang cơn giận bèn không cho con gái nói nữa. Thấy Hồ Phỉ đưa tay toan dắt con gái mình đi theo, ông quát to:
-To gan thật!
Ông lướt tới giơ tay trái lên, bàn tay to như chiếc quạt lá nắm chặt lấy cánh tay trái của Hồ Phỉ, nói:
-Lan Nhi, con đứng đây. Cha có mấy câu cần nói với nó.
Nói rồi chỉ một ngọn núi bên phải. Ngọn núi này tuy không cao vút tận mây như ngọn Ngọc Bút song phần nguy nga hiểm trở cũng chẳng kém là bao. Ông bỏ cánh tay Hồ Phỉ ra, đi nhanh lên núi. Hồ Phỉ nói:
-Lan muội, cha muội đã nói như vậy, huynh phải đi một lát đây. Muội đợi ở đây nhé!
Miêu Nhược Lan nói:
-Ðại ca nhận lời với muội một việc…
Hồ Phỉ đáp:
-Ðừng nói một việc, một ngàn một vạn việc cũng chiều theo ý muội.
Miêu Nhược Lan nói:
-Nếu cha muội muốn huynh lấy muội…
Hai tiếng cuối cùng nhỏ như tiếng muỗi kêu cơ hồ không nghe thấy, rồi nàng cúi mặt xuống, ngượng ngùng mãi không thôi. Hồ Phỉ trao cái bọc vừa nhận từ Ðỗ Hi Mạnh lúc nãy cho Miêu Nhược Lan, dịu giọng nói:
-Muội yên tâm. Huynh giao di vật của thân mẫu huynh cho muội. Trong thiên hạ không còn một vật ước định nào trang trọng như vật này cả.
Miêu Nhược Lan nhận lấy cái bọc, bất giác run rẩy, cúi đầu nói:
-Tất nhiên muội tin huynh rồi, có điều muội hiểu tính cha muội. Nếu ông giận dữ thậm chí đánh huynh, thì xin huynh hãy nể mặt muội, nhường nhịn ông lần này.
Hồ Phỉ cười:
-Ðược, huynh nhận lời!
Nhìn phía xa, bóng Miêu Nhân Phượng lúc ẩn lúc hiện giữa những mô đá phủ tuyết trắng đang chạy lên đỉnh núi với tốc độ cực nhanh. Hồ Phỉ thơm nhẹ lên má Miêu Nhược Lan rồi vận khí chạy theo Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng.
Theo dấu chân trên tuyết, Hồ Phỉ ngoặt qua mấy khúc quanh co chạy lên núi.
Chỉ thấy đường lên ngày càng một hiểm trở không dám sơ ý chút nào, chỉ e sẩy chân một cái là thịt nát xương tan như chơi. Chạy đến đoạn sau, vách núi đều là băng tuyết đông cứng, rất trơn, không có chỗ để chân mà lên. Chàng thầm nghĩ:
“Miêu đại hiệp cố ý chọn đường núi hiểm, hẳn là muốn kiểm tra võ công của mình đây!”. Thế rồi, triển khai khinh công, ra sức trổ tài, đường núi càng hiểm trở chàng chạy càng nhanh. Chuyển qua một khúc ngoặt nữa, chàng bỗng thấy bóng người cao gầy đứng trên một phiến đá lồi bên vách núi, hình dáng nổi bật trên nền trời xanh thẫm như một cây cổ thụ khô cằn, đó chính là Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng với biệt hiệu “Ði khắp thiên hạ không địch thủ”.
Hồ Phỉ sững người, vội vàng dừng bước, hai chân sử dụng công phu “Thiên cân trụy” đặt người vững chãi bên vách núi thẳng đứng. Miêu Nhân Phượng trầm giọng nói:
-Tốt, ngươi có giỏi tới đây!
Ông quay lưng về phía mặt trăng, mặt sấp bóng nên không nhìn rõ nét mặt.
Hồ Phỉ thở một hơi; trong lúc đối diện với người mà bình sinh nghĩ tới ngàn vạn lần này, chàng không biết tính sao cho phải.
Ông ta là kẻ thù giết cha nhưng lại là cha Miêu Nhược Lan.
Ông ta khiến mình côi cút buồn khổ một đời, song Bình Tứ thúc thúc nói ông ta là một người hào hiệp trượng nghĩa, không hề có ý gì không phải với cha mẹ mình.
Ông ta lấy hiệu là “Ði khắp thiên hạ không địch thủ”, võ nghệ không có người thứ hai trên đời, song ta chưa phục, muốn thử xem ông ta mạnh hay ta mạnh?
Nhà họ Miêu là kẻ thù nhiều đời với nhà họ Hồ, hơn trăm nay đối đầu không dứt, song ông ta không truyền võ công cho con gái, phải chăng thật lòng mong muốn mối thù truyền kiếp đó đến ông ta thì cởi bỏ?
Vừa nãy ta cứu tính mạng của ông ta, song chính mắt ông ta thấy Miêu Nhược Lan chung chăn chung giường với ta, tin chắc ta đã giở trò vô lễ với con gái ông ta,nào biết ông ta có thứ lỗi cho ta không?
Miêu Nhân Phượng thấy vẻ hào kiệt thô dã, râu ria tua tủa của Hồ Phỉ mường tượng như dáng vẻ Hồ Nhất Ðao năm xưa thì trong lòng rung động song ngay lập tức nhớ ra con trai Hồ Nhất Ðao đã bị người hại, ném xuống sông ở Thương Châu rồi. Người này tướng mạo khá giống, có lẽ là ngẫu nhiên trùng hợp mà thôi. Lại nghĩ đến chuyện hắn làm nhục con gái yêu độc nhất của mình thì lửa giận bừng bừng, tay trái giơ lên, tay phải đấm vù một cái thẳng tới ngực Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ chỉ đứng cách có vài sải chân, thấy Miêu Nhân Phượng vung quyền đánh tới, dũng mãnh vô cùng thì đành giơ chưởng ra đỡ. Hai người quyền, chưởng giao nhau, mỗi bên đều thấy chấn động trong người. Miêu Nhân Phượng từ khi so tài với Hồ Nhất Ðao đến nay, hơn hai chục năm qua chưa gặp được địch thủ, lúc này đường quyền của mình bị Hồ Nhất Ðao hóa giải, biết đối phương luyện được chưởng pháp tinh diệu và nội lực thâm hậu thì lòng mong muốn thắng địch càng tăng. Ông vận chưởng thành luồng gió, liên tiếp ra liền ba chiêu.
Hồ Phỉ lần lượt hoá giải, đến chiêu thứ ba thì chưởng lực của Miêu Nhân Phượng cực mạnh, tuy nhanh nhẹn né tránh song người lảo đảo mấy cái, suýt nữa rơi xuống vực. Chàng thầm nghĩ: “Nếu nhường nhịn nữa thì ông ta đến buộc mình rơi xác mất thôi!”. Thấy Miêu Nhân Phượng phi chân trái đá thẳng vào bụng dưới, Hồ Phỉ lập tức tay phải ra quyền, tay trái ra chưởng cũng đánh vỗ vào mặt đối phương. Chiêu đánh này khiến kẻ địch không thể không lui, là chiêu tài tình để hoá giải cú đá chân trái của đối phương. Chiêu này tuy Hồ Phỉ ra tay rất nặng song chưa phải toàn
lực. Có điều cao thủ so tài không hề có chút nhường nhịn. Miêu Nhân Phượng giơ cánh tay đón đỡ với tất cả sức lực. Bốn cánh tay giao nhau vang lê hai tiếng tiếng răng rắc. Hồ Phỉ thấy ngực ngâm ngẩm đau, vội vàng vận khí chống đỡ. Nào ngờ quyền pháp Miêu Nhân Phượng dũng mãnh khôn bì, một khi đã chiếm lợi thế thì thế quyền ra càng lúc càng mạnh, không thể cho đối phương có cơ hội lấy hơi. Nếu ở chỗ đất bằng, Hồ Phỉ có thể nhảy ra khỏi vòng đấu né chạy mấy bước để tránh luồng chưởng phong của ông ta, sau đó quay trở lại đấu tiếp. Nhưng ở nơi vách đá dựng đứng này, thực là không có đất lùi, chàng đành nghiến chặt răng, sử dụng “Xuân tằm chưởng pháp”, che kín những chỗ trọng yếu trên toàn thân.
Mọi chiêu trong “Xuân tàm chưởng pháp” đều là thế thủ, ra tay cực ngắn, giơ chân đá không quá một gang, nhưng chiêu thuật kín kẽ vô cùng, khắp người không hề để lộ một chút sơ hở. Chưởng pháp này vốn dùng khi bị người vây đánh mà bản thân ở trong tình thế rất bất lợi, không mong tấn công chỉ không cần sơ hở mà thôi.
Tuy giữ được mình kín nhưng phép này có một điểm hết sức bất lợi là ngay từ đầu đã đứng ở thế không thắng, tên gọi “Xuân tàm chưởng pháp” quả là con tằm kết tơ tự trói buộc mình, không thể phản kích cho dù trong chiêu số của kẻ địch có sơ hở lớn đến mấy, nếu không thay đổi chưởng pháp thì không thể đánh thắng được.
Miêu Nhân Phượng ra chiêu mỗi lúc một gấp; thấy đối phương ở trong tình thế rất bất lợi nhưng dù ông có tấn công mạnh mẽ đến mấy, Hồ Phỉ cũng có cách hoá giải. Có điều anh ta chỉ giữ thế thủ chứ không tấn công thành thử ông không hề gặp nguy hiểm, bèn không cần phòng ngự nữa, dốc toàn lực ra tấn công.
Ðánh nhau đang lúc say sưa, Miêu Nhân Phượng tung ra một quyền, Hồ Phỉ tránh được, nắm đấm thoi vào vách núi là băng tuyết tung toé, một mảnh băng bắn vào mi mắt chàng. Mi mắt là chỗ mềm nhất, lần này ở ngoài dự liệu, không kịp phòng bị nên Hồ Phỉ thấy mắt đau nhói; tuy chàng không dám giơ tay lên giụi song nhau,
Hồ Phỉ chống đỡ được chỉ nhờ một chân, thấy Miêu Nhân Phượng phi đạp mà không có chỗ tránh thì than: “Thôi rồi! Thôi rồi! Hôm nay rốt cuộc mình mất mạng về tay ông ta!”. Trong lúc nguy nan, cầu được sống trong lúc cầm chắc cái chết,chàng cũng giậm chân phải, người vọt lên hơn một trượng rồi lộn ngược như con diều hâu bổ từ trên lưng chừng trời xuống. Miêu Nhân Phượng kêu to: “Hay lắm!”
rồi dùng vai xuống hích mạnh. Hồ Phỉ giơ song quyền đánh trúng vai song bị ông ta hích mạnh, bắn ra khỏi bờ vực rơi thẳng xuống dưới.
Hồ Phỉ cười thê thảm, một ý nghĩ tóe lên trong óc như tia chớp: “Ta từ nhỏ mồ côi khổ sở, nhưng trước khi chết được Lan muội yêu thương, thế thì cũng không uổng cả cuộc đời”. Bỗng cánh tay chàng bị nắm chặt, cú rơi thình lình dừng ngay lại, thì ra Miêu Nhân Phượng đã kịp nắm lấy cánh tay chàng, kéo chàng lên. Ông nói:
-Ngươi đã cứu tính mạng ta, bây giờ ta tha cho ngươi để đáp lại. Một mạng đổi một mạng, chẳng ai nợ nần ai. Nào, đánh tiếp đi!
Nói rồi đứng sang một bên, ngang hàng với Hồ Phỉ, không chiếm lợi thế là dựa vào vách núi nữa.
Hồ Phỉ thoát chết, không còn muốn đánh tiếp, chắp tay nói:
-Vãn bối không phải là địch thủ của Miêu đại hiệp, còn tỉ thí làm gì? Miêu đại hiệp muốn xử trí như thế nào, vãn bối xin vâng lời là được rồi.
Miêu Nhân Phượng chau mày nói:
-Lúc đầu ra tay ngươi có ý nhường, lẽ nào ta không thấy? Ngươi khinh Miêu Nhân Phượng tuổi cao sức yếu, không phải đối thủ của ngươi, phải không?
Hồ Phỉ đáp:
-Vãn bối không dám.
Miêu Nhân Phượng quát:truyện ma
-Ra tay!
Hồ Phỉ muốn giải thích việc mình cùng giường chung chăn với Miêu Nhược Lan thực là chuyện bất ngờ, tịnh không phải có ý khinh nhờn, bèn nói:
-Còn chuyện trong căn phòng ấy…
Miêu Nhân Phượng vừa nghe thấy hai tiếng “Căn phòng” thì lửa giận bùng cháy,cho luôn một chưởng vào giữa mặt chàng, Hồ Phỉ đành đón đỡ. Vừa qua cuộc so tài lúc nãy, chàng biết chỉ cần hơi nhường bước là bị chưởng lực đối phương chụp lấy ngay nên đành dốc toàn lực ra. Hai người cùng thí thố tuyệt nghệ bình sinh, chưởng qua cước lại trên bờ vực, vừa đấu trí, vừa đấu lực, đấu quyền pháp cùng đấu nội công, qua hơn ba trăm chiêu cũng chưa phân thắng bại.
Miêu Nhân Phượng càng đánh càng ngờ ngợ, luôn nghi ngờ cuộc tỉ thí giữa mình và Hồ Nhất Ðao ở Thương Châu năm nào. Ông đột ngột nhảy lùi hai bước, hỏi:
-Dừng tay! Ngươi có biết Hồ Nhất Ðao không?
Nghe nhắc tới người cha đã khuất, nỗi buồn giận ngổn ngang trong lòng, Hồ Phỉ nghiến răng nói:
-Hồ đại hiệp là anh hùng tiền bối, không may bị kẻ gian giết hại. Nếu tôi có phúc được ông ấy dạy bảo mấy câu thì dù chết ngay cũng cam lòng.
Miêu Nhân Phượng thầm nghĩ: “Phải rồi, Hồ Nhất Ðao đã mất đã hai mươi bảy năm, người này chẳng qua mới ngoài hai mươi tuổi, sao quen biết được? Hắn nói mấy câu nghe được lắm, nếu không vì hắn làm nhục Lan Nhi thì chỉ nghe mấy câu đó thôi, ta đã muốn kết bạn với hắn”. Rồi thuận tay, ông bẻ hai cành cây cứng cáp bên núi, nhắc nhắc thấy nặng bằng nhau, ném một cành cho Hồ Phỉ, bảo:
-Quyền cước đã khó phân hơn kém, dùng vũ khí để quyết sống chết vậy!
Nói rồi cầm cành cây nhứ một cái, tay trái nắm bí quyết kiếm pháp, cành cây theo cách đấu kiếm đâm ra, đúng là kiếm pháp họ Miêu tuyệt nghệ chốn võ lâm,vô song trong thiên hạ. Tuy là một cành cây nhỏ song khi đâm tới, thế kiếm mang theo cả kình phong, vừa lợi hại vừa chuẩn xác, nếu bị đầu nhọn cành cây đâm trúng thì không khác gì bị kiếm đâm trúng cả.
Hồ Phỉ thấy thế kiếm lợi hại, chẳng dám sơ sểnh chút nào, giơ ngang cành cây lên đỡ. Thế đỡ này trong cương có nhu, quả là thủ pháp bậc danh gia. Miêu Nhân Phượng sững sờ, thầm nghĩ: “Sao võ công của hắn lại y hệt Hồ Nhất Ðao thế nhỉ?”.
Nhưng khi các cao thủ sao tài, đao kiếm đã giao nhau thì sau đó cứ tới tấp qua lại,quyết không cho phép đối phương rảnh tay mà nghĩ ngợi, ngờ vực chút nào.
Hồ Phỉ đưa cành cây lên đỡ, sau đó đâm thốc lên. Miêu Nhân Phượng thu kiếm chém lại,khiến chàng không thể không rút kiếm về đón đỡ.
Hồ Phỉ cả đời chưa từng dự một cuộc đấu nào ác liệt như thế. Võ công của chàng toàn dựa vào cuốn sách cha chàng truyền lại mà luyện tập, chiêu số tuy tinh diệu song còn thiếu kinh nghiệm đọ kiếm thực tế, tài nghệ võ công còn hạn chế về tuổi tác, chưa đạt tới mức thượng thừa. May nhờ trai tráng trẻ tuổi, tinh lực hơn hăn đối phương nên trong vòng mấy chục chiêu vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đều gặp phải những chiêu cực hiểm song đều biết dùng những chiêu số khôn khéo hoá giải trong những lúc nguy cấp. Hồ Phỉ hăng hái đón đánh mà cảm phục trong lòng:
“Kim Diện Phật đại hiệp quả nhiên danh bất hư truyền, nếu ông ta trẻ lại hai chục tuổi thì ta thua từ lâu rồi. Thảo nào năm xưa ông đấu ngang sức ngang tài với cha ta, thật là anh hùng ghê gớm!”.
Hai người biết nếu chỉ dựa vào chiêu số thì không dễ gì thắng được đối phương,mà phải chiếm được địa thế thuận lợi là dựa lưng vào vách núi thì mới mong thắng trong trận tỉ thí này. Vì thế cả hai đều cố hết sức dồn đối phương ra mép vực để giành lấy lợi thế dựa lưng vào vách núi, song cả hai đều ra chiêu rất sít sao, chỉ cần ai đó bước nửa bước vào phía trong là lập tức bị kiếm đối phương đâm trúng ngay.
Ðánh đến lúc như say, Miêu Nhân Phượng ra một chiêu “Hoàng long chuyển thân thổ tu thế”, đâm vụt vào ngực đối phương. Hồ Phỉ không có chỗ tránh mà cây kiếm que lại chém xuống mé ngoài, không kịp thu kiếm về cứu. Hồ Phỉ thất kinh, vội giơ tay trái gạt ngang mũi kiếm que của Miêu Nhân Phượng, tay phải ra chiêu “Phục hổ thức” bổ xuống. Miêu Nhân Phượng buộc miệng kêu “Giỏi!” rồi rung kiếm khiến mấy ngón tay trái Hồ Phỉ tê buốt, phải vội vàng buông ra.
Miêu Nhân Phượng dấn thêm nửa bước, đang tính đâm một chiêu “Thương bộ trích tinh thức”, nào ngờ vách đá cứng bên bờ vực bị họ giẫm đạp đã lâu, lúc này nứt lở hẳn. Thế kiếm của ông hướng về phía trước, trọng lượng toàn thân dồn cả xuống chân trái phía sau, chỉ nghe hai tiếng ” lắc rắc” vang lên, thế là một tảng đá cùng băng tuyết lao nhanh xuống vực.
Miêu Nhân Phượng bị hẫng chân, cả người bất giác cũng rơi xuống. Hồ Phỉ hoảng quá vội đưa tay kéo lên. Thế rơi của Miêu Nhân Phượng rất mạnh nên tuy Hồ Phỉ nắm được tay áo ông kéo lên nhưng cả hai níu kéo nhau khiến chàng cũng ngã ra ngoài mép vực. Hai người không hẹn mà cùng lộn người trong không trung, nép vào sát vách nũi và thi triển công phu “Bích hổ du tường công” để lại leo lên núi song vách núi băng tuyết bám đầy, trơn vô cùng, khiến “Bích hổ du tường công” không sao thi triển được; đừng nói con người, mà ngay cả loài thạch sùng có ở đây nhưng cũng không thể leo nổi. Thế là leo lên tuy chẳng được nhưng thế rơi chậm dần đi.
Hai người từ từ rơi xuống. Thấy rơi thêm độ hơn mười trượng nữa là một phiến đá nhô lơ lửng ra ngoài, họ thấy nếu rơi không đúng được vào phiến đá này thì cả hai chỉ có nước thịt nát xương tan. ý nghĩ quay cuồng trong óc thì họ đã đặt mình được trên phiến đá. Võ công hai người ngang nhau, ý nghĩ cũng giống nhau, vừa nãy cùng thi triển công phu “Thiên cân trụy” nên họ đứng được vững vàng.
Mặt phiến đá rất nhẵn, bị băng phủ lại càng trơn hơn nhưng hai người võ công cao cường, vừa rơi xuống đã định thần nên không bước trượt lấy nửa bước. Chợt nghe tiếng răng rắc khẽ vang lên, phiến đá nặng hàng mấy trăm cân rung rinh nhè nhẹ. Thì ra phiến đá này gác ngang sườn núi đã nhiều năm, đá vụn bên dưới rơi rụng dần, vốn dĩ lúc nào cũng có thể rơi, nay thêm trọng lượng của hai người nữa khiến đá vụn xen lẫn băng rơi lả tả, phiến đã mỗi lúc một rung rinh dữ.
Hai cây kiếm que theo người rơi xuống phiến đá. Miêu Nhân Phượng thấy tình thế nguy cấp lạ thường vội đánh một chưởng bằng tay trái thì tay phải đã lượm được một cành cây, ngay sau đó ra chiêu “Thượng bộ vân biên bích nguyệt”, giơ kiếm chém xiên xuống. Hồ Phỉ vội hạ thấp đầu, cúi lưng né tránh, và cũng nhặt được cành cây lên, trả lại một chiêu “Bái phật thỉnh kinh”. Lúc này hai người sử dụng toàn chiêu số tấn công, chiêu nào chiêu ấy cực nguy hiểm, cực lợi hại, song tiếng răng rắc ngày một vang lên nhiều hơn, họ khó mà đứng vững chân được. Hai người đều nghĩ: “Phải ép cho đối phương rơi xuống, giảm nhẹ trọng lượng trên phiến đá thì nó mới không đến nỗi rớt ngay, có thế ta mới mong sống được”. Lúc này sống chết quyết định trong nháy mắt, ra tay không thể nể tình.
Trong chốc lát họ đã giao đấu với nhau hơm mười chiêu. Miêu Nhân Phượng thấy đối phương sử dụng kiếm giống hệt đao pháp năm xưa của Hồ Nhất Ðao thì càng ngờ vực; nhưng vì thình thế eo hẹp, không hở lúc nào để mà hỏi. Một chiêu “Phản uyển Dực Ðức xông trướng” vừa chém ra, phải xuất tiếp chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí”. Chiêu này cùng chường nhất tề đánh ra, thế nào cũng ép được đối phương phải ngã xuống vực, đó là cách đánh đã thành thói quen của Miêu Nhân Phượng nên lúc xuất chiêu bất giác vai hơi nhô lên một chút.
Lúc này trăng sáng vằng vặc, xanh biếc tầng không, trăng soi vách đá thành một vùng sáng rỡ. Vách đá ấy toàn là băng tuyết đông lại, sáng chẳng khác gì gương,phản chiếu rõ phía sau lưng Miêu Nhân Phượng. Nhin thấy cảnh ấy, Hồ Phỉ nhớ lại tình hình cha chàng cùng Miêu Nhân Phượng tỉ thí năm xưa qua lời kể của Bình A Tứ. Lúc ấy mẹ chàng đang ở đằng sau lưng ông ta, bà đã đặng hắng để làm hiệu;còn lúc này sau lưng ông ta là một tấm gương, không cần người ngoài nhắc nhở cũng biết chiêu tiếp theo ắt là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí”. Hồ Phỉ nhanh tay ra
chiêu “Bát phương tàng đao thức”. Thế là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí” của Miêu Nhân Phượng ới ra được nửa chừng thì cả người đã bị thanh kiếm bằng cây của Hồ Phỉ chụp lấy. Lúc này, Miêu Nhân Phượng không còn nghi ngờ gì nữa, hiểu rằng người đang ở trước mặt ông phải có gốc rễ sâu xa với Hồ Nhất Ðao, bèn than
thở “Báo ứng! Báo ứng!” rồi nhắm mắt chờ chết.
Hồ Phỉ giơ thanh kiếm cành cây lên, chỉ một chiêu là bổ cho Miêu Nhân Phượng ngã xuống vực, song chàng nhớ đã từng nhận lời với Miêu Nhược Lan là sẽ không khi nào hại đến tính mạng ông ta. Nhưng nếu không bổ kiếm xuống, để ông ta ra hết chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí” thì mình cũng chết. Lẽ nào vì tha đối phương để chuốc lấy cái chết uổng cho mình.
Phút chốc trăm ngàn ý nghĩ ngổn ngang trong lòng Hồ Phỉ :
-Người này đã từng giết hại cha mẹ ta, khiến ta côi cút khổ sở một đời, nhưng ông ấy lại có hào khí ngang trời, là một anh hùng hào kiệt số một, lại là cha đẻ ý trung nhân của ta, theo lẽ đó thì không thể bổ kiếm xuống được. Nhưng nếu không chém thì bản thân mình đừng hòng thoát chết, mà ta đang ở tuổi tráng niên, chịu chết được sao? Còn nếu giết ông ta, lúc trở về còn mặt mũi nào gặp Miêu Nhược Lan nữa? Lại nếu tránh mặt nàng không gặp nhau thì sống trên trần gian nhưng suốt đời đau xé con tim, sống không bằng chết.
Hồ Phỉ thấy khó nghĩ quá, thực không biết nhát kiếm này nên bổ xuống hay không? Chàng không muốn chém đối phương song cũng không muốn mình mất mạng.
Nếu Hồ Phỉ không phảỉ là người hào hiệp trong nghĩa khí thì nhát kiếm đó tất nhiên đã bổ xuống rồi, chẳng cần trù trừ. Song một người dù khảng khái hào hiệp đến dâu cũng không thể dễ dàng bỏ đi tính mạng mình. Trong lúc này, muốn đi tới quyết đoán thật là ngàn vạn lần khó khăn.
Miêu Nhược Lan đứng trong tuyết đợi rất lâu, rất lâu mà không thấy hai người trở lại bèn thong thả mở cái bọc mà Hồ Phỉ giao cho cô. Trong bọc là mấy chiếc áo cùng một đôi giày trẻ sơ sinh và một mảnh vải vàng làm bọc. Dưới ánh trăng thấy rất rõ bảy chữ “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” thêu bằng chỉ đen trên đó. Ðây chính là mảnh vải năm xưa cha cô lấy ra quấn quanh người Hồ Phỉ.
Cô đứng trên tuyết dưới ánh trăng, ngắm mấy cái áo và đôi giầy của trẻ sơ sinh, trong lòng muôn điều dịu ngọt khiến
Rốt cuộc Hồ Phỉ có bình yên trở về gặp lại cô hay không? Nhát kiếm của chàng rốt cuộc có bổ xuống hay không?
Tác giả Kim Dung để kết cục ngỏ như vậy.
Phần kết của Tuyết Sơn Phi Hồ lơ lửng, không có kết cục khẳng định. Rốt cuộc nhát kiếm của Hồ Phỉ có chém xuống không, xin để cho bạn đọc tự nghĩ lấy Nhát kiếm của Hồ Phỉ có chém xuống hay không là sự lựa chọn của Hồ Phỉ, mỗi bạn đọc đều có thể dựa vào cá tính của mình, dựa vào cách đối nhân xử thế và cách nhìn đối với thế giới này mà có cách lựa chọn khác nhau.
Hết