1. Home
  2. Truyện Kiếm Hiệp
  3. [Audio] Tuyết Sơn Phi Hồ
  4. Tập 3: Miêu Cô Nương (c6-c8)

[Audio] Tuyết Sơn Phi Hồ

Tập 3: Miêu Cô Nương (c6-c8)

❮ sau
tiếp ❯

Chương 6: Miêu Cô Nương Kễ Lại Chuyện Xưa (2)

Bảo Thụ kể tiếp:
-Sấm Vương luôn có bốn vệ sĩ bên mình, ai nấy đều võ nghệ cao cường, trung thành rất mực. Một người họ Hồ, một người họ Miêu, một người họ Phạm, và một người họ Ðiền. Trong quân thường gọi tắt là Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền…
Bọn Ân Cát, Ðiền Thanh Văn nghe đến bốn chữ “Hồ, Miêu, Phạm, Ðiền” thì biết ngay rằng bốn vệ sĩ này ắt hẳn có liên quan mật thiết tới câu chuyện ngày hôm nay.
Ðiền Thanh Văn liếc nhìn Miêu Nhược Lan thấy đang cầm thanh sắt cời lửa nhè nhẹ khơi những cục thanh cháy hồng trong lò , vẻ mặt thẫn thờ, đôi má mịn như ngọc trắng, ửng hồng trước anh lửa bật bùng.
Bảo Thụ ngẩng đầu nhìn lên nóc nhà, nói tiếp:
-Bốn vệ sĩ này theo Sấm Vương vào sinh ra tử, trải qua không biết bao nhiêu gian lao nguy hiểm, đã từng cứu Sấm Vương thoát chết bao nhiêu lần, Sấm Vương coi họ như ruột thịt của mình. Trong bốn người đó, vệ sĩ họ Hồ võ công cao cường,lại tài cán hơn cả. Trong quân, Sấm Vương gọi ông ta là “Phi Thiên Hồ Ly”!
Nghe đến đây, mọi người đều “ồ” lên một tiếng.
-Sấm Vương bị vây hãm núi Cửu Cung vô cùng nguy khốn -Bảo Thụ tiếp tục câu chuyện -Thấy sứ giả nào Sấm Vương cử đi cầu kiến hễ vừa tới chân núi là bị bên địch giết chết, chỉ còn cách cử ba vệ sĩ họ Miêu, họ Phạm, họ Ðiền nhân lúc đêm tối phá vây xông ra đi cầu kiến, vệ sĩ họ Hồ ở lại bảo vệ Sấm Vương. Không ngờ, khi ba vệ sĩ kia trở về cùng đoàn quân cứu viện, thì Sấm Vương bị sát hại rồi.
Ba vệ sĩ thanh khóc hồi lâu. Ngay bấy giờ, vệ sĩ họ Phạm định tự vẫn chết theo chủ soái, song hai người kia ngăn lại, nói rằng hãy nên báo mối thù sâu tựa biển này trước đã.
Ba người đi khắp các xóm dưới núi Cửu Cung để hỏi thăm tường tận về việc Sấm Vương tuẫn nạn ra sao, cảm thấy hình như vệ sĩ họ Hồ vẫn còn sống ở đâu đây.
Họ biết rằng, người ấy võ nghệ siêu quần, lại có nhiều mưu lược; nếu có người ấy đứng đầu, thì có thể trả thù cho Sấm Vương được. Thế là họ chia nhau đi các ngả dò la tin tức về vệ sĩ họ Hồ.
Các bậc trưởng lão trong giới võ lâm vẫn truyền nhau rằng, vì việc tìm kiếm đó mà gây ra việc động trời. Ba vị Miêu, Phạm, Ðiền sau này đều kể lại tường tận mọi việc ấy cho lớp con cháu nghe, và lập tức quy ước trong gia tộc rằng mỗi đời đều kể lại cho đời sau nghe để lớp con cháu của ba họ Miêu, Phạm, Ðiền không bao giờ quên.
Nói đến đây, Bảo Thụ nhìn Miêu Nhược Lan:
-Bần tăng chỉ là người ngoài, nên chỉ biết một cách đại khái thôi. Miêu cô nương bằng lòng nói thêm, hẳn là sẽ tỉ mỉ hơn nhiều.
Mọi người đều nghĩ: “Hoá ra cha con Miêu Nhân Phượng là lớp con cháu của vị vệ sĩ họ Miêu”.
Miêu Nhược Lan đăm dăm nhìn vào lửa hồn kể:
-Năm tôi lên bảy, vào một buổi tối thấy cha tôi mài thanh trường kiếm. Tôi nói tôi sợ đao kiếm lắm, muốn cha tôi cất đi đừng đùa nữa. Cha tôi bảo, cần phải dùng kiếm này để giết một người đã, rồi mới có thể cất đi không bao giờ dùng đến nó nữa.
Tôi bá cổ cha tôi, xin ông không giết người, cha tôi bèn kể cho tôi nghe một câu chuyện.
Rất nhiều năm về trước, dân chúng khổ cực chẳng có cơm ăn áo mặc. đành ăn vỏ cây, rễ cỏ. Rồi ngay cả vỏ cây rễ cỏ cũng hết, đành ăn cả đất bùn, rất nhiều người phải chịu chết đói. Người mẹ không có cơm ăn nên không có sữa, nhiều trẻ sơ sinh chết ngay trong tay mẹ. Thế mà các quan phủ vẫn đòi dân chúng phải nộp lương thực, các nhà giàu vẫn thúc ép dân nghèo nộp tô trả nợ. Dân chúng không kiếm đâu ra được, nên rất nhiều người bị quan phủ giết, bị các chủ nợ bắt nhốt lại.
Cha tôi có dạy tôi một bài hát, bảo là bài ấy do một công tử văn võ song toàn làm ra. Các vị có muốn nghe tôi đọc lại không?
-Xin cô nương cứ đọc đi -Mọi người đồng thanh.
Riêng Bảo Thụ nghe nói đến “vị công tử văn võ song toàn” thì biết ngay đó chính là Lý Nham, viên đại tướng dưới trướng Lý Tự Thành.
Miêu Nhược Lan đọc:
Sâu hạn năm qua khổ thật tình
Mất mùa, lúa má phá tan tành
Gạo cao thóc kém bao lần gấp
Chốn chốn dân lành sống bấp bênh
Lá cây rễ cỏ cho no bụng
Con trẻ oa oa khóc thất thanh
Bụi bám nồi niêu bếp tắt ngấm
Mấy ngày cháo loãng húp sao đành
Quan trên thu thóc sai hổ dữ
Hào phú đòi tô thả sói “lành”
Thương bấy, chỉ còn hơi thở dốc.
Hồn đã lìa xác xuống mồ xanh
Khôn qua ải đói bao oan nghiệt
Khắp chốn xương khô chất tựa thành
Rơi lệ ai là người tránh khỏi?
Lệ rơi hoá máu thấm hoen mình!

Mọi người đều nhớ là vào khoảng giữa đời vua Càn Long. tuy nói là thời thái bình thịnh trị, song hàng năm việc hạn hán và lũ lụt sảy ra vẫn khiến trăm họ khốn khổ.
Nghe cô gái đọc rõ ràng từng câu từng chữ, giọng đọc đượm nỗi đau thương da diết, ai cũng liên tưởng đến những cảnh ngộ mắt thấy tai nghe trong cuộc đời giang hồ của mình và đều thấy mủi lòng thương cảm.
Miêu Nhược Lan nói tiếp:
-Cha tôi còn kể rằng, sau đấy quả tình là dân chúng không sao chịu đựng nổi được nữa. Rồi thì có một vị đại anh hùng đứng lên cầm đầu mọi người đánh vào Bắc Kinh. Tiếc rằng, từ sau khi lên ngôi hoàng đế, vị anh hùng ấy đã xử sự không thoả đáng, đã không đối đãi dân chúng tử tế mà trái lại, các tướng lĩnh dưới quyền còn đi tàn hại dân chúng, cướp bóc của cải của họ. Dân chúng bèn không theo người ấy nữa. Vị anh hùng đó cho rằng lòng dân đều hướng về chàng công tử làm bài hát kia bèn sát hại luôn công tử. Thế là đám thuộc hạ của ông nhốn nháo cả lên. Chẳng bao lâu vị anh hùng đó bị kẻ gian sát hại.
Nói đến đây, Miêu Nhược Lan thở dài, ngừng một lát rồi nói tiếp:
-Còn ba người vệ sĩ của vị anh hùng thì bàn nhau đi tìm người vệ sĩ họ Hồ, hi vọng người ấy sẽ bày kế hoạch báo thù cho chủ soái.
Lúc ấy, người dị tộc đã lên ngôi hoàng đế, truy nã các bạn hữu của vị anh hùng đó ở khắp mọi nơi. Ba người vệ sĩ nọ khó bề yên thân, đành cải trang ẩn trốn. Một người cải trang thành ông lang bán thuốc, một người cải trang thành kẻ ăn mày,còn người thứ ba có sức vóc hơn cả cải trang thành làm người phu khuân vác.
Ba người bọn họ và người vệ sĩ thứ tư kia là bốn anh em két nghĩa, đã đồng cam cộng khổ mấy chục năm trời, còn thân thiết hơn cả anh em ruột. Cả ba đều khắc khoải, chờ mong người thứ tư kia, song suốt bảy tám năm trưòi tìm kiếm mà vẫn bặt tin. Họ nghĩ có lẽ người ấy đã tử trận trong khi bảo vệ chủ soái rồi, và thấy vô cùng đau xót.
Mọi người nghe giọng nói trầm bổng của cô gái, tựa như cách kể chuyện cho trẻ con, đều đoán rằng có lẽ cô gái bắt chước cách kể chuyện của cha mình năm xưa,và thầm nghĩ “xưa nay tuy nghe trong danh hiệu Kim Diện Phật có chữ “Phật”,song ông ta luôn căm ghét điều xấu như kẻ thù, đã ra tay là rất dữ dằn… thế mà đối xử với con gái lại ôn hoà, nhân ái đến thế”.
Miêu Nhược Lan kể tiếp:
-Sau đó mấy năm, cả ba quyết định thôi không tìm người anh em kết nghĩa kia nữa. Họ gặp nhau bàn bạc, biết rằng kẻ gian năm xưa sát hại vị anh hùng, nay đã được phong tước Vương, đang sống sung sướng ở Vân Nam. Họ bèn quyết định đi Vân Nam để giết hắn, báo thù cho thủ lĩnh và người anh em kết nghĩa kia. Thế là cả ba người lên đường đi Vân Nam.
Lưu Nguyên Hạc, Hùng Nguyên Hiến đưa mắt nhìn nhau, cùng hiểu rằng, kẻ gian mà cô gái nói đến chính là Ngô Tam Quế, người được phong làm Bình Tây Thân Vương.
Ba người đi đến Côn Minh -Miêu Nhược Lan kể tiếp -và dò la kỹ lưỡng quanh nơi ở của tên Hán gian đó. Vào tối mồng năm tháng ba năm ấy, cả ba đem gươm đao và ám khí trèo tường nhảy vào.
Hắn phòng bị vô cùng cẩn mật, nên cả ba vừa vào là bị các vệ sĩ phát hiện ngay. Ba người tuy võ nghệ cao cường, nên mới ra tay đã sát hại và đánh bị thương hơn hai chục tên vệ sĩ. Cả bọn vệ sĩ không chặn nổi ba người, và họ đã xông vào tận phòng ngủ của tên Hán gian. Những tưởng hắn không sao trốn thoát, nào ngờ có một người nhảy xổ ra che chắn cho hắn. Ba người nhìn mặt thì kinh ngạc vô cùng, vì chính đây là người anh em kết nghĩa họ vẫn tìm kiếm bấy lâu nay. Người ấy võ công cao cường hơn họ, bảo vệ tên Hán gian không cho họ giết hắn. Cả ba vừa ngạc nhiên, vừa giận dữ, xông vào đấu ngay. Lát sau,từ phía ngoài tràn vào thêm mấy chục vệ sĩ nữa nên biết không sao địch nổi đành tháo chạy. Riêng người cải trang thành ohu khuân vác vì sểnh tay bị bắt giữ.
Chính tên Hán gian Ngô Tam Quế xét hỏi ông ta. Ông ta lớn tiếng mắng chửi hắn đã bán cả giang sơn của người Hán cho người dị tộc. Tên Hán gian đã cho đánh gẫy hai chân ông ta rồi giam vào ngục. Người anh em kết nghĩa nghĩ thấy xấu hổ, đã lẻn vào nhà giam thả ông ta ra.
Sau đấy, khi cả ba người gồm ông thầy thuốc, kẻ ăn mày và người phu khuân vác gặp lại nhau, họ ôm nhau khóc lóc thảm thiết, không ngờ người huynh trưởng kết nghĩa năm xưa lại tha y lòng đổi dạ chạy theo kẻ thù. Cả ba lại ngầm nghe ngóng, và phát hiện ra một câu chuyện đáng căm phẫn: thì ra năm xưa khi cả bọn xuống núi đi cầu viện binh, người huynh trưởng chờ mấy hôm không thấy viện binh, chính huynh trưởng đã ra tay hạ sát chủ soái rồi đầu hàng kẻ địch. Hoàng đế Mãn Thanh phong cho ông ta một chức quan to, hiện giờ được thăng đến chức đề đốc dưới quyền của tên Hán gian.
Nghe đến đây, mặt mọi người đều biến sắc. Họ từng nghe nói Sấm Vương bị sát hại núi Cửu Cung. Có kẻ đồn là bị dân chúng giết, có kẻ bảo là bị quan binh giết nhưng không ngờ hung thủ lại chính là vệ sĩ tâm phúc của Sấm Vương.
Miêu Nhược Lan thở dài:
-Ba người nghe ngóng xác định đúng là như vậy, bèn quyết chí tính sổ với kẻ ấy.
Có điều cả ba vốn khó lòng thắng nổi, giờ đây người đóng vai phu khuân vác lại bị thương nặng thì càng yếu thế. Ðang trù trừ chưa biết tính sao, bỗng người anh kết nghĩa sai người mang thư tới, hẹn cùng đến uống rượu ở Ðiền Trì vào tối ngày rằm tháng ba.
Cả ba hiểu ắt có quỷ kế chi đây, song lại nghĩ người ấy đã biết rõ nơi ở cùng với động tĩnh của mình, lại có quyền lực lớn ở vùng này, dẫu muốn tránh cũng khó. Cơ sự đến nước này, dẫu có là hang hùm miệng sói cũng đành liều mà đi vậy! Thế là đến ngày hẹn, cả ba ngầm giắt binh khí trong mình cùng đến Ðiền Trì. Người huynh trưởng kết nghĩa năm xưa đã đợi từ sớm và chỉ có một mình, ăn vận quần màu xanh bằng vải thô, giống như năm xưa khi cả bốn ngưòi cùng ở quân doanh.
Bốn người vào một quán rượu nhỏ ven hồ, gọi ít thịt luộc, à nướng, bánh bao và mười mấy cân rượu trắng, rồi lên thuyền cùng ra giữa hồ uống rượu ngắm trăng.
Bốn người vừa uống rượu vừa ôn lại những chuyện oanh liệt khi cùng trong quân ngũ năm nào. Ba người để ý thấy người huynh trưởng cũ không hề nhắc đến tên của vị anh hùng, nên cũng kìm nén không đả động tới.
Rồi thấy người ấy liên tiếp cứ uống rượu thừng bát lớn, mãi khi trăng đã lên lưng trời mới ngửa mặt kêu lên: “Các nghĩa đệ! Chúng ta lâu ngày mới có dịp gặp lại nhau, nên hôm nay ta vui sướng lắm!”. Câu nói chứa đầy hào khí sảng khoái lại được phát ra bởi miệng một cô gái hiền lành tao nhã là mnl, kể ra có lẽ không được hợp lắm, song mọi người đang bị lôi cuốn bởi các tình tiết hấp dẫn của câu chuyện nên không ai bận tâm để ý.
Miêu Nhược Lan kể tiếp:
-Người cải trang làm thầy lang không nén nhịn được nữa, cười nhạt: “Anh làm quan to, có đủ vinh hoa phú quý cả rồi, cố nhiên là thấy vui! Có điều là không rõ Nguyên soái giờ này nghĩ gì nhỉ?”.
Tuy vị đại anh hùng sau này đã từng làm hoàng đế, song cả bốn vệ sĩ thân tín vẫn gọi ông ta là “Nguyên soái”.
Huynh trưởng thở dài nói: “Ôi! Hẳn là Nguyên soái cô đơn lạnh lẽo lắm. Giờ thì đại sự đã xong rồi, ta muốn bảo các nghĩa đệ đi gặp Nguyên soái đấy”.
Nghe thấy thế, cả ba nổi giận đùng đùng, thầm nghĩ: “Gớm thật! Mi lại còn muốn giết luôn cả ba chúng ta nữa, để cho chúng ta xuống âm tào địa phủ gặp Nguyên soái ư?”.
Người đóng vai phu khuân vác rờ tay vào trong người định rút dao. Người đóng giả thầy lang bèn đưa mắt ra hiệu, rồi nâng vò rượu rót cho huynh trưởng kết nghĩa, và nói: “Từ sau ngày ba chúng tôi từ biệt núi Cửu Cung, thì rốt cuộc Nguyên soái ra sao?”.
Huynh trưởng nhướng lông mày lên: “Hôm nay ta hẹn các nghĩa đệ đến đây, là nhằm nói chuyện đó”. Người đóng vai ăn mày bỗng chỉ tay về phía sau lưng huynh trưởng, hỏi to: “Kìa, có ai đến thế nhỉ?”.
Huynh trưởng quay người lại nhìn, thì người đóng vai ăn mày và thầy lang đều vung đao chém luôn. Một nhát đã chặt đứt cánh tay phải của huynh trưởng và một mũi dao găm đâm vào giữa lưng sâu đến mấy tấc.
Huynh trưởng kêu to một tiếng, quay phắt lại dùng tay trái đoạt cả hai con dao và ném luôn xuống hồ lại trở bàn tay bóp chặt huyệt đạo ở cổ của người đóng vai thầy lang.
Huynh trưởng sắc mặt tái xanh, hét lên: “Bốn chúng ta kết nghĩa sâu nặng với nhau, vậy sao… vậy sao lại ngầm giở trò hại ta thế?”. Người đóng vai thầy lang bị bóp trúng huyệt đạo, người cứng đơ không cựa quậy được. Người đóng
vai phu khuân vác giơ đao quát: “Mi đã sát hại Nguyên soái, đã bán chúa cầu vinh,còn mặt mũi nào nói đến hai chữ “Nghĩa khí” nữa?”.
Huynh trưởng tung chân đá văng con dao, cười lớn “Ðược! Ðược! Có nghĩa khí đấy! Có nghĩa khí đấy!”. Cả ba thấy huynh trưởng đã mất một cánh tay, lưng bị trọng thương mà vẫn dũng mãnh như vậy, đều kinh ngạc ngây người. Huynh trưởng dứt tiếng cười, thì bỗng lệ trào đôi mắt: “Thật đáng tiếc! Tiếc rằng việc lớn của ta không thành”. Nói rồi lỏng tay, thả người đóng vai thầy lang ra. Người đóng vai ăn mày sợ rằng huynh trưởng còn giở trò gì hiểm độc, bèn đấm một quyền mạnh trúng giữa ngực huynh trưởng. Trái đấm này nặng kinh hồn, làm huynh trưởng “hự” một
tiếng, mồm hộc máu tươi. Bỗng huynh trưởng giơ bàn tay trái đập mạnh vào mạn thuyền, làm mạn thuyền bị thủng một lỗ, các mảnh gỗ văng ra tứ tung. Huynh trưởng cười cay đắng: “Tuy bị thương nặng, song nếu ta muốn giết các nghĩa đệ thì vẫn cứ dễ như trở bàn tay!. Nhưng các nghĩa đệ là anh em tốt của ta, ta đâu nỡ làm thế!.
Cả ba người cùng lùi về phía mũi thuyền. Ðứng kề sát nhau đề phòng. Song huynh trưởng than rằng: “Ngàn vạn lần không được tiết lộ câu chuyện xảy ra hôm nay! Nếu để con trai ta biết chuyện, thì các nghĩa đệ không đáng là đối thủ của nó đâu. Ta cố nhiên sẽ tự vẫn mà chết để tránh cho các chú mang tội sát hại nghĩa huynh.”

Dứt lời, huynh trưởng rút thanh đao cứa vào cổ rồi ngã gục xuống. Người đóng vai phu khuân vác cảm thấy không nhẫn tâm đứng nhìn bèn chạy lại đỡ, miệng kêu lên: “Ðại huynh!”.
Huynh trưởng nói: “Các nghĩa đệ thân yêu! Ta phải đi đây!!. .
Thanh đao mà Nguyên soái vẫn dùng trong quân doanh… có can hệ lớn lắm…
Nguyên soái ở hẻm Thạch Môn…”. Chưa nói hết lời, cổ họng đã tràn đầy máu,huynh trưởng gục chết bên thuyền.
Cả ba nhìn xác huynh trưởng vừa đâu khổ vừa mừng rỡ thấy thanh đao mà huynh trưởng dùng để tự vẫn có khắc mười bốn chữ, họ biết đó là thanh đao Nguyên soái vẫn dùng năm xưa.
Nghe đến đây, mọi người đều dồn ánh mắt nhìn vào thanh đoản đao mà Bảo Thụ đang cầm. Lưu Nguyên Hạc bỗng lắc đầu:
-Tôi không tin!
Ðào Bách Tuế tức giận gắt lên:
-Người thì biết gì!
Nguyên Hạc vặn lại:
-Lý Tự Thành giết người như ngóe, gây đổ máu ở muôn nơi, sao lại có thể khắc mấy chữ đó để coi là quân lệnh được?
Mọi người đều ngớ người, không biết trả lời ra sao. Bỗng Vu quản gia nói xen vào:
-Bảo Sấm Vương giết người như ngóe, có ai chứng kiến chuyện đó không?
Lưu Nguyên Hạc đáp:
-Thiên hạ đều nói thế cả, chẳng lẽ lại sai hết ư?
-Các vị là người làm quan với triều đình, cố nhiên là bảo Sấm Vương giết người bừa bãi -Vu quản gia nói -Thực ra, Sấm Vương chỉ giết bọn quan lại tham nhũng,bọn thổ hào ác bá mà thôi. Bọn ấy vốn không đáng gọi là người. Cái lệnh “Giết một người như giết cha mình”, có ý cấm các thuộc hạ giết những người lương thiện.
Ðiều này là quá đúng rồi.
Lưu Nguyên Hạc còn định nói gì đó nữa, song nhìn khí thế uy nghi của Vu quản gia, bỗng ngừng lại ngay.
Hùng Nguyên Hiến có ý muốn làm dịu tình hình, bèn nói:
-Miêu cô nương! Cô nương kể tiếp, câu chuyện sau đó ra sao.
Miêu Nhược Lan nói:
-Người đóng vai phu khuân vác lại nói: “Huynh trưởng bảo là… Nguyên soái… ở chỗ hẻm núi Thạch Môn… nghĩa làm sao?”. Người đóng vai thầy lang nói: “Chẳng lẽ có ý muốn nói chôn Nguyên soái ở Thạch Môn ư?”. Người đóng vai ăn mày lắc đầu: “Tên này gian trá thật. Sắp chết mà vẫn còn lừa bịp người khác”.
Thì ra vốn thế này: Hán gian Ngô Tan Quế về Bắc Kinh để lĩnh thưởng. Hoàng đế cho bêu đầu Nguyên soái ở cổng thành để thị uy với dân chúng. Ba vệ sĩ đã mạo hiểm lấy trộm thủ cấp đem về chôn ở một nơi hiểm yếu cheo leo không có dấu chân người. Bởi vậy, khi huynh trưởng kết nghĩa kia nói”…ở khe núi Thạch Môn” thì đương nhiên cả ba đều không tin.
Sau khi đã giết huynh trưởng, cả ba tìm cách hành thích tên Hán gian, song vì hắn phòng bị cẩn mật nên nhiều lần đột nhập đều thất bại. Rồi câu chuyện họ vì đại nghĩa mà giết huynh trưởng lan truyền dần trong giới giang hồ. Các anh hùng hảo hán trong võ lâm nghe chuyện đều giơ ngón tay cái tán thưởng: “Giết đi là phải!”.
Chuyện ấy dần dần đồn đại tới quê hương của huynh trưởng. Con trai huynh trưởng vô cùng đau buồn, bèn tìm đến Côn Minh nhằm báo thù cho cha…
Ðào Bách Tuế tiếp luôn:
-Người con ấy… đã sai rồi. Tuy mối thù giết cha lớn thật đấy, nhưng cha mình đã làm điều gian ác, ai cũng có quyền trừ khử. Không nên báo thù mới phải chứ.
Miêu Nhược Lan nói:
-Hồi trước, cha tôi cũng bảo thế. Song ý nghĩ của người con thì vẫn vậy. Người con tìm đến Côn Minh, ít lâu sau thấy ba người kia trong một cái miếu hoang bèn xuất thủ luôn. Võ công của người con được người cha truyền bảo chu đáo, nên quả nhiên cả ba vệ sĩ của Nguyên soái năm xưa đều không đáng là đối thủ. Chưa đầy nửa canh giờ, họ đều lần lượt bị đánh ngục. Người con của huynh trưởng nói: “Ba vị thúc thúc! Cha tôi đã nhẫn nhục, cam chịu mang tiếng là kẻ bán chúa cầu vinh,ba vị sao hiểu được ý nghĩa sâu xa trong đó?
Vì tình kết nghĩa với cha tôi năm xưa,hôm nay tôi tha mạng ba vị! Hãy mau về nhà mà sửa soạn trước “hậu sự” đi. Ngày rằm tháng ba sang năm là ngày giỗ cha tôi, tôi sẽ đến thăm ba vị đó”. Nói rồi,người ấy đoạt lấy thanh đao của Nguyên soái nghênh ngang bỏ đi.
Dịp ấy là khoảng giữa đông rét đậm. Ba người lập tức ngược về bắc, kéo tất cả gia quyến ba nhà cụm vào một nơi và kể tường tận cuộc đổ máu trên thuyền cho mọi ngươì nghe.
Ai nấy đều bảo: “Hắn đã sát hại vị đại anh ùng, lại làm vệ sĩ cho tên Hán gian, làm quan to dưới trướng người dị tộc… liệu còn có thâm ý gì nữa?
Thằng con hắn xảo trá nói cứng thế thôi, ai mà tin được”. Các bạn giang hồ nghe tin, đều kéo đến rất đông để hỗ trợ.
Quả nhiên, vào tối ngày rằm tháng ba năm sau, gã con trai đó đến thật. Gã đến có một mình.
Mọi người chăm chăm nhìn Miêu Nhược Lan, chờ cô gái tiếp tục kể. Cô hầu gái bước tới gần Miêu Nhược Lan, tay bưng một lò than hồng bằng đồng bạch được ủ trong giỏ bằng gấm, đặt vào lòng chủ nhân.
Miêu Nhược Lan nói nhỏ nhẹ:

-Hãy châm lư hương đi!
Cầm Nhi vâng lời, lát sau lại bưng ra một lư hương bằng bạch ngọc, đặt bên cạnh chủ nhân. Một làn khói xanh nhè nhẹ uốn lượn toả ra từ mỏ chim phượng hoàng chạm trổ trên nắp lư hương.
Mọi người gửi thấy một mùi hương thơm dìu dịu, từa tựa mùi hoa lan, lại thoảng như mùi xạ hương… dẽ chịu khoan khoái vô cùng.
Miêu Nhược Lan nói:
-Lúc nào ta ở một mình trong phòng, thì mới châm thứ tố hương này… chứ ở đây có đông người, sao lại châm loại ấy?
Cầm Nhi cười, thưa lại:
-Ôi, em thật hồ đồ quá.
Rồi bưng lư hương vào để đổi thứ hương khác.
Miêu Nhược Lan lại bảo:
-Chỗ này gió Bắc thổi tới, tuy phía Bắc gian nhà không trổ cửa sổ, nhưng gió trên đỉnh núi vẫn thổi rất mạnh, thế nào cũng lọt vào. Em thử nhìn xem, lư hương đã đặt đúng chỗ chưa nào?
Cầm Nhi lại cười, bưng cả cái kỉ nhỏ cùng lư hương đặt vào góc phía Tây Bắc gian nhà, pha cho chủ mình một bát trà nóng rồi mới lui ra.
Mọi người đều nghĩ: “Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng là một đại hiệp lừng danh, thế mà lại cưng chiều cô con gái đến mức này cơ à?”.
Miêu Nhược Lan chậm rãi bưng lên và mở nắp bát, ngắm nhìn những lá chè và cánh hoa hồng trong bát trà, nhấp một ngụm nhỏ rồi từ từ đặt xuống.
Mọi người chỉ muốn nghe cô gái kể chuyện tiếp, song chẳng ngờ cô lại bảo:
-Tôi hơi bị nhức đầu, muốn vào trong nghỉ ngơi một lát. Mong chư vị bá bá, thúc thúc hãy thư thả ngồi.
Nói rồi, cô gái đứng lên đi vào nhà trong. Mọ người ngớ ra nhìn nhau. Tào Vân Kỳ là người đầu tiên không nén nổi, định tỏ thái độ phật ý thì Ðiền Thanh Văn đưa mắt ra hiệu. Vân Kỳ toan nói câu gì đó song đành kìm lại. Chỉ một lát sau, Miêu Nhược Lan lại ra ngay. Cô gái thay một chiếc áo da màu lục sáng, một váy gấp nhiều nếp vàng nhạt, và đã rửa sạch các lớp phấn kem xoa trên mặt từ lúc mới lên núi, Trông cô càng thêm trang nhã hồn nhiên. Hóa ra cô gái chẳng nhức đầu gì cả,mà chỉ vào để thay y phục và rửa mặt thôi.
Cầm Nhi đi theo sau, tay cầm một đệm bằng da chồn màu ánh bạc đặt lên ghế.
Miêu Nhược Lan hẹ nhàng ngồi xuống, lúc này mới hé môi hồng thấp thoáng hàm răng ngà, chậm rãi nói tiếp:
-Tối hôm đó, nhà người vệ sĩ đóng vai thầy lang đang mở tiệc lớn, mời hơn một trăm anh hùng hào kiệt trên giang hồ đến dự, cùng đợi người con của huynh trưởng kết nghĩa năm xưa đến thăm. Ðợi đến giữa canh một, chỉ nghe một tiếng “xịch”, và bàn tiệc bỗng có thêm một người khách.
Có biết bao cao thủ đang ngồi trước bàn tiệc, thế mà không một ai nhìn rõ người ấy vào đây như thế nào.
Người ấy chừng hai mươi tuổi, mặc áo vải gai thô, đội mũ trắng, tay cầm một cái gậy đưa tang, lưng cài chéo một thanh đao. Gã không hỏi han ai khác, chỉ chăm chú nhìn ông thầy lang, người ăn mày, người phu khuân vác -ba vệ sĩ của Nguyên soái năm xưa -và nói: “Xin ba vị thúc thúc tìm một chỗ vắng vẻ, chúng ta nói chuyện!”.
Ba người chưa trả lời, thì một vị thuộc tiền bối phái Nga Mi đã nói luôn:
“Ðấng nam nhi đại trượng phu có gì cần thì cứ nói luôn, hà tất phải thậm thà thậm thụt thế? Cha mi đã bán chúa cầu vinh, thì chắc mi cũng chẳng tử tế gì, hẳn là định giở trò khỉ gì đây. Ba vị đại ca chớ có mắc lừa hắn”.
Bỗng sáu tiếng “Bốp bốp…” liên tiếp, mọi người này bị tát liền sáu cái tát, hộc máu tươi, có tới chục cái răng rơi xuống đất.
Tất cả mọi hào kiệt dự tiệc đều đứng phắt dậy. Hơn một trăm con người đều im phăng phắc, thầm nghĩ: “Hành động của gã trẻ tuổi này sao mà nhanh kỳ lạ?”. Vị trưởng lão phái Nga Mi bị đánh đòn nặng, sợ quá không nói được nửa lời nào. Lúc chàng trai tát ông ta, không một ai quan sát rõ được, khi trở về chỗ ngồi cũng quá mau lẹ, chỉ một chớp mắt. Trong toàn bộ khoảnh khắc đi về ấy, đường như toàn thân gã không hề di chuyển.
Ba vị chủ trì bữa tiệc -tức ba vệ sĩ năm xưa -đã trải mấy chục năm ăn ở cùng một nơi với cha gã, biết ngay đó là tuyệt chiêu khinh công gia truyền, gọi là “Phi Thiên Thần Hành” rồi. Có điều gã là kẻ “con hơn cha” nên dường như siêu phàm hơn cha.
Chàng trẻ tuổi nói: “Thưa ba vị thúc thúc! Nếu như tôi định hãm hại, thì sao tôi không ra tay ngay hôm ở miếu hoang hồi nọ? Giờ thì tôi có mấy lời quan trọng muốn nói, không tiện để cho người khác nghe”.
Ba người thấy có lý. Người đóng vai thầy lang bèn dẫn chàng vào một gian phòng nhỏ ở nhà trong. Còn hơn trăm hào kiệt là khách dự tiệc ở ngoài đại sảnh đều ngừng bữa rượu, nhìn nhau, và lắng tai nghe ngóng động tĩnh.
Sau thời gian chừng ăn xong bữa cơn, cả bốn người cùng ra.
Ông thầy lang vái chào khắp lượt các anh hào dự tiệc, và nói: “Xin đa tạ các vị đã tới dự và đã tỏ rõ nghĩa khí hảo hán giang hồ”. Mọi người chưa kịp đáp lễ, đã thấy ông ta giơ thanh đao cứa cổ tự vẫn làm ai nấy đều sửng sốt. Tiếp đó hai vị đóng giả ăn mày và phu khuân vác kia cũng lần lượt tự vẫn. Sự việc diễn ra quá nhanh, tuy trong đám khách khứa có rất nhiều cao thủ song không ai kịp ra tay ngăn cản.
Chàng trai quỳ lạy ba thi thể mấy lạy, nhặt ba đoản đao mà ba người dùng để tự vẫn rồi nhảy vọt lên nóc nhà. Mọi người hét lớn: “Thằng gian tặc chớ chạy trốn” và cùng nhảy lên đuổi theo. Chàng trai đã biến mất tăm. các con của ba người ôm lấy xác cha kêu khóc ầm ĩ. Các hào kiệt thăm hỏi an ủi người nhà và bọn tôi tớ, không một ai biết rằng bốn người đã nói những chuyện kín gì trong căn phòng. Lại càng không hiểu gã con trai kia đã dùng gian kế gì để đến nỗi cả ba người đều phải tự vẫn. Các hào kiệt nhìn thi thể ba người nằm vật trên đất đều trào dâng căm giận,
thề sẽ báo thù cho ba người. Có điều là… từ đó, chàng trai nọ mai danh ẩn tích,không biết ở nơi nào. Các con của ba vị đều được các anh hào nuôi dạy khôn lớn vì họ đều xót xa thương cảm cho cha họ đã vì chủ mà báo thù, để đến nỗi rơi vào thảm cảnh đau lòng. Bởi thế ai cũng tận tình dậy dỗ các con của họ.
Những người này vốn cũng đã được học võ công gia truyền do người cha truyền dạy, cũng đều có sẵn căn bản võ công, lại được các minh sư chỉ bảo nên sau này đều đúc kết được những cái hay của mọi môn phái rồi lập nên từng môn phái nổi tiếng riêng.
Kể đến đây, Miêu Nhược Lan nhè nhẹ thở dài than rằng:
-Võ công của họ càng cao bao nhiêu, thì ý chí báo thù càng mãnh liệt bấy nhiêu.
Luyện võ công rút cuộc là phúc hay họa quả thực tôi không biết nữa.
Bảo Thụ thấy Miêu Nhược Lan đăm đăm nhìn ngọn lửa, còn mọi người thì sốt ruột muốn nghe nốt đoạn sau.
Bảo Thụ bèn nói:
-Miêu cô nương kể câu chuyện này thật là hay. Tôi không rõ họ tên, song các vị cũng đều biết: người huynh trưởng kết nghĩa đó -chính là vệ sĩ số một của Sấm Vương, họ Hồ, tức là Phi Thiên Hồ Ly. Còn vị đóng vai phu khuân vác, họ Miêu; vị giả dạng ăn mày, họ Phạm; vị đóng vai thầy lang, họ Ðiền. Lớp người kế tục họ đều đã học được các tuyệt kỹ, mỗi nhà dựng riêng một ngọn cờ. Võ công nhà họ Miêu, gọi là Miêu gia kiếm; họ Phạm sau trở thành thủ lĩnh của Hưng Hán Cái Bang; nhà họ Ðiền sau này lập ra phái Thiên Long Môn.
Nguyễn Sĩ Trung và Ân Cát tuy là bậc tiền bối của Thiên Long Môn, song mãi tới lúc này mới biết rõ về lai lịch của sư môn, hai người bất giác cảm thấy xấu hổ .
Bảo Thụ nói tiếp:
-Lớp con cháu nỗi dõi của ba nhà họ Miêu, Phạm, Ðiền thì hai mươi năm sau đã tìm được gã con trai của huynh trưởng họ Hồ kia. Lúc ấy, gã đang ốm nặng, bị bộ ba này dồn ép đành phải tự vẫn. Từ đó, lớp con cháu của bốn họ này cứ truyền đời báo thù. Hơn trăm năm nay, không một người con hay cháu chắt nào của bốn họ này được sống trọn đến già cả. Bần tăng cũng đã từng chứng kiến một cuộc đấu khủng khiếp của đám hậu thế bốn nhà đó.
Miêu Nhược Lan ngẩng đầu nhìn Bảo Thụ:
-Thưa đại sư, tôi đã được biết chuyện đó… mong đại sư đừng kể làm gì…

-Nhưng các vị ngồi đây thì chưa biết. Cô nương hãy kể cho họ nghe đi.
Miêu Nhược Lan lắc đầu:
-Năm ấy… cha tôi kể chuyện về bốn vị võ sĩ của Sấm Vương xong, lại kể một câu chuyện nữa. Cha tôi bảo rằng vì câu chuyện đó mà cha tôi buộc phải giết chết một người, phải đem kiếm ra mài cho sắc. Có điều là câu chuyện này bi thảm quá.
Hễ cứ nghĩ đến là tôi đã thấy khiếp rồi. Tôi vẫn mong rằng, giá mà cha tôi đừng kể cho tôi nghe thì hơn.
Trầm ngâm một lát, Miêu Nhược Lan nói tiếp:
-Chuyện ấy xảy từ mười năm trước khi tôi ra đời. Tôi không rõ đứa trẻ đáng thương ấy ra sao, tôi thực lòng mong cho nó được sống yên ổn…
Mọi người nhìn nhau, đều không hiểu “đứa bé đáng thương” là người thế nào, có liên qua ntới câu chuyện sắp kể?
Tất cả đều ngóng nhìn Miêu Nhược Lan, lại nhìn Bảo Thụ, chờ xem ai trong hai người sẽ giải tỏa cho họ nỗi thắc mắc.
Bỗng một người đầy tớ đứng bên hầu trả lời:
-Tiểu thư có lòng tốt như thế, hẳn sẽ được báo đáp. Chắc “đứa trẻ đáng thương” ấy vẫn sống bình an ạ.
Giọng nói của người ấy nghẹn ngào. Mọi người cùng ngoái đầu nhìn. Người ấy tóc bạc lòa xòa, tuổi đã cao, mất một tay phải, dùng tay trái bưng khay trà. Một vết sẹo to do bị đao chém chạy từ lông mày bên phải qua mũi xuống tới mép trái.
Mọi người nghĩ thầm: “Người này đã từng bị thương nặng thế mà vẫn trụ lại được, quả là không dễ gì”.
Miêu Nhược Lan nói:
-Sau khi nghe cha tôi kể câu chuyện ấy, tôi vẫn thường thầm cầu xin ông Trời hãy phù hộ đứa trẻ ấy được trưởng thành bình an. Song tôi mong cho người ấy đừng học võ giống như tôi bây giờ, không hề biết một chút võ nghệ gì cả, mới hay.
Tất cả đều ngớ ra, đều lấy làm lạ: “Cô gái này dáng vẻ cao nhã thanh tú, tự nói ra là không biết võ nghệ gì. Song cô ta là ái nữ của Kim Diện Phật Miêu đại hiệp có biệt hiệu là “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” kia mà, lẽ nào cha cô ta lại không truyền cho một vài tuyệt kỹ nhỉ?”
Nhìn vẻ mặt mọi người, Miêu Nhược Lan hiểu được họ đang nghĩ gì, bèn nói:
-Cha yôi bảo rằng, hơn một trăm năm nay, con cháu bốn họ Hồ, Miêu, Phạm,Ðiền báo thù lẫn nhau, không có thế hệ nào được sống yên ổn đến gìa cả. Ai dù có võ công cao cường đến đâu đi nữa, suốt đời chỉ hoặc mải đi giết người để báo thù,hoặc đề phòng đối phương đến báo thù. Trong một năm, khó mà có được vài tháng ăn no ngủ yên. Mà dù có sống được bảy tám mươi tuổi đi nữa, cũng vẫn còn bị đối phương chém chết để báo thù. Vậy là, luyện võ công không những vẫn không thể phòng thân mà trái lại, càng mang thêm họa. Cho nên, cha tôi nêu lên một điều gia
huấn là, kể từ cha tôi trở đi, sẽ không cho các con cháu học võ công nữa. Cha tôi cũng quyết không thu nhận một đồ đệ nào.
Cha tôi còn nói rằng, nếu như cha tôi bị kẻ thù giết hại, con cháu họ Miêu không biết võ nghệ gì, thì đương nhiên là chịu không có cách gì báo thù cho ông. Và thế là các khoản nợ máu chồng chất ngày một cao từ hơn trăm năm nay, các mối oan nghiệt chồng chéo ngày càng rối ren cũng theo đó mà được xoá sạch.
Bảo Thụ chắp hai tay:
-Thiện tai! Thiện tai! Miêu đại hiệp đã có sự giác ngộ thấu đáo đến như vậy,cầu mong kiếm pháp tuyệt thế vô song của nhà họ Miêu sẽ chấm dứt ở đời của Miêu đại hiệp thôi. Tuy sẽ là một tổn thất cho giới võ lâm, nhưng vẫn là một việc thiện to lớn.
Nhìn ánh mắt khác thường của người đầy tớ mặt sẹo, Miêu Nhược Lan thấy hơi lạ lùng, bèn nói với Bảo Thụ:
-Tôi xin phép vào nghỉ một lát. Xin lỗi đại sư và chư vị bá bá, thúc thúc. Nói rồi cô vái chào, lui vào nhà trong.
Bảo Thụ nói:
-Miêu cô nương có tấm lòng nhân ái, không nỡ nào ngồi nghe câu chuyện này,nên có ý lánh đi.
Bần tăng sẽ kể hầu tiếp chuyện các vị.
Hôm nay, từ sáng ớm tới giờ chỉ là vài canh giờ, chưa quá giờ ngọ, thế mà mọi người đã trải qua bao sự việc li kỳ, trong lòng còn biết bao điều thắc mắc muốn được làm sáng tỏ.
Thế rồi, Bảo Thụ bèn kể:
-Sau thời kỳ bốn vệ sĩ của Sấm Vương tàn sát lẫn nhau thì con cháu bốn nhà không ngừng xung đột suốt hơn một trăm năm. Có điều là vì nhà họ Hồ bán chúa cầu vinh nên bị các đạo hữu võ lâm tẩy chay; mỗi lần giao chiến, đều bị ở thế cô lập, phần nhiều bị lép vế. Tuy nhiên, võ công gia truyền của nhà họ Hồ vẫn tỏ ra lợi hại vô cùng. Cứ cách chừng ba bốn chục năm, nhà họ Hồ thế nào cũng trội lên một hai người con cháu kiệt xuất để báo thù cho ông cha. Dù thắng hay thua, các cuộc đọ sức đều làm đầu rơi máu chảy rất hãi hùng. Còn ba nhà họ Miêu, Phạm,Ðiền tuy lực lượng đông và mạnh, lại được các đạo hữu trợ giúp, nhưng vẫn không sao phòng bị được, bởi con cháu họ Hồ thường bí mật tập kíck bất ngờ.
Năm đầu đời vua Ung Chính, ba nhà họ Miêu, Phạm, Ðiền lại xảy ra cuộc tranh chấp quyền nắm giữ thanh bảo đao của Sấm Vương. Và vừa khéo nhà họ Hồ nảy ra hai anh em có võ công siêu việt. Loáng một cái, họ đã hạ thủ hơn ba mươi người của ba nhà. Ba nhà đâm hoảng, cử nhà họ Ðiền đứng đầu và mời thêm các cao thủ giang hồ nữa, cùng hợp sức đánh giết hai anh em họ Hồ. Năm ấy, các anh hùng hào kiệt khắp mọi miền núi sông Nam Bắc hội tụ ở Lạc Dương, ăn thề liên minh với nhau. Từ đó, thanh bảo đao của Sấm Vương do họ Ðiền thuộc phái Thiên Long
Môn nắm giữ, nếu sau này con cháu họ Hồ còn đến khiêu chiến gây sự, thì họ Ðiền ở Thiên Long Môn sẽ dùng bảo đao này hiệu triệu các hảo hán giang hồ cùng chung sức đối phó. Các anh hùng ở mọi miền hễ nhìn thấy thanh bảo đao này, thì dẫu là việc tày đình cũng phải gác lại để ứng nghĩa theo lời hiệu triệu.
Việc này xảy ra đã lâu, và người đời sau đã dần quên lãng. Chỉ riêng chưởng môn Thiên Long Môn vẫn rất coi trọng thanh bảo đao này. Nghe nói về sau Thiên Long Môn chia làm hai phái Nam Tông và Bắc Tông, thì mỗi phái sẽ lần lượt thay nhau giữ mười năm. Nguyễn sư huynh và Ân sư huynh thấy bần tăng này kể có đúng không?
Cả hai đồng thanh:
-Ðại sư kể đúng đấy!
Bảo Thụ cười:
-Chuyện xảy ra đã lâu năm. Các môn đệ của Thiên Long Môn tuy đều biết thanh đao này là báu vật biểu trưng của môn phái mình, song lai lịch của nó ra sao thì rất hiếm ai khảo cứu. Chuyện đã quá xưa rồi, kể ra cũng không có gì đáng trách cả. Riêng bần tăng có chỗ chưa thật tỏ tường, mong Tào sư huynh chỉ giáo.
Tào Vân Kỳ lớn tiếng:
-Chuyện gì vậy?
-Bần tăng nghe nói mỗi khi chưởng môn cũ, mới bàn giao chức cho nhau,chưởng môn cũ nói rõ lai lịch của thanh đao cho người kế tục được biết. Vậy sao Tào sư huynh được vinh hạnh làm chưởng môn rồi mà vẫn không được biết? Chẳng lẽ Ðiền Quy Nông lã chưởng môn đã quên mất điều quy ước này ư?
Tào Vân Kỳ đỏ bừng mặt, định nói điều gì đó, song Ðiền Thanh Văn đã đỡ lời:
-Môn phái chúng tôi thật là bất hạnh, tiên phụ qua đời đột ngột nên không kịp dặn dò kỹ cho Tào sư huynh được biết.
-Thế là rõ rồi -Bảo Thụ nói -Ôi! Thế là bần tăng đã hai lần được nhìn thấy thanh bảo đao này. Lần đầu tính ra cũng là hai bẩy năm về trước còn gì!
Ðiền Thanh Văn nhẩm tính: “Miêu cô nương chừng mười bảy mười tám tuổi. Cô ta nói câu chuyện bi thảm xảy ra trước khi cô ta ra đời mười năm, thế thì đúng là hai mươi bảy năm về trước. Vậy việc hòa thượng này nhìn thấy thanh đao lần đầu, hẳn là có liên quan tới câu chuyện mà Miêu cô nương nói”.

Chương 7: Bảo Thụ Ðại Sư Kể Chuyện Xưa

Bảo Thụ kể tiếp:
-Lúc bấy giờ, bần tăng vẫn chưa xuất gia, đang làm thầy lang kiếm sống ở một thị trấn miền quê huyện Thương Châu, tỉnh Trực Liệt.
Dân Thương Châu ham võ nghệ, các con em ít nhiều đều học qua vài đường quyền cước. Bấy giờ, bần tăng chuyên bán thuốc, xoa bóp giảm đau, từng học qua chút võ nghệ. Thị trấn đấy tuy dìu hiu, chỉ chừng năm sáu trăm cư dân. Bần tăng chỉ dựa vào nghề thuốc gượng sống qua ngày, thân mình còn không lo nổi, nói chi đến việc lấy vợ sinh con.
Một ngày tháng chạp năm ấy, bần tăng húp xong ba bát cháo hoa rồi đi ngủ.
Ðang lúc nằm mơ thấy mình phát tài, sắp lấy một cô vợ đẹp như tiên, thì mẹ khiếp,bỗng nghe tiếng đạp cửa ầm ầm.
Bên ngoài, gió bắc đang thổi mạnh, giường lò của bần tăng đã tắt lửa từ lâu,chân thì mỏng tang, quả tình không muốn trở dậy tí nào. Giấc mơ đẹp đẽ đó bị người kia làm cho đứt đoạn, lại càng thêm mất hứng. Song tiếng đạp cửa mỗi lúc một dữ dội hơn, và thêm tiếng gọi to: “Ông lang ơi! Ông lang ơi!”.
Nghe giọng, biết là người miền tây chứ không phải người địa phương. Xem chừng nếu không mở cửa có lẽ người ấy cũng phá cửa mà vào cũng nên! Tôi không hiểu đã xảy ra chuyện gì, vội khoác áo vùng dậy. Vừa nhấc then cửa thì ầm một tiếng, người ấy cũng gắng sức đẩy cửa mở vào. Nếu không nhanh nép sang một bên, chắc trán tôi đã bị cánh cửa đập sưng vù lên rồi. Một người đàn ông tay cầm bó đuốc, xộc vào nhà gọi: “Xin mời thầy đi luôn giúp cho!”.
Tôi hỏi lại: “Có việc gì vậy? Lão huynh là ai?”. Người kia đáp: “Có người ốm nặng nguy kịch lắm!”. Ông ta không trả lời câu hỏi của tôi, vung tay trái ra, một tiếng “xoạch”, ném lên bàn tôi một đĩnh bạc lớn. Ðĩnh bạc ấy nặng tới hai mươi lạng! Tôi chữa thuốc nơi thôn quê, chỉ thường kiếm được vài chục hay vài trăm tiền, đã bao giờ được trả khối bạc hai chục lạng như thế này đâu, nên vừa bất ngờ,vừa vui sướng. Tôi vội nhận ngay đĩnh bạc, mặc quần áo xỏ giầy. Người đàn ông giục luôn miệng. Vừa mặc áo quần, tôi vừa quan sát tướng mạo ông ta, thấy nét mặt rắn rỏi, có vẻ con nhà nền nếp, có điều mặt đượm vẻ buồn rầu.
Người ấy không đợi tôi cài xong khuy áo, một tay xách hòm thuốc giúp tôi, một tay lôi tôi đi luôn. Tôi nói: “Chờ tôi khoá cửa đã”, ông ta bảo ngay: “Sợ mất trộm à? Tôi sẽ đền hết cho!”. Nói rồi kéo tôi rảo bước, đi đến nhà trọ Bình An. Ðó là nhà trọ duy nhất ở thị trấn này, chuyên cho những người đánh xe, phu khuân vác trên đường xuôi ngược Bắc Kinh ngủ trọ. Diện tích không chật lắm song nhà cửa tối và bẩn. Tôi nghĩ thầm, người này có vẻ khá giả sao lại vào chốn này nghỉ trọ nhỉ? Chưa kịp nghĩ ngợi gì thêm, ông ta đã kéo tôi vào gian cửa chính nhà trọ. Ở đây thắp nến sáng trưng, có năm người đàn ông đang ngồi chờ. Người đàn ông kéo tôi đến đây nói: “Ông lang đến đây rồi!”. Mọi người tỏ ra mừng rỡ, cùng đưa tôi vào chái phía Ðông.
Vừa bước vào, tôi bỗng giật mình: trên giường lò nằm sóng xoài hàng bốn người khắp mình bê bết máu. Tôi bảo người đàn ông nọ cắm nến lại soi cho rõ, thấy cả bốn người đều bị thương nặng. Có người bị chém vào mặt, có người bị chặt đứt tay.
Tôi nói: “Sao đến nỗi bị thương nặng như thế này? Có phải bị bọn giặc cướp tấn công không?”. Người đàn ông nhiêm giọng: “Thầy mau cứu chữa đi, chúng tôi sẽ hậu tạ nhưng không được hỏi han lôi thôi!”.
Tôi thần nghĩ: “Gớm nhỉ! Sao mà dữ thế?” Nhưng, nhìn bọn họ đều dữ dằn,người lại giắt binh khí, tôi không dám hỏi han gì nữa, chỉ đắp thuốc chữa vết chém,băng bó cầm máu cho bốn người chu đáo.
Người đàn ông nọ nói “còn ở bên này nữa” rồi dẫn tôi đi sang chái phía Tây, có ba người bị thương nằm trên chiếc giường lò. Các vết thương đều là mới bị chém cả, Tôi lại đắp thuốc cầm máu, còn đưa thêm ít thuốc nước cho họ uống để an thần và giảm đau. Cả bảy người bị thương đều lần lượt ngủ thiếp đi.
Mấy người đàn ông thấy tôi chữa chạy có hiệu quả, bấy giờ mới đối xử với tôi có chút nể nang hơn, không thô bạo như lúc đầu. Bọn họ bảo nhà trọ lấy cánh cửa kê thành giường cho tôi nằm ở gian chài phía đông, đề phòng khi các vết thương có biến chứng gì, đã có tôi kịp thời điều trị.
Ngủ đến khi gà gáy sáng, thấy bên ngoài có tiếng vó ngựa phi, tiến gần nhà trọ.
Mấy người đàn ông cũng vùng dậy chạy ra đón. Tối cứ vờ ngủ, hé mắt nhìn trộm,thấy có hai người mới đến. Một người ăn mặt như kẻ ăn mày, có đôi mắt sáng quắc; còn người kia khuôn mặt thanh tú, còn trẻ. Hai người ấy lại gần lò thăm các người bị thương. Những người bị thương cố nhịn đau và gượng ngồi lên, tỏ ra rất cung kính với hai người này. Tôi nghe thấy họ gọi người ăn mày là Phạm bang chủ,gọi người trẻ tuổi kia là Ðiền tướng công.
Bảo Thụ nói đến đây, ngừng lại một lát, rồi nói với Ðiền Thanh Văn:
-Khi bần tăng lần đầu trông thấy lệnh tôn, thì cô nương vẫn chưa chào đời đâu!
Lệnh tôn là người thông minh sắc sảo. Dáng vẻ quyết đoán, tháo vát của lệnh tôn sáng sớm hôm đó, cho tới nay vẫn hiện rõ mồn một trước mắt bần tăng.
Ðiền Thanh Văn đôi mắt đỏ hoe, hơi cúi đầu xuống.
Bảo Thụ nói tiếp:
-Một trong những người không bị thương khẽ nói: “Thưa Phạm bang chủ và Ðiền tướng công! Chú đàn em họ Trương từ ngoài quan ải đã bám sát đôi vợ chồng nọ đi xuống miền nam, chú ấy đã điều tra chính xác “chiếc hộp sắt” đúng là đang ở trong người đối tượng ấy ạ!”.
Mọi người nghe ba tiếng “chiếc hộp sắt” đều nhìn nhau và nghĩ “Bảo Thụ đã nói vào vấn đề chính rồi đây”.
Bảo Thụ tiếp tục:
-Phạm bang chủ gật đầu. Người kia nói thêm: “Chúng tôi đợi ở thôn Ðường Quan để tiếp ứng, cử người về đưa tin bẩm với hai ngài và Kim Diện Phật Miêu đại hiệp. Không ngờ đối tượng ấy phát hiện ra mọi sự. Một mình hắn đứng chặn đường và nói: “Ta và các ngươi chưa hề quen biết nhau, sao cứ bám sát ta suốt dọc đường thế? Các ngươi do ba nhà Miêu, Phạm Ðiền sai đi có phải không?”. Chú Trương đáp: “Hai vợ chồng ngươi biết thế là được rồi!”. Gã kia hơi sầm nét mặt,ghì tay đoạt luôn đao của chú Trương bẻ làm đôi ném xuống đất, rồi nói: “Ta không muốn giết thêm người nữa đâu, mau cút đi!”. Chúng tôi thấy gã hung hăng,bèn xông cả vào. Chú Trương đá luôn vào bụng vợ hắn đang mang thai. Gã bèn nổi xung đáp: “Ta vốn định tha cho cả lũ bay, mà lũ bay vô lễ quá thể!”. Gã đoạt luôn một thanh đao và chém bị thương một loạt bảy người chúng tôi.
Ðiền tướng quân nói: “Hắn còn nói gì nữa không?”. Người đàn ông trả lời: “Lẽ ra hắn còn định đâm chém nữa, nhưng vợ gã ngồi trong xe kêu to: “Ði thôi! Chàng hãy tu nhân tích đức vì đưa con sắp ra đời nào!”. Thế là gã bèn cười cười, co tay lại và bẻ gẫy đôi thanh đao”.
Ðiền tướng công đưa mắt nhìn Phạm bang chủ, rồi lại hỏi tiếp: “Ngươi nhìn kĩ đấy chứ? Có đúng là hắn dùng tay bẻ gẫy đao không?”. Người ấy trả lời: “Bẩm đúng thế. Lúc ấy tiểu nhân đứng ngay bên cạnh hắn ta, nhìn rõ ràng lắm ạ”.
Ðiền tướng quân “ờ” một tiếng rồi ngẩng lên nghĩ ngợi. Phạm bang chủ nói:
“Hiền đệ chớ lo. Miêu đại hiệp nhất định sẽ đối phó được với hắn”. Người đàn ông kia lại nói thêm: “Hắn ta đi Giang Nam, thì nhất định phải đi qua đây. Nếu hai ngài chốt lại ở vùng này, thì hắn ta trốn sao cho thoát ạ?”. Lúc này vẻ mặt của hai vị Phạm, Ðiền đều nghiêm nghị, bàn bạc khẽ một hồi, rồi từ từ đi ra.
Bần tăng đợi hai vị đó đi rồi, mới giả vờ tỉnh ngủ, trở dậy dắp thuốc thay băng cho mấy người bị thương, tự hỏi rằng không hiểu nhân vật bị theo dõi kia là ai?
Người ấy rõ ràng là ngượng nhẹ nương tình, nên các vết thương tuy nặng song không nguy đến tính mạng.
Xẩm tối hôm đó, mọi người đang ăn cơm ở phòng chính của quán trọ, thì một người đàn ông chạy vào gọi to: “Ðến rồi”. Ai nấy mặt đều biến sắc, buông bát đĩa xuống, cầm binh khí, chạy xô ra ngoài. Bần tăng lặng lẽ đi theo, thấy sợ hãi nhưng cũng muốn ra xem cho thoả trí tò mò.
Trên đường cái, cát bụi bay mù mịt, một cỗ xe lớn đang phóng tới. Hai vị Phạm,Ðiền dẫn đầu mọi người xông lên. Tôi đi sau cùng. Cỗ xe lớn phóng tới trước mặt mọi người thì dừng lại. Phạm bang chủ nói lớn: “Tên họ Hồ kia, ra ngay!”. Trong xe, có tiếng người nói vọng ra qua tấm rèm che: “Bọn ăn mày đến lĩnh thưởng phải không? Ðược! Cho mỗi đứa một đồng tiền!”. Rồi chỉ thấy nhiều ánh vàng lóe sáng,đám đông kia lần lượt ngã gục.
Hai vị Phạm, Ðiền võ công cao cường nên không bị ngã, nhưng lại bị trúng phi tiêu “Kim Tiền” vào cổ tay nên đều thõng tay buông gậy và kiếm rơi xuống đất.
Ðiền tướng công vội kêu lên: “Phạm đại ca! Chạy thôi!”.
Phạm bang chủ bản lĩnh cao siêu, cúi mình nhặt cây gậy lên, rồi vụt chạy nhanh như gió đến bên các các người bị đánh ngã định giải các huyệt đạo cho họ.
Bần tăng hồi học võ, sư phụ đã dạy cho biết ba mươi sáu huyệt lớn trên thân thể con người, nên khi Phạm bang chủ giơ tay tay giải huyệt cho họ, bần tăng cũng hiểu đôi chút. Nhưng không ngờ, Phạm bang chủ ấn đi ấn lại hồi lâu, mà những người bị ngã vẫn không động cựa gì được!
Người ngồi trong xe cười nói vọng ra: “Thôi được! Cho một đồng chưa đủ, vậy cho thêm đồng nữa đây này!”. Thế là lại thêm một đống tiền nữa ném ra nối tiếp nhau. Số người bị trúng huyệt đạo lúc nãy bỗng cử động được chân tay và lần lượt đứng lên.
Ðiền tướng công giơ ngang kiếm che người, gọi to: “Tên họ Hồ kia! Hôm nay bọn ta đành chịu lép. Nếu có gan, mi hãy đứng lại!”. Người trong xe không đáp.

Chỉ thấy “soạt” một tiếng, một đồng tiền nữa văng mạnh ra, trúng vào mũi kiếm của Ðiền tướng công kêu “keng” rồi thanh kiếm bật ra xa cắm phật xuống đất.
Ðiền tướng công giơ bàn tay cầm kiếm lên nhìn, thấy máu tuôn ra ở chỗ giữa ngón cái và ngón trỏ.
Thấy kẻ địch quá lợi hại như thế, Ðiền tướng công thất sắc, vẫy tay ra hiệu,cùng Phạm bang chủ dẫn mọi người trở về quán trọ, cõng bảy người bị thương kia cùng lên ngựa rồi đi xuôi về phía nam. Trước khi đi, Ðiền tướng công còn cho tôi hai mươi lạng bạc.
Qua phong độ hiên ngang của ông, tôi hiểu đó là một bậc quân tử hào hiệp, và nghĩ rằng kẻ ngồi trên xe kia chắc chắn là một tên xấu xa gian ác vô cùng; nếu không thì sao hắn lại nuôi mối oán thù với một người tử tế như Ðiền tướng công?
Bần tăng đang tính về nhà mình, thì lại thấy chiếc xe lúc nãy phóng tới cửa quán trọ và dừng lại. Vì tò mò, tôi rất muốn thử nhìn xem gã xấu xa đó mặt mũi ra sao,nên tôi nấp ngay vào sau quầy rượu của quán trọ nhìn ra cửa xe.
Rém xe vén lên, một người đàn ông bước xuống. Vẻ mặt hắn thật hung ác, sắc mặt đen sì, râu quai nón xồm xoàm, tóc không tết đuôi sam, mà rối bời trên đầu.
Trông thấy hắn như vậy, tôi giật cả mình: “Cha mẹ ơi! ở đâu lại chui ra một thằng quỷ sứ thế này?”. Tôi chỉ mong sao chóng thoát khỏi nhà trọ này để về nhà. Nhưng mà kì lạ thay, hai mắt tôi như dán chặt vào hắn, không rời ra được. Tôi rủa thầm:
“Ðúng là gặp quỷ sứ giữa ban ngày! Hay là hắn có phép lạ?”.
Hắn hỏi chủ quán: “Xin phiền hỏi ông vùng này có ai làm thầy lang không?”.
Chủ quán chỉ luôn vào tôi: “Chính người này đây!”. Tôi xua tay cuống quýt:
“Không, không…”. Hắn ta cười: “Ðừng sợ! Ta không luộc chín ông để ăn đâu!”.
Tôi lắp bắp: “Tôi… tôi…”. Hắn sa sầm nét mặt: “Nếu có định ăn thịt ông, ta chỉ ăn thịt sống thôi đấy nhé!”. Tôi càng hoảng, hắn bèn cười ha hả. Bấy giờ tôi mới hiểu là hắn nói đừa. Tôi nghĩ bụng: “Mày định đùa cũng phải tuỳ mặt chứ!. . Cụ mày đây để cho mày mày cười đùa à?”. Chỉ thoáng nghĩ như vậy thôi chứ tôi đâu dám hé răng.
Hắn lại nói: “Ông chủ quán! Cho tôi hai phòng nhà trên sạch sẽ nhé! Vợ tôi sắp sinh cháu. Hãy mau đi tìm bà đỡ hộ tôi!”. Hắn cau mày, rồi nói tiếp: “Trên đường bị động thai, e là khó để! Này, ông lang chớ có đi đâu mất đấy nhé!”.
Chủ quán nghe nói vợ hắn sắp đẻ, sợ làm uế tạp quán trọ, nhưng nhìn vào vẻ hung tợn của hắn, đành im như thóc.
Có điều là bà Lưu, vẫn làm bà đỡ ở thị trấn này vừa chết cách đây vài hôm, nên chủ quán đành nói thực cho hắn ta biết. Nét mặt của hắn trông càng dữ tợn hơn.
Hắn lôi ra một đĩnh bạc lớn đặt mạnh lên bàn: “Phiền ông chủ quán hãy đi khắp nơi tìm bà đỡ giúp tôi, càng nhanh càng tốt!”. Tôi nghĩ bụng: “Sao mà bọn người này hễ xỉa tiền ra là hai mươi lạng nhỉ?”.
Người khách mặt mũi xấu xí như là ác quỷ ấy chờ chủ quán dọn phòng xong xuôi thì ra xe dỡ một người phụ nữ bước xuống. Người phụ nữ ấy được trùm kín trong tấm áo da cừu, chỉ để lộ khuân mặt. Nếu so sánh một nam một nữ này thì có thể ví Ðiêu Thuyền với Trương Phi vậy!
Tôi thấy người đàn bà ấy quá đẹp, giật mình suy nghĩ: “Ðây rõ ràng là một tiểu thư lá ngọc cành vàng, sao đến nỗi bị ép lấy cái gã quỷ sứ này nhỉ? Thôi đúng rồi!
Chắc là hắn cướp đem về làm ấp trại phu nhân cũng nên”. Không hiểu sao, tôi nảy ra ý nghĩ lạ lùng: “Người này và Ðiền tướng quân mới đẹp đôi! Chưa biết chừng hắn cướp vợ của Ðiền tướng quân, vì thế mới nảy sinh ra oán thù”.
Ðến giữa trưa hôm sau, vợ hắn vã mồ hôi trán, rên rỉ kêu đau. Gã quỷ sứ cuống cả lên toan đích thân đi tìm bà đỡ. Người vợ hắn bèn nắm tay hắn kéo lại, không cho đi. Chừng sang giờ Mùi, thì đứa trẻ đòi ra đời, không thể không chờ bà đỡ được nữa. Tên quỷ sứ bảo tôi đỡ đẻ, tất nhiên là tôi không chịu. Các vị nghĩ xem, tôi đường đường một đáng nam nhi, lại đi đỡ đẻ cho đàn bà thì sao ổn? Ðấy là việc xúi quẩy đến ngàn vạn lần. Hễ mó vào chuyện đó, thì đen đủi xui xẻo cả đời cả khiếp!
Tên quỷ sứ ấy bèn bảo tôi: “Ông cứ đỡ đẻ đi. Tôi có hai trăm lạng bạc đây. Nếu không chịu thì tuỳ ông đấy!”. Gã giơ tay đập chát một tiếng, phạt bay một góc bàn vuông. Tôi nghĩ: “Mạng mình là hơn cả. Vả lại số bạc hai trăm lạng này, mình có chữa gân bong đến cả chục năm cũng không kiếm nổi. Một lần xúi quẩy thì đã sao nào?”. Thế là tôi nhận lời, vợ hắn sinh được đứa con trai trắng trẻo mũm mĩm.
Thằng bé đó khóc vang lên, mặt đầy lông tơ, mắt mở thao láo, mới đẻ ra tướng mạo đã hung dữ giống hệt như cha nó. Sau này lớn lên, cầm chắc sẽ lại là một kẻ ác! Tên quỷ sứ đó rất vui mừng, quả nhiên cho tôi mười khối bạc Ðại Nguyên Bảo,mỗi khối hai mươi lượng. Người vợ còn tặng cho tôi một đĩnh vàng trị giá bằng khoảng tám chín mươi lạng bạc, hắn còn bưng một khay bạc ra tặng khắp mọi người từ chủ quán đến đầu bếp mỗi người mười lạng. Thế là ai cũng hể hả! Hắn còn kéo mọi người cùng uống rượu, kể cả những kẻ sai vặt, quét dọn trong quán không sót một ai! Mọi người gọi hắn là “Hồ đại gia”.
Hắn bảo: “Tôi họ Hồ. Cả đời tôi, hễ gặp kẻ làm điều xấu xa là tôi cho một đao ngay, cho nên mọi người còn gọi tôi là “Hồ Nhất Ðao”. Các người đừng gọi tôi “Ðại gia” làm gì! Tôi cũng xuất thân nghèo khổ, chỉ cướp lại chút tièn bạc của lũ ác bá để sống mà thôi, “Ðại gia” cái nỗi gì? Cứ gọi tôi là Hồ đại ca đi!”.
Bần tăng sớm biết hắn không phải người lương thiện, và quả nhiên hắn tự nói ra điều đó!. Mọi người không dám gọi “đại ca”, hắn bèn ép mọi người phải gọi như thế. Sau đấy, mọi người uống nhiều, thấy bạo hơn, mới dám gọi hắn là đại ca.
Ðêm ấy, hắn không cho tôi về nhà, bắt tôi ở lại cùng uống rượu với gã. Uống đến tận canh hai, mọi người đều say mèm. Riêng tôi, tửu lượng khá, nên còn nốc với hắn hết bát này đến bát khác. Hắn càng uống càng phấn chấn, đi vào phòng bế đứa con ra, chấm ngón tay mình vào rượu để cho đứa trẻ mút. Thằng bé mới sinh chưa đầy một ngày mà mút rượu nặng không hề khóc, trái lại mút ngon lành. Ðúng là con sâu rượu bẩn sinh.
Chính vào lúc ấy, có tiếng vó ngựa phi từ phía nam. Tất cả có chừng hai ba chục con ngựa lao nhanh đến, dừng bước trước cửa quán trọ. Tiếp theo là tiếng đập cửa mạnh. Chủ quán đang say bí tỉ, loạng choạng bước ra mở cửa, hai ba chục người đàn ông tiến vào, ai cũng đeo binh khí. Họ xếp thành hàng trước cửa và im lặng.
Một người trong bọn họ tiến lên phía trước, ngồi xuống bên cạnh bàn, cởi chiếc túi vải màu vàng đeo trên lưng xuống đặt lên bàn. Dưới ánh nến soi, nhìn rõ bảy chữ “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” thêu trên túi bằng sợi chỉ đen…
Nghe Bảo Thụ kể đến đây , mọi người đều ngẫng lên nhìn mấy chữ “Nói khoác thế gian không địch thủ” mà Miêu Nhân Phưọng viết trên đôi câu đối treo trong đại sảnh.
Bảo Thụ nói:
-Mấy chữ này là biệt hiệu của Miêu Nhân Phượng… Cho đến bây giờ tôi vẫn cảm thấy có phần coi thường thiên hạ quá . Cái buổi tối gặp ông ta, tôi rất kinh ngạc. Người cao lêu đêu và đét, trông như cái sào, da mặt vàng ệch trông như người ốm, đôi bàn tay to như cái quạt nan rách xòe rộng trên mặt bàn. Tôi nói đôi tay ấy như cái quạt nan rách, vì chúng gầy guộc đến nổi chỉ thấy những xương và xương. Dĩ nhiên, lúc ấy tôi không biết ông ta là ai, sau này mới biết đó là Kim Diện Phật Miêu Ðại hiệp.
Hồ Nhất Ðao đang mãi đùa với con, nên hình như không biết có đông người vừa vào . Còn Miêu Ðại hiệp cũng chẳng nói gì, tự người tùy tùng rót rượu cho ông ta .
Mấy chục người kia trợn mắt nhìn Hồ Nhất Ðao đang chấm ngón tay vào rượu cho đứa trẻ mút . Hắn chấm một giọt cho con xong , lại ngữa cổ lên uống một bát , hai cha con cứ thi nhau mà uống rượu .
Trống ngực tôi đập thình thịch , chỉ muốn mau tránh xa cái chốn này , nhưng tôi đâu dám dời một bước . Lúc đó chỉ cần ai khè động đậy ,là mấy chục lưỡi đao kiếm kia sẽ bổ xuống ngay . Dù không nhằm vào tôi , nhưng chỉ cần dính hẹ thôi , tôi cũng đũ bị thương nặng rồi .
Hồ Nhất Ðao và Miêu Nhân Phượng đều im lặng , không ai nhìn ai , mỗi người đều uống hơn chục bát rượu . Bỗng người vợ Hồ Nhất Ðao tĩnh giấc , từ trong phòng gọi ti :
-Ðại ca !
Ðứa trẻ nghe tiếng mẹ bèn “òa” một tiếng rồi khóc ầm lên . Hồ Nhất Ðao hơi run tay , đánh rơi bát rượu xuống đất , “choang” một tiếng vỡ tan . Mặt gã biến sắc , ôm đứa con đứng lên . Miêu đại hiệp chỉ cười nhạt ba tiếng “hà,hà,hà” , quay người bước ra cửa . Ðám đông kia đi theo . Một lát sau , tiếng vó ngựa xa dần .
Tôi vẫn nghĩ rằng , khó tránh khỏi một trận ác chiến xảy ra , không ngờ đứa trẻ khóc óa lên như thế , thì Miêu đại hiệp lại bỏ đi luôn . Tôi và chủ quán cùng bọn người hầu nhìn nhau , không ai hiễu ra sao .
Hồ Nhất Ðao bế đứa bé vào phòng . Vách gỗ của gian phòng rất mỏng , nghe tiếng người vợ nói :

-Ðại ca ! Ai đến đây thế ?
Hồ Nhất Ðao trả lời :
-Có mấy thằng giặc cỏ thôi mà , nàng cứ ngủ đi ! Ðừng lo !
Người vợ thở dài :
-Ðừng nói dối muội nữa . Muội biết là Kim Diện Phật đã đến .
Hồ Nhất Ðao nói :
-Không phải đâu , nàng đừng có đoán mò .
Người vợ lại hỏi :
-Thế sao giọng đại ca run run như thế ? Xưa nay đại ca có bao giờ như vậy đâu ?
Hồ Nhất Ðao im lặng một lát rồi nói:
-Nàng đã đoán trúng rồi đó. Ta chẳng sợ hắn đâu.
Người vợ nói:
=Ðại ca!Càng chớ lo cho muội và con. Nếu chàng lo lắng, sẽ không đánh nổi hắn đâu.
Hồ Nhất Ðao thở dài nói tiếp:
-Ta cũng không hiểu vì sao xưa nay ta chẳng sợ một cái gì, thế mà tối nay đang ôm con trong tay thì Kim Diện Phật bước vào rồi đặt cái túi của hắn lên bàn, mặt hắn liếc nhìn thằng bé một cái, thế là ta vã mồ hôi ướt đầm người! Nàng nói phải lắm, ta thấy sợ Kim Diện Phật.
Người vợ nói:
– Chàng thực ra không sợ hắn, mà là sợ hắn hại muội và con chúng ta.
Hồ Nhất Ðao nói:
-Ta nghe đồn Kim Diện Phật hành động rất có nghĩa khí, nên giới giang hồ gọi hắn là Miêu đại hiệp. Chắc là hắn không đến nỗi hại đàn bà và trẻ con đâu.
Khi nói mấy câu này giọng hắn càng run rẩy thêm hơn, rõ ràng chính gã cũng không thực sự tin. Tôi nghe thấy thế, bỗng thương hại cho hắn, nghĩ bụng:
-Gã này mặt mũi hung tợn, hoá ra trong lòng cũng sợ thật rồi!.
Lại nghe người vợ khẽ nói:
-Ðại ca hãy bế con về nhà đi. Muội sẽ ở lại nghỉ cho khoẻ hẳn đã, rồi sẽ tìm đại ca ở ngoài biên ải.
Hồ Nhất Ðao nói:
-Thế sao được? Nếu phải chết, thì vợ chồng chúng ta cùng chết một nơi.
Người vợ than thở:
-Nếu sớm biết thế này, thì năm nọ muội không ngăn đại ca xuống miền Nam thách đấu với Kim Diện Phật mới đúng! Năm ấy, đại ca chưa vướng bận gì trong lòng, chắc sẽ thắng ông ta.
Hồ Nhất Ðao cười:
-Hôm nay gặp gỡ, chưa hẳn ta sẽ thua hắn đâu! Ta e rằng cái túi màu vàng thêu chữ “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” của hắn sẽ phải đổi chủ phen này cũng nên!.
Tuy vừa cười vừa nói thật, song giọng Hồ Nhất Ðao vẫn run; tôi cảm nhận điều đó rõ ràng, mặc dù nghe cách bức gỗ mỏng.
Người vợ bỗng nói:
-Ðại ca nên nghe muội chuyện này.
Hắn hỏi :
-Chuyện gì vậy?.
Người vợ nói:
-Chúng ta hãy nói hết mọi việc với Kim Diện Phật, để xem ông ta bảo sao. Danh hiệu ông ấy là “Ðại hiệp”, lẽ nào ông ta lại không theo đạo lý ?.
Hồ Nhất Ðao nói:

Ta ngồi ngoài kia vừa uống rượu vừa tính toán tỉ mỉ đến tất cả mười mấy cách để dàn xếp. Nàng mới sinh con xong, làm sao ra gió được? Ta tự đi nói chuyện thì chỉ đôi ba câu là hỏng. Nếu như kiếm được một người để sai bảo,
thì ý kiến nàng thực hiện được đấy!.
Nghĩ một lát, người vợ nói:
-Ông thầy lang kia cũng rất tháo vát, ăn nói hoạt bát,hay là phiền ông ta một chuyến?.
Hồ Nhất Ðao bảo:
-“Người này ham tiền, không đáng tin lắm đâu.
Người vợ lại nói:
-Chúng ta trả ông ta nhiều tiền là ổn thôi!.
Ha ha! Bần tăng thời trẻ quả là ham rượu và ham tiền thật! Có nói ra, cũng chẳng ngại các vị chê cười. Nghe đến mấy tiếng “trả nhiều tiền bạc”, thì đầu óc đã nghĩ luôn dẫu có phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng, mình cũng đi giúp họ một phen!
Hai vợ chồng họ bàn bạc to nhỏ mấy câu, rồi thấy Hồ Nhất Ðao đi ra gọi tôi vào phòng nói rằng:
-Sáng sớm mai có người đưa thư cho tôi. Tôi nhờ ông đi theo người ấy, rồi đưa giúp thư trả lời của tôi cho Kim Diện Phật Miêu đại hiệp là cái ông mặt vàng ban nãy đến uống rượu ấy mà!.
Tôi nghĩ rằng điều này có khó gì đâu, nên nhận lời ngay.
Sáng sớm tinh mơ hôm sau, quả nhiên có người cưỡi ngựa đến đưa một bức thư cho Hồ Nhất Ðao. Tôi nghe người vợ đọc thư, hóa ra nội dung là Miêu đại hiệp hẹn Hồ Nhất Ðao đọ tài, muốn để cho Hồ Nhất Ðao tự chọn ngày và địa điểm đấu võ.
Hồ Nhất Ðao viết thư trả lời và giao cho tôi. Tôi mượn chủ quán kia một con ngựa, rồi đi cùng người kia. Ði chừng ba mươi dặm về phía nam, người ấy dẫn tôi vào một ngôi nhà lớn.
Miêu đại hiệp, Phạm bang chủ, Ðiền tướng công đều đang ở đó, ngoài ra còn có thêm bốn năm chục người khác gồm đàn ông, đàn bà, nhà sư, đạo sĩ đủ mặt.
Ðiền tướng công đọc bức thư xong, bèn nói:
-Không cần gì phải hoãn sang hôm khác. Ngày mai chúng ta cứ đến.
Tôi nói:
-Tướng công còn dặn dò gì nữa không?.
Ðiền tướng công nói:
-Ông cứ về nói với Hồ Nhất Ðao rằng hãy mua trước ba cỗ quan tài đi, hai cỗ lớn, một cỗ nhỏ, chớ để các đại gia đây phải tốn kém!.
Về đến nhà trọ, tôi lại nói với vợ chồng Hồ Nhất Ðao những lời đó, nghĩ rằng họ tất sẽ lớn tiếng mắng chửi tôi. Song họ chỉ nhìn nhau và im lặng. Hai người thay nhau bồng bế đứa trẻ lên hôn hít yêu thương, dường như tự biết rằng giờ tận số đã đến gần, muốn nâng niu đứa con dẫu thêm một khắc cũng quý.
Ðêm ấy, tôi toàn mơ thấy những cơn ác mộng. Lúc thì mơ thấy Hồ Nhất Ðao đã giết chết Miêu đại hiệp, lúc thì mơ thấy Miêu đại hiệp giết được Hồ Nhất Ðao, lúc thì mơ thấy cả hai người ấy giết chết tôi. Ngủ đến được nửa đêm, bỗng có những tiếng lạ thường làm tôi tỉnh giấc. Hóa ra là Hồ Nhất Ðao đang khóc ở phòng bên cạnh. Tôi rất ngạc nhiên, nghĩ bụng:
-Thế mà cũng là trang nam nhi hùng hổ! Ðại trượng phu chết thì thôi, việc đã tới nơi còn khóc lóc nỗi gì? Sao lại xoàng đến vậy?.
Rồi lại nghe thấy hắn nghẹn ngào:
-Con ơi! Con mới được có ba ngày… mà thành đứa trẻ mồ côi cha mẹ mất rồi, sau này ai sẽ thương yêu con?
Con bị đói rét,ai sẽ chăm lo cho con? Con bị ức hiếp ai sẽ bênh vực con?.
Thoạt đầu, tôi còn mắng hắn là đồ vô tích sự, nghe đến mấy câu này, lại thấy xót xa, thầm nghĩ:
-Một kẻ cao lớn hung dữ thô lỗ thế này, mà lại yêu thương con đến thế cơ đấy!.
Hắn khóc lóc một hồi lâu, người vợ bỗng lên tiếng:
-Ðại ca! Ðừng đau lòng như thế nữa. Nếu quả đại ca chết bởi tay Kim Diện Phật, thì muội quyết định sẽ không chết, mà sẽ nuôi con cho khôn lớn!.
Hồ Nhất Ðao mừng rỡ:
-Nàng ơi! Ðiều ta lo lắng nhất, chính là điều đó, nếu chẳng may ta chết, thì nàng sống sao nổi nữa. Nhưng giờ đây nàng lại dám cứng cỏi nhận lấy gánh nặng này,thì ta chẳng còn phải lo buồn gì nữa.
Ha ha… ở đời này, xưa nay có ai mà chẳng phải chết?
Ðánh một trận cho thật sướng tay với tên cao thủ bậc nhất thiên hạ này, cũng là cơ hội trăm năm hiếm có đấy.
Nghe ngần ấy câu, tôi cũng cảm thấy hắn thật kỳ quặc. Hắn cười hồi lâu, bỗng lại thở dài:
-Nàng ơi ! Một nhát gươm thọc vào, cổ thấy nhói đau, thế là hết chuyện.
Chết thì thật là dễ. Nàng phải sống, đó mới là điều khó. Khi đã chết, thì chẳng biết gì nữa, còn nàng phải thương xót khổ sở suốt ngày đêm. Ôi! Ta thực lòng không muốn xa nàng!.
Người vợ nói:
-Muội sẽ ngắm nhìn con, coi như trông thấy đại ca rồi. Sau này con lớn lên, muội sẽ dạy dỗ nó để được như bố: hễ gặp bọn quan lại xấu xa, bọn thổ hào ác bá là cho luôn một nhát đao.
Hồ Nhất Ðao hỏi lại:
-Những điều ta làm trong đời, nàng thấy không có gì sai trái ư?.
Người vợ nói:
-Không có gì sai trái cả. Muội muốn con sẽ noi gương đại ca.

Hồ Nhất Ðao nói:
-Thế thì hay lắm! Dù ta còn sống hay chết, thì cuộc đời ta không có gì hổ thẹn với trời đất cả! Chiếc hộp sắt này, nàng hãy trao cho con vào ngày sinh nhật nó khi nó tròn 16 tuổi.
Bảo Thụ này bèn nhòm qua khe cửa, thấy người vợ đang bế con, Hồ Nhất Ðao lấy từ trong túi đẫy đựng quần áo ra một chiếc hộp sắt bây giờ đây, có điều là thời ấy, thanh bảo đao của Sấm Vương lại đang ở trong tay họ Ðiền chứ không có trong hộp. Vậy thì trong hộp sắt đó chứa cái gì? Chắc các vị đều hỏi thế. Ngay lúc ấy tôi cũng thắc mắc lắm, song Hồ Nhất Ðao không mở hộp ra nên tôi cũng chịu, không nhìn thấy gì cả.
Hồ Nhất Ðao dặn dò vợ xong, thấy lòng nhẹ nhõm, bèn nằm xuống ngủ, chỉ lát sau đã gáy vang như sấm rền. Tôi biết là chẳng còn chuyện gì để nghe nữa, cũng định đi ngủ song tiếng gáy ở gian bên vang rền như thế thì ngủ sao được?
Tôi nghĩ bụng:
-Cái người vợ trẻ kiều diễm xinh tươi như hoa kia mà lại đi lấy một kẻ thô lỗ xấu xí như Hồ Nhất Ðao đã là một điều kì lạ rồi. Lại còn hết lòng hết sức tôn kính và yêu mến hắn nữa, lại càng làm cho mọi người không sao có thể hiểu nổi!.
Hôm sau, lúc trời chưa sáng rõ, người vợ đã ra khỏi phòng dặn dò người hầu trong quán trọ mổ một con lợn, làm thịt một con dê, cắt tiết gà, vịt để nàng đích thân vào bếp nấu.
Tôi bèn canh rằng:
-Phu nhân mới sinh cháu chưa được ba ngày,không nên làm việc nặng kẻo sau này đau lưng nhức xương phiền hà lắm đấy.
Người vợ bèn cười đáp:
=Những việc trước mắt, quá đủ phiền hà rồi, còn ngại gì sau này?.
Hồ Nhất Ðao thấy vợ tất bật, cũng khuyên nên vào nghỉ. Người vợ chỉ mỉm cười với chồng, vẫn tiếp tục tự mình xào nấu thức ăn.
Hồ Nhất Ðao cười:
-Thôi được! Lại ăn thêm một lần các món ăn do chính tay nàng làm, thì dẫu có phải chết cũng không hối tiếc gì nữa!. Ðến lúc này tôi mới vỡ lẽ ra là, người vợ hiểu rằng giờ chia tay của hai vợ chồng đã đến gần, nên dù sao mặc lòng, cô ta cứ muốn làm cho chồng ăn một bữa cơm.
Ðến khi trời sáng hẳn, người vợ đã làm xong chừng hai ba chục món ăn, bày ngập trên bàn. Hồ Nhất Ðao bảo người hầu bàn đem tới mấy chục cân rượu nữa, rồi đánh chén cho thoả chí. Người vợ ôm con ngồi bên cạnh, rót rượu và tiếp món ăn cho chồng, vẻ mặt nàng tươi tỉnh.
Hồ Nhất Ðao uống một hơi bảy tám bát rượu trắng, bốc mỗi lần vài miếng thịt dê bỏ vào miệng. Vẳng nghe tiếng vó ngựa từ xa đang lại gần. Hồ Nhất Ðao và vợ cùng nhìn nhau, mỉm cười, vẻ mặt tỏ ra rất quyến luyến không muốn rời nhau.
Hồ Nhất Ðao nói:
-Nàng hãy vào phòng nghỉ đi. Bao giờ con khôn lớn, hãy nhớ bảo nó rằng, cha con muốn con dữ dằn hơn, phải cứng rắn hơn, chỉ cần nhắn nó một câu ấy thôi!.
Người vợ gật đầu:
-Hãy để muội thử nhìn xem Kim Diện Phật mặt mũi ra sao.
Chẳng mấy chốc, tiếng vó ngựa đều ngừng bặt ở trước cửa quán trọ. Kim Diện Phật, Phạm bang chủ, Ðiền tướng công đem theo mấy chục người nữa tiến vào.
Hồ Nhất Ðao chẳng buồn ngẩng đầu, nói cộc lốc:
-Ăn đi!”. Kim Diện Phật nói “được” và ngồi đối diện với Hồ Nhất Ðao, bưng bát rượu lên định uống.
Ðiền tướng công vội giơ tay ra ngăn lại:
-Miêu đại hiệp! Hãy coi chừng trong rượu thịt có cái gì đó cũng nên.
Kim Diện Phật nói:
-Xưa nay vẫn nghe nói Hồ Nhất Ðao là đấng nam nhi đường hoàng, làm việc gì cũng quang minh chính đại, đâu có lén hại tôi thế được!. Nói rồi, ngửa cổ uống cạn một hơi và gắp thịt gà nhắm luôn. Cách ăn uống của Kim Diện Phật trang nhã lịch sự hơn hẳn Hồ Nhất Ðao.
Người vợ Hồ Nhất Ðao nhìn Kim Diện Phật mấy lần, rồi thở dài nói với chồng:
-Ðại ca! Trong đám hào kiệt đời nay, ngoài vị Miêu đại hiệp này ra, chẳng có người thứ hai nào đáng là đối thủ của đại ca nữa đâu! Ông ta thẳng thắn thật bụng với đại ca, phong cách khẳng khái như thế này, trên đời này chỉ có hai người với nhau mà thôi!”.
Hồ Nhất Ðao cười ha hả:
-Muội cũng xứng đáng được coi là một bậc trượng phu trong giới nữ lưu đấy!.
Người vợ nói với Kim Diện Phật:
-Miêu đại hiệp! Ông là bậc nam nhi đại trượng phu, quả là tiếng đồn không ngoa. Chồng tôi nhỡ có chết bởi tay ông, cũng chẳng đến nỗi chết uống! Nếu ông bị chồng tôi giết, cũng chẳng tổn hại gì đến thanh danh của ông xưa nay đâu! Nào, tôi mời ông một bát!. Nàng rót hai bát, tự mình uống một bát.
Kim Diện Phật có vẻ không hay nói, chỉ nhíu đôi lông mày, đáp “được” và đón lấy bát rượu.
Phạm bang chủ đứng bên sa sầm nét mặt, tiến lên một bước:
-Miêu đại hiệp hãy coi chừng lòng dạ đàn bà nham hiểm!.
Kim Diện Phật hơi cau mày, không để ý đến, và uống luôn bát rượu.
Người vợ Hồ Nhất Ðao ôm con đứng dậy và nói:
-Miêu đại hiệp! Ông còn điều gì băn khoăn, xin hãy nói cho tôi biết đã,nếu chẳng may ông kỡ bị người ta giết chết giết, thì các bạn của ông e rằng chưa chắc đã giúp được gì cho ông đâu!…
Kim Diện Phật trầm ngâm giây lát rồi nói:
-Bốn năm trước, tôi có việc đi Lĩnh Nam, có một người đến nhà tôi, tự xưng tên là Thương Kiến Minh, người huyện Vũ Ðịnh, tỉnh Sơn Ðông…
Vợ Hồ Nhất Ðao nói xen vào:
-Ồ, người này là đệ tử của Vương Duy Dương uy danh vang dội vùng vùng Hà Sóc, là một tay cừ khôi trong môn phái Bất quái. Bát quái chưởng và Bát quái đao thì khỏi phải nói!.

Chương 8: Bảo Thụ Ðại Sư Kể Chuyện Xưa (2)

Kim Diện Phật nói:
-Ðúng thế! Hắn nghe nói tôi có biệt hiệu là “Ði khắp thiên hạ không địch thủ”, thì trong lòng không phục nên đến tìm tôi để đấu võ. Gặp lúc tôi không có nhà, hắn lời qua tiếng lại với em tôi, rồi ra tay dùng chiêu sát thủ đánh chết hai người em trai, một người em gái của tôi. Ðấu võ tất có thắng thua.
Các em tôi võ nghệ chưa tinh thông nên bị chết vì tay hắn đã đành. Nào ngờ hắn còn đánh chết luôn cô em dâu tôi, cô ấy không hề biết tí võ nghệ gì.
Vợ Hồ Nhất Ðao nói:
-Chuyện này ông cứ giao cho chúng tôi là được.
Kim Diện Phật gật đầu, đứng lên rút kiếm ra nói::::
-Hồ Nhất Ðao! Nào!.
Hồ Nhất Ðao chỉ cắm đầu ăn, không để ý gì hết.
Người vợ nói:
-Miêu đại hiệp!
Chồng tôi tuy võ nghệ cao cường, nhưng chưa chắc đã thắng nổi ông đâu!.
Kim Diện Phật nói:
-Ấy, tôi cũng quên chưa hỏi: Hồ Nhất Ðao, ông có chuyện gì còn băn khoăn không nào?.
Hồ Nhất Ðao chùi mép đứng lên:
-Nếu ông giết được tôi, thì thằng con tôi sau này lớn lên nhất định tìm ông để báo thù. Nhờ ông chăm sóc nó giúp tôi!.
Bảo Thụ tôi nghe vậy nghĩ bụng:
-Người ta thường nói nhổ cỏ nhổ cả rễ, nếu Kim Diện Phật giết được Hồ Nhất Ðao, thì ông ta đâu chịu tha cho vợ con hắn?
Hồ Nhất Ðao còn e Kim Diện Phật sẽ quên, nên còn nhắc lại một lần nữa cho rõ ràng. Chẳng ngờ Kim Diện Phật lại nói ngay:
-Ông yên tâm đi!. Nếu ông lỡ bị tôi giết chết, tôi sẽ chăm sóc thằng bé này như con đẻ của tôi!.
Phạm bang chủ và Ðiền tướng công đều cau mày đứng sang một bên, xem chừng tỏ ra rất ngán ngẩm. Chính tôi lúc đó cũng thầm ngạc nhiên, bởi lẽ nhìn cảnh hai vợ chồng Hồ Nhất Ðao và Kim Diện Phật dặn dò nhau trịnh trọng như thế giống như những đôi bạn chí thân của nhau, chứ đâu có vẻ sắp sửa liều mạng với nhau?
Chính vào lúc này, Hồ Nhất Ðao rút đao ở lưng ra, lấp loáng ánh sáng:
-Nào! Xin huynh ra chiêu trước!.
Kim Diện Phật giơ kiếm “xin lĩnh giáo” rồi huơi hai nhát vào khoảng không.
Ðiền tướng công nhắc:
-Miêu đại hiệp chớ nên khách khí nữa! hãy xuất chiêu đi !.
Bỗng Kim Diện Phật thu kiếm về, quay đầu lại nói :
-Xin mời tất cả các vị hãy đi ra cho!.
Ðiền tướng quân cụt hứng, song nhìn Miêu đại hiệp sắc mặt nghiêm nghị đành theo lời cùng Phạm bang chủ lui ra đứng ở chỗ cửa để xem vậy.
Hồ Nhất Ðao lớn tiếng:
-Nào, đến lượt tôi , và tiến lên một bước vung đao bổ mạnh xuống đấu đối thủ.
Kim Diện Phật bước chéo sang, lưỡi kiếm xoay vòng, mũi kiếm rung rinh, nhằm vào chỗ sườn phải đối phương.
Hồ Nhất Ðao nói “hãy cẩn thận, đao của tôi là bảo đao đấy”, vừa nói vừa vùng đao chém vào lưỡi kiếm. Kim Diện Phật nói: “xin vâng lời chỉ bảo” và giật cổ tay một cái, lưỡi kiếm đã tránh sang một bên.
Hồi ở Thương Châu, Bảo Thụ này đã từng được xem không biết bao nhiêu lần cảnh đấu gươm đao, nhưng chưa được thấy ai nhanh nhẹn như hai người này. Họ mới tung ra chừng bảy tám chiêu thôi, mà hai bàn tay tôi đã vã đầy mồ hôi lạnh.
Lại thêm một ít chiêu nữa, thì binh khí hai người chạm nhau: một tiếng “choang”, thanh trường kiếm của Kim Diện Phật bị chém gẫy đôi! Ông ta thản nhiên vứt thanh kiếm gãy xuống, chỉ với hai tay không xông vào đối thủ.
Hồ Nhất Ðao nhảy vọt ra ngoài vòng: “Ông hãy đổi kiếm khác đi!”, Kim Diện Phật nói:
“Không sao hết”.
Song Ðiền tướng công cũng đã rút thanh trường kiếm của mình đưa đến.
Kim Diện Phật nghĩ ngợi rồi nói: “Tôi chỉ có tay không, thì chẳng lại được với đao của huynh, thôi thì cứ dùng kiếm vậy” và cầm lấy kiếm, tiếp tục đấu.
Tôi nghĩ bụng: “Bọn trẻ tuổi ở Thương Châu khi đấu với nhau dù đã thua rõ ràng vẫn tỏ ra không phục, thế nào cũng phải nói vài câu cho đỡ thẹn. Thế mà vị Kim Diện Phật tự xưng “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” này, tay kiếm chưa thua chiêu nào, miệng lại nói nhún, kể cũng là một sự lạ”. Về sau này tôi mới hiểu hai người đều là cao thủ hàng đầu thiên hạ, chỉ qua vài chiêu thôi, lòng đều thấy thấy cảm phục đối phương, không dám coi thường.
Lúc này, cả hai đều di chuyển theo vòng tròn, nên đứng xa nhau, thỉnh thoảng bất ngờ bổ vào nhau một hai chiêu thức, rồi lại nhảy lùi ra ngay. Cứ như vậy, họ đấu với nhau hơn chục hiệp.

Bỗng Kim Diện Phật đâm thẳng một mũi kiếm vào đầu Hồ Nhất Ðao. Ðường kiếm này cực mạnh và nhanh, những tưởng đối thủ khó mà tránh được, song Hồ Nhất Ðao đã lăn một vòng trên mặt đất, tay chĩa đao lên.
Lại một tiếng “choang”, thanh trường kiếm kia lại bị chém gãy.
Hồ Nhất Ðao bật dậy ngay, nói “Xin lỗi! Không phải tôi cậy dao mình sắc, mà quả thực chiêu của ông vừa rồi quá ghê gớm, nếu tôi không xử trí như vậy thì không thể nào phá được!”
Kim Diện Phật gật đầu: “Không sao”. Ðiền tướng công lại đưa tới một thanh kiếm khác cho Kim Diện Phật. Hồ Nhất Ðao nói “Này! Các vị cho tôi mượn thanh đao vậy. Ðao của tôi sắc quá, làm hai chúng tôi không trổ hết tài nghệ ra được”.
Ðiền tướng công mừng rỡ, lấy ngay một thanh đao của người tuỳ tùng đưa cho Hồ Nhất Ðao nhấc thử xem sao. Kim Diện Phật nói: “Nhẹ quá ư” rồi cầm ngang thanh kiếm dài, dùng ngón cái và ngón trỏ tay phải kẹp mũi kiếm bẻ “cách” một cái gẫy bớt một đoạn mũi kiếm của mình đi.
Lực của hai ngón tay quả là cực mạnh. Tôi nhìn mà trong bụng thấy quá kinh ngạc.
Hồ Nhất Ðao cười: “Miêu Nhân Phượng! Huynh không chịu chiếm lợi thế hơn người một chút nào cả! Thật xứng đáng với chữ “đại hiệp” vậy”.
Kim Diện Phật nói: “Ðâu dám! Tôi có điều này muốn nói với huynh”.
Hồ Nhất Ðao: “Cứ nói đi”.
Kim Diện Phật nói: “Từ lâu, tôi đã biết võ công của huynh hơn đời. Miêu Nhân Phượng này chưa chắc đáng là đối thủ của huynh. Nhưng tôi đã tuyên bố trên giang hồ mấy chữ “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” rồi, điều ấy không phải là Miêu Nhân Phượng này không biết trời cao đất dày ra sao, ăn nói bừa bãi ngông nghênh đâu…”.
Hồ Nhất Ðao xua tay trái, ngắt lời: “Tôi cũng sớm hiểu ngụ ý của huynh rồi. Huynh muốn tìm tôi để tôi để đọ tài, mà không tìm thấy,huynh bèn rao lên mấy chữ ấy để khích tôi vượt biên ải đến đây”.
Hồ Nhất Ðao ngượng cười, nói tiếp: “Bây giờ tôi đã ở đây rồi, nếu huynh thắng được tôi, thì mấy chữ tên hiệu đó vẫn đúng và xứng đáng lắm. Nào, ra chiêu đi”.
Nghe đoạn này, mọi người mới hiểu được ý định thật sự của Miêu Nhân Phượng khi dùng mấy chữ biệt hiệu đó. Bảo Thụ lại kể tiếp:
-Nói rồi, hai người lại đao kiếm sáng loà xông vào nhau. Giờ đây binh khí ngang nhau nên hai người dốc sức trổ tài. Hơn hai trăm chiêu đầu tiên, dường như không ai chiếm được ưu thế cả. Sau đấy thì Hồ Nhất Ðao có phần nao núng, có thế đao chỉ thiên về phòng thủ.
Hai vị Phạm, Ðiền sắc mặt tươi tỉnh hơn.
Tuy vậy, Hồ Nhất Ðao phòng thủ vô cùng kín chắc; Kim Diện Phật tấn công từ mọi hướng đều không làm gì được. Hồ Nhất Ðao bỗng thay đổi đao pháp, xuất chiêu toàn những phát bổ chém cực mạnh. Kim Diện Phật di chuyển khắp đại sảnh, thanh trường kiếm lúc đâm lúc phạt cũng cực kỳ linh hoạt.
Nói về luyện đơn đao, bần tăng cũng từng khổ học thầy đến bảy tám năm, biết rằng đơn đao chia làm năm vị trí gọi là: “Thiên, địa, quân, thân, sư”. Vùng sóng đao, gọi là Thiên, lưỡi đao gọi là Ðịa, giữa cán gọi là Sư, ngạnh che tay gọi là Thân, cuối cán gọi là Sư. Trong năm vùng này, thì vùng Thiên và Ðịa là chủ chốt.
Xem đao pháp của Hồ Nhất Ðao, thì các chiêu vận Thiên -Ðịa cố nhiên là tài tình quá rồi, khi vận ba vùng Quân -Thân -Sư cũng cừ, có thể dùng tấn công hoặc phòng ngự được.
Có lúc Kim Diện Phật bất ngờ giở những chiêu lạ của trường kiếm ra tấn công vào những khu vực đối thủ không ngờ; nếu dùng sống đao hoặc lưỡi đao để đỡ thì rất khó.
Lúc đó Hồ Nhất Ðao đột nhiên chúc mũi đao xuống, dùng cán đao đánh vào mũi kiếm, ép cho đối phương phải thay đổi chiêu thức!.
Còn về sáu chữ “lia, gạt, giật, băm, chặt, chém” thì lại càng tỏ ra biến ảo khôn lường!.
Còn nói về kiếm thuật thì thời kì ấy bần tăng chưa hiểu lắm. Chỉ biết đao pháp của Hồ Nhất Ðao điêu luyện như vậy mà Kim Diện Phật đọ lại cũng ngang tài ngang sức, vậy rõ ràng cũng cực kì thần diệu. Ðao, kiếm, giáo là ba môn binh khí chủ đạo của con nhà võ.
Thường có câu rằng: “Ðao như mãnh hổ, kiếm như phượng bay, giáo như rồng lượn”. Hai người này, dùng đao thì tựa như mãnh hổ xuống núi, dùng kiếm thì giống như phượng hoàng lượn bay, không ai áp đảo nổi ai. Lúc đầu, tôi còn nhìn rõ được các thế đánh đỡ, về sau thì nhức đầu hoa mắt, chỉ lo mìmh ngã giúi ngay xuống đất, nên đành quay đầu tránh không nhìn nữa. Tôi chỉ còn nghe thấy những tiếng đao kiếm réo trong không khí, những tiếng “choang” khi chúng gặp nhau.
Nhìn vẻ mặt người vợ của Hồ Nhất Ðao, tôi thấy vẫn bình thản, không đượm chút lo âu cho sự nguy hiểm của chồng.
Khi quay lại nhìn Hồ Nhất Ðao, tôi thấy Hồ Nhất Ðao càng đánh càng vững vàng, vẻ mặt tươi cười như cảm thấy mình sẽ chắc thắng.
Còn Kim Diện Phật thì không bộc lộ một tâm trạng gì trên sắc mặt vàng xỉn; không thấy căng thẳng, cũng không thấy nản lòng.
Hồ Nhất Ðao liên tục tấn công, Kim Diện Phật cứ lùi dần.
Phạm bang chủ cùng Ðiền tướng quân tỏ ra mỗi lúc một căng thẳng.
Tôi nghĩ bụng: “Chẳng lẽ Kim Diện Phật lại chịu thua Hồ Nhất Ðao ư?”.
Bỗng nghe “xoạch, xoạch, xoạch” một hồi, thì ra Ðiền tướng công giương cung bắn một loạt đạn sắt tròn vào vùng đầu, mình và chân Hồ Nhất Ðao.
Hồ Nhất Ðao cười ha hả, quăng luôn đao xuống đất.
Kim Diện Phật sa sầm nét mặt, vung trường kiếm gạt các viên đạn sắt ra, rồi nhảy đến bên Ðiền tướng công giằng lấy cây cung bẻ gẫy làm đôi vứt thật xa ra ngoài cửa, giọng trầm xuống “Ra ngoài”.
Tôi lấy làm lạ: “Người ta sợ ông thua, nên có ý giúp ông như thế, vậy mà ông không biết điều”.
Ðiền tướng công mặt đỏ gay, tức giận trợn mắt nhìn Kim Diện Phật, rồi đi ra ngoài.
Kim Diện Phật nhặt thanh đơn đao lên, ném trả lại cho Hồ Nhất Ðao và nói:
“Bọn ta tiếp tục đi”. Hồ Nhất Ðao bắt lấy, nhân đà ấy lia đao luôn; một tiếng “choang”, đao kiếm lại gặp nhau. Tiếp tục đấu một hồi nữa, thì trời đã quá trưa.
Hồ Nhất Ðao lên tiếng: “Ðói rồi đấy! Huynh ăn cơm với tôi chứ?”.
Kim Diện Phật đáp “Phải đấy! ăn một chút đã!”. . Và hai người ngồi vào bàn ăn cùng ăn, coi như bên cạnh mình không còn ai khác!
Hồ Nhất Ðao ăn như rồng cuốn, một hơi ăn liền mấy chục cái bánh bao, hai con gà, một cái đùi dê.

Kim Diện Phật chỉ ăn hai cái đùi gà.
Hồ Nhất Ðao cười: “Huynh ăn quá ít đấy! Chẳng lẽ vợ tôi nấu nướng không được khéo ư?”.
Kim Diện Phật đáp: “Nấu ngon lắm!” và ăn thêm một miếng thịt dê khá to.
Ăn cơm xong, hai người lau mồm rồi lại đánh nhau tiếp.
Lát sau, hai người thi triển khinh công bay lướt khắp gian nhà.
Hồ Nhất Ðao tuy người thô kệch song tiến lui né tránh đều vô cùng linh hoạt.
Còn Kim Diện Phật chân tay đều dài, nên cố nhiên là nhanh nhẹn rồi!
Trận xung đột này, Bảo Thụ tôi nhìn lại càng thêm hoa mày chóng mặt. Bỗng nghe một tiếng “ái chà”, Hồ Nhất Ðao hụt chân trái nên khuỵu xuống. Kể ra thì đó cũng là một cơ hội tốt cho Kim Diện Phật xuất chiêu; chỉ cần chém luôn xuống thì đối thủ không sao đỡ nổi. Thế nhưng Kim Diện Phật nhảy lùi lại và nhắc: “Ông giẫm phải viên đạn tròn đấy! Hãy cẩn thận một chút!”.
Hồ Nhất Ðao đầu gối chưa khuỵu xuống đất đã đứng lên ngay dậy, nói: “Ðúng thế!”; rồi dùng tay trái nhặt viên đạn lên búng viên đạn bay “vù” ra ngoài cửa.
Kim Diện Phật lại nói: “Hãy trông kiếm đây!” và giơ kiếm xông tới. Hai người quyện vào nhau xoay vòng, đấu mãi đến xâm xẩm tối, không rõ đã trao đổi bao nhiêu chiêu thức nữa, song đều tự thấy khó mà phân thắng bại.
Kim Diện Phật nhảy ra vòng chiến nói: “Hồ huynh! Võ nghệ của huynh thật cao cường, tại hạ vô cùng khâm phục! Chúng ta thắp đèn lên để tiếp tục đấu, hay là để đến mai lại quyết một phen sống mái?”.
Hồ Nhất Ðao cười: “Huynh để cho tôi sống thêm một ngày nữa chắc?”.
Kim Diện Phật đáp: “Không dám” rồi giơ trường kiếm, ra chiêu “Ðan phượng triều dương” và xoay người đi luôn.
Chiêu “Ðan phượng triều dương” này vốn là một chiêu kiếm thuật, nhưng Kim Diện Phật đã lùi lại ba bước rồi mới xuất chiêu, cho nên nó biến thành một kiểu chào tôn kính.
Hồ Nhất Ðao chống thanh đơn đao lên, chĩa chếch lên phía trên; đó là chiêu “Tham báo Bắc Ðẩu” cũng như là một lời chào đối phương.
Hai người lúc mới vào cuộc, đều quyết chí thanh toán nhau, song đấu đã một ngày trời rồi, thì ai nấy đều thấy khâm phục đối thủ. Bởi thế, lúc tạm chia tay, mỗi người đều dùng nghi thức cung kính nhất của giới võ lâm để chào nhau.
Hồ Nhất Ðao đợi đối thủ đi rồi, bèn ngồi vào bàn ăn một bữa thỏa thê, rồi lên ngựa phóng đi gấp.
Bảo Thụ tôi thầm nghĩ chắc là hắn đi đến toà nhà ở phía Nam để dò la đối thủ, chưa biết chừng lại tìm cách đánh lén cũng nên. Chỉ cần làm cho Kim Diện Phật bị thương là được, vì những người còn lại chẳng ai xứng đáng là đối thủ của hắn cả. Tôi bồn chồn định đi báo cho Ðiền tướng công biết tin mà đề phòng, nhưng lại sợ chạm trán với Hồ Nhất Ðao thì nguy, nên không dám đi.
Ðêm hôm đó, tuy không có tiếng ngáy ở phòng bên, nhưng tôi vẫn không sao ngủ được chỉ để ý nghe xem tiếng vó ngựa của Hồ Nhất Ðao đã về chưa. Cho đến nửa đêm, vẫn thấy yên lặng.
Tôi lại đoán rằng, nếu ngựa chạy nhanh không tới một canh giờ đã đến được ngôi nhà lớn phía nam, chẳng lẽ hắn đã bị Kim Diện Phật phát hiện, một mình không chọi nổi số đông nên đã bỏ mạng?
Càng chưa thấy gã về, tôi càng không yên tâm, chỉ nghe văng vẳng tiếng người vợ ru đứa bé, có vẻ không lo lắng gì cho chồng cả, thì tôi lấy làm lạ.
Cho đến khi gà gáy sáng, vào lúc canh năm, Hồ Nhất Ðao cưỡi ngựa trở về. Tôi vội vàng trở dậy, thấy gã trở về bằng con ngựa khác; lúc đi hắn cưỡi ngựa xám, lúc về lại cưỡi ngựa vàng. Con ngựa vàng phi đến trước quán trọ, Hồ Nhất Ðao nhẩy vụt xuống, còn nó loạng choạng khuỵu xuống đất, mồm sùi bọt trắng và chết luôn.
Tôi đi ra xem, thấy toàn thân con ngựa mồ hôi vã ra đầm đìa. Hoá ra nó mệt quá mà chết. Xem ra, Hồ Nhất Ðao đã đi đâu đó suốt cả đêm qua. Tôi nghĩ, hôm nay hắn còn phải đấu với Kim Diện Phật, hôm qua sao không ngủ cho kỹ mà dưỡng sức lại đi đâu cho nhọc xác cả đêm? Thật là kì quặc!
Lúc này, người vợ cũng đã dậy và lại làm một mâm cơm. Hồ Nhất Ðao không ngủ nghê gì nữa, bế con tung tung nó lên mà đùa. Cho đến khi trời sáng hẳn, thì Kim Diện Phật, Phạm bang chủ, Ðiền tướng công và cả bọn lại đến.
Cả hai người Miêu, Hồ cùng uống với nhau mỗi người ba bát rượu, không nói năng một lời, đá dẹp bỏ ghế, rút đao kiếm ra đấu tiếp.
Ðấu cho đến tối, hai người thu binh khí lại, chào nhau. Kim Diện Phật nói: “Hồ huynh! Hôm nay sức lực huynh giảm sút đi rồi đấy, tôi e rằng ngày mai huynh sẽ thua mất thôi!”.
Hồ Nhất Ðao nói: “Chưa chắc đâu, vì đêm qua tôi không ngủ đấy thôi. Ðêm nay tôi ngủ kỹ, sẽ lại sức ngay!”.
Kim Diện Phật ấy làm lạ: “Ðêm qua huynh không ngủ ư? Làm gì có chuyện đó?”.
Hồ Nhất Ðao cười: “Miêu huynh ạ! Tôi xin biếu huynh chút quà đây!” rồi vào phòng lấy ra một cái bọc ném cho Kim
Diện Phật bắt lấy.
Mở ra xem, Kim Diện Phật thấy trong túi có một đầu người, bên cạnh còn bảy mũi phi tiêu nữa. Phạm bang chủ nhìn cía đầu người, kinh ngạc kêu lên: “Trờì, Bát quái đao Thương Kiếm Minh!”.
Kim Diện Phật cầm một mũi phi tiêu lên nhấc thử xem sao, thấy mũi phi tiêu khá nặng, thân khắc mấy chữ “Bát quái môn Thương”, bèn hỏi “Ðêm qua huynh đến tận huyện Vũ Ðịnh ở Sơn Ðông đấy à?”.
Hồ Nhất Ðao cười đáp: “Tôi phải phi nhanh làm chết cả thảy năm con ngựa để về đây khỏi lỡ hẹn vơi huynh đấy!”.
Bảo Thụ tôi thấy khiếp hãi, đờ người ra nhìn Hồ Nhất Ðao. Từ Thương Châu, Trực Lệ đến Vũ Ðịnh, Sơn Ðông cách nhau gần ba trăm dặm đường, thế mà hắn đi rồi về trong có một đêm, lại còn lấy đầu một coa thủ võ lâm đem về. Tên này hành sự thật là quỷ xuất nhập thần.
Kim Diện Phật hỏi: “Huynh dùng đao pháp gì mà hạ thủ được hắn?.
Hồ Nhất Ðao trả lời: “Võ công Bát quái đao của người này quả là ghê gớm. Tôi bắt được bảy mũi phi tiêu Liên Châu của hắn, tiếp đó tôi dùng chiêu “Xung thiên chưởng Tô Tần bội kiếm” phá được chiêu “Xoay người chém núi” là chiêu thứ hai mươi chín đao pháp Bát quái môn của hắn”.
Kim Diện Phật ngớ người: Huynh dùng chiêu “Xung thiên chưởng Tô Tần bội kiếm”? Ðó là kiếm pháp nhà họ Miêu tôi đấy chứ?”.

Hồ Nhất Ðao nói: “Chính thế! Chiêu ấy tôi học lỏm ở huynh trong cuộc đấu ngày hôm qua. Ðêm qua tôi không dùng đao mà là dùng kiếm để hạ thủ hắn!”.
Kim Diện Phật nói: “Tuyệt! Huynh đã báo thù cho họ Miêu, và dùng ngay kiếm pháp họ Miêu, đủ thấy huynh thật có thịnh tình”.
Hồ Nhất Ðao nói: “Kiếm pháp họ Miêu độc đáo trong thiên hạ, nên dùng nó để giết hắn có khó gì đâu! Tại hạ chỉ
làm thay huynh thôi mà”.
Lúc này, tôi mới hiểu thêm, Hồ Nhất Ðao luôn tôn trọng Kim Diện Phật ở mọi phương diện. Thương Kiếm Minh đã giết hại bốn người nhà họ Miêu, nếu Hồ Nhất Ðao lại dùng đao pháp để hạ thủ hắn, thì chẳng hoá ra kiếm pháp họ Miêu lại không sánh nổi Bát quái đao ư? Lại càng không sánh nổi đao pháp họ Hồ ư? Riêng chỉ qua một ngày đấu võ mà hắn học lỏm được một tuyệt chiêu của kiếm pháp họ Miêu, rồi vận dụng đẻ hạ sát một cao thủ võ lâm phái khác, cũng đủ làm mọi người rùng mình thán phục. Và mãi tới cuối ngày đấu võ hôm nay, hắn mới đưa cái thủ cấp kia ra mà không hề có ý kể công khoe tài gì cả, càng chứng tỏ hắn thật đàng hoàng minh bạch. Gã tự nhận đã chiến thắng, cũng rất rành rọt.
Ðiều tôi nghĩ đến thì hai vị Phạm, Ðiền cũng đã hiểu cả. Cả hai mặt tái xanh, đưa mắt cho nhau rồi quay người đi ra. Kim Diện Phật nhìn người vợ của Hồ Nhất Ðao, đang bế đứa con, rồi cởi cái túi vải vang đeo trên lưng xuống, mở túi ra. Tôi nghĩ không hiểu trong túi đó có cái gì lạ bèn nghển cổ nhìn, thì thấy trong đó có vài quần áo bình thường. Kim Diện Phật giỡ một mảnh vải vàng trên đó thêu bảy chữ ra, hạ giọng nói nhỏ: “Hà hà!” Ði khắp thiên hạ không địch thủ” đây này! Ba hoa khoác lác thật!”. Rồi giơ tay đỡ đứa bé, lấy tấm vải đấy bọc cho nó, nói với Hồ Nhất Ðao: “Hồ huynh! Chẳng may có mệnh hệ gì, thì chớ lo có kẻ nào dám ức hiếp cháu bé này”.
Hồ Nhất Ðao cả mừng, luôn miệng cảm tạ.
Kim Diện Phật đi rồi, Hồ Nhất Ðao lại ăn uống no say rồi mới đi ngủ. Vừa mới ngủ, tiếng ngáy đã vang rền như sấm.
Ðến khoảng canh hai, bỗng thấy tiếng bước chân đi trên nóc nhà và có tiếng gọi: “Hồ Nhất Ðao! Hãy mau ra chịu chết đi!”.
Hồ Nhất Ðao không tỉnh giấc, vẫn ngáy vang rền. Tiếng quát mắng ngày càng lớn hơn, người kéo đến cũng càng đông hơn.
Hồ Nhất Ðao vẫn như điếc, cứ ngủ như chết. Tôi nghĩ, hắn tuy có võ nghệ cao siêu thật, song vẫn không được nhạy bén lắm. Bao nhiêu là kẻ địch kéo đến, thế mà vẫn chẳng nhận biết gì cả.
Nhưng, kể cũng lạ, là tuy Hồ Nhất Ðao không nghe thấy gì, song người vợ thì rõ ràng đang thức mà vẫn hát ru con khe khẽ, chẳng buồn để ý đến sự huyên náo ở trên nóc nhà và ngoài cửa sổ cả.
Bọn người bên ngoài ra sức gào thét, nhưng vẫn không dám xông vào trong. Hồ Nhất Ðao thì cứ ngáy ông ổng. Tiếng ồn bên trong và bên ngoài nhà xen nhau hòa trộn là một. Bọn ngoài kia mắng chửi độ nửa canh giờ, thì bỗng thấy người vợ nói thủ thỉ: “Con ơi! Ngoài kia có bao nhiêu chó hoang định sủa suốt đêm khiến cha con ngủ không yên để ngày mai đấu võ bị thua đấy! Con thấy lũ chó hoang đó có tồi không nào?”. Thằng bé mới sinh được có vài hôm, tất nhiên không biết nói, chỉ oe oe mấy tiếng.
Người vợ lại nói: “ồ, con tôi ngoan quá! Con cũng bảo chúng tồi à? Ðể mẹ ra đuổi chúng đi vậy nhé!”.
Thằng bé lại oe oe mấy tiếng.
Người vợ lại bảo: “ừ! Con cũng bằng lòng à? Thật không phụ lòng cha mẹ yêu con đâu…”.
Người vợ tay trái ẵm con, tay phải cầm chiếc thắt lưng lụa ở đầu giường lên rồi mở rèm cửa nhẩy vọt ra ngoài.
Tôi rất dỗi ngạc nhiên. Không ngờ một phụ nữ yêu kiều như vậy mà lại có bản lĩnh khinh công tài tình thế. Tôi vội đến bên cửa sổ, chọc thủng một lỗ nhỏ trên giấy dán các ô cửa nhòm ra ngoài, thấy trước cửa nhà có chừng hai ba chục đàn ông kẻ cao người thấp đứng lố nhố, ai cũng có binh khí, đang hòi hét.
Người vợ Hồ Nhất Ðao vung tay phải, dải lụa dài vung ra như một con rắn, quấn chặt thanh đơn đao của một người cao to, lúc giật lấy, lúc buông ra. Người ấy kêu ầm ĩ, rơi cả đao kiếm, ngã lăn xuống đất đánh huỵch một tiếng. Những người còn lại hò la ầm lên và xông lại.
Dưới ánh trăng, người vợ với dải lụa trắng dài như con rồng đang cuộn mình uốn lượn, giập giờn lên xuống… Lần lượt những tiếng loảng xoảng, ối á vang lên, chẳng mấy chốc binh khí của mấy chục người kia đều bị giật mất. Những người trên nóc nhà cũng bị ngã vật nằm xuống đất. Tất cả bọn họ đâu còn dám đánh đấm gì nữa, chỉ lo chạy tháo thân, có người còn bỏ cả ngựa mà chạy thục mạng.
Tôi há hốc mồm nhìn quang cảnh ấy, tim đập người run lên.
Người vợ Hồ Nhất Ðao nhảy lên nóc nhà, đá những thứ binh khí kia cho rơi xuống đất, chẳng buồn nhặt rồi bế con vào nhà cho con bú. Hồ Nhất Ðao vẫn ngủ ngáy vang như sấm, hình như không hề biết chuyện vừa xảy ra.
Sáng hôm sau, người vợ lại làm cơm rượu: bảo lũ hầu bàn thu lượm đám binh khí, buộc lại rồi treo các thứ đao, kiếm, trùy, roi sắt lên mái hiên. Gió Bắc thổi, chúng va chạm nhau kêu leng keng thật vui tai.
Ăn cơm sáng xong, Kim Diện Phật lại đến. Nghe thấy các âm thanh ấy, ông ta nghoảnh sang nhìn và đã hiểu rõ nguồn cơn.
Kim Diện Phật bực bội trợn mắt nhìn bọn người đi theo, bọn họ đều cúi gầm mặt, không dám nhìn lại.
Kim Diện Phật la mắng: “Lũ vô liêm sỉ! Ðàn ông gì mà lại thế? Cút đi cho rảnh!”.
Bọn họ im lặng, lùi lại vài bước.
Tôi nghĩ, nếu đêm qua người vợ có giết hết bọn kia thì cũng dễ ợt,hoặc muốn lần lượt đánh gục ngã cả bọn cũng chẳng khó gì, song làm như thế là vỗ mặt Kim Diện Phật quá.
Kim Diện Phật nói: “Hồ huynh! Cái lũ đốn mạt này đã làm ầm ĩ để huynh không nhủ được. Vậy hôm nay chúng ta ngừng chiến, huynh hãy ngủ cho đầy giấc, mai tiếp tục chiến đấu!”.
Hồ Nhất Ðao cười: “Vợ tôi đuổi họ đi đấy! Tại hạ đây vẫn ngủ say có biết gì đâu! Nào, ta đấu!”. và xốc thanh đao lên, thủ thế.
Kim Diện Phật lại bảo: “Rất may là phu nhân đã nới tay rộng lòng tha cho bọn họ”.
Người vợ cười tủm tỉm. Sau vài câu xã giao, Hồ Nhất Ðao và Miêu Nhân Phượng lại giơ đao kiếm đọ nhau luôn.
Lại đấu cho đến tối, vẫn không phân thắng bại.
Kim Diện Phật thu kiếm về: “Hồ huynh! Hôm nay tại hạ không về nhà nữa, muốn uống với huynh một bữa tuý luý
rồi ta gác chân lên nhau mà ngủ, bàn chuyện võ thuật cho vui”.
Hồ Nhất Ðao cười:”Hay! Hay tuyệt! Tại hạ xin hỏi Miêu huynh về kiếm pháp, nếu có chỗ nào chưa rõ, đêm nay huynh chỉ giáo!”.
Kim Diện Phật bèn nói với Phạm bang chủ và Ðiền tướng công: “Các vị hãy về đi, đêm nay tôi ở lại đây”.
Phạm bang chủ bất giác thất kinh: “Miêu đại hiệp hãy chú ý đề phòng gian kế của hắn”.
Kim Diện Phật lạnh lùng đáp: “Ta muốn làm gì thì làm chứ, tạo sao huynh lại can ngăn?”.
Ðiền tướng công nói: “Huynh chớ quên mối thù giết cha mà trở thành người con bất hiếu đấy!”.
Kim Diện Phật sa sầm nét mặt. Hai vị Phạm, Ðiền không dám nói gì thêm, dẫn đám thủ hạ ra về.
Ðêm ấy, hai người uống rượu và bàn luận về võ công.
Miêu đại hiệp giảng giải từng chiêu từng đường cốt yếu của kiếm pháp họ Miêu cho Hồ Nhất Ðao nghe.
Hồ Nhất Ðao cũng cặn kẽ truyền thụ cho Miêu đại hiệp đao pháp họ Hồ. Hai vị càng trò chuyện càng thấy tâm đắc, đều nói rằng tiếc vì gặp nhau quá muộn. Mỗi người cứ uống vài bát rượu lại đúng lên trình diễn vài chiêu, xong lại ngồi xuống uống tiếp. Họ chuyện trò với nhau về những tinh tuý của võ công, tuy tôi đều nghe rõ cả, song cũng không hiểu chút nào.
Chuyện trò mãi đến nửa đêm, Hồ Nhất Ðao bảo chủ quán mở cửa một gian phòng khác và hai người vào đó nằm chung một gường thật. Tôi thầm nghĩ: “Hai kẻ đang còn sống đây, vào chung một phòng, hẳn ngày mai có một kẻ chết! Nhưng không rõ ai ra tay trước nhỉ ?
Kim Diện Phật không có vẻ phải là người nham hiểm, vậy chắc là ông ta thiệt thân rồi!”.

Rồi tôi lại nghĩ, Hồ Nhất Ðao thô bạo lỗ mãng thật, song lại kém xa Kim Diện Phật về sự tỉ mỉ tinh tế. Võ công hai người ngang tài ngang sức nhau, song nói về đấu trí và mẹo mực thì rõ là Kim Diện Phật hơn hẳn. Vậy thì kẻ ngày mai còn sống để ra khỏi phòng ắt là Kim Diện Phật chứ không phải là Hồ Nhất Ðao rồi.
Lòng hiếu kì nổi lên, tôi bàn rón rén đi lại sát cửa sổ phòng hai người để nghe trộm xem sao. Lúc đó, họ không nói chuyện võ công mà là những chuyện lạ, chuyện bí mật của giới giang hồ và những việc mà hai người họ đã từng hành động khi xưa. Lúc thì Kim Diện Phật nói đã từng giết một tên hung đồ ở một nơi nào đó,lúc thì Hồ Nhất Ðao kể về chuyện đã cứu một người khốn khổ trong một dịp nào đó. Kể đến chỗ lí thú nhất, cả hai người đều vỗ tay cười ầm lên làm tôi cứ há hốc mồm ra mà nghe. Tôi nghĩ một kẻ hung ác dữ dằn như Hồ Nhất Ðao mà giết người này nọ thì chẳng có gì lạ; song Miêu Nhân Phượng có chữ Phật trong biệt hiệu Kim Diện Phật thế mà ông ta cũng là kẻ giết người không chớp mắt.
Nói một hồi, bỗng Kim Diện Phật than thở: “Ðáng tiếc! Ðáng tiếc quá!”.
Hồ Nhất Ðao nói: “Ðáng tiếc về cái gì?”.
Kim Diện Phật nói: “Nếu như huynh không phải người họ Hồ, hoặc tôi không phải người họ Miêu thì nhất định hai ta sẽ kết nghĩa sinh tử có nhau. Xưa nay, tôi vẫn quá tự phụ, dịp này được gặp huynh, tôi thấy thực sự bái phục huynh rồi! Ôi!. . Gầm trời này tuy rộng thật, song ngoài Hồ Nhất Ðao ra, chẳng có ai là người đáng để Miêu Nhân Phượng này kết giao nữa đâu!”.
Hồ Nhất Ðao nói: “Nếu tôi có bị chết đưới tay huynh, huynh cũng nên luôn luôn trò chuyện với vợ tôi. Vợ tôi là một hào kiệt trong phái nữ lưu, còn hơn lũ bạn nhút nhát kia của huynh đấy!”.
Kim Diện Phật nổi cáu: “Hừ! Bọn họ đâu đáng làm bạn với tôi!”.
Nói hết chuyện này sang chuyện nọ, song họ vẫn không đả động gì đến mối thù truyền đời của hai bên. Nếu ngẫu nhiên một người nói gần đụng chạm tới, thì người kia liền nói lái sang chuyện khác ngay. Ðêm ấy, cả hai đều không ngủ, làm tôi đứng ngoài cũng mệt lây. Ngoài sân gió lạnh thấu xương, hai chân tôi đã lạnh tê hết cả. Ðến lúc trời sáng hẳn, bỗng Kim Diện Phật đến bên cửa sổ cười nhạt:
“Hừ! Ðã nghe chán rồi chứ?”. Lại nghe “cách” một tiếng, Hồ Nhất Ðao nói: “Miêu huynh! Người này là người tốt đấy! Hãy tha cho ông ta!”. Một cái gì đó đập mạnh vào đầu, và làm tôi ngất liền.
Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đã nằm ngủ trên gường lò của mình. Lúc này, trời đã quá trưa. Tôi nghĩ chắc Kim Diện Phật phát hiện tôi nghe trộm ở ngoài cửa sổ, nên đã mở cửa ra thoi cho tôi một quyền; nếu không có Hồ Nhất Ðao xin hộ cho, thì chắc tôi đã đi đời nhà ma rồi! Tôi bò xuống gường, đầu nặng chình chịch, bèn lấy gương ra soi, thấy một nửa mặt tím đỏ, sưng phồng lên có đến một tấc. Tôi hoảng quá buông rơi cái gương đánh “choang” một cái, vỡ vụn trên nền nhà.
Hôm sau, hai người lại đấu võ trên nền nhà chính. Tôi không dám lên xem nữa.
Tôi vốn mong Kim Diện Phật thắng, nhưng bây giờ mặt sưng vù và từng cơn đau rát mặt cứ giần giật nổi lên, tôi lại mong để cho Hồ Nhất Ðao báo thù cho tôi, bằng cách chém được cả Miêu Nhân Phượng một hai nhát đao mới hả.
Ðến lúc trời tối, thấy tiếng Kim Diện Phật nói vọng qua vách gỗ: “Hồ huynh! Tôi vốn muốn đêm nay lại nằm chung gường để trò chuyện nữa, song lại e phu nhân trách móc. Vậy hẹn tối mai, nếu chúng ta vẫn không phân thắng bại, thì chúng ta lại ngủ chung nói chuyện một đêm. Ðược chứ?”.
Hồ Nhất Ðao cười ha hả “Ðược! Ðược!”.
Sau khi Kim Diện Phật đi rồi, người vợ rót một bát rượu bưng tới cho Hồ Nhất Ðao: “Chúc mừng đại ca!”. Hồ Nhất Ðao đỡ lấy uống cạn, cười hỏi: “Chúc mừng về điều gì?”.
Người vợ nói: “Ngày mai đại ca sẽ đánh bại Kim Diện Phật!”.
Hồ Nhất Ðao ngạc nhiên: “Ta đã đấu có đến vài ngàn chiêu rồi mà vẫn không thấy ông ấy có chút gì sơ hở, vậy ngày mai sao lại thắng?”.
Người vợ cười mỉm: “Muội thì lại nhìn thấy ra chỗ sai sót của ông ta. Con ơi! Chính cha con mới là “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” đấy!”. Câu nói sau, người vợ nói với đứa con nhỏ.
Hồ Nhất Ðao vội hỏi: “Chỗ sơ hở nào? Sao ta lại không nhận thấy nhỉ?”. Người vợ đáp “Chỗ sơ hở là ở phía sau lưng. Ðại ca chỉ mải đấu ông ta chính diện thôi,nên nhìn không ra là thế”.
Hồ Nhất Ðao trầm ngâm. Người vợ nói tiếp: “Ðại ca đã đấu với ông ta bốn hôm rồi, muội đã quan sát mãi mà kinh hãi, thấy rằng nếu cứ tiếp tục đấu, thì thế nào đại ca cũng có lúc lớ tay sơ xuất và phàn thắng sẽ thuộc về ông ta. Song, cho đến chiều nay, muội mới phát hiện ra chỗ sơ hở của ông ta. Ðại ca thử nói xem, trong kiếm pháp của ông ta thì chiêu nào là lợi hại nhất?”.
Hồ Nhất Ðao đáp: “Có nhiều chiêu lợi hại, như các chiêu “Tẩy kiếm hoài trung bão nguyệt”, “Nghênh môn thoái phản phách Hoa Sơn, “Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sĩ”, “Xung thiên chưởng Tô Tần bội kiếm”…
Người vợ nói: “Chỗ sơ hở là ở chiêu “Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sĩ” đó!”.
Hồ Nhất Ðao cười: “Chiêu ấy lấy tấn công làm phòng ngự, trong cái cứng có cái mềm,vô cùng hiểm độc đấy!”. Người vợ nói: “Khi đại ca dùng chiêu “Xuyên thủ tàn đao”, “Tiến bộ liên hoàn đao” hay chiêu “Triển thiên trích tâm đao” thì đôi khi ông ta dùng chiêu “Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sĩ”để phản kích. Nhưng trước lúc ông ta giở chiêu đó ra thì giữa lưng thấy nhô lên, hình như là sợ bị ngứa”.
Hồ Nhất Ðao lấy làm lạ: “Thật thế ư?”.
Người vợ đáp: “Hôm nay, ông ấy hai lần giở chiêu đó ra, thì lần nào cũng thấy lưng nhô lên. Nếu ngày mai trong khi đấu võ mà muội lại nhìn thấy hiện tượng ấy, muội sẽ đặng hắng lên, lúc đó đại ca hãy ra tay trước luôn, không chờ ông ta giở chiêu đó ra nữa. Ðại ca hãy dùng chiêu “Bát phương tàng đao” để tấn công dữ dội, thì ông ta không thể không thu kiếm lại, xin nhận phần thua!”.
Hồ Nhất Ðao cả mừng luôn miệng kêu: “Diệu kế, diệu kế!”.
Nghe hai vợ chồng nói chuyện, tôi nghĩ hãy đi thông báo cho Kim Diện Phật để ông ta phòng trước. Nhưng khi sờ lên mặt còn đau nhức, tôi nhớ đến quả đấm nặng tay quá thể ông ta giáng vào tôi thì lại nghĩ: “Kệ, ông ta thua cho đáng đời!”.
Hôm sau là ngày đấu thứ năm. Mặt đã bớt sưng, tôi lại đứng xem như hôm nọ.
Chẳng hề thấy vợ Hồ Nhất Ðao ho hắng gì cả, tôi đoán là Kim Diện Phật không giở chiêu kiếm kia ra. Ðến bữa ăn trưa, người vợ rót rượu cho chồng và đưa mắt ra hiệu cho chồng vài lần, tôi nhìn rất rõ ràng, hiểu ý rằng người vợ bảo chồng hãy nhử để Kim Diện Phật giở chiêu kiếm đó ra, và lúc đó chồng mình sẽ nắm được phần thắng. Hồ Nhất Ðao lắc đầu, có vẻ như lòng thấy không nỡ. Người vợ lại chỉ đứa con, giằn mạnh một cái làm cho nó ngã trên ghế, thằng bé khóc oà, tôi cũng hiểu được dụng ý của người vợ muốn nói rằng nếu cha nó lỡ mà thua trận, thì nó sẽ mồ côi cha, chịu khổ cả đời.
Hồ Nhất Ðao thấy con khóc ré lên, bèn thong thả gật đầu.truyện Đô Thị audio

Buổi chiều, hai người tiếp tục đấu và được vài chục hiệp. Hồ Nhất Ðao bỗng chém mạnh vài phát. Người vợ ho lên mấy tiếng. Hồ Nhất Ðao hơi cau mày, không dấn lên mà lùi lại. Quả nhiên, Kim Diện Phật iở chiêu “Ðề liêu kiếm bạch hạc thư sĩ” ra. Bảo Thụ tôi vốn không hiểu gì chiêu này song vì đêm qua khi nghe lỏm hai vợ chồng họ bàn bạc với nhau, đã mấy lần tôi nghe người vợ nói đến chiêu này, thầm nghĩ: “Người vợ có con mắt thật tinh tường”. Nếu lúc này Hồ Nhất Ðao hành động theo kế của vợ thì hẳn đã dành phần thắng rồi, thế nhưng đúng lúc đó Hồ Nhất Ðao lại rụt tay, không phải vì thương cảm không nỡ sát hại Kim Diện Phật,mà vì nghĩ rằng có người giúp mình như vậy, dẫu có thắng cũng chẳng có tinh thần thượng võ chút nào!
Tôi cũng lại nhớ đến lời Hồ Nhất Ðao dặn vợ: “… Sau này con lớn lên, hãy bảo cho nó biết rằng cần phải dữ dằn và cứng rắn hơn cha”. Ðủ thấy, tuy mặt mũi hung ác, song lòng Hồ Nhất Ðao lại yếu mềm, việc đã đến trong tầm tay mà lại không quả quyết hành động!
Người vợ bèn véo vào tay đứa con một cái làm nó khóc ầm lên. Tiếng đao kiếm va chạm nhau chát chúa xen lẫn với tiếng khóc trẻ con. Người vợ lại khẽ ho lên.
Hồ Nhất Ðao dấn thêm một bước giở chiêu “Bát phương tàng đao” ra, ánh đao lấp loáng khóa ngay được đường kiếm của Kim Diện Phật.
Thấy Kim Diện Phật không cách gì chống đỡ, vì ông mới chỉ xuất được nửa chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư si” mà thôi. Theo kiếm pháp, tay phải cần đâm chéo, tay trái dơ lên tựa như con hạc trắng xoè đôi cánh ra, song Hồ Nhất Ðao đã sớm ra tay, nên khi Kim Diện Phật vừa mới định vung hai tay ra thì đã bị Hồ Nhất Ðao chém liền hai nhát liên hoàn, vậy chẳng phải Kim Diện Phật giơ cả đôi tay ra hứng lấy đường đao của đối thủ chém xuống ư?
Nhưng thật không ngờ là võ công của Kim Diện Phật cũng thật thần kì! Trong lúc nguy khốn đó, ông cong đôi tay lại, quặc mũi kiếm về phía ngực mình ngay.
Hồ Nhất Ðao cả kinh, nghĩ là ông ta thấy thua, nên xoay kiếm lại để tự sát, bèn gọi ngay: “Miêu huynh! Ðừng làm thế!”. Hồ Nhất Ðao quên rằng, ngay hôm đấu võ đầu tiên, Miêu đại hiệp đã lấy ngón tay bẻ gẫy mũi kiếm. Bây giờ mũi kiếm đã cùn, Miêu đại hiệp lại vận khí kiếm ấy đâm vào ngực thì lại bật ngược trở ra.
Chiêu này một là biến hoá thật kì ảo, hai là Hồ Nhất Ðao đang khuyên Miêu đại hiệp đừng tự sát, không hề đề phòng ông ta dùng thế kì ảo để giành phần thắng, nên khi thanh trường kiếm bật ngược, chuôi kiếm thọc đúng vào huyệt “Thần tàng” trên ngực Hồ Nhất Ðao.
“Thần tàng” là huyệt lớn trên thân, vừa bị điểm trúng huyệt đó Hồ Nhất Ðao bủn rủn ngã gục.
Kim Diện Phật giơ tay đỡ lên, nói: “Ðắc tội rồi!”. Hồ Nhất Ðao cười: “Kiếm pháp của Miêu huynh thật là quỷ thần khôn lường, tại hạ bái phục vô cùng”. Kim Diện Phật nói: “Nếu không được sự quan tâm thu xếp của Hồ huynh,
thì tại hạ sao xuất được chiêu này?”. Rồi hai người ngồi bên bàn uống liền ba bát rượu hâm nóng.
Hồ Nhất Ðao cười vang, rồi giơ đao ngang cổ cứa luôn. Cổ họng phun máu tươi, hắn gục xuống bàn chết ngay.
Bảo Thụ tôi đờ người ra. Người vợ vẻ mặt vẫn thản nhiên: “Miêu đại hiệp hãy đợi một chút, để tôi cho cháu bé bú no đã!”. Nói rồi đi vào gian trong. Một lúc chừng ăn xong một bữa cơm, người vợ Hồ Nhất Ðao lại ra, hôn thật sâu đứa con, cười nói: “Cháu đã ăn no, nó ngủ say rồi” và đưa con cho Miêu đại hiệp: “Tôi vốn hứa với nhà tôi rằng sẽ tự tay mình nuôi dậy cháu trưởng thành, song năm hôm nay thấy Miêu đại hiệp chân thành hơn người, nghĩa nặng như núi, nếu đại hiệp đã bằng lòng chăm sóc cháu, tôi xin đành chịu tiếng lười biếng để trốn cái khổ sở nhọc nhằn trong hai chục năm vậy”. Nói rồi, người vợ Hồ Nhất Ðao cúi lạy Kim Diện Phật, cầm thanh đao của Hồ Nhất Ðao cứa cổ mình. Thế là cả hai vợ chồng ngồi sóng đôi trên chiếc ghế dài. Người vợ cầm tay chồng, rồi không động cựa nữa.
Bảo Thụ tôi không đành lòng nhìn, quay mặt lại thấy đứa trẻ trong tay Miêu đại hiệp đang ngủ say, khuôn mặt nhỏ bé dường như thoáng nét mỉm cười.

❮ sau
tiếp ❯

Avatar

Bình luận gần đây
https://audiosite.net
Đã fix lại tất cả bộ truyện đã thống báo lỗi nhé ..!Cảm ơn các bạn đã thông báo ...!
https://audiosite.net
Phi Tùng 4 ngày trước
1 thời hoàng kim mua đĩa băng hồi đó...Cái tên Độc Cô Cầu Bại chắc những ai tầm 8x>9x không quá xa lạ gì cả :). .. truyện này phải nói là" Tưởng không hay mà Hay không tưởng được". Đầu tiên cảm ơn tác giả sau đó cảm ơn website AudioSite đã eidt dịch và đọc bộ truyện này rất xuất xác..^^! chả biết nói ...à mình để cử bộ truyện này trong top truyện hay nhé :)
https://audiosite.net
Cảm ơn bạn đã thông báo sever 2 hoạt động bình thường nhé mình đã di chuyển đến sever 1 ( giọng 1 nhé )P/s- Lý do: Là hết băng thông đó bạn không phải lỗi nhé, hiện tại tụn mình đang bị ÂM tiền bên sing bạn à, dung lượng tuy rất nhiều nhưng băng thông có ít lém ( à cái này là do tiết kiệm chút tiền ).Mình thật sự khá nãn nên dạo này cũng lười cập nhật các bộ truyện thành viên uplaod lên..haizz nói thật mình chỉ là tên mọt sách thích viết lách, giờ đi làm ship không có thời gian đọc nên rủ anh em làm audio truyện mà thôi..! haizz..!Mình cũng chả hiểu gì cả chỉ thấy bên sing họ bảo cái gi mà bị phá, họ biết nên họ giảm xuống còn 30% khoản tiền băng thông tuy nhiên nó cũng cả tháng lương đi cày mặt ở ngoài đường ship hàng của mình.Bên đó đã sửa thành công nhưng còn chưa dám fix lại trên website sợ lại -$ thì chắc phải bán con bạn già wave của mình mất..!Tối nay mình sẽ cập 200 bộ truyện do thanh viên Anh Em úp nhé giờ mình lại đi cày đường ..^^!
https://audiosite.net
cảm ơn bạn đã phản hồi :)cái này do sever cache chứ mình không muốn :)mình thì chưa bao giờ nghe bị trường hợp này bao giờ lên không biết :)bạn kiểm tra lại có khi nào bạn đang nghe trình duyệt ẩn danh, dẫn đến không thể nghe tiếp vì nó ẩn hoàn toàn phía sever không thể biết bạn đang nghe đến tập bao nhiêu nhé bạn :).Cách khắc phục: Bn đăng nhập thành viên hoặc nghe truyện tầm 10s>30s là 100% đã lưu có thể nghe tiếp nhé ..!
https://audiosite.net
Phước 1 tuần trước
Đang nghe, lỡ thoát ra cái, vào nó ko lưu phần đang nghe ?Đôi khi không thoát, mà ra FB tý, nó cũng tự thoát ko lưu phần đang nghe, kiếm thấy mịa ?
https://audiosite.net
đã fix lại nhé bạn :)
https://audiosite.net
Lực Trần 2 tuần trước
Ad ơi lỗi giọng đọc 2 rồi ad à
https://audiosite.net
Lực Trần 2 tuần trước
Ad ơi lỗi giọng đọc 2 rồi
https://audiosite.net
Đã fix lại nhé bạn :)
https://audiosite.net
Đã fix lại nhé ..^^!
https://audiosite.net
Cảm ơn bạn đã gửi thông báo tụn mình đang làm lại bộ này nhé ..!khi di chuyển sv bộ này tự nhiên bị lỗi :(sáng thứ 2 hoàn tất nhé.. mai CN nhóm mình đi lễ rồi :).không còn ai fix đâu bạn :)các anh em, huynh đệ thông cảm nha :)
https://audiosite.net
Bộ này hà thu đang làm + chương mới nhất nhé khoảng 3k chương chậm nhất thứ 2 là hoàn tất nhé bạn :)cảm ơn bạn đã thông báo