1. Home
  2. Truyện Kiếm Hiệp
  3. [Audio] Ngọa Hổ Tàng Long full
  4. Tập 2: Đao Báu Lập Lòe Tay Hiệp Nữ -Đèn Lồng Khắc Khoải Hận Hồng Nhan (h4-h6)

[Audio] Ngọa Hổ Tàng Long full

Tập 2: Đao Báu Lập Lòe Tay Hiệp Nữ -Đèn Lồng Khắc Khoải Hận Hồng Nhan (h4-h6)

❮ sau

Hồi 4: Đao Báu Lập Lòe Tay Hiệp Nữ -đèn Lồng Khắc Khoải Hận Hồng Nhan

Đao báu lập lòe tay hiệp nữ -Đèn lồng khắc khoải hận hồng nhan

Tôn Chính Lễ gật đầu, Đắc Lộc ở bên ngoài gọi:

“Bối lặc gia bảo ngươi đi ngay bây giờ!”. Lưu Thái Bảo ừ một tiếng, nhìn Tôn Chính Lễ nói:

“Tôn đại ca cứ ngồi chơi! Bối lặc gia đang gọi tôi, tôi đi một lát sẽ quay lại. Lát nữa còn có biểu huynh Dương Kiện Đường của tôi tới, tối nay gian tặc sẽ tới, lúc đó hoàn toàn phải nhờ đại ca động thủ, bây giờ mời đại ca nghỉ ngơi trước!”. Tôn Chính Lễ gật đầu, đặt đao xuống nói:

“Đi rồi về cho mau!”. Lưu Thái Bảo ừ một tiếng, ra khỏi phòng cùng Đắc Lộc đi ra khỏi nha môn, Đắc Lộc mặt mũi ủ ê nói:

“Hôm nay ngươi gây náo loạn gì vậy? Nếu không có Bối lặc gia nói giúp, nhất định Ngọc đại nhân sẽ phạt nặng ngươi!”.

Lưu Thái Bảo cười nói:

“Không có Bối lặc gia phía sau ta cũng không dám làm chuyện này”. Đắc Lộc nói:

“Hiện Ngọc đại nhân còn trong phủ,y rất giận, muốn ngươi chỉ ra ai là gian tặc trong nhà họ!”. Lưu Thái Bảo cười nói:

“Ta có nói là gian tặc đang ở nhà y đâu? Hôm nay ta chỉ nghĩ phàm là phủ đệ lớn thì phải thăm dò, không ngờ mới thử lần đầu thì đụng phải nhà lão gia”. Đắc Lộc nói:

“Ngươi chỉ giỏi cãi, ai cũng không tin chuyện ngươi làm hôm nay là không có ý đồ. Vốn mấy hôm nay, các ngươi ở ngoài nói bừa là cái gì gian tặc đang ẩn náu trong phủ đệ lớn, hôm nay ngươi lại tới trước cổng Ngọc phủ chửi mắng, không phải là ngươi đã nói rõ rồi sao? Gian tặc đang ẩn náu trong phủ y”. Lưu Thái Bảo thè lưỡi chối:

“Ta không chửi mắng, cũng không nói gì cả”.

Hai người tới phủ Bối lặc, Đắc Lộc vào trong bẩm trước, lát sau mới dẫn Lưu Thái Bảo vào viện. Thiết tiểu Bối lặc hôm nay thần sắc cũng không hay, hỏi:

“Hôm nay tại sao ngươi dám tới trước phủ Ngọc đại nhân quấy rối?”. Lưu Thái Bảo kính cẩn đáp:

“Tôi không dám đi quấy rối, vì hôm qua nghe lão gia dạy bảo, hôm nay phải tìm cách đi tìm gian tặc, để giúp lão gia truy hồi thanh bảo kiếm ấy về!”.

Ngọc đại nhân ngồi bên cạnh tức giận đến mức không kìm được thở hổn hển nói:

“Lưu Thái Bảo, ngươi nhất định cho rằng nữ tặc Bích nhãn hồ ly đó đang ẩn náu trong nhà ta à?”. Lưu Thái Bảo nói:

“Tiểu nhân không dám nói vậy, chẳng qua Thái Đức Cương lúc sắp chết từng nói với con gái y gian tặc đó đang ẩn náu trong một phủ đệ lớn gần Cổ Lâu”. Ngọc đại nhân đứng dậy, nói:

“Ta dẫn ngươi vào nhà ta, cho ngươi nhận diện từ trên xuống dưới, chỉ cần ngươi nhận ra gian tặc, ta sẽ giao gian tặc cho quan xử tử, sau đó ta cam chịu để triều đình phân xử!”. Lưu Thái Bảo nói:

“Tôi không dám đi nhận diện! Vì hôm trước lúc giao đấu ở Thổ thành Đức Thắng Môn trời đã tối, tôi không thấy rõ mặt mũi của gian tặc. Tôi chỉ biết y là một bà già lưng còng, tay chống gậy sắt, đó chính là binh khí của y thị, cái lưng còng của y thị cũng là giả trang già nua, nếu y thị đứng thẳng lưng thì còn cao hơn tôi”.

Ngọc đại nhân dường như giật mình một cái, Lưu Thái Bảo lại nói:

“Còn có một đồ đệ của y thị khoảng hai mươi tuổi trở lạ, vóc người nhỏ nhắn, mặc quần áo xanh. Người đó mới chính là thủ phạm trộm kiếm, hung thủ giết người. Y ngày đêm tìm chúng tôi quấy rối, để bạc cạnh gối vợ tôi, để lại thư ép chúng tôi rời khỏi Bắc Kinh, chỉ vì có vợ chồng tôi ở đây, biết rõ nguồn gốc của y thị, sớm tối nhất định chúng sẽ gây án”, y lại lấy lá thư đưa tới phòng trọ đêm trước ra đưa cho Thiết Bối lặc. Thiết Bối lặc xem xong cười cười nói:

“Tên gian tặc này giống như một tay hảo hán!”. Ngọc đại nhân tinh thần lúc ấy rất bất an, bèn nói:

“Trong nhà ta trên dưới cũng có hơn trăm người, có khi cũng có người xấu nào ẩn núp trong đó, bây giờ ta sẽ phái ngươi xem lại, bất luận ai cũng không được tùy tiện ra vào. Bây giờ ta phải về nhà đích thân lục soát, nếu tìm ra kẻ khả nghi, ta sẽ tự xin hoàng thượng phân xử”, nói xong cáo từ Thiết Bối lặc ra về.

Trong này Thiết tiểu Bối lặc lại dặn dò Lưu Thái Bảo:

“Về sau không được hành sự mạo muội như vậy nữa. để xảy ra chuyện, ta không còn cách nào che chở cho ngươi đâu”. Lưu Thái Bảo luôn miệng tạ ơn rồi lui ra, vui như mở cờ trong bụng. Nhưng thấy đã không còn sớm, y vội quay về. Lúc bấy giờ trong nhà y đã có năm vị bằng hữu tới, ngoài Tôn Chính Lễ còn có Trừng nhãn Tiết Bát, Oai đầu Bành Cửu, Hoa ngưu nhi Lý Thành, Thiết lạc đà Lương Thất, số này đều do Dương Kiện Đường phái tới. Tất cả đều mang binh khí chuẩn bị đêm đến giúp vợ chồng Lưu Thái Bảo bắt gian tặc. Thốc đầu ưng cũng tới báo tin, nói Trường Trùng tiểu nhị đã bị nha môn Đề đốc bắt, y bèn cười nói:

“Tốt rồi! Thủ pháp của chúng ta hôm nay đã tạm được, bây giờ để xem thủ đoạn của hai tên gian tặc đó thế nào, xem chúng có thể thoát khỏi lưới không!”.

Giây lát trời đã tối đen, lúc này dinh Ngọc Chính đường trên gò phía tây Cổ Lâu phòng bị rất nghiêm mật, Ngọc đại nhân đã về tới phủ. Y đã hơn sáu mươi tuổi, từng làm quan hiển hách, lập rất nhiều công lao, hai vị công tử lại đều làm Tri phủ ở ngoài tỉnh, là bậc trâm anh thế phiệt, hiển quý đương thời, mà hôm nay lại bị một gã vô lại ở chợ búa như Lưu Thái Bảo làm nhục, trong lòng rất bực tức, dẫn đám tôi tớ theo hầu quay về tới trước cổng phủ, thấy trên gò cao trước phủ có năm sáu viên sai quan, trước cổng lớn cũng có hai người đứng, tất cả đều cầm đao sáng loáng. Vừa thấy đại nhân trở về, đều nhất tề đứng nghiêm.

Ngọc đại nhân xuống ngựa vào cổng, hai đầy tớ trực ban là Quý Lai, Lục Lai đều vội theo sau y.

Trước nay Ngọc đại nhân ra nha môn đầu tiên là về phủ thay áo, hôm nay lại không như vậy. Y đi xuyên qua hành lang vào khách sảnh trước. Lúc này khách sảnh không có người, trong sảnh lại bày biện một số khí cụ và bình cổ, đỉnh đồng cắm hoa lê và cây tử đàn vân vân rất tối tăm, không nhìn rõ vật gì. Quý Lai vội đốt hai ngọn nến, bệ nến cũng là đồng cổ. Nến sáng lung lay, chiếu sáng một góc trong đại sảnh này. Ngọc đại nhân tới vách tường phía đông, gọi:

“Cầm đèn lại!”. Quý Lai, Lục Lai mỗi người bưng một cái bệ nến, vội đi tới vách tường phía đông, phân ra đứng hai bên đại nhân. Ngọc đại nhân lại ngẩng mặt nhìn gian tường.

Giữa tường treo một đôi liễn đối trên viết “Trăng sáng cửa lân đức ân che mãi, Gió xuân trướng hổ công nghiệp lâu dài”. Tên người được tặng là “Lân Hiên nhân bá đại nhân quân thưởng”, tên người tặng là “Nhân ngu diệt Lỗ Quân Bội kính viết”. Bên dưới đóng hai dấu ấn mực son hình vuông, chữ nổi là tên họ, chữ chìm là Thám hoa khoa Mỗ. Bút pháp của đôi liễn đối này viết rất hồn hậu, theo kiểu chữ lệ Bát phân. Ngọc đại nhân lấy ra một tờ giấy, chính là bút tích hôm nay ở đại đường mà gã vô lại chợ búa Lưu Thái Bảo kia đưa ra, trên cũng là chữ lệ viết:

“Nội trong ba ngày, nếu hai ngươi không rời kinh, tất có đại nạn”.

Ngọc đại nhân nhìn chữ trong lá thư rồi nhìn câu liễn, quả thật thấy chữ viết giống hệt nhau, rõ rang do một người viết. Ngọc đại nhân lập tức lộ vẻ kinh ngạc, vuốt chòm râu lốm đốm bạc ngẩn ra hồi lâu, tự nhủ:

“Quái lạ! Lỗ Quân Bội là người mình thích nhất, y thường tới phủ mình, mình đã có ý gả Kiều Long cho y. Y mới thi đậu Tiến sĩ đệ tam danh, là Biên tu viện Hàn lâm, thiếu niên tài tử, phụ thân y cũng từng làm Thị lang bộ Công, chẳng lẽ y còn làm gian tặc sao? Lẽ nào lại thế! Lẽ nào lại thế!”.

Ngọc đại nhân cất tờ giấy đi, hơi cau mày, ra khỏi khách sảnh, theo hành lang thong thả đi vào phủ, đã có tôi tớ đứng ở cửa ngăn gọi vọng vào trong, báo “Đại nhân đã về!”. Lúc ấy các phòng trong phủ đều thắp đèn, trong gian phòng phía bắc của Ngọc đại nhân đã có người mở cửa ra, cuốn bức sáo lên, hai người bộc phụ bước ra đón, cùng nói “Đại nhân đã về!”.

Ngày thường Ngọc đại nhân chưa từng nhìn tới đám bộc phụ, vì vậy tuổi tác diện mạo của mấy người bộc phụ trong phủ y đều hoàn toàn không biết rõ. Hôm nay lại khác, thấy hai bộc phụ này, y lại đưa mắt nhìn chằm chằm. Đi vào phòng, phu nhân từ trong ra đón, cũng nói “Đại nhân về rồi”. Ngọc đại nhân gật đầu, tới ngồi lên cái giường gỗ, một bộc phụ bưng trà tới, bộc phụ kia đem điếu hút thuốc lào. Ngọc thái thái bèn hỏi “Đại nhân dùng cơm chưa?”. Ngọc thái thái đã thấy vẻ mặt ưu phiền của Ngọc đại nhân nên không dám hỏi nhiều. Ngọc đại nhân rít hai hơi thuốc lào, rồi đưa mắt ra hiệu, hai bộc phụ liền lùi ra.

Ánh đèn trong gian phòng chiếu lên bóng vợ chồng già. Ngọc đại nhân nhìn vợ hạ giọng nói về vụ án quái lạ hôm nay rồi đưa tờ giấy cho phu nhân xem, Ngọc phu nhân cũng rất kinh ngạc, nói:

“Lỗ Quân Bội quyết không thể liên quan đến vụ này”. Ngọc đại nhân nói:

“Đương nhiên không thể có liên quan, y là một vị Hàn lâm, thân thể lại mập như vậy, sao có thể làm phi tặc được?”, uống một ngụm trà, lại nói nhỏ:

“Nhưng Lưu Thái Bảo nói y đã điều tra ra gian tặc Bích nhãn hồ ly Cảnh Lục Nương đang ẩn náu làm bộc phụ cho nhà ta, khoảng hơn năm mươi tuổi, lưng còng, còn có đồ đệ của y thị, là một đứa nhỏ khoảng hai mươi tuổi trở lại, vóc người rất nhỏ, đại khái cũng là người nhà chúng ta dùng. Bà nghĩ xem, người nhà chúng ta dùng rất nhiều, vạn nhất thật có người nào ẩn núp trong đó lại không đáng sợ sao? Vì vậy hôm nay ta sai người canh phòng cổng phủ, không cho ai tùy tiện ra vào. Tôi định gọi tất cả tớ nam tớ nữ vốn có trong ngoài phủ ra, chỉ cần hơi có khả nghi, liền cho họ tiền công hai tháng, bảo họ lập tức đi khỏi đây”.

Ngọc phu nhân vội xua tay nói “Làm thế không được! Lưu Thái Bảo đã là hạng vô lại chợ búa, có lẽ y dựa thế lực của Thiết Bối lặc, có ý dọa dẫm nhà chúng ta”. Ngọc đại nhân lắc đầu nói:

“Không phải dọa dẫm! Đêm trước ở thành đất ngoài cửa Đức Thắng đúng là có một Bổ đầu của huyện ngoài chết.

Bổ đầu đó dẫn con gái lấy danh nghĩa đi mãi võ để ngầm dò tra gian tặc. Nghe nói họ từng mãi võ trước cổng chúng ta, Long nhi cũng từng ra xem”.

Ngọc phu nhân trầm ngâm một lúc, bèn nói “Người trong nhà chúng ta tuy nhiều, nhưng cũng kể ra được. Bốn a hoàn trong đám nữ bộc đều còn rất nhỏ.

Người hầu tôi dùng trong phòng này có Tiền má má, Sử má má, Tiết má má, đều đã theo tôi nhiều năm, lúc ở Tân Cương họ đều hầu hạ tôi. Còn Khánh má má, Trương má má, tuy là người mới thuê nhưng đều có lai lịch, hơn nữa cũng đều không già. Cao sư nương, Hồ má má hầu hạ Long nhi ông cũng đã biết, theo chúng ta cũng năm sáu năm rồi, không hề sai phạm chút gì. Nếu nói bộc phụ lưng còng, chỉ có Bằng má má, tóc thị đều bạc trắng, còn bị bệnh suyễn, thị lại là vú em của đại thiếu gia chúng ta, tôi về với ông một năm thì thuê thị, còn có gì mà không tin cậy được chứ?”.

Ngọc đại nhân trầm ngâm không nói, chợt nghĩ tới Cao sư nương, chuyện năm năm về trước hiện ra trong đầu y. Lúc ở Tân Cương, y đảm nhiệm võ chức mười mấy năm hiển hách, lúc ấy chỉ có con gái Kiều Long theo bên cạnh. Kiều Long lúc sáu tuổi đã có thể đọc sách viết chữ. Lúc đó y đã mời một thầy dạy viết chữ, là một tài tử thi rớt của Vân Nam, tên Cao Vân Nhạn. Người này thật kỳ tài, không những kinh sử đều thông, mà còn giỏi thư họa, về binh thư chiến pháp đặc biệt thành thạo. Ngọc đại nhân từng qua mấy lần đại chiến, toàn nhờ Cao Vân Nhạn chỉ bảo mới được đại thắng, lập được kỳ công. Vì vậy Cao Vân Nhạn không những là thầy dạy chữ của nhà y mà còn là một vị sư gia trong doanh. Cao Vân Nhạn một thân một mình, chưa từng kể với ai về gia thế của y, bình sinh chỉ thích du lãm sơn thủy, mỗi ba năm tất phải xuất du một lần, mỗi lần phải nửa năm mới quay về. Cách đây năm năm chợt Cao Vân Nhạn lại dẫn về một phụ nữ nói là vợ y, hai vợ chồng cùng ở trong nha môn. Sau hai năm bỗng nhiên Cao Vân Nhạn bị bệnh chết, vợ không có nhà mà về, bèn ở lại trong phủ giúp việc may vá thêu thùa, nửa là bộc phụ nửa là khách, bất luận người trên kẻ dưới đều gọi là Cao sư nương. Ngọc đại nhân nghĩ chỉ có người này có chút khả nghi, nhưng người đáng nghi là chồng bà ta. Bà ta tuy đã trên dưới năm mươi, nhưng lưng không còng, hơn nữa còn trầm mặc ít nói, bốn năm năm nay suốt ngày ở trong phòng khâu vá, chưa từng làm chuyện gì sai trái. Ngọc đại nhân vuốt chòm râu suy nghĩ kỹ, cảm thấy trong nhà mình thật không có Bích nhãn hồ ly gì đó, hơn nữa đám tôi tớ trẻ tuổi ngoài viện cũng toàn là con em của mấy người đầy tớ già, không có người ngoài, thật khiến y mờ mịt không biết tìm manh mối từ đâu.

Lúc ấy Ngọc phu nhân bên cạnh nói xen vào:

“Tôi khuyên đại nhân cũng không cần lo nghĩ về chuyện này, trước cổng trong phủ tuy phải canh phòng, nhưng cũng không nên để lộ ra. Một là khỏi khiến gian tặc lo sợ, bị dồn vào thế nảy ra ý xấu gì đó. Hai là nếu trong nhà chúng ta không có người xấu gì đó mà mình đã sợ bóng sợ gió, nếu người ngoài biết, ắt sẽ chê cười!”.

Ngọc đại nhân gật đầu, cảm thấy phu nhân nói rất đúng, rít hai hơi thuốc lào, nói:

“Ngày mai trước tiên gọi Quân Bội đưa tờ giấy này cho y xem”. Ngọc phu nhân cười nói:

“Theo tôi thấy hà tất cho y biết chuyện này, y lại tức giận, thiên hạ xưa nay còn có Hàn lâm làm gian tặc sao?”. Ngọc đại nhân nói:

“Chữ viết của y tuy rất đẹp nhưng lại không phải là nhà thư pháp nổi danh gì, bút tích của y lưu truyền ở ngoài lại không nhiều, làm sao gian tặc có thể mô phỏng giống hệt chữ của y được?”. Ngọc phu nhân cũng ngạc nhiên một lúc, nhưng lại thấy đại nhân rất phấn khích, lại cười nói:

“May mà chúng ta chưa gả Long nhi cho y”.

Ngọc phu nhân vừa nhắc tới việc hôn nhân của con gái, Ngọc đại nhân cũng tới chuyện khác, bèn than:

“Nói đúng ra Lỗ Quân Bội đúng là một thiếu niên tài ba! Hai mươi bốn tuổi đậu Thám hoa, vào viện Hàn lâm, cũng thật hiếm có.

Trước đây lão phu nhân nhà y đã cự tuyệt tiểu thư của Trần Trung đường, chỉ để ý tới Long nhi, ta nghĩ chỉ cần họ lại nhắc tới thì chúng ta sẽ đồng ý gả. Hai nhà vốn thân thiết từ lâu, làm thông gia với nhau, sẽ càng thân hơn. Long nhi năm nay cũng mười tám tuổi rồi, chẳng lẽ còn làm chậm trễ chuyện của nó sao?”.

Ngọc phu nhân hơi chau mày nói “Dường như Long nhi biết rồi, nhưng tôi thấy nó có vẻ không ưng ý. Hơn nữa tuy Lỗ Quân Bội là một thiếu niên tài giỏi nhưng vóc dáng tướng mạo cũng rất ngờ nghệch!”. Ngọc đại nhân có vẻ tức giận nói “Chuyện hôn nhân của con gái há có thể do nó tự làm chủ? Tôi sẽ quyết định việc hôn nhân của nó, về sau sẽ không thể cho nó ra cổng thường xuyên, đứng trước cổng nhìn người ta đi dây, còn ra thể thống gì?”. Ngọc phu nhân không dám nhiều lời, Ngọc đại nhân lại hút một ống thuốc lào, rồi đi về phòng thay áo nghỉ ngơi.

Giây lát đến canh hai, quy củ của Ngọc phủ là bất luận trên dưới thì trừ người trực ban canh đêm ra, đến canh hai đều phải tắt đèn đi nghỉ. Ngọc phu nhân hút cái tẩu thuốc lào ngắn, ngồi trong phòng im lặng suy tư, bỗng bộc phụ Tiết má má đứng bên hầu nói “Tiểu thư tới”. Theo quy củ của người Bát kỳ, phàm là tiểu thư, thiếu gia, con dâu, hàng ngày sớm tối đều phải tới trong phòng cha mẹ thỉnh an hai lần. Cha Ngọc Kiều Long là võ tướng, trước kia lúc việc binh khẩn cấp đã miễn phần lễ tiết này. Nhưng nàng mỗi ngày sáng dậy trang điểm xong và trước khi đi ngủ cũng phải tới làm lễ vấn an mẫu thân. Lúc bấy giờ nàng gặp mẹ, hành lễ xong liền cười hỏi “Mẹ, trong nhà chúng ta hôm nay có chuyện gì vậy? Cao sư nương muốn tới miếu Bồ Tát thắp hương, nhưng trước cổng đều không cho bà ra!”. Nàng nói xong, lắc lư đầu cười nhìn mẫu thân như một đứa trẻ, trên mái tóc đen nhánh cài một con bướm kết bằng hạt châu không ngừng lay động dưới ánh đèn.

Thân người nhỏ nhắn của nàng mặc áo dài bằng đoạn màu xanh lá mạ thêu hoa đỏ, đầu tay áo lộ ra nẹp viền bằng da ngân thử, trước cúc áo đầu tiên trên vạt áo dài treo một chuỗi hạt châu, là bích ngọc gọt thành, có tua vàng rũ xuống, đôi hoa tai cũng lấp lánh dưới ánh đèn, vị tiểu thư này thật giống một con rồng vàng xinh đẹp mà thần bí. Ngọc phu nhân đem chuyện bộc phụ mà Ngọc đại nhân đã nói khẽ kể cho con gái nghe một lượt. Ngọc Kiều Long tiểu thư nghe xong cũng không ngạc nhiên, chỉ hơi khép cặp mắt xinh đẹp, khép đôi môi như cánh hoa anh đào, bực bội một lúc rồi nói:

“Trong nhà chúng ta không có người gì đó khả nghi chứ?”.

Ngọc phu nhân gật đầu nói:

“Ta cũng không tin là trong nhà chúng ta có người ẩn náu, nhưng cha ngươi cầm một lá thư gian tặc viết, theo ông ta nói là chữ của Lỗ Quân Bội”. Ngọc Kiều Long tiểu thư nói:

“Lỗ Quân Bội vốn không phải là người tốt, cha lại cứ cho y lui tới nhà chúng ta!”. Ngọc phu nhân thở dài một tiếng, nói “Ồ! Sao ngươi lại nói vậy? Nhà họ Lỗ là chỗ thân thiết từ lâu với chúng ta, Quân Bội lại là một vị thiếu niên Thám hoa, Học sĩ Hàn lâm”. Ngọc Kiều Long tựa hồ tức giận nói:

“Vậy tại sao y lại làm gian tặc sát nhân?”. Ngọc phu nhân lại thở dài nói:

“Y sao có thể là gian tặc? Gia thế người ta còn hơn chúng ta, đây nhất định là gian tặc cố ý bắt chước bút tích của y”. Ngọc Kiều Long tiểu thư ngầm hừ hừ cười nhạt nói:

“Tên gian tặc đó còn biết bắt chước bút tích của người khác sao?”.

Ngọc phu nhân cau mày, rồi âu yếm nói với con gái:

“Ta xem ý cha ngươi đã quyết rồi, nếu họ Lỗ sai người mai mối tới lại thì cha ngươi sẽ đồng ý, theo ta thấy Lỗ Quân Bội tướng mạo tuy hơi xấu, nhưng đúng là có …”. Ngọc Kiều Long tiểu thư không đợi mẹ nói hết câu, gương mặt kiều diễm như hoa đột nhiên nhợt nhạt, nước mắt như hạt châu lăn ròng ròng trên má, buồn bã lắc đầu.

Ngọc phu nhân thấy dáng vẻ con gái như vậy không kìm được thở dài một tiếng, nói:

“Chuyện này cũng không thể quyết định lập tức, hai ngày nay cha ngươi rất buồn phiền, cũng không còn lòng dạ nào giải quyết chuyện này, ngươi đừng để tâm nữa! Đừng buồn phiền chuyện đó nữa, từ từ ta tìm cách khuyên cản cha con, bây giờ con đi nghỉ ngơi đi!”.

Ngọc Kiều Long tiểu thư tuy không nói, nhưng vẻ buồn bã cũng không giảm đi chút nào. Nàng từ từ lui ra khỏi phòng quay đi, các bộc phụ đều nói “Tiểu thư đi nghỉ!”. Ngọc Kiều Long tiểu thư gật nhẹ đầu, nhẹ chuyển hài thêu, a hoàn Thêu Hương đi theo nàng, bộc phụ trong phòng cầm đèn ra đón. Ngọc Kiều Long tiểu thư dẫn a hoàn theo hành lang đi về khuê phòng phía tây.

Lúc này tiếng báo canh ngoài tường đang gõ hai tiếng, trời tối đen như mực, mờ mịt không có sao, như tuyết sắp rơi. Gió bấc thổi rất mạnh, thổi tắt ngọn đèn trong tay bộc phụ. Ngọc Kiều Long tiểu thư trở về phòng, lúc này có một a hoàn khác tên Ngâm Tự đã trải chăn thơm lên giường xong, cho than vào chậu đồng, Ngọc Kiều Long tiểu thư ngồi bên đèn, Tú Hương hơ tay rồi mới giúp tiểu thư gỡ hoa tai, tháo đóa hoa trên đầu. Ngâm Tự bưng cái đĩa bạc, trong đĩa có chén trà bằng sứ nhỏ, bưng chén trà lên, đặt xuống cái bàn gỗ đỏ khảm ngọc thạch.

Ngọc Kiều Long tiểu thư đôi mày nhỏ vẫn nhíu lại, nước mắt vẫn chưa khô, cúi đầu không nói. Một con mèo lông dài trắng như tuyết chạy tới cạnh nàng, ngẩng đầu meo một tiếng. Ngọc Kiều Long tiểu thư đưa cánh tay nhỏ bé giống như lá non mềm mại đeo nhẫn vàng phỉ thúy nhẹ nhàng vuốt bộ lông dài trắng như nhung của nó, gương mặt đẹp của nàng mới dần dần hiện ra nét vui vẻ, bên má lộ ra một lúm đồng tiền hơi cạn. Ngâm Tự, Tú Hương cao bằng nhau, khoảng mười bốn mười lăm tuổi, mặc y phục a hoàn xinh đẹp bằng đoạn cũng cười.

Tú Hương bèn nói:

“Tiểu thư, hàng ngày người buồn bã chuyện gì vậy?”.

Ngâm Tự nói:

“Còn mấy ngày nữa là hết năm rồi, năm nay tiểu thư dẫn chúng tôi đi xem hoa đăng nhé?”. Ngọc Kiều Long tiểu thư nói:

“Đến lúc ấy hãy nói, chưa chắc ta đã sống đến sang năm!”. Hai a hoàn vừa nghe thế đều cắn môi rơi nước mắt. Ngọc Kiều Long lại cười khanh khách nói:

“Các ngươi chịu khổ thay ta à? Ta còn chưa khóc mà, các ngươi đi ngủ đi!”. Hai a hoàn đều lau nước mắt, vừa định quay đi, chợt nghe ngoài phòng có người hỏi:

“Tiểu thư nghỉ chưa?”.

Tú Hương vội vén rèm nhìn ra nói “Còn chưa nghỉ, mời Cao sư nương vào”.

Cao sư nương từ bên ngoài bước vào, là một phụ nữ trên dưới năm mươi tuổi, dáng người rất cao, khuôn mặt dài, trên mặt đã có nếp nhăn, tóc cũng có rất nhiều sợi bạc trắng. Bà ta mặc áo bông vải màu tro, viền biên trắng, có thể biết là quả phụ. Trong tay lại cầm một vật bằng lụa đỏ gói trong miếng lụa trắng, trên thêu một đóa hoa, mỉm cười đi vào, đưa vật ấy cho Ngọc Kiều Long xem, hỏi:

“Đây là cái yếm tiểu thư bảo tôi may, tôi thấy dài quá, nên cắt bớt một đoạn”. Ngọc Kiều Long cầm cái yếm nhìn qua rồi nói:

“Không cần cắt bớt đâu.

Cao sư nương đi ngủ đi, tôi không cần mặc vội, ngày mai hãy may!”. Cao sư nương gật đầu, cầm cái yếm bước ra.

Trong này Ngọc Kiều Long mỉm cười, tay vuốt ve con mèo yêu của nàng, nhìn hai a hoàn chum môi. Hai a hoàn đều lui ra khỏi phòng, đóng cửa lại, rồi cùng quay về phòng ngủ của họ. Khuê các này của tiểu thư tổng cộng có ba gian, áp tường phía bắc có một cánh cửa gỗ, bên trong còn có một căn phòng nhỏ, là chỗ hai a hoàn ở. Vì tiểu thư thích yên tĩnh, buổi tối không muốn có người khác ngủ trong phòng nàng, nàng ghét nhất là tiếng ngáy và nói mê của người khác.

Ba gian phòng này hai sáng một tối, ngoài phòng bày sau cửa sổ là cầm kỳ thư họa, có tấm rất lớn. Gần cửa sổ có một cái bàn gỗ đỏ, đó là nơi tiểu thư đọc sách, tập viết chữ mỗi ngày. Có lúc mở cửa sổ sau ra, mùa đông có thể nhìn thấy cảnh một vùng tuyết trắng, mùa xuân thì có thể nhìn thấy mười mấy cây hải đường, và trồng mấy luống hoa thược dược. Bên phải cửa là vách dừng bằng gỗ du, trên khảm đầy pha lê hình mặt trăng, treo hai lớp rèm bằng lụa đỏ, bên trong còn có hai cánh cửa phòng rất chắc chắn, đó chính là phòng ngủ của tiểu thư.

Áp sát sau tường phòng ngủ lắp cái giường làm vách dùng gỗ du, trên vách dừng khảm rất nhiều chữ Phúc nhỏ, chữ chính thảo lệ triện đều có, họa thì công bút tả ý đều đầy đủ, và có đóng dấu “Ý vân hiên chủ nhân” rất nhỏ. Bọn a hoàn đều hiểu, đây toàn là thư họa của tiểu thư. Vách trái là một chiếc bàn chạm nhỏ, trên bày nghiên mực của Huy Châu, đồ sứ cổ, giá bút và vò nước, và có một hai món bày biện khá tinh vi. Hai quyển sách để trên án là “Sử ký” và “Đường thi”, đây là vì tiểu thư tùy lúc nào cũng lật ra đọc giải khuây, ngoài ra còn có xấp giấy viết thư Chu ty lan. Tiểu thư có lúc hơi có chút cảm xúc, thường sai a hoàn mài mực, tay ngọc của nàng chấp bút, điền thêm một từ khuyết hoặc làm mấy bài thơ.

Bên phải là bàn trang điểm, có gương trang điểm bằng gỗ bạch đàn viền phỉ thúy và hai cái bệ đèn bằng bạc trắng chạm hoa. Sát cửa sổ là cái bàn trà bằng gỗ hồng mộc, để hai cái ghế nhỏ, trên bàn trà cũng không có dụng cụ uống trà gì, chỉ có một cái bình ngọc, trong cắm một cành mai đang nở hoa. Trên cửa sổ là hai cánh cửa kính lớn, trong treo màn bằng lưới xanh, ngoài che một tấm ván, ngoài tấm ván chính là hành lang. Đây là dưới cửa sổ, bên trên còn có song cửa, dán bằng giấy lụa trắng không ngừng rung động, trong phòng lại rất yên tĩnh.

Chỉ có Ngọc Kiều Long tiểu thư ngồi trên bàn vẽ, bàn tay nhỏ nhắn vuốt ve con mèo cưng đang ngủ ngon trên đầu gối, toàn thân lông dài trắng như tuyết, trên sống mũi có một chấm đen. Một lúc lâu, nàng mới ôm con mèo lên, thân thiết gọi tên nó nhỏ nhẹ nói “Tuyết Hổ!”, con mèo nhu mì hòa thuận, để nàng đặt xuống đất, kêu meo meo hai tiếng, chạy tới trên cái ghế tựa lót đệm bông.

Ngọc Kiều Long tiểu thư uể oải đứng dậy, tới cạnh bàn phấn, nhìn mặt mình trong gương. Trên khuôn mặt xinh đẹp của nàng không kìm được lại hiện lên vẻ âu sầu. Nhưng đổi lại trong gương hơi mỉm cười, đây là một nụ cười nhạt, cặp mắt đẹp của nàng cũng trợn lên như hàn quang của thanh kiếm lóe ra khiến người ta run sợ. Nhưng rồi khuôn mặt nàng lại trở lại vẻ xinh đẹp như cũ. Nàng uể oải, kéo ngăn kéo lấy ra một cái giá nến thấp nhỏ, lấy một cây nến nhỏ đốt lên rồi thổi tắt hai cây đèn cao đi, trong phòng lập tức tối đen, chỉ có ánh sáng lập lòe của ngọn nến nhỏ dao động. Nàng cầm giá nến, nhẹ nhàng đi ra khỏi phòng, kiểm tra kỹ cửa phòng cửa sổ một lượt, rồi quay vào trong phòng, đóng cửa phòng trong, đem nến đặt trên một cái bàn con trên giường.

Lúc nàng vén rèm che lên, một hơi xạ hương ấm áp tỏa ra. Nàng thay áo ngủ, lên giường, đắp lại chăn bông lấp lánh lên, vuốt bím tóc dài giống như mây đem sang bên gối thêu, giơ cánh tay trắng muốt đeo vòng ngọc biếc lên, lấy ra một quyển sách. Quyển sách này rất nhỏ nhưng rất dày, trên bìa sách có một hàng chữ, trong có một chữ “Á”. Dường như là một quyển sách rất thần bí. Ánh sáng của ngọn nến tuy nhỏ, nhưng cũng đủ soi lên giường, vị Ngọc Kiều Long tiểu thư này đắp chăn thơm, giở ra xem kỹ quyển sách nhỏ thần bí này.

Lúc bấy giờ trống canh liên tục đánh ba tiếng, từ trước viện đánh tới sau viện, từ sau viện lại đánh về phía hoa viên. Buổi tối này, trong Ngọc phủ có rất nhiều người tuần tra canh phòng ban đêm, một chút tiếng động làm giật mình cũng không có. Nhưng ở nơi rất xa, chỗ của Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo cũng không có chuyện gì xảy ra. Vợ chồng Lưu Thái Bảo cùng với Tôn Chính Lễ, Tiết Bát, Bành Cửu, Lý Thành, Lương Thất tất cả đều cả đêm không ngủ, cương đao đều không rời tay.

Gà vừa gáy, trời đã sáng, Tôn Chính Lễ ném cương đao trong tay xuống đất choang một tiếng, đấm Lưu Thái Bảo một cái nói “Tiểu tử ngươi lừa ta. Con mẹ nó, có thấy cọng lông nào của gian tặc đâu!”. Lưu Thái Bảo vội cười gượng nói:

“Đại ca đừng giận, mấy ngày nay nếu thật không có gian tặc, là tôi bịa đặt vớ vẩn, thì Nhất đóa liên hoa tôi là thứ gì? Chuyện này không cần nói nữa, một là Ngọc Chính đường cai quản trong nhà nghiêm mật quá, hai là uy danh của Tôn đại ca khiến gian tặc bị trấn áp tinh thần, vì vậy gian tặc mới không dám tới. Tôi cám ơn đại ca và các vị !”. Lưu Thái Bảo nhìn mọi người chắp tay, bọn Tiết Bành, Bành Cửu cùng nói:

“Không có gì đâu, tối nay chúng tôi còn tới, để khỏi tụ tập bài bạc ở tiêu cục. Chỉ cần huynh canh phòng nửa tháng, bảo đảm gian tặc tự trốn khỏi Bắc Kinh!”.

Lưu Thái Bảo cười nói:

“Đây chẳng qua là biện pháp tạm thời, bọn ta núp trong nhà rồi xin các vị tới bảo vệ còn ra thể thống gì. Tuy hôm qua Thiết Bối lặc đã dặn tôi, không cho tôi làm chuyện không đâu nữa, nhưng em dâu của các anh em còn chưa bàn giao chức sai sử huyện Ninh Hội, cha cô ta cũng không thể chết oan. Tôi đợi năm ngày nữa, nếu Ngọc Chính đường vẫn không có biện pháp gì về chuyện này, trong nhà y còn chứa đại hồ tinh và tiểu hồ tinh, thì tôi sẽ phải liệu kế khác … Nhưng hiện tôi chưa nghĩ ra được diệu kế đó. Dứt khoát bằng cơ mưu của Lưu Thái Bảo tôi, dựa vào võ nghệ của các vị nữa, sẽ có một ngày tôi cho hai con hồ tinh hiện nguyên hình, đem bảo kiếm đó để lên bàn, tất cả chúng ta xem kỹ một lượt, sau đó giao lại cho Thiết phủ, lúc ấy tôi mới cam tâm”. Các tiêu đầu đều cười ha hả nói:

“Được! Chúng tôi giúp huynh rạng mặt phen này, cho nó bớt tức! Chúng tôi giúp đến cùng!”. Tôn Chính Lễ lại nói:

“Đến lúc sắp xong ta mới xem xem, nếu tiểu tử ngươi lừa ta, thì ta sẽ ngắt đầu ngươi ra!”. Lưu Thái Bảo cười nói:

“Được rồi, được rồi, sắp hết năm, ngắt đầu tôi ra cho đại ca để đại ca cúng Thần Tài gia!”, cả bọn cười nói râm ran, Tương Muội cũng vừa ngáp vừa nũng nịu cười.

Tôn Chính Lễ và bốn người tiêu đầu ra về. Vợ chồng Lưu Thái Bảo tiễn họ ra khỏi cửa, quay về phòng, để đao thương vào một chỗ. Hai người nhìn nhau ngáp, rồi đóng cửa phòng đi ngủ. Tỉnh dậy đã hơn ba giờ chiều, ngoài cửa sổ tuyết rơi dày đặc, Thái Tương Muội làm cơm xong, hai người ăn. Lưu Thái Bảo lại muốn tới Tây Đại Viện tìm Thốc đầu ưng, Thái Tương Muội lại bảo y tiện thể đem quần áo vật dụng về. Lưu Thái Bảo đi, gần tối mới quay về, đang ăn cơm tối thì Tôn Chính Lễ tới, lát sau Tiết Bát, Bành Cửu, Lý Thành, Lương Thất đều tới đủ. Tiết Bát đem tới một bộ bài bằng xương, họ bèn chơi bài cẩu cả đêm, đêm ấy vẫn không có bóng gian tặc.

Hai ba hôm sau cũng không có chuyện gì xảy ra, nhưng người tới giúp bắt gian tặc càng lúc càng đông, Thốc đầu ưng và bọn Lý Trường Thọ ngay cả nhảy lên nóc phòng cũng không biết nhưng cũng tới, vì trong này đã biến thành một sòng bạc, làm Đắc Lộc chủ nhà ngày nào cũng phàn nàn với Lưu Thái Bảo, nhưng Lưu Thái Bảo chỉ chắp tay nói “Xin nể mặt ta! Người ta đều hảo tâm tới giúp bọn ta đề phòng gian tặc, thức suốt đêm nên chơi bài cẩu cũng không sao cả, làm sao đuổi họ đi được?”. Đắc Lộc nói “Cái gì mà giúp ngươi đề phòng gian tặc ? Ngươi không tới ở thì chỗ này của bọn ta cũng không có chuyện gì cả!”. Lưu Thái Bảo nói “Chuyện đó cũng không dám nói chắc, trước đây không bị gian tặc quấy rối, nhưng sau này chắc chắn không thể không bị quấy rối, ngươi không tin thì bọn ta chuyển đi, nhưng nếu gian tặc lại tới nửa, ngươi có đặt tiệc mời bọn ta tới canh đêm, bọn ta cũng mặc kệ!”. Đắc Lộc bèn không dám nói gì nữa.

Lưu Thái Bảo lúc bấy giờ vì chưa phá án được, trong lòng buồn bực, nhưng những chuyện khác cũng đều rất hài lòng. Ở trong mấy gian phòng này không tốn tiền, tối đến y cũng tham gia đánh bạc. Với kỹ thuật cờ bạc lão luyện của y thì không lần nào không thắng. Hơn nữa Thái Tương Muội, cô gái nũng nịu trên dây đã trở thành vợ y, hai người rất đằm thắm, chẳng qua Thái Tương Muội còn có chút không thoải mái, vì nàng trải qua nhiều năm tháng phiêu bạt giang hồ giúp cha phá án, không có một khắc sống yên định. Hơn nữa cha quản thúc nàng rất nghiêm, hôm nay cha đã chết, tuy nàng rất đau lòng, nhưng lại cảm thấy rất tự do, nhất là hiện mới lấy chồng, hiện lại sắp đến tết, nàng rất vui. Có điều gian tặc đã không tới, nhưng các bằng hữu giúp canh gác ban đêm lúc nào cũng tụ tập đánh bạc, chồng lại hình như không chú ý tới nàng, vì vậy nàng thấy hơi buồn.

May là ngoài viện này là hai phòng nam bắc, những người canh đêm tụ tập đánh bạc đều ở trong phòng nam, nàng ở phòng bắc, còn có thể làm việc thêu thùa hoặc ngủ. Nhưng vì buổi tối ngủ rồi, ban ngày lại không ngủ được, nhưng ban ngày Nhất đóa liên hoa chồng nàng lại không nghỉ ngơi không được, vì vậy nàng ở trong phòng cảm thấy buồn, bèn thường ra cửa, mặc bộ quần áo đỏ dựa cái cổng đen mới quét sơn nhìn bọn trẻ đánh nhau trên tuyết, nhìn những người bán hàng tết qua lại, đều thấy rất thích thú. Hơn nữa mấy người phụ nữ, hay đứng ngoài cửa mấy nhà nhỏ gần đó đều dần dần quen biết nàng, vừa thấy mặt liền hỏi thăm qua lại:

“Người ăn cơm chưa?”, “Người thấy hôm nay cũng không lạnh lắm chứ?”, vì thế nàng làm quen với Tam thẩm nhà họ Trương, Nhị tẩu nhà họ Lý, đại cô nương nhà họ Mã, lão phu nhân nhà họ Từ. Mấy người này đều nhận ra “Cô dâu mới” này, và đều biết chồng nàng chính là sư phó của Thiết phủ, ở trên phố xưng danh là Nhất đóa liên hoa.

Đêm nay là mười lăm tháng chạp, còn nửa tháng nữa hết năm. Sau bữa cơm tối, Tôn Chính Lễ và những người đánh bạc đều tới, Thái Tương Muội thay chồng tiếp khách một lúc, lại ngồi đầu giường buồn bã. Lưu Thái Bảo nhìn ra thấy trong phòng không có ai bèn an ủi vợ, nhỏ nhẹ nói “Cô đừng buồn! Vài hôm nữa trong tiêu điếm mở sòng bạc, họ cũng không thể tới nữa! Chúng ta đi mua sắm, ăn tết thỏa sức, sau rằm tháng giêng lại nghĩ cách, lúc đó Du Tú Liên cũng đã tới rồi. Bây giờ nếu cảm thấy buồn bã thấp thỏm, cô có thể tới viện tìm lão thái thái mẹ Đắc Lộc nói chuyện phiếm”. Thái Tương Muội lắc người nói:

“Ai nói chuyện phiếm với họ? Họ học thói trong phủ, ta thế này, lại không phải là có hỏi cưới đường hoàng với ngươi, người ta có nói chuyện thì cũng coi thường”. Lưu Thái Bảo chặc lưỡi cau mày nói:

“Vậy thì làm sao? Ta còn phải vào tiếp mấy vị đại gia, nhất là Tôn đại ca hơi khó chịu, y chỉ hận không thể bảo ta làm gian tặc một lần để y bắt cho hả dạ!”. Thái Tương Muội nói:

“Ta muốn tới nhà Lý Nhị tẩu chơi”. Lưu Thái Bảo nói:

“Cô đi đi, trời còn sớm, ta với cô đóng cửa đi”. Lúc ấy Thái Tương Muội đứng dậy, dời đèn tới gần, soi gương chải tóc, nàng vui vẻ ra khỏi phòng.

Ánh đèn trong phòng phía nam lay động, đầu người trên cửa sổ nhấp nhô, có giọng ồm ồm của Tôn Chính Lễ nói:

“Ta nhìn các ngươi chơi, ai dám giở trò ta sẽ chon gay một đao!”. Lưu Thái Bảo mở cửa cho vợ ra, lúc ấy trời đã tối, Thái Tương Muội đi về phía nhà Lý Nhị tẩu. Nhà họ Lý cũng chỉ có hai vợ chồng, chưa có con, Lý Nhị làm tạp vụ trong phủ Thiết Bối lặc, sau canh hai y mới về nhà. Hôm nay cũng không phải là lần đầu Thái Tương Muội tới. Về chuyện của Thái Tương Muội, Lưu Thái Bảo và thanh bảo kiếm của Thiết phủ và Bích nhãn hồ ly Lý Nhị tẩu đều biết. Vì vậy Thái Tương Muội vừa tới, hai người lại đem những chuyện này ra nói cả nửa ngày.

Lý Nhị tẩu nói chị ta có một người anh ruột làm đầu bếp trong nhà Lỗ Thị lang, thiếu gia họ Lỗ là một vị Tiến sĩ, hiện muốn lấy Tam tiểu thư Ngọc phủ làm thiếu phu nhân, nhưng thiếu gia họ Lỗ tuy tài giỏi nhưng tướng mạo rất xấu, vừa cao vừa mập, giống như tượng hai tướng Hanh, Cáp trong miếu, không thanh tú chút nào. Tam tiểu thư của Ngọc phủ nghe nói là một người đẹp, đại khái không thể vừa ý, có điều chuyện hôn nhân coi như đã định rồi, sang năm sẽ phải lấy chồng. Thái Tương Muội nghe nhắc tới tiểu thư của Ngọc phủ, trong lòng rúng động, tự nhủ “Hừ! Cô ta đẹp ư? Ai bảo cô ta không cho ta vào phủ cô ta ? Nên gả cho người ngờ nghệch xấu xí cho cô ta đau lòng suốt đời!”. Nói chuyện phiếm một lúc, một phụ nữ ở cùng viện lại tới, ba người cùng chơi bài, không biết Lý Nhị đã về, thì ra đã sắp đến canh ba. Thái Tương Muội cười nói “Nhị tẩu mai gặp nhé!”. Lý Nhị tẩu tiễn nàng ra tới đầu cổng, còn nói “Đi chầm chậm thôi!”. Thái Tương Muội đi rất nhanh, còn quay đầu lại cười nói “Mời chị quay vào!”.

Lúc bấy giờ trời đã khuya, ánh trăng đã bị mây đen che khuất. Hoa Viên Đại viện này là nơi rất rộng thoáng, chỉ rải rác có mấy hộ gia đình. Nhà họ Lý và Lưu Thái Bảo tuy nói là hàng xóm nhưng thật ra cách nhau tới mấy mươi bước.

Thái Tương Muội bước đi, chưa tới đầu cổng chợt thấy trước mắt có bóng đen thấp thoáng, nàng không kìm được rùng mình, thì thấy bóng đen đó hình như rất cao lớn, ở phía sau phòng nàng. Thái Tương Muội sợ hãi vội chạy mấy bước tới gõ cửa liên tiếp nhưng không được, bèn phi thân lên tường, nhẹ nhàng hạ xuống. Trong phòng phía nam có một đại hán vọt ra thét Có gian tặc” rồi vung cương đao chém tới. Thái Tương Muội vội né tránh, hoảng sợ la lên “Tôn đại ca! …. là tôi!”, Tôn Chính Lễ mới thu đao lại.

Lưu Thái Bảo chạy ra khỏi phòng, vừa thấy vợ bèn hỏi “Sao không gõ cửa?

Sao lại nhảy qua tường?”. Thái Tương Muội sợ sệt nói “Tôi thấy một bóng đen chạy tới phía sau phòng chúng ta!”. Tôn Chính Lễ nói:

“Cái gì? Được rồi!”. Nói xong y phi thân lên nóc nhà, tay cầm cương đao nhìn bốn phía. Lưu Thái Bảo đứng dưới nói:

“Đại ca xuống đi! Có lẽ không phải gian tặc!”. Lúc bấy giờ những người đánh bạc trong phòng đều bỏ bài xuống, cầm binh khí chạy ra. Tôn Chính Lễ men theo phòng ra ngoài tường, tìm kiếm tứ phía, miệng chửi:

“Bích nhãn hồ ly! Gian tặc bà nương! Ngươi mau ra diện kiến Ngũ trảo ưng ta!”, nói tới đó thì nghe có tiếng gió rít lên, Tôn Chính Lễ vội cúi đầu vung đao quay người, choang một tiếng hất lưỡi đao của gian tặc ra. Gian tặc liền mọp xuống chém vào hạ bàn của y. Tôn Chính Lễ nhảy qua một bên, nghiêng người sấn vào, vung đao chém tới, gian tặc lật đao đón đỡ. Lúc này Lưu Thái Bảo và mọi người cầm binh khí xông ra. Gian tặc lại chém hờ một đao rồi chạy về phía đại viện. Tôn Chính Lễ vội cầm đao đuổi theo. Y thấy gian tặc rõ ràng là một phụ nữ, vóc dáng rất cao, cổ áo da rất cao che kín cả mặt mũi. Y thị chạy tới đại viện thì dừng lại. Tôn Chính Lễ cầm đao đuổi tới, hai người lại ác chiến hai hiệp.

Bọn Lưu Thái Bảo cũng đều đuổi tới vây kín gian tặc, cùng quát to:

“Bắt, bắt !”.

Bích nhãn hồ ly tung người chạy, đỡ trái đánh phải, thanh đao trong tay vũ động như bay, cũng gằn giọng nói:

“Ta và các ngươi không thù không oán, chỉ cần tính mạng của Nhất đóa liên hoa!”.

Lưu Thái Bảo cười nhạt, vung đao xông vào, cùng nói:

“Các đại ca bỏ chút sức lực, đừng thả hồ ly!”. Năm thanh đao hai ngọn thương từ bốn phía đánh tới, Bích nhãn hồ ly như phát điên, vung đao chém bừa, trong lúc nói đã chém ba người bị thương, chỉ còn Tôn Chính Lễ, Lưu Thái Bảo và Thái Tương Muội.

Đánh được năm sáu hiệp, Bích nhãn hồ ly quay người bỏ chạy. Tôn Chính Lễ đuổi theo, Lưu Thái Bảo liền nhặt gạch ném theo nhưng y thị chạy cực nhanh, trong nháy mắt đã chạy tới tường thành không còn thấy bóng dáng đâu. Tôn Chính Lễ dừng bước, vung đao chửi mấy tiếng. Vợ chồng Lưu Thái Bảo đuổi tới, khuyên Tôn Chính Lễ quay về.

Lúc bấy giờ mấy người bị thương đều đã vào trong viện. Ngoài Thiết lạc đà Lương Thất bị trúng một đao vào cánh tay máu chảy ướt cả người, nhắm mắt nằm trên giường, bộ bài bằng xương dưới cánh tay y đều nhuộm đỏ thì Hoa ngưu nhị Lý Thành, Oai đầu Bành Cửu căn bản đều không bị thương, nhưng vừa rồi sợ đến nỗi nằm phục cả xuống. Trừng nhân Tiết Bát và Thốc đầu ưng thì không ra tay.

Tôn Chính Lễ cầm đao ra khỏi phòng vọt lên nóc nhà, trong này Lưu Thái Bảo lấy thuốc rịt vết thương cho Lương Thất, nhìn Thái Tương Muội vợ y, lại không kìm được chau mày, tự nhủ:

Thật chẳng ra sao! Mình mời bạn bè tới có lẽ là vô dụng, trừ hai vợ chồng mình và Ngũ trảo ưng, ba người mới có thể đối phó với một tên gian tặc. May là hôm nay chỉ Bích nhãn hồ ly tới, nếu đồ đệ của y thị tới nữa, lại có thanh bảo kiếm chém gang chặt sách thì chẳng cũng hỏng bét sao? Mặt mũi ủ ê quay đầu sang Thốc đầu ưng nói:

“Ngươi đi gọi người của quan sảnh tới đi! Nếu y chết rồi mới báo quan thì muộn mất !”. Thốc đầu ưng lại lắc lắc cái đầu trọc, ngoác miệng ra nói:

“Tôi không đi, tôi phải giữ cái đầu trọc này cho người ta chúc tết chứ”.

Thái Tương Muội liền giẫm chân nói:

“Ta đi!”. Lưu Thái Bảo cản lại nói:

“Cô đi không bằng ta đi!”, y đang định đi thì Tôn Chính Lễ bước vào hỏi “Chuyện gì?”. Lưu Thái Bảo nói:

“Chuyện này phải báo quan, nếu Lương Thất chết cũng là một vụ án mạng, họ sợ Bích nhãn hồ ly, đều không dám ra phố, tôi đành đi một chuyến, tìm quan nhân tới!”. Tôn Chính Lễ nói:

“Ta đi cho, các ngươi coi nhà”, nói xong ra khỏi phòng, vợ chồng Lưu Thái Bảo cùng nói:

“Tôn đại ca phải cẩn thận!”. Tôn Chính Lễ hậm hực nói:

“Ta không sợ!”. Y không mở cửa mà phi thân lên tường, sau đó vọt ra ngoài. Lưu Thái Bảo không an tâm cũng cầm đao bước ra, nhưng nghe bên ngoài vù vù mấy tiếng và tiếng Tôn Chính Lễ chửi:

“Gian tặc giỏi lắm!”. Lưu Thái Bảo kinh hãi la lên:

“Đừng!”, rồi nhảy lên tường, bên ngoài có một người cùng nhảy lên. Lưu Thái Bảo sợ hãi kêu ối chao một tiếng ngã xuống, gian tặc lại vung đao nhảy xuống, một đạo hàn quang chém vào Lưu Thái Bảo, hung hãn nói:

“Ta muốn cái mạng của ngươi!”. Lưu Thái Bảo lăn dưới đất tránh nhát đao, vung đao quét ngang vào chân gian tặc. Gian tặc né tránh rồi khom người vung đao bổ xuống, Lưu Thái Bảo lại mau lẹ lăn ra tránh né. Gian tặc đuổi theo, lúc ấy bỗng phụp một tiếng, lưng y thị đã bị trúng phi tiêu. Thái Tương Muội vung thương xông vào, Bích nhãn hồ ly xoay người vung đao đỡ, Lưu Thái Bảo từ phía sau lăn tới lại chém vào chân y thị, gian tặc tức giận, một thanh đao trước sau bay lượn.

Lúc ấy mấy người trong phòng cùng lớn tiếng quát:

“Bắt gian tặc!”. Thốc đầu ưng cũng vớ lấy chiếc thanh la mãi võ của Thái Tương Muội keng keng keng khua loạn lên. Tôn Chính Lễ ở bên ngoài lại leo lên tường, tuy y đã bị thương nhưng vẫn dũng mãnh vung đao xông lên. Bích nhãn hồ ly liền tung người nhảy lên nóc nhà. Tôn Chính Lễ nói “Đuổi theo!”, nhưng y dĩ nhiên cũng không dám nhảy lên.

Thái Tương Muội phóng một mũi phi tiêu, nhưng bị y thị dùng đao gạt rơi xuống. Gian tặc Bích nhãn hồ ly nằm sấp ở hiên nhà phía sau, hì hì cười nhạt nói:

“Lưu Thái Bảo, hôm nay tha ngươi lần nữa, về sau nếu ngươi còn dám coi thường ta, thì ta …”. Lưu Thái Bảo chửi:

“Gian tặc bà nương người lăn xuống đây, không cần người that a, Lưu Thái Bảo gia ta hôm nay liều mạng với ngươi!”. Trên nóc một viên ngói bay xuống, Lưu Thái Bảo vội né tránh.

Tôn Chính Lễ tức giận chửi the thé. Bọn Lý Thành, Bành Cửu, Tiết Bát đều cầm cương đao xông ra. Thái Tương Muội giật thanh đao trong tay Lý Thành tức giận giẫm chân phi thân lên nóc nhà. Lưu Thái Bảo cũng vọt lên theo nhưng Bích nhãn hồ ly đã chạy mất. Vợ chồng họ trên nóc nhà, bọn Tôn Chính Lễ thì ở trong viện đều ngoác miệng chửi, nhưng chửi suốt vẫn không có ai đáp trả tiếng nào, vợ chồng Lưu Thái Bảo đành nhảy xuống.

Lúc này Thốc đầu ưng ở trong phòng khua thanh la, Lưu Thái Bảo bèn quát:

“Đừng khua nữa!”, người trong phòng lại không nghe thấy, tiếng thanh la vẫn keng keng keng. Lưu Thái Bảo nổi nóng đi vào phòng nhưng không thấy ai, cúi đầu mới nhìn thấy người khua thanh la đang ngồi xổm dưới bàn Lưu Thái Bảo đá Thốc đầu ưng một đá rồi xua tay, Thốc đầu ưng mới không khua nữa, thò đầu ra hỏi:

“Gian tặc đi chưa?”. Lưu Thái Bảo cũng không nói.

Thái Tương Muội và Lý Thành dìu Tôn Chính Lễ vào phòng. Tôn Chính Lễ vẫn tức tối chửi to, lưng y bị trúng một đao, tuy vết thương không lớn nhưng máu tuôn như suối, cong người nằm trên giường, xê dịch không được. Mọi người đều chau mày ngẩn ra, Thái Tương Muội lại rất đắc ý nói:

“Vừa rồi ta phóng một mũi phi tiêu nhất định là đánh trúng gian tặc, nếu không thì y thị còn chưa chịu đi đâu!”.

Lưu Thái Bảo xua tay, chau mày nói:

“Một mũi phi tiêu cũng không giết được y thị, khi nào vết thương lành y thị vẫn tìm tới, tóm lại đó không phải là biện pháp lâu dài, chúng ta phải nghĩ ra kế sách vạn toàn khác!”. Tôn Chính Lễ nghiến răng nói:

“Ngày mai ta đi cáo sớ dâng lên vua, ta tố cáo trong nhà Ngọc Đề đốc dung túng gian tặc!”. Lưu Thái Bảo lắc đầu thở dài nói:

“Không có chứng cứ chuẩn xác, lại nhận không rõ tướng mạo của gian tặc, cho dù dâng sớ lên vua chúng ta cũng không chiếm được chút lợi thế nào!”, rồi thở dài một tiếng. Lúc này Thốc đầu ưng từ dưới gầm bàn chui ra, hỏi:

“Nên báo quan hay không?”. Lưu Thái Bảo cũng không để ý tới y, tới trước giường hỏi Tôn Chính Lễ:

“Tôn đại ca, đại ca thấy thế nào?”. Mồ hôi trên trán Tôn Chính Lễ rơi xuống như hạt đậu vàng to, y nghiến răng nói:

“Không đáng gì! Nào! Bôi thuốc thêm cho ta, tối ma ta còn tới canh đêm cho ngươi”. Lúc ấy Lương Thất bên cạnh càng rên to, vợ chồng Lưu Thái Bảo chia ra rịt thuốc cho hai người bị thương.

Giây lát Đắc Lộc cũng tới hỏi han, Lưu Thái Bảo kể lại chuyện mới rồi, Đắc Lộc vừa lo sợ vừa phiền não, chủ trương đi báo quan.

Lưu Thái Bảo cười nhạt, nói:

“Vừa rồi ta cũng định đi tìm quan nhân, nhưng bây giờ ta nghĩ có tìm cũng vô dụng. Gian tặc ẩn náu trong nhà của Ngọc Đề đốc như vậy, ta không tin y không biết. Biết đâu Bích nhãn hồ ly chính là phu nhân của Chính đường!”. Đắc Lộc nói:

“Ngươi đừng nói bừa! Phu nhân của Ngọc Chính đường là tiểu thư của Đại học sĩ đấy!”. Lưu Thái Bảo lại cười nhạt nói:

“Tiểu thư à? Tiểu thư cũng không tin được!”.

Đắc Lộc ngẩn ra một chốc rồi trở vào viện trong. Người nhà Đắc Lộc ở viện trong đều run sợ, cũng ngủ không yên. Viện ngoài ai cũng cúi đầu chán nản, không bao lâu thì trời sáng. Lưu Thái Bảo đi thuê hai cỗ xe lừa, bảo bọn Lý Thành, Bành Cửu đưa Tôn Chính Lễ và Lương Thất về tiêu điếm của từng người. Thốc đầu ưng cũng đi, bản thân y thì vô cùng phiền muộn, vào trong ngủ vùi.

Hôm đó Lưu Thái Bảo suốt ngày không ra cửa, sau bữa cơm chiều thì Thần thương Dương Kiện Đường tới. Bọn Tiết Bát, Bành Cửu, Lý Thành, Thốc đầu ưng đều không dám tới nữa. Dương Kiện Đường là người bình tĩnh, can đảm có khí độ, võ nghệ còn cao hơn Tôn Chính Lễ nên Lưu Thái Bảo an tâm hơn, nhưng suốt đêm vẫn cẩn thận đề phòng, binh khí không rời khỏi tay. Thái Tương Muội còn chuẩn bị mấy ngọn phi tiêu nhưng chưa xảy ra chuyện gì. Lưu Thái Bảo cũng tin hôm qua Bích nhãn hồ ly bị trúng phi tiêu, vết thương nhất định không nhẹ.

Hôm sau y đi tìm Thốc đầu ưng, bảo Thốc đầu ưng đi tìm cách thám thính xem trong Ngọc phủ có ai bị thương hoặc bỗng nhiên bị bệnh không. Buổi tối Thốc đầu ưng tới nói Ngọc phủ canh phòng rất nghiêm, không cho tôi tớ tùy tiện ra vào, trong cổng lớn đó xét cho cùng có xảy ra chuyện gì thì người ngoài không sao biết được. Lưu Thái Bảo đành để bụng trăm mối ngờ vực. Y thầm rủa Bích nhãn hồ ly vì một mũi tiêu đó mà chết mới hay.

Một ngày rồi sáu bảy ngày, gian tặc vẫn chưa trở lại quấy nhiễu, Dương Kiện Đường cũng mệt mỏi vì hàng ngày cứ phải đi từ Nam thành qua Bắc thành. Lúc bấy giờ “cửa ải” ngày giáp tết đã gần, mọi người đua nhau mua mì mua thịt, mượn nợ trả nợ. Nhà Đắc Lộc ở viện trong càng vui vẻ, tất cả món ăn ngày tết đều tự tay nấu nướng. Lưu Thái Bảo thì suốt ngày không vui, chỉ nghĩ tới chuyện bắt gian tặc phòng gian tặc. Thái Tương Muội bảo y sắm tết, y đều xua tay nói “Vội gì? Cứ không làm lỡ việc ăn tết của cô là được rồi!”. Y tuy không hề nói “Năm nay không qua nổi”, nhưng ngày hai mươi ba cúng ông Táo ngay một đĩa kẹo y cũng không mua. Buổi tối, Thái Tương Muội nghe trong nhà người khác đốt pháo rất buồn, mới thắp đèn lên, trải chăn nệm xong ngủ một mình.

Lưu Thái Bảo đóng cửa phòng, tay cầm thanh đao, ngồi ở đầu giường, vừa an ủi vợ, vừa thở dài nói:

“Cô cũng thật tính con nít. Ôi! Cô thấy ta còn lòng dạ nào ăn tết chứ? Trước đây ta chỉ tâm cao khí ngạo, tự thấy là không bỏ được.

Nguyên ta tới Bắc Kinh chính là để tìm Lý Mộ Bạch nổi tiếng giang hồ, nhưng bây giờ lại để một Bích nhãn hồ ly và một tiểu hồ ly làm cho ra nông nỗi này.

Ta ra cửa gặp ai cũng thấy mất mặt, còn ăn tết được sao?”. Thái Tương Muội nói:

“Ngươi nhất định đi thì chúng ta mỗi người một thanh đao xông vào Ngọc phủ bắt gian tặc!”. Lưu Thái Bảo nói:

“Ấy! Như thế cũng vô dụng, có gặp Bích nhãn hồ ly và đồ đệ của thị, chúng ta cũng không dám nhận, còn khiến Ngọc Chính đường bắt xử chúng ta với tội danh cầm đao xông vào phủ y. Ngọc Chính đường trong lòng đang hậm hực hai chúng ta!”.

Thái Tương Muội cười nhạt nói:

“Hừ! Hai chúng ta ư? Ngươi nói nghe thân thiết quá đấy! Nhưng đã hết ngày rồi, hôm nay cả cúng ông Táo cũng không, khiến người ta nhìn vào, chúng ta có giống người ta không? Thật là! Ta sống với ngươi còn không bằng lúc sống với cha ta!”, nói xong nàng ứa nước mắt.

Lưu Thái Bảo lau nước mắt cho vợ, cười nói:

“Cô đừng buồn, chỉ cần bắt được Bích nhãn hồ ly, tìm được bảo kiếm về, lúc ấy chúng ta ngày ngày ăn tết, ngày ngày ăn sủi cảo”. Thái Tương Muội bỉu môi nói:

“Hừ! Bằng vào ngươi ấy à, thì suốt đời cũng không bắt được Bích nhãn hồ ly, lại muốn tìm bảo kiếm về hả?

Nằm mộng thôi!”. Lưu Thái Bảo nói:

“Hừ! Vợ ta chưa gì đã coi thường ta, Nhất đóa liên hoa ta còn coi là nam tử hán đại trượng phu gì nữa. Được rồi! Cô nói thế thì nếu gian tặc lại tới cô đừng ra tay, xem một mình ta …”.

Đang nói chợt nghe ngoài cửa có tiếng cộc cộc cộc liên tiếp, tiếng gõ tựa hồ rất vội, Lưu Thái Bảo giật nảy mình! Thái Tương Muội vội đẩy y ra, kinh hãi nói “Nghe! ….” Lưu Thái Bảo hơi cười nhạt đứng dậy, cầm đao mở cửa phòng ngang nhiên đi ra, cao giọng hỏi “Tìm ai?”.

Trong này Thái Tương Muội cũng vội tung chăn ngồi dậy, vội vã mang hài, vớ lấy đao, tìm phi tiêu. Lúc ấy lại nghe cổng ngoài mở ra, có tiếng Dương Kiện Đường và tiếng chồng mời người vào phòng. Thái Tương Muội vội đặt đao xuống, tiện tay thắp đèn, lại thấy cửa phòng vừa mở ra, người đầu tiên vào là một phụ nữ. Người này chải một bím tóc, hiển nhiên chưa có chồng, tuổi cũng khoảng hai mươi ba hai mươi bốn, vóc người vừa tầm, rất xinh đẹp, mắt linh hoạt mà có thần, mặt hơi gầy mang vẻ phong trần, khoác một cái áo khoác bông bằng lụa xanh.

Vào theo sau là Dương Kiện Đường và Lưu Thái Bảo. Lưu Thái Bảo không những mặt mày tươi rói mà còn có chút hoảng sợ luống cuống, nhìn vợ nói “Nhìn đây! Đây là Du đại thư!”. Thái Tương Muội nhất thời nghĩ không ra đây là ai, chỉ đứng ngay ngắn, hai tay khoanh trước ngực vái một vái. Vị Dụ cô nương này cũng mỉm cười đáp lễ. Lưu Thái Bảo cung kính mời ngồi, rồi vội vàng nhóm bếp, bảo Tương Muội pha trà.

Thái Tương Muội sửng sốt, thấy Du cô nương ngồi xuống mép ghế, mặt hơi cười cười. Thái Tương Muội đem trà tới, Du cô nương dịu dàng nói:

“Không cần khách khí!”. Thái Tương Muội đứng bên bàn, nhờ ánh đèn nhìn vào mặt vị cô nương này thì thấy ngay cả bông tai nàng cũng không đeo. Lại cúi đầu nhìn lén, thấy chân to hơn chân mình, mang hài vải đen. Lúc ấy Dương Kiện Đường ngồi đối diện với Du cô nương cười nói:

“Hay rồi! Tối nay ta cũng mong sư đồ Bích nhãn hồ ly tới để chúng vấp phải tường!”. Lưu Thái Bảo nói “Chuyện đó cần gì nói nữa! Nếu Bích nhãn hồ ly tới nhất định sẽ không chạy thoát. Võ nghệ của cô nương cao cường, thiên hạ đều biết. Ai không biết Du cô nương huyện Cự Lộc giết chết Miêu Chấn Sơn, đánh bại Trương Ngọc Cần? Huống hồ ba năm nay lại học được phép điểm huyệt nữa !”.

Thái Tương Muội giật mình, nàng nhớ không ra, thì ra vị khách không mời mà đến này chính là hiệp nữ Du Tú Liên danh tiếng lẫy lừng, lập tức cười nói “Du đại thư, hai năm trước ở huyện Cam Túc tôi đã nghe nhiều người nói về đại thư, tôi rất muốn gặp đại thư ! Đại thư tới đây lúc nào?”. Du Tú Liên mỉm cười nói:

“Chiều nay ta mới tới, ta tới lần này chủ yếu thăm Đức Ngũ ca, Đức Ngũ tẩu và hai đứa con họ là đồ đệ của ta, nàng dâu Dương Lệ Phương và ta cũng có biết nhau. Ta muốn vốn ở lại hai ngày thì đi, phải về quê ăn tết, nhưng nghe Đức Ngũ ca nói các ngươi bị Bích nhãn hồ ly ức hiếp. Ta nghe thế rất tức giận, trong thành Bắc Kinh sao có thể cho phép gian tặc hoành hành như vậy, vì vậy ta cho người mời Dương đại ca, Dương đại ca dẫn ta tới tìm các ngươi. Các ngươi an tâm, chỉ cần gian tặc hôm nay có thể tới, ta tuyệt không để cho thị chạy thoát!”. Cô nương này xưa nay nói năng chậm rãi, dịu dàng, nhưng nói chưa hết câu, thanh âm nàng rất trầm trọng có khí lực, hơn nữa trong mắt còn hiện ra phong thái dũng mãnh.

Lưu Thái Bảo lúc ấy rất cao hứng, rất khúm núm, nhưng hôm nay y và Du Tú Liên gặp mặt lần đầu tiên, có rất nhiều điều y không dám hỏi, cũng không dám nói, chỉ đem tình hình Bích nhãn hồ ly và tiểu hồ ly kể chi tiết lại một lượt.

Du Tú Liên không hề ngạc nhiên, chỉ nói:

“Không cần vội, đêm nay nếu chúng không tới quấy rối, ngày mai ngươi tìm cách khích thị tới, đến lúc đó ta tự có cách. Nhưng lần này ta tới Bắc Kinh chỉ ở ba bốn ngày, còn phải quay về gấp, ta không muốn người ngoài đều biết ta tới, ngươi không nên nói ra ngoài mới được!”.

Lưu Thái Bảo gật đầu lia lịa nói:

“Chuyện đó đương nhiên, nếu bọn ta nói Du cô nương tới giúp đỡ thì thầy trò Bích nhãn hồ ly nhất định hoảng sợ bỏ chạy, bảo kiếm càng không có cách truy hồi lại”. Du Tú Liên gật đầu, Dương Kiện Đường bèn bảo Lưu Thái Bảo đi cùng y vào phòng phía nam. Trong phòng phía Bắc này chỉ còn Du Tú Liên và Tương Muội. Tương Muội gấp chăn nệm lại, Du Tú Liên đứng dậy, cởi chiếc áo khoác lụa xanh ra. Nàng chỉ mặt bên trong bộ quần áo ngắn bằng vải xanh, treo bao đao lên, tháo vỏ đao xuống để lên bàn. Thái Tương Muội thấy một đôi song đao, chuôi đao buộc tua lụa xanh rất dài. Nàng cười cười bước tới sờ sờ chuôi đao hỏi “Đây là binh khí của Du đại thư à?”.

Du Tú Liên khẽ gật đầu, Tương Muội cầm đao rút ra khỏi vỏ một nửa, chỉ thấy hàn quang chói mắt, thầm nhủ không biết bao nhiêu đạo tặc hung dữ đã chết dưới đôi đao này, bèn buột miệng nói:

“Đúng là đao tốt!” ánh mắt thoáng long lanh, hâm mộ nhìn Du Tú Liên, lại hỏi:

“Nghe nói có vị Lý Mộ Bạch, là …”. Du Tú Liên thản nhiên nói “Y là ân huynh của ta”. Thái Tương Muội gật đầu, thầm nói:

“May là mình không nói sai!”.

Du Tú Liên kéo tay Thái Tương Muội, cười hỏi “Nghe nói võ nghệ của ngươi cũng rất giỏi ? Còn biết phóng phi tiêu, biết đi dây nữa?”. Thái Tương Muội đỏ mặt, nói “Võ nghệ của tôi còn kém đại thư xa! Đại thư đừng khen làm tôi thẹn chết mất. Đại thư luyện là công phu đích thực của phái Võ Đang, chúng tôi luyện lại là trò mãi võ trên giang hồ!”. Du Tú Liên vỗ vai Thái Tương Muội nói “Sao ngươi khách khí thế?”. Thái Tương Muội cười cười nói:

“Trước đây tôi từng nghe người ta nói về oai danh đại thư, tôi cho rằng đại thư chắc vóc dáng to cao, mặt đen như Ngũ trảo ưng Tôn đại ca vậy, bây giờ vừa nhìn …

dáng người đại thư thật xinh đẹp!”. Du Tú Liên không nói gì, Tương Muội lại nói “Trong Ngọc phủ có một vị tiểu thư, tướng mạo cũng rất xinh đẹp. Nguyên tôi muốn trà trộn vào Ngọc phủ làm a hoàn cho vị tiểu thư đó để tiện điều tra gian tặc đang ẩn náu trong phủ mà không được. Vị tiểu thư đó cùng đại phu nhân, thiếu phu nhân nhà họ Đức đều rất thân thiết, họ thường qua lại với nhau, sắp tới đại thư ở nhà họ Đức nhất định có thể gặp cô ta. Tướng mạo cô ta thật xinh đẹp, tôi rất thích cô ta, nhưng cô ta không giống đại thư, đại thư có phong thái anh hung”.

Du Tú Liên lắc đầu nói:

“Họ là tiểu thư nhà giàu thì phải xinh đẹp, sau lưng tiểu thư ắt có a hoàn theo hầu, giả như a hoàn đều đẹp mà tiểu thư xấu xí, thì nhất định khiến người khác cười cho. Ngươi cũng rất đẹp, nếu ngươi không đẹp, người ta sẽ nói ngươi là cô vợ xấu xí. Ta thì không thể so sánh với các ngươi, ta lúc mười sáu tuổi đã phiêu bạt giang hồ, đến nay đã sáu bảy năm rồi, bất luận ta đi đến đâu cũng chỉ một thân một mình. Nhưng một phụ nữ ở bên ngoài thật không dễ, vào nhà trọ không tiện, ta chỉ hận vóc dáng ta rất không hùng tráng, ta hận ta sinh ra là con gái!”. Lúc Du Tú Liên nói, tựa hồ có chút xúc động, nhưng trên mặt tuyệt không có vẻ gì đau xót. Nàng cùng Thái Tương Muội trò chuyện, không biết đã không còn sớm nữa, ánh đèn trong phòng phía nam cũng chưa tắt, Lưu Thái Bảo và biểu huynh Dương Kiện Đường của y như cũng càng nói càng nhiều lời.

Đêm ấy không có chuyện gì xảy ra, hôm sau Dương Kiện Đường đã đi, Du Tú Liên thuê một cỗ xa quay về nhà họ Đức ở Đông Tây bài lâu tại Tam điều Hồ đông. Thái Tương Muội yên tâm ngủ buổi sáng. Lưu Thái Bảo lại tới Tây Đại Viện tìm Thốc đầu ưng. Mấy ngày nay Lưu Thái Bảo cửa cũng không mở, không có tinh thần gì, giống như một đóa hoa sen thiếu nước sắp héo. Hôm nay lại như gặp được mưa rào, vẻ mặt y đặc biệt tươi tắn, mặt mày rạng rỡ, vào quán trà Tây Đại Viện gặp Thốc đầu ưng, hỏi câu đầu tiên:

“Lão Thốc! Có tin tức gì không?”. Thốc đầu ưng lắc cái đầu trọc nói:

“Một chút gì cũng không có! Hôm qua cúng ông Táo xong tôi còn tới Cổ Lâu Tây lòng vòng, thấy cổng lớn của Ngọc phủ đóng chặt, ngay chút mùi của hồ ly cũng không ngửi thấy. Theo tôi thì huynh đoán sai rồi, hay hồ ly là ở chỗ khác, tuyệt không phải là ở Ngọc phủ”.

Lưu Thái Bảo ngoác miệng cười, lấy bình thuốc của Thốc đầu ưng quệt lên mũi một cái, nắm chặt tay khẽ nói “Nói cho người tin chắc nhé. Lưu Thái Bảo ta xem chừng sắp lập được đại công, trong một hai ngày nữa chắc chắn tóm được hồ ly, thu hồi bảo kiếm!”. Thốc đầu ưng cười cười, Lưu Thái Bảo nói “Không phải khoác lác đâu. Hiện ta được giúp sức thêm, có người giúp ta!”. Thốc đầu ưng vừa cười nói “Đại thư vợ huynh chỉ có thể giúp huynh làm giày cho huynh”. Lưu Thái Bảo nói “Ngươi tin hay không tin, bây giờ ngươi tới nhà ta, ta nhờ ngươi chút việc”. Thốc đầu ưng hỏi “Chuyện gì vậy?”. Lưu Thái Bảo nói “Ngươi đừng hỏi trước!”.

Y kéo Thốc đầu ưng đi, về tới nhà, cửa phòng phía bắc vẫn đóng, Tương Muội vẫn chưa ngủ dậy, Lưu Thái Bảo bảo Thốc đầu ưng vào phòng phía nam đợi. Y vào viện trong đằng hắng một tiếng hỏi “Đắc Lộc đại ca dậy chưa?”. Đắc Lộc đang rửa mặt, nghe tiếng Lưu Thái Bảo bèn đẩy cửa ra nói “Mời vào !”.

Hôm nay vẻ mặt của Đắc Lộc đặc biệt hiền hòa, Lưu Thái Bảo chắp tay nói “Ta không vào đâu! Đại ca cho ta mượn nghiên bút giấy mực với! Ta nghèo quá, đành vay lãi cao trả dồn, phải viết một tờ văn tự”. Đắc Lộc cầm bút mực ra, lại cho hai tờ giấy bản rất dày. Lưu Thái Bảo cầm lấy định đi, Đắc Lộc lại gọi y đứng lại, cười hỏi “Ngươi biết Du Tú Liên tới chưa ?”. Lưu Thái Bảo lắc đầu nói “Ta không biết”. Đắc Lộc nói “Hôm qua ta nghe tôi tớ nhà họ Đức nói Du Tú Liên đã tới Bắc Kinh, ở trong nhà họ Đức, còn chải bím tóc, đại khái cô ta chưa lấy Lý Mộ Bạch”. Lưu Thái Bảo nói “Lo chuyện người ta!”. Đắc Lộc nói “Du Tú Liên chuyên hành hiệp trượng nghĩa, thấy việc bất bằng chẳng tha, ngươi nên tới nhà Đức Khiếu Phong tìm cách cầu xin cô ta bắt gian tặc giúp ngươi”. Lưu Thái Bảo cười nói “Lộc đại ca quá xem thường huynh đệ rồi! Tự ta dây vào gian tặc, tự ta phải tìm cách bắt, chứ nhờ vả đàn bà thì nhụt hết chí khí !”, nói xong cười quay đi. Y ra phòng phía nam viện ngoài, đặt bút mực giấy nghiên lên bàn, kéo tay Thốc đầu ưng nói “Nhờ ngươi vẽ cho ta một tờ, phải vẽ mụ hầu bó chân, quan trọng là cái đuôi hồ ly”. Thốc đầu ưng bực bội nói “Tôi đâu có biết vẽ? Vẽ rùa còn có thể, mụ hầu tôi không biết vẽ”. Lưu Thái Bảo giơ nắm đấm lên kề sát đầu Thốc đầu ưng nói “Nếu ngươi không vẽ ta sẽ đánh ngươi, vẽ mau! Vẽ mụ hầu trước, theo tướng mạo vợ ngươi vẽ ra là được”.

Thốc đầu ưng không còn cách nào khác, vừa cười vừa tức, đành dùng năm đầu ngón tay cầm bút, mất cả nửa ngày mới vẽ xong một mụ hầu, đầu to, chân ngắn, hai chân to nhỏ giang ra, trên mặt là năm chấm đen kể như mũi mắt miệng. Lưu Thái Bảo vẽ bên chân mụ hầu thêm một cái đuôi hồ ly, giống như một cây chổi, rồi vẽ ở dưới một con hồ ly nhỏ, kỳ thực không giống hồ ly chút nào, cũng không giống mèo, là “tứ bất tượng”. Lưu Thái Bảo cầm tay Thốc đầu ưng, trên chỗ giấy trống lại viết tám chữ to “Bích nhãn hồ ly sắp phải chịu chết”, kế nói “Được rồi, làm phiền ngươi quá!”. Thốc đầu ưng nhìn mụ hầu mà y vẽ lại không nhịn được cười nói “Lão ca! Huynh lại nghĩ ra trò gì vậy?”. Lưu Thái Bảo cười nói “Ngươi đừng hỏi nhiều, nội trong ba ngày, ta sẽ lấy sủi cảo nhân thịt hồ ly mời ngươi ăn, cho ngươi một tấm da hồ ly, ngươi cầm về cho vợ ngươi làm nón đội cho êm tai. Hơn nữa ta phải khiến ngươi được mở to mắt, xem thanh bảo kiếm chém gang chặt sắt đó!”, nói xong đẩy Thốc đầu ưng đi.

Buổi chiều, Lưu Thái Bảo rất thoải mái ngủ một giấc ngon lành, ăn cơm tối xong, thời gian không còn nhiều, Du Tú Liên sắp tới rồi. Lưu Thái Bảo bảo vợ lấy một mũi cương tiêu, dùng tờ giấy vẽ mụ hầu và tám chữ “Bích nhãn hồ ly sắp phải chịu chết” gói lại đi ra khỏi cổng. Lang thang trên phố suốt nửa ngày, mới tới trước cổng Ngọc phủ. Lúc bấy giờ trời chưa tới canh hai, nhưng cổng lớn Ngọc phủ dĩ nhiên đã đóng rồi. Trên gò cao không có một người nào, trời đã tối đen, gió rất lớn. Lưu Thái Bảo cởi giày giấu trong người, lại móc mũi cương tiêu gói trong tờ giấy vẽ chửi người ra, lấy hết can đảm, phi thân lên nóc phủ vứt vào giữa sân. Y nhảy ngay xuống, ngay cả giày cũng không mang vào, quay người bỏ chạy, nghe có tiếng thanh la vang lên phía sau. Quay về nhà, một câu cũng không nói, tinh thần rất căng thẳng, liệu đoán Bích nhãn hồ ly không tới không được. Nhưng mãi đến sáng vẫn không có động tĩnh gì.

Qua ngày thứ ba Lưu Thái Bảo tới các quán trà khắp thành Tây Nam Bắc để rêu rao, nói trong vòng ba ngày nhất định sẽ bắt được Bích nhãn hồ ly. Đồng thời y cũng nghe có người bí mật nói “Tối qua Ngọc phủ lại xảy ra chuyện …”.

Lưu Thái Bảo cũng không dám nghe, bèn chuồn đi. Cả ngày y chưa về nhà, mãi đến canh hai mới quay về. Vừa vào thấy Du Tú Liên đã tới, vợ y đang tiếp chuyện. Thái Tương Muội vừa thấy Lưu Thái Bảo thì nói “Ấy! Ngươi về rồi!

Hôm nay có hai viên sai quan tới gọi ngươi!”. Lưu Thái Bảo gật đầu nói “Ta biết, đó là người của nha môn Đề đốc tới! Ngày mai nếu họ lại tới, thì nói mùng một ta sẽ đi chúc tết họ”. Rồi quay qua Du Tú Liên nói “Đại thư! Tối nay gian tặc nhất định tói, đại thư đề phòng một chút!”. Du Tú Liên nói “Ta mong y thị đến bây giờ, mau giải quyết xong chuyện các ngươi, ta còn phải về nhà ngay”.

Lưu Thái Bảo bảo vợ đổi cho Du Tú Liên chén trà nóng, y cầm một thanh đao cho vào túi Bách bảo nang, đi vào phòng phía nam. Lúc chưa vào phòng, đánh lửa sáng lên trước, đao trước người sau, tới trong phòng, nhìn bốn phía không có ai, y mới đóng cửa, thổi tắt lửa, nằm trên giường. Lúc này ngoài cửa sổ trời tối mịt mùng. Gió lạnh thổi vù vù, chỗ này dựa sát tường thành, ngay cả tiếng báo canh cũng không dễ nghe thấy, cũng không biết là đang lúc nào. Ánh đèn trong phòng phía bắc tỏa sáng, lửa cũng rất mạnh, Thái Tương Muội và Du Tú Liên nói chuyện phiếm rất hợp nhau, quên cả mệt mỏi buồn ngủ. Du Tú Liên rất thích Tương Muội hoạt bát tự nhiên, cũng cười nói “Tiếc là ngươi đã có chồng, nếu không chúng ta làm bạn với nhau thì hay biết mấy! Ta có thể dẫn ngươi tới rất nhiều nơi”, chợt phụt một tiếng thổi tắt đèn, Thái Tương Muội giật mình thì thấy Du Tú Liên đã đứng dậy, nhẹ nhàng rút song đao ra. Thái Tương Muội cũng vội rút đao ra tay và cầm một ngọn phi tiêu, Du Tú Liên nhìn nàng lắc đầu. Ngoài cửa sổ chỉ có tiếng gió, tuyệt không có thanh âm nào nữa. Du Tú Liên nhẹ nhàng mở cửa ra, vừa vọt ra khỏi phòng, tiếp đó liền nhảy lên nóc phòng phía bắc.

Trên nóc phòng có một gian tặc vung đao chém nàng, đao ở tay trái Du Tú Liên chém mạnh tới trước, vù một tiếng, đao ở tay phải nàng lại rít gió chém tới. Gian tặc không đỡ, chạy mau ra ngoài tường, hai chân của thị vừa chạm đất, Du Tú Liên đã đuổi tới. Gian tặc thấy ánh đao lấp lóe trước mắt liền hoành đao đón đỡ, không ngờ thanh đao trong tay kia của Du Tú Liên lại đồng thời chém tới trúng cổ tay trái thị, gian tặc ái chà một tiếng quay người bỏ chạy, Tú Liên đuổi theo. Hai chân gian tặc cực nhanh, lại thêm bị thương phải chạy thoát thân, quả thật như bay. Du Tú Liên phía sau đuổi riết không bỏ, men theo tường thành thẳng về phía tây, chạy bốn năm dặm chợt quay qua hướng nam.

Lúc ấy Du Tú Liên thấy phải đuổi nhanh hơn, cách gian tặc không quá sáu bảy bước, chợt gian tặc xoay người, tay phải phóng thanh đao vào Tú Liên, Tú Liên tránh qua một bên, gian tặc lại quay đầu ra sức chạy, Tú Liên lại đuổi theo, đuổi tới đường lớn phía tây Cổ Lâu. Gian tặc chạy lên một tòa nhà trên gò cao, Tú Liên đuổi lên, gian tặc liền vọt lên phòng một trạch viện lớn. Du Tú Liên cũng vọt lên, từ sau chém tới một đao, gian tặc la thảm một tiếng ngã lăn xuống đất. Du Tú Liên cũng nhảy xuống thì thấy là một hoa viên. Gian tặc đang lăn lộn dưới đất, Tú Liên vội sấn tới vung đao định kết thúc tính mạng gian tặc.

Lúc này chợt thấy có một bóng đen mảnh mai xông tới, kiếm quang trong tay lóe lên phóng tới Tú Liên, Tú Liên vung đao đỡ, choang một tiếng, thanh đao trong tay bị bảo kiếm của đối phương chém đứt một đoạn, Du Tú Liên nói “A! Ngươi chính là tên trộm kiếm!”. Nàng không lùi lại, ném chuôi đao trong tay phải, đổi đao tay trái qua tay phải, vù vù vù chém liền mấy nhát, đồng thời nghiêng người tránh kiếm. Đối phương cũng rung kiếm quang, đánh nhau hơn mười hiệp bất phân thắng bại.

Lúc bấy giờ trước viện đã khua thanh la keng keng, người sử kiếm vung kiếm chém mạnh vào Tú Liên, Tú Liên chụp cổ tay phải thị, đối phương cũng đồng thời cố nắm tay Du Tú Liên. Nhưng Du Tú Liên giật mình, vì thấy cổ tay của người này rất mềm mại, hơn nữa còn có một cái vòng rất cứng, dường như là một cái vòng ngọc. Người này mặc áo xanh, nửa khuôn mặt cũng che vải the đen, Tú Liên nhấc mũi chân điểm vào bụng dưới đối phương, đối phương dùng chân đạp ra, cũng là bàn chân to.

Lúc ấy trước viện đã có tiếng người ầm ĩ, thanh la khua loạn lên, người kia vội giật tay ra, Tú Liên giữ không chắc bèn buông tay ra, đồng thời cũng rút đao vừa xông tới vừa chém. Người kia múa kiếm đón đỡ ba bốn hiệp rồi xoay lưng bỏ chạy, Tú Liên đuổi mau theo, người đó đánh hờ một chiêu rồi lẻn vào căn phòng sau cửa sổ. Lúc ấy ánh đèn đã soi tới hoa viên, Tú Liên bèn phi thân lên nóc phòng, men phòng chạy đi, chỉ thấy phía dưới có khoảng hai mươi người đều cầm đèn lồng, xách đao gậy ùa vào hoa viên.

Du Tú Liên trên nóc phòng chạy đi, chạy rất nhanh từ đại trạch viện này qua tới nóc các nhà lân cận, đi rất xa mới nhảy xuống. Đây là một con hẻm nhỏ tối tăm, xuyên qua hai con hẻm liền thấy tường thành sừng sững, đi về phía đông tường thành, lúc này trong tay nàng chỉ còn lại một thanh đao.

Nhưng vì đôi song đao này là cha nàng năm xưa còn sống đã đặt mua cho nàng, nay bị chặt đứt một thanh, nàng không khỏi có chút đau lòng. Nàng biết thanh bảo kiếm chém gãy cương đao của mình chính là thanh kiếm ba năm trước đây Lý Mộ Bạch đoạt được từ tay Liễu Kiến Tài rồi tặng cho Thiết tiểu Bối lặc. Nhưng người sử dụng kiếm vừa rồi lại rất đáng nghi, kiếm pháp của người đó khá tinh thục, kiếm pháp có mấy chỗ giống như Lý Mộ Bạch từng sử dụng qua, đặc biệt cổ tay và cái vòng trên cổ tay của người đó …

Du Tú Liên vừa đi vừa nghĩ ngợi, quay về nhà Lưu Thái Bảo, vượt tường vào. Vợ chồng Lưu Thái Bảo đều xách đao từ trong phòng lao ra. Du Tú Liên cười nói “Là ta!”. Vợ chồng Lưu Thái Bảo vội buông đao xuống hỏi “Du đại thư, bắt được gian tặc không?”. Du Tú Liên vào phòng, xua tay, để đao lên bàn, nói “Một thanh đao của ta đã bị bảo kiếm của thị chém gãy rồi, ngày mai phải đi làm một thanh giống như vậy nhưng e không thể nặng như vậy!”.

Lưu Thái Bảo và Thái Tương Muội đều sợ ngẩn người ra, Du Tú Liên rót một chén trà uống, rồi xua tay nói:

“Các ngươi không cần lo lắng! Ngày mai có thể sẽ biết tin, nhưng chuyện này quan hệ trọng đại, các ngươi đừng tới các nơi nói bừa nữa. Dù thế nào trước hết ta nhất định bảo gian tặc phải giao bảo kiếm ra. Giao bảo kiếm ra, đừng để thị làm bậy nữa là coi như xong rồi, vì ta còn phải vội về Cự Lộc, không thể ở lại Bắc Kinh. Vả lại chúng ta đều quen biết Đức Khiếu Phong, nếu bức bách Ngọc Chính đường khó tránh khỏi y sẽ giận lây nhà họ Đức”.

Lưu Thái Bảo gật đầu, tròng đen đôi mắt ba góc đảo lia lịa. Y đoán không ra kết quả cuộc đấu giữa Du Tú Liên và bọn hồ ly ra sao? Càng đoán không ra Du Tú Liên có cách gì mới có thể thu hồi bảo kiếm lại. Lúc này Du Tú Liên có hơi mệt mỏi, Lưu Thái Bảo cầm đao qua phòng phía nam, Tú Liên bảo Tương Muội đóng cửa lại rồi nói:

“Chúng ta yên tâm ngủ đi! Ta đảm bảo gian tặc không tới nữa”. Thái Tương Muội trải nệm xong lại không nằm xuống. Du Tú Liên lại quay đầu vào trong, mặc cả áo ngoài ngủ, Thái Tương Muội cũng nằm xuống, vẫn không dám cởi hài, hai người đắp chung một cái chăn bông, mặt đối nhau.

Thái Tương Muội hỏi nhỏ:

“Du đại thư, vừa rồi đại thư đuổi gian tặc tới đó thì quay lại à?”. Du Tú Liên nói:

“Ngươi không cần hỏi kỹ, ngày mai ngươi sẽ hiểu, bây giờ ta đảm bảo gian tặc không thể tới nhiễu loạn nữa, chỉ cần trả bảo kiếm lại thì ta đi. Nhưng trước khi đi, ta phải gặp qua vị tiểu thư Ngọc Kiều Long đó một phen, vì hôm nay ta ở nhà họ Đức, nghe mẹ chồng nàng dâu nhà họ nói Ngọc Kiều Long đúng là rất xinh đẹp, văn chương thư họa đều giỏi. Cô ta thường tới nhà họ Đức, vì hai nhà vốn là chỗ quen biết lâu năm. Ba năm trước lúc Đức Khiếu Phong bị phát phối ra Tân Cương, Ngọc đại nhân đang là Lãnh đội đại thần ở đó, được y chiếu cố. Đức Khiếu Phong ở đó nên biết Ngọc tiểu thư, nghe nói lúc ở Tân Cương không an nhàn giống như bây giờ, cô ta cũng biết cưỡi ngựa bắn cung, thường đi săn trong rừng núi. Ta nghĩ người này chắc rất thú vị, sáng mai ta muốn gặp cô ta”.

Thái Tương Muội nói “Thật ra Ngọc tiểu thư đó cũng chẳng qua chỉ là xinh đẹp, mặc quần áo sang trọng, cũng không có gì đặc biệt! Ngựa e rằng cô ta cưỡi không nổi, cung tên trẻ con chơi thì hoặc giả cô ta có thể kéo nổi, ngày mai đại thư gặp cô ta thì sẽ biết. Dáng người rất yếu, gan lại cực nhỏ, cha tôi diễn Lưu tinh chùy trước cổng phủ cô ta, cô ta muốn xem nhưng lại sợ Lưu tinh chùy tuột khỏi dây văng trúng cô ta, đại thư chưa nhìn thấy thái độ của cô ta đấy! Nếu không có mấy người bộc phụ che chở, một trận gió có lẽ sẽ thổi cô ta ngã. Đại thư nói cô ta biết sách biết chữ, biết viết biết vẽm, cũng có thể là thật! Nhưng con người ấy à, thì chưa chắc có tài cán gì! Nếu chúng tôi đổi chỗ cho nhau, cô ta làm tôi, tôi làm cô ta, đảm bảo cô ta ngay cả nấu ăn cũng làm không xong, chứ đừng nói chuyện phóng phi tiêu và đi dây. Tôi ấy à, hừ, cũng không dễ để cho một gian tặc ẩn núp trong nhà!”.

Du Tú Liên cười cười nói:

“Ngươi nên biết, trông mặt không thể biết người”.

Thái Tương Muội cười đáp:

“Nước biển không thể lấy đấu mà đong! Tương lai có lẽ tôi cũng mặc quần áo sang trọng như cô ta, có điều cái tôi không bằng cô ta chính là vóc dáng và cân nặng”. Du Tú Liên lại hỏi:

“Cô ta cao bao nhiêu?”.

Thái Tương Muội giơ tay so sánh nói “So với đại thư thì cao hơn một chút, nhưng lưng nhỏ hơn đại thư, không cường tráng như đại thư!”. Du Tú Liên nhắm nửa mắt, Thái Tương Muội lại vuốt mái tóc của mình bên gối, ngồi dậy, từ từ cởi đôi hài thêu nhỏ, giây lát Du Tú Liên đã ngủ. Thái Tương Muội vẫn không dám ngủ, lại xuống giường nằm sấp cạnh cửa kính nhìn ra căn phòng phía nam, lại thấy phòng phía nam tối đen, đang nghĩ không biết tối nay Lưu Thái Bảo dám ngủ hay không thì nghe có tiếng vỗ tay. Thái Tương Muội nhìn ra phía cửa kính nhổ một bãi nước bọt, khẽ mắng vọng ra “Chết tiệt!”, quay lại thì thấy Du Tú Liên trở mình, lại nghe nàng thở dài một tiếng.

Nửa đêm về sáng, không có chuyện gì, sáng sớm hôm sau, Du Tú Liên bảo Lưu Thái Bảo đi về phía phụ cận Ngọc phủ, xem xem trong đó có chuyện gì xảy ra hay không. Lưu Thái Bảo đi, gần đến giờ ăn cơm trưa mới chạy về, kinh hãi nói “Cổng lớn của Ngọc phủ tôi không dám tới, tôi sai Thốc đầu ưng đi thăm dò, Thốc đầu ưng nói hôm nay trước cổng lớn của Ngọc phủ đặc biệt nghiêm ngặt, không cho người vô sự lên gò. Thốc đầu ưng tận mắt nhìn thấy cổng xe của Ngọc phủ có một chiếc quan tài đưa ra, cũng không có phường kèn, nghe nói là một vị sư nương trong phủ họ, hôm qua bị bạo bệnh chết”.

Tú Liên cười nhạt nói “Vậy thì có thể nói Bích nhãn hồ ly không thể đối địch với các ngươi nữa”. Lưu Thái Bảo nói “Bích nhãn hồ ly đã chết, là Du đại thư đã trừ khử được một kẻ đại ác, nhưng còn có hậu hoạn. Người ta sợ chính là tên đồ đệ đó của y thị, đồ đệ của y thị là đàn ông thì có lẽ là tôi tớ của Ngọc phủ. Y vốn cao cường hơn Bích nhãn hồ ly trăm lần, sư phó chết y lại không trả thù sao?”. Du Tú Liên lắc đầu nói “Ta thấy nếu y muốn báo thù, cũng không thể gây náo loạn như vậy. Hôm qua ta cũng đã biết người đó, võ nghệ của y tuy cao song ta cũng có thể địch được, nhưng ta nghĩ y không đến nỗi xấu như sư phó y!” rồi hỏi “Các ngươi chưa hỏi thăm ra Bích nhãn hồ ly đã được gọi là sư nương gì đó thì chắc còn có sư phụ, nhưng sư phụ ấy là người thế nào?”. Lưu Thái Bảo nói “Lai lịch cụ thể của họ chúng tôi hỏi dò không ra. Nhưng nghe người ta nói gian tặc đã chết này ở Ngọc phủ chuyên lo việc khâu vá cho tiểu thư, hàng ngày là người rất khuôn phép, thường ra chùa miếu thắp hương. Thốc đầu ưng nói y chỉ thấy quan tài trong cổng nhà xe đưa ra, nhưng không thấy ai khóc, cũng không thấy ai mặc đồ tang, đại khái con hồ ly này cũng một thân một mình”.

Thái Tương Muội bên cạnh nghe chồng nói không nhịn được cười. Du Tú Liên bèn bảo Lưu Thái Bảo đi thuê xe giùm, nói “Ta tới nhà họ Đức xem xem, tối ta lại về!”. Lưu Thái Bảo đi ra, giây lát đã thuê tới một cỗ xe. Du Tú Liên khoác cái áo khoác lụa xanh lên, bèn nói “Tối gặp lại!”. Nàng ra khỏi cửa lên xe đi.

Ba năm trước lúc Du Tú Liên ở Bắc Kinh, vốn ở trong một căn phòng khác của nhà họ Đức, trong đó bày biện cũng đủ, và còn có một số vật dụng quần áo của Tú Liên để trong đó. Nhưng lần này Tú Liên tới nói chỉ ở vài ngày sẽ phải quay về nhà, nàng lại rất tâm đầu ý hợp với mẹ chồng nàng dâu họ Đức, chuyện ba năm chia tay nói thâu đêm suốt sáng cũng không hết. Lại đột nhiên thêm chuyện này của Lưu Thái Bảo, vì vậy tất cả hành lý tùy thân của nàng đều chưa chuyển tới đó, vừa tới lại trực tiếp tới phòng cửa Đức đại phu nhân.

Hôm nay đã là hai mươi sáu tháng chạp, còn bốn ngày nữa là hết năm, vì vậy Đức đại phu nhân đặc biệt bận rộn, phải sải bảo mấy bộc phụ phải chùi sáng tất cả đồ đạc trong các phòng. Thiếu phu nhân Dương Lệ Phương cũng không luyện võ, son phấn cũng nhiều hơn, áo dài cũng mới và lộng lẫy hơn so với ngày thường, trên búi tóc Bát kỳ cũng cài hoa bằng lụa mỏng, nhưng hai chân của nàng tuy không bó nữa vẫn còn rất nhỏ. Chợt nàng nhìn mẹ chồng nói “Du cô nương về!”.

Đợi Du Tú Liên vào phòng, nàng vội qua giúp Du Tú Liên cởi áo khoác xuống. Đức đại phu nhân cười nói “Em gái, số cô vẫn phải chạy ngược chạy xuôi! Cô tới đâu, chuyện phiền phức cũng theo tới đó, ba năm không gặp, đâu dễ gì cô tới được, cứ gặp phải Lưu Thái Bảo xúi quẩy, không để cô kịp xuống ngựa thở đã kéo đi bắt gian tặc cho y, lại sắp tết rồi. Dứt khoát, tối nay ngươi đừng đi nữa! Gian tặc phá nhà của y cũng mặc kệ, chúng ta vui vẻ qua một ngày cuối năm đi!”.

Du Tú Liên ngồi trên giường, cười nói “Chuyện đó cũng sắp xong rồi, nhiều nhất hôm nay tôi tới nhà y một chuyến nữa, cô vợ nhỏ của họ Lưu cũng rất thú vị”. Đức đại phu nhân nói “Ta nghe người ta nói cũng đúng. Vốn người ta cũng là con gái của sai quan, không phải đi dây để mưu sinh. Tiểu tử Lưu Thái Bảo kia cũng kiếm được cơ hội, thật ấm ức cho cô nương nhà người ta!”. Du Tú Liên nói “Nhưng tôi thấy Lưu Thái Bảo cũng không phải xấu xa gì”. Đức đại phu nhân nói “Xấu hay không không nói, chỉ vì y rất đáng ghét, rất không biết điều. Cháu và cháu dâu cô luyện võ, y thường hay tới xem, còn đứng bên khen hay! Có một lần gặp Tam tiểu thư của Ngọc phủ, y cũng không biết né tránh, khiến ta cũng phát ngượng. Con người y không như Lý Mộ Bạch, Lý Mộ Bạch người ta có quy củ, giao tình sâu đậm với Ngũ ca cô. Y thì nhìn cách ăn mặc mà xem? Vả lại cũng không có giao tình gì, y chẳng qua là biểu đệ của Dương sư phó, kỳ thực Dương sư phó cũng chán ngấy y rồi !”.

Du Tú Liên cười nói:

“Người giang hồ đều như vậy”. Đức đại phu nhân cũng cười nói “May mà ta không đi lại giang hồ, nhưng ta thấy cô suốt năm ở ngoài, vẫn vĩnh viễn giống tiểu thư vậy, lần này cô tới ta thấy dáng vẻ vẫn không quê mùa”. Dương Lệ Phương đứng sau lưng mẹ chồng nhìn Du Tú Liên. Du Tú Liên cũng cười nói:

“Tôi muốn gặp Ngọc Kiều Long”. Đức đại phu nhân nói “Ngươi muốn gặp cô ta cũng dễ thôi, ta bảo Thọ Nhi đi, lập tức sẽ mời cô ta tới”. Du Tú Liên nói “Thật sao? Ngũ tẩu có bản lĩnh lớn vậy ư?”.

Đức đại phu nhân cười nói “Người khác ta mời không được, cô ta thì ta vừa mới tới. Hai hôm trước ở chỗ Khâu đại phu nhân ta gặp cô ta! Hai người bọn ta gặp mặt là lần sau thân hơn lần trước. Ta biết mấy ngày nay cô ta cũng rất buồn bực, chỉ vì Lưu Thái Bảo đó đang nói trong phủ họ giấu hồ ly gì đó, cha cô ta rất buồn bực. Chẳng lẽ đi đánh nhau với Lưu Thái Bảo ? Nhưng lại quả thực không nên, vả lại còn liên hệ đến thể diện của Thiết Bối lặc, nếu nói không thèm để ý y, lại thật đáng giận, vì vậy lão gia ngày ngày mặt mày ủ ê, đây là một lý do. Còn nữa, chính là chuyện hôn nhân của Ngọc Tam tiểu thư sắp phải định, lấy một vị Hàn lâm xấu xí, người tài như cô ta vậy sao có thể vừa ý? Hôm trước lúc ta đến, thấy cô ta đang khóc với Khâu đại phu nhân, đại khái chính là nhắc tới chuyện đau lòng của cô ta”.

Du Tú Liên nói “Ai mà để ý chuyện cô ta lấy Hàn lâm xấu hay Hàn lâm đẹp, Ngũ tẩu mau gọi cô ta tới cho tôi gặp mặt đi !”. Đức đại phu nhân ngẫm nghĩ rồi nói “Không có chuyện gì cũng khó đi mời, vậy ta sai người làm một tiệc rượu, mời cả Khâu đại phu nhân cùng tới cho cô bồi tiếp, chúng ta ăn tối được không?”. Du Tú Liên nói “Bây giờ cơm trưa còn chưa ăn, cơm tối đợi đến giờ nào?”. Đức đại phu nhân nói “Không! Mời họ tới sớm một chút! Thì nói cô đang ở đây, họ nhất định vội tới, vì Khâu đại phu nhân cũng rất nhớ cô. Ngọc tam tiểu thư và cô chưa từng gặp nhau, nhưng cô ta cũng biết danh tiếng của cô.

Cô ta từng hỏi thăm ta về chuyện trước đây của cô, còn hỏi lúc nào cô mới tới Bắc Kinh”. Du Tú Liên nói “Hay đừng nói cho họ trước mới hay, đợi họ đến rồi, Ngũ tẩu hãy giới thiệu Ngọc Kiều Long với tôi!”. Đức đại phu nhân cười nói “Đại khái sợ cô ta biết cô giúp Lưu Thái Bảo, sẽ hận cô chứ gì ? Được rồi!

Ta sẽ sai người đi mời!”, rồi quay qua nói với Dương Lệ Phong. Dương Lệ Phong lại dặn bộc phụ, bộc phụ lại ra ngoài viện dặn người ở Thọ nhi, Thọ nhi bèn phân ra đi mời nửa khách.

Đức đại phu nhân và Dương Lệ Phương liền đi thay quần áo, Du Tú Liên cũng mở hành lý lấy ra một cái áo bông lụa màu xanh, đổi đôi hài thêu hoa giả đoạn, và chải lại bím tóc, thoa chút dầu lên đầu, trên mặt cũng thoa chút phấn.

Lát sau Đức đại phu nhân trang điểm xong, quay người nhìn Du Tú Liên một cái cười nói “Cô ăn mặc như vậy, ta thấy còn đẹp hơn Ngọc Kiều Long!”.

Lúc ấy bộc phụ vào, mời họ ra phạn sảnh dùng cơm trước, đang ăn thì Thọ nhi ngoài cửa sổ phúc đáp nói “Khâu đại phu nhân hôm nay phải về nhà mẹ nên không tới được, nói là cảm ơn phu nhân, Ngọc tam tiểu thư thì ba bốn giờ nữa sẽ tới !”. Du Tú Liên nghe xong nói “Tối cô ta mới tới, thật khiến người ta không chịu đựng nổi, biết vậy nên hẹn họ ăn trưa!”.

Sau giờ trưa đợi nhiều giờ, Thọ nhi lại tới ngoài cửa sổ nói “Xin thưa! Ngọc tam tiểu thư tới!”. Đức đại phu nhân vội ra đón, Dương Lệ Phong lại soi gương rồi theo mẹ chồng ra đón. Du Tú Liên đứng lên thì nghe ngoài cổng có tiếng cười nho nhỏ, tiếng chân nhộn nhịp, nàng bèn đứng bên cửa sổ nhìn qua lớp kính.

Hồi 5: Cười Nhạt Làm Duyên Phòng Khuê Đòi Bảo Kiếm -ánh Đèn Bóng Tóc Đêm Hội Gặp Tình Nhân

Cười nhạt làm duyên phòng khuê đòi bảo kiếm Ánh đèn bóng tóc đêm hội gặp tình nhân Thấy mẹ chồng nàng dâu họ Đức mời một vị tiểu thư mười bảy mười tám tuổi vào phòng, quả nhiên vị tiểu thư này vóc dáng nhỏ nhắn, nhưng cũng không có gì là “yếu ớt”. Nàng khoác chiếc áo bằng đoạn thêu hoa đỏ chói, lộ ra đuôi tóc kim tuyến, trên tóc cắm một chiếc trâm hình một con phượng đỏ ngậm hạt châu. Trên mặt đánh phấn, đó nhất định là loại phấn đắt tiền, nhan sắc diễm lệ, mà còn hài hòa, không giống như đám phụ nữ dung tục thoa son trát phấn lên mặt rất không tự nhiên.

Vị tiểu thư này không những dung mạo xinh đẹp mà còn bộc lộ một phong thái đường hoàng, nụ cười của nàng như mang theo gió xuân, giọng nói không to nhưng rất rõ, cử chỉ thích hợp mà không thô lỗ. Nàng và Đức đại phu nhân nhường nhau hồi lâu, nhất định mời Đức đại phu nhân đi trước. Đức đại phu nhân lại cố chấp không chịu, nói thẳng:

“Muội đã tới nhà ta rồi, chúng ta đâu thể đi trước được!”. Ngọc Kiều Long cười nói “Vậy mời thiếu phu nhân!”.

Dương Lệ Phong cười vội lui về phía sau. Lúc ấy hai bộc phụ của Ngọc Kiều Long cùng một a hoàn ăn mặc còn lộng lẫy hơn cả Dương Lệ Phong đều cười nói “Đức phu nhân người là chị dâu Tam tiểu thư chúng tôi, xin đừng khách khí!”.

Du Tú Liên nhìn tới đó liền vào phòng trong, buông rèm xuống, qua bức rèm nghe Đức đại phu nhân đã mời Ngọc Kiều Long vào rồi, họ rất khách khí mời ngồi nói chuyện, Đức đại phu nhân hỏi Ngọc Kiều Long hai hôm nay ở nhà làm những gì? Ngọc Kiều Long cười nói “Không làm gì cả, ta muốn tới thăm Ngũ tẩu nhưng lại sợ Ngũ tẩu bận. Vả lại ta mà tới thì thiếu phu nhân lại bị phiền phức!”. Dương Lệ Phong cũng mềm mỏng nói hai câu khiêm tốn, sau đó nghe Đức đại phu nhân nói “Hôm nay ta không chỉ mời Tam tiểu thư, mà còn muốn mời Khâu đại phu nhân nữa! Nhưng hôm nay bà phải về nhà mẹ ruột, từ tạ lời mời của ta. Vốn ta cũng nghĩ cuối năm Tam tiểu thư nhất định bận rộn hơn ngày thường, nên chờ qua năm hãy mời. Nhưng hai ngày nay bọn ta còn có một vị khách, là người nổi tiếng, trước đây tiểu thư nghe ta nói qua đã muốn gặp, hôm nay cô ta cũng muốn gặp tiểu thư”.

Ngọc Kiều Long dường như hơi bực tức, cười hỏi “Vị nào thế?”. Đức đại phu nhân nói “Sao? Khách tới mà cô ta lại núp rồi à? Dương nhi mau mời Du cô nương đi!”. Lại nói nhỏ với Ngọc tiểu thư “Là Du Tú Liên, mới ở hai ngày cô ta còn phải đi. Nay ta tìm cách bảo cô ta diễn một màn song đao cho muội xem xem!”. Lúc này Dương Lệ Phong đã cười đi vào phòng trong, tới trước mặt Tú Liên cười khẽ nói “Ngọc Kiều Long tới rồi, phu nhân cháu mời người ra gặp!”.

Du Tú Liên mỉm cười, ung dung đi ra khỏi phòng, lúc ấy Ngọc Kiều Long đã đứng dậy. Nhìn thấy Du Tú Liên, sắc mặt nàng bất giác biến đổi, như rất kinh ngạc, nhưng vẻ khác lạ này chỉ thoáng qua, vẻ mặt nàng vẫn bình thường. Đức đại phu nhân bèn cười giới thiệu “Đây là Tam tiểu thư của Ngọc phủ, đây là sư phó Du tiểu thư trong nhà ta trước đây, hai tiểu thư đây, một vị thì chuyên luyện võ, một vị thì thích nhìn người luyện võ”.

Du Tú Liên nhìn vị quý tiểu thư kia gật đầu mỉm cười, ánh mắt như mũi tên nhọn bắn lên mặt Ngọc Kiều Long. Nàng cũng gật gật đầu cười cười không tự nhiên, ánh mắt cùng nhìn chằm chằm Du Tú Liên như nói ngươi nhìn ta như vậy, thì ta cũng nhìn ngươi như vậy! Hai người trừng mắt nhìn nhau một lúc, bỗng nhiên Ngọc Kiều Long tươi cười nhìn Đức đại phu nhân nói “Ta cảm thấy vị Du thư thư này rất quen?”. Du Tú Liên cũng nói “Ta thấy cô cũng quen, hình như tối qua chúng ta đã gặp nhau rồi?”. Đức đại phu nhân cười nói “Đó chắc là cô nằm mơ rồi! Mời ngồi! Mời ngồi!”. Dương Lệ Phong bưng trà tới mời, Ngọc Kiều Long cười hỏi “Ta đã nghe Đức ngũ tẩu nói tới tỷ tỷ từ lâu, nói tỷ tỷ rất có bản lĩnh!”. Du Tú Liên cũng cười nói “Bản lĩnh của ta so với tiểu thư còn kém xa, ta chỉ biết vọt lên nóc nhà vượt tường, không biết chui cửa sổ !”. Ngọc Kiều Long lại biến sắc rồi như không hiểu, vẫn tươi cười hỏi “Du tỷ tỷ tới Bắc Kinh lúc nào ?”. Du Tú Liên nói “Ta mới tới hai ba hôm, nếu tới sớm thì chúng ta đã sớm gặp nhau rồi!”. Ngọc Kiều Long lại cười nói “Tỷ tỷ tới chỗ Đức Ngũ tẩu đây ăn tết sao?”. Du Tú Liên lắc đầu nói “Không phải, ta tới Bắc Kinh để giải quyết chút việc, định mua một cái khăn che đầu bằng the xanh, mua hai tấm da hồ ly nữa”. Ngọc Kiều Long nói “Phải rồi, nghe nói da hồ ly năm nay rất rẻ?”.

Du Tú Liên nói “Chắc cũng chia ra lớn nhỏ, hồ ly lớn không đắt lắm, nhưng hồ ly nhỏ chắc khó kiếm một chút!”. Ngọc Kiều Long cười cười, cúi đầu uống một hớp trà.

Lúc này vẻ mặt của Đức đại phu nhân cũng không kìm được phát đỏ lên, vì câu này của Du Tú Liên dường như có hơi điên tam đảo tứ, tự nhủ :

Rốt cuộc cô ta quen đi lại giang hồ, thấy người lạ không biết nói chuyện gì, bèn chen vào nói qua chuyện khác. A hoàn theo hầu Ngọc Kiều Long nhìn Du Tú Liên một cái, cầm áo khoác của tiểu thư rồi lùi sang một bên. Dương Lệ Phong ở bên cạnh rất sốt ruột về Du Tú Liên, thầm nhủ “Vị Du cô nương này hôm nay thế nào ấy!

Trong nhà người ta mấy ngày nay đang ồn ào chuyện Bích nhãn hồ ly gì đó, mới gặp mặt đã nói với người ta mấy câu như thế, không phải cố tình châm chọc người ta sao?”.

Lúc ấy Ngọc Kiều Long nhìn Du Tú Liên một cái, rồi quay qua Đức đại phu nhân nói “Chuyện đó trong nhà chúng tôi còn chưa xong, lời đồn bên ngoài thì ngày càng nhiều. Khiến cha ta muốn từ quan, mẹ ta ngày nào cũng buồn, vì vậy hôm nay Ngũ tẩu vừa mời là ta tới ngay, vì ở nhà cũng rất buồn phiền”, lúc nói vẻ mặt nàng lộ ra nét buồn bã. Đức đại phu nhân nghe Ngọc Kiều Long nói ra mới dám hỏi, bèn chau mày hỏi “Quý phủ dùng không phải đều là người già sao?”.

Ngọc Kiều Long đặt hai tay trên gối, nàng mặc áo dài bằng đoạn trắng xanh, cúi đầu, chuỗi hạt châu dưới mỏ con chim phượng rủ xuống đong đưa qua lại, ấm ức nói “Tuy đều là tôi tớ lâu năm, nhưng trong đó thực sự có người xấu hay không thì không ai dám nói. Cha ta cảm thấy những lời đồn bên ngoài tuy không đáng tin, nhưng muốn gột rửa hiềm nghi, bèn định thay đổi tất cả người dùng trong ngoài phủ, sau đó tự từ quan. Nhưng có rất nhiều thân hữu đều tới khuyên lão nhân gia, nói là không nên vì một chút chuyện không có bằng cứ mà từ quan, phụ ân trách của triều đình. Vả lại có mấy người đầy tớ, mẹ ta xưa nay không rời xa. Chỉ vì mấy lý do này, năm tới chỉ sợ vẫn chưa thể quyết định thế nào! Ta tuy trú ở một phòng khác, không dự vào chuyện nhà, nhưng mỗi ngày nhìn thấy ai cũng mặt mày ủ ê, tối đến cũng một đêm giật mình mấy lần, ta cũng không biết là có chuyện gì, người khác đều không nói với ta. Ngũ tẩu nghĩ xem, hàng ngày cứ như thế, ai mà chịu được!”.

Đức đại phu nhân có vẻ bất bình, nói “Thật là chuyện không thể ngờ được, một mảnh ngói nhỏ lại đánh ngã được người ! Lão thái gia nhà muội cũng quá hiền lành, không biết cai quản sao ? Tôi tớ ai xấu thì cứ đuổi đi, bên ngoài có ai phao tin đồn nhảm thì cứ bắt giam”. Nói tới đây bà nhìn nhìn Du Tú Liên nói “Du muội muội cũng đừng chỉ tin lời một bên Lưu Thái Bảo. Ngươi thấy đấy, mấy gã vô lại kia quấy nhiễu phủ đệ lớn của người ta tới mức nào ? Ngươi là hiệp nữ nổi danh, ngươi giúp ta dẹp nỗi bất bình này, giết Lưu Thái Bảo đi!”.

Ngọc Kiều Long cũng không nhìn được cười, nói “Cũng không trách gã họ Lưu đó, nếu không có người quyền thế che chở y cũng không dám làm thế. Vả lại tôi tớ chúng tôi dùng cũng quá nhiều, trong đó khó tránh khỏi cỏ lúa lẫn lộn, tục ngữ có câu “Không có lửa sao có khói”, sao họ Lưu không phao tin đồn cho nhà khác mà chỉ nói chúng tôi, đủ thấy …”. Đức đại phu nhân nói “Đó là vì lão thái gia làm việc quá nghiêm, đại khái đều đắc tội với đám lưu manh bọn chúng !

Lưu Thái Bảo là kẻ cầm đầu bọn lưu manh, y lại dựa vào thế lực của phủ Bối lặc”.

Ngọc Kiều Long khẽ thở dài, đưa mắt nhìn Du Tú Liên nói “Nếu ta được như vị Du tỷ tỷ này thì tốt quá. Ta cũng không cần biết võ nghệ, chỉ cần ta có thể ra bên ngoài thì hay rồi!”. Đức đại phu nhân lại nói “Muội là thiên kim tiểu thư, đừng nói ra ngoài, chỉ là đi ra khỏi khuê các một bước, cũng có a hoàn bộc phụ dìu! Vị Du đại muội bọn ta đây trong nhà làm bảo tiêu, từ nhỏ đã theo lão nhân gia qua lại giang hồ”. Ngọc Kiều Long nói “Vì vậy ta rất hâm mộ Du tỷ tỷ, hôm nay đã gặp nhau, xin Du tỷ tỷ đối xử với ta như em gái, đừng coi như người ngoài mới nên !”. Dương Lệ Phong đứng cạnh nghe Ngọc Kiều Long nói thế, lại nhìn Du Tú Liên một cái.

Du Tú Liên đầu tiên hơi cười nhạt, nhưng lúc này cũng hơi ngẩn ra, trong lòng không quyết được chủ ý. Vì nghe mấy câu này của Ngọc Kiều Long thì rõ ràng xưa nay nàng ở một mình trong chốn thâm khuê, đừng nói chuyện bên ngoài, mà ngay cả chuyện xảy ra trong phủ nàng cũng không thể lập tức biết ngay. Con người ôn nhu hòa nhã như vậy, lời lẽ lại rất đáng thương thật khiến người ta bất giác mềm lòng, thậm chí còn hối hận vừa rồi đã ăn nói lỗ mãng.

Nàng bèn quan sát kỹ Ngọc Kiều Long, vóc dáng và eo lưng này, rõ ràng giống người sử bảo kiếm tối qua, nhất là dưới gấu quần lộ ra một đôi bàn chân to mang tất lụa màu hồng nhạt, đôi hài phụ nữ Bát kỳ thêu hoa khảm ngọc, chân rất thuôn, nhưng nếu mang giày thì không khác gì chân đàn ông. Du Tú Liên lại chú ý hai cổ tay của Ngọc Kiều Long, thấy nàng mang một đôi vòng vàng lóng lánh, ngón tay nhỏ nhắn đeo nhẫn ngọc nhẫn vàng rất mềm mại, không giống người biết sử kiếm.

Lúc này Ngọc Kiều Long nhìn Du Tú Liên, Du Tú Liên cười cười nói “Ta không biết khách khí, vừa rồi Ngọc muội muội nói vậy, ta thật không dám nhận.

Nhưng ta nghĩ chuyện trong quý phủ thật không phải là chuyện bình thường !

Ta phiêu bạt giang hồ đã bốn năm năm, chuyện gì cũng đã gặp qua, có một loại đạo tặc để trốn tránh quan phủ truy bắt thường mai danh ẩn tích, hoặc cải trang làm người khác giới đi làm nô bộc cho người ta, lại thường làm quen với công tử tiểu thư trong phủ đệ nào đó, y nắm chỗ yếu của chủ nhân, chủ nhân biết chắc y là gian tặc cũng không làm gì được”. Ngọc Kiều Long gật đầu nói “Chuyện loại này ta cũng từng nghe qua, nhưng trong nhà ta tuyệt không biết ! Anh chị ta đều đang ở chỗ làm quan, trong nhà chỉ có cha mẹ ta và ta là chủ nhân”. Du Tú Liên nói “Người trong phủ đã ít, tôi tớ lại nhiều, đương nhiên có điểm kiểm tra không được. Ta nghĩ chỉ cần tiểu thư cô tìm cách, nhất thiết phải điều tra tường tận lai lịch của tôi tớ nam nữ, ngăn chặn lời đồn đại bên ngoài. Nếu không như vậy chuyện gì ồn ào xảy ra, e rằng cho dù đại nhân của quý phủ từ quan cũng không ích gì ! Chỉ vì thân đã làm Cửu môn Đề đốc mà trong nhà lại có đạo tặc ung dung cư trú, tội danh ấy không phải nhỏ, đến lúc xảy ra chuyện, cô cũng khó tránh tội bất hiếu!”. Ngọc Kiều Long hơi ngẩn ra.

Đức đại phu nhân lại thở dài nói “Nếu ngươi là Tam tiểu thư có thể sẽ dễ làm, ngươi có thể cầm đao đi tra vấn từng người một, chứ Tam tiểu thư sao làm được? Trong nhà họ dùng tất cả bao nhiêu người, tiểu thư đều không biết ! Nữ bộc thì tiểu thư còn có thể tra hỏi, chứ tớ trai tiểu thư vẫn không thấy mặt, hơn nữa một vị tiểu thư đâu thể đi tra vấn đầy tớ?”. Ngọc Kiều Long thở dài nói “Hiện nếu đại ca hoặc nhị ca ta ở nhà thì sẽ làm được!”. Đức đại phu nhân nói “Cũng không cần các lão gia ở nhà, chỉ cần phu nhân thái thái có khả năng là được. Tiểu thư không ra khỏi khuê các, ở trong nhà giống như khách, chuyện gì cũng không thể quản nhiều”.

Dương Lệ Phong lại thay chén trà. Ngọc Kiều Long lại nhẹ nhàng đứng dậy, Đức đại phu nhân và Du Tú Liên cũng đều đứng lên. Tôi tớ ở trong lại cho thêm than vào lò sưởi, Ngọc Kiều Long lại đi tới bên cái bàn ăn dài bằng gỗ mun, trên bàn có hai chậu thủy tiên nở hoa màu bạch ngọc, nhụy hoa màu vàng, cành lá xanh biếc xinh đẹp đáng yêu, tỏa ra hương thơm thanh khiết. Ngọc Kiều Long giơ bàn tay trắng muốt chỉ chỉ đóa hoa, nhìn Đức đại phu nhân cười nói “Đóa hoa này thật đẹp, trong phòng ta cũng có hai chậu, nhưng mãi đến nay vẫn chưa nở”. Đức đại phu nhân nói “Đó có thể vì phòng muội hơi lạnh, bọn ta thì vì mấy chậu hoa này mà từ buổi chiều là lò sưởi cũng không để tàn”. Ngọc Kiều Long gật đầu, nàng đứng đối diện chếch về một bên chậu hoa, dường như đang nghĩ ngợi điều gì.

Đức đại phu nhân, Dương Lệ Phong đều hâm mộ nhìn vị tiểu thư này, vì vẻ kiều diễm và trang phục lộng lẫy của nàng bao trùm lên đóa hoa thủy tiên càng hiện rõ vẻ mỹ lệ, thật phảng phất như một bức tranh sĩ nữ của bậc danh họa. Du Tú Liên đảo mắt, nghĩ thầm ta thăm dò một phen thì có thể nhìn ra ngươi là người thế nào. Du Tú Liên bỗng nhiên đổi sang vẻ hoạt bát, cười nói “Hoa thủy tiên đẹp như vậy ta cũng chưa từng thấy qua, Ngũ tẩu thật đúng là người yêu hoa!”. Nàng bước về phía Ngọc Kiều Long, còn cách hai bước thì nhìn Ngọc Kiều Long cười nói “Ngọc muội muội, quần áo của muội may bằng hàng gì vậy, để ta xem nào”. Nàng đưa tay ra như định sờ, nhưng lại chĩa ngón tay ra điểm thẳng vào ngực Ngọc Kiều Long, động tác cực kỳ mau lẹ ! Không ngờ đầu ngón tay chưa chạm vào lớp vải, Ngọc Kiều Long đã nắm được hai tay nàng, hơi tái mặt cười nói “Ái chà! Sao tay Du tỷ tỷ lạnh thế!”. Du Tú Liên liền xoay tay nắm cổ tay nàng, dùng sức bấm mạnh. Nếu là người khác thì đã la ầm lên, nhưng vẻ mặt của Ngọc Kiều Long lại chuyển sang bình hòa, hơi mỉm cười nói:

“Tỷ tỷ đừng đùa! Ta sợ bàn tay lạnh của tỷ tỷ!”. Tú Liên cười nhạt buông ra.

Ngọc Kiều Long vội quay đi.

Du Tú Liên một mình nhìn hoa thủy tiên gật đầu cười nhạt nói “Ta đã hiểu!”.

Đức đại phu nhân lúc ấy cũng hơi ngẩn ra, hỏi “Muội hiểu cái gì?”. Du Tú Liên nói “Muốn che mắt ta cũng không được, mau nói thật với ta!”. Đức đại phu nhân cười nói “Chuyện gì để ngươi xét ra vậy!”. Du Tú Liên nói “Ta xét ra rằng thủy tiên của Ngũ tẩu là dùng chậu than sưởi, không thế thì không thể tươi tốt như vậy”. Đức đại phu nhân bước tới kéo nàng một cái, cười nói “Được rồi em gái, ngươi chớ để lộ ra là ở nhà quê lên, thủy tiên này không như hẹ vàng, được dùng lửa sưởi”. Tú Liên cười cười, thấy Ngọc Kiều Long lại ngồi trên ghế uống trà một mình bên kia, rủ tay áo lụa đỏ xuống che cổ tay. Dương Lệ Phong nhìn Ngọc Kiều Long rồi nhìn Du Tú Liên, trên mặt có vẻ kinh ngạc. Đức đại phu nhân lại có vẻ hơi không vui, bồi tiếp Ngọc Kiều Long nói chuyện không đâu cả nửa ngày, trời không còn sớm. Đức đại phu nhân dặn dọn cơm trong phòng, liền đó bộc phụ, a hoàn vội vàng dọn bàn ăn. Đức đại phu nhân và Dương Lệ Phong mời Ngọc Kiều Long ngồi ở ghế chủ, Du Tú Liên ngồi cạnh, Đức đại phu nhân ngồi bồi tiếp, Dương Lệ Phong đầu tiên không chịu ngồi, kế Ngọc Kiều Long cười nói “Thiếu phu nhân cũng ngồi xuống đi, chúng ta như người một nhà, không cần chú trọng mấy quy củ lễ tiết!”. Đức đại phu nhân cũng nhìn con dâu nói “Ngươi ngồi đi!”. Dương Lệ Phong lúc ấy mới ngồi xuống một cái ghế cuối cùng.

Lúc bấy giờ Du Tú Liên và Ngọc Kiều Long ngồi liền nhau, mùi thơm trên áo của Ngọc Kiều Long đều xông lên mũi Tú Liên, Tú Liên để tay ở dưới bàn, ngầm véo chân Ngọc Kiều Long một cái. Ngọc Kiều Long không nói gì, đưa một chén rượu cho Tú Liên nói “Du tỷ tỷ uống rượu!”. Du Tú Liên lại dùng sức véo nàng một cái, Ngọc Kiều Long hơi chau mày, Du Tú Liên cười, rồi theo lệ thường uống rượu nói chuyện phiếm. Ngọc Kiều Long cũng vui vẻ, còn đặc biệt thân thiết với Du Tú Liên. Giây lát nến bạc được thắp lên, ánh nến soi lên Ngọc Kiều Long trông như tiên nữ trong đám mây màu. Rượu và thức ăn chưa dùng bao nhiêu, nhưng khách và chủ đã cùng rời bàn. A hoàn của Ngọc Kiều Long bưng nước mời tiểu thư súc miệng. Lúc này Du Tú Liên cũng rất ôn hòa nói chuyện phiếm với Ngọc Kiều Long, đến canh một Ngọc Kiều Long cáo từ. Đức đại phu nhân còn muốn giữ lại, Ngọc Kiều Long lại nói “Vì ở nhà có chuyện, về tối sợ không hay”, rồi quay qua Du Tú Liên cười nói “Du tỷ tỷ, hai ngày nữa mời tỷ tỷ tới nhà ta ăn tết”. Lúc này bộc phụ thắp đèn lồng, Ngọc Kiều Long khoác áo khoác vào, a hoàn đỡ nàng đi ra. Du Tú Liên cũng tiễn tới cửa rồi quay lại, vào tới phòng không kìm được phì cười …

Lát sau Đức đại phu nhân tiễn khách xong quay lại, thấy Tú Liên, bèn cười gượng nói “Du đại muội muội, hôm nay cô sao thế ? Tại sao gặp nàng ta một chút khách khí cũng không có? Hôm nay may là cô ta, cô ta không có thói tiểu thư, nếu là người khác thì thật khiến ta khó xử!”. Du Tú Liên cười nói “Ta vốn là người thô lỗ, đâu biết nói khách khí với người phú quý? Nhưng cũng chỉ cô ta là ta còn chịu nói mấy câu, nếu là người khác ta không them để ý đâu!”. Đức đại phu nhân lại nói “Đại muội muội, ta xin muội một chuyện, muội nể mặt ta, đừng giúp Lưu Thái Bảo ức hiếp người ta nữa? Nếu không tương lai nếu thật xảy ra chuyện gì, thì ta và Ngũ ca muội đều có lỗi với nhà cô ta!”. Du Tú Liên xua tay nói “Ngũ tẩu yên tâm, ta làm việc nhất định phải nể nang, không thể để gia đình có danh vọng lớn như họ mất mặt, cũng không thể gây chuyện cho Ngũ ca Ngũ tẩu. Tối nay ta tới nhà họ Lưu lần nữa, ngày mai có thể xong việc, ta cũng sắp đi rồi!”. Đức đại phu nhân nói “Lần này muội tới sao không giống như trước đây?

Ta thấy muội hình như đã đổi tính nết rồi!”.

Du Tú Liên không nói, nhìn Dương Lệ Phong bên cạnh cười. Dương Lệ Phong lại ngẩn người không đoán ra tâm sự của Du Tú Liên. Tú Liên tự rót trà uống hai chén, kế thay bộ quần áo lộng lẫy trên người, mặc quần áo xanh, đi hài xanh, ra phòng ngoài bảo người trong nhà xe chuẩn bị ngựa, sau đó quay lại mặc áo khoác. Đức đại phu nhân thở dài nói “Người giang hồ các ngươi tính tình thật khó thay đổi, nếu ta là đàn ông, cũng tuyệt không lấy người như các ngươi”. Du Tú Liên cười nói “Nếu Ngũ tẩu lấy người như tiểu thư Ngọc Kiều Long cũng không nương tựa được!”, nói xong đi ra. Tới trước thư phòng, thấy đèn trong cửa sổ còn sáng, có tiếng Đức Khiếu Phong ngâm thơ. Du Tú Liên tới nhà xe, thấy con ngựa khỏe màu sắc xanh đã chuẩn bị xong, bèn dắt ra cổng, lên ngựa vung roi đi. Lúc này trên trời ánh sao nhấp nháy, gió thổi vào mặt lạnh buốt, trên đường lớn chỉ có mấy cỗ xe lừa uể oải lăn bánh, người đánh khua thanh la báo canh giống như hồn ma thấp thoáng xa xa.

Du Tú Liên thúc ngựa phi nhanh, vó ngựa lộc cộc trên đường đá, gió thổi áo khoác của nàng bay phần phật. Giây lát đã tới trước cổng Hoa Viên Đại viện của Lưu Thái Bảo. Nàng thúc ngựa vào sát tường, đứng lên yên nhìn, thấy phòng phía bắc có ánh đèn, bèn gọi “Thái muội muội mở cửa !”, Thái Tương Muội, Lưu Thái Bảo đều bước ra. Du Tú Liên lộ ra nửa người trên tường cười nói “Mở cửa đi!”. Thái Tương Muội vội mở cửa bước ra nhìn, mừng rỡ nói “Du đại tỷ, đây là ngựa của đại tỷ à?”. Du Tú Liên trên yên nhảy xuống nói “Ta ghét xe đi chậm nên cưỡi ngựa, ngươi biết cưỡi ngựa chứ?”. Thái Tương Muội nói “Biết nhưng không giỏi, cũng không biết diễn trò trên ngựa”. Nàng tới trước cửa nhận ngựa chạy một vòng, vui vẻ vòng vòng trong sân. Lưu Thái Bảo kéo nàng một cái nói “Mời đại tỷ vào trong ngồi đã!”.

Thái Tương Muội cùng Du Tú Liên vào cổng, Lưu Thái Bảo dắt ngựa vào viện. Du Tú Liên vào phòng nhìn Tương Muội cười nói “Hôm nay ở nhà họ Đức ta đã gặp một vị bằng hữu giang hồ, tìm ra rất nhiều manh mối về chuyện của chúng ta. Lát nữa ta lại đi một chuyến, thì có thể đem thanh kiếm về. Bích nhãn hồ ly đã chết, chuyện này coi như đã xong, chúng ta không cần truy cứu nữa”. Thái Tương Muội hơi tức giận nói “Nhưng con hồ ly nhỏ kia phóng phi tiêu giết chết cha tôi, không bắt được y tôi vẫn không cam tâm!”. Du Tú Liên nói “Hôm đó các ngươi giao thủ lúc trời tối đen, ai phân biệt được mũi tiêu là ai phóng? Chuyện là từ Bích nhãn hồ ly mà ra, Bích nhãn hồ ly đã chết, cũng coi như đã xong, hà tất nhất định không tha thứ?”. Đang nói thì Lưu Thái Bảo vào phòng nói nhỏ “Cao sư nương ở Ngọc phủ chết tối qua đúng là Bích nhãn hồ ly.

Ngọc Chính đường cũng đã biết, hôm nay không tới nha môn làm việc, nghe nói là bị bệnh, ở nhà nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Người bên ngoài lại đồn rằng Ngọc Chính đường muốn từ quan”. Du Tú Liên gật đầu, ba người lại nói chuyện phiếm ở đó một lúc, không biết đã đến canh hai. Du Tú Liên thắt áo trong gọn gang, giắt đơn đao sau lưng, ngoài khoác áo khoác, bảo Tương Muội ra đóng cửa, lúc sắp ra khỏi cổng lại nói “Sau canh ba ta sẽ quay lại”.

Ra khỏi cổng đi về phía bắc, men theo tường thành về phía tây, bốn bề tối đen không thấy một bóng người. Nàng thong thả theo con đường đuổi Bích nhãn hồ ly đêm qua mà đi. Qua canh ba mới tới trước cổng lớn của Ngọc phủ, vừa thấy trước cổng không canh phòng, nàng bèn cởi áo khoác phi thân lên nóc nhà, đạp trên mái ngói đi. Thấy trong hoa viên tối qua, trước hòn non bộ treo hai cái đèn lồng rất sáng, còn có mấy người đi loanh quanh trong đó. Tú Liên bèn tránh qua hoa viên đi tiếp, vượt qua mấy lớp phòng ốc, thì tìm tới tòa nhà lớn đêm qua có người chui vào cửa sổ. Du Tú Liên nằm sấp ở hiên trước nhìn xuống, thấy trong viện không có ánh đèn, trong căn nhà phía dưới lại có ánh đèn thấp thoáng chiếu ra. Tú Liên rất kinh ngạc, cắm cái rui dưới hành lang, thân hình vắt ngang như chim yến lượn, thò đầu tới trước cửa sổ, ghé một mắt nhìn vào trong. Thấy trong phòng không có ai, chỉ thấy trên cái án chạm nhỏ đặt một đĩa đèn bạc chặn lên một tờ giấy, trên viết mấy hàng chữ to :

“Tú Liên tỷ, biết tỷ đêm nay sẽ tới, xin đừng bức nhau, muội đã biết lỗi, từ nay xin giấu vết”.

Tú Liên phì cười, khẽ nói “Thông minh lắm!”, chợt thấy bức màn đỏ bên kia vén lên, lộ ra nửa người của Ngọc Kiều Long. Nàng mặc áo ngủ màu xanh, mái tóc trên đầu cũng đã chia làm hai bím rũ trước ngực. Tú Liên nhìn vào phía trong giường nói “Đẹp lắm, tiểu thư, mời xuống giường!”. Ngọc Kiều Long mỉm cười, chậm rãi xuống giường như không có chuyện gì, tới trước đèn, chỉ chỉ cổ tay ra hiệu chịu thua. Tú Liên mỉm cười nói:

“Thế là thuận lợi cho ngươi rồi đấy ! Không thấy ngươi xinh đẹp thì chắc ta cấu ngươi mạnh hơn. Mau đưa thanh bảo kiếm ra, ta sẽ đi!”. Ngọc Kiều Long cẩm bút viết loạt soạt lên giấy, Tú Liên đọc thấy là “Tối mai sẽ đưa về chỗ cũ, quyết không thất tín”. Tú Liên cười nói “Được rồi! Cho ngươi chơi thêm một ngày nữa”. Ngọc Kiều Long ngẩng nhìn lên cửa sổ, Tú Liên bèn nói “Ta đi đây!”, rồi trở lên nóc nhà, thấy ánh đèn trong cửa sổ cũng tắt. Tú Liên cắp áo khoác, cúi mọp người đi trên mái ngói tới tường chỗ gần đường nhảy xuống, khoác áo lên rồi đi. Vừa đi vừa thấy buồn cười. Chưa được trăm bước, chợt thấy có người đấm vào lưng một cái rất đau. Tú Liên lách qua quay lại nhìn thì thấy một cái bóng đen nhảy lên nóc nhà.

Tú Liên cởi áo khoác ra nhảy lên đuổi theo, người ấy cười khanh khách, rõ ràng là thanh âm phụ nữ. Du Tú Liên đuổi theo, bóng đen lại nhảy xuống, Du Tú Liên cũng xuống theo hỏi “Tặc tiểu thư giỏi lắm, ngươi muốn gì?”. Bóng đen lại lắc người một cái biến mất.

Trong lòng Tú Liên rất khâm phục, lại rất nghi hoặc, không biết cô ta lại muốn làm gì, không khỏi lo lắng cho Lưu Thái Bảo và Thái Tương Muội, liền vội đi. Đi tới dưới tường thành về phía đông, còn cách không xa lại nghe có tiếng vó ngựa chạy tới trước mặt. Người trên ngựa thấy Du Tú Liên, bèn cao giọng hỏi “Là Du đại tỷ sao? Tôi tới đón đại tỷ!”. Du Tú Liên cười nói “Ta không nhận tình cảm của người, ngươi đâu phải đến đón ta, chỉ là muốn cưỡi ngựa của ta thôi”. Thái Tương Muội cười đi tới gần, hỏi “Sao rồi? Du đại tỷ, tỷ điều tra ra Bích nhãn hồ ly đó rốt cuộc là ai trong Ngọc phủ?”. Du Tú Liên nhảy lên ngựa, nói “Đừng nói chuyện phiếm! Mau về đi, lúc này trong nhà các ngươi chắc lại có chuyện!”. Kế đó một ngựa hai người, men theo tường thành, lao đi trong đêm về phía đông. Giây lát đã tới nhà Lưu Thái Bảo. Ngựa tới bên tường, Thái Tương Muội đứng trên yên, nhảy tường vào, mở cổng ra. Lúc ấy Lưu Thái Bảo cũng ra, y dắt ngựa vào, đóng cổng lại.

Du Tú Liên vào phòng trước, Lưu Thái Bảo, Thái Tương Muội theo sau vào.

Du Tú Liên hỏi trước “Sauk hi ta đi trong này có chuyện gì không? . Lưu Thái Bảo lắc đầu nói “Không có chuyện gì cả!”. Du Tú Liên nói “Vậy thì lát nữa người đó cũng sẽ tới!”. Thái Tương Muội liền hỏi “Là ai vậy?”. Du Tú Liên cười cười nói “Chính là kẻ ăn trộm kiếm, nhưng nàng không phải gian tặc, không phải đồ đệ của Bích nhãn hồ ly, cũng không ở trong Ngọc phủ, cũng là người rất thú vị. Ta không muốn bức bách cô ta quá, cô ta cũng đã cầu xin ta, nói tình nguyện hối cải và chịu tối mai sẽ đem thanh bảo kiếm trả về phủ Thiết Bối lặc”. Lưu Thái Bảo ngẩn ra, hỏi “Tên gian tặc này chịu trả bảo kiếm sao?”.

Du Tú Liên gật đầu nói “Cô ta có thể lấy trộm đi thì đương nhiên có thể đem trả. Kỳ thực hôm nay ta vẫn có thể lấy lại từ tay cô ta, nhưng ta biết cô ta rất thích thanh kiếm đó, nên để cho cô ta chơi thêm một ngày nữa! Ngày mai bảo cô ta tự trả, thì cô ta cũng có thể diện. Tóm lại hiện ta rất muốn trở về nhà, không muốn bức bách người này quá, nếu không thì khi ta đi rồi, các ngươi rất không có lợi”.

Thái Tương Muội buồn bực hỏi:

“Người này rốt cuộc họ tên gì? Làm nghề gì?”. Du Tú Liên xua tay nói:

“Các người bất tất hỏi kỹ, người này rất kỳ quặc nhưng rất đáng yêu, võ nghệ của cô ta cũng không kém gì ta. Chỉ vì vừa rồi ở trong chỗ cô ta nói chuyện không tiện nên bọn ta không nói gì nhiều, lát nữa cô ta sẽ tới đây, nếu không sẽ tới nhà họ Đức để tìm ta, vợ chồng các ngươi bất tất để ý nhiều. Hiện ta đã giúp các ngươi làm xong việc, đại khái ngày mai ta phải về Cự Lộc, khoảng tháng hai tháng ba sang năm ta lại tới, lúc ấy ta sẽ ở lại Bắc Kinh lâu hơn vài ngày, kết giao với người này, lúc ấy ta sẽ dẫn cô ta tới gặp vợ chồng ngươi”.

Thái Tương Muội kéo tay Du Tú Liên nói “Du tỷ tỷ, sao tỷ làm người ta bực mình như vậy? Nói mau cho tôi nghe đi, người ấy rốt cuộc họ tên gì?”. Du Tú Liên xua tay nói “Ta thật không thể nói ra tên họ cô ta, người ấy lại có danh tiếng ở Bắc Kinh, hơn nữa quen biết với ta, quan hệ rất rộng, bất luận gặp ai, ta cũng không muốn nói họ tên của cô ta. Nhưng các ngươi cứ yên tâm! Trong đêm mai sẽ thấy thanh bảo kiếm trong Thiết phủ. Nếu người ấy tiếc rẻ không chịu giao ra, thì ta vẫn chưa đi đâu”. Thái Tương Muội ngồi ở đầu giường đảo mắt suy nghĩ. Lưu Thái Bảo mười phần chán nản.

Du Tú Liên ngồi một lúc, bèn nói “Ta đi đây, ta nghĩ người này nhất định tới nhà họ Đức tìm ta, chắc cô ta cho rằng ta ở nhà họ Đức”, rồi cười nói “Vợ chồng ngươi đừng ngấm ngầm theo dõi ta. Nếu không nếu gặp cô ta, cô ta sẽ làm khó các ngươi, ta bức bách cô ta không sao chứ các ngươi chắc chắn không làm gì được, cô ta không sợ các ngươi đâu!”.

Thái Tương Muội đứng dậy nói “Trời tối như vậy, sao tỷ về được? Trên đường lớn có quan quân đi tuần, nếu họ chặn tỷ lại thì phiền phức lắm”. Lưu Thái Bảo nói “Nhà họ Đức chắc cũng đã ngủ rồi, Du đại tỷ đợi đến sáng hãy về!”. Du Tú Liên lắc đầu nói “Không sao, ta xuyên qua Hắc Hồ đồng sẽ không gặp ai, về tới nhà họ Đức ta sẽ tự mở cổng dắt ngựa vào, không làm họ giật mình tỉnh dậy”. Thái Tương Muội vẫn muốn ngăn lại, Lưu Thái Bảo lại ngầm đưa mắt cho nàng một cái. Liền đó Du Tú Liên mặc áo khoác, ra khỏi phòng dắt ngựa đi, bảo Thái Tương Muội mở cổng. Nàng lên ngựa ra khỏi cổng, đi vào bóng tối mịt mùng. Thái Tương Muội nghe tiếng vó ngựa đi xa mới đóng cổng quay lại phòng, thấy Lưu Thái Bảo ném bình trà xuống đất vỡ nát, rồi ném thanh la mãi võ choang xuống đất, tức giận muốn ném cả đèn, Thái Tương Muội liền ôm giữ y lại, nói “Trời ơi! Ngươi làm sao vậy? Ngươi điên rồi, làm gì vậy? Yên ổn quá phải không?”.

Lưu Thái Bảo lại giậm chân, thở hồng hộc nói “Tức chết được! …. Con mẹ nó, nhờ vả người ta khó như thế đấy. Giúp chúng ta lo chuyện này, chúng ta một đại tỷ, hai đại tỷ, lúc gần xong thị muốn thả gian tặc thì tùy tiện thả à? Kiếm không cầm về giao cho ta, còn bảo gian tặc thi triển tài năng đem trả vào phủ. Con mẹ nó, chúng ta phí sức mười mấy ngày để làm gì? … Thật tức chết đi được!. Thái Tương Muội xua tay nói “Ngươi nói nhỏ thôi, có lẽ cô ta chưa đi xa” . Lưu Thái Bảo vỗ ngực nói:

“Thị có nghe ta cũng không sợ! Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo ta đâu phải là hạng vô danh tiểu tốt ! Đúng, võ nghệ của họ cao cường, nhưng đao chạm đao thì Lưu Thái Bảo không ngu đâu ! Cho dù cô ta một mạng thì ta cũng một mạng!”.

Thái Tương Muội giẫm chân nói:

“Ngươi giận người ta làm gì? Nếu không có người ta, chúng ta ngay cả đấu với Bích nhãn hồ ly cũng không xong!”. Lưu Thái Bảo nói “Ta không giận chuyện gì khác, mà giận thị không đem bảo kiếm về cho ta, để ta đem tới phủ. Cô nghĩ xem, ta đã khoe khoang trong phủ Bối lặc, nói là nếu không truy hồi được bảo kiếm ta thề không làm người, mà rốt lại, con mẹ nó, ngay cả cái bóng của bảo kiếm ta cũng không truy hồi được, bảo kiếm của người ta tự bay về! Cô nói ta còn mặt mũi nào mà dạy quyền? Còn mặt mũi nào mà gặp ai?”. Thái Tương Muội nói:

“Ngày mai gian tặc kia đem kiếm trả về phủ, thị đại khái cũng không dám để lại họ tên thì người có thể nói là do ngươi đem về là được rồi!”. Lưu Thái Bảo cười hì hì, đưa chỉ vào vợ nói:

“Ý này của cô cũng tuyệt lắm, nhưng thế thì chẳng phải ta cũng là gian tặc sao? Ồ …”. Thái Tương Muội nói:

“Không thế thì mai ngươi báo cho người trong phủ biết, nói là ngươi đã điều tra biết đêm nay gian tặc chắc sẽ vào phủ để trong phủ phòng bị, đến lúc ấy sẽ bắt cả gian tặc lẫn bảo kiếm”. Lưu Thái Bảo xua tay nói:

“Nhỏ thôi … ý này cũng được, nhưng ta nghĩ gian tặc không thể ngu như vậy, thị vừa thấy trong phủ có canh phòng thì không những không tự chui vào lưới mà ngay cả kiếm cũng không chịu giao ra, ta cũng có một cách …”. Thái Tương Muội liền hỏi:

“Cách gì ?”. Lưu Thái Bảo đắc ý cười, nói nhỏ:

“Đêm mai hai người chúng ta cũng lén tới trong phủ, gian tặc tới nếu chúng ta thấy có thể đắc thủ thì cho thị một chùm phi tiêu, cả gian tặc lẫn kiếm đều rơi xuống. Nếu thấy không thể đắc thủ, thì chúng ta sẽ nằm sấp trên nóc nhà không lên tiếng, chờ gian tặc trả kiếm. Thị bước ra trước thì chúng ta lại bước vào cầm kiếm về nhà chơi vài hôm rồi hiến lại trong phủ, nói là chúng ta đã tìm được. Vậy thì một là ngay cái bóng gian tặc cũng không biết, Du Tú Liên cũng không biết dò xét từ đâu, chúng ta cũng lấy lại được thể diện!”. Thái Tương Muội đấm y một cái, cười nói:

“Chủ ý xấu xa!”. Lưu Thái Bảo nói:

“Chủ ý xấu xa à ? Chỉ có cách này là vừa gọn vừa đỡ mất mặt”. Thái Tương Muội nói “Được đấy! Cứ thế đi, đừng nói nữa”, rồi nhặt thanh la vả mảnh bình trà lên, đóng cửa đi ngủ.

Đêm nay tuy vợ chồng y biết rõ sẽ không có chuyện gì xảy ra, nhưng hai người đều ngủ không ngon, cương đao và phi tiêu vẫn đặt sẵn bên cạnh. Trong lòng Lưu Thái Bảo lại hối hận, vì vậy mãi đến hơn mười giờ trưa hôm sau y mới dậy. Lúc ấy Thái Tương Muội đã đi chợ về, đang nấu ăn! Lưu Thái Bảo thấy tài nghệ của vợ y rất giỏi, không chỉ biết đi dây. Y lại nghĩ lại tất cả mọi chuyện cả tháng nay, càng thấy mình tuy ngược xuôi vất vả, đủ cả tức giận, sợ hãi, còn làm liên lụy mấy vị bằng hữu đều bị trọng thương, tai họa này quả thật rất lớn! Bảo kiếm tuy mình không tìm về được, hồ ly lớn nhỏ đều không tự tay giết hoặc bắt được, nhưng như nay cũng coi là họ đã thất bại. Không có chuyện này mình cũng không lấy được cô vợ giỏi như vậy, nói đúng ra vẫn coi như rất may mắn! Chuyện tối nay đem bảo kiếm về, bất luận lừa thần dối quỷ thế nào cũng giành lại được chút thể diện, về sau còn dễ nhìn mặt người ta ngoài đường.

Y vừa cài nút áo vừa nhìn Tương Muội cười nói:

“Được rồi, tối nay còn trận cuối cùng thì chúng ta sẽ thu quân! Mua thêm nhiều rau thịt, ăn tết cho vui vẻ.

Chuyện đời thật khó ngờ, lúc này năm ngoái, ta đâu ngờ rằng tới năm nay sẽ có cô! Cô lúc đó chắc ở bên Hoàng Hà hoặc Hắc Hà, cũng chắc không ngờ rằng sẽ lấy ta!”. Thái Tương Muội vừa cắt mì nói:

“Ta thật không ngờ ta lấy thứ người như ngươi! Thật mất mặt! Cũng coi như là số phận của ta thôi !”. Lưu Thái Bảo cười nói:

“Lấy được Nhất đóa liên hoa ta mà cô còn không cảm thấy vinh dự, lại còn chửi ta là thứ này thứ nọ! Nếu ta là thứ này thứ nọ thì cũng là thứ vàng ngọc quý báu chứ quyết không thể là cỏ rác. Thôi chuyện rườm chỉ cần nói tắt, mau nấu mì đi, ăn xong ta còn phải đi, bảo kiếm không thể để tối nay thị đem trả trong phủ là xong, ít nhất phải giao cho ta để ta trả lại, còn để ta xem xem bộ dạng của con hồ ly nhỏ đó mới được!”. Thái Tương Muội cắt mì khuấy trong nồi, cau mày ứa lệ nói:

“Kết thúc như vậy ta vẫn không cam tâm, chẳng lẽ cha mẹ ta đều chết oan sao?”, rồi đưa tay áo đỏ lau nước mắt. Lưu Thái Bảo nói:

“Chuyện đó qua tết hãy nói, ngày tháng còn dài. Chỉ cần con hồ ly nhỏ không chết không bỏ đi, chỉ cần Nhất đóa liên hoa ta không bị mất mặt, thì ta sẽ có bằng hữu, sẽ có cách. Du Tú Liên tự ý thả gian tặc, chúng ta không nhờ thị, cũng không đếm xỉa tới thị nữa! Chuyện tương lai chúng ta từ từ làm. Cô thấy đó, trước sau cũng có một ngày ta sẽ để nhạc phụ nhạc mẫu nhắm mắt”.

Thái Tương Muội vớt mì ra, ăn xong Lưu Thái Bảo thay một cái áo bông nhỏ và cái quần bông bằng lụa xanh, tất trắng tinh, giày bằng đoạn xanh, mối thắt lưng buông xuống tới đùi, ngoài khoác áo vải da hai lớp màu xanh, mặt rửa rất sạch, bím tóc chải gọn gàng.

Y lắc la lắc lư đi tới phủ Thiết Bối lặc trước, bọn Lý Trường Thọ vừa cười vừa nói với y “Lưu sư phó, sao rồi? Đừng mãi lo bắt hồ ly, quên ăn tết với tân nương đấy!”. Lưu Thái Bảo cười nói “Quên sao được! Đến mùng một ta muốn mời các ngươi tới nhà ta uống rượu. Chị dâu ngươi làm sủi cảo còn nhỏ hơn mũi hài của cô ta!”, đang nói chợt thấy Đắc Lộc từ viện trong đi ra, tay cầm một gói quà không biết là thưởng cho ai. Lưu Thái Bảo vội bước tới chặn y lại, nói:

“Lộc gia, ta nói cho ngươi biết trước tin này, vụ án ta làm, đã thấy sắp đại công cáo thành. Sau ngày mai, ta sẽ tìm ra thanh bảo kiếm đó của Bối lặc gia trình lên”. Đắc Lộc cười sặc lên một tiếng, Lưu Thái Bảo nói:

“Ngươi đừng cười!

Nhất đóa liên hoa ta không khoác lác đâu, nhất định có thể …”. Đắc Lộc nói:

“Đâu chờ ngươi đi tìm cho, hôm qua bảo kiếm đã sớm tìm về rồi!”.

Lưu Thái Bảo giật nảy mình, cặp mắt ba góc trố ra, Đắc Lộc cười nhếch mép khẽ nói:

“Ngươi tự tìm phiền phức, bận rộn vớ vẩn cả tháng, chuyện bảo kiếm vốn không can hệ với Bích nhãn hồ ly gì đó đâu!”. Lưu Thái Bảo nói:

“Người nói mò !”. Đắc Lộc nói:

“Nói mò ? Thanh bảo kiếm đó tại sao người ta cầm đi, rồi tại sao đem trả lại ! Hơn nữa tối qua ngay cả khóa thư phòng đều không mở, trên tường, cửa sổ không có một chút dấu vết, cũng không giống như mấy hôm trước chúng ta trong đó, bọn ngươi vừa lên nóc là ngói rơi loảng xoảng. Vì vậy Bối lặc gia nói đúng, đây là do hiệp khách làm! Y mượn bảo kiếm dùng, đem trả lại thì không chút sứt mẻ”. Lưu Thái Bảo chết điếng, toàn thân lạnh buốt, nói không ra hơi. Đắc Lộc bèn dặn y:

“Được rồi! Hai vợ chồng cứ yên tâm ăn tết đi ! Đừng lo chuyện không đâu nữa. Sang năm tìm nhà chuyển đi, ta sẽ cho các ngươi tiền thuê phòng, mua đồ dùng!”. Lưu Thái Bảo đỏ mặt nói:

“Ngươi đừng chửi ta, bây giờ đã như vậy, ta xin ngươi một chuyện, ta vì thanh bảo kiếm này không dễ dàng, nếu ta không bức bách thì con mẹ nó, hiệp khách có khi cũng không trả bảo kiếm lại đâu. Bây giờ xin ngươi cầm bảo kiếm ra cho ta xem xem!”. Đắc Lộc nói:

“Ngươi nghi y trả kiếm giả à ? Sáng sớm hôm nay phát hiện ra, lúc đó Bối lặc gia vẫn chưa vào triều, lập tức xem xem thử qua, không sai chút nào”. Lưu Thái Bảo xua tay nói:

“Không phải ta nói giả, ta muốn mở rộng tầm mắt, vất vả hơn một tháng, như nay bảo kiếm tự bay về, lại không cho ta xem sao?”. Đắc Lộc gật đầu nói:

“Được rồi! Nhưng Bối lặc gia hiện vẫn chưa tan triều, bảo kiếm ở đó, không ai dám đụng vào, chờ Bối lặc gia về, ta sẽ xin cho ngươi, ta nghĩ Bối lặc gia không lẽ nào không đồng ý”. Lưu Thái Bảo ngẩn ra một lúc, bèn gật đầu nói “Được !”. Đắc Lộc cầm quà vào phòng trực. Lưu Thái Bảo thất vọng ê chề, đi ra khỏi phủ, vốn muốn về nhà ngủ luôn cả ngày nhưng cảm thấy ngay cả gặp vợ cũng thấy mất mặt. Y chợt nghĩ ra chuyện này không thể kết thúc như vậy, gian tặc trả lại bảo kiếm, nhưng chúng lòng lo chí nhụt, Lưu Thái Bảo mình phải thừa thắng tiến công. Được! Đi tìm Du Tú Liên, không nói tới chuyện bảo kiếm nữa, nhưng phải bắt được con hồ ly nhỏ đó mới lấy lại thể diện của Nhất đóa liên hoa ta.

Rồi đó Lưu Thái Bảo vội vã đi về phía Đông Tây bài lâu, lúc ấy sắp đến chính ngọ. Y đi tới trước cổng nhà họ Đức ở Tam điều Hồ đồng, thấy hai cánh cửa đóng kín, bèn bước lên gõ cửa. Cánh cổng mở ra, người đi ra là Phước Tử đánh xe. Lưu Thái Bảo nói:

“Ngươi biết ta không?”. Phước Tử gật đầu, cười nói:

“Tôi biết, người là Lưu gia, người muốn tìm lão gia chúng tôi phải không?”. Lưu Thái Bảo nói:

“Lão gia các ngươi không gặp cũng không sao, người ta tìm là Du cô nương trú ở đây”. Phước Tử nói:

“Du cô nương đi rồi!

Người không biết sao ?”. Lưu Thái Bảo giật mình vội hỏi:

“Đi lúc nào?”. Phước Tử nói:

“Mới đi, đại khái lúc hơn chin giờ. Sau khi cô ta đi, Tam tiểu thư Ngọc phủ sai người đem lễ vật tới nhưng không gặp phải đem về rồi”. Lưu Thái Bảo ngẩn ra nói “Có chuyện gì mà đi gấp thế? Trong nhà cô ta lại không có đàn ông !”. Phước Tử cười cười. Lưu Thái Bảo lại hỏi “Đức Ngũ gia có nhà không? Ta muốn gặp y!”. Phước Tử nói “Mời người ngồi một lát, tôi vào xem xem”. Lưu Thái Bảo bước mau vào, Phước Tử đóng cổng lớn lại, đi vào cổng thứ hai. Lúc này Lưu Thái Bảo chỉ đứng trong cổng, trong lòng rất buồn bã.

Trong chốc lát, Phước Tử lại đi ra, nói:

“Ngũ gia chúng tôi có lời mời!”. Lưu Thái Bảo càng không vui, thầm nhủ:[Audio] Côn Luân Ma Chủ (dịch)

“Con người Đức Ngũ nhàn nhã, cũng ra vẻ quá”. Phước Tử dẫn y vào thư phòng, Đức Khiếu Phong đứng lên chắp tay đón, Lưu Thái Bảo cũng chắp tay cười hỏi:

“Hiện hàng ngày Ngũ ca làm gì?”. Đức Khiếu Phong cười theo rồi khẽ thở dài nói:

“Rất buồn chán, chẳng qua chỉ đọc sách, tập viết chữ, như học trò mới vào trường”, rồi mời Lưu Thái Bảo ngồi, tự rót trà mời. Lò sưởi trong phòng rất ấm, trên bàn chồng rất nhiều sách vở. Đức Khiếu Phong mặc áo dài bằng sợi dệt rũ tua, mặt rất mập, từ khi để râu càng hiện rõ dáng vẻ phúc hậu. Y cầm ống điếu hỏi nhỏ:

“Thanh bảo kiếm trong phủ đã trả về rồi chứ?”. Lưu Thái Bảo giật mình, vội làm ra vẻ tươi cười nói “Sao Ngũ ca biết sớm vậy?”. Đức Khiếu Phong nói:

“Ta nghe Du cô nương nói, sáng sớm hôm nay cô ta đi rồi. Lúc sắp đi có nhờ ta sai người nói với ngươi là đêm qua bảo kiếm đã trả cho Thiết phủ. Nhưng tôi tớ chỗ ta không được rảnh, lại nghĩ ngươi hàng ngày ở trong phủ, nếu bảo kiếm bỗng nhiên trả lại lẽ nào ngươi không hay không biết. Vì vậy ta còn chưa đi báo cho ngươi biết thì ngươi đã tới rồi”.

Lưu Thái Bảo ngầm thở dài, trong bụng hậm hực nghĩ “Hay cho Du Tú Liên! Ngươi vẫn coi thường ta, bảo kiếm đêm qua đã trả về phủ rồi, ngươi tuyệt không phải không biết nhưng cứ muốn giấu ta, nói cái gì đêm nay mới có thể trả lại !”. Đức Khiếu Phong lại khẽ nói:

“Có một chuyện bí mật, ta nói cho ngươi biết, nhưng tuyệt đối ngươi không được nói cho ai biết”. Lưu Thái Bảo trợn mắt nói:

“Cô ta cũng chưa nói rõ với ta, đây chẳng qua là ta đoán. Vì mấy năm trước ở Bắc Kinh Lý Mộ Bạch giết chết Hoàng Ký Bắc, y gây án ở Bắc Kinh nên không dám đánh bạo tới đây. Như nay theo ta đoán, Du Tú Liên lần này tới chỉ là vì nghe ngóng phong phanh. Lý Mộ Bạch lúc này có lẽ trú ở huyện Cự Lộc, Tú Liên tới Bắc Kinh mấy hôm nay, cô ta thấy người trong kinh đã không còn chú ý tới chuyện Lý Mộ Bạch trước đây nữa, vì vậy bất luận là ai giữ cô ta ăn tết ở đây, cô ta cũng nhất định muốn đi. Chắc cô ta muốn quay về Cự Lộc ngay, đem tình hình kinh thành gần đây nói cho Lý Mộ Bạch biết, sau đó hai người họ vui vẻ cùng tới đây. Lão đệ cứ đợi đi! Không phải năm ngoái ngươi đã muốn gặp Lý Mộ Bạch sao? Đợi y tới, ta nhất định sẽ giới thiệu hai người các ngươi”.

Lưu Thái Bảo nghe thấy bất giác cười nói:

“Hà hà, nói thế thì Lý Mộ Bạch và Du Tú Liên sắp kết đôi rồi!”. Đức Khiếu Phong nói:

“Vẫn chưa tới mức ấy, hai người bọn họ tính tình đều cổ quái. Mộ Bạch là người rất cổ hủ, e rằng y vẫn không phải không muốn. Nhưng ta cũng mong hai người họ thành thân, sau đó ta bỏ ra chút sức lực, giải quyết cho xong chuyện quan ty của Lý Mộ Bạch, để hai người họ trú ngụ lâu dài ở Bắc Kinh, khỏi năm này tháng nọ phiêu bạt trên giang hồ”. Lưu Thái Bảo nói:

“Ngũ ca đối với bằng hữu rất nồng hậu, không lạ gì có người nói Ngũ ca là Mạnh Thường quân đời nay!”. Đức Khiếu Phong than:

“Nếu giàu có như Mạnh Thường quân ta cũng không nhìn các bằng hữu phiêu lưu bôn tẩu. Như lão đệ đây uổng mang một thân võ nghệ, nay làm sư phó dạy võ nhàn tản thế này, há không phải là rơi rụng sao!”.

Lưu Thái Bảo đỏ mặt, ngẩn ra một lúc rồi khẽ hỏi:

“Ngũ ca, huynh đệ còn phải hỏi thăm chút chuyện, hôm qua Du Tú Liên đã nói với tôi, cô ta đã gặp tên gian tặc trộm kiếm đó. Cô ta hoàn toàn biết lai lịch căn nguyên của y nhưng vẫn không nói cho tôi biết người đó là ai, có lẽ cô ta không yên tâm về ta, vì tôi và cô ta giao tình rất cạn. Nhưng chắc cô ta không đến nỗi giấu Ngũ ca chứ ? Xin Ngũ ca cho tôi biết tên gian tặc đó là ai, để ta bớt buồn bực trong lòng. Tôi chẳng phải quan chẳng phải lại, trong tay không có thẻ hỏa tốc, trong người không có lệnh tập mã, ta biết y là ai cũng quyết không dám bắt. Nếu y không chê, tôi còn hứa sẽ kết bạn với y nữa!”. Đức Khiếu Phong lắc đầu nói:

“Quả thật ta cũng không biết, nếu không ta nói cho ngươi làm gì, ta đã nói chuyện Lý Mộ Bạch sắp tới kinh rồi. Nhưng theo ta người trộm kiếm đó nhất định là nhân vật phi thường, võ nghệ không kém hai người Lý Du, cũng quyết không phải là đạo tặc. Y lấy bảo kiếm đi chẳng qua là một kiểu đùa!”. Lưu Thái Bảo bĩu môi nói:

“Hay đấy! Kiểu đùa này của y khiến danh tiếng của Lưu Thái Bảo ta cơ hồ kết thúc. Được rồi, Ngũ ca, hẹn gặp lại”. Y đứng dậy chắp tay cáo từ, Đức Khiếu Phong tiễn y ra cổng. Lưu Thái Bảo rời Tam điều Hồ đồng thẳng ra Tiền Môn, trước tiên tới Thái Hưng tiêu điếm tìm Tôn Chính Lễ, vết thương của Tôn Chính Lễ tuy chưa khỏi nhưng ăn uống vẫn bình thường, chuyện Bích nhãn hồ ly đã chết, bảo kiếm đã trả về Thiết phủ, y đều biết hết, vì sáng nay lúc Du Tú Liên sắp đi đã tới chỗ y. Y vẫn còn rất bực tức nói “Tiểu Lưu, ngươi chờ vết thương của ta khỏi, chúng ta làm tiếp! Sư muội ta đã tha con hồ ly nhỏ, nhưng chúng ta không tha được!”.

Lưu Thái Bảo lại tới Toàn Hưng tiêu điếm thăm Dương Kiện Đường và Lương Thất. Thương thế của Lương Thất tuy khá nặng nhưng cũng không nguy hiểm đến tính mạng. Bọn họ ở đó cũng không sao hiểu được hành động của Du Tú Liên, Lưu Thái Bảo cũng không nói. Khoảng hơn bốn giờ chiều, Lưu Thái Bảo mới vào thành. Trong lòng y vẫn buồn bực, có một khối giận trong cổ họng nuốt mãi không trôi.

Tới Bắc thành, sắp rẽ qua Cổ Lâu y chợt quay lại, thấy phía sau có một gã ăn mày, Lưu Thái Bảo tức giận định quay lại đánh, nhưng lại thấy tiểu khất cái đứng lại trước một cửa hiệu nài nỉ xin cơm. Lưu Thái Bảo lại nghĩ “Mình đánh tên tiểu khất cái làm gì? Con mẹ nó, võ nghệ không cao, bị người lừa gạt, mình không cố lên lại trút giận vào một tên tiểu khất cái thì có gì là anh hùng ?” Vừa đi vừa thầm thở dài.

Bỗng nhiên đối diện có một người gọi “Lưu Thái gia!”. Lưu Thái Bảo ngẩng nhìn thì lại là một tên lưu manh ở Bắc thành, vai vác một chuỗi tiền, dường như đang tới sòng bạc. Y kéo Lưu Thái Bảo qua một bên hỏi nhỏ “Sao rồi? Lưu gia mấy ngày nay chắc rất bận, Bích nhãn hồ ly đã chết, con hồ ly nhỏ ra sao?”.

Lưu Thái Bảo ưỡn ngực nói:

“Mọi chuyện đã sắp giải quyết xong, bảo kiếm đã được ta Toàn Hưng hồi giao lại cho Thiết phủ. Con hồ ly nhỏ thì ta cho ăn tết, qua năm mới bắt y quy án!”, nói xong ngẩng đầu cười lớn bỏ đi. Nhưng trong lòng y lại rất xấu hổ, thầm nghĩ:

“Nhét trống vào bụng giả ra vẻ mập thế này không được lâu, trước sau gì cũng vỡ lở ra cả Bắc Kinh không ai không biết, Nhất đóa liên hoa mình trước sau gì cũng bị coi là vô dụng. Lúc đó mình còn mặt mũi nào mà dạy quyền ? Còn mặt mũi nào mà gặp ai?”.

Lưu Thái Bảo uể oải rã rời đi vào phủ Thiết tiểu Bối lặc, ngẩng đầu đi tìm Đắc Lộc, hỏi “Thế nào? Nói với Bối lặc gia, cho ta xem bảo kiếm đi !”. Đắc Lộc nói:

“Vừa rồi ta đã xin giùm ngươi, lão gia nói được, còn bảo ngươi tới gặp, cần dặn dò nguơi!”. Lưu Thái Bảo nghe thế cũng không kìm được ngẩn ra, bèn nói:

“Được rồi! Xin đại ca hỏi giùm ra một tiếng xem nếu hiện giờ lão gia đang rỗi thì ta tới gặp!”. Đắc Lộc nói:

“Ngươi chờ ở đây”.

Liền đó Lưu Thái Bảo bèn cài cúc áo lại, phủi phủi áo dài đứng yên lặng dưới hành lang. Giây lát Đắc Lộc gọi y vào. Thiết tiểu Bối lặc mặc thường phục đang ngồi trên ghế uống trà. Lưu Thái Bảo bước vào hành lễ, Thiết tiểu Bối lặc gật đầu cười mỉm, hỏi:

“Chuyện bảo kiếm vừa được người ta đem trả lại, ngươi đã biết chưa ?”. Lưu Thái Bảo đỏ mặt gật đầu nói:

“Tiểu nhân đã biết”, Thiết tiểu Bối lặc lại nói:

“Chuyện này ngươi ra sức không ít, nhưng ngươi làm việc quá hấp tấp nên đắc tội với Ngọc Chính đường! Gần đây y cáo bệnh từ quan, nhưng ta khuyên y không nên. Vì ngươi là người ta dừng ở đây, ngươi đứng trước cổng thóa mạ y, còn rêu rao rằng trong phủ y giấu cường đạo, vì thế y mới từ quan, điều đó tỏ rõ là ta đối không phải với y. Y và bản phủ có giao tình nhiều năm, lại là một vị quan trung thực, ở Tân Cương cũng đã lập được không ít công lao nơi biên giới. Nếu ta ung dung để một sư phó dạy võ bức một vị Đề đốc Chính đường từ chức, cũng khó tránh khỏi khiến người ta nói ta quản thúc không nghiêm, dung túng người nhà, bắt nạt sỉ nhục quan phủ”. Lưu Thái Bảo định biện bạch, Thiết tiểu Bối lặc lại nói:

“Ta thưởng ngươi năm mươi lượng bạc, ngươi hãy đi khỏi phủ này! Ta biết võ nghệ của ngươi rất cao, ở đây cũng khuất tất cho ngươi, hay là ngươi đi bảo tiêu, hoặc đầy quân làm lính, tương lai mới có chỗ xuất thân!”.

Thiết tiểu Bối lặc nói mấy câu này, lời lẽ rất ôn hòa, còn lộ ra một tình cảm tiếc nuối người tài. Lưu Thái Bảo ưỡn ngực nói:

“Bối lặc gia bất tất phải nói !

Tôi hiểu rồi ! Được Bối lặc gia trọng dụng cho tôi ở trong phủ hơn một năm, hồng ân này Lưu Thái Bảo tôi có mất đầu cũng không thể báo đáp!”. Đắc Lộc đứng bên nhìn y cũng nháy mắt ra hiệu bảo y đừng nói những câu lỗ mãng ấy, nhưng Lưu Thái Bảo làm như không thấy, chi phẫn khái nói:

“Chỉ vì tôi ở trong phủ ăn không hơn một năm nay, tự thấy xấu hổ ngại ngùng, mới nghĩ phải cố tìm bảo kiếm lập công ! Nhưng không ngờ võ nghệ không cao, thủ đoạn ngốc nghếch, đến nỗi hỏng chuyện. Cho nên Bối lặc gia không đuổi, tôi cũng không còn mặt mũi nào làm nữa ! Hơn nữa Đề đốc Chính đường Ngọc đại nhân với tôi xưa chẳng oán nay không thù, y là đại quan quản hạt binh mã Cửu Môn, tôi là thảo dân, gan có to bằng trời cũng không dám bắt nạt y! Ôi! Chuyện đã như vậy, tôi cũng không dám nói nhiều khiến Bối lặc gia tức giận, tôi sẽ đi. Xin Bối lặc gia nói lại với Ngọc Chính đường, sau này y cũng bất tất chấp nhất hạng thảo dân như tôi. Còn Bối lặc gia thưởng năm mươi lượng bạc đó, tôi không dám không nhận, nhưng xin Bối lặc gia Toàn Hưng hồi lệnh lại, vì nếu thiếu tiền thì tôi biết bảo tiêu, vợ tôi biết mãi võ, tới đâu cũng sống được, không nên được thưởng, tôi nhận cũng chỉ thêm hư hỏng. Được rồi! Mời lão gia cứ uống trà! Tôi đi đây! Vài năm nữa Lưu Thái Bảo tôi sẽ đem tính mạng báo đáp hồng ân của lão gia!”, nói xong y vái dài thỉnh an rồi quay người đi ra, mặt tái nhợt.

Đắc Lộc đuổi theo y, khẽ nói:

“Ngươi điên rồi à? Ai dám nói như vậy trước mặt lão gia, ngươi không thấy sau đó dáng vẻ lão gia rất giận sao? Vốn đây cũng hoàn toàn do Ngọc Chính đường cho ngươi là có ý xấu, thật ra vừa rồi ngươi nên cầu xin lão gia, lão gia cũng sẽ giữ ngươi lại, hoặc giới thiệu ngươi tới nơi khác!”. Lưu Thái Bảo quay lại nhe răng cười nói :”Lộc đại ca vẫn chưa biết tính nết loại người như bọn ta, có chém đầu chặt lưng cũng đi!”. Đắc Lộc nói “Vậy ngươi không muốn xem bảo kiếm nữa sao?”. Lưu Thái Bảo gượng, nói:

“Còn xem gì nữa ! Lão ca đừng chọc ghẹo ta, hôm nay bọn ta sẽ chuyển nhà, lòng tốt của lão ca, ta quyết không quên!”. Đắc Lộc kéo y lại nói:

“Ngươi khoan chuyển đi, cố ở lại vài năm cũng không sao!”, rồi khẽ nói:

“Tối nay ngươi đi tìm Đức Ngũ gia đi, nhờ y nghĩ cách khác cho ngươi”. Lưu Thái Bảo xua tay nói:

“Thôi, ta mới từ nhà y tới đây, bọn ta giờ đã thất bại, đã mất chén cơm, còn tới làm phiền bằng hữu à?”. Đắc Lộc xua tay nói:

“Không phải! Ngươi nên tìm việc khác, tốt nhất là nhờ Đức Ngũ gia giới thiệu ngươi tới dạy võ cho nhà Khâu Quảng Siêu.Có mặt ở môn phủ, Ngọc Chính đường không đến nỗi làm gì ngươi, nếu không thế làm sao ngươi ở lại kinh thành được?”. Lưu Thái Bảo nghe câu này liền đổi sắc mặt cười nhạt nói:

“Cái gì? Ngọc Chính đường có thể trừ khử ta ư? Được! Đại quan ngồi kiệu tám người khiêng, tiểu tử ta chỉ có một cái mạng. Ta đã ngậm chặt miệng giấu cho y rất nhiều chuyện, nếu y thật sự bức ép ta, ta đây sẽ phải …ha ha! Lộc gia cứ an tâm, ta không chuyển đi, ta cũng quyết định nhịn nhục, nhưng tương lai …Lộc gia sẽ biết thôi! Nếu Lưu Thái Bảo ta ra mặt ở kinh thành, thì Ngọc Chính đường y sẽ mất mặt! Hẹn gặp lại, gặp lại!”.

Y chắp tay chào rồi ra cổng, cố nhịn cơn giận đầy ruột về nhà gặp Tương Muội. Tương Muội đang bò ra giường là quần áo, vừa thấy y về, vội xuống giường nói:

“Ái cha, trời chắc không còn sớm nữa! Ta mãi lo quần áo nên quên làm cơm rồi !”. Lưu Thái Bảo cố tươi cười nói:

“Còn làm cơm làm gì, bát cơm bị bể rồi!”. Tương Muội ngẩn ra rồi cười nói:

“Tối qua ngươi chỉ ném bình trà, đâu có ném bát ăn cơm! Ngươi thật thất đức !”. Lưu Thái Bảo nghiêm trang nói:

“Là chuyện thật đấy ! Con mẹ nó, Ngọc Chính đường đã đập bể bát cơm của ta, sắp tới có lẽ còn muốn cái mạng của ta!”. Y tức tối kể lại chuyện hôm nay và mấy câu vừa rồi của Thiết tiểu Bối lặc.

Thái Tương Muội vừa nghe bèn khóc nói:

“Sao ngươi ngây thơ vậy? Lúc Thiết Bối lặc đuổi ngươi, ngươi không biết đem chuyện Bích nhãn hồ ly chết trong Ngọc phủ ra nói với y!”. Lưu Thái Bảo cười nhạt:

“Trong nhà người ta có người chết, nói là bạo bệnh là có thể tiêu tang diệt tích, một hai câu nói của chúng ta có thể đào mộ mở quan tài kiểm nghiệm tử thi sao? Hơn nữa chúng ta là ai? Thiết tiểu Bối lặc vì chúng ta mà đắc tội với Ngọc Chính đường ư ?”.

Tương Muội lau nước mắt nói:

“Ngươi không phải đã nói là Thiết tiểu Bối lặc xưa nay rất thích những người biết võ nghệ sao?”. Lưu Thái Bảo nói:

“Người biết võ nghệ đâu phải ai cũng có cơ duyên ? Lý Mộ Bạch thì được, chứ Lưu Thái Bảo ta đâu có thể diện gì lớn đâu! Hiện ta không thận Thiết Bối lặc, đừng nói ta còn lấy danh nghĩa sư phó dạy quyền để huênh hoang bên ngoài, cho dù không huênh hoang cũng nên từ chức, vì ta ở trong phủ chỉ ăn không. Người ta hận chỉ là Ngọc Chính đường, ta giữ thể diện cho y nhưng y không cho ta đường sống!”. Thái Tương Muội nhảy lên nói:

“Ai bảo ngươi giữ thể diện cho y, chúng ta không biết đem chuyện Bích nhãn hồ ly chết trong nhà y, con hồ ly nhỏ vẫn đang ẩn náu trong nhà y nói ra khắp nơi sao!”. Lưu Thái Bảo gật đầu nói:

“Từ nay trở đi, chúng ta tự đi vạch trần họ. Nhưng phải chuyển nhà trước, đừng để liên lụy đến Đắc Lộc! Ta định ngày mai sẽ chuyển tới Toàn Hưng tiêu điếm. Thứ hai, chúng ta phải chuẩn bị một ít ám khí, chỉ có phi tiêu thì không đủ, còn phải mua cung bắn đạn vì tai con hồ ly nhỏ đó rất thính, chỉ cần chúng ta ở đồn ra chuyện của nhà y, y sẽ biết. Ngọc Chính đường cũng chưa chắc bắt được chúng ta, nhưng đến giữa khuya y nhất định lại tới …”. Thái Tương Muội hừ một tiếng nói:

“Ngươi chắc lại sợ rồi ! Lại nhũn ra rồi! Ngươi không cần lo, cứ nhịn nhục ở trong nhà, ngày mai ta đi giành lại thể diện cho ngươi !”. Lưu Thái Bảo cười nói:

“Nếu ta để vợ giành lại thể diện thì Lưu Thái Bảo ta thôi rồi!”, rồi cười nhạt nói:

“Đừng sợ, cũng đừng gấp, việc ăn uống tạm thời chúng ta vẫn chưa đến nỗi, lúc nào hết tiền chúng ta lại tới trước cổng Ngọc phủ mãi võ. Ngày mai chuyển nhà trước, chuyển nhà xong mua thịt ăn tết, từ từ hãy suy nghĩ tìm diệu kế. Hiện Lưu Thái Bảo ta đã ngã rồi, nhưng nếu ta không bò lên được, không nhảy cao được nữa thì ta đã uổng mười năm đi lại giang hồ!”, nói xong cầm hũ rượu trên bàn lên uống với thức ăn bữa trưa còn lại, lúc chợt mắng lớn, lúc chợt cười nhạt, giống như người khùng.

Thái Tương Muội ở bên cạnh tức giận nhưng chỉ rơi nước mắt, cơm tối qua loa xong cũng không có ai tới. Dường như người khác đều đã biết Lưu Thái Bảo đang thất nghiệp, không ai thèm để ý tới y nữa! Lưu Thái Bảo uống say rồi lên giường ngủ. Thái Tương Muội rửa mâm bát xong, thắp đèn dầu, ngồi bên mép giường may áo mới. Áo mới này là để chuẩn bị mặc ăn tết, cũng là chuẩn bị ganh đua với nàng dâu nhà họ Trương láng giềng. Ban ngày cắt xong, vui vẻ chuẩn bị để tối may, nhưng như hôm nay hoàn toàn mất hứng, tay cầm kim lại uể oải, trong ngực như có vật gì chặn ngang, nỗi giận này nếu không xả ra thật khó mà chịu được.

Lưu Thái Bảo ngáy phì phò phì phò ngủ một lúc, chợt mở mắt ra nói:

“Rốt cuộc là cầu người không được. Du Tú Liên thông đồng với con hồ ly nhỏ, con hồ ly già còn chưa chắc đã chết chưa. Hôm nay lúc ta tới nhà họ Đức, nghe họ nói sau khi Du Tú Liên đi hôm nay, liền đó Tam tiểu thư của Ngọc phủ sai người đem quà tặng thị. Đủ thấy Du Tú Liên xu phụ quyền thế, tới đây không đầy mười ngày đã có giao tình với tiểu thư Ngọc phủ. Thị làm sao bắt người của Ngọc phủ được? Chúng ta bị lừa rồi!”. Thái Tương Muội cũng rất phẫn hận, cầm kim ngẩn ra, chỉ chau mày nói “Ngươi ngủ đi!”. Lưu Thái Bảo giận đùng đùng lại chửi “Con mẹ nó …”, xoay người thộn ra một lúc lại phì phò phì phò thiếp đi. Trong phòng hơi rượu nồng nặc, vừa vôi vừa cay. Trong lòng Thái Tương Muội thì vừa đau đớn vừa chua xót. Khâu vá xong, dầu trong đèn sắp cạn, Thái Tương Muội ngầm nai nịt gọn ghẽ, giắt vào người ba mũi phi tiêu, một thanh đoản đao, kế kéo chăn bông đắp cho Lưu Thái Bảo. Nàng tìm ổ khóa, nhẹ nhàng thổi tắt đèn, ra khỏi phòng, nhẹ khóa cửa lại. Lúc ấy còn hai ngày nữa là giao thừa, trời rất tối, vô số sao bạc, gió bấc tuy vẫn còn mạnh, nhưng đã có chút ý xuân.

Tương Muội chỉ mặc quần vải xanh, áo hai lớp vải xanh, ngoài khoác một cái áo bông ngắn tay mỏng rất nhỏ có túi đựng phi tiêu. Nàng đổi búi tóc, che một tấm vải the xanh, chân mang tất xanh hài xanh, chạy như bay dọc theo tường thành, nghe tiếng báo canh đã qua canh ba. Nàng như một con mèo bò lên trên cổng Ngọc phủ. Lúc ấy cổng đóng chặt, trong ngoài không có tiếng động gì. Thái Tương Muội ngồi dưới đất thay một đôi hài mềm đế bông cũng màu xanh, sau đó phi thân lên nóc phủ như đang đi dây, nhẹ nhàng đạp trên mái ngói đi về phía viện sau. Chỉ thấy trước viện mấy gian phòng còn có ánh đèn, sau viện lại tối om, không thấy rõ trong mấy gian phòng đó là ai ở. Nàng bèn nằm im trên nóc nhà một lúc, sau đó nhè nhẹ theo cột hành lang bò xuống. Chân vẫn giữ thăng bằng, ngồi xổm trước cửa sổ gian phòng phía bắc, thận trọng nghe ngóng phía trong. Chỉ nghe trong phòng có tiếng quả lắc đồng hồ tích tắc tích tắc vang lên, nhưng không nghe tiếng cười thở và nói mơ. Thái Tương Muội khom người tới trước cửa sổ, nguyên trên cửa có khóa, mới hiểu trong căn phòng này không có người ở, bèn quay lại vẫn lom khom đi vào một cái cửa nhỏ, lại là một lớp lạc viện, viện này to hơn viện phía trước. Nàng khom người đi tới gian phòng có tiếng mèo kêu meo một tiếng, Thái Tương Muội ngồi xổm, không dám động đậy.

Chờ một lúc lâu, nghe trong phòng không có tiếng động gì, nàng quay lại từ từ đứng dậy, nắm song cửa sổ, từ khe hở nhìn vào, thấy bên trong còn có màn cửa sổ. Ánh đèn trong phòng tuy sáng nhưng từ bên ngoài nhìn vào cũng không thấy gì. Thái Tương Muội lấy can đảm đứng phắt dậy vút đao ra, đang định nảy cửa, không ngờ lúc ấy ở viện trước có người nói to:

“Kiểm tra trên nóc nhà đi, có lẽ chạy tới sau viện rồi!”, rồi một tràng bước chân rầm rập vang lên như có rất nhiều người chạy tới. Thái Tương Muội hoảng sợ, vội bám cột hành lang trèo lên nóc nhà, chỉ thấy ánh đèn viện ngoài rực sáng, nhưng gian phòng phía nam vừa rồi có người thắp đèn thì ánh đèn chợt tắt phụt ! Thái Tương Muội tự nhủ “Không xong!”, rồi đứng bật dậy trên nóc nhà bỏ chạy. Nhưng lúc bấy giờ tiếng “Bắt gian tặc” từ bốn phía đã vang lên, ánh đèn lấp loáng, đao kiếm loảng xoảng, trên nóc nhà đều có người. Thái Tương Muội thấy không còn đường thoát, vội rút một mũi cương tiêu ra, nằm phục xuống bất động. Lúc ấy có mấy mươi viên sai quan và tôi tớ đã vào viện, nói với nhau:

“Đừng làm kinh động phu nhân và tiểu thư !”, có người cầm sào dài treo một ngọn đèn lồng xoay xoay rọi lên nóc nhà, Thái Tương Muội phóng phi tiêu đánh tắt ngọn đèn, người phía dưới giật mình kinh hãi, cùng lùi lại nói:

“Ở trên nóc phủ, coi chừng phi tiêu của y! ….”, lại có người la to:

“Gian tặc trên nóc phủ đừng phóng phi tiêu, xuống đi, bọn ta sẽ thả ngươi đi!”. Thái Tương Muội hai tay đều cầm tiêu, đứng trên nóc phủ, nhìn xuống nói to:

“Quân vô lại! Xem các ngươi ai dám lên nóc phủ? Ta không phải muốn ăn trộm của các ngươi, ta chỉ muốn gặp Ngọc Chính đường …”, nói tới đó chợt thấy chân phải đau nhói như bị rắn mổ một cái. Nàng đứng không vững, lập tức lăn lông lốc xuống dưới, ngã xoải ra đất. Đang gượng đau bò dậy, mấy người đầy tớ lực lưỡng đã đè nàng xuống, có người nói “Là nữ tặc!”. Thái Tương Muội cắn răng vùng vẫy, nhổ nước bọt nói “Buông ta ra!”, một chân phóng ra đá trúng mắt cá chân một người, người đó ái chà một tiếng, xoa mắt cá chân nhảy qua một bên. Thái Tương Muội hai chân đá loạn ra, nhưng cánh tay và toàn thân đều bị họ dùng sức đè xuống, có người cầm thừng tới trói nàng lại. Tương Muội òa lên khóc, nói:

“Các ngươi giết chết ta đi! Để tất cả gia đình họ Ngọc các ngươi đều chết không toàn thây! Ngọc Chính đường, quân rùa đen nhà ngươi! Trong nhà chứa gian tặc giết chết cha ta, còn làm mất mặt chồng ta, khiến phủ Bối lặc đuổi y! Lão rùa đen, ngươi ra đây gặp ta! ….”.

Nàng như một con sói cái, tuy bị trói chặt vẫn điên cuồng gầm thét, vẫn muốn cắn người!

Lúc bấy giờ mấy viên sai quan và tôi tớ giữ chặt nàng đều kinh ngạc nói:

“Đây không phải là cô gái đi dây sao?”. Thái Tương Muội phun nước bọt chửi:

“Con mẹ ngươi! Các ngươi đã nhận ra thì mau thả ta ra! Ta là con gái Thái Ban đầu, Lưu Thái Bảo là chồng ta, trong nhà các ngươi có Bích nhãn hồ ly, Du Tú Liên đã điều tra ra nguồn gốc của các ngươi! …. Chúng ta sẽ kiện, kiện họ Ngọc, Ngọc Chính đường lão vô lại nhà ngươi mau bỏ mão quan ra mà đi hầu kiện!”.

Lúc ấy đèn trong các phòng đều thắp sáng lên. Tiểu thư ở phòng phía tây dẫn hai a hoàn ra, sai a hoàn nói với đám đầy tớ nói “Thả cô ta ra !”, rồi nói:

“Ngươi đừng chửi, có gì từ từ nói!”. Đám đầy tớ và sai quan nghe lời tiểu thư đều lùi lại. Tay chân của Thái Tương Muội đều bị trói, nàng ngẩng đầu lên, dưới ánh đèn thấy tiểu thư Ngọc Kiều Long mặc áo dài hoa Bát kỳ, mang hài đế cao, cũng bất giác hơi xấu hổ, bèn nói:

“Tiểu thư, tiểu thư bảo họ mau thả ta ra, ta không phải là gian tặc, ta tìm cha cô đòi lẽ phải!”. Ngọc Kiều Long không đếm xỉa gì tới nàng, sai a hoàn mở cửa phòng phía bắc chỗ mẹ ở bước vào đó.

Lúc này Ngọc đại nhân cũng đã dậy, có bốn viên sai quan cầm đao bảo vệ. Y đứng dưới hành lang, tức giận rung cả râu, lớn tiếng quát:

“Khiêng gian tặc ra viện trước, ta muốn thẩm vấn!”. Thái Tương Muội chửi:

“Ngươi muốn thẩm vấn ta à? Ta đang muốn thẩm vấn ngươi đây! Trong nhà các ngươi có nuôi gian tặc, gian tặc bị thương chết thì giả nói là bạo bệnh, bọn ta sẽ đi kiện! Chồng ta có chứng cứ về chuyện của các ngươi! Lão khốn nạn …!. Ngọc đại nhân giận dữ giậm chân quát “Đánh!”. Thái Tương Muội khóc nói “Đánh đi! Đánh chết ta còn có chồng ta, đánh chết chồng ta còn có Dương Kiện Đường, Du Tú Liên, Lý Mộ Bạch …”. Lúc ấy một viên sai quan cầm roi da bước tới định đánh, nhưng Ngọc phu nhân dẫn hai bộc phụ ra, liên tiếp xua tay nói:

“Muốn đánh cô ta thì mang tới nha môn mà đánh, nhà chúng ta không phải chỗ dụng hình. Mời lão gia vào trong phòng nghỉ ngơi, không nên la thét!”. Viên sai quan và đám đầy tớ đều lùi lại, Thái Tương Muội nằm đó khóc lớn. Ngọc Chính đường tức giận hừ hừ cũng không kìm được thở hổn hển, theo phu nhân vào phòng phía bắc. Trong phòng phía bắc vợ chồng Ngọc Chính đường đại khái suy tính hồi lâu, lát sau Ngọc đại nhân lại trở ra thở dài sườn sượt nói:

“Ra viện trước đi!”, lập tức tôi tớ xếp thành hàng, viên sai quan bảo vệ Ngọc đại nhân, đều im lặng theo hàng lang ra viện trước. Trong này chỉ còn lại hai cái đèn lồng, bốn người canh giữ cũng đều đứng cách rất xa chỗ Thái Tương Muội nằm.

Tiểu thư Ngọc Kiều Long bèn dẫn hai bộc phụ và a hoàn từ phòng phía bắc đi ra, Ngọc Kiều Long nói:

“Cởi trói cho cô ta!”, đám bộc phụ đều không dám.

Ngọc Kiều Long nói:

“Không cần sợ, cởi trói đi, cô ta không đánh được các ngươi đâu!”. Đám bộc phụ run rẩy xuống, mất nửa ngày mới cởi hết dây trói trên tay chân Tương Muội ra.

Thái Tương Muội vẫn nằm khóc to, cũng không ngồi dậy. Ngọc Kiều Long tiểu thư bèn khom người, đích thân kéo cô một cái nói:

“Ngươi rất giỏi, ngươi đi dây trước cửa nhà ta, ta đã xem qua hai lần, ta rất mến ngươi. Hôm nay ngươi đã tới, nếu muốn nói gì thì đứng dậy theo ta vào trong phòng, chúng ta có thể từ từ nói”. Hai a hoàn cũng lên trước dìu. Tay họ đều mềm mại, hơn nữa vừa đi tới gần thì mùi thơm trên quần áo tỏa ra. Thái Tương Muội lại cảm thấy có chút dễ chịu bèn tự ngồi dậy, đang định đứng lên, nhưng thấy chân trái đau buốt, cúi đầu nhìn thì ra là một mũi tên nhỏ dài ba tất cắm vào trong thịt. Nàng cắn răng nhổ ra, liền đó máu chảy ra rất nhiều. Tương Muội đau quá khóc òa lên, cầm mũi tên cho Ngọc Kiều Long xem, nói:

“Tiểu thư thấy mũi tên này chưa? Đồ đệ của Bích nhãn hồ ly có một lần nửa khuya tới quấy nhiễu nhà bọn ta đã phóng ra mũi tên này, bây giờ còn nói gì ? Vừa rồi trong mấy người trói ta nhất định có đồ đệ của Bích nhãn hồ ly, đây không phải là chứng cứ sao?”. Ngọc Kiều Long cau mày nhìn mũi tên không nói gì, chỉ bảo hai a hoàn dìu Tương Muội vào phòng phía nam. Trong phòng phía nam lúc này đã thắp đèn, bộc phụ vừa đưa một chậu than vào. Đồ dùng bằng gỗ trong phòng đều vừa đen vừa bóng, bày rất nhiều đồ sứ cổ, đồ dùng bằng ngọc, gương treo tường cũng đều là viền trân châu và lông chim trả.

Ngọc Kiều Long chỉ một cái ghế chạm khắc rất tinh xảo nói “Ngươi ngồi đi!”. Tương Muội cúi đầu vén vạt áo ngồi xuống, lau nước mắt, vuốt vuốt đầu tóc, lại cảm thấy không nói được. Ngọc Kiều Long bảo “Uống trà đi!”, lập tức có bộc phụ đem bình trà nóng tới, người này mặc đồ rất hoa lệ, là đại a hoàn có vóc dáng đẹp nhất, rót hai chén trà, một chén đưa cho tiểu thư, một chén đặt trên khay vàng bưng tới trước mặt Tương Muội. Tương Muội ngước mặt lên, mặt ửng đỏ, đưa hai tay bưng lấy, nói:

“Không dám!”, rồi cười cười nhìn trộm Ngọc Kiều Long. Thấy Ngọc Kiều Long mới ngủ dậy chưa cài nữ trang nhưng rất chỉnh tề, không giống như nằm lăn trên gối. Thần sắc của vị tiểu thư này cũng không nghiêm khắc, chỉ hơi có dáng vẻ ưu sầu, hỏi “Ngươi tên gì?”. Thái Tương Muội nói “Ta tên Thái Tương Muội, Thái Đức Cương cha ta là Bổ đầu huyện Ninh Hội Cam Túc, cha ta bị người của các vị giết chết, ta đã lấy Lưu Thái Bảo, y là sư phó dạy quyền cho phủ Thiết Bối lặc, vì đại nhân ở đây hận y, nói xấu y với Thiết Bối lặc gia nên Bối lặc gia đã đuổi việc y! Ta mới tới gặp đại nhân, muốn nói lẽ phải!”. Ngọc Kiều Long nói:

“Ngươi nên tới ban ngày, giữa đêm khuya tới, trên người lại có binh khí, không phải giống gian tặc sao?

May mà ngươi là phụ nữ, nếu không bọn ta quyết không thể thả ngươi ra!”. Thái Tương Muội lại đảo mắt nói:

“Tiểu thư người đừng nói thế, ban ngày ta tới, không để lên gò cao trước cổng phủ, sẽ bị gia nô của các vị đánh đuổi đi! Còn có thể cho ta gặp được đại nhân, gặp được tiểu thư à! …. Ta biết đi dây thì biết lên nóc phủ. Nay ta đã tới, thì không muốn sống nữa! Tiểu thư dẫn con hồ ly nhỏ ra đi, bảo ăn thịt ta đi! Nếu không thì cứ áp giải ta tới nha môn, khép vào tội chết. Nhưng lúc ta sắp chết, ta cũng phải la thét mắng chửi! Bọn ta có bằng chứng, trong tay chồng ta và trong tay các bằng hữu y đều có bằng chứng của các vị, bọn ta biết đi kêu oan, cáo ngự trạng!”.

Ngọc Kiều Long hơi biến sắc, xua tay nói:

“Ngươi đừng vội, cứ từ từ nói!”, kế thở dài nói:

“Lời đồn ở bên ngoài mấy ngày gần đây rất nhiều”, Thái Tương Muội nói:

“Không phải lời đồn, đó đều là sự thật, đều là do hai người bọn ta la hét bên ngoài! Nếu Ngọc đại nhân không tìm cách, không đem con hồ ly nhỏ đó ra xử, bọn ta còn nói nhiều nữa! Dù sao việc sai sử của chồng ta cũng không còn, bọn ta sắp chết đói, chẳng bằng cứ để Ngọc đại nhân giết chết bọn ta!”.

Ngọc Kiều Long nói:

“Có lẽ các ngươi đã lầm tin lời người khác, nhà ta quyết không dựa vào thế lực ức hiếp ngươi. Ta cả ngày trong phòng, đừng nói bên ngoài mà ngay chuyện trong nhà, ta cũng không hiểu rõ! Nhưng nghe nói Lưu Thái Bảo chồng ngươi làm loạn rất lợi hại, y đứng trước cổng chửi mắng, phóng vào một mũi phi tiêu, một tờ giấy vẽ hình mắng người, bất kể là ai cũng không chịu nổi sự sỉ nhục như vậy! Cha ta tuổi đã cao, kìm không được tức giận, vì vậy muốn từ quan, nhưng Thiết Bối lặc lại khuyên can không cho lão nhân gia từ quan. Còn chuyện cha ta bảo Thiết Bối lặc đuổi việc chồng ngươi, điều đó quyết không thể có. Ngươi nghĩ xem, cha ta là Đề đốc Chính đường, quan chức không phải nhỏ, lão nhân gia há chịu đôi co với hạng như chồng ngươi? Vốn chồng của ngươi quấy nhiễu phủ quan như vậy, sẽ phải bắt tới nha môn trị tội, cha ta không phải xử không được, cũng chẳng phải sợ các ngươi cáo ngự trạng, chỉ vì lão nhân gia không chịu đối đầu với một người tầm thường! Vả lại lão nhân gia cũng thường áy náy tự trách. Vì tôi tớ trong nhà cũng có ba bốn chục người, khó tránh khỏi cỏ lúa lẫn lộn, những lời bên ngoài cũng không phải không có căn cứ! Vì vậy mấy ngày nay trong nhà cắt giảm rất nhiều người, và thường điều tra, nếu ai có vẻ khả nghi, bất kể nam hay nữ đều bắt tới nha môn trị tội”.

Thái Tương Muội nói:

“Tiểu thư! Tiểu thư hãy cho ta tới đây ở mấy ngày được không ? Chỉ cần làm việc như a hoàn, để ta điều tra trong phủ tiểu thư xem gian tặc là ai, thế nào ta cũng điều tra ra !”. Ngọc Kiều Long lắc đầu nói:

“Không được, trong phủ này há có thể tùy tiện cho người tới ở? Hôm nay vì mẹ ta nghe ngươi khóc rất đáng thương, mới không xử phạt tội danh của ngươi và sai ta giải thích cho ngươi, ngươi đã hiểu rồi thì về đi! Hãy dặn chồng ngươi, về sau không nên nói hồ đồ ra bên ngoài nữa, ngươi có oan khuất gì có thể tự tới nha môn cáo trạng. Trong này nếu bọn ta phát hiện ra gian tặc tự nhiên sẽ bắt xử lý”.

Đang nói, thì thấy lại có một bộc phụ từ ngòai bước vào, tới trước mặt Ngọc Kiều Long nói:

“Phu nhân dặn mời tiểu thư vào phòng nghỉ ngơi đi! Trời khuya rồi, kẻo chuyển bệnh! Vị khách này thì phu nhân muốn hỏi nhà cô ta ở đâu, phải sai người đưa cô ta về!”. Ngọc Kiều Long nhìn Thái Tương Muội hỏi “Nhà ngươi ở đâu?”. Thái Tương Muội uống một hớp trà nói:

“Ta ở Hoa Viên Đại viện trong An Định Môn”. Ngọc Kiều Long dặn bộc phụ “Bảo người lấy xe đi!”, rồi nhìn Thái Tương Muội hơi mỉm cười nói:

“Về sau nếu ngươi rảnh rỗi có thể tới tìm ta nói chuyện chơi. Mẹ ta cũng rất hiền lành, nếu bà không mến ngươi thì hôm nay đâu có khuyên cản cha ta? Lúc ngươi tới chỉ cần ăn mặc chỉnh tề một chút, tới trước cổng nói rõ ý định, họ quyết không thể cản trở ngươi”. Thái Tương Muội nghe thế cũng rất vui vẻ, đỏ mặt cúi đầu nói:

“Tiểu thư, hôm nay ta sai rồi! Ta không nên làm thế! Xin tiểu thư thỉnh tội với lão phu nhân, lão đại nhân giúp ta. Ta quá hồ đồ! Qua mấy ngày lành vết thương trên chân, ta nhất định tới phủ xin lỗi!”. Ngọc Kiều Long nói:

“Không sao! Chỉ cần ngươi hiểu trong phủ chúng ta không bao che cường đạo, cũng không phải ỷ làm quan ức hiếp người là được rồi! Sắp tới ta nhất định xin cha ta, xin lão nhân gia gặp Thiết Bối lặc nói vào cho chồng ngươi, lại gọi chồng ngươi quay lại”.

Thái Tương Muội cười nói:

“Ta thật cám ơn tiểu thư! Ta giữa khuya tới nhiễu loạn trong phủ tiểu thư, thật là đáng chết …”, nói tới đây không kìm được nước mắt rơi xuống.

Ngọc Kiều Long đứng dậy đi nghỉ, hai a hoàn cũng theo nàng đi ra, trong phòng chỉ còn lại hai bộc phụ. Tương Muội lau khô nước mắt, rồi nhìn đông ngó tây, cảm thấy người ta thật sang giàu, đại nhân phu nhân người ta thật thông tình đạt lý, tiểu thư người ta cũng rất ôn hòa không làm ra vẻ, mình thật là mạo muội, thật đáng chết! Vì vậy hận không được mau ra khỏi đây. Đợi một lúc, xe mới cột xong, vì chân phải đau không đi được, nên hai bộc phụ dìu nàng ra cổng lên xe cùng một bộc phụ.

Lúc bấy giờ trời đã qua canh tư, trên đường không có người đi lại, xe lộc cộc đi. Tương Muội nói chuyện phiếm với người bộc phụ, bà ta nói:

“Hôm nay may mà tiểu thư dậy xin với phu nhân cho ngươi, phu nhân mới cầu xin đại nhân không xử tội ngươi. Nếu không vậy nhất định đánh ngươi một trận, áp giải vào nhà giam nữ. Ngươi to gan quá! Dám nửa khuya tự vào phủ người ta, còn dám chửi mắng Ngọc đại nhân? Ai dám chửi như vậy?”. Tương Muội hổ thẹn nói:

“Được rồi, bà đừng nhắc lại nữa! Lúc đó cũng do ta hồ đồ!”, rồi nói vài chuyện trong phủ, người bộc phụ lại khuyên về sau đừng làm vậy nữa, xe đã tới đầu cổng nhà Tương Muội. Người đánh xe lên trước gõ cửa, thấy trên tường có một người chạy tới, tay cầm cương đao sáng loáng, nghiêm giọng hỏi:

“Tìm ai?”.

Người đánh xe giật mình la ối chao một tiếng. Tương Muội trong xe nói “Ngươi xuống đi! Là ta về rồi!”.

Lưu Thái Bảo nghe ra thanh âm của vợ y, mới nhảy tường xuống, nói “Cô đi đâu vậy? Ta ngủ một giấc tỉnh dậy thì chẳng thấy bóng dáng cô đâu! Đây là xe nhà ai?”. Thái Tương Muội nói “Đây là xe của Ngọc phủ, ta bị thương rồi, ngươi mau dìu ta xuống xe đi!”. Lưu Thái Bảo tức giận liền vung đao nói “Ai da! Ngọc phủ làm cô bị thương, còn phải kiệu xe đưa cô về, cũng còn rất nể mặt! Nhưng Lưu Thái Bảo ta hiện ngay cả chén cơm cũng không có, tiền đâu mà trị thương cho cô? Đi, ta đưa cô trở lại, lúc nào họ trị thương cho cô xong ta mới có thể đón cô về!”. Thái Tương Muội vội nói:

“Ngươi chớ hiểu lầm người ta, chuyện dài lắm, dìu ta vào đi, ta từ từ kể với ngươi”. Người đánh xe và bộc phụ đều nói:

“Trong phủ đã sai chúng ta đưa về, lão ca hãy mở cổng cho cô ta vào. Nếu không như vậy, chúng ta quay về lại không làm tròn phận sự”.

Lưu Thái Bảo miệng vẫn chửi, ném cương đao qua tường, sau đó y lại chạy vào mở cổng, dìu Thái Tương Muội trên xe xuống. Thái Tương Muội cảm ơn người bộc phụ đã đưa nàng về. Lưu Thái Bảo một tay đóng cổng, một tay dìu vợ y, vào tới trong phòng. Thấy vết máu trên chân Tương Muội , y không kìm được tức giận giậm chân. Tương Muội cầm mũi tên đưa cho chồng, nói:

“Không sao, vết thương không nặng, ta không què đâu, ngươi mau đun thuốc rịt cho ta”. Lưu Thái Bảo giận tái cả mặt, vừa lấy thuốc rịt, vừa hỏi Tương Muội cặn kẽ. Tinh thần của Tương Muội lúc ấy vẫn rất tốt, nàng nằm xuống vén gấu quần lên, lộ ra vết thương trên chân phải, bảo Lưu Thái Bảo rịt thuốc vào, vừa đem chuyện vừa rồi kể tường tận một lượt. Lưu Thái Bảo nghe rồi thì thầm chửi, rồi lại cười nhạt.

Thái Tương Muội nói xong, bèn hừ một tiếng, nói:

“Chuyện này ta làm thật là quá lỗ mãng. Ngươi không biết, ta nghe nói người bị oan khuất, ta rất tức giận! Ta chửi Ngọc đại nhân một trận, lão già đó cả đời cũng chưa bị vậy. Ngọc tiểu thư thật tốt, nói những lời thông tình đạt lý!”. Lưu Thái Bảo hừ hừ cười khẩy nói:

“Cô thật ngây ngô hơn ta! Không những bị trúng tên vô ích, còn bị lừa bịp! Ngọc Kiều Long, con mẹ nó lợi hại thật, thị hiểu có đánh cô một trận cũng vô dụng, hơn nữa nếu cô gào thét liều mạng, nếu ta tới cổng cung cáo ngự trạng, trong nhà thị thật chịu không nổi! Vì vậy thị mới làm ra vẻ người tốt, rót lời ngon ngọt, bảy lần bắt bảy lần tha để làm cho cô và ta tâm phục, không quấy phá họ nữa, nhưng như thế càng đủ thấy họ lo sợ, con hồ ly nhỏ là ai chắc họ đã biết!”.

Thái Tương Muội nghe chồng nói vậy, lại bất giác sửng sốt, nói:

“Ta cũng cảm thấy kỳ quái, ta ở trên nóc nhà, không thấy dưới phủ có ai kéo cung thì mũi tên đã bắn trúng chân rồi!”. Lưu Thái Bảo cầm mũi tên ngắn đặt gần bệ đèn xem kỹ, bèn nói:

“Loại này đâu cần kéo cung, giấu trong tay áo giơ tay thì phóng ra rồi! Vừa rồi không phải cô đã nói Ngọc Kiều Long có hai a hoàn luôn theo sát, cũng đều sang trọng, vóc dáng cũng đều hơn cả Hằng Nga sao. Không khéo trong hai a hoàn đó có một người chính là con hồ ly nhỏ đó!”. Thái Tương Muội nhớ lại chuyện vừa rồi, nói:

“Nhưng, ta nhìn thấy một a hoàn nhìn ta bĩu môi”. Lưu Thái Bảo nói:

“Bĩu môi cũng không hề gì, nhưng ta nghĩ, cho dù việc tối nay cô náo loạn trong nhà họ, rõ ràng họ nhịn được nhưng chắc là vì hổ thẹn trong lòng, bỏ được thì bỏ, không dám làm to chuyện! Được rồi, hôm nay tạm ghi nhận công này của cô, cái hay là ta cũng không dính vào chuyện này! Chúng ta cứ ăn tết đã, cô cũng phải dưỡng thương. Sau rằm tháng giêng, họ phòng bị cũng sẽ trễ nãi, lúc đó chúng ta lại thong thả điều tra thăm dò, tìm ra chứng cứ.

Sau đó Lưu Thái Bảo ta mới làm một việc kinh thiên động địa! Chắc chắn khiến Ngọc Chính đường phải vái lạy ta, Ngọc Kiều Long mở cửa tự tiến cử xin làm vợ bé của ta”.

Tương Muội chĩa mũi tên nhỏ ra định đâm Lưu Thái Bảo, Lưu Thái Bảo ngạo nghễ cười nói:

“Qua năm hãy nói! Cô cứ giúp ta, chúng ta sẽ được hả giận!”. Tương Muội nói:

“Cứ lo tranh đua cho hả giận, không tìm việc làm, chẳng lẽ hai chúng ta sẽ nhịn đói sao?”. Lưu Thái Bảo xua tay nói:

“Chuyện đó không quan trọng, Lưu Thái Bảo ta trước kia không dạy quyền cũng chưa bị đói. Từ nay trở đi cái danh hão sư phó dạy quyền này của ta đã mất rồi, ta càng có thể làm việc gì cũng được!”. Lưu Thái Bảo hậm hực nói thế rồi ra viện nhặt thanh đao cầm vào phòng, đóng cửa định ngủ tiếp. Lúc này trời đã bình minh.

Thái Tương Muội đau chân hơi rên, vì vậy y càng không ngủ được.

Hôm sau Lưu Thái Bảo tới Nam thành tìm biểu huynh xin một ít thuốc rịt vết thương gia truyền, lúc về mang theo một số giấy tiền vàng bạc, đèn nến, gà vịt, cá thịt, dán câu đối tết trước cửa phòng, trong phòng dán một bức tranh tết hình đứa trẻ bụ bẫm. Cuối năm rất không dễ tìm nhà, nhà trọ cũng không nhận khách, vì vậy y cũng không muốn chuyển nhà. May là Đắc Lộc đối xử với y rất tốt, năm mươi lượng bạc phủ Bối lặc thưởng cũng lãnh giùm về đưa y.

Thái Tương Muội tuy chân bị thương nhưng không hề lưu tâm, dứt khoát một chút cũng không nghỉ ngơi, trang điểm lộng lẫy, chỉ ở trong phòng làm thức ăn tết, bày mâm cúng Phật, cũng rất vui vẻ. Lưu Thái Bảo cũng nói:

“Mặc kệ hết! Qua năm hãy nói, ngày tháng còn dài! Y chạy không thoát, ta cũng còn sống đây, sớm tối gì cũng hả giận được !”. Cứ thế mấy ngày cuối năm nhẹ nhàng trôi qua. Đến mùng một tết, rồi mùng hai mùng ba, thành Bắc Kinh đổi qua không khí mới! Nhà nhà, các cửa hiệu đóng cửa khua la đánh trống, ai cũng mặc áo mới, đội mũ mới, ngồi xe tới các nơi chúc tết. Tiếng pháo nổ giòn giã khắp nơi. Tất cả mọi người dường như đều điên cuồng, uống rượu thỏa thích, vô cùng vui vẻ.

Lúc bấy giờ chỉ có trong phủ của Ngọc Chính đường lại không náo nhiệt như trước đây. Ngọc Chính đường từ Tân Cương được điều về Bắc Kinh mới không đầy mấy tháng, ngày trước y đều ở tỉnh ngoài, trong phủ bất quá chỉ có bà con trong họ và tôi tớ giữ nhà nhưng cũng náo nhiệt hơn năm nay. Năm nay tuy không ít quan viên đi xe tứ mã tới chúc tết, tôi tớ cũng đều được thưởng không ít tiền, nhưng lão gia, phu nhân, tiểu thư không người nào vui vẻ. Chính đường đại nhân vì việc công rắc rối, việc nhà phiền não, suốt ngày nét mặt không có một chút vui vẻ. Phu nhân vì lão gia không vui nên cũng hậm hực ít vui, với lại mấy hôm nay bệnh đau ngực thường tái phát, tiểu thư Ngọc Kiều Long thường thấy trong người khó chịu, nhiều hôm không ra khỏi cửa, chỉ suốt ngày buồn bã trong thâm khuê, một là gia đình ưu phiền, hai là vì bị bệnh, ba là vì nàng sắp đổi bím tóc thành búi tóc của phụ nữ Bát kỳ, đổi cách ăn nói, nàng sẽ không còn là cô nương có thể tùy tiện ra ngoài vui chơi mà là thiếu nữ chờ gả chồng.

Theo quy củ của người Bát kỳ, phàm là cô nương lúc mười ba mười bốn tuổi thì để kiểu tóc người Mãn, nhưng đến mười bảy mười tám thì phải chải tóc, chải bím thì có thể có người tới mai mối. Kiểu đầu tóc này không khác với búi tóc của đàn bà, có điều chỗ tóc mai hơi có chút sai biệt, lúc ở trong nhà thì đổi búi tóc mây rất cao, ra ngoài gặp thân hữu, dự yến hội, vui chơi vân vân còn đội Lưỡng bản đầu bằng đoạn đen. Một người con gái Bát kỳ đến thời kỳ này, giống như một đóa hoa đang nở chờ người hái đi.

Ngọc Kiều Long vì vâng lệnh cha mẹ, bất đắc dĩ phải đổi trang phục, nên lòng rất đau buồn. Tự biết thời thiếu nữ hoa xuân rất ngắn, e rằng không đến nửa năm chuyện hôn nhân của mình sẽ phải định, mà người chồng tương lai có lẽ chính là Lỗ Hàn Lâm, vừa xấu vừa ngờ nghệch đó. Nàng thật ấm ức, mà còn phẫn hận, nhưng vì không dám trái lệnh cha mẹ, vì nàng rất hối hận, nàng cảm thấy phụ thân phiền não, mẫu thân ưu sầu, cho tới biến cố trong nhà mấy tháng nay, ngoài bị bọn vô lại sỉ nhục, trong thì sợ bóng sợ gió, tất cả đều do một mình nàng gây ra. Nàng nghĩ phải nhẫn nhịn khuất thân, làm tròn đạo hiếu, để rửa nỗi oan khiên kiếp trước. Nhưng tâm sự này của nàng ngoài nàng ra, không có người thứ hai nào biết được.

Hôm mùng một tết, Hàn lâm Lỗ Quân Bội xấu xí đã tới chúc tết, hôm nay ngày mười ba y lại tới chúc tết. Ngọc Kiều Long biết y tới, nàng nhíu mày, ngồi trong phòng, tay cầm đũa đồng, cẩn thận gạt tro trong chậu than. A hoàn Tú Hương, Ngâm Tự bên cạnh, một người chùi hộp mực bằng đồng, một người cắt tỉa hoa mai trong bình. Hoa thủy tiên trong chậu đều rũ đầu, lặng lẽ. Con mèo trắng ngồi xổm bên người nàng, đưa cái chân nhỏ trắng muốn khều tua cái túi thêu hoa sen đeo bên người nàng. Trong phòng chỉ có tiếng đồng hồ quả lắc nghe tích tắc tích tắc. Lúc ấy bỗng có Tiền má má bộc phụ trong phòng Ngọc phu nhân đi vào phòng, nói:

“Tiểu thư! Lão phu nhân trong Lỗ phủ tới rồi ! Phu nhân mời tiểu thư qua gặp!”.

Ngọc Kiều Long giật mình, tự nhủ “Vừa rồi nghe nói Lỗ Quân Bội tới, sao bây giờ mẹ của y lại tới? Phải chăng hôm nay sắp có chuyện gì?”. Nàng gật đầu, Tiền má má quay người đi ra. Ngâm Tự vội bước qua sửa cái trâm hoa trên đầu tiểu thư. Ngọc Kiều Long lại né đầu, trừng mắt nhìn Ngâm Tự nói:

“Ngươi định làm gì ?”. Ngâm Tự rụt tay lại, đỏ mặt cúi đầu không dám nói gì.

Ngọc Kiều Long bèn đứng dậy, nói một mình “Ta đi gặp một người như vậy, còn cần trang điểm cho đẹp sao?”. Tú Hương vội bước qua, đẩy Ngâm Tự ra như cũng bất bình, khẽ nói:

“Tiểu thư, người bất tất phải trang điểm nữa, cứ như vậy đi gặp Lỗ phu nhân, cũng bất tất nói quy củ lễ độ với bà ấy, lạnh nhạt với bà ấy, bà ấy cũng sẽ đối tốt với tiểu thư …”. Ngọc Kiều Long đỏ mặt nói:

“Ai bảo người nói nhiều?”. Nàng hậm hực đi ra khỏi phòng, Tú Hương bèn đi theo nàng.

Lúc bấy giờ sắp qua giữa trưa, ánh mặt trời rất ấm, những đóa hoa mai trong sân, hoa tầm xuân dưới hành lang đều hân hoan nở rộ một màu vàng rực. Họ theo hành lang đi về phía đông, trong phòng phía bắc có người đang nói chuyện.

Tú Hương đi trước kéo cửa ra, bộc phụ bên trong vén màn, nói:

“Tiểu thư tới rồi!”. Ngọc Kiều Long vừa tới trước cổng, không kìm được ngạc nhiên! Nguyên người ngồi trên ghế ngoài phòng chính là Ngọc đại nhân cha nàng, mặc thường phục, tay cầm điếu hút thuốc lào, ngồi trên ghế dài nghiêng đối diện lại chính lã Lỗ Quân Bội.

Thân hình to béo của Lỗ Quân Bội mặc quan phục, mặt béo, mũi tẹt, mắt hí, diện mạo rất xấu, bên cạnh để cái mão quan văn tứ phẩm. Ngọc Kiều Long chỉ hơi nhìn người này một cái liền ngán ngẫm nhìn xuống, quay qua hành lễ với cha trước. Ngọc Chính đường lại nói:

“Ra mắt Lỗ đại ca ngươi đi!”. Ngọc Kiều Long bất đắc dĩ quay qua Lỗ Quân Bội, Lỗ Quân Bội sớm đứng dậy, hai người đều nhìn xuống thỉnh an nhau. Lỗ Quân Bội hơi mỉm cười hỏi:

“Năm mới đến, muội muội khỏe chứ?”. Ngọc Kiều Long lại không đáp, bộc phụ bèn mời nàng vào gian trong chỗ Ngọc phu nhân tiếp chuyện Lỗ phu nhân. Lỗ phu nhân cũng là một vị lão phu nhân có dáng người rất mập, tuổi hơn năm mươi, ăn mặc đội mũ rất sang trọng. Lỗ Thị lang tuy là quan nhị phẩm, nhưng gần đây vì bị bại liệt nên nghỉ hưu, triều đình thưởng y hàm nhất phẩm, vì vậy bà ta ăn mặc theo lối Nhất phẩm phu nhân. Ngọc phu nhân bảo Ngọc Kiều Long hành lễ. Lỗ phu nhân sai bộc phụ theo hầu bước tới đỡ nàng dậy. Ngọc phu nhân nói với Ngọc Kiều Long:

“Quân Bội đại ca ngươi hiện đang giữ chức Phủ thừa phủ Thuận Thiên, ngươi còn chưa chúc mừng Lỗ bá bá sao?”. Ngọc Kiều Long lại quay sang Lỗ phu nhân thỉnh an chúc mừng. Lỗ phu nhân lại cầm hai tay nàng nói:

“Ngươi qua tết rồi, sao không tới nhà bọn ta? Ta rất nhớ ngươi!”. Vị phu nhân này ăn nói vui vẻ thân thiện nhưng Ngọc Kiều Long vẫn không nói gì. Ngọc phu nhân ngồi đối diện nói thay:

“Chỉ vì nó đã chải đầu, cũng không tiện ra ngoài! Năm nay tôi vẫn chưa dẫn nó chúc tết đâu cả! Cũng vì trong người nó không khỏe”. Lỗ phu nhân kinh ngạc nói:

“Cô bệnh sao? Cảm thấy thế nào?

Chưa mời đại phu khám sao?”. Ngọc Kiều Long vẫn không trả lời, a hoàn Tú Hương bên cạnh đỡ lời Tiểu thư chúng tôi cũng không bệnh nặng gì, chỉ thỉnh thoảng bị viêm họng thôi!”. Lỗ phu nhân biến sắc nói:

“Đó có thể rất liên quan, sao ta không nghe ai nói?”. Ngọc phu nhân nhìn con gái một cái nói:

“Vì qua tết mới bị, trước đó không nặng như vậy, chỉ vì đã cuối năm nên không mời đại phu khám, nhưng trong nhà có mấy thang thuốc bảo nó uống rồi”. Lỗ phu nhân nói:

“Có thể do sợ hãi, chuyện năm ngoái thật ai nghe cũng đều tức giận! Đại nhân nhà tôi tuy bệnh không thể cử động được, nhưng nghe nói chuyện này tức giận muốn đi gặp Phan đại nhân ở Hình bộ, Quảng đại nhân ở viện Đô sát.

Quan Bội cũng rất giận, sợ kinh động Tam muội muội nó trong này. Nghe nói tên lưu manh Lưu gì đó bảo là có Thiết tiểu Bối lặc đằng sau bảo hộ y!”. Ngọc phu nhân lắc đầu nói:

“Cũng không phải thế, Lưu Thái Bảo bất quá là người dạy võ trong phủ, năm ngoái Thiết Bối lặc đã đuổi việc y, vì vậy mấy ngày nay họ cũng không dám làm loạn nói càn nữa !”.

Lúc bấy giờ trong phòng ngoài Ngọc đại nhân và Lỗ Quân Bội cũng đang nói chuyện đó, nghe Ngọc đại nhân thở dài nói:

“Năm nay ta cảm thấy tinh thần rất tệ, đại khái chỉ có thể qua được rằm tháng giêng năm nay. Ta đã muốn dâng sớ từ quan, chỉ vì ta không những đã mất mặt, thân thể cũng thật không thể sống vài năm nữa! Có điều Thiết Bối lặc cứ khuyên can, ta không hiểu y có ý gì !”.

Lỗ Quân Bội nói:

“Lão bá không nên phiền não chuyện đó, Thiết tiểu Bối lặc là người xưa nay như vậy. Trong nhà y chuyên nuôi dưỡng vài tên vô lại chợ búa, mấy năm trước kinh thành có Lý Mộ Bạch, náo loạn còn lợi hại hơn Lưu Thái Bảo, chỉ vì có Thiết tiểu Bối lặc che chở. Như Đức Ngũ trú Đông thành, y chẳng qua là người từng làm việc vặt cho phủ Nội vụ, hơn nữa mấy năm trước từng sung quân tới Tân Cương một lần, nhưng Thiết Bối lặc lại càng gần gũi với y! Ngũ Đức chuyên giao kết với phỉ thân giang hồ, Lưu Thái Bảo có quá nửa là do y tiến cử”. Ngọc đại nhân nói:

“Ta biết, Đức Khiếu Phong, Khâu Quảng Siêu đều tự ví là Mạnh Thường, Bình Nguyên. Có điều con người Đức Ngũ đó quả không kém. Lúc ở Tân Cương ta rất quan tâm tới y. Nhưng vì nói rõ ra, nhà y với nhà ta cũng đều là quen biết lâu năm, gần đây ta biết y rất an phận. Chuyện Lưu Thái Bảo làm, đại khái không liên quan tới y”. Lỗ Quân Bội nói:

“Thong thả để cháu thay lão bá trừng trị tên Lưu Thái Bảo đó. Lão bá sợ người ngoài nói ra vào, không thể do nha môn Đề đốc bắt xử y, nhưng cháu ở phủ Thuận Thiên bắt y, có lẽ người ngoài không đến nỗi nói gì!”. Ngọc đại nhân lại luôn miệng nói:

“Không cần vậy, không cần vậy! Chúng ta hà tất nổi giận không đâu với hạng tiểu nhân chợ búa!”.

Lúc bấy giờ Ngọc Kiều Long ở trong phòng chỉ chú ý lắng nghe ngoài phòng nói chuyện, lại không biết Lỗ phu nhân nói chuyện rất thân thiết với nàng cả nửa ngày, cởi một tấm ngọc bội đeo bên người ra. Đó là mảnh ngọc khắc ra một con bạch long, một con lục long, trong khảm một mảnh vàng coi như hạt châu. Lỗ phu nhân nói:

“Ta cho ngươi đeo cái này! Đây là vật gia truyền của nhà ta, nghe nói đeo vào có thể áp kinh trấn tà. Lúc đại ca ngươi vào trường thi ta cho y đeo cái này, bây giờ ta thấy ngươi cũng lắm tai đa bệnh, ngươi đeo đi!

Đeo vài ngày có thể sẽ khỏi bệnh”. Ngọc Kiều Long vừa nghe thế rất kinh ngạc, chỉ vì chuyện này, rõ ràng là Lỗ phu nhân đưa lễ vật đính ước, cha mẹ nàng chắc đã đồng ý chuyện hôn nhân này, nếu không thì vật gia truyền của bà ta há có thể tùy tiện tặng cho người ngoài? Nàng rất tức giận, hận không thể với tay qua giật ném xuống đất cho vỡ nát ra! Nhưng lại thấy mẹ nàng nói:

“Ngươi nhận đi! Cảm ơn Lỗ bá mẫu mau !”. Ngọc Kiều Long trong lòng rất khó chịu, nhưng vì mẫu thân từ tết đến nay thực không có một ngày không bệnh, bệnh của mình chẳng qua là một câu nói giả để che lấp sự phiền não, nhưng cha mẹ quả thật là vì mấy chuyện năm ngoái đều phát bệnh mấy lần, nay mình sao có thể làm mất mặt lão nhân gia, khiến Lỗ phu nhân xấu hổ? Nàng bèn theo lời mẹ quay qua Lỗ phu nhân thi lễ cảm tạ. Lỗ phu nhân đích thân đeo miếng ngọc bội cho Ngọc Kiều Long. Ngọc Kiều Long cúi mặt, cố ghìm nỗi đau đớn giận dữ.

Lúc ấy Lỗ Quân Bội ở ngoài phòng đã được cha nàng mời vào thư phòng, nói là đi xem chữ gì đó.

Ngọc Kiều Long đứng cả nửa ngày, mẹ bảo ngồi nàng cũng không chịu, sau đó Lỗ phu nhân nói:

“Cô nương ngươi nếu cảm thấy không thoải mái thì về phòng nghỉ ngơi đi! Không cần tiếp chuyện ta”. Ngọc Kiều Long cũng nói:

“Đúng ạ, con về phòng nghỉ ngơi!”. Ngọc Kiều Long liền quay người ra khỏi phòng, Tú Hương theo ra. Ngọc Kiều Long vừa ra khỏi phòng phía bắc, nàng liền đi rất nhanh trở về phòng của mình, cầm miếng ngọc bội ném xuống đất keng một tiếng, miếng ngọc bội văng xuống dưới ghế! Con mèo lông trắng nhảy phóc qua dùng chân chụp, Tú Hương hoảng sợ biến sắc, vội ngồi xuống cản con mèo lại nhặt lên. Vừa nhìn thấy miếng ngọc này cũng thật rắn chắc, không bị vỡ nhưng chỗ sừng của hai con rồng có chút sứt mẻ, cô liền cất vào ngăn kéo của cái bàn nhỏ rồi an ủi tiểu thư, nói:

“Tiểu thư, người nằm nghỉ ngơi một lát đi!”.

Ngọc Kiều Long cười nhạt, cũng không nói gì. Hai chiếc trâm hoa cài trên đầu nàng rung lên, đế hài cao gót đạp trên nền gạch bóng, đi đi lại lại. Chợt ánh mắt nàng dừng lại trên cánh cửa cách giường nằm mà nàng tự vẽ, viết chữ lên trên đó, tự khắc con dấu “Ý vân hiên chủ nhân”, chữ “Vân” này đã kích động lòng nàng. Nàng dừng chân, trong lòng tràn lên nỗi thương cảm. Lúc ấy con mèo trắng lại nhảy lên bàn trà, Ngậm Tự bước qua nói:

“Tuyết Hổ! Tuyết Hổ! Đừng lên bàn trà làm đổ bình hoa, Tuyết Hổ ngoan nào!”, chữ “Hổ” nay lại khiến tiểu thư biến sắc.

Bỗng nhiên Tiền má má đi vào, nói “Lỗ phu nhân sắp đi! Phu nhân bảo tiểu thư tiễn”. Ngọc Kiều Long lắc đầu nói:

“Ta không tiễn”. Tiền má má giật mình ngẫn ra! Tú Hương, Ngâm Tự liền nhìn Tiền má má nháy mắt ra hiệu bảo bà ta đi ra. Tiền má má đi một lúc, Ngọc Kiều Long bỗng nhiên đứng dậy khẽ thở dài, tự cảm thấy Lỗ phu nhân đem ngọc bội tặng cho mình, nếu mình không ra tiễn cũng thật khiến cha mẹ mất mặt. Lúc ấy nàng quay người đi ra khỏi phòng, nhưng tới hành lang vừa nhìn, Lỗ phu nhân đã đi rồi. Ngọc Kiều Long bèn quay về phòng, sai Ngâm Tự tháo trâm hoa lược cài trên đầu xuống, lên giường nằm nghỉ ngơi, trong lòng rất phiền não. Mãi đến tối, Tú Hương khẽ nói với nàng:

“Tiểu thư người đừng ưu sầu, tôi giúp tiểu thư nghe ngóng rõ rồi, Lỗ phu nhân hôm nay tới chỉ là chúc tết, cũng không nói tới chuyện khác. Tiểu thư đừng buồn, tôi còn nghe Tiền má má nói nghe các má má của Lỗ phủ hôm nay tới nói rằng thiếu gia họ hiện đã thăng quan, không ít người nói tới chuyện hôn nhân, đại khái … không cần gì tới chúng ta!”. Ngọc Kiều Long tức giận nói:

“Ai bảo các ngươi lo chuyện không đâu! Về sau nhà họ Lỗ họ bất luận là ai tới, ta quyết cũng không gặp!”, tuy nói nhưng trong lòng lại thấy rất được an ủi, cũng rất mong vị Hàn lâm xấu xí kia lấy một tiểu thư mỹ miều nhà khác, khỏi quấy rầy tới mình. Nhưng lúc ấy tiếng pháo xa gần vẫn đì đùng vang lên, năm tháng trôi đi, mình đã thêm một tuổi. Hoa mai trong bình nở đầy ý xuân, giá nến bạc trên bàn ngậm sầu, Ngọc Kiều Long lại không kìm được thầm thấy đau lòng.

Lại qua một ngày, hôm nay là mười lăm tháng giêng, thượng nguyên giai tiết. Trước kia lúc ở Tân Cương, trong quan nha bày rất nhiều hoa đăng, Ngọc Kiều Long rất vui vẻ. Năm ngoái từ Tân Cương về kinh, nàng đã sớm chuẩn bị đến các nơi trong kinh thành xem hoa đăng mấy ngày, nhưng không ngờ gia đình đột nhiên gặp chuyện ưu phiền, khiến nàng không còn hứng thú gì nữa. Vì Ngọc phu nhân sợ con gái buồn phiền sinh trọng bệnh nên cố giấu bệnh của mình, muốn dẫn con gái đi xem hoa đăng, lúc mới qua giờ cơm trưa, sai người ra ngoài chuẩn bị. Họ định xem hoa đăng ở chỗ trước Cổ Lâu, vì chỗ đó cách phủ không xa.

Lúc ấy những phố phồn hoa nhất Bắc Kinh có ba nơi, tục có câu “Đông Đơn, Tây Đơn trước Cổ Lâu”. Hôm ấy cả ba nơi này đều có hoa đăng. Lúc bấy giờ đã hơn tám giờ tối, trời ngả màu xanh đen, vầng trăng sáng từ phương đông từ từ di động về phương tây, nhưng lúc ấy không ai chú ý tới ánh trăng, tất cả đều tụ tập xem hoa đăng phía dưới. Phố lớn rất dài, hai bên đều là thương hiệu, các cửa hiệu đều treo đèn, chỗ là cung đăng hình vuông làm bằng thủy tinh, chỗ thì treo dọc tường một dãy đèn lồng bằng sa. Bất luận trên thủy tinh hay trên the đều vẽ tỉ mỉ nhân vật, vẽ một số tiểu thuyết cố sự, nào là “Tam quốc chí”, “Ngũ tài tử”, “Liêu trai”, “Phong thần bảng” vân vân. Bức tranh vẽ liên hoàn, xem từ đầu tới đuôi, như đọc một bộ tiểu thuyết, vì thế trước mấy nơi hoa đăng này đầy người chen chúc, người này huých người kia, cả gió cũng không thổi qua được. Trên đường cũng là xe ngựa huyên náo, các quan viên, phu nhân, tiểu thư quý phủ bình thường ít ra khỏi cổng, hôm nay đều ra ngoài xem hoa đăng. Tất cả các lão phu nhân, thiếu phụ mặc y phục người Hán, y phục Bát kỳ, con gái mới lớn, trẻ con ai ai cũng trang điểm rất đẹp, hồng tía chen lẫn, cười nói vui vẻ, cũng đều tới đây ngắm nhìn, chen lấn. Ánh đèn làm mờ ánh trăng, một số bọn thiếu gia có tiền, cũng ở trong đám đông đốt pháo hoa, đốt pháo đì đùng, khói lửa phun lên cao như một cây hoa lửa, phía chân trời xa xa ánh đèn xanh đỏ chợt sáng chợt tắt, cũng có thương hiệu đốt pháo hoa, trong pháo hoa có thể tung ra những hình vẽ trò chơi tân kỳ đủ màu đủ dạng. Vì vậy người càng lúc càng nhiều, như một cái chảo lớn đầy cháo người, một mảng cát người lớn, nhìn ra chỉ thấy một biển người mênh mông không bờ. Nhưng một số kẻ vô lại đầu đường xó chợ cũng hoạt động trắng trợn, lén lút mò mẫm phụ nữ, lén lút làm rách áo mới của người, móc túi … không chuyện xấu xa nào không làm. Vì vậy trong tiếng cười ồn ào hỗn tạp, cũng chen vào tiếng mắng chửi của phụ nữ, tiếng hô hoán chen lấn của trẻ con, và tiếng cười rộ …. giống như hải triều, giống như giông tố, thanh âm rất to, vô cùng hỗn loạn.

Lúc bấy giờ gia quyến của Ngọc phủ đều ở trên lầu một cửa hiệu bán vải vóc lớn đã thu xếp từ ban ngày. Cửa hiệu bán vải vóc mượn đó hầu hạ các khách hàng giàu có, nhất là khách lại là Cửu Môn Đề đốc tổng quản kinh thành, nên chuẩn bị rất chu đáo, đặt bốn chậu than, chuẩn bị trà thơm, dọc lan can đặt một dãy ghế. Ở đó từ trên nhìn xuống, ánh đèn bóng người, cây lửa hoa bạc đầy đường, tất cả đều trong tầm mắt, hai bên lầu cũng hoàn toàn không có kẻ đi rong.

Lúc bấy giờ, người tới là Ngọc Kiều Long còn hoa lụa và châu ngọc đầy đầu, y phục cũng rất lộng lẫy. Tú Hương chải một bím tóc lớn, cũng mặc áo đoạn đứng hầu bên cạnh, và có bốn bộc phụ, lui tới hầu thuốc mời trà. Đứng dựa dưới chân cầu thang là hai tôi tớ nam và mấy viên sai quan của nha môn Đề đốc đứng giữ, ngay cả người của bổn điểm cũng không được lên lầu. Xem hơn nửa ngày, trời đã giao tới canh hai, những cái đèn trên phố, vì nến sắp tàn, vì vậy cũng phát tối dần. Pháo hoa đều đã đốt xong, người đến xem dần dần tản đi, chỉ có tiếng pháo nổ đì đùng. Nửa ngày nay, Ngọc Kiều Long và mẹ nàng đều rất vui, Ngọc phu nhân nói:

“Rốt cuộc kinh thành là nơi náo nhiệt, chúng ta trú ở Tân Cương mười mấy năm thật khiến tầm mắt bị thu hẹp. Hôm nay ta tới đây xem những người này, những đèn hoa này, thật khiến ta hoa cả mắt! Kỳ thực ta vẫn là người sinh ra và lớn lên ở kinh thành!”. Ngọc Kiều Long cười cười, lắc đầu, những đóa hoa lụa trên đầu nàng rung động, nói:

“Con thấy Tân Cương là nơi rất đẹp, con rất nhớ Tân Cương!”. Ngọc phu nhân hỏi Tú Hương:

“Ngươi nói xem kinh thành đẹp hay Tân Cương đẹp?”. Tú Hương cũng mỉm cười nói:

“Con nói đều đẹp cả!”. Ngọc phu nhân cười nói:

“Tội ngươi lớn lắm đấy! Trời không còn sớm nữa, nói họ chuẩn bị xe, chúng ta cũng nên quay về”, các bộc phụ vội vâng dạ, đi dặn đám tôi tớ đàn ông, đám này lại xuống lầu truyền đạt. Ba cỗ xe lớn đều chuẩn bị trước cửa hiệu bán vải vóc, hai viên sai quan đeo đao bên người canh giữ. Lúc này hai mẹ con Ngọc phủ đi xuống lầu, do a hoàn bộc phụ dìu ra cửa hiệu, đã có rất nhiều người vây quanh đợi xem. Ánh trăng trên trời và ánh đèn chung quanh chiếu lên Ngọc Kiều Long trông nàng giống như tiên nữ.

Ngọc Kiều Long lại cúi đầu, tấm lưỡng ban đầu bằng đoạn xanh đỏ cùng rất nhiều trâm vàng hoa lụa che kín khuôn mặt xinh đẹp của nàng. Đi vài bước, vẫn chưa lên xe, lúc ấy chợt nghe phập một tiếng, Ngọc Kiều Long không kìm được rùng mình, hoa lụa rung động, nàng ngẩng đầu lên. A hoàn bộc phụ đều kinh hãi la lên. Nguyên là từ trong đám đông người bắn ra một vật, bắn trúng lưỡng bản đầu của Ngọc Kiều Long. Tú Hương kiễng chân từ trên đầu tiểu thư rút vật đó ra, kinh ngạc nói:

“Trời ơi, là một mũi tên!”. Ngọc Kiều Long cúi nhìn, thấy mũi tên dài không quá ba tấc, rất nhỏ, lập tức biến sắc nhìn vào đám đông. Lúc ấy các viên sai quan đều đã yêu đao lấp loáng xua mọi người đi. Rất nhiều người đứng xem hoảng sợ la ầm lên, có người kêu khóc, chỉ vì người này chen người kia, muốn chạy nhanh cũng không được.

Ngọc phu nhân đã lên xe, nhìn thấy hỗn loạn liền gọi bộc phụ qua hỏi:

“Có chuyện gì?”. Bộc phụ nói:

“Có người xấu trong đám đông bắn một mũi tên vào tiểu thư!”. Ngọc phu nhân giật nảy mình hỏi:

“Có bị thương không ?”. bộc phụ nói:

“Cũng không bị thương, mũi tên rất nhỏ, bắn lên tấm lưỡng bản đầu, xuyên qua lớp đoạn, hoa trên đầu cũng bị hỏng, tiểu thư rất bình an !”. Ngọc phu nhân nghe vậy rất tức giận nhưng lại thấy người bốn phía bỏ chạy tán loạn kêu la ầm ĩ, roi da của đám sai quan quất vù vù, cũng có tiếng vó ngựa dồn dập. Ngọc phu nhân bảo đầy tớ cản các viên sai quan lại, nói:

“Không cần đuổi người, truy tìm người bắn tên đã, đâu có liên can gì tới người khác? Không được đuổi người!

Không được đánh người!”.

Có lời dặn của Chính đường phu nhân, các viên sai quan mới đều dừng tay, những người kinh hãi bỏ chạy đều kêu khóc, trên đường cái đã không còn ai. Ba cỗ xe do quan quân cưỡi ngựa bảo vệ lại trở về Ngọc phủ. Vào trong phủ, Ngọc phu nhân còn ngắm kỹ con gái, thấy nàng không bị thương mới yên tâm. Lại nhìn tới mũi tên nhỏ kia, lại không kìm được kinh ngạc nói:

“Mũi tên lần trước làm vợ Lưu Thái Bảo bị thương, không phải cũng một loại sao?”. Đám bộc phụ cũng đều kinh ngạc. Kiều Long tiểu thư lại im lặng không nói gì. Ngọc phu nhân lại an ủi nói:

“Ngươi cũng vào phòng nghỉ đi, đây là bọn giặc cướp cố ý sinh sự, có quá nửa lại là do Lưu Thái Bảo gây ra, ngươi đừng sợ hãi! Hãy đeo tấm ngọc bội mà Lỗ phu nhân cho ngươi, có thể áp kinh trấn tà. Ngươi đi ngủ đi !”. Ngọc Kiều Long dạ một tiếng, thỉnh an mẫu thân, rồi dắt a hoàn ra cửa. Chỉ thấy trăng sáng vằng vặc trong suốt như nước, bóng cột và lan can trải ra trên mặt đất, như dùng sơn đen vẽ lên. Gió hiu hiu, mai trong chậu đón xuân đều tỏa mùi hương thơm ngát, tiếng hài nhẹ nhàng, quần áo phất phơ. Về tới phòng Ngâm Tự đã chuẩn bị xong, hai a hoàn hầu hạ tiểu thư tháo gỡ bím tóc, thay quần áo, tiểu thư lại buồn bã nói “Các ngươi đi ngủ đi!”.

Tú Hương, Ngâm Tự hai người biết hôm nay tiểu thư xem đèn, trải qua nguy hiểm. Bây giờ thần sắc của tiểu thư vẫn còn đặc biệt bất an, vẻ mặt sầu thảm trước nay chưa từng thấy, hai a hoàn liếc nhau không ai dám nói câu nào, không ai dám đi nặng chân một bước, cùng rón rén đóng chặt cửa phòng mình đi ngủ.

Hai a hoàn vừa đi ra, dáng vẻ của Ngọc Kiều Long lại càng thê thảm. Nàng nằm úp tay lên bàn khóc nức nở. Tuy nàng không dám khóc thành tiếng, nhưng toàn thân rung lên, con mèo lông dài màu trắng ngồi dưới đất, ngước đầu nhìn chủ nó, dường như nó cũng rất buồn bã, vì cô chủ xinh đẹp của nó trước nay cũng chưa bao giờ đau lòng như vậy. Ngọc Kiều Long khóc lóc ở đó, cả phủ không một ai biết, tâm tình của nàng càng không một ai hiểu được, đêm ấy nàng khóc đến khuya mới thiếp đi.

Bắt đầu từ hôm sau, nàng không thể rời khỏi giường nữa, nhưng trên mặt nàng chỉ có vẻ buồn rầu chứ hoàn toàn không có vẻ bệnh tật, mời đại phu tới thăm mạch cũng nói không có bệnh tật gì lớn, nên mọi người đều cho rằng tiểu thư vì hôm xem đèn tiết thượng nguyên gặp phải nỗi lo sợ, đến nỗi thành bệnh.

Lúc ấy lại có họ hàng ra mặt, chủ trương mời bà đồng theo hầu, mời tăng nhân đạo sĩ nhương tai giải hạn, nhưng Ngọc Chính đường đều nghiêm khắc cự tuyệt.

Có người đề nghị mau định việc hôn nhân cho tiểu thư, mau mau gả đi, chuyện này thì Ngọc đại nhân lại cảm thấy rất có lý. Từ đó thường cùng phu nhân bí mật bàn bạc sau lưng con gái, mà Lỗ phu nhân và Lỗ Quân Bội lại càng thường xuyên lui tới Ngọc phủ.

Qua vài hôm, tôi tớ trong ngoài đều biết rõ Tam tiểu thư Kiều Long cô nương đã được đại nhân và phu nhân hứa gả cho Lỗ Hàn lâm vừa nhận chức Phủ thừa phủ Thuận Thiên, đã hẹn qua tháng sau chính thức làm lễ đính hôn, đến mùa thu lúc hoa cúc nở sẽ làm lễ nghênh hôn, hiện chỉ còn giấu tiểu thư và hai a hoàn của tiểu thư mà thôi.

Hôm ấy là ngày cuối tháng giêng, đến tối sao sáng đầy trời nhưng không có ánh trăng. Mấy hôm trước Ngọc phủ canh phòng ban đêm nghiêm mật, đến nay cũng hơi lơ là chút ít. Đêm ấy sau giờ Tý, toàn Ngọc phủ ngoài những người canh gác ở trong phòng trực, tất cả đều đã tắt đèn. Kiều Long tiểu thư bệnh ngày càng nặng, hai a hoàn hầu hạ suốt ngày bên cạnh nàng cũng đã cho đi nghỉ.

Trong phòng nàng tuy hai ngọn nến lớn đã tắt, nhưng trong màn còn thấy ánh đèn, có điều lúc ấy nàng hoàn toàn không đọc quyển sách bí mật kia, nàng chỉ nằm trên giường buồn bã. Lúc ấy như có tiếng còi rúc vang tới, nàng lập tức giật mình ngồi dậy, lại nghe trên nóc phòng có tiếng mèo meo meo. Con mèo trắng nằm sấp trên chăn nàng cũng dỏng tai lên. Ngọc Kiều Long cầm đèn bước xuống giường, nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng, ánh nến yếu ớt sau cửa sổ lóe lên. Một lúc sau nghe ngoài cửa có một tiếng tu tu, như gió thu thổi lá rụng, lại nghe ngoài cửa có tiếng người nói:

“Kiều Long, Kiều Long! Mở cửa mau lên, ta đây!”, là giọng đàn ông vẳng tới tai Ngọc Kiều Long tiểu thư, nhẹ như gió thoảng.

Nàng trước hết thổi tắt ngọn đèn trên tay, sau đó hướng ra ngoài cửa sổ hạ giọng nhưng rất nghiêm khắc nói:

“Ngươi tới như thế này bảo ta mặt mũi nào mà gặp ngươi !”. Hai hàng nước mắt nàng ứa ra, ngoài cửa sổ lại có một tiếng cười khanh khách, nói:

“Ngọc Long muội mở cửa sổ đi, cho ta gặp cô”. Ngọc Kiều Long thầm thở dài một tiếng, mở cửa sổ ra. Người bên ngoài như một con mèo nhảy ngay vào, vừa vào tới là chụp vai Ngọc Kiều Long, Kiều Long cũng không chống trả, chỉ hạ giọng nói:

“Ngươi lui lại đi!”. Lại hỏi:

“Lúc chia tay ở Tân Cương, ta đã nói với ngươi những gì? Bây giờ ngươi quên hết cả rồi à?

Hôm rằm ngươi còn bắn tên, quả thật ngươi muốn ép ta phải chết sao … ?”.

Giọng nói của nàng mười phần thê thảm, nhưng người đàn ông vẫn cười nói:

“Ta tới Bắc Kinh là để gặp cô, cô thắp đèn đi, để ta nhìn mặt cô”. Ngọc Kiều Long lắc đầu liên tiếp, nói:

“Ngươi đi mau đi! Bây giờ ta đã không phải như ta lúc ở Tân Cương rồi, ngươi phải nhớ lời ta nói trước đây, phải đi mau đi! Phải theo lời ta mà làm, sau một năm ngươi hãy trở lại! Nhưng không được tới thế này, nếu không chúng ta không cần gặp nhau nữa đâu!”. Người đàn ông đối diện nói:

“Bất kể thế nào cô cũng phải cho ta nhìn lại mặt cô. Sau khi chia tay, ta nằm mơ cũng thấy cô, lúc tỉnh trong mắt cũng là cô, sa mạc, núi cao, rừng sâu, sông lớn, cái vòng trên thanh đao của ta, chén rượu, chén cơm không chỗ nào không có dung mạo của cô, hôm ấy dưới ánh đèn ta không nhìn thấy rõ, bây giờ ta phải nhìn kỹ, nhìn xong ta sẽ đi! Lời cô nói ta sẽ làm, sắp tới chúng ta sẽ là vợ chồng!”.

Lúc y nói chuyện không đợi Ngọc Kiều Long đồng ý hay không, y đã lấy hỏa tập trong người ra thổi mạnh một cái, phù một tiếng, ngọn lửa lập tức bốc lên, trong phòng sáng bừng. Dưới ánh lửa soi rõ tiểu thư Ngọc Kiều Long mặc áo ngủ bằng đoạn hồng, búi tóc buông xõa, mặt đầy nước mắt thẹn thùng tức giận. Lại soi tới người đàn ông đối diện thì y nguyên là một thiếu niên mười phần khôi ngô, diện mạo anh tuấn, chỉ là ăn mặc vô cùng kỳ lạ. Toàn thân mặc áo vải xanh, đầu đội một cái mũ lông cừu đen, mang thắt lưng da, trên thắt lưng cài một thanh cương đao dài không tới hai thước, chuôi đao có một cái vòng bằng đồng. Lúc ấy bốn mắt nhìn nhau một cái, người kia thì cười, Ngọc Kiều Long tuy cũng lộ vẻ đằm thắm nhưng vẫn đẩy người kia nói:

“Ngươi đi mau đi!

Ngàn vạn lần nên nghe lời ta, đi làm đi … Không cần phải tới đây thế này! Tiểu Hổ! Ngươi vạn lần phải nghe lời ta!”. Người đàn ông tên Tiểu Hổ đối diện cũng cười nói:

“Cô đừng thương tâm! Lần này ta đi, nhất định sẽ nghe lời cô. Được, sẽ gặp lại”. Lúc ấy y thổi tắt hỏa tập, đẩy cửa sổ bước ra.

Ngọc Kiều Long lại rầu rĩ suốt nửa ngày, mới đóng chặt cửa sổ. Trở lại vào phòng, đặt giá nến xuống bàn, nàng lại ngã vật ra giường, hai hàng nước mắt lã chã rơi xuống, ướt đẫm cả chiếc gối thêu, ướt cả chiếc chăn gấm. Lúc ấy đang đêm khuya, chiếc đồng hồ báo thức trên vách leng keng khua bốn tiếng, con mèo cũng đã phập phồng phập phồng thở ngủ say bên cạnh nàng, trên gối vẫn có tiếng thổn thức. Ngọc Kiều Long tiểu thư trong lòng chua xót, như ngủ mà không phải ngủ. Nàng nhớ lại giấc mộng mười mấy năm trước, nhớ lại vùng Tân Cương xa xôi …

Sách này viết tới đây phải kể lại quá khứ của Ngọc Kiều Long một lượt.

Ngọc Kiều Long theo cha tới kinh bất quá chỉ mới bốn năm tháng, cuộc sống của nàng trước đó hoàn toàn ở Tân Cương. Nàng có một thân võ nghệ vũ dũng có thể liễm thần chế quỷ, khéo léo có thể tráo trăng trộm sao, đến nay cha mẹ nàng vẫn không biết. Sư phụ của nàng tên Cao Lãng Thu, biệt hiệu Vân Nhạn, người này có liên quan tới Á hiệp trong “Hạc kinh Côn Luân” và anh em “Kiếm khí châu quang”.

Người viết để có đầu có đuôi không thể không quay ngọn bút lại, phải bắt đầu từ ba mươi sáu năm trước (Ngọc Kiều Long năm nay mười chín tuổi, như vậy là trước khi nàng sinh ra mười bảy năm). Lúc bấy giờ các bậc kỳ nhân trên giang hồ nối nhau xuất hiện:

Kỷ Quảng Kiệt, Lý Phượng Kiệt, Tĩnh Huyền thiền sư chia nhau ngụ ở nam bắc Đại Giang hai bờ Hoàng Hà. Nhưng người đứng đầu lúc bấy giờ là Kỳ hiệp Giang Nam Hạc lại ẩn cư ở núi Cửu Hoa tại Hoãn Nam, trồng trà để sống, không hỏi tới chuyện giang hồ.

Giang Nam Hạc có một sư huynh là Á Ba, vừa câm vừa điếc, trước nay không ai biết tên họ của y, chỉ gọi y là Á hiệp. Vì theo lời Giang Nam Hạc võ nghệ của sư huynh y còn cao gấp mấy lần y. Bình nhật Á hiệp cùng sư đệ trồng trà luyện võ, nhưng một hôm y đột nhiên thất tung, rốt lại y đi đâu, sống hay chết thì ngay Giang Nam Hạc cũng không biết. Việc thất tung của Á hiệp hơn ba mươi năm trước lại gián tiếp có quan hệ không nhỏ tới Ngọc Kiều Long hiện nay.

Chuyện này xảy ra ở huyện Tuy Giang vùng sông Kim Sa cạnh Vân Nam, ngoài huyện có một thôn nhỏ, có khoảng hai mươi gia đình sinh sống. Nơi ấy có rất nhiều ngô đồng và hòe liễu, lúc ấy đang mùa hè, bóng xanh rợp cả thôn.

Một hôm vào lúc xế chiều, mưa nhỏ lắc rắc, trong thôn, ngoài núi, trên đầm, sông lớn đều khuất sau một màn khói dày, trời tối dần, trên đường đã không còn người đi, nhưng xa xa lại vang tới tiếng vó ngựa giẫm nước lõm bõm, vốn là một con ngựa đen phóng tới, người trên ngựa mặc áo đen, đội một chiếc nón rơm rộng vành, cưỡi ngựa xông pha trong màn mưa. Người này vóc dáng không cao cũng không gầy, quần áo không có vẻ nghèo khổ cũng không có vẻ giàu có, tuổi khoảng trên dưới năm mươi. Bộ râu tuy đã cạo nhưng lại mọc khá dài, có rất nhiều sợi bạc. Sau yên ngựa có một cái bao không lớn lắm, làm bằng vải dầu nên không thấm nước, nhưng áo quần của y đều sũng ướt.

Hồi 6: Cay Đắng Nhân Gian, Khóc Từ La Tiểu Hổ -xa Vời Gió Cát, Hồn Đứt Ngọc Kiều Long

Con người kỳ lạ này bên yên ngựa còn có một thanh kiếm, nước mưa theo chuôi kiếm nhỏ xuống, y đi thẳng vào thôn quay đầu nhìn hai bên. Người trong thôn có lẽ ăn cơm tối xong đã đi ngủ, vì vậy chỉ còn một ngôi nhà cửa làm bằng cành rào còn có ánh đèn như ráng chiều xuyên qua màn mưa mờ mịt.

Người ấy bèn xuống ngựa, y đi chân không chỉ buộc hài cỏ, đi dưới mưa rất tiện. Y một tay dắt ngựa, một tay đẩy cửa, cửa vừa mở ra, y không chút khách khí dắt ngựa vào trong. Viện lạc này không lớn, chỉ có hai gian nhà cỏ. Người kia dắt ngựa vào, trong phòng lại không có ai nghe thấy. Người kia bèn buông ngựa ra kéo cửa vào phòng, nguyên trong phòng ngoài nồi niêu đồ dùng linh tinh chỉ có mấy giá sách, một thư sinh đang đọc sách dưới ánh đèn, chỉ thấy miệng y mấp máy nhưng không hiểu y đọc gì. Lúc ấy thư sinh dĩ nhiên đã nhìn thấy vị khách không mời này, vội đứng dậy hỏi “Ngươi từ đâu tới ? Tại sao không gõ cửa, lại xộc vào phòng ta?”. Vị khách lại giương mắt, chỉ chỉ vào miệng rồi xua xua tay biểu thi y không biết nói. Lúc ấy thư sinh rất ngạc nhiên, tự nhủ “Sao giữa lúc chiều tối trời mưa mà người câm này còn tới như vậy? …, bèn cầm bút định viết chữ hỏi y tới làm gì. Người câm lấy trong người ra một cái bao vải nhỏ ướt sũng đặt lên bàn, mở ra, trong có mấy nén vàng, còn có một tờ giấy. Người câm chỉ vào tờ giấy, trên viết “Cảnh Lục Nương thôn Đồng Hoa huyện Tuy Giang”. Thư sinh xem xong không kìm được kinh ngạc, dán mắt dò xét người câm này. Người câm lại dùng tay ra hiệu hỏi Cảnh Lục Nương đang ở đâu. Thư sinh lại viết mấy dòng hỏi người câm từ đâu tới, tìm Cảnh Lục Nương có chuyện gì ? Nhưng người câm này một chữ cũng không biết nên thư sinh đành theo y ra ngoài, thấy con ngựa, bao gói kiếm, bèn bất chấp mưa dẫn y ra cổng, chỉ gian nhà cách đó hai căn phía tây là nhà người y muốn tìm. Người câm cười chắp tay biểu thị ý cám ơn rồi dắt ngựa đi.

Thư sinh trong này rất ngạc nhiên, quay về phòng, không đọc sách nữa. Mưa đêm rất lớn, y rón rén tới trước cửa nhà Cảnh Lục Nương, đứng cách hàng rào nghe lén. Chỉ nghe bên trong rào có tiếng ngựa hí, cũng có tiếng ú ớ của người câm và tiếng cười hì hì của phụ nữ, vẫn không hiểu rõ là chuyện gì. Thư sinh vừa nghi ngờ vừa tức giận, bèn trở về nhà.

Nguyên thư sinh này tên Cao Lãng Thu, biệt hiệu Vân Nhạn, là Tú tài nhưng nhiều lần thi không đậu, hiện đã hai mươi sáu hai mươi bảy tuổi vẫn là một Sinh viên. Cha mẹ y đều đã mất, nhưng vì y thi mãi không đậu nên hủy hôn ước đã định từ nhỏ. Y có người anh ruột tên Mậu Xuân, làm chức Tri huyện nhỏ ở tỉnh Hà Nam, y chỉ một thân một mình ở đây, có hai gian nhà cỏ, không có nửa mẫu ruộng, cũng không cần làm ruộng. Y chỉ ngày ngày trong phòng viết chữ, vẽ tranh, gãy đàn, đọc sách. Sách y đọc rất phức tạp, không chỉ có cổ văn kinh sử, trên từ thiên văn địa lý, dưới tới y bốc tinh tướng y đều nghiên cứu tập luyện, lại thông hiểu binh thư, tinh thông kiếm pháp, là người nổi tiếng nhất trong thôn, ai cũng biết “Cao tú tài văn võ toàn tài”. Tuy tuổi y không cao nhưng trong thôn có chuyện gì cũng đều muốn tới thỉnh giáo y, y là “Thánh nhân” trong thôn.

Đồng thời trong thôn còn có một phụ nữ ai cũng khinh rẻ nhưng ai cũng sợ hãi, thị chính là Cảnh Lục Nương, ngoại hiệu là Bích nhãn hồ ly. Cha Bích nhãn hồ ly là một tên đại đạo, ba năm trước đã bị quan bắt xử chém, chỉ còn lại một mình thị. Thị bèn đi khắp nơi, thường mấy tháng không quay về. Thị là khuê nữ, lúc ấy chưa quá hai mươi bốn hai mươi lăm tuổi, chưa lấy ai. Nhưng có Văn án tiên sinh trong huyện quen biết với thị, thường ở lại nhà thị, hai người giống như vợ chồng. Văn án tiên sinh là Phí Bá Thân, tuổi khoảng ba mươi, là bạn đồng song của Cao Lãng Thu, hơn nữa còn là bạn kết giao thi tửu.

Lúc ấy Cao Lãng Thu thấy bạn mình mấy hôm nay không tới, người đàn bà ấy lại rủ rê một người câm tới ở chung, y rất tức giận! Hôm sau trời vẫn còn mưa, Phí Bá Thân vẫn chưa từ thành về, Cao Lãng Thu cũng không dám đi tìm.

Y càng không có cớ gì đi tìm Bích nhãn hồ ly chất vấn thay bạn.

Không ngờ qua hai hôm, trời đã tạnh mưa, người câm đó công nhiên ở lại nhà Bích nhãn hồ ly. Bích nhãn hồ ly cũng công nhiên đổi đầu tóc, đổi cách ăn mặc như phụ nữ có chồng, nói với người trong thôn “Chồng ta tới rồi ! Tuy y câm nhưng y rất có tiền, năm ngoái bọn ta quen nhau ở ngoài, có bạn bè làm mai mối. Nhà y trồng rất nhiều trà, y đều bán hết tới đây sống với ta. Hiện bọn ta ít nhất cũng có mấy ngàn lượng bạc, bọn ta muốn mua đất, xây trang trại, còn muốn ẵm bồng con nhỏ!”.

Người trong thôn đều cười thầm chửi thầm y thị, nhưng người câm đó lại rất tốt, ngày ngày mặc y phục giống như một thân sĩ. Tuy không biết nói nhưng gặp người già trong thôn y đều chắp tay cười chào, gặp trẻ con y rất thích xoa đầu, gặp người nghèo khổ y móc tiền ra bố thí. Hơn nữa y thường vào thành mua thuốc, chỉ thêu, vải, thức điểm tâm tặng biếu láng giềng. Mọi người đều được y chào hỏi nên không ai nói y là người xấu, đều gọi y là “Người câm tốt”, khiến Bích nhãn hồ ly cũng rất an phận, vả lại thanh danh cũng dần dần phục hồi.

Sau mười ngày, chợt một hôm Phí Bá Thân tới nhà Cao Lãng Thu hỏi rõ sự tình, hậm hực nói:

“Bọn hồ ly nương đó thật không có lương tâm! Ta không bảo vệ thị ở nha môn thì thị còn có thể ở đây sao ? Thị có mấy vụ án lớn đều nằm trong tay ta, nếu ta nói toạc ra, thị sẽ bị bắt tới nha môn xử tội chết! Nay thị gọi gã câm thô lỗ từ đâu tới, lại công nhiên sống như vợ chồng với thị. Gã câm có nhiều tiền như vậy, chắc cũng là một cường đạo! Lãng Thu huynh, huynh cứ lo chuyện ra tay đánh người, đánh chết hay bị thương đều có ta!”.

Cao Lãng Thu cũng tự khoe kiếm pháp cao siêu, liền xách kiếm cùng đi. Tới nhà gõ cửa vẫn không thấy mở, họ đứng ngoài hàng rào nghe ngóng thì thấy người câm đang dạy Bích nhãn hồ ly luyện võ. Người câm thân thủ mau lẹ, tay quyền như sao băng chớp xẹt. Cao Lãng Thu vừa nhìn thấy, sợ hãi vội giấu thanh kiếm sau một tảng đá, không dám theo Phí Bá Thân đi vào.

Giây lát cửa tre mở ra, Phí Bá Thân xồng xộc bước vào. Cao Lãng Thu đứng ngoài hàng rào nhìn vào, thấy người đàn bà kia như vẫn chưa quên tình cũ, nhìn Phí Bá Thân nói:

“Ngươi đừng ghen, ta lấy y chỉ vì y có tiền và ta học võ với y.

Xưa nay hai ta vui vẻ như vậy, bây giờ vẫn vui vẻ như vậy, chỉ cẩn đừng để y biết là được!”. Người câm đứng bên cạnh ngẩn ra, cũng không rõ vợ y nói gì với người này. Phí Bá Thân trừng mắt hỏi:

“Gã câm này làm ghề gì? Y tên gì?

Là cô muốn lấy y hay y cậy có võ nghệ cưỡng chiếm cô?”. Bích nhãn hồ ly lắc lư tấm thân cao lớn, khuôn mặt dài mỉm cười, sờ đóa hoa cài bên đầu nói:

“Đều không phải! Người câm này tên gì họ gì, ngay ta cũng không rõ. Nhưng tiếng tăm của y rất lớn, trên giang hồ không ai không biết, có nói ngươi cũng không hiểu. Nhưng ngươi cứ yên tâm, ta với y vốn không có tình cảm gì, vì năm ngoái ta tới Giang Nam thăm sư ca, quen y trên đường. Ta biết y là người nổi tiếng nhất trên giang hồ bèn làm quen với y, không ngờ y gặp ta, hỏi ta trú ở đâu, ta bèn nhờ nhà trọ viết chỗ ở cho y. Ta vốn nghĩ đường xa như vậy y quyết không thể tới, không ngờ y tới thật!”. Phí Bá Thân tức giận dẫm chân nói:

“Y tới thật thì cô lấy y thật à?”. Bích nhãn hồ ly cũng sa sầm mặt nói:

“Ngươi đừng trút giận với ta, ta đâu phải vợ ngươi hay người ngươi mua! Đừng nói ta lấy người câm, ta có lấy người mù ngươi cũng không quản được!”. Phí Bá Thân giận run người nói bừa:

“Được, được! Đây là cô nói nhé, ta nhớ rồi, về sau đừng hối hận!”. Hai người cãi nhau, người câm thấy ngứa mắt trợn mắt đá Phí Bá Thân một cước ngã lăn ra đất. Phí Bá Thân gượng ngồi dậy chửi:

“Thằng giặc câm!

Ngươi dám đánh ta à! Ta là tiên sinh của nha môn!”. Ngươi câm lại không biết y nói gì, nắm một chân y ném ra ngoài, thân hình Phí Bá Thân từ trong nhà bay qua hàng rào, huỵch huỵch! “Ối chao !”, xương sườn của y như gãy vụn, không bò dậy nổi nữa. Người câm bên trong đóng cửa lại, Cao Lãng Thu tới dìu bạn về nhà. Phí Bá Thân đau quá nhe cả răng ra, không ngừng chửi mắng, định về nha môn gọi sai dịch tới lập tức bắt cả người câm và tình nhân của y đi. Cao Lãng Thu xua tay nói:

“Không được! Huynh không nghe người đàn bà đó vừa nói sao? Người câm đó quả không phải là nhân vật tầm thường đâu. Huynh không biết chứ võ nghệ của y ta thấy không vừa đâu, nên huynh gọi sai dịch tới không những uổng công đi lại mà còn khiến y trút giận lên huynh, bất cứ lúc nào y cũng có thể giết huynh!”. Phí Bá Thân nghe tới đó càng run cầm cập, đành cắn răng nuốt giận, quay về thành dưỡng thương. Nhưng rốt cuộc y vẫn là Văn án tiên sinh trong nha môn, quyền thế vẫn đáng sợ, vì vậy đến hôm sau Bích nhãn hồ ly Cảnh Lục Nương lại vờ vào thành mua đồ, giấu người câm đến thăm y trước. Từ đó hai người bí mật nối lại tình cũ, nhưng Phí Bá Thân cũng không dám tới thôn Đồng Hoa nữa.

Trong thôn Đồng Hoa người câm vui vẻ hưởng thụ hạnh phúc gia đình mà suốt nửa đời y chưa được hưởng. Lúc rảnh rỗi thì y truyền thụ mấy chiêu võ nghệ cho tình nhân hay dùng tay ra hiệu nói chuyện phiếm với người cùng thôn.

Y đã sớm quên sư đệ Giang Nam Hạc trên núi Cửu Hoa. Nhưng mỗi khi dạy võ cho Cảnh Lục Nương y đều thấy có một người đứng ngoài cửa lén nhìn vào, đó chính là Tú tài bản thôn. Y cũng không thèm để ý, vì chút võ nghệ dạy cho Cảnh Lục Nương này chẳng qua chỉ là một phần trăm trong võ nghệ của y. Cho dù người khác học được hết thì so với y vẫn như ếch ngồi đáy giếng, phù du lay cây, còn kém rất xa!

Cảnh Lục Nương thấy Cao Lãng Thu thường chú ý họ luyện võ, trong lòng rất bực bội nhưng cũng không tiện cản trở, vì y là “Thánh nhân” trong bản thôn và là bạn thân của Phí Bá Thân, hơn nữa biết rõ y là con mọt sách. Tuy y biết sử dụng kiếm, nhưng nếu muốn học lén võ nghệ cao thâm này cũng không dễ.

Cứ thế qua hơn một năm, người câm dần dần nghèo đi, Bích nhãn hồ ly đối xử với y cũng lạnh nhạt dần, lại vì người câm vốn rảnh rỗi thì luyện võ, nhưng chịu không nổi hơn năm mươi tuổi lại lấy vợ, vì vậy y ngày càng suy yếu, dần dần đổ bệnh. Phí Bá Thân lại thường tới trong thôn, bí mật gặp Cảnh Lục Nương bàn tính.

Một hôm, là ngày đầu xuân tháng ba, lại là một buổi chiều mưa lắc rắc, chợt trong nhà người câm vang lên tiếng khóc lóc đau thương. Cao Lãng Thu đang trong phòng một mình nghiên cứu tập luyện võ nghệ mà y học lén lâu nay, chợt nghe âm thanh kỳ dị ấy liền dừng tay bước ra đứng dưới mưa nghiêng tai lắng nghe. Chỉ nghe hai ba tiếng khóc của Cảnh Lục Nương, nhưng lập tức dừng hẳn. Cao Lãng Thu vội đi ra cổng, đi vài bước thì tới nhà Cảnh Lục Nương, đẩy cửa một cái, thấy cửa không động, y bèn thi triển võ nghệ học lén rồi luyện tập mấy ngày vừa qua, vọt qua hàng rào lướt vào phòng. Chỉ thấy người câm đã chết trên giường, thi thể trùm chăn bông lên để lộ mặt ra, nhìn vẻ mặt thê thảm có thể biết người câm chết tuy vì bệnh nhưng cũng còn có nguyên nhân khác.

Bích nhãn hồ ly tự cảm thấy học đủ võ nghệ rồi, tiền dành dụm của người câm lại đã hết sạch, y còn sống là cái đinh trong mắt, vì vậy … trong lòng Cao Lãng Thu hiểu rõ. Bích nhãn hồ ly giả vờ khóc hai tiếng, biểu thị cho hàng xóm biết người câm người câm đã chết, thị lại đang kiểm tra cái bao mà người câm trước nay tuyệt không cho ai đụng đến. Mở bao ra xem, thị vô cùng thất vọng, thì ra hoàn toàn không có vàng bạc mà chỉ có hai quyển sách cũ nát ! Bích nhãn hồ ly không biết chữ, thị đang tức giận, bỗng Cao Lãng Thu lướt vào khiến chị giật nảy mình.

Đôi mắt của Cao Lãng Thu nhìn lên trên bìa sách, y lập tức như nhìn thấy kỳ trân dị bảo, trong lòng mừng rỡ nhưng không lộ ra mặt, chỉ cười nhạt nói:

“Không cần sợ! Ta sớm nghĩ ra Phí Bá Thân và ngươi muốn làm việc này, nhưng các ngươi đâu cần làm thế, y biết tự chết được mà. Yên tâm đi! Ta không tố cáo các ngươi, nhưng ta muốn mượn xem hai quyển sách cũ này!”. Bích nhãn hồ ly cả sách cũng không biết giở ra, chỉ nói:

“Ngươi cầm đi! Thật ta cũng rất hối hận”. Cao Lãng Thu cười nhạt nói:

“Ngươi hối hận cũng đã muộn, về sau hãy đề phòng bạn bè của người chết này tìm ngươi báo thù!”, nói xong cầm sách đi.

Hôm sau, Bích nhãn hồ ly lo việc mai táng người câm, Phí Bá Thân cũng tới giúp đỡ. Cao Lãng Thu từ đó không ra khỏi nhà, qua hơn một tháng, trong thôn không có chuyện gì xảy ra. Cao Lãng Thu lại bán hết nhà cửa và sách vở, rời huyện Tuy Giang đi biệt tích.

Nguyên người câm để lại hai quyển sách, mỗi quyển đều tới bốn năm trăm trang, bìa sách viết “Cửu Hoa quyền kiếm toàn thư, Giang Nam Hạc viết và vẽ”, bên trong tranh nhiều chữ ít. Tuy tranh vẽ đều rất đơn sơ, chữ cũng viết rất xấu, nhưng quyền, kiếm, điểm huyệt mà người già núi Hoa Sơn truyền thụ và đủ thứ loại võ nghệ xuất quỷ nhập thần đều ở trong đó. Hơn nữa vì người vẽ là Giang Nam Hạc tinh thông hết thảy, đầu óc tinh tế, vẽ quyển sách này là để người câm xem, vì vậy không chỗ nào không rõ ràng, nội công ngoại công đều đầy đủ tới nơi tới chốn. Được quyển sách này, nếu chịu bỏ công học tập, không lo không thể luyện theo.

Cao Lãng Thu vốn là người cực kỳ thông minh, lại vốn biết một ít kiếm pháp, vì vậy y được quyển sách này liền đi thẳng tới Hà Nam. Lúc bấy giờ Cao Mậu Xuân anh y đã thăng nhiệm Thông phán phủ Nhữ Nam, rất tương đắc với Tri phủ Hạ Tụng, bèn tiến cử Cao Lãng Thu làm thư biện trong nha môn. Cao Lãng Thu vốn mượn đó để ẩn thân trốn tránh Bích nhãn hồ ly tìm y đòi sách, kỳ thực y thường tìm kiếm chỗ tinh hoa trong hai quyển sách này, mỗi tối nhân lúc mọi người đã ngủ say luyện tập. Ngoài việc làm văn thư trong nha môn hàng ngày thì ngâm thơ uống rượu, người khác chỉ biết là y mê sách, nhưng không biết y đang ngấm ngầm nghiên cứu tập luyện bản lĩnh của phi hiệp.

Lúc ấy trong thành Nhữ Nam có một danh sĩ tên Dương Tiếu Trai, gia đạo giàu có, là người phong lưu phóng túng, khinh đời ngạo vật, gần bốn mươi tuổi vẫn thường lui tới đường hoa ngõ liễu. Y là bạn thân của Phủ đài Hạ đại nhân bản phủ, lại là anh em kết nghĩa với Cao Mậu Xuân, vì vậy quen Cao Lãng Thu.

Hai người thi tửu qua lại rất tương đắc, nhưng Cao Lãng Thu vẫn giấu y chuyện nghiên cứu tập luyện võ nghệ, y cũng không hề biết.

Hôm ấy là tiết Đoan ngọ tháng năm, trong nha môn nhưng việc công, Cao Lãng Thu theo ca ca y tới phủ riêng chúc tết Phủ đài đại nhân và Phủ đài phu nhân xong bèn đi ra khỏi nha môn. Lúc bấy giờ không còn sớm, trời nắng chang chang, y không kìm được ngáp một cái, vì suốt đêm qua không ngủ, đoạn “Câu hồn đoạt phách kiếm” trong sách của người câm khiến y rất mất thời gian, đến lúc ấy y vẫn chưa hiểu rõ. Y vừa đi vừa suy nghĩ, va vào người khác cũng không biết. Đang đi bỗng nghe có người gọi “Lãng Thu huynh!”. Cao Lãng Thu đứng lại nhìn quanh một lúc không thấy ai quen, chợt nghe trên đầu có người nói “Mời lên lầu!”. Cao Lãng Thu bây giờ mới ngẩng lên. Nguyên cạnh đó là một tửu lâu rất nhỏ, Dương Tiếu Trai đang cúi xuống lan can gọi y. Cao Lãng Thu vội vòng tay nói:

“Ồ, ta đang định đi chúc tết huynh !”, rồi bước vào, nguyên dưới lầu là một con đường thông ra viện sau, ở đó dường như có rất nhiều người ở. Y vịn cái cầu thang chật hẹp đi lên, thấy trong đó mới là quầy rượu, chỉ có ba bốn chỗ ngồi, ngoài Dương Tiếu Trai không có tửu khách nào.

Cao Lãng Thu bèn vòng tay cười hỏi:

“Tiếu Trai huynh, hôm nay là tết Đoan ngọ, sao lão huynh không ở nhà uống rượu mà lại tới đây ngồi trơ trọi một mình?”. Dương Tiếu Trai có vẻ ngượng ngùng không đáp, chỉ nói:

“Mời ngồi, mời ngồi, huynh ở đây cũng là một cô khách nơi chân trời, gặp ngày tết chắc có nhiều cảm khái. Nào, huynh và ta cạn một chén đã!”. Cao Lãng Thu hiểu phu nhân trong nhà Dương Tiếu Trai là người rất khó ưa, vợ chồng đều gần tứ tuần mà không có con gái, phu nhân vẫn không cho phép y cưới thiếp. Hôm nay chắc lại cãi nhau nên y mới một mình tới đây uống rượu giải sầu.

Liền đó Dương Tiếu Trai lại quay lại sang chưởng quỹ nói “Hâm một hũ rượu đi !”. Chưởng quỹ dạ một tiếng, quay sang một người sau rèm cửa trong quầy nói một câu. Đợi một lúc thì thấy một bàn tay ngọc nhỏ nhắn từ trong rèm cửa giơ ra, tay áo màu xanh, đưa một hũ rượu cho chưởng quỹ. Chưởng quỹ là một người thấp nhỏ khoảng năm mươi tuổi, y đem hũ rượu tới để trên bàn. Cao Lãng Thu bất giác ngẩn ra, khi chưởng quỹ đã quay đi mới hỏi nhỏ “Chủ quán rượu này có đem gia quyến theo sao?”. Dương Tiếu Trai nói “Chỉ là hai vợ chồng dẫn theo một đứa con gái”, đang nói chợt thấy một cô gái dưới thang đi lên, mặc quần áo mới ngày tết, vóc dáng cũng không đẹp, vội vã đi vào sau rèm cửa trong quầy dẫn ra một cô gái khác cao hơn một chút, vóc dáng cô gái này quả thật xinh đẹp, tuổi không quá mười lăm mười sáu, tóc đen mắt sáng, trên đầu cài một con hổ vàng kết bằng chỉ vàng, đây là kiểu trang điểm trong ngày Đoan ngọ, mặc quần áo màu xanh đọt chuối. Nàng nhìn Dương Tiếu Trai lúng liếng, như cười mà không phải cười, rồi theo cô gái tới tìm xuống lầu. Cao Lãng Thu mới hiểu ra, cười nói:

“Chẳng lạ gì lão huynh hôm nay vẫn tới đây, thì ra trong này không những có rượu, mà còn có mỹ nhân!”. Dương Tiếu Trai nói:

“Huynh thấy trên đầu cô nương đó cài một con hổ bằng chỉ không? Lấy đó làm đề tài, chúng ta mỗi người phải làm một bài thơ, nếu không thì phạt rượu!”, rồi lấy từ trong người hộp mực, giấy bút luôn mang theo ra. Uống một hớp rượu, lập tức làm ra một bài thơ, đưa cho Cao Lãng Thu xem, lại là:

Đoan ngọ nhà nhà treo lá ngải, Ta theo mái tóc ngắm giai nhân, Gió thông trăng núi không gầm thét Muốn cạnh thuyền quyên hóa cọp vằn.

Cao Lãng Thu gật gật đầu nói “Thơ hay lắm!”, rồi cũng làm một bài. Hai người cao hứng uống rượu, bàn luận chuyện kim cổ. Buổi trưa Cao Lãng Thu và Dương Tiếu Trai thường gặp nhau ở tửu lâu này. Y dần dần biết cô nương của tửu lâu này tên Sảnh Cô, chưa gả chồng nhưng vì gia cảnh bần hàn nên mới giúp La Lão Thực cha nàng buôn bán ở đây. Cao Lãng Thu, Dương Tiếu Trai ngày ngày tới đây, đương nhiên dần dần đều quen biết cha con họ La. Nhưng đối với cô nương ấy Cao Lãng Thu không có ý gì, một là vì y thấy Dương Tiếu Trai đã sớm khuynh đảo vì tình, y chẳng qua chỉ là khách làm bạn, hai là vì y chỉ chuyên tâm vào hai quyển sách người câm để lại, sắc đẹp trong mắt y giống như phù vân, không thể lưu lại ấn tượng gì sâu đậm.

Nhưng hôm nay Cao Lãng Thu lại phải hẹn với Dương Tiếu Trai, xong việc nha môn lại tới tửu lâu, mới tới dưới lầu đã nghe ở trên có một tràng tiếng người huyên náo. Y vội chạy lên chỉ thấy hai đại hán đang túm La Lão Thực đánh, người vợ thì đang trong quầy kêu khóc xua tay nói:

“Đừng đánh! Đừng đánh!

Hai vị gia …”. Sảnh Cô thì nép vào người Dương Tiếu Trai, sợ hãi giống như con bướm nhỏ gặp mưa gió núp dưới lá cây, nước mắt lã chã. Dương Tiếu Trai vừa che chở người yêu vừa dẫm chân nói:

“Thật không có vương pháp gì cả !”, vừa thấy Cao Lãng Thu lên lầu, y bèn nói “Lãng Thu huynh! Mau tới nha môn gọi người dẫn hai người này đi!”. Cao Lãng Thu lại xua tay nói “Không cần!

Không cần!”, rồi bước tới kéo hai người kia ra. Hai người quay lại định đánh y, Cao Lãng Thu bèn thi triển cách điểm huyệt học được trong sách, phóng chỉ điểm huyệt hai đại hán to khỏe như trâu ngã lăn ra sàn lầu.

Lúc bấy giờ trên phố có nhiều người nghe tiếng huyên náo chạy lên lầu xem, nhưng vừa thấy hai người kia nằm trên sàn lầu như đã chết, bèn sợ hãi ầm ầm chạy xuống. Chưởng quỹ La Lão Thực bị vỡ đầu chảy máu, ngồi ở chân tường bò dậy không nổi. Y bèn la lên:

“Trời ơi! Lát nữa người của tiêu điếm họ nhất định tới trả thù cho họ, quán rượu này của ta chắc bị phá tan mất!”. Dương Tiếu Trai xua tay nói “Không hề gì! Ngươi đừng sợ, quan tư hai mặt đều có ta”, rồi quay qua Cao Lãng Thu nói:

“Lãng Thu huynh ở đây bảo vệ vợ chồng y, ta đưa cô nương này tới nhà láng giềng tạm tránh cho nàng khỏi kinh sợ!”. Cao Lãng Thu gật đầu nói:

“Được! Cho cô nương tạm xuống lầu tránh cũng được”.

Lúc ấy Cao Lãng Thu hiên ngang đứng chặn ở thang lầu, Dương Tiếu Trai bảo vệ Sảnh Cô xuống lầu, mới xuống mấy bậc thì thấy bên ngoài có mấy đại hán xông vào. Người cầm đầu tuổi khoảng bốn mươi trở lại, tuy không cao lớn nhưng dáng vẻ rất hung dữ, ngực áo phanh ra, tay cầm cương đao, dẫn theo mấy người như định lên lầu trả thù cho hai bằng hữu của họ đã bị điểm huyệt. Y chưa thấy Dương Tiếu Trai nhưng Dương Tiếu Trai đã nhận ra y, bèn đứng lại hỏi:

“Dương lão sư! Sao mấy hôm nay không thấy?”. Người họ Dương kia vừa ngẩng đầu lên, lập tức vẻ mặt giận dữ biến thành hòa hoãn, nói “Ấy, Tiếu Trai đại gia sao ở đây? Ta nghe nói có hai bằng hữu ở trên lầu bị ức hiếp!”. Dương Tiếu Trai xua tay nói:

“Lão sư đừng vội, đều không phải người ngoài, vừa rồi tôi cũng không biết hai vị đó nguyên là bằng hữu của lão sư. Ta đang ở đây uống rượu, họ cũng tới đây uống rượu, nhưng vì chưởng quỹ La Lão Thực thân thiết với ta, chiêu đãi ta rất chu đáo, hơi lạnh nhạt với hai người đó một chút, họ liền nổi giận đánh La Lão Thực. Lúc ấy vừa may có người bạn ta hẹn tới, là một vị tiên sinh họ Cao trong phủ nha, y thấy hai người đánh một người liền bất bình, cho nên …”. Quay đầu thấy Cao Lãng Thu đang đứng giữa cửa cầu thang, y liền kéo xuống nói:

“Đây là Cao tiên sinh, vị này là bạn thân của ta, cũng là thầy của ta, là tiêu đầu nổi tiếng ở Hà Nam Nhữ Châu hiệp Dương Công Cửu”.

Lúc ấy Cao Lãng Thu hướng xuống vòng tay, Dương Công Cửu cũng hướng lên vòng tay, y quay lại đưa cương đao cho người sau lưng, bảo họ không cần lên lầu, nói:

“Đã là người một nhà thì dễ nói chuyện rồi”. Y lộc cộc lên lầu. Dương Tiếu Trai lúc này cũng hoàn toàn yên tâm, nhìn Sảnh Cô nói:

“Không phải sợ!

Vị tiểu thư này là bạn thân với ta hơn hai mươi năm”, rồi lại dẫn Sảnh Cô lên lầu.

Dương Công Cửu trước tiên nhìn chưởng quỹ La Lão thực bị đánh ra sao, rồi cúi nhìn hai tiêu đầu kia đang nằm ngang nằm dọc dưới sàn. Hai người tuy không thể cử động, như bị bán thân bất toại nhưng vẫn không ngừng ngoác miệng chửi to, nhìn Dương Công Cửu nói:

“Tên chưởng quỹ đó, huynh phải báo thù cho chúng tôi, đánh chết gã mặc áo dài kia !”. Dương Công Cửu lại tức giận mắng:

“Ta giúp các ngươi báo thù gì? Các ngươi lén ta tới đây gây sự, bắt nạt người làm ăn lương thiện, cũng nên để các ngươi gặp phải vị lão sư phó này giúp ta quản giáo các ngươi !”. Rồi quay qua Cao Lãng Thu chắp tay nói:

“Thất kính! Thất kính! Không ngờ hôm nay lại được gặp vị lão hành gia phái Võ Đang ở đây, xin giúp huynh đệ giải khai huyệt đạo cho hai kẻ làm thuê này, huynh đệ sẽ bắt chúng tạ lỗi với huynh!”. Cao Lãng Thu nghe câu này cũng rất khó xử, chỉ vì vừa rồi nhất thời tức giận chiếu theo cách trong sách điểm huyệt hai người, không ngờ điểm ngã được thật, nhưng nếu bảo giải huyệt thì y phải quay về nhà tra sách trước. Nhưng nếu trong tay đang có sách y cũng không thể nói rõ, đành trơ mặt ra chắp tay nói:

“Không hề gì, ta chẳng qua cũng chỉ chơi đùa với hai người bọn họ thôi. Nhưng họ đánh La Lão Thực quá nặng, huynh đệ giữa đường thấy chuyện bất bằng nên cho hai người bọn họ nằm nghỉ một lúc, ta ra ngoài dạo một vòng, lát nữa sẽ quay lại giải khai huyệt đạo cho họ”.

Nói xong, Cao Lãng Thu quay người xuống lầu. Y vội vã về nhà, vào phòng lấy một cái rương gỗ nhỏ dưới gầm giường ra, mở khóa lấy ra hai quyển di thư của Á hiệp, lật suốt nửa ngày mới tìm được chỗ dạy cách điểm huyệt. Y miệng thì đọc, tay thì ra thế, hồi lâu mới thuộc đoạn ấy, sau đó cho sách vào rương khóa lại như cũ rồi trở lại quán rượu họ La. Chỉ thấy hai người tiêu đầu kia còn nằm trên sàn lầu, Dương Công Cửu thì đang ngồi đối diện với Dương Tiếu Trai uống rượu. Cao Lãng Thu ung dung không hấp tấp, lúc ấy thi triển cách thức vừa học thuộc giải khai huyệt đạo cho hai người kia. Lại đỡ từng người từng người dậy cười nói “Đắc tội quá !”. Lúc ấy Dương Công Cửu trên mặt lộ vẻ tức giận, nhìn hai người xua tay một cái, hai người kia vừa xấu hổ vừa tức giận xuống lầu ra về.

Dương Tiếu Trai lại kéo Cao Lãng Thu ngồi vào bàn, cười nói “Lãng Thu huynh, ngươi thật là không thành thật với bạn bè, giấu giếm ta quá lâu ! Đến mãi hôm nay ta mới biết ngươi không những là một vị danh sĩ mà còn là một vị hiệp khách !”. Cao Lãng Thu mỉm cườ, Dương Công Cửu khuôn mặt đỏ tía ngẩng lên nói:

“Tiêu điếm của huynh đệ ở Tín Dương, chẳng qua cũng gần đây.

Vì không có ai dẫn kiến, cũng không biết lão huynh là một vị lão hành gia phái Võ Đang, nên còn chưa bái phỏng. Hôm nay thủ hạ của ta đánh người ở đây, được huynh quản thúc cho, ta cũng không nói tới nữa. Nhưng mới rồi ta đã khẩn cầu huynh, Tiếu Trai đại gia lại nói huynh là bạn thân của y, bất kể thế nào cũng nên nể mặt nhau. Nhưng lão huynh ngươi lại không nghĩ tới chuyện giao tình, thật lòng bắt họ nằm ở đây suốt nửa ngày mới chịu giải huyệt cho họ. Ta nghĩ đây nhất định vì huynh đệ thất lễ nên bị lão huynh trách móc!”. Cao Lãng Thu cũng đỏ mặt, xua tay lia lịa nói “Đừng nói thế!”, Dương Tiếu Trai cũng xua xua hai tay nói:

“Xong rồi, xong rồi, uống rượu đi !”. Dương Công Cửu lại lắc đầu nói:

“Nếu không phải vì huynh đệ thất lễ, vậy thì nhất định là vì ta tiếng tăm không lớn, võ nghệ kém cỏi chứ gì ? Được rồi. Ta phải lãnh giáo, sáng sớm ngày mai ngoài cửa Nam Môn, ta sẽ xin vị lão hành gia phái Võ Đang chỉ giáo.

Hẹn gặp lại !”. Nói xong vòng tay đứng lên. Dương Tiếu Trai vội đuổi theo kéo y lại nói:

“Dương lão sư, cần gì phải thế !”. Dương Công Cửu giật tay ra bỏ đi, gót chân nện xuống thang lầu ầm ầm.

Ở đó Cao Lãng Thu sắc mặt trắng bệch, ngồi ngẩn ra không nói gì. Dương Tiếu Trai lại xua tay nói:

“Không hề gì, y hẹn ngươi sáng sớm ngày mai tỷ võ, lúc ấy ngươi không cần tới, ta sẽ tìm y giảng hòa cho hai người là được. Mười năm trước y rất nghèo khổ, nhờ ta giúp đỡ rất nhiều, ta mời y tới nhà làm hộ viện, y mắc bệnh một năm cũng được ta sai người chăm sóc, mời thầy bốc thuốc, mới cứu được y. Về sau lúc y ra đi, ta còn tặng ba mươi lượng bạc, có giao tình như thế, ta nghĩ y không đến nỗi không nể mặt ta !”. Cao Lãng Thu cười nhạt nói:

“Ta sợ gì y ? Sáng mai đánh nhau, còn chưa biết hươu chết về tay ai đâu !”. Dương Tiếu Trai xua xua hai tay nói:

“Không cần, không cần, chúng ta toàn là người tư văn, không thể tranh hơn thua với người giang hồ bọn họ.

Mà nói lại thì Dương Công Cửu quả thật võ nghệ không kém, các hiệp khách nổi tiếng hiện nay như Giang Nam Hạc, Kỷ Quảng Kiệt cũng đều quen biết y!”.

Cao Lãng Thu nghe câu ấy trong lòng càng sợ hãi. Lúc ấy La Lão Thực lại bảo Thiến Cô con gái y tới mời rượu hai vị lão gia. Thiến Cô đổi mặc một bộ quần áo hoa, bưng cho Tiếu Trai một chén rượu ngon. Đối diện với giai nhân, Cao Lãng Thu không kìm được hứng thơ, vuốt râu khẽ ngâm nga, nhưng trong lòng lại rối bời, y bèn ra về, trở lại nha môn ngồi ủ rủ trong phòng, vô cùng hối hận, cảm thấy hôm nay không nên sơ suất bộc lộ võ nghệ, vả lại chính mình cơ bản còn chưa đọc xong hai quyển di thư, ngày mai làm sao dám tỷ võ với một tiêu đầu nổi tiếng trên giang hồ? Cho dù ngày mai có Dương Tiếu Trai đứng giữa giảng hòa, có thể điều đình, nhưng phép điểm huyệt của mình từ đây đã nổi tiếng, trở đi biết đâu bọn Giang Nam Hạc, Kỷ Quảng Kiệt đều muốn tìm tới so tài với mình, thì làm thế nào?

Lo lắng suốt nửa đêm, bèn quyết định phải ly khai chỗ này. Lúc ấy đang đêm viết hai lá thư, một gửi cho Dương Công Cửu, hẹn y sau năm năm sẽ gặp y so tài, một gửi cho Dương Tiếu Trai, là mấy câu thơ từ biệt, ngoài việc khoe khoang so sánh mình với bậc hiệp khách, còn nói mình sẽ đi ngao du ở vùng Lỗ Đông. Còn có hai bài khác thì khuyên Dương Tiếu Trai nên sớm nạp thiếp, lại nói “Mong con cọp vằn bên mái tóc cô em kia sớm giáng lâm nhà huynh, là điềm sinh con trai”. Hôm sau trời vừa sáng, y đã đưa hai lá thư cho người trong nha môn, sai đưa tới chỗ Dương lão gia, còn y thì gói ghém hành lý lên đường.

Y tới thành Kim Lăng, tìm được chỗ ngụ rồi, đổi tên thành “Vân Hạc sơn nhân”, viết chữ bán tranh để sinh sống, ngấm ngầm nghiên cứu hai quyển kỳ thư. Thấm thoát qua năm năm, Cao Lãng Thu tự tin đã học được hết toàn bộ võ nghệ trong đó, bèn trở lại phủ Nhữ Nam. Trước tiên tới thăm anh ruột trong phủ nha, nguyên đến lúc ấy Phủ đài vẫn là Hạ Tụng, Cao Mậu Xuân anh y đã được thăng làm Đồng Tri phủ. Trong phủ nha lại có một vị Văn án tiên sinh vừa tới làm việc, cũng không phải ai khác, chính là Phí Bá Thân bạn thân của Cao Lãng Thu ở quê.

Nguyên vì Phí Bá Thân quen biết với Bích nhãn hồ ly ở huyện Tuy Giang, Bích nhãn hồ ly học được mấy chiêu võ nghệ của Á hiệp, trở thành nữ tặc hoành hành ở một dải sông Kim Sa, còn thỉnh thoảng bảo Phí Bá Thân tới tìm thị. Phí Bá Thân sợ gặp tai họa, lúc ấy bèn tới chỗ Cao Mậu Xuân, làm văn án trong phủ. Y là người khéo chiều chuộng biết lấy lòng, nên tới đó không đầy hai năm đã trở thành người tâm phúc của Hạ Tri phủ. Lúc ấy y vừa thấy Cao Lãng Thu tới bèn kéo Cao Lãng Thu ra một nơi vắng vẻ, thì thào nói:

“Ngươi phải cẩn thận đấy! Bích nhãn hồ ly đang tìm ngươi, nghe thị nói trước đây ngươi lừa thị lấy đi hai quyển sách, là của Á hiệp để lại. Gần đây thị mới biết hai quyển sách ấy rất đáng tiền, thị đang muốn tìm ngươi đòi lại đấy!”. Cao Lãng Thu nghe xong bất giác ha hả cười nhạt. Lại tới thăm Dương Tiếu Trai, té ra Dương Tiếu Trai đã cưới Thiến Cô con gái họ La bán rượu làm thiếp, lại đã sinh được một trai một gái. Đứa con trai ba tuổi đã biết đi tên Dương Báo, đứa con gái mới một tuổi tên Lệ Anh.

Dương Tiếu Trai vừa thấy bạn tri giao lâu năm tìm tới, vô cùng vui mừng, gọi ái thiếp và con cái ra chào. Cao Lãng Thu thấy Thiên Cô phong thái vẫn như xưa, lại vì ăn mặc lộng lẫy nên mường tượng còn đẹp hơn ngày trước. Cao Lãng Thu bèn gọi là Thiến tẩu, chỉ là thấy đứa con trai tên Dương Báo đầu tròn như đầu cọp, y chợt nhớ tới chuyện cũ năm năm về trước. Bấm đốt tay tính thì còn một tháng ba ngày nữa là đến ngày Đoan ngọ tháng năm. Y nhân lúc Thiến Cô quay đi bèn hạ giọng cười cười hỏi Dương Tiếu Trai:

“Lệnh lang thiên tư rất tốt, tương lai chắc chắn không yếu ớt như các ngươi. Nhưng tại sao lại đặt tên là Báo mà không đặt là Hổ ? Chữ Hổ không phải có lai lịch hơn sao? Lão huynh còn nhớ chuyện Thiến tẩu phu nhân cài một con cọp trên tóc ngày Đoan ngọ cách đây năm năm và lá thư huynh đệ gửi lại lúc sắp lên đường không?”. Dương Tiếu Trai cười nói “Chữ Hổ đã dùng rồi”. Bèn hạ giọng kể với Cao Lãng Thu một hồi. Nguyên là Cao Lãng Thu đi được một năm thì Dương Tiếu Trai tuy vợ lớn ghen tuông nên không dám đón Thiến Cô về nhà nhưng đã cưới Thiến Cô làm vợ ở ngoài. Sau đó sinh được một đứa con trai, Dương Tiếu Trai bèn đặt tên là Hổ, gọi là Dương Tiểu Hổ.

Nhưng La Lão Thực tuy là một nhà bán rượu song đã sống ở Nhữ Nam lâu năm, bạn bè rất đông, con gái chưa lấy chồng đã có con nên y cũng cảm thấy mất mặt. Vả lại Dương Tiếu Trai cũng không dám thừa nhận đứa con riêng này, lại gửi Tiểu Hổ ở nhà một người chị dâu trong họ, ngấm ngầm chu cấp cho nó.

Năm nay đứa nhỏ ấy đã năm tuổi nhưng được gọi là La Tiểu Hổ chứ không phải là Dương Tiểu Hổ. Qua năm sau Dương Tiếu Trai lại đón Thiên Cô về nhà, năm ấy lại sinh một con trai, thật ra là đứa con trai thứ hai, án theo chữ Hổ mà đặt tên nên mới gọi là Dương Báo. Dương Tiếu Trai kể lại chuyện bí mật ấy cho Cao Lãng Thu nghe, rồi nói:

“Sắp tới nếu ta chết, nhờ huynh nói cho anh em chúng biết nhau, chúng quả thật là anh em ruột”. Cao Lãng Thu gật đầu, lại chúc mừng Dương Tiếu Trai rồi nói:

“Lần này ta tới đây không vì chuyện gì khác, mà là để gặp lệnh đương gia tiêu đầu Dương Công Cửu, để tròn cái hẹn năm năm!”. Dương Tiếu Trai xua tay nói:

“Dương Công Cửu không thể tỷ võ với ngươi nữa đâu, ba năm trước y đánh nhau với người ta trên giang hồ đã bị trọng thương, chân trái đã bị tàn phế. Năm rồi y lại tới đây đánh người bị thương, bị áp giải tới nha môn, may có ta gởi gắm Hạ phủ đài, y mới được tha”.

Nói xong bèn sai đầy tớ bày tiệc, vẫn sai ái thiếp Thiến Cô của y hầu rượu.

Đang uống rượu trò chuyện vui vẻ, chợt lại có một người khách không mời tới, té ra là Phí Bá Thân.

Vì Phí Bá Thân cũng hay rượu giỏi thơ nên hơn năm nay đã trở thành bạn thân của Dương Công Cửu, ra vào trong nhà, thê thiếp của Dương Công Cửu cũng không tránh mặt. Lúc ấy Dương Tiếu Trai thấy y tới, bèn nói:

“Hay quá!

Bá Thân tới vừa đúng lúc, ngươi và Lãng Thu cũng là cố nhân”. Phí Bá Thân ngoác miệng ra cười, đầu tiên y hỏi Thiến Cô:

“Sáng nay ta bảo người ta đưa điểm tâm tới, cô đã dùng chưa? Đó không phải mua ở ngoài, mà do Hạ phủ đài chính tay nấu nướng đấy!”. Dương Tiếu Trai cười nói:

“Phủ đài đại nhân việc công nhàn rỗi lại biết nấu nướng, có thể nói là một viên Thái thú phong lưu vậy!

Vả lại còn đặc biệt phong lưu, cổ kim chưa từng có! Ha ha ha”. Cao Lãng Thu thấy Phí Bá Thân lại nhìn Thiến Cô một cái, cũng cười cười không nói gì. Tiệc rượu vừa tan, Cao Lãng Thu cùng Dương Tiếu Trai cùng về phủ nha, ngủ chung một phòng. Đêm ấy hai người trò chuyện, Cao Lãng Thu lại biết giao tình giữa Dương Tiếu Trai và Hạ Tri phủ ngày càng thân thiết. Dương Tiếu Trai thường đưa ái thiếp tới phủ nha, vợ con đôi bên cũng thường qua lại với nhau. Đồng thời lại biết vợ lớn của họ Dương ghen tuông, con cái của Thiến Cô thường bị ngược đãi, Dương Tiếu Trai cũng không sao che chở. Cao Lãng Thu bèn hạ giọng dặn y “Dương huynh! Ngươi và ta chơi thân với nhau, ta hy vọng ngươi nhớ kỹ mấy câu này. Một là không nên đi lại quá nhiều với quan phủ, hai là không nên để Thiến Cô gặp người ngoài, ba là ngàn vạn lần không nên gần gũi Phí Bá Thân”. Dương Tiếu Trai gật đầu nói:

“Đúng, đúng, ta với họ chẳng qua cũng chỉ là tùy tiện ứng thù, mà Thiến tẩu của ngươi cũng đã có mấy đứa con, ai còn muốn chiếm đoạt nữa”. Cao Lãng Thu xua tay nói:

“Không phải thế, lòng người khó dò lắm!”. Dương Tiếu Trai gật đầu nói:

“Đúng đúng, ta nghe lời ngươi, ta nhất định nghe lời ngươi!”.

Sau đó Cao Lãng Thu lại ra đi. Y quay lại giang hồ, đi khắp nam bắc, tới đâu cũng lấy tên Vân Hạc sơn nhân vẽ tranh viết chữ để sinh nhai. Có lúc y cũng tìm ngôi chùa cổ nào đó chép kinh cho tăng nhân, ăn nhờ vài hôm, lúc rãnh rỗi lại nghiên cứu chỗ áo bí của hai quyển sách. Y cũng từng bộc lộ qua thân thủ, chế phục khá nhiều bọn hào cường trên giang hồ, giúp đỡ rất nhiều cô nhi quả phụ. Nhưng các kỳ nhân hiệp khách nổi tiếng như Giang Nam Hạc, Kỷ Quảng Kiệt, Lý Phượng Kiệt và các đạo sĩ trên núi Võ Đang thì không gặp được y, y cũng không dám công nhiên so tài với họ.

Vì lúc rảnh rỗi y nhớ tới bạn thân là Dương Tiếu Trai, lại rất không yên tâm, nên ba năm sau y lại tới Nhữ Nam. Tới đó nhìn qua, lại cảm thấy người vật đều thay đổi. Người trong phủ nha tuy không có thay đổi gì lớn, nhưng cổng ngõ nhà Dương Tiếu Trai đã tiêu điều vắng vẻ, trên cổng còn tờ thiếp tang dãi dầu mưa nắng ngã thành màu vàng! Cao Lãng Thu cả kinh, trước tiên tới hỏi anh ruột y, anh y bèn bí mật nói cho y biết:

“Ngươi không biết, bảy tám năm nay việc người thay đổi, Dương Tiếu Trai và Thiến Cô vợ y đều đã chết, một trai hai gái cũng thất tung, không biết hạ lạc ở đâu!”. Cao Lãng Thu cả kinh, lại nghe anh y nói tiếp:

“Lòng ngươi đáng sợ thật, nữ sắc đúng là rước lấy tai họa! Vốn là bảy năm trước Dương Tiếu Trai yêu mến Thiến Cô con gái họ La bán rượu, đồng thời Tri phủ đại nhân bản phủ là Hạ Tụng cũng nhìn thấy Thiến Cô trong kiệu, cho là tuyệt sắc, đã muốn chiếm đoạt. Nhưng vì y là một vị Tri phủ, không thể công nhiên cưới con gái nhà dân làm thiếp, lại vì không có người tâm phúc nào lo việc cho, nên Thiến Cô kia bị Dương Công Cửu cưới mất. Nhưng Hạ Tri phủ vẫn không quên tình, đến nỗi tương tư thành bệnh, về sau Phí Bá Thân tới, y bèn mua chuộc làm tâm phúc, bảo Phí Bá Thân tìm cách cướp Thiến Cô về cho y. Thiến Cô tuy sinh ba con với họ Dương nhưng phong vận vẫn như cũ, tuy xuất thân con nhà thường dân nhưng tính tình cứng rắn. Phí Bá Thân dùng hết trăm phương ngàn kế, đầu tiên lấy lợi dụ dỗ, sau đó dùng quyền dọa dẫm, rốt lại cũng không thành công. Về sau Dương Tiếu Trai cũng biết, y bèn tuyệt giao với hai người Hạ Tụng, Phí Bá Thân. Hai người trong lòng căm hận, năm rồi bèn mượn một vụ xâm chiếm đất đai, bắt Dương Tiếu Trai hạ ngục. Rốt lại Dương Tiếu Trai là một vị danh sĩ, lại có bạn bè ở chỗ Phủ đài đại nhân trên tỉnh, nên chỉ bị giam hơn một tháng thì được tha. Dương Tiếu Trai về tới nhà lại uất ức thành bệnh, Phí Bá Thân còn mặt dày tới thăm hỏi. Y tới thăm cũng không sao, nhưng Dương Tiếu Trai lại không biết uống lầm phải thuốc gì mà bệnh luôn không dậy nổi!”.

Nghe tới đó, Cao Lãng Thu tức giận dẫm chân một cái, anh y lại nói:

“Ngay đêm Dương Tiếu Trai chết, ái thiếp Thiến Cô của y cũng uống thuốc độc tự tử, nghe nói là chết theo chồng, còn để lại một trai tên Dương Báo, hai gái một tên Lệ Anh, một tên Lệ Phương, Lệ Phương mới sinh được tám tháng. Đứa con trai đã nhiều lần bị vợ lớn của Dương Tiếu Trai ngược đãi. Nhưng mùa đông năm ngoái, nhà họ Dương đột nhiên bị cướp, có năm sáu tên cường đạo trên tường nhảy xuống, cướp vàng bạc thì không nói, kỳ quái nhất là ba đứa nhỏ cũng bị bắt đi. Quan trọng hơn là mấy đêm liền trong phủ nha cũng bị trộm cướp quấy rối, may là đề phòng chặt chẽ mới không xảy ra chuyện gì”.

Cao Lãng Thu hiểu rõ chuyện này nhất định là do Nhữ Nam hiệp Dương Công Cửu làm, trong lòng vô cùng khâm phục. Lại nghe anh y nói:

“Nhưng từ đó bọn gian tặc không tới nữa, ba đứa nhỏ đến nay cũng không biết ở đâu!”.

Anh y nói xong, lại dặn Cao Lãng Thu không nên nói với người ngoài, lại nói:

“Tốt nhất là ngươi mau rời khỏi chỗ này, vì Phí Bá Thân hiện đang một mình nắm giữ đại quyền trong nha môn, y tuy chẳng qua chỉ là một vị Văn án tiên sinh nhưng quyền thế còn lớn hơn cả Phủ thừa là ta nữa đấy!”. Cao Lãng Thu lắc đầu cười khẽ nói:

“Không hề gì, bọn tôi là bạn đồng song, tuy y biết tôi với Dương Tiếu Trai ngày trước có giao tình sâu nặng nhưng quyết y không làm gì tôi đâu!”. Kế lại nói:

“Tôi tới thăm hai người quen, ngày mai sẽ đi!”.

Y ra khỏi nha môn, bất giác rơi nước mắt. Tìm tới quán rượu họ La, thấy La Lão Thực và vợ còn bán rượu ở đó. Cao Lãng Thu hạ giọng hỏi chuyện vợ chồng Dương Tiếu Trai thảm tử. Vợ chồng La Lão Thực chỉ rơi nước mắt, biết chắc là con rể chết không minh bạch, con gái đại khái cũng là bị người ta bức tử. Hỏi tới nơi hạ lạc của ba đứa nhỏ, vợ chồng họ chỉ biết là bị cường đạo bắt đi, chứ không biết tên họ của bọn cường đạo và nơi hạ lạc của ba đứa nhỏ. Lại nói:

“Lúc con gái chúng tôi chưa lấy Dương lão gia, Phủ đài quả thật có sai người tới dỗ dành mấy lần, muốn mua Thiến Cô của chúng tôi vào phủ đệ làm a hoàn, lại nói sắp tới sẽ cưới làm dì thái thái. Thiến Cô lại không muốn, chúng tôi thì nghĩ gả cho Dương lão gia dù sao cũng hay hơn bán cho Hạ Phủ đài rất nhiều, nên mới …”. Nói tới đó hai vợ chồng già khóc không thành tiếng. Cao Lãng Thu lại hỏi “Vậy Tiểu Hổ đâu?”. La Lão Thực nói:

“Tiểu Hổ đang chơi đùa ở hiệu quan tài ngoài phố”.

Cao Lãng Thu xuống lầu, theo phố lớn đi về phía nam thì thấy một cửa hiệu bán quan tài, trước cổng có một đám trẻ con. Đám trẻ này lúc người ta có tang, cửa hiệu mua bán thì làm đội nghi trượng, lúc rảnh rỗi thì tụ tập ở đó, ngoài việc đánh bạc ăn tiền thì đánh nhau, đứa nào cũng toàn thân dơ bẩn, quần áo rách rưới như một bầy quỷ đói nhỏ. Cao Lãng Thu gọi “Đứa nào là Tiểu Hổ nhà họ La?”. Có một đứa bảy tám tuổi đang gieo xúc xắc ngẩng đầu lên nói:

“Là tôi! Ông tìm tôi có chuyện gì ?”. Cao Lãng Thu nhìn thấy đứa nhỏ này rất giống Dương Tiếu Trai, lại càng giống em ruột nó là Dương Báo. Cao Lãng Thu gật đầu nói:

“Ngươi lại đây! Ta muốn nói với ngươi vài câu!”. La Tiểu Hổ lắc đầu nói “Không! Tôi đang đánh bạc mà!”. Cao Lãng Thu móc trong người ra một nén bạc, nói:

“Ngươi qua đây, ta cho ngươi nén bạc này”. La Tiểu Hổ thấy nén bạc lập tức đưa ống xúc xắc cho đứa khác, nhảy ngay qua. Bọn trẻ con ở cửa hiệu cũng xúm lại vây quanh Cao Lãng Thu. Cao Lãng Thu bèn nói:

“Các ngươi đi hết đi, ta chỉ tìm nó thôi”. Lúc ấy y dắt La Tiểu Hổ về quán rượu, hỏi:

“Ngươi có biết Dương Tiếu Trai Dương đại gia không?”. Tiểu Hổ nói:

“Tôi biết! Lúc Dương đại gia và vợ y chết có hai cỗ quan tài cùng khiêng ra. Chúng tôi là họ hàng, vợ y là cô tôi”. Cao Lãng Thu trong lòng rất xốn xang, vợ chồng La Lão Thực bên cạnh cũng ôm mặt khóc, nhưng nhìn thái độ của họ thì dường như không muốn thừa nhận La Tiểu Hổ là con riêng của con gái với Dương Tiếu Trai. Cao Lãng Thu phẫn khái một hồi, bèn bảo đem giấy bút viết ngay một bài thơ như sau:

Trời đất tối tăm sinh tai ương, Nhà ta huynh muội quá đau thương.

Cha gặp bất hạnh mẹ tự tử, Con côi may được họ hàng thương.

Nhà ta gia thế người đều biết, Duy có anh em chẳng tỏ tường.

Tên ta là Hổ em tên Báo, Còn có em gái tên Anh Phương.

Cả nhà ly tán làm sao biết, Chỉ mượn lời ca trút oán hờn.

Hai mươi năm nữa như may gặp, Báo oán đền ơn hết vấn vương.

Viết xong, y lấy một chiếc phong bì cho vào dán kín lại đưa cho La Lão Thực, lại nói với Tiểu Hổ:

“Trong phong thư này có một bài thơ, sau mười năm nữa ngươi cứ mở ra, lúc ấy ngươi sẽ hiểu! Ngươi cứ đi khắp nơi ngâm nga, ắt có thể gặp mặt em trai em gái ngươi!”. Tiểu Hổ nói:

“Tôi lấy đâu ra em trai em gái? Tôi chỉ có một mình, cha tôi làm phu khiêng quan tài!”. Cao Lãng Thu cũng không nói rõ với nó, lấy ra ba mươi lượng bạc đưa La Lão Thực dặn cho La Tiểu Hổ đi học, không nên cho nó lêu lổng với đám trẻ con ngoài đường. La Lão Thực gạt lệ gật đầu, nhận lấy số bạc và phong thư, Tiểu Hổ lại lắc đầu nói:

“Tôi không đi học, tôi muốn xuống nam lên bắc, tôi muốn làm lão đạo sĩ, làm lão đạo sĩ hóa duyên khắp nơi, vào ở trong núi, thích đi đâu thì đi, tôi muốn làm anh hùng lục lâm, anh hùng lục lâm không ai dám coi thường, có rượu, có vợ, trong rương đầy vàng bạc!”. Cao Lãng Thu nói:

“Sắp tới nếu ngươi muốn giao du giang hồ thì rất dễ thôi. Mười năm nữa ngươi lớn rồi, có thể tới một nơi tìm ta”. Tiểu Hổ hỏi:

“Nơi nào? Xa không? Nếu gần thì tôi không đi đâu!”. Cao Lãng Thu nói:

“Rất xa, đó là nơi xa nhất, gọi là Tân Cương”. Tiểu Hổ cười, Cao Lãng Thu cho nó nén bạc, lại dặn dò vợ chồng La Lão Thực suốt nửa ngày rồi xuống lầu ra đi. Tiểu Hổ thì đã sớm cầm nén bạc chạy ra cửa hiệu quan tài đánh bạc rồi. Cao Lãng Thu nhìn theo bóng đứa nhỏ bất giác căm tức rơi nước mắt, vốn định tìm Phí Bá Thân đưa y vào đất chết, báo thù cho bạn cũ, trừ hại cho bản địa. Nhưng nghĩ bất kể Phí Bá Thân xấu xa thế nào cũng là bạn đồng song của mình, vả lại chẳng qua y cũng chỉ theo cọp làm ma trành, kẻ thủ ác chính là Tri phủ Hạ Tụng. Nhưng tuy mình mang một thân võ nghệ song làm gì được một vị Tri phủ đại nhân? Y lại uất ức trở về nha môn, không tới gặp Phí Bá Thân, thu dọn hành lý đi ngay trong hôm ấy.

Từ đó Cao Lãng Thu lại lưu lạc giang hồ, đi khắp nơi tìm Nhữ Châu hiệp Dương Công Cửu và anh em Dương Báo, Dương Lệ Anh, Dương Lệ Phương, định nói cho chúng biết chúng còn có một người anh ruột. Lại muốn đọc bài thơ kia cho chúng nghe để sau này anh em chúng có thể nhận ra nhau. Nhưng y đi hết bắc nam, hỏi khắp giang hồ cũng không sao tìm được Dương Công Cửu và ba anh em Dương Báo.

Bất giác đã qua mười mấy năm, lúc ấy ngoài biên nhiều việc, rất nhiều nhân tài đều nhân cơ hội xuất đầu lộ diện, ai cũng thi thố tài năng, kiến lập kỳ công.

Nhưng Cao Lãng Thu vẫn phiêu bạt giang hồ, y đi khắp nơi dâng thư tự tiến cử, nhưng rốt lại cũng không ai dùng y. Về sau y bèn tới Cửu Tư du ngoạn ở Tân Cương, lấy tên là Cao Vân Hạc, đầu thân vào mạc trướng của Lãnh đội đại thần Tân Cương Ngọc đại nhân. Tân Cương vốn là một tỉnh rộng nhất Trung Quốc, rộng bằng mấy tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm Tây, Giang Tô gộp lại. Dân tộc trong thành có người Hán, Mãn, Hồi, Mông Cổ, Sách Luân, Cáp Long Khắc, Đột Quyết, nhưng chính quyền đều do triều đình Đại Thanh thống quản, đặt ra chức Tướng quân và Tuần phủ, lại do Lãnh đội đại thần các doanh chia đóng ở các nơi. Chức Lãnh đội đại thần không khác Tổng trấn bao nhiêu nhưng vì là Khâm sai nên vô cùng quý hiển.

Nơi Ngọc đại nhân đóng quân gọi là huyện Thả Mạt, ngay giữa vùng Tân Cương, phía bắc giáp với sông Tháp Lý Mộc, biển Khổng Tước, phía nam là một thảo nguyên rộng vài trăm dặm, là bãi chăn súc vật của người Mông Cổ, Người Cáp Long Khắc. Phía đông có đường dịch trạm tới thẳng Dương Quan vào tỉnh Cam Túc. Phía tây là Đại Qua Bích, Qua Bích tức sa mạc, là một dải đất muôn dặm cát vàng, không có cả một cọng cỏ. Nhưng phong cảnh gần huyện Thả Mạt lại rất tươi đẹp, vùng Giang Nam nổi tiếng sơn thanh thủy tú cũng không thể sánh bằng. Ở đó có biển biếc mênh mông, có núi cao xanh thẳm, có mấy trăm khoảnh nho như tuyết đỏ rải khắp mặt đất, có cây đào cây hạnh mọc khắp đồng khắp núi cho người ta tùy thích hái quả. Còn có đàn ngựa Cáp Long Khắc, từ trên núi nhìn xuống đông như đàn ong không sao đếm được.

Cho dù người nghèo khổ nhất cũng có một hai trăm con ngựa, đó là sản nghiệp của họ. Thịt ngựa là thức ăn của họ, sữa ngựa là thức uống của họ, lông ngựa lại có thể làm được đủ thứ đồ dùng.

Cao Lãng Thu vừa tới đó đã muốn ở lại, Ngọc đại nhân lại rất thưởng thức y.

Đầu tiên sai y coi việc văn thư trong doanh, sau mời vào phủ dạy học, người y dạy là tiểu thư Kiều Long. Lúc ấy tiểu thư Kiều Long mới bảy tám tuổi, còn là một cô gái nhỏ tự nhiên, hoạt bát, xinh đẹp. Cao Lãng Thu vì là thầy dạy học nên càng tiếp xúc nhiều với Ngọc đại nhân. Ngọc đại nhân cũng thường mời y bàn bạc việc quân vụ, y lại thi triển tài năng, giúp Ngọc đại nhân lập được rất nhiều công lớn, nhưng võ nghệ của y vẫn chưa có cơ hội để bộc lộ.

Lúc ấy y đã chú ý tới cô học trò Ngọc Kiều Long, vì Ngọc Kiều Long bàn chân to, vả lại eo lưng thon, thân thể nhẹ nhàng, tay chân nhanh nhẹn, lúc bảy tám tuổi đã thích cưỡi ngựa, cứ cha mẹ thỉnh thoảng không để mắt tới thì chạy ra khỏi nhà. Thấy ngựa trong nha môn cô ta cũng bất kể là của ai, cởi dây xong là có thể nhảy phóc một cái lên ngựa, phóng ra ngoài thành chơi suốt nửa ngày, chưa thật mỏi mệt thì không về. Đầu tiên cô cũng ngã ngựa mấy lần, nhưng về sau kỵ thuật ngày càng giỏi, ngựa Y Lê nổi tiếng hung dữ cũng dám cưỡi, mà còn phóng như bay, điều khiển tùy ý, người trong nha môn và quân doanh không ai không khâm phục. Vì thế, Cao Lãng Thu đột nhiên nảy ra một ý nghĩ lạ lùng.

Hôm ấy y dạy học xong, bèn khẽ nói với Ngọc Kiều Long:

“Ngươi rất thông minh, vả lại còn hoạt bát hiếu động. Tuy là một cô gái, nhưng tương lai nếu làu thông kinh sử, hiểu biết thư họa, lại tinh thông binh pháp và quyền kiếm võ nghệ cũng có thể làm vinh dự cho gia đình, lưu lại kỳ tích ở nhân gian. Xưa nay tài nữ thì có Ban Chiêu, nữ tướng thì có Tần Lương Ngọc, nữ hiệp thì vẫn chưa có. Thật ra Hồng Tuyến, Nhiếp Ẩn Nương tuy là nữ hiệp trong tiểu thuyết hoang đường, nhưng nói cho đúng một cô gái nếu gặp được thầy giỏi dạy dỗ, chịu khổ cực học tập rèn luyện kiếm pháp và quyền thuật cũng chưa chắc không thể trở thành một vị nữ hiệp. Ta hiện muốn bỏ ra mười năm dạy văn chương, binh pháp và kiếm thuật cho ngươi, muốn gộp cả ba người Ban Chiêu, Tần Lương Ngọc, Hồng Tuyến vào một mình ngươi, cho ngươi làm một kỳ nữ tiền vô cổ nhân hậu vô lai giả, ngươi có muốn không?”. Y lại nói:

“Văn chương, binh pháp ta đều có thể dạy công khai, nhưng kiếm thuật thì ngươi chỉ có thể học lén, không được cho cha mẹ ngươi biết, nếu chuyện lộ ra thì có thể ta không còn được ở đây nữa đâu”. Ngọc Kiều Long là một cô gái nhỏ, nghe thầy nói thế tự nhiên mười phần mừng rỡ. Lúc ấy hàng ngày theo thầy học chữ, chỉ cần có lúc rãnh rỗi Cao Lãng Thu lại sai bọn hầu gái của tiểu thư đi chỗ khác, dạy cô học trò của mình uốn lưng, xuống tấn, phóng cước, đi quyền trong phòng. Buổi tối còn bí mật hẹn với Ngọc Kiều Long, nhân lúc bà vú của nàng đã ngủ say, gọi nàng rón rén tới hoa sảnh phía tây, hai thầy trò dùng một cành tre thay kiếm, tập luyện kiếm pháp. Không đầy hai năm, Ngọc Kiều Long đã có thể nhảy lên nóc nhà. Đến năm thứ ba, Cao Lãng Thu muốn ra ngoài, lúc lên đường y cất một cái rương gỗ vào dưới giường rồi mới đi.

Chiếc rương gỗ ấy của y khóa rất chặt, trong đó có hai quyển di thư của Á hiệp. Lần ấy Cao Lãng Thu đi Hà Nam định đưa La Tiểu Hổ lên Tân Cương, vì bấm đốt tay tính toán thì hiện La Tiểu Hổ đã hai mươi tuổi, đã trưởng thành rồi.

Tới Nhữ Nam, y gặp anh ruột là Cao Mậu Xuân rồi tới thăm vợ chồng La Lão Thực, không ngờ vợ chồng La Lão Thực đều đã mất. Y hỏi người trong họ La, thì La Tiểu Hổ cũng đã thất tung, mười năm trước bị một gã ăn mày lừa dắt đi, hiện cũng không biết lưu lạc nơi đâu. Cao Lãng Thu bất giác vô cùng hối hận, cảm thấy mười năm trước lẽ ra mình nên tới nơi này nhiều hơn, phải chiếu cố cho đứa con côi của bạn cũ nhiều hơn. Lúc ấy anh ruột của y đã lớn tuổi, vẫn còn làm Phủ thừa, có con có cháu, đã cắm rễ ở đất ấy. Tri phủ Hạ Tụng được điều tới nơi khác, Phí Bá Thân cũng đi theo y làm quan. Lúc ấy Cao Lãng Thu lại đi khắp nơi tìm kiếm La Tiểu Hổ và anh em Dương Báo, không ngờ vẫn mờ mịt không có chút tin tức.

Tốn mất nửa năm, y mới trở về Tân Cương, xem lại cái rương gỗ thấy không hề bị đụng tới, mở khóa ra thì hai quyển di thư vẫn còn trong đó. Thư pháp và quyền pháp kiếm pháp bí mật học được của cô học trò đều rất tiến bộ. Lúc ấy Cao Lãng Thu lại thay đổi chương trình cho cô học trò, hàng ngày sáng sớm học kinh sử, thi từ, binh thư, vẽ tranh, viết chữ, ban đêm từ canh ba đến canh tư thì luyện võ ở hoa sảnh phía tây, vô cùng chặt chẽ.

Mấy năm trước Ngọc Kiều Long đã qua mặt được bà vú to béo thích ngủ nướng, ngủ một giấc thì rất khó gọi dậy của nàng, lúc mười bốn tuổi bèn xin với mẹ, nói “Con rất sợ nghe người ta kêu réo, có người trong phòng thì con ngủ không được. Mẹ bảo bà vú dời phòng đi! Cho con một gian phòng, để con ngủ một mình thôi!”. Ngọc phu nhân cũng thường thấy con gái ban ngày mỏi mệt ngáp dài, giống như ngủ không đầy giấc bèn ưng thuận, bảo bà vú dọn ra, sai một a hoàn tên Cán Xuân làm bạn với con gái.

Họ ở trong sương phòng trong hậu viện, chia làm hai gian, giường tiểu thư ở gian trong, giường a hoàn ở gian ngoài thì hàng đêm kéo ra. Nhưng Ngọc Kiều Long cứ bảo a hoàn kéo giường ra ngoài phòng ngủ sát vách, sau chín giờ tối thì nàng không cho a hoàn vào phòng, lại nói “Ngươi không được nói với phu nhân đấy”. A hoàn dĩ không không dám không nghe, nhưng có lúc cũng lắng tai nghe trộm động tĩnh bên trong nhưng cũng không có chuyện gì. Có điều thường có tiếng mài mực, tiếng giở sách và tiếng bước chân đi lại. Cô ta nghĩ nhất định là tiểu thư muốn đọc sách viết chữ ban đêm nên mới sợ có người quấy rầy, nên cũng không nghi ngờ gì. Có điều có lúc trong phòng không có ánh đèn, nhưng lại nghe ở cửa sổ có tiếng động nhỏ rất là kỳ quái, nhưng a hoàn cũng không nghĩ tới việc trở dậy bước vào nhìn thử là chuyện gì.

Lại qua ba năm, Cao Lãng Thu lại xuất du, lúc ấy Ngọc Kiều Long đã mười bốn tuổi. Một đêm sau khi tập luyện một bộ kiếm pháp tân kỳ ở hoa sảnh phía tây, Cao Lãng Thu gọi cho Ngọc Kiều Long vào thư phòng, lấy sách che ánh đèn lại. Y ngồi trên ghế, Ngọc Kiều Long đứng trước mặt, y bèn nói:

“Từ lúc ngươi chín tuổi thì ta bắt đầu dạy võ công cho ngươi, đến nay đã năm năm, võ nghệ của ngươi có thể nói đã học xong toàn bộ, cứ luyện tập cho thuần phục kiếm pháp ta dạy ngươi hôm nay, thì ngươi có thể trở thành một nữ hiệp. Bộ kiếm pháp ta vừa dạy ngươi có tên là Cát vân toái nguyệt đoạn Côn Luân, kiếm pháp phái Võ Đang tới đó là cùng cực, trên đời này ngoài ta ra e chỉ có một mình Giang Nam Hạc là biết thôi. Có điều ngươi học được rồi thì nhất thiết không nên kiêu ngạo, biết võ nghệ chẳng qua là để đề phòng thân chứ không phải để so tài với người khác. Huống hồ trên giang hồ lại không ít kẻ gian tà, có kẻ sức khỏe hơn người, có kẻ sử dụng ám khí khiến người ta khó đề phòng.

Ngươi là một tiểu thư con nhà quan, tuổi lại quá nhỏ, đã chưa gặp đại địch, lại không biết việc đời, ngàn vạn lần không nên tự cao, tùy tiện làm điều bậy bạ, nếu không thì nếu có lỗi lầm lớn, ta cũng không thể cứu ngươi. Ngày mai ta phải đi, ở đây ta có một cái hộp gỗ trong có quyển gia phả của ta, gia thế của ta thì không muốn người ta biết nên ngươi cũng không nên xem trộm, chỉ cần giữ gìn cẩn thận giúp ta là được”.

Nói xong, y viết mấy tờ giấy đóng dấu của mình dán niêm phong cái hộp. Y lén nhìn cô học trò, chỉ thấy Kiều Long gật đầu vâng dạ, hoàn toàn không hỏi trong hộp có gì, trên mặt cũng không có vẻ buồn bã hay ngạc nhiên. Cao Lãng Thu nghĩ thầm rốt lại cô ta còn nhỏ, bộ kỳ thư trong cái hộp này, mình đại khái chỉ học được sáu bảy phần, dạy cho cô ta bất quá chỉ bốn năm phần, vẫn còn giữ lại vài chiêu! Vạn nhất trong tương lai cô ta gây ra chuyện gì không thể dung tha, pháp luật không trị được thì mình vẫn có thể chế phục.

Lúc ấy Ngọc Kiều Long cầm hộp bước ra, Cao Lãng Thu cũng không yên tâm, ngấm ngầm theo sau, thấy cô học trò trở về phòng ngủ. Cao Lãng Thu bèn nhìn trộm qua song cửa sổ, chỉ thấy trong phòng ánh đèn thấp thoáng, Ngọc Kiều Long mở cửa tủ ra cho cái hộp gỗ vào, sau đó khóa tủ lại, tắt đèn đi ngủ, phảng phất như trong hộp có vật gì thì căn bản nàng cũng không để ý, chỉ là sư phụ bảo giữ thì giữ mà thôi.

Hôm sau Cao Lãng Thu rời khỏi huyện Thả Mạt, vượt qua sa mạc Bạch Long Đôi, qua Dương Quan vào tỉnh Cam Túc. Mục đích của y lần này hoàn toàn không phải là tới Hà Nam thăm anh và tìm anh em nhà họ Dương mà vì nghe người ở kinh tới nói gần đây trong kinh xuất hiện một vị thiếu niên hiệp khách tên Lý Mộ Bạch, là vai cháu của Giang Nam Hạc, đồ đệ của Kỷ Quảng Kiệt, con Lý Phượng Kiệt. Y ở kinh thành đánh bại hào kiệt bốn phương, không có ai là đối thủ, danh tiếng lẫy lừng, không ai không khâm phục.

Cao Lãng Thu nghe thế cảm thấy ngứa ngáy, nghĩ thầm “Mình có được hai quyển kỳ thư, tốn mất mười năm mà đến nay chưa từng thử qua lần nào, chẳng lẽ sắp tới mang một thân võ nghệ trong hai quyển sách ấy vào quan tài sao?

Mình cũng nên tìm nơi nào bộc lộ thân thủ, chế phục vài hảo hán có tên tuổi, có thể nhất cử thành danh cho thiên hạ biết Cao Lãng Thu, Cao Vân Hạc ta”. Cho nên lần này y muốn tới thẳng Bắc Kinh gặp Lý Mộ Bạch để so tài một phen.

Không ngờ vừa tới phủ Lương Châu tỉnh Cam Túc, trời đã xế chiều, phóng ngựa tới cửa tây, đang định tìm nhà trọ, chợt nghe có người gọi “Cao Lãng Thu!”, đồng thời có người níu vạt áo sau lưng. Y cả kinh quay lại nhìn, té ra là một bà già ăn mày khoảng năm mươi tuổi! Bà già ăn mày ấy nói:

“Ngươi nhận ra ta không?”. Câu ấy nói bằng giọng vùng sông Kim Sa, Cao Lãng Thu lập tức phát hoảng! Bà già ăn mày lại nói:

“Hai mươi năm trước lúc gã câm chết, ngươi đã lấy hai quyển sách trong nhà ta, bây giờ nên trả lại cho ta!”. Cao Lãng Thu vội nói “Đừng làm ầm lên, chúng ta tìm chỗ nói chuyện”.

Lúc ấy Cao Lãng Thu lại lên ngựa ra khỏi vòm cổng phía tây, bà già ăn mày cũng theo y ra ngoài thành. Cao Lãng Thu xuống ngựa nói chuyện với bà ta dưới nắng chiều. Nguyên bà già ăn mày ấy là Bích nhãn hồ ly Cảnh Lục Nương.

Năm trước y thị vì muốn học võ nghệ mới lấy Á hiệp, về sau tự cảm thấy đã học được võ nghệ, lại ghét Á hiệp cản trở bèn cùng Phí Bá Thân bàn mưu hại chết Á hiệp. Nhưng thị cũng không lấy Phí Bá Thân, lại rời khỏi Vân Nam, đi lại ở một dải Giang Nam, vốn định thả sức hoành hành, chế phục anh hùng hào kiệt ở một dải Đại Giang, nhưng không ngờ liên tiếp đạp phải đinh. Vì lúc ấy Lý Phượng Kiệt vẫn chưa quy ẩn, Giang Nam Hạc thì lúc ra lúc vào không cho những người biết võ nghệ lộng hành ở Giang Nam. Thị lại tới Hà Bắc, nhưng hiệp khách Kỷ Quảng Kiệt ở Hà Bắc cũng không phải dễ đùa, thị cũng không thể đứng vững ở đó được. Thị chỉ còn cách lên vùng Thiểm Cam, làm áp trại phu nhân cho một tên cướp lớn có hơn hai trăm lâu la trên núi. Về sau hang ổ bị tiễu phạt, tên cướp kia bị giết, thì lại một mình hoành hành khắp nơi, cướp bóc tiền bạc, báo thù cho chồng, giết chết rất nhiều người, gây ra rất nhiều vụ án. Quan lại huyện Hội Ninh, huyện Trường Vũ, huyện Phượng Tường, Thái Châu đều sai người truy bắt, đông như sao sa, dày như lưới nhện để bắt Bích nhãn hồ ly.

Thị trốn lánh khắp nơi, bôn ba mấy năm mới tới Lương Châu, cải trang làm ăn mày, tính là tạm thời trốn tránh, không ngờ lại gặp Cao Lãng Thu ở đây.

Lúc ấy thị bám riết Cao Lãng Thu không buông ra, nói:

“Cao Tú tài giỏi thật, năm xưa ngươi lấy hai quyển sách của ta, lúc ấy ta còn chưa biết hai quyển sách ấy có tác dụng gì! Về sau ta mới nghe giang hồ đồn là Giang Nam Hạc đi khắp các tỉnh không những để tìm sư huynh y mà còn để thu hồi hai quyển sách ấy.

Hai quyển sách ấy là bảo bối của họ, bất kể người nào lấy được cũng có thể học được võ nghệ phái Võ Đang như Giang Nam Hạc! Ta không ngờ lại bị ngươi lừa, nhưng không tìm được ngươi. Trong hai mươi năm nay ta mà có được hai quyển sách ấy thì quá hay, cũng không đến nỗi bị người ta coi thường thế này”.

Cao Lãng Thu cười nói:

“May là lúc đầu hai quyển sách ấy đã bị ta lấy đi, nếu không thì không rõ ngươi còn gây ra bao nhiêu chuyện xấu xa nữa!”. Bích nhãn hồ ly nói:

“Ta biết trong hơn hai mươi năm nay nhất định ngươi đã học được một ít nhưng lại không đi lại trên giang hồ, thế thì cũng vô dụng. Ngươi mau trả lại cho ta là được, nếu không ta sẽ tìm Giang Nam Hạc nói với y rằng năm xưa gã câm bị ngươi hại chết, hai quyển sách đang trong tay ngươi”. Cao Lãng Thu khẽ cười nhạt nói:

“Nếu Giang Nam Hạc tìm ta, thì ta lại sợ y à?”. Lúc ấy Cao Lãng Thu đột nhiên ra độc thủ định giết chết Bích nhãn hồ ly trừ hại cho giang hồ, lại có thể không phải trả sách cho thị, cũng không bị cản trở. Nhưng không ngờ y vừa hạ độc thủ thì Bích nhãn hồ ly lập tức đón đỡ, lúc ấy trên bãi cát vàng ngoài đồng, dưới ánh chiều buông, hai người đánh nhau hơn mười hợp.

Quyền pháp của Bích nhãn hồ ly tuy không có chiêu số nào ghê gớm nhưng thân thủ mau lẹ, khí lực mạnh mẽ, Cao Lãng Thu tuy học được nhiều chiêu thức, nhưng tay chân chậm chạp, khí lực cũng không bằng, y bèn nói:

“Đừng đánh nữa, đừng đánh nữa! Ta trả sách lại cho ngươi là xong”. Lại than thở:

“Đáng tiếc ta lấy được hai quyển sách ấy muộn mất mười năm, võ nghệ phải luyện tập căn bản ngay từ lúc nhỏ, ta lúc trung niên mới bắt đầu luyện tập, rốt lại cũng chỉ như đọc sách, không thể dùng được. Ta không đi Bắc Kinh nữa, ngươi theo ta tới Tân Cương lấy sách thôi!”. Lúc ấy y và Bích nhãn hồ ly cùng về Tân Cương, bịa đặt là vợ chồng. Ngọc đại nhân và Ngọc phu nhân thấy Cao sư phụ đưa vợ tới, đương nhiên rất ưu đãi.

Bích nhãn hồ ly cũng quen cải trang, tới nha môn rồi thị ăn ở rất có quy củ, trò chuyện với Cao Lãng Thu rất ôn hòa, cử chỉ rất thân thiết, họ như một đôi vợ chồng già xa cách nhau lâu ngày. Ngọc phu nhân cắt một khu nhỏ trong viện lạc phía tây hoa sảnh, có vài gian phòng, sau phòng có hai gốc cây cao rất yên tĩnh cho họ ở. Hôm ấy tự nhiên Ngọc Kiều Long cũng tới chào sư phụ và sư nương.

Bích nhãn hồ ly lại rất để ý tới Ngọc Kiều Long, hạ giọng nói với Cao Lãng Thu:

“Nữ đệ tử của ngươi xinh đẹp thật! Ta mang nó đi nhé?”. Cao Lãng Thu ngầm đánh Bích nhãn hồ ly một cái rồi bảo Ngọc Kiều Long trả lại cái hộp gỗ cho y. Y nhìn nhìn thấy tờ giấy niêm phong không hề bị bóc ra, trong lòng rất vui vẻ, biết rằng cô học trò nhỏ tuổi này quả thật trung thành có thể tin tưởng.

Tối hôm ấy Cao Lãng Thu và Bích nhãn hồ ly cùng ở trong phòng, lúc ấy đã khuya, lại đang mùa đông lạnh lẽo, bên ngoài gió thổi rất mạnh, trong phòng thắp một ngọn đuốc không sáng lắm. Hai người ngồi đối diện nhau, Cao Lãng Thu bèn gỡ tờ giấy niêm phong, mở ra cho Bích nhãn hồ ly xem, trong sách tuy có rất nhiều hình vẽ nhưng văn tự rất ít, có điều Bích nhãn hồ ly vẫn nhìn mà không hiểu, Cao Lãng Thu lại giảng giải cho thị. Sau đó y khóa chặt cái hộp, đưa Bích nhãn hồ ly ra khỏi phòng, cùng tới tiểu viện trong hoa sảnh phía tây.

Lúc ấy đã quá canh ba, trời tối om, rất ít sao, không có một ai. Trong viện lại khá rộng rãi, lúc ấy Cao Lãng Thu bèn hạ giọng nói với Bích nhãn hồ ly, cho thị biết chiêu thứ nhất là thế nào, chiêu thứ hai là thế nào. Mặt khác trong lòng y lại nghĩ thầm “Nếu đem hết võ nghệ mình học được trong sách ra dạy cho thị, tương lại mụ giặc cướp này lại càng khó chế phục!”. Bích nhãn hồ ly cũng ra sức luyện tập, giả định như trước mặt có địch nhân thì dùng thủ đoạn thế nào để thủ thắng. Hai người đang nghiên cứu luyện tập ở đó, chợt gió thổi tới một làn khói dày, Cao Lãng Thu không kìm được hắt hơi mấy cái, y vội ngăn Bích nhãn hồ ly lại hạ giọng nói:

“Dừng tay lại! Có thấy khói không?”. Làn khói càng lúc càng dày đặc, rõ ràng là một quầng lửa màu đỏ phát ra từ tiểu viện chỗ họ ở.

Cao Lãng Thu cả kinh vội chạy về tiểu viện, chỉ thấy trong phòng lửa cháy bừng bừng, không biết vì sao lại phát hỏa. Cao Lãng Thu xông vào màn khói dày đặc trong phòng, lấy nước trong chậu rửa mặt dập lửa, nhưng nước quá ít, lửa lại lớn, ngọn lửa lại càng bốc cao.

Lúc ấy Bích nhãn hồ ly ở ngoài kêu lớn “Cháy nhà!”. Những người canh gác phát giác ra làn khói cũng khua thanh la ầm lên, người trong nha môn đều giật mình thức dậy, quân lính trong doanh cũng kéo tới, nhất tề xách nước dập lửa.

Sau nửa giờ thì dập tắt lửa, nhưng làn khói dày vẫn cuồn cuộn bốc lên, Cao Lãng Thu bị khói trong phòng hun ngất đi, nếu không có người kéo ra thì y đã chết cháy. Náo loạn ầm ĩ một lúc thì trời đã sáng. Lúc ấy kiểm điểm lại tổn thất thì gian phòng chưa bị cháy hết, nhưng toàn bộ cửa sổ đã cháy thành than, đồ dùng, chăn nệm trong phòng cũng đều thành tro. Cao Lãng Thu một tay cũng bị bỏng, nhưng y giật được một mảnh ván, trên mảnh ván còn dính tờ giấy niêm phong có con dấu của y. Cao Lãng Thu nhìn đống tro không ngừng giẫm chân than thở, cơ hồ phát khóc. Người bên cạnh đều cười nói:

“May mà không ai bị thương, tính ra cũng còn có Thần Phật phù hộ. Đây nhất định là vì Cao sư nương tới, hai vị nói chuyện quá vui vẻ mới không để ý, đại khái là ngọn đèn đổ xuống chăn nệm mới bốc cháy lên”. Cao Lãng Thu nỗi khổ trong lòng không sao nói ra, Ngọc đại nhân cũng không để ý. Lại nghĩ tiền bạc của Cao Lãng Thu dành dụm được mấy năm nay đều bị cháy hết cũng rất thương y, tạm thời xây phòng khác cho vợ chồng y ở. Lại sai người tới dọn dẹp chỗ nhà bị cháy, cung cấp đồ dùng mới cho họ, vẫn cho họ ở đó, Cao Lãng Thu cứ suốt ngày than thở.

Bích nhãn hồ ly nói khẽ:

“Sách đã thành tro rồi, ngươi than thở thì được gì?

Hai mươi năm nay ngươi lại không đọc thuộc lòng hai quyển sách ấy rồi sao?

Ngươi cứ dạy ta bằng miệng bằng tay là được!”. Cao Lãng Thu lại thở dài nói “Sách dày như thế, sâu sắc như thế, vả lại nhiều hình vẽ ít văn tự, ta làm sao có thể nhớ rõ tất cả? Chỉ còn cách nói cho ngươi biết những gì ta nhớ được mà thôi !”, lại nói:

“Như thế cũng hay, trong sách đều là những chiêu số cao siêu của người học võ, nếu bị người tâm địa xấu xa học được thì sắp tới lại không gây ra nhiều tội ác trên đời sao? Cháy đi cũng nhẹ người. Chỉ là ta đã thu nhận đồ đệ, ta vẫn chưa dạy cô ta những chỗ thâm áo trong sách!”. Bích nhãn hồ ly lại hỏi:

“Đồ đệ của ngươi ở đâu?”. Cao Lãng Thu bèn bí mật cho thị biết, nói:

“Ngươi ngàn vạn lần không được nói cho người ngoài là tiểu thư Ngọc Kiều Long trong phủ này là đồ đệ của ta. Ta không những dạy kinh sử cho cô ta, mà còn ngấm ngầm dạy võ nghệ, cô ta đã học võ với ta năm năm, nhưng ta không muốn dạy thêm nữa?”. Cao Lãng Thu đáp:

“Đầu tiên ta muốn dạy cô ta làm nữ hiệp, nhưng về sau ta thấy khí phái giàu sang của cô ta quá nặng. Ta lại nghĩ tương lai cô ta lớn lên nhất định phải lấy chồng nhà quan, nếu cô ta có một thân võ học, lại làm phu nhân của loại quan lại gian ác lại khiến những kẻ sĩ chân chính hành hiệp trượng nghĩa không thể thi triển tài năng, thì việc bất bình trên đời lại càng nhiều!”. Bích nhãn hồ ly vì câu ấy của y lại định sắp tới nắm tiểu thư ở đây vào tay mình, dắt nàng rời nhà qua lại giang hồ, làm một cánh tay cho mình và trả thù những kẻ đối đầu dồn mình tới chỗ cùng đường.

Bích nhãn hồ ly có thâm ý như thế nên làm ra vẻ rất quy quy củ củ, đối xử với phu nhân và tiểu thư rất tốt, nhưng lại ngấm ngầm bức ép Cao Lãng Thu, bắt y nói ra chiêu số võ nghệ, thị lại muốn học những chiêu số tàn độc nhất. Cao Lãng Thu bị thị khống chế, cảm thấy không sao đối phó, đành bịa ra rất nhiều chuyện, nói những vụ án thị đã gây ra trước kia hiện vô cùng khẩn cấp, nha môn đã nhận được công văn của rất nhiều phủ huyện gửi tới, lại có rất nhiều Bổ đầu nổi tiếng đã tới Tân Cương.

Bích nhãn hồ ly nghe thế mới cảm thấy sợ hãi, Cao Lãng Thu lại thường xuyên khuyên thị nên bỏ ác làm lành, làm một người yên phận. Thị cũng cảm thấy ở đây thoải mái hơn nhiều so với việc bôn tẩu trên giang hồ nên cũng yên tâm, hàng ngày khâu vá giặt giũ, lại rất cần kiệm. Có lúc thị cũng theo Ngọc phu nhân và tiểu thư lên chùa thắp hương lạy Phật, nhiều người đều nói vị Cao sư nương này rất tốt, là một người vợ hiền. Chớp mắt đã qua hai năm, trong hai năm ấy tiểu thư Ngọc Kiều Long đã không học võ nữa, còn kinh sử thư họa nàng đã tự mình học được, không cần phải có thầy dạy.

Cao Lãng Thu ở đó chỉ hàng ngày đánh cờ vây với Ngọc đại nhân, cũng như một vị khách suông. Cao sư nương lại trở thành nửa bộc phụ, tất cả áo quần của tiểu thư đều do thị may, tuy không dám để lộ bản tướng trước mặt tiểu thư, nhưng có lúc ngấm ngầm hỏi dò “Võ nghệ của tiểu thư học được tới mức nào?”.

Tiểu thư hạ giọng đáp:

“Quên hết cả rồi! Vốn là ta không muốn học những thứ ấy, nên trước kia sư phụ bảo ta học, về sau ta không thích học nửa, y cũng không muốn dạy nữa”.

Năm ấy Ngọc Kiều Long đã mười sáu tuổi, dáng vẻ ung dung xinh đẹp, giống hệt thiên tiên. Mùa xuân cha nàng về kinh bệ kiến, lại vừa khéo cậu nàng là Đoan tướng quân ra làm Lãnh đội đại thần suất lãnh doanh Cáp Long Khắc tới Y Lê, sai người tới đón gia đình nàng tới Y Lê gặp nhau, lúc ấy hẹn ngày lên đường. Bích nhãn hồ ly Cao sư nương cũng tới Y Lê. Cao Lãng Thu không yên tâm, cũng định đi theo. Trước hôm lên đường một ngày, tất cả mười sáu chiếc xe, năm mươi bốn con ngựa, tám viên sai quan, bốn mươi doanh binh, trên ngựa trên xe không những chở hành lý mà còn mang theo rất nhiều lương khô và vò rượu, trong vò rượu đều là nước sạch. Vì từ đó đi về phía tây phải qua hơn hai trăm dặm sa mạc, suốt ba ngày không nhìn thấy một giọt nước, nếu không chuẩn bị trước thì toàn bộ người ngựa đều phải chết khát. Lần ấy đi từ Y Lê, ngoài Ngọc phu nhân và tiểu thư Ngọc Kiều Long còn mang theo bộc phụ a hoàn và Cao Lãng Thu, Bích nhãn hồ ly, lại có gia quyến của hai viên quan nhỏ trong nha môn, đều cùng tới Y Lê, sau đó qua đường Quy Ninh Lũng Tây.

Đại đội xe ngựa rời thành Thả Mạt đi thẳng về phía tây, tới khu phụ cận thành Thả Mạt còn có rất nhiều người Bát kỳ trong doanh Đa Sách Luân, cày cấy rất nhiều ruộng đất. Trên ruộng ngoài lúa mạch còn trồng nho, nho ở đó không dùng giá đỡ mà bò lan trên mặt đất, trải lá xanh khắp núi khắp đồng.

Cuối tháng ba gió ấm, sắc trời trong xanh, từng đám mây trắng trôi lững lờ. Xe ngựa đi về phía trước, được một ngày, trú lại một nơi giống như thị trấn. Hôm sau hai người lính mở đường ngẩng mặt nhìn trời, nhìn suốt nửa ngày rồi lắc đầu nói “Trời không tốt lắm! Tới Qua Bích nếu có bão thì không xong!”. Lúc ấy có viên sai quan bẩm báo với Ngọc phu nhân. Ngọc phu nhân đã lên xe, cũng không có chủ ý, bèn nói:

“Các ngươi xem đi được thì đi, không đi được thì thôi!”. Lúc ấy tiểu thư bên cạnh lại sai bộc phụ lên tiếng, nói:

“Tiểu thư nói trời tốt thế này, trên trời cả mây cũng không có, sao không đi nữa? Dừng lại ở đây để làm gì?”. Lúc ấy viên sai quan bèn vội ra lệnh:

“Lên đường, đi thôi, chiều mai nhất định phải tới thành Khắc Lý Nhã bằng được”.

Lúc ấy lệnh vừa truyền ra, xe lộc cộc, ngựa hí ran, bụi bặm bốc lên, đoàn xe ngựa như một con rắn dài thuận theo đường lớn đi về phía tây. Người trong quân doanh có kẻ thở dài nói:

“Tới Qua Bích gặp bão chưa quan trọng, nếu gặp phải Bán thiên vân mới là nguy hiểm!”. Lúc ấy phu xe và kỵ mã đều nói về Bán thiên vân, đều có vẻ sợ sệt. Cao Lãng Thu trên xe cũng nói khẽ với Bích nhãn hồ ly:

“Bán thiên vân là tên cướp lớn vừa xuất hiện ở Tân Cương gần đây, thủ hạ có ba trăm lâu la, đều là kiện nhi trên ngựa, thường xuất hiện trên sa mạc, chúng ta phải cẩn thận!”. Bích nhãn hồ ly nói:

“Ta không mang theo binh khí, làm thế nào được?”. Cao Lãng Thu nói:

“Có mang theo cũng vô dụng, nếu ba trăm người của họ nhất tề xông lên thì cho dù chúng ta có võ nghệ như Giang Nam Hạc cũng vô dụng!”. Bích nhãn hồ ly cấu mạnh Cao Lãng Thu một cái, nói:

“Từ nay trở đi chúng ta không được nói tới Giang Nam Hạc nữa!”. Cao Lãng Thu biết Bích nhãn hồ ly rất sợ Giang Nam Hạc, vì sư huynh của Giang Nam Hạc từng chết dưới tay thị, nhưng Cao Lãng Thu lại từ Giang Nam Hạc liên tưởng tới hai quyển kỳ thư bị cháy, lại không kìm được than thở.

Lúc ấy trên xe tiểu thư Ngọc Kiều Long có bộc phụ, trước mặt có ba a hoàn, người ngồi trên càng xe tên Tú Hương. Cô ta quay lại nhìn, chỉ thấy chung quanh là một màu xanh kéo dài tới chân trời, ở đó có hàng ngàn hàng vạn bò dê, lại có nhiều phòng ốc hình tròn, bèn khẽ nói:

“Tiểu thư nhìn kìa, đó là lều của người Mông Cổ!”. Bộc phụ Sử má má cũng kéo tiểu thư mặc y phục bằng đoạn màu phấn ngồi sau lưng bà ta, nói:

“Tiểu thư, mau mọp xuống cửa sổ mà xem!

Đúng là có ý tứ, giống hệt một bức tranh!”. Ngọc Kiều Long lại lắc đầu nói:

“Có ý tứ gì đâu!”. Nàng vươn vươn vai, cầm chiếc khăn tay trắng phủi phủi bụi đất trên tóc. Dưới đùi cảm thấy có vật gì, đó vốn là một thanh bảo kiếm của cha nàng, tên là Đoạn Nguyệt, tuy không thể chém vàng chặt sắt nhưng cũng sắc bén hơn đao kiếm bình thường rất nhiều, bấy giờ nàng lén mẹ mang lên xe.

Xe ngựa nối nhau đi, cỏ dưới đất dần dần ít đi, màu xanh bốn phía cũng dần mất đi, màu đất càng lúc càng đen, tiếng xe ngựa càng lúc càng to, vốn là đã tới sa mạc. Chỉ thấy càng đi càng hoang vu, cát dưới đất càng lúc càng to, lúc đầu còn thỉnh thoảng thấy vài đoàn người Mông Cổ cưỡi lạc đà, dần dần thì không thấy gì nữa, chỉ có cát vàng kéo dài ngàn dặm, một cọng cỏ cũng không có. Đến chỗ ấy, khiến người ta run sợ, khiến người ta tuyệt vọng, đồng thời ngựa dường như cũng đã mỏi, sai quan, quân sĩ, phu xe không ai dám cao giọng trò chuyện, chỉ im lặng đi tới. Cao Lãng Thu thò đầu ra ngoài nhìn nhìn, chỉ thấy mặt trời vàng vọt, sắc trời bốn bên đều mờ mịt, y xua xua tay nói:

“Chỉ sợ có bão. Người mở đường nhất định biết được thời tiết, mà bao nhiêu người thế này lên đường lại chỉ vì một câu nói của tiểu thư!”. Y đang nói một mình như thế, chợt thấy đoàn xe đổi hướng, dường như rẽ lên phía bắc.

Hai doanh binh cưỡi ngựa dẫn đường, xe ngựa phía sau nối theo, bánh xe lăn mau, vó ngựa dồn dập như mưa rào đổ xuống, sông lớn chảy đi, một tràng âm thanh đáng sợ vang lên liên tục không tắt. Đi khoảng mười dặm thì tới một khu đất thấp. Ở đó bốn bề đều có gò cát có thể tránh gió. Lúc ấy, mười sáu chiếc xe đều quây lại như một ngôi thành nhỏ. Sai quan, doanh binh và phu xe đều nói:

“Không đi được nữa, sắp có bão rồi!”. Lúc ấy tiểu thư Ngọc Kiều Long đột nhiên trên xe bước xuống, nàng nhìn nhìn sắc trời, thấy màu trời cũng tối sầm như dưới đất.

Đám xa phu đánh xe, doanh binh cho ngựa ăn, nấu nước, ăn lương khô, tuy chiếc đồng hồ vàng trong người Ngọc Kiều Long mới chỉ mười một giờ hai mươi, chưa đến giữa trưa, nhưng mọi người đều quyết định không đi nữa, có người nằm lăn ra trên mặt cát như chuẩn bị ngủ đêm ở đây. Tú Hương bưng xuống một chén trà, một tô miến gà, Ngọc Kiều Long vừa ngồi lên xe ăn được một chút chợt gió nổi lên, người phu xe vội mời tiểu thư vào trong, buông rèm kỹ rồi chui xuống núp dưới gầm xe. Lúc ấy tiếng gió vi vút vang lên, ào ào càng thổi càng mạnh, trên mui xe như có mưa rơi lộp bộp lộp bộp. Trận gió này cuốn tới vô số cát đá, thế rất mạnh mẽ, như trời long đất lở, biển lật núi dời, bốn phía tối đen, còn tối hơn cả lúc giữa khuya. Lúc ấy tất cả mọi người đều co rúm không dám động đậy, chỉ có tiếng ngựa hí khẽ vang lên trong tiếng gió cát ào ào.

Không biết qua bao lâu, gió dần dần yếu đi, mọi người cũng từ từ trở mình, trời đất dường như cũng dần dần hé mắt ra. Nhưng đột nhiên lại nghe tiếng nhiều người la lên kinh hoảng, nói:

“Bọn cường đạo tới rồi! Bán thiên vân!”.

Lúc ấy một tràng tiếng vó ngựa từ xa phóng tới, như cuồng phong nổi lên lần nữa! Cao Lãng Thu vội nắm chặt thanh kiếm nhảy xuống xe, chỉ thấy cát bay mờ mắt. Y quay đầu dặn Bích nhãn hồ ly:

“Ngươi không nên xuống xe”. Lúc ấy một tràng tiếng vó ngựa theo gió vang tới, chỉ nghe “A, a, giết, giết!”, một tràng tiếng la thét ầm ĩ xen lẫn với tiếng rú. Cao Lãng Thu vung kiếm định xông qua đánh giết nhưng hai mắt y bị cát bay vào không mở ra được. Trước ngực lại bị vó ngựa đá một đá rất nặng, y ngã lăn ra đất. Một con ngựa vọt qua người y, y vội lăn vào gầm xe. Lúc ấy tiếng quát thét, tiếng kêu rú đã làm ù tai y, cát đá bị gió thổi đã đè lên hai chân y, trong lòng y hơi có chút cảm khái, tự nhủ “Mình cũng già rồi! Hai quyển kỳ thư ấy rơi vào tay mình thật uổng, mình bỏ phí mất hai mươi năm!”. Lúc ấy tiếng vó ngựa xa dần, tiếng quát thét chém giết đã tắt, nhưng gió vẫn chưa ngừng, trong tiếng gió cát lại xen tiếng rên rỉ thê thảm.

Cao Lãng Thu bị cát vùi không đứng lên được, lại qua rất lâu gió tắt hẳn mới có người cứu Cao Lãng Thu đứng lên. Chiếc áo bào màu lam, bộ râu bạc của Cao Lãng Thu đều dính đầy cát. Y thở hổn hển, được đỡ lên xe, chỉ thấy Bích nhãn hồ ly ngồi cứng đờ trong xe như đã chết.

Lúc ấy chợt nghe đám sai quan, doanh binh hoảng sợ kêu lên:[Audio] Thần Thoại Đế Hoàng – Tối Cường (dịch)

“Tiểu thư thất tung rồi! Bị cường đạo bắt đi rồi …”. Cao Lãng Thu kinh ngạc, vội lấy lại tinh thần xuống xe bước qua xem, chỉ thấy mọi người đang bới cát, kéo lên rất nhiều xác chết mất tay cụt chân, lại có cả ngựa bị thương và người bị thương đang rên rỉ. Nhưng sai quan kiểm điểm lại nhân số thì chỉ có hai doanh binh bị chết, bốn người bị thương, cường đạo lại chết hơn ba mươi người, bị thương tám người.

Cao Lãng Thu bất giác càng kinh ngạc, lúc ấy chợt nghe tiếng khóc của lão má trên xe tiểu thư, nói:

“Ta cũng không biết tiểu thư đi ra ngoài thế nào! Tiểu thư còn có một thanh bảo kiếm trên xe, cũng không còn nữa! …. Mới rồi ta cũng sợ tới mức ngất đi, cũng không biết cường đạo nào bắt tiểu thư đi !”. Ngọc phu nhân và đám a hoàn cũng khóc lóc trên xe, mấy người sai quan vội suất lãnh đám doanh binh cưỡi ngựa chia nhau đi tìm tung tích tiểu thư.

Lúc ấy Cao Lãng Thu ngẩn ra, nghĩ tới nghĩ lui, trong lòng y đã hoàn toàn hiểu rõ. Từ lần trong phòng phát hỏa cháy mất hai quyển sách tới việc thất tung của Ngọc Kiều Long hiện tại … Y đầu tiên không kìm được đắc ý cười một tiếng, lại thở dài một tiếng, ngã vật xuống xe, hạ giọng nói với Bích nhãn hồ ly:

“Không cần tới Y Lê, ngươi phải chạy mau đi! Nếu không ắt ngươi gặp cái họa sát thân đấy. Vì lúc đầu ta đã làm sai, ta đã nuôi dưỡng một con độc long trên đời!”.

Giữa trận bão cát, lúc giặc tới cướp, tiểu thư Ngọc Kiều Long đột nhiên thất tung. Thật ra lúc ấy bọn cướp đang nhao nháo tháo chạy, vị tiểu thư này đội khăn trắng, mặc áo màu ngân sắc, quần màu thủy lam, đoạt được một con ngựa cao lớn màu đỏ như lửa, cầm thanh kiếm Đoạn Nguyệt đang ráo riết truy sát bọn cướp trên sa mạc.

Bọn cướp kia đều là bộ hạ của tên đại đạo Bán thiên vân, người nào cũng kiêu hãnh tuyệt luân, họ ở giữa gió cát lại như nghê kình giữa biển, ruổi rong qua lại, ngựa khỏe đao dài, nhưng hơn năm mươi người mà không địch nổi một vị tiểu thư, bị Ngọc Kiều Long đánh giết tới mức người này vừa đứng lên người kia lại ngã ngựa. Có người cả người lẫn ngựa đều bị chém chết, có người rơi xuống còn ngựa phóng đi, núp dưới đống cát mới thoát chết.

❮ sau

Avatar

Các bạn đăng ký thành viên hội nhé…!
→Free vip→Đọc và nghe audio truyện/ 0 quảng cáo→Yêu cầu truyện / Ưu Tiên♥Ngoài ra AudioSite là Website do hội Mê Đọc Truyện thành lập – chính vì vậy Đọc Truyện trên website giảm 90% xuất hiện quảng cáo nhé !