1. Home
  2. Truyện Kiếm Hiệp
  3. Phong Kiếm Xuân Thu dịch
  4. Tập 6: Tôn Tẫn thừa cơ thoát nơi cũi sắt – Đông Ba đêm tối xông phá dinh tề (End)

Phong Kiếm Xuân Thu dịch

Tập 6: Tôn Tẫn thừa cơ thoát nơi cũi sắt – Đông Ba đêm tối xông phá dinh tề (End)

❮ sau

Chương 51 : Tôn Tẫn thừa cơ thoát nơi cũi sắt, Đông Ba đêm tối xông phá dinh tề.

Nói về Nam Cực khiến đỡ Bạch Viên đậy, rồi dẫn các tiên rượt tới dinh Tần đòi kim đao bửu phiến. Năm vị đế quân sai Vương Tiễn dẫn quân cung tên hỏa pháo ra dinh ngăn cự. Vương Tiễn vâng lịnh đem quân cung tên hỏa pháp ra đinh ngăn cự.

Vương Tiễn vâng lịnh đem quân ra dinh ngăn cự. Nam Cực cự không nổi, phải dẫn chúng tiên trở về. Vương Tiễn thấy vậy đang muốn thây binh, bỗng thấy giữa không trungrớt xuống một người bị tên, quân sĩ áp lại bắt trói, té ra là Tôn Tẫn. Vương Tiễn rít tên cho Tôn Tẫn rồi dẫn về huỳnh la trướng, Hải Triều ngó thấy mừng, kế ngó Thổ tư vào nói:

“Khi tôi đến cửa tây đài tụ tiên có bắt được tên đồng nhi tên là Bạch Hạc xin đem vào nạp cho Lão tổ”. Hải Triều nói:

“Nay đã bắt được hai gã này thì mai ta sẽ đem hai gã mà đổi lấy mười lăm vị chơn nhơn, rồi cùng Nam Cực giảng hòa, ai về động nấy cho khỏi lụy đến hồng trần. Nhưng còn Tôn Tẫn nhiều lần tác quái, vây đánh cho nó ít trượng để răng tội về sau”. Nói đoạn sai treo đánh Tôn Tẫn.

Còn Bạch Hạc thì hãy cột vào lưng bằng. Thổ Tư vâng lịnh làm liền, xảy thấy Trung Ba tay tả cầm quạt long tu, tay hữu cầm tước huê kim đao, nói với Hải Triều rằng:

“Tôi khi vào trận, lấy được hai thứ này, xin dâng cho lão tổ”. Hải Triều tiếp lấy, vui mừng nói rằng:

“Bần đạo ở trong trận nó, bị mất luôn tám vật báu, nay đế quân lấy được hai vật này, cũng đủ thường lại mấy món kia”. Đang nói chuyện bỗng nghe Tôn Tẫn bị treo, la lớn lên rằng:

“Phải trả kim đao bửu phiến lại cho mau, nếu không lão tổ ra sẽ đến đêy thì bọn mi không còn tánh mạng”. Các vị tiên nói:

“Thằng cụt tháy long tu phiến và tước huê đạo, chắc làm sao nó cũng lộng thần thông mà lấy lại, chi bằng đem nó bỏ vào cũi sắt, dùng bùa ếm trên nê hườn cung thì hơn”. Hải Triều khen phải, tức thì sai bỏ Tôn Tẫn vào cũi rồi ếm bùa chắc chắn.

Còn Bạch Hạc bị trói, nhân lúc vắng người biến ra con muỗi mà bay ra khỏi lưu bằng, rồi biết lại nguyên hình nhắm dinh Tề bay tới.

Nói về Bạch Hạc đồng tử bay về Lâm Tri, Hải Triều ngó thấy song chẳng rượt theo, bèn nói với các tiên rằng:

“Để nó cũng không ích gì, quý hồ phải giữ Tôn Tẫn cho thật chắc thì hơn”.

Nói về bên Tề, Nam Cực bị một trận bèn trở về đài tụ tiên thấy cờ tụ tien ngã nằm dưới đất, còn Bạch Hạc chẳng biết đi đâu, liền co tay đoán biết các việc rồi, kế có các tiên vào báo công, Đông Phương Sóc đang câu tiên tỏa, Liên Huê dân như ý châu, Tây Phương Sóc dâng tên tỏa, Liệp My tiên dân hỗn cầu, Vương Thuyền thì đánh gãy câu tiên đả, Hoạt Phát tiên đốt được dây khổn tiên, Văn Xương đánh bê?

ngọc như ý, Vương Ngao Thâu được câu tiên. Nam Cực thấy vậy rất mình, còn đang khen công các vị, bỗng thấy Bạch Hạc bay về, đem hết các việc từ khi bị Thổ Tư bắt được thuật lại một hồi. Nam Cực nói:

“Nay tuy Tôn Tẫn bị bắt nhốt vào cũi, song Tôn Tẫn có phép diệu vô cùng, chẳng bao lâu cũng sẽ thoát qua khỏi được”. Nói rồi đi bắt Khích Khánh và Khoản Chung, cùng cac tiên trở về Văn Ba điện.

Nói về Tôn Tẫn bị nhốt trong cũi bên Tần, thừa lúc vằng người bèn dùng phép đổi hình lèn ra khỏi cũi tìm kiếm cặp gậy rồi đi lên tới lư bằng đặng trộm lại kim đao, bửu phiến. Thổ Tư và Vận Pháo vâng lệnh coi giữ hai vật báu, thấy Tôn Tẫn ơ?

ngoài đi tới thì vội vàng chạy tới ngăn cản. Tôn Tẫn chỉ gậy nạt rằng:

“Hai gã muốn tốt thì phải mau mau trả kim đao, bửu phiếm lại cho ta, nếu trái lời thì hai gã chẳng còn tánh mạng”. Thổ Tư và Vận Pháo xông tới đánh đùa, Tôn Tẫn cử gậy rước đánh, đánh được ba hiệp, thì Tôn Tẫn quày trâu bỏ chạy, hai chơn nhơn ráng sức rượt theo, ra khỏi lư bằng thì chẳng thấy hình dạng Tôn Tẫn đâu nữa. Quân canh ở lư bằng thấy vậy chạy vào phi báo cùng Hải Triều, Hải Triều cùng Thủy Hoàng và các tiên vội vàng đến cũi xem lại, quả thấy Tôn Tẫn đang nằm trong cũi. Hải Triều sai Vương Tiễn mở cũi dẫn ra coi có thiệt là Tôn Tẫn chăng, rồi dạy quân đánh cho ít trượng.

Vương Tiễn vâng lời, dẫn Tôn Tẫn ra nhìn kỹ, thấy rõ ràng là Tôn Tẫn, sai quân áp lại đánh đùa, đánh thôi người đó kêu la inh ỏi rằng:

“Xin tướng quân hãy xét rõ chân tình, tôi thiệt lá một tên quân vô tội”. Vương Tiễn nghe nói, dạy quân ngừng roi, người đó đến trước mặt Thủy Hoàng mà bẩm rằng:

“Tôi vốn là một tên quân cung tiễn, tên Lý Tứ, vâng lệnh Điện tay hầu cầm cung ra dinh, thình lình hôn mê té nhào xuống đất, đến khi tỉng lại thì thấy bị đòn, tôi thiệt không có tôi tình chi, xin bệ ha.

rộng lượng xét lại”. Thủy Hoàng nghe rồi, trong bụng rất hồ nghi, nói:

“Rõ ràng là Tôn Tẫn nằm trong cũi, bây giờ lại hóa ra một tên quân!” Kế đó thấy Thổ Tư và Văn Pháo thở hồng hộc chạy tới, bẩm rằng:

“Khi nãy Tôn Tẫn lộng phép, đến lư bằng, chúng tôi đánh đuổi ra khỏi lư bằng thì y biến mất, đến chừng vào xét lại lư bằng thì hai vật báu bị mất rồi”. Hải Triều nghe xong giận lắm, nói rằng:

“Tôn Tẫn dám tác quái khi ta, ta quết chẳng dung ỵ Bây giờ hai đứa đều trốn hết ta phải liệu kế cứu mười lăm vị chơn nhơn”. Đông Ba nói:

“Canh ba đêm nay để tôi đi đến dinh Tề, cứu các vị chơn nhơn ra rồi dùng lửa đốt cho thành Lâm Tri cháy ra tro bụi”. Hải Triều hỏi:

“Có cần ai cùng đỉ” Đông Ba nói:

“Xin cho Tử Trước cùng đi là đủ”.

Nói về Tôn Tẫn lấy được bửu bối, đem về ra mắt Nam Cực. Nam Cực vui mừng chẳng xiết, xảy đâu một trận gió lạnh thoáng quạ Nam Cực liền bấm tay đoán quẻ, rồi thất kinh nói:

“Đêm nay có Đông Ba đến cướp ngục rồi dùng ta muộn chơn hỏa đốt dinh tạ Lửa tam muội vốn rất kỳ diệu, gặp nước chẳng tắt, mà lại tực thể thêm dầu, duy chỉ có Tứ Hải Long vương làm mưa mới tắt được. Vậy ta phải thỉnh Tứ Hải Long vương đặng phá phép ấy, rồi thừa cơ đánh cho bọn Đông Ba hoảng vía kinh hồn”. Nói rồi sai đòi các tiên vào dặn kế, các tiên lãnh lệnh rồi đi, Nam Cực ra ngoài trướng, xem thấy giữa không trung có một người thì biết ngay là Tử Trước toan xuống cướp ngục. Nam Cực bay tuốt lên mây hươi như ý nhắm Tử Trước đánh tới, Tử Tước múa gươm đánh đỡ, hai người đánh vùi một trận rất hung.

Đông Ba thấy Nam Cực mắc đánh với Tử Trước thì lật đật bay lên xuống dinh tề, nhắm tiên lao đi tới.

Tới nơi thấy ngoài cửa dán linh phù, Đông Ba vừa bước đến gỡ bùa thì Mao Toại và Bạch Viên ngó thấy, bèn đốt pháp làm hiệu, các tiên bốn mặt áp tới vây phu?

Đông Bạ Đông Ba ráng sức tả xông hữu đột, một cây như y đỡ gậy Vương Thuyền, ngăn búa Vương Ngao, bắt trượng Đông Phương Sóc, đỡ côn Tây Phương Sóc, ngăn roi Phục Hổ, đánh vọt chùy Giáng Long; Đông Ba tuổi tuy già song sức còn mạnh, một mình cự nổi đám tiên, phá trùng vây thoát chạy, các tiên chẳng dám rượt thoe.

Đông Ba tuốt thẳng đến dinh Tề định đốt Bạch Hổ điện, tới nơi vời toan bắt ấn hóa phép, bỗng thấy Tôn Tẫn cỡi trâu đi lại. Đông Ba liệu không dùng phép được bèn lén chạy ra cửa đông, toan dùng phép lửa, xảy đâu Liệp My tiên ở trên không bay xuống, hươi kích đâm Đông Ba, Đông Ba múa như ý rước đánh, đánh được vài hiệp thì Liệp Mi tiên liền liệng đả thần đánh trúng con thanh loan của Đông Ba cỡi, Thanh Loan đập cánh bay qua phía Nam, Xảy gặp Liên HUê chận đánh. Đông Ba hóa lửa đốt liền, Liên Huê hả miệng nhả ra một bông sen, ngăn lửa không cho cháy tới mình. Đông Ba liệu đánh chẳng lại, bèn quày mình bay tới cửa tây, bỗng lại gặp Vân Xương cản đánh, hai người đánh nhau hơn hai mươi hiệp, kế có Trường tiếu đến đánh giúp sức Văn Xương, Đông Ba không đánh nữa, giục thanh loan bay tuốt lên mây, vừa gặp lúc Nam Cực liệng tiên thiên đại ra, rút Tử Trước vào túi. Đông Ba thấy vậy bèn kêu lớn rằng:

“Nam Cực chớ có vô lễ, có ta là Đông Ba đế quân đến đây”.

Chương 52 : Tôn Tẫn ngủ quên mất tiên thiên đại, Hải Triều hai lượt cướp tỏa tiên lao

Tôn Tẫn ngủ quên mất tiên thiên đại
Hải Triều hai lượt cướp tỏa tiên lao

Nói về Nam Cực thấy Đông Ba rượt tới thì đứng lại cười nói:

“Mi đã già mà còn học thói ăn cướp, lẽ thì mau mau về dinh Tần trốn cho khỏi xấu, sao còn dám rượt theo tả” Đông Ba nói:

“Vì ngươi giam lắm các chơn nhơn nên ta phải ra tay cứu.

Nay ngươi lại cả gan dám bắt Tử Trước của ta, ta quyết chẳng cho ngươi chạy thoát”.

Nói rồi hươi như ý đánh liền, Nam Cực hươi kim câu lên đỡ, rồi bỏ cái tiên thiên đại rớt xuống, bọn Vương Thuyền lượm lấy xong đềubay bổng lên mây, áp vào vây phu?

Đông Bạ Đông Ba liệu thế không lại, bèn quày thanh loan bỏ chạy. Nam Cực chẳng rượt theo, liền dẩn chúng tiên về Văn Ba điện. Nam Cực dạy đem túi tiên đại mở ra, bắt Tử Trước đem bỏ vào tỏa tiên lao.

Nói về Hải Triều cùng các tiên ngồi ở lư bằng đợi nghe tin Đông Ba, mãi đến canh năm mới thấy Đông Ba thua trận trở về, đem chuyện bên Lâm Tri có phòng bi.

mà thuật lại một hồi. Hải Triều tham nói:

“Ta có hai mươi bốn động chơn nhơn mà đã hai mươi bị chết, mười lăm bị bắt, nay Tử Trước lại bị bắt nữa, lòng ta không khỏi lo phiền. Ta đêm nay quyết tới dinh Tề, trước là cứu các học trò, sau là đánh cho Nam Cực một trận kinh hồn, cho hả lòng tức giận”. Nói rồi kêu Bạch hạc dạy rằng:

“Đến canh ba đêm nay ngươi biến làm hình ta, đến cửa đông thành Lâm Tri, kêu Nam Cực ra mà đánh với nó, đặng ra lén vào thành cứu các chơn nhơn và lấy tiên thiên đại, nếu ta vào thành làm xong việc rồi thì ta nổi sấm hiệu, chừng ngươi phải về dinh, phòng có việc chi xảy đến, còn ta cứu được các chơn nhơn rồi, ta sẽ cùng Nam Cực giao phòng”. Dạy rồi gọi bọn Phiên Giang, Đảo Hải và Cách Diện mà bảo rằng:

“Phiên Giang biến hình ta đánh cửa tây, Đảo Hải biến hình ta đánh cửa nam.

Cách Diện biến hình ta đánh cửa bắc. Và ba người phải làm y như lời ta đã dạy Bạch Hạc”. Bốn người lãnh lệnh đi liền.

Nói về bên Tề, Nam Cực các tiên mà nói rằng:

“Khi hôm Tử Trước bị ta bắt chắc là Hải Triều chẳng chịu ngồi yên, vậy Tôn Liễu Nhứt hãy đoán coi thế nào cho biết”. Tôn Tẫn co tay suy đoán rồi nói với Nam Cực rằng:

“Đến canh ba đêm nay Hải Triều sai bốn tên học trò biến giả hình va, đến bốn cửa thành lừa cho bọn ta ra đánh, còn Hải Triều lén vào thành cứu các chơn nhơn và trộm tiên thiên đại”. Đông Phương Sóc nghe xong liền nói:

“Hải Triều dùng kế ấy chẳng qua là sợ chúng ta đông ngưởi, nên phải chia ra mà đánh. Nếu va chẳng đến thì thôi, bằng va đến ta nên tương kế tựu kế, làm cho va biết ta lợi hại. Nay lão tổi khá sai mấy người gia hình lão tổ và Tôn chơn nhơn tới bốn cửa thành đón đánh, còn lảo tổ thì giữ tỏa tiên lao chúng tiến mai phục hai bên đó, chờ cho va đến áp lại phủ vây, tuy không bắt được, song làm cho va một chuyến kinh hồn”. Nam Cực khen phải, tức thì Đông Phương Sóc giả hình mình. Liên Huê giả hình Tôn Tẫn, tới giử cửa đông:

Giáng Long giả hình mình, Phục Hổ giả hình Tôn Tẫn, tới giữ cửa bắc. Bạch Viên giả hình mình tới giữ cửa nam, cửa này thiếu một người Tôn Tẫn cũng được. Tây Phương Sóc giả hình mình. Mao Toại giả hình Tôn Tẫn, tới giữ cửa Tây, Mao Toại thấy sai mình giả hình Tôn Tẫn thì la rối rít lên rằng:

“Không! Không! Tôi khôn biến hình làm Tôn Tẫn tam ca tôi đâu, lão tổ sai ai thì sai, chớ tôi không khứng chịu, và hồi trận tụ tiên tôi đã biến làm tam ca tôi có nhiều đìeu bất lợi lắm, tôi đâu còn dám biến làm tam ca tôi nữa. Thôi Lão tổ cho tôi biến làm lão tổ, để Tây Phương Sóc tiên trưởng biên làm tam ca tôi”. Các tiên nghe nói tức cười. Nam Cực y cho như vậy, rồi lại gọi Vân Xương, Hạo Phát Lục My, Vinh Câu, Trường My, đại Đẩu, Trường Tiếu, và Đởm Phúc mà dạy rằng:

“Tám người mỗi người lãnh một cái hình bằng giấy, hễ nghe sấm nổ lần thứ ba thì bỏ hình nhơn lại đó mà trở về điện Văn Ba”. Các tiên lãnh lệnh đi rồi, Nam Cực lại sai Vương Thuyền, Vương Ngao tới giữa tỏa tiên lao và lãnh trị hỏa trảo phòng khi lửa đốt, còn Tôn Tẫn thì giữ Văn ba điện, phải biến hóa như vậy…

Như vầy…. Điều khiển xong rồi, chờ đến canh ba ai lo việc nấy.

Nói về bốn người Hải Triều giả, đúng canh ba tới vây đánh bốn cửa thành Lâm Tri, quân vào phi báo, mấy người Nam Cực giả và Tôn Tẫn giả ra thành nghinh địch, Hải Triều giả cùng Nam Cực giả, Tôn Tẫn giả gặp nhau đánh đùa một trận rất hung, Hải Triều thiệt nghe tiếng la inh ỏi thì tưởng là bên Tề mắc kế thì cả mừng, bèn bay lén tới điện Văn Ba, ngó thấy Tôn Tẫn đang ngồi dựa ghế ngủ quên, Hải Triều liền bước tới xách lấy tiên thiên đại và gậy trầm hương rồi tuốt đến tỏa tiên lao đặng cứu các chơn nhơn. Vừa tới nơi thì gặp Vương Thuyền, Vương Ngao chận lại nạt rằng:

“Khen mi thật to gan, bỗng dưng dám tới vuốt râu hùm”. Nói rồi xốc tối đánh nhầu, Hải Triều hươi gươm rước đánh, đánh được mười hiệp thì thấy Tôn Tẫn cầm gươm nga mi chạy tới, nhắm Hải Triều đánh liền, Hải Triều hươi gươm đánh đỡ, một mình đánh với ba người, sau nghĩ thầm rằng:

“Liệu thế ta chưa cứu được các chơn nhơn ngay lúc bây giờ, chi bằng ta hãy về đinh, kẻo ở đây lâu e có điều không tiện”. Nghĩ rồi bèn hóa kim quang bay bổng lên không, xảy nghe sấm nổ, Nam Cực và tám vi.

táng tiân bay lại vây đánh Hải Triều.

Lúc ấy các Hải Triều giả đang đánh với các Nam Cực giả và Tôn Tẫn giả, bỗng nghe sấm nổ, tưởng là hiệu lệnh của thầy mình bèn lui về giữ dinh Tần. Khi về tới nơi thấy ngoài thành bốn người Nam Cực và ba người Tôn Tẫn rượt theo kêu đánh.

Lúc đó tướng binh Tần mới rõ là các Nam Cực và Tôn Tẫn của là giả hết. Bọn Hải Triều giả lại mở cửa thành ra đánh, giả đánh với giả, đánh đùa một trận rất dữ.

Nói về Hải Triều thiệt đánh với Nam Cực thiệt cùng các tiên, Hải Triều liệng thiên đại đặng thâu các tiên vào túi. Nam Cực thấy vậy, ra hiệu cho các tiên liệng hình chân nhân bằng giấy lên, rồi ẩn mình bay xuống đất, theo Nam Cực về điện Văn Bạ Hải Triều tưởng là thâu được tám vị táng tiên, bèn xách túi bay thẳng về đinh.

Chương 53 : Hải Triều thánh nhơn ba lần cướp ngục, Quản Văn tiên tử cả loạn dinh Tần

Nói về Hải Triều khi bay về dinh, ngó thấy bốn Hải Triều giả đang đánh với bốn Nam Cực giả và ba Tôn Tẫn giả, thì vội kêu bốn Hải Triều giả cùng trở về dinh. Tới nơi thì trời vừa sáng, Hải Triều đem mội việc tâu lại với Thủy Hoàng, rồi cầm tiên thiên đại mở ra chẳng thấy tám vị táng tiên, chỉ thấy tám cái hình nhơn bằng giấy, còn cặp trầm hương thì là hai cây tre, mà tiên thiên đại cũng là một cái bao vải, Hải Triều khí giận xung lên, liền xách gươm cù long, toan bước ra đinh đi tuốt đến đánh Nam Cực. Ngũ Lão thấy vậy bước tới cản ngăn, Trung Ba đế quân nói:

“Xin lão tô?

hãy bớt giận đặng tính kế hay hơn. Hai lần cướp ngục đều bị Nam Cực và Tôn Tẫn biết trước đề phòng, nên không thành công được. Đêm nay năm chúng tôi đều xin đến Lâm Tri, nếu Nam Cực không đề phòng thì hẳng thành công được, bằng có đề phòng thì chúng tôi dùng phép tiên tiên, thì thành Lâm Trì sẽ hóa ra nơi bình địa” Hải Triều nghe nói cả mừng, bèn theo lời ngũ lão chờ đến ba khởi sự.

Lúc ấy ở bên Tề, Tôn Tẫn đã đoán quẻ biết rõ, bèn đem chuyện đó thuật lại cho Nam Cực. Nam Cực nói:

“Pháp diệu của ngũ lão, thì đến tam giáo thánh nhơn cũng khó làm chi nổi. Bọn va tu luyện sống lâu bằng trời, cùng mặt nhật, mặt nguyệt đồng sáng, nên xưng làm năm vua trong năm phương, làm đầu ngũ hành. Đông Ba thì chấp chưởng phương đông, làm đầu trong ngũ hành. Đông Ba thì chấp chưởng phương đông, đông thuộc mộc, mộc năng sanh hỏa, hễ dùng lửa ấy thì cỏ cây muôn dặm cũng đều tan nát. Bắc Ba tinh khí thuộc thủy, dùng đến nước ấy thì dầu núi Thái Sơn cũng chảng ngăn lại được. Nam Ba chấp chưởng binh đinh hỏa, lửa đó không có vật chi ngăn cản được. Tây Ba chấp chưởng canh tân kim, luyện thành kim đao, kim đao ấy có phép thâu hết thảy các đồ binh khí của phảm gian. Còn Trung Ba chấp chưởng Mậu Kỷ thổ, dùng đến đất ấy thì dầu xa muôn dậm các vật đều bị đè xuống. Phép tiên thiên của bọn va thiệt rất nên lợi hại lắm”. Nam Cực vừa nói xong thì Tôn Tẫn bẩm ràng:

“Nếu bọn va chẳng dùng đến phép báu làm chi, khi đó ta nhân kế ra mưu, làm như vầy…. Như vầy…. Khi khá cứu đặng cơn gấp rút”. Nam Cực nghe kế rất hay, bèn dạy Vương Thuyền, Vương Ngao, Bạch Viên, Mao Toại, tới canh ba đến tỏa tiên lao, đem hết các chơn nhơn sang điện phía tây, rồi bốn người giữa gìn cho nghiêm ngặt. Bốm người lãnh lịnh đi rồi, Nam Cực dạy Đông Trĩ Quan ra chùa Tam Thanh ở cửa cấm môn, lấy mười lăm pho tưởng đất, đúng đến canh ba đem bỏ vào tỏa tiên lao. Điều khiển xong rồi, Nam Cực và Tôn Tẫn cùng các tiên ngồi ở điện Văn Ba đợi giờ làm việc.

Nói về bên dinh Tần, khi gần tới canh ba, Hải Triều bảo Trung Ba bói xem các chơn nhơ còn để đó hay Nam Cực đã đưa đi chỗ nào rồi. Trung Ba bói xong nói rằng:

“Quả còn ở đó”. (Vốn Hải Triều chỉ bảo Trung Ba bói xem các chơn nhơn có còn ơ?

đó không, chớ không bảo các việc khác, nên Trung Ba nói một sự đó thôi. Trung Ba bói thấy các chơn nhơn còn ở tỏa tiên lao, vì lúc đó chưa đến canh ba nên các chơn nhơn chưa bị đem đi chỗ khác). Bói xong rồi Hải Triều bèn cùng Ngũ lão cỡi mây bay tới Lâm Trị Đến nơi ngó thấy vắng lặng, thì tưởng là Nam Cực chẳng có đề phòng, bọn Hải Triều bèn dùng phép ẩm thân tới Văn Ba điện thấy Nam Cực và Tôn Tẫn cùng các tiên ông đang ngồi nói chuyện, song nhìn mãi chẳng thấy Vương Thuyền, Vương Ngao, Bạch Viên, Mao Toại ở đâu. Hải Triều nói:

“Bọn Vương Thuyền, Vương Ngao, Bạch Viên, Mao Toại chẳng thấy ở đây, chắc là chúng nó giữ tỏa tiên lao”. Đông Ba nói:

“Bốn người đó giữ thì càng dễ lắm”.

Nói đoạn cùng đi tới tỏa tiên lao, chẳng thấy bóng người chi hết Hải Triều liền bước tới gỡ bùa trên cửa rồi đi thẳng vào trong, bỗng phía ngoài có tiếng la hét om sòm. Tôn Tẫn cỡi trâu chạy tới, ngũ lão thấy vậy vội vàng ra ngăn đánh Tôn Tẫn, đê?

một mình Hải Triều vào cứu chơn nhơn. Hải Triều khi vào tới trong tỏa tiên lao thấy tối đem mù mịt bèn dùng gươm cù long chỉ ra, tức thì xẹt lên một làn kim quang sáng chói, ngó thấy mười lăm tên học trò ngồi chung một chỗ thì kêu rằng:

“Các trò hãy mau mau theo ta thoát ngục”. Kêu rồi không nghe tiếng đáp lại. Hải Triều tưởng các học trò còn bị bùa mê liền lấy vô cực đồ trải ra thây hết các học trò bay tuốt ra khỏi tỏa tiên lao, nhắm dinh Tân bay tới. Lúc bấy giờ Hải Triều cứu được các chơn nhơn bay về rồi thì chẳng đánh nữa đều cỡi mây bay hết về Tần. Ngũ lão theo Hải Triều vào đại trướng ra mắt Thủy Hoàng, Thủy Hoàng rất mừng, bèn rước bọn Hải Triều cùng mười lăm vị chơn nhơn vào nơi đại điện rồi truyền bày yến chay ăn mừng, dạy Tử Lăng và Vương Tiễn bồi yến mười lăm vị chơn nhơn.

Hai người vâng lệnh rồi theo thứ tự mời các chơn nhơn, song các chơn nhơn chẳng ăn mà cũng chẳng nói làm sao. Vương, Kim mời đến hai ba lượt cũng đều như vậy. Hải Triều ngó thấy nói rằng:

“Có lẽ các học trò của ta bị Nam Cực trấn yếm đã lâu, nên hãy còn mê muội, thôi để ta làm phép cứu tỉnh các học trò ta” Nói rồi dạy quân lấy một chén nước lạnh, Hải Triều dùng nước phung vào mặt các chơn nhơn.

Tức thì các chơn nhơn đó biến lại nguyên hình tượng đất làm cho đại điện vua Tần trong như chùa miễu. Hải Triều cùng ngũ lão xem thấy cả giận, sai Tử Lăng, Vương Tiễn dẫn quân khiêng ra ngoài đập cho bể nát, song Thủy Hoàng xim đem bo ra miễu bên tây thành, ba mươi tên quân áp vào khiêng các thây đất ra dinh, Tử Lăng và Vương Tiễn thân đi đưa dẫn. Đi vừa khỏi dinh vài dặm, bỗng thấy Tôn Tẫn ở đâu đi tới chận đường, ba mươi tên quân hoảng kinh đều quặng thây chạy tuốt. Tử Lăng và Vương Tiễn cũng đều bỏ chạy. Hai người chạy một lúc, thì ngó lại thấy mấy vi.

tiên tôn bằng đất ấy, đều rượt theo mình. Mọi người hồn phách đều bay quân sĩ kêu la cứu mạng, Kim, Vương hai người chạy riết tới cửa viên môn nhảy xuống chạy vào Huỳnh la bửu trướng, không kịp làm lễ, vừa thở vừa nói:

“Không xong, không xong, hình đất tác quái rồi, rượt vào tới trướng”. nói mà bộ đớn dác hoảng kinh. Thủy Hoàng quay đầu thấy mười lăn cái hình đất bay theo gió bụi, chạy vào tới dinh, vua tôi nhà Tần bay hồn mất vía, hoảng kinh chạy nhào. Hải Triều ngó thấy giận lặn, vội vàng chạy ra nạt rằng:

“Sao không đứng lại?” Bèn liệng chưởng tâm lôi nổ lên vài tiếng sấm nổ, các hình tưởng đất đều đứng lại hết, Hải Triều lại dạy các quân đến khiêng các hình tượng đất đi, quân sĩ run sợ chẳng dám đến khiêng, hai người khiêng một cái thây đất, đi được chường ít bước, bỗng thấy Tôn Tẫn cỡi trâu đứng trước trân trân, quân sĩ bèn quăng thây bỏ chạy. Hải Triều thấy vậy cả giận múa gươm tới chém Tôn Tẫn. Tôn Tẫn cử gậy rước đánh, năm vị đế quân áp đến hiệp sức cùng Hải Triều phủ vây Tôn Tẫn, kế có Kim Tử Lăng và Vương Tiễn đến. Tử Lăng xông vào phụ vây Tôn Tẫn còn Vương Tiễn thì dạy quân đem thay đất ấy mà đập bể.

Chương 54 : Rối dinh Tần, Tôn Tẫn lộng phép, Bày trận báu, Trung Ba thỉnh thần

Nói về Vương Tiễn sai quân đập bể tan mười lăm cái thây đất, duy còn mấy cái đầu bằng cây không bể mà thôi, Vương Tiễn dạy quân đem lửa đến đốt, chẳng dè mấy cái đầu ấy mang lửa bay lên rượt quân tướng Tần mà đốt, Hải Triều quay lại ngó thấy, liền bỏ Tôn Tẫn mà quảy về phía lửa, năm vị đế quân thấy vậy cũng bo?

chạy theo Hải Triều, Tôn Tẫn ráng sức rượt theo, năm vị đế quân giận lắm bèn hóa phép đánh cùng Tôn Tẫn. Đông Ba liệng vận vân yên, Tây Ba liệng tỏa tàn châu, Trung Ba liệng kim sa; năm vị đế quân đều một lượt liệng báu giết Tôn Tẫn, Tôn Tẫn lấy hạnh huỳnh kỳ phất lên mấy cái, tức thì mấy cái báu kia đều bay trở lại, năm đế quân thâu phéo, rồi không đánh nữa, chạy về dinh cùng Hải Triều cứu lửa, Tôn Tẫn cũng hóa kim quang bay về dinh Tề.

Nói về Hải Triều bay theo mấy cái đầu lửa, niệm chơn ngôn bắt mấy cái đầu lửa ấy đứng im lại hết, đạon sai quân lấy nước tưới cho lửa tắt, nào dè khi tưới nước vào, mấy cái đầu lửa ấy lại bay bổng lên không, toan bề làm dữ. Hải Triều vội vàng niệm chú, dùng nước biển tưới tắt lửa ở mấy cái đầu ấy. Thủy Hoàng ngó thấy lửa tắt hết, lúc bây giờ trong bụng bớt lọ Hải Triều nói:

“Tôn Tẫn lớn mật cãi trời, Nam Cực lại còn trợ ác, mấy phen làm hại quân dân, làm nhục bần đạo. Nay xin bệ ha.

hãy đình binh mấy ngày đặng tôi tới cung Đâu suất, hỏi Thái Thượng lão nhân sao chẳng câu thúc Nam Cực mà để cho học trò phạm đến phép trời”. Nói rồi toan bước ra đi, năm vị đế quân cản lại nói rằng:

“Việc lên cung Đâu suất thiệt chẳng nên đi.

Vì rằng nếu Thái thượng lão quân bằng lòng bắt Nam Cực, thì tốt đãđành, bằng như Thái thượng lão quân chẳng chịu nghe theo ắt là xấu hổ với các đạo hữu trong ba non năm núi. Chi bằng lão tổ để tôi bày trận Vạn lượng sum la thì Nam Cực và Tôn Tẫn không sao phá được”. Thủy Hoàng nghe nói trong dạ tợ như mở cờ, cúi mình cảm tạ Trung Ba và hỏi:

“Chẳng hay đế quân định dùng chỗ nào bày trận để trẫm truyền quyết dọn sửa sang”. Trung Ba nói:

“Cách thành một vài dặm có cái gò tên là Vô Cực cang, Lạc tôn bì, dùng chổ ấy mà lập trận. Vì chỗ đó trận đồ hễ trận địa mà phạm tên đại tướng thì có nhiều điều bất lợi cho kẻ phạm tên. Nay chỗ này phạm tên cả hai người vậy bày chổ đó, ắt là nên công đặng”. Nói xong, từ giả Thủy Hoàng, dẫn Vương Tiễn tới gò cao ấy, truyền đòi sơn thần, thổ địa dọn dẹp các đồ uế khí và đuổi các cô hồn ra xa ngoài một trăm dặm.

Sơn thần, thổ địa chẳng dám trái mạng, vâng lệnh đi liền Trung Ba cùng Vương Tiễn về tới lư bằng đem việc coi gò cùng tên gò mà thuật lại. Các tiên cả mừng.

Trung Ba dạy Vương Tiễn đến chổ gò đất ấy án theo kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, chia phân ngôi thứ, để một cái bia trắng, đề ba chữ:

“Ngũ hành đài”. Đài cao một trượng ba thước, phía đông đài Giáp ất thì cắm cờ xanh, trên đề “Thần Thanh long”. dùng tám mươi mốt cây roi; phía tây là đài Canh Tân, trên đài cắm cờ trắng, đề “Thần Bạch hổ”. dùng ba mươi sáu ngọn đao; phía nam đài Binh Đinh, cắm cờ đỏ, đề “Thần Châu tước”. sắm lưu hoàng diêm tiêu cho sẵn; phía bắc, đài Nhâm Qúy cắm cờ đen, đề “Thần Huyền võ”. để nhành dương liễu cùng nước sạch vài thùng, giữa trung ương đài Mô kỷ cắm cây cờ vàng đề “Thần Câu trận”, để một dấu cát vàng (nguyên cái trận Sum la này lớn lắm, tòa đài cờ xí lăng xăng, nhiều ngăn nhiều lớp, không thể tả hết được). Ngoài vách tường có bốn cửa, dùng ba trăm binh mã, huyết chó và đồ ô uế.

Vương Tiễn lãnh mạng y phép làm xong các việc rồi trở về lư bằng phục lệnh.

Trung Ba dạy Vương Tiễn tâu cùng Thủy Hoàng sai bốn viên đại tướng mai phục ngoài bốn cửa, dùng tám tấm bia và mười sáu cây cờ ngũ sắc, cao hai trượng tám thước, biên tên tám trận, những là:

Thiên môn, Địa hộ, Lôi oanh, Phong ma, Thủy liệc, Hỏa diệm, Sơn chướng, Khổn trạch, đề tám chữ:

Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Trên bia đề “Sum la trận”. ba chữ lớn, trên cờ đen đề sáu chữ:

“Địch nhơn tấn trận tán mạng”. chia ra bốn cửa, và thỉnh Thủy Hoàng cùng một quan văn, một quan võ. Trung Ba chắp tay nói với Thủy Hoàng rằng:

“Phía tây bắc có tòa Thiên môn trận, trong ấy có hai tòa đài, xin phiền Vương, đến đài Hậu thiên trấn giữ”. Thủy Hoàng nói:

“E trẫm đánh với giặc không lại, xin đế quân hãy sai người khác”. Trung Ba cười nói:

“Không hề chi, như gặp Tôn Tẫn, Nam Cực cùng các yêu đạo, tôi trao phép này cho hiền vương trị nó, còn Kim Tử Lăng, Vương Tiễn hai người lên đài bảo giá, trên đài có cờ phi long, cờ trung ba; mỗi người cầm một cây, hễ có giặc đến phá trận thì phất cờ lên, còn bệ hạ cầm cái như ý này mà đánh nó”.

Nói rồi thò tay vào túi lấy ra một hột như ý châu, đưa cho Thủy Hoàng, Thủy Hoàng tiếp lấy coi lại cái như ý châu ấy, lớn bằng hột đậu, thì cười mà hỏi rằng:

“Châu này dùng làm việc chỉ” Đế quân nói:

“Bệ hạ chớ thấy vậy mà khinh, báu ấy vốn khi ngươm thần của bần đạo tu luyện vài ngàn năm, làm ra vật ấy, chẳng phải tầm thường, không nên khi dễ”. Đế quân lại truyền dạy phù chú, Thủy Hoàng học rồi, cùng Tử Lăng, Vương Tiễn tới trận Thiên môn. Trung Ba sai Phiên Giang chơn nhơn giữa trận Thủy Liệc, Bạt Sơn chơn nhơn giữ trận sơn chướng; Vạn Pháo chơn nhơn giữ trận Lôi oanh, Cách Diện chơn nhơn giữ trận Phong mạ Thổ Tư chơn nhơn giữ trận Hỏa Diệm, Đảo Hải chơn nhơn giữa trận Địa Thổ, Hành Võ chơn nhơn vào trận Khổn trạch, nếu gặp Nam Cực, Tôn Tẫn cùng các tiên vào trận hoặc tới chỗ nào, trước đài có khí giới pháp bửu hươi phát cờ phướn, thì tự nhiên có phép diệu vô cùng. Các chơn nhơn vâng mạng đều tới giữ trận. Trung Ba nói với Đông Ba rằng:

“Đạo hữu qua trận thì phất cờ Thanh Long, chẳng cho người đến đó chạy thoát”.

Đông Ba lãnh lện đi liền. Trung Ba mời Nam Ba qua phía Nam nơi đài Bính Đinh trấn giữ, nếu có người giặc vào trận liền phất cờ chớ cho chạy thoát. Bắc Ba thì qua phía bắc, nơi đài Nhâm quý nếu gặp người giặc vào trận thì dùng phép tiên thiên đánh nó và hươi động mấy cây cờ; còn lại trung ương thì có bần đạo trấn giữ. Các vi.

đế quân lãnh mạng đi liền. Trung Ba cùng Hải Triều lên đài trung ương nhổ hết cờ phướn để một chỗ lấy bạch cập châu sa vẽ bùa niệm chú, dùng lửa tam muội đốt bùa, rồi dạy Hải Triều đem hai trăm ba mươi bốn cây cờ cắm lên các chỗ, Trung Ba cầm như ý đưa lên kêu nói:

“Liệu tú! Hãy xuống cho mau”. Xảy nghe trận gió thổi, thần tướng tới trước đài đông vô số, hỏi rằng:

“Đế quân sai khiến chúng tôi việc gì?” Trung Ba nói:

“Không việc đâu dám làm nhọc đến các vị tinh quân, vì Nam Cực, Tôn Tẫn ở đất Lâm Tri trái nghịch ý trời, nay bần đạo bày trận Vạn tượng sum la, xin cậy các thần trấn giữ mấy đài, nếu có người giặc, thì bắt nó chớ cho chạy thoát”.

Các thần lãnh mạng, chia nhau trấn giữ. Trung Ba cùng Hải Triều qua đài Thiên môn, đốt bùa niệm chú. Giây phút trên mây rớt xuống thần kỳ đông vô số, bốn vi.

công tào, bốn vị ma nữ và nhựt tình, nguyệt ba đến đứng trước đài chờ lệnh. Trung Ba dạy tới mấy cây cờ trấn giữ, rồi Đế quân qua tòa Địa hộ, đốt bùa niệm chú thấy minh linh thần, âm binh âm tướng đều đến.

Trung Ba sai giữ đài địa hộ. Rồi qua đài lô oanh, thỉnh ngũ lôi thần trấn giữ, qua đài Thủy liệc thỉnh thủy thần trấn giữ, tới Đài sơn chướng thính ngũ nhạc sơn thần trấn giữ, qua đài Khổn trạch thỉnh Kim long tứ đại vương trấn giữ. Các trận đều thỉnh thần xong rồi, nói với Hải Triều rằng:

“Xin phiền lão tổ ở trước trận, nơi đài Thiên môn, nếu có người vào trận, thì dùng phép lực cùng với linh thần vây nó”. Rồi Trung Ba cỡi lộc bay ra vòng ngoài, dặn Chương Hàng giữ cửa đông, tiếp đánh mấy người ra trận, lại e nó có phép tiên, phải dùng đồ ô uế mà đánh thì nó không biến hóa chi đặng, Triệu Cao giữ cửa Nam, Anh Bố giữa cửa tây, Bành Việt giữ cửa Bắc, đều dùng ô uế mà đánh nó. Dặn rồi cỡi lộc đến đài trung ương mồ kỷ; đốt bùa niệm chú bay xuống một vị Dương nguyên soái. Trung Ba cười nói:

“Lúc trước nhờ ơn Đại thánh, phá đặng kim đao của Nam Cực, chưa đến được mà tạ Ợn, nay phiền tôn thần trấn giữa cửa đông trận sum la, chừng thành công rồi, tôi sẽ tâu lên xin thưởng”.

Dương nguyên soái lãnh lệnh, hóa kim quang tới cửa nam, Tang ôn đại nguyên soái trấn giữ cửa tây; Triệu nguyên soái giữ cửa bắc, làm phép xong rồi, cỡi lộc đi vòng ngoài trận ba lần. Lúc ấy đến canh tự Bên đôi sơn thần, thổ địa xuốt lãnh sơn tinh thạch tinh, giữ bốn phía ngoài tường chớ cho người leo tường chạy trốn. Rồi thỉnh thần thên la dặn dó đón trên mây, thần địa võng bủa lưới dưới đất, làm cho bọn Tôn Tẫn, Nam Cực bay trên độn dưới không được; rồi Trung Ba trở lại đài Mồ kỷ trấn giữ.

Nói về bọn Nam Cực, Tôn Tẫn về đến Văn Ba điện, Tương vương bày yến ăn mừng rồi Tương Vương lui về, các tiên còn chuyện vãn đến canh ba mới tan. Nam Cực cùng Tôn Tẫn còn ngồi nơi điện. Nam Cực nói:

“Phước lớn thành Lâm Trì gần hết, khí số Tây Tần dấy lên, hôm nay tuy Hải Triều bị thua song chẳng trái được trời, đến mai bần đạo muốn sai một người, tới cùng bọn nó giảng hòa, làm cho người được thể diện oai danh, rồi bọn ta đều lui về núi”. Tôn Tẫn nói:

“Tôi cũng biết rõ rồi, vậy phải chờ cho tôi lên Ngô kiều mai táng mẹ tôi xong rồi chừng ấy công việc cho đất Lâm Tri này tôi không quản tới”. Đang nói chuyện đà đến canh tư, bỗng thấy quân kỳ vào báo rằng:

“Góc bên đồng bắc hồi canh tư đến bây giờ chẳng biết có gì dạng sáng đỏ, nên tôi phải vào báo”. Tôn Tẫn nói với Nam Cực rằng:

“Phía đông bắc sáng đỏ ấy chắc là có duyên cớ chi đây, vậy tôi cùng lão tổ đến đó xem coi hung kiết thế nào?” Nói rồi hai người ra ngoài cửa thành đứng xem, thấy trong chỗ sáng ấy có dạng sát khí, Tôn Tẫn nói:

“Lão tổ có thấy không? Trong ấy có hai, ba chục cái đài cao, cờ xí lăng xăng vô số, giống hình bày trận rất nên dày, nhặt và lợi hại lắm, lẽ thì nó bày trận nơi tây bắc mới phải, vì sao lại bày nơi hướng đông bắc này”.

Nam Cực nói:

“Cái gò ấy có chỉ duyên cớ chi dây, nên nó bày trận tại đó, song chẳng biết gò ấy, kêi tên là chỉ” Tôn Tẫn kêu binh trên thành mà hỏi mới hay gò Vô Cực, bờ Lạc Tôn.

Chương 55 : Mao Toại bị vây Sâm la trận, Tôn Tẫn cả phá Ngũ Hành đài

“Phép binh thơ, người đại tướng rất sợ phạm với tên đất ấy là cái số xung phạm tương khắc, nó lấy ý ấy mà trị ta, phen này khó cự nổi được, cũng bởi kiếp số; thôi trở về điện rồi sẽ tính”. Lúc ấy các tiên đều đến Văn Ba điện thấy Nam Cực cùng Tôn Tẫn về đến nơi, có sắc lo buồn. Mao Toại hỏi:

“Vì sao lão tổ xem coi chỗ sáng ấy, mà có sắc lo buồn như vậy?” Nam Cực nói:

“Ngươi đâu rõ được, nay ngũ lão lập tòa cao đài phân bày trận thế`, muốn vậy bắt bọn ta” Mao Toại cười nào:

“Lão tổ đạo phép vô biên, có trận gì mà vây được, nất quá nó thỉnh thần tướng cũng vì lòng đến đó, dầu có phép bửu bối lợi hại cũng không làm chi được, lão chẳng cần lo rầu, tôi có một kế hay”.

Tôn Tẫn nghe nói bèn hỏi:

“Mao chơn nhơn có kế chi giỏi?” Mao Toại nói:

“Tức cười cho anh cũng không biết được, nay chúng nó bày ra cái trận dữ này, chẳng qua là tranh hơn đánh mạnh mà thôi, vậy mình phải dằn lòng, sai người tới năn nỉ, mà nhường các chơn nhơn lại cho nó, rồi chưởng giáo về núi, tam ca lên Ngô Kiều chôn bác, còn bọn tôi, núi ai nấy về, rồi chúng ta tới mà xin lỗi với nó thì có lẽ nào không giải hòa được”. Nam Cực nói:

“Kd hay của Mao chơn nhơn đó, không dùng được, nếu chúng ta không muốn phá trận, về núi thì thôi, lại khốn gì phải tới mà xin lỗi với người, chịu ở dưới cho người cười chê”. Mao Toại nói:

“Nếu muốn phá trận thì phải thám coi kỹ lưỡng rồi phá mới được”. Nam Cực nói:

“Mao Chơn nhơn nói rất phải, nếu được một người đến xem coi động biến thế nào, sẽ chia nhau đi phá”. Mao Toại cười nói:

“Việc ấy có khó gì. Vương Thuyền à! Vậy mời anh em ngươi rót trà bưng đến cho ta uống, rồi ta sẽ vào trận thám coi”. Vương Thuyền nói:

“Mao chơn nhơn không được nói chơi”. Mao Toại nói:

“Có mấy người đây làm chứng”. Vương Thuyền nói:

“Mao chơn nhơn! Nếu người đi thiệt, thì ta cũng hai tay bưng trà mà dâng lên cho ngươi uống”. Nói rồi hai tay bưng chén trà đưa lên nói:

“Anh em tôi không dè chơn nhơn có tài phép sẽ dâng luôn một chung trà nữa” Mao Toại nghe nói, bưng bưng chén trà uống liền và nói:

“Anh em ngồi đây chờ tôi một lát”. Nói rồi hóa kim quang bay tuốt.

Nói về Mao Toại, bị các tiên nói khích, bèn hóa kim quang tới trận, xem coi một hồi, trong bụng nghĩ thầm rằng:

“Trận này dữ thiệt, từ lúc ta theo ông Võ Tử, xem khắp mười ba cuốn binh thơ, thiên văn, địa lý, âm phù, chiến sách, chưa từng có cái trận nào mà dữ như vầy, hơn hai chục tòa đài, cờ phướn ngũ sắc, kể đà khôn xiết, rần rần tinh những thiên binh, thiên tướng, trên bố thiên la, dưới giăng địa võng, ta biết làm sao, vào ra cho được, e chọc lửa đốt mình mà mang lấy họa” Tính rồi, muốn cỡi mây trờ về, nghĩ lại khi nãy ta khoe trước mặt các tiên, nếu về đây, Nam Cực hỏi trong trận thế nào, như nói ta đến đó, thấy trận thế lợi hại không dám vào, mà trở về đây, ắt bị các tiên chê cười ta dở, và anh em Vương Thuyền đâu khứng dung ta” Nghĩ tới nghĩ lui một hồi nói:

“Chết sống bởi mạng, giàu sang tại trời, nếu số ta phải chết trong trận Sum la này, thì trốn cũng không khỏi đặng, thôi ta đánh liều vào trong coi thử thế nào?” Bèn lấy cỏ ẩn thân che mình, lén lén vào trận, thấy một cây cờ đen, đề sáu chữ:

địch nhân nhập trận tán mạng, nghĩa là người giặc vào trận phải chết, thì trong bụng cười thầm nói:

“Thằng già này nói phách thiệt hay, Nam Cực cùng tam ca và các tiên thần thông huyền diệu, biến hóa vô cùng, phải chi người khách thì còn trông vây đặng, chớ như Nam Cực, ổng có sợ gì”. Rồi đi thẳng vào trong thấy trên đài, cắm cờ châu tước, đề Hỏa diện trận, và trước hai cái đài khác cắm cây cờ đỏ, một cây cờ tam sắc, trước cờ có một vị thần, mặc giáp vàng, bào đỏ, tóc hồng, râu đỏ, chân đạp xe phong tỏa, tay cầm gươm, phía sau đài ngồi một vị chân nhân, một tay cầm lệnh bài, một tay cầm gươm.

Mao Toại coi lần tới trận Khổn trạch, có thủy thảo hà thần đông vô số, và thần tướng chín sông tám hồ, người người mặc giáp vàng màu đỏ, tay cầm gươm, phía sau cờ âm tào, có một người đạo nhân trấn giữ, trước mặt một cái đài rất cao, tường vân che phủ, có đề ba chữ Sum la đài, để mười tám cái trống lớn, hai cây cờ kim kê, ngọc thố, hai cây cờ tam quan, tứ diệu, những lá cờ, lục đinh, lục giáp, thất tinh, bát quái, thiên la, địa sát, hung thần, ác sát, các vì tinh tướng bố theo số, thứ tự như trên trời. Mao Toại đi tới đài Mồ kỷ, thấy bốn phía có bốn ông già ngồi trên đài. Mao Toại nghĩ rằng:

“Việc đại khái trong trận, ta đã biết rồi chẳng cần coi kỹ lắm”. Bèn qua phía nam mà ra. Vẫn cửa nam về phần Ôn đại nguyên soái trấn giữ. Ôn thần thấy Mao Toại vào trận, lại thấy trở ra, thì hươi bổng chỉ tới, nạt rằng:

“Chân nhân không đặng đến chỗ này, ta vâng mạnh Trung Ba đến quân cho vào chớ không cho ra, sao không đi chỗ khác, còn đợi chừng nào?” Mao Toại thấy Ôn nguyên soái thì chẳng dám xông tới, quày mình ra khỏi trận Lôi oanh, chạy tới cửa đông gặp một vị tướng trời cầm đao ba mũi, ngăn đón đường đi. Mao Toại nhìn biết Dương Tiễn, thì nghĩ thầm rằng:

“Chỗ này cũng không xong nữa, vả lại con thiên khuyển lợi hại không vừa, chẳng nên chọc nó”. Rồi qua khỏi đài Thủy trạch, tới cửa phía tây, gặp một tướng đón đường. Mao Toại nhìn biết Ngũ Tử tư, trong lòng rất mừng, nói:

“Chỗ này may ra khỏi đặng”. Vội vàng bước tới trước ngựa vòng taỵ Ngũ Tử Tư nhìn biết Mao Toại, vội vàng làm lễ, hỏi rằng:

“Thiên Lậu tinh, người vào trận làm chi, ta vâng lệnh Trung Ba đế quân, chờ Nam Cực, Tôn Tẫn vào đây, chẳng cho nó ra, nay người vào làm chi, mà lại muốn rả” Mao Toại nói:

“Tiểu đệ vâng lệnh Nam Cực, vào trận xem coi hư thiệt thế nào, xin nguyên soái hãy vị chút tình ngày trườc, mà thả tôi ra trận”. Ngũ Tử Tư nói:

“Chân nhân phân như vậy sai rồi, nay tôi vâng mạng Trung Ba đến quân, coi giữ chỗ này, nếu vị tình xưa mà thả ngươi ra khỏi, chắc tôi phải bị trách, thiệt chẳng dám trái trời nghịch phép, xin chân nhân hãy ra cửa khác”. Mao Toại nghe nói, chẳng dám xông phá, liền chạy cửa khác”. Mao Toại nghe nói, chẳng dám xông phá, liền chạy cửa bắc, xem thấy Triệu nguyên soái cầm roi trợn mắt xốc lại, Mao Toại thất kinh bo?

chạy, nghĩ thầm rằng:

“Bốn cửa khác đều có các thần ngăn giữ, trên mắc thiên la, dưới thì địa võng, không xong, chớ có học theo trận Hỗn ngươn, mà mắc tay độc nó, phải tính kế chi, thoát khỏi mới xong”. Còn đang ngẫm nghĩ, bỗng nghe nạt lớn rằng:

“Thằng Lùn chạy đâu”. Vốn Trung Ba ở trên đài mồ kỷ thấy cái bóng đen chạy qua bên đông, qua bên tây, chạy bên nam qua bên bắc lăng xăng, coi kỹ lại cũng không rõ vật chi, trong lòng hồ nghi nói:

“Lạ này, vì sao trong trận có cái bóng chi đen, cou không rõ đặng”. Bèn lần tay đoán biêt, vùng tức cười nói:

“Té ra thằng lùn cả gan dám đến thám coi trận thế”. Liền lấy kiếng thông minh rọi tới, thấy rõ ràng Mao Toại, còn Mao Toại thì không hay chi hết, bị Trung Ba chạy tới bắt đặng. Mao Toại la:

“Không xong”. Liền vụt chạy, mà chạy không khỏi. Trung Ba xách Mao Toại giơ?

lên cười nói:

“Ta bày trận này vốn bắt Nam Cực, thằng lùn sao mi ỷ phép ẩn thân, dám đến thám trận ta, mi muốn ra cũng khó hơn lên trời”. Bèn lấy dây khổn tiên rói Mao Toại treo lên. Mao Toại nói:

“Ta với ngươi vốn chẳng cừu thù, sao ngươi treo cho chết ta vậy?” Trung Ba nói:

“Thôi ta chẳng treo, để đưa cho mi vào một chỗ an thân”. Bèn lấy một cái bửu bối kêu là định tiên thung, miệng niệm chơn ngôn đê?

dưới đài trái trói Mao Toại vào cây định tiên thung ấy, nói:

“Mi hiểu thông ngũ độn, nay có giỏi thì độn đi, bên mi có tỏa tiên lao, bên ta có tiên thung, ở đỡ mà chờ, rồi đây thủng tỏa tiên lao, bên ta có tiên thung, ở đỡ mà chờ, rồi đây thủng thẳng cũng có người đến mà làm bạn với mi”.

Lúc ấy Mao Toại muốn độn thổ mà độn không đặng, trong bụng hoảng kinh, than thở trách mình, cũng vì cái miệng mà sanh điều phiền não.

Nói về Hải Triều thấy Trung Ba lắt đặng Mao Toại thì cả mừng tuốt trên Lâm Tri, dạy quân kêu nói:

“Có Hải Triều thánh nhơn, xin mời Nam Cực cùng Tôn Tẫn ra nói chuyện”. Quân kỳ bài vào báo. Các tiên thấy Nam Cực cùng Tôn Tẫn mặt mày đổi sắc thì nói:

“Chúng tôi tình nguyện xin đến Sum la giao chiến”. Tôn Tẫn biết chúng tiên tuy có phép, song công phu chưa mãn, nên cũng có ứng tại kiếp này, rồi nói:

“Thôi, chẳng đi hết làm chi, để ta đoán coi Mao Toại kiết hung thế nào?” Đoán rồi nói:

“Mao Toại bị Trung Ba bắt cột nơi định tiên thung, ta phải đến cứu người”.

Nam Cực dạy Tôn Tẫn cùng ít vị tiên, đồng đi phá trận. Các tiên nghe nói, người này giành đi, người khác cũng giành đi. Nam Cực nói:

“Đi bốn người thì đủ”. Bèn dạy Lục My, Trường Tiếu, Vinh Câu, Đởm Phúc, đi với Tôn Tẫn. Bốn tiên cả mừng.

Vốn Nam Cực xem trên ấn đường, mấy người tiên ấy có dạng hắc khí, thì biết bi.

kiếp số, không trốn khỏi được, vả kề tai nói nhỏ với Tôn Tẫn rằng:

“Đi phen này tuy ngươi bị vây trong trận, song nó chẳng dám hại đâu, rồi đâu ta cũng phải đến đó ứng theo kiếp số, mỗi việc hết lòng cẩn thận”. Tôn Tẫn từ biết cùng bốn tien ra đi. Tôn Tẫn nói với bốn tiên rằng:

“Khi nãy chưởng giáo kề tai nói với tôi rằng:

Trậm Sum la chẳng phải chơi đâu, vậy các tiên giữ gìn cẩn thận”. Nói rồi kéo nhau ra thành.

Nói về Hải Triều đang đứng ngoài thành, thấy cờ tiên rẽ hai, chạy ra bốn con lộc, ngồi trên lưng bốn vị tăng tiên, kế thấy sau lưng bốn tiên ấy có Tôn Tẫn xông ra. Hải Triều nạt rằng:

“Thằng Cụt, chớ chạy, có ông chờ đây”. Tôn Tẫn cười nói:

“Lão tổ đến đòi học trò của ngươi nữa chăng?” Hải Triều nói:

“Ta có bày một trận ơ?

phía đông, mi đến phá chăng?” Tôn Tẫn nói:

“Muốn phá cũng chẳng khó gì, ngươi đi trước, ta sẽ theo sau”. Nói rồi giục trâu cùng bốn tiên rượt theo tới trận, nghe tiếng người kêu nói:

“Có tên Tôn Tẫn vào trận, các ngươi đâu đó phải giữ dinh nghiêm ngặt”. Tôn Tẫn xem thấy trận ấy lợi hại, bốn phía khí lên mù mịt, tám phương sáng chói ngời ngời, cờ tam sắc thần phất lia, phướn thủy hỏa hà cao vọi, những là Ngũ hổ, Tứ hải, Long vương, Thủy nhạc. Coi rồi thất kinh. Hải Triều kêu nói:

“Tôn Tẫn, ngươi đã vào trận, sao không ra tài phép, mới vào đó coi bộ đà muốn trở ra, ra làm sao cho được”. Tôn Tẫn nói:

“Ngươi chớ nói phách”. Rồi hai người đánh nhau đến mười hiệp, bỗng nghe trận Lôi oanh có tiếng chuông kêu, xông ra một người hát ca và đi lại.

Ca rằng:

Dạo khắp ba non một áng mây, Vì chung kiếp số xuống phàm này.

Thuận trời ứng vận phò Tần chúa, Binh phục Lâm Tri chắc có ngày.

Người ca ấy vốn là Vận Pháo chơn nhơn, đi với Hải Triều, đánh hơn vài hiệp nữa, rồi vào trận. Tôn Tẫn rượt theo. Vận Pháo ca mừng, tuốt lên đài đốt bùa, cầm cờ ngũ lôi nạt rằng:

“Ngũ thần sao chẳng xuống còn đợi chừng nào?” Xảy nghe tiếng sấm nổ vang, ngũ lôi thần trên không bay xuống. Tôn Tẫn liền vội vàng lấy cờ hạnh huỳnh phất lên, muôn đạo kim quang xông ra ngăn cản, ngũ lôi không dám xuống gần. Bốn tiên nói:

“Ngũ lôi dữ lắm, cờ hạnh huỳnh chỉ ngăn đỡ mà thôi, chớ phá không nổi trận, phải đi chỗ khách cho mau”. Tôn Tẫn quan khỏi lôi đài, bốn tiên theo sau. Hải Triều rượt tới, nạt lớn rằng:

“Tôn Tẫn chớ chạy”. Bèn lấy một cái bửu bối kêu là khấu tiên chung liệng bên. Bốn tiên đang chạy, nói với Tôn Tẫn rằng:

“Chơn nhơn tới trước phá trận, để chúng tôi đánh bắt Hải Triều cho”. Rồi nghe vo vo như gió thổi, thấy một vầng mây, có một cái chuông rớt xuống. Trường Tiếu tien lấy chưởng thiên trụ liệng lên, cái chuông kia vừa rớt xuống, hai vật đụng nhằm. Hải Triều ca giận, hươi gươm tới đánh. Trong trận Sơn chướng, Bạt Sơn chơn nhơn xông ra đánh tiếp. Hải Triều niệm chú thây chuông về, rồi liệng gươm đao đánh nhầu một hồi nữa. Thầy trò Hải Triều bỏ chạy vào trận, Vinh Câu tiên, Trường Tiếu tiên rượt theo. Đởm Phúc tiên nói với Lục My tiên rằng:

“Hai tên kia đẽ rượt Hải Triều, vậy chúng ta tìm theo Tôn Tẫn”. Nói về Trường Tiều, Vinh Câu rượt tới thấy thần kỳ năm non, ba núi thì thất kinh, vừa muốn bỏ chạy, bị Bạt Sơn liệng khai sơn giám, đánh nhằm đầu Vinh Câu tiên chết tốt. Trường Tiếu tiên hoảng kinh muốn chạy cũng bị khai sơn giám đánh nhằ, theo luôn Vinh Câu có bạn.

Nói về Lục My, Đởm Phúc tìm theo Tôn Tẫn, nghe sau lưng có tiếng kêu nói:

“Hai thằng yêu đạo! Bạn của mi đã chết, sao mi còn ở đó?” Hai tiên nghe nói ca?

giận quay lại giao chiến. Hải Triều bỏ chạy vào Khổn trạch trận, hai tiên rượt theo, thấy thần tướng mặt xanh nanh lộ, thất kinh bỏ chạy. Hành Võ liệng chân ba tiếng đánh chết hai tiên. Tôn Tẫn ở trước không hay, giục trâu qua khỏi Hỏa Diệm, Phong Ma, Địa hộ luôn đến ba trận, nhờ có cờ hạnh huỳnh, các tiên đều tránh hết, đang chạy quay lại chẳng thấy bốn tiên, thì biết chắc bị vây trong trận, hoặc là bị chết ca?

rồi, bèn tính đến cứu Mao Toại, nên nhắm đài Sum la chạy tới. Hải Triều xông ra nạt rằng:

“Tôn Tẫn! Bạn của mi đều chết hết trong trận rồi”. Tôn Tẫn nói:

“Bốn tiên chết bao giờ?” Hải Triều cười nói:

“Ngươi còn trong giấc chiêm bao hay sao, coi nơi hai trận kia có treo bốn cái đầu đó”. Tôn Tẫn ngó thấy thiệt rõ ràng, giận lắm nói:

“Hải Triều, ta bắt bọn ngươi bất quá nhốt trong tỏa tiên lao đó mà thôi chưa hề hại đến, nay ngươi giết bọn ta, ta thề cừng ngươi chẳng đội trời chung”. Nói dứt lời hươi gậy đánh tới. Hải Triều rước đánh vài hiệp thua chạy tới đài Mồ kỷ. Tôn Tẫn cỡi trâu rượt theo. Mao Toại ngó thấy rất mừng kêu:

“Tam ca! Mau mau đến cứu, em bi.

phép Trung Ba trói vào đây”. Tôn Tẫn lấy cờ hạnh huỳnh chỉ tới, dây khổn tiên rới liền, rồi nói với Mao Toại rằng:

“Vinh Câu, Trường Tiếu, Lục My, Đởm Phúc, theo tôi vào trận đều chết hết”. Mao Toại nghe rồi sa nước mắt nói:

“Thương thay bốn tiên, trọng nghĩa mà bị bỏ mình”. Tôn Tẫn nói:

“Ngươi ở đây để ta xông ra đặng về cùng Chưởng giáo với các tiên phá trận”. Mao Toại nói:

“Nếu tam ca đi rồi, chắc Trung Ba đến đây mà hại tôi, vậy tôi theo cùng anh luôn thể”. Tôn Tẫn nói:

“Ngươi không có thú lấy gì mà cỡi theo ta cho được”. Mao Toại nói:

“Tôi xin ngồi sau lưng anh”. Rồi hai người cỡi chung một con trâu, đi được vài bước, các vì tinh tú hiện ra đón đường nạt rằng:

“Chơn nhơn chạy đâu? Chúng ta vâng mạng Trung Ba cho vào chớ chẳng cho ra” Tôn Tẫn lấy cờ hạnh huỳnh phất lên, muôn đường hào quang sáng rỡ, các thần chẳng dám lại gần, Hải Triều thấy Tôn Tẫn cứu Mao Toại, lại dùng cờ ngăn cản các thần thì liệng chưởng tâm lôi nổ lên rúng động mười cái trống lớn kêu vang như núi lở, tức thì trong trận đều biến. Phía đông thuộc chấn vi lôi, trận Lôi Oanh, biến những gươm đao, phía Nam thuộc ly vi hỏa, trận Hỏa diệm, kim xà châu tước phun lửa rần rần; phía Tây đài viên trạch, trận Khổn trạch chớp nháng sáng ngời, gươm đao chơm chởm; phía Bắc khảm vi thủy, trận Thủy liệc, sóng bủa ba đào, nước lên cuồn cuộn; trận Sơn chướng, núi non chất ngất; trận Địa hộ, bụi cát mịt mù; trận Thiên môn, đạp pháp vô cùng; trận Phong ma, gió nghe vùn vụt, trên dưới hào quang chiếu sáng thiên binh thiên tướng trùng trùng điệp điệp. Mao Toại nói:

Tam ca, bốn phía tám phương đều có phong, lôi, thủy, hỏa vây chặt gió qua không lọt, tối đen chẳng thấy cửa trận biết làm sao mà ra được?” Nói rồi, lật đật nhảy xuống, chun dưới bụng trâu. Tôn Tẫn nói:

“Tuy ra không được, chớ thiên thần chẳng dám đến gần đâu”. Kết thấy thủy, hỏa, phong, lôi thần áp tới. Tôn Tẫn lấy cờ hạnh huỳnh phất ra, kim quang đường chiếu sáng, chớ nói chi những loài phong, lôi, thủy, hỏa mà thôi, dầu cho tiên Phật cũng không xuống được.

Chương 56 : Nam Cực tám phương phá trận, Phương Sóc bị phép bỏ mình

Hải Triều thấy hạnh huỳnh kỳ, ngăn cản các thần chẳng dám lại gần, thì tính lấy vô cực đồ liệng lên, đặng thâu cờ hạnh huỳnh, Tôn Tẫn ngó thấy hươi gậy đánh nhầu, Hải Triều ngăn đỡ chẳng kịp, bị gậy đánh nhằm chờn vờn gần rớt xuống đất, may nhờ áo tiên, nên khỏi bị hại. Hải Triều giận lắm, lấy khấu tiên chung liệng đánh Tôn Tẫn. Tôn Tẫn liệng gậy trầm gươm nga my tới chém Hải Triều. Hải Triều lấy gươm cu long chỉ lên nạt rằng:

“Bửu kiến sao không trở về?” Tức thì gươm nga my bay lại, Tôn Tẫn thâu về. Hải Triều liệng chưởng tâm lôi, mười cái trống nô?

vang như sấm, mấy phía pháp bửu cùng là thiên binh, thiên tướng, áp tới phủ vây, Tôn Tẫn lấy cờ phất luôn ba cái, Pháp bửu cùng các thần chẳng dam lại gần. Hải Triều nói:

“Thằng cụt! Mi ỷ có cờ hạnh huỳnh, nay ta chẳng thèm hại mi”. Nói rồi đốt bùa chỉ thần, giây phút phong lôi, thủy hỏa tan hết, các thần đều lui về phương hướng, ngó thấy cửa trận Sum lạ Tôn Tẫn nghĩ rằng:

“Hải Triều hóa phép khôn chừng, khó bề ngăn giữ”. Bèn lấy cờ hạnh huỳnh trải ra che đầu, Mao Toại lật đật nhảy lên ngồi trong lòng Tôn Tẫn, vừa cười vừa nói:

“Bây giờ anh có người làm bạn rồi, hễ anh ra khỏi thì tôi cũng ra được, còn anh ra không khỏi thì tôi cũng ra không được, dầu cho trời có sặp đi nữa, thì đầu anh cao hơn, tôi cũng chẳng lo gì”.

Nói về sáu tên học trò của Tôn Tẫn, thấy thầy vào trận lên thành xem coi, nghe sấm nổ, dường như núi sập, thì thất kinh, ngó thấy khí lên nghi ngút, xanh, vàng, đen đỏ, trời đất mịt mù, chẳng thấy cửa trận, lật đật xuống thành vào điện ra mắt Tương vương, đem việc Tôn Tẫn vào trận, quang cảnh như vậy mà thuật lại hết. Tương vương nghe nói thất kinh, truyền mang xe đến điện Vân Ba ra mắt Nam Cực, tỏ hết các việc. Nam Cực nói:

“Xin bệ hạ an lòng chớ lo, tuy trận Sum la lợi hại mặc dầu, song chẳng làm chi được Tôn Tẫn, cùng các tiên đâu”. Miệng nói như vậy, mà có sắc lo buồn. Đông Phương Sóc nói:

“Tôn chơn nhơn,cùng bốn tiên vào trận, chưa tường hung kiết thế nào, sao chẳng bói thử coi”. Nam Cực nói:

“Chẳn bói làm chi, chắc không thế nào ra khỏi được”. Đông Phương Sóc nói:

“Như vậy chẳng an lòng, để tôi thử coi”. Bèn xem vỏ rùa, lấy tay quét lại hai cái, xem coi hình tượng, liền biết kiết hung. Đông Phương Sóc chẳng xem còn khá, xem xong vùng sa nước mắt nói:

“Coi theo hình sát vỏ rùa này, thì bốn tiên đã chết trong trận rồi, còn Tôn chơn nhơn cùng Mao Toại, đều bị vây hết”. Các tiên hỏi:

“Việc ấy có thiệt cùng chăng?” Đông Phương Sóc nói:

“Làm sao không thiệt, bốn cái thây treo nơi trận Sơn chướng, Khổn trạch”. Các tiên nghe rồi giận nói:

“Nếu chúng ta không đạp bằng cái trậm Sum la này, mà bắt sống Hải Triều, trả thù cho bốn tiên, thề không về núi”. Nói dứt lời kéo nhau ra đi. Nam Cực vội vàng cản lại nói:

“Các tiên không nên gập vội, trận Sum la chẳng phải chơi đâu, nếu muốn phá, phải tính kế trước mới xong”.

Đông Phương Sóc nghe rồi nói:

“Chúng tôi tình nguyện, xin lão tổ điều khiển”.

Nam Cực nói:

“Tôi tưởng trận Sum la có tam trận năm đài, nếu chúng ta tới phá, chắc nó hiệp sức ngăn giữ, thì khó hơn đặng, chi bằng chia nhau đến phá, làm cho nó không rảng được mà tiếp nhau, các ngươi liệu tính thế nào?” Đông Phương Sóc hỏi:

“Lão tổ phân rất phải, chúng tôi ai đánh trận nào, xin lão tổ hãy chia đi”. Nam Cực nói:

“Bốn cửa ngoài trận Sum la, có bốn cây cờ đen, mỗi cửa có ba trăm binh Tần, một viên đại tướng, để những đồ ô uế, hễ thấy cờ phất thì biết có người ra trận, nó dùng đồ dơ ấy mà đánh; bần đạo rất sợ đồ ô uế ấy, nếu vấy nhằm một chút thì không đẳng vân đặng, nay phải sai người chặt mấy cây cờ trước, rồi ngăn đánh với binh Tần, thì chúng ta mới khỏi đặng”. Bèn tâu với Tương vương rằng:

“Xin hiều vương sai bốn viên đại tướng, đền vòng ngoài trận Sum la, nghe sấm nổ làm hiệu, thì chặt ngã cây cờ đen ở giữa, nếu có binh Tần xông ra thì chận mà đánh nó, làm cho binh Tần không rảnh, mà dùng đồ ô uế đặng”. Tương Vương truyền dạy Viên Cang, Độc cô Giáo, Điền Anh, Mã Lân, mỗi người dẫn năm trăm binh, y kế mà làm. Nam Cực nói với các tiên rằng:

“Trong trận Sum la, có tám trận năm đài, chúng ta chia ra, tám người đánh trận, năm người phá đài, chẳng kỳ thắng bại chi, đều tới giữa trung ương, đặp hiệp với ta, phá đài Mồ Kỷ. Giáng Long phá trận Khổn trạch, Phục Hô?

phá trận Hỏa diệm; Văn Xương phá trận Lôi oanh; Liên huê phá trận Sơn chướng; Liệp My phá trận Thiên môn; Trường My phá trận Địa hộ”. Rồi dạy đem năm cây cờ giấy ngũ sắc. Nam Cực niệm chú, dùng châu sa, viết trên cờ vài chữ, cuốn lại phân phát các tiên, mỗi người một cây, án theo tương sanh tương khắc mà dùng; Đông Phương Sóc đánh Giáp ất, Tây Phương Sóc đánh đài Canh tân, Vương Thuyền đánh đài Bính dinh, Vương Ngao đánh đài Nhâm quý, hễ nghe sấm nổ, thì chặt cờ chia ra vào trận, còn Bạch Hạc coi giữ mười lăm vị chơn nhơn. Nam Cực phân khiến xong rồi, chờ đến canh ba phá trận. Tương Vương từ biệt lui về cung. Các tiên ở nơi Văn Ba điện, giây phút đã đến canh ba, Nam Cực cùng các tiên ra khỏi điện, dạy vài mươi quân dẫn đường đi tới cửa đông. Lúc ấy bốn tướng dãn năm trăm binh, chờ nơi ngoài cửa, đều theo một lượt. Nam Cực dặn các tiên rằng:

“Tới đây phá trận, phải cho hết lòng cẩn thận, mạnh ai nấy giữ, chớ không cứu nhau đặng, dầu thắng bại thế nào, cũng phải tới giữa trung ương, ra mắt bần đạo”. Cá tiên theo sau, nhắm trận Sum la thẳng tới, di gần đến trận, chia ra bốn phía chờ nghe sấm nổ, thì đánh vào.

Nói về Nam Cực cùng các tiên, đến ngoài cửa phía đông trận Sum lạ Nam Cực liệng chưởng làm lôi nổ lên. Viên Cang giục ngựa hươi búa phá cửa đông, thấy một cây cờ đen ở giữa có đề sáu chữ “Địch nhơn tấn công tán mạng”. bèn quất ngựa tới dưới cờ, hai tay hươi búa chặt làm hai đoạn, ngó thấy một lằn sáng, bay bổng trên không, có người nạt rằng:

“Tề tặc! Sao dám chặt ngã cờ tả Chớ chạy, có ta đến đây”. Viên Cang biết là Triệu Cao, chẳng thèm đáp lại, hươi búa đánh nhầu. Lúc ấy ba cửa kia, nghe sấm nổ, cũng đều phá vào, chặt cờ ngã hết; tướng Tần xông ra rước đánh.

Các tiêng trong trận nghe tiếng sấm nổ, thì biết các người đến phá trận, đâu đó thảy đều gìn giữ. Nam Cực thấy bọn Viên Cang chặt ngã cờ rồi, thì chia nhau phá trận.

Nói về Liệp My tiên, cỡi ngũ sắc thần ngưu chạy tới trận Thiên môn, thấy trong ấy có một tòa cao đài, coi kỹ lại thấy Tần Thủy Hoàng ngồi trên đài, trong bụng rất mừng nói:

“Hễ đánh giặc trước phải bắt tướng, nếu ta bắt được Thủy Hoàng rồi, thì có lo chi ngũ lão không dẹp trận”. Bèn hươi kích chạy vào, thấy trong trận xông ra một người, mão đen, giáp đen, cầm mâu nạt rằng:

“Yêu đạo! Có ta là Vương Tiễn đây”. Liền hươi mâu đâm tới. Hai người đánh hơn mười hiệp. Vương Tiễn quày ngựa trở vào trong trận, Liệp My tiên theo sau rượt tới. Vương Tiễn lấy gươm liệng giữa không trung, kêu nói:

“Chớ chạy, coi gươm ta lấy đầu mi”. Liệp My nghe nói, ngước mặt xem thấy một vầng mây có cây bửu kiếm, bay tới vụt vụt. Liệp My tiên chẳng hề run sợ coi chừng gươm bay tới gần, bèn nhăn cặp chân mày lại, trong chân mày bay ra một lằn bạch khí, đỡ cây gươm không rớt xuống đặng, Liệp My nạt rằng:

“Bửu kiếm! Sao không trở về”. Tức thì bửu kiếm bay trở lại. Vương Tiễn thất kinh, lật đật thâu gươm, hươi mâu đánh tới. Liệp My liệng đá đánh nhằm kiếng hộ tâm Vương Tiễn, Vương Tiễn chẳng dám đánh nữ, quày ngựa bỏ chạy. Liệp My tiên rượt theo, Kim Tử Lăng ở trên đài, xem thấy rõ ràng, liền phất cờ nhựt nguyệt, trong trận hào quang sáng chói, thiên thần, thiên tướng hiện ra vô số, áp lại phủ vây. Liệp My tiên lật đật lấy cờ đỏ của ông Nam Cực cho, phất lên ba cái, thiên thần thấy liền dừng lại. (Nguyên trong cây cờ giấy của ông Nam Cực có đề năm chữ “Khương thái công tại thử”. Lúc đấy nhà châu, chém tướng phong thần, chẳng có vị nào mà không phải của người phong, cho nên thấy cái hiệu của người thì đứng lại, chẳng dám tới gần) Vua Tần thấy Tử Lăng phất cờ, trận Thiên môn cả tiến, thiên binh thiên tướng rần rần, đông vô số, vây người đạo nhân ấy, la đánh vang trời, biên binh thiên tướng mặt mày năm sắc, khôi giáp khác nhau, kẻ cao người thấp, cỡi thú dị hình, thì trong lòng cả sợ, nói:

“Quân sư coi thiên binh thiên tướng đó có lợi hại không,làm sao khi chẳng phất cờ, thì không thấy một người vậy?” Kim Tử Lăng nói:

“Lão tổ thỉnh đến, ở trong cây cờ, hễ đốt bùa phất cờ thì hiện hình ra”. Vua tôi đang nói chuyện, thấy người đạo nhân ấy ở trong vòng vây, lấy ra một cây cờ giấy nhỏ, phất lên vài cái, các thần đều lui ra hết. Thủy Hoàng nói:

“Không xong, nó phá hết phép rồi”. Vừa muốn xuống đài bỏ chạy. Tử Lăng lật đật cản lại, nói:

“Xin bệ hạ chớ lo, lúc bệ ha.

vào trận, thì ông Trung Ba có trao cho một hột như ý châu, dặn rằng:

Hễ gặp người giặc vào trận, mà các thần không làm chi được, chừng nó lên đài, thì lấy chây ấy đánh xuống, chắc phải thắng được. Thủy Hoang nói:

“Hột châu nhỏ này làm chi nên việc, ngươi coi bấy nhiêu thấy kỳ, còn không là chi đặng thay”. Tử Lăng nói:

“Không hề gì, để nó lên đài rồi sẽ liệng châu mà đánh nó”. Thủy Hoàng túng thế, phải cầm hột châu đứng chờ. Lục My tiên thấy các thần lui hết, trong bụng rất mừng, giục thần ngưu lên đài Thiên Môn. Thủy Hoàng lấy như ý châu liệng xuống. Vật ấy vốn là tinh thần của Trung Ba đế quân rèn luyện, hễ tiếng ra thì nặng như núi Thái Sơn đè, Liệp My tiên biết châu ấy dữ tợn, liền quay ngưa bỏ chạy. Tử Lăng xuống đài rượt theo, bị Liệp My tiên liệng đá trúng nhắm mặt, cặp mắt đổ lửa, chẳng dám rượt theo. Liệp My tiên chạy ra khỏi Thiên Môn trận.

Nói về Giáng Long đánh trận Khổn trạch, Hành Võ chơn nhơn xem thấy cờ thủy hỏa hà thần, Giáng Long lấy cờ giấy lui hết các thần, tuốt lên Địa hộ. Hành Võ đốt bùa, tức thì trong trận biến ra một cái hầm lớn. Giáng Long ngó thấy liền cỡi mây bay trên mặt đất. Hành Võ muốn lấy chấn ba tiễn đặng bánh Giáng Long, bị Giáng Long liệm thần chùy đánh nhằm đầu chết tốt, Giáng Long đốt những cờ phướn, rồi niệm chú đưa thần về hết, liền chạy tới trung ương, xảy gặp Liệp My tiên thì hỏi rằng:

“Đạo huynh phá được không?” Liệp My tiên nói:

“Đài ấy lợi hại lắm, tôi không thắng được”. Giáng Long nói:

“Tôi đã phá trận Khổn trạch rồi”. Hai người thẳng tới đài trung ương.

Nói về Đại Đầu tiên đánh trận Sơn chướng, đi vừa tới trận, thấy treo đầu của Vinh Câu, Trường Tiếu thì hươi trượng đánh gãy cây trụ, hai cái thây đều rớt xuống đất. Bạt Sơn chơn nhơn hay đặng, cỡi thú xuông ra nạt rằng:

“Yêu đạo! Sao dám tới cướp thây”. Nói dứt lời múa gươm chém tới. Đại Đầu cử trượng rước đánh, chưa đặng sáu hiệp, Bạt Sơn thua chạy vàot rận. Đại Đầu rượt theo, Bạt Sơn lên đài phất cờ tam sơn, ngũ nhạc nghe sấm nổ, hiện ra thần kỳ ba non năm núi, dẫn sơn tinh, thạch tinh áp lại phủ vây. Đại Đầu lật đật lấy cờ giấy của ông Nam Cực cho giơ ra, thần tướng thấy có để sao cửu lương, hiệu nhi hùng, thì chẳng dám tới gần. Đại Đầu tiên vẹt thần, tuốt lên đài. Bạt Sơn chơn nhơn giận lắm, đốt bùa, tức thì cả trận non núi chập chùng, trùng trùng điệp điệp, vây phủ bít bùng. Đại Đầi thò trong túi da beo. Lấy ra một vật bửu bối, tên là chưởng thiên quyền, liệng trượng ngăn trên đầu núi, thành ra một cái hầm vòng tròn ở giữa, xung quanh tinh những đá. Đại Đầu tiên đứng giữa cười nói:

“Bạt Sơn! Trong trận mi còn phép chi nữa, hãy làm ra cho biết?” Bạt Sơn cả giận, liệng khai sơn giám đánh Đại Đầu tiên. Đại Đầu tiên chẳng bề kinh sợ, coi chừng cái Khai sơn giám rớt xuống gần tới, bèn lấy đầu hất lên mà đỡ. Khai Sơn giám đánh nhằm đầu bể làm hại, mà Đại Đầu tiên còn ngồi tự nhiên trên lộc, chẳng có chút máu. Bạt Sơn thấy vậy hồ nghi, nói:

“Cái đầu thằng yêu đạo này đã bể, vì sao không có máu, lại còn ngồi trên lưng nai, thật là kỳ quái”. Bèn đốt bùa lên núi, tính xuống đài lấy thủ cấp Đại Đầu. Tức thì núi đều tan hết, cái vòng ấy rớt xuống. Đại Đầu dưa tay nắm cái vòng. Bạt Sơn chơn nhơn thất kinh nạt rằng:

“Yêu đạo! Mi dùng tà thuật gì?” Bèn xuống đài cầm gươm tới đánh. Đại Đầu tiên bỏ cái chưởng thiên quyền vào túi, rối lấy ra một cây quạt, quạt trên cái đấu bể, kêu bảo ra cho mau, tức thì có một cục đá năm sắc, bay tới đánh nhằm hai con mắt Bạt Sơn mơ?

ra không được, Bạt Sơn liền quày thú bỏ chạy.

Đại Đầu thâu đá ngũ sắc, rượt theo, hươi gậy đánh xuống, con thú của Bạt Sơn nhảy đùa, làm cho Bạt Sơn té nhào xuống đất. Đại Đầu lướt tới cho một gậy nữa, chết tốt. Rồi tuốt lên đài Ly minh nhổ hết cờ phướn, niệm chú lui thần ra phía sau trận, gặp Liệp My, Giáng Long, rồi ba tiên đều nhắm trung ương thẳng tới.

Nói về Trường My, đến phá trận Địa hộ, trận ấy về phần Đảo Hải chơn nhơn trấn giữ, thấy Trường My vào, thì cười nói:

“Yêu đạo! Mi có tài giỏi bao nhiêu, mà dám phá trận?” Liền giục thủy thú, cầm tỵ hỏa cảnh đưa ngay đầu Trường My rọi xuống.

Trường My lật đật rước đánh. Đảo Hải dẫn Trường My vào trận phất cờ đại tào, âm binh âm tướng áp lại vây đánh. Trường My lật đật phất cờ của ông Nam Cực cho, âm binh thất kinh lui hết. Đảo Hải giận lắm, xuống đài đánh với Trường My, chưa được mươi hiệp. Trường My liệng trang hải binh. Đảo Hải đỡ không kịp bị cái binh ấy đánh nhằm chết nơi giữa trận. Trường My phá tan trận Địa hộ.

Lúa ấy Phục Hổ đánh với Thổ Tư chơn nhơn nơi trận hỏa diệm, Phục Hổ nhờ có cây cờ Khương Thái thượng, lui hết hỏa thần, Thổ Tư bèn mửa tơ tới vấn Phục Hổ, Phục Hổ quất cọp nhảy ra khỏi lưới, liệng hổ linh châu đánh tới. Thổ Tư thấy linh châu dữ tợn, liền giục nai chạy ra ngoài trận bị hổ linh châu đánh nhằm lưng, hộc máu chạy vào trung ương. Phục Hổ tiên ở sau rượt tới. Thổ Tư đang chạy rủi gặp Văn Xương phá trận Lôi oanh rồi chạy tới trung ương Mồ kỷ. Hai người gặp nhau, Văn xương nhìn biết Thổ Tư, bèn liệng lượng thiên xích đánh bồi thêm một roi chết tốt. Rồi hai người tuốt vào trung ương.

Nói về Liên Huê phá trận Thủy liệc, gặp Phiên Giang chơn nhơn thì nói rằng:

“Ta khuyên nhà ngươi dẹp phứt cái trận này mà về động Vân quang cho sớm. Hải Triều cũng muốn về núi bây giờ, người không trách đâu mà sợ”. Phiên Giang ca?

giận đánh với Liên Huê vài hiệp, dẫn Liên Huê vào trận, bèn phất cờ lên, binh biển tướng sông áp lại vây bít. Vốn Liên Huê tiên phép thuật cao cường, nên chẳng dùng đến cây cờ của ông Nam Cực cho, thấy binh sông tướng biển, gươm giáo sáng ngời, sóng bủa va đào, nước lên lai láng, bèn lấy ra một cái bửu bối tên là thanh lương toán. (Vật ấy vốn là sen trong an Thiên trì, đem về luyện nơi lò bát quái) liệng giữa không trung che mình, rộng hơn một mẫu, nước tưới không được, rồi lấy gươm chi?

dưới đất, hóa ra bốn vầng bông sen, đỡ bốn móng chân nai, giống như một chiếc thuyền trôi trên mặt biển, hễ rưới tay đến đâu thành ra bông sen ngăn đỡ gươm đao.

Liên Huê ở giữa cười nói:

“Phiên Giang! Mi làm sao ta thì làm”. Phiên Giang ca?

giận liệng định hải châu tới đánh. Liên Huê thấy chây ấy lợi hại bèn hả miệng mửa ra một vừng bông sen ngăn đỡ định hải châu, rồi lấy thanh điệp châu liệng lên nạt rằng:

“Phiên Giang chớ chạy”. Phiên Giang coi phép mầu diệu, liệu thế khó hơn và thấy bửu châu bay tới thì la lên một tiếng hóa lằn thủy quang, tuốt đến đài trung ương mồ kỷ. Lúc ấy Liên Huê tiêu thâu thanh ba điệp về, rồi nhổ hết cờ trên đài, đưa thần lui hết.

Nói về Hạo Phát tiên phá trận Phong ma, tuy có gươm đao theo gió bay tới mặc dầu, song nhờ cây cờ giấy của Nam Cực, nên không có vật chi dám động đến mình, tuốt lên đài Phong ma, dùng lửa ma đốt hết cờ phướn, rồi liệng gậy long hổ đánh Cách Điện chơn nhơn, Cách Điện liệu thế không xong bỏ chạy. Hạo Phát tiên đưa hết thiên thần rồi vào giữa trung ương hội với các tiên.

Nói về Nam Cực giục nai tới đài Mồ Kỷ, lúc ấy Trung Ba đế quân đang ở trên đài Mồ Kỷ, thấy nơi trận Sơn chướng cờ phướn phất lia, thì biết có người phá trận, vội vàng thót lên huỳnh lộc, tính xuống đài cứu, xảy ra gặp Nam Cực chạy tới trước mặt. Đế quân nạt rằng:

“Nam Cực mi dám đến phá đài Mồ Kỷ sao?” Nam Cực thấy Trung Ba xách gươm chạy lại thì nói:

“Tôi cùng đế quân chưa từng thử sức, hôm nay đến coi cao thấp thế nào?” Trung Ba hươi như ý đánh tới. Nam Cực cũng rước đánh.

Hai người đánh hơn mười hiệp. Trung Ba quảy lộc lên đài phất cờ câu trận, rồi bốc một nắm kim sa bay lui lại hết. Vốn thổ hay sanh kim, nên long tu quạt thuộc về hậu thiên chi bửu nên phá đặng, còn hỏa hay sanh thổ, nên hỏa là tiên thiên chí bửu, tương sanh tương khắc, biến hóa vô cùng, dẫu tam thanh giáo chủ cũng ngó, chớ không là chi đặng. Trung Ba thấy Nam Cực dùng quạt long tu quạt kim sa tan hết thì giận lắm, bèn lấy tiên thiên kim sa đánh ra. Nam Cực thấy kim sa này càng thêm lợi hại, bèn quạt ra một cái rất mạnh, lúc chưa quạt thì hãy còn khá, quạt rồi một cái, kim sa bay lên, biến thành cả muôn đao vàng rớt xuống. Nam Cực hoảng sợ lật đật lấy túi tiên thiên đặng thâu kim đao, không dè cái tiên thiên liệng lên vừa rồi, thì kim sa giống hình như biết trước, nổ lên một tiếng, nước lụt tràn tới. Nam Cực giục nai nhảy ra khỏi nước, thâu túi tiên thiên, thấy nước lên cuồn cuộn, dao vàng theo sóng lượn, như núi giăng áp tới. Nam Cực biết phá không nổi phép tiên thiên, ca?

thua bỏ chạy. Trung Ba đứng trên đài cười nói:

“Nam Cực! Ngươi có biết ta lợi hại không, ta chẳng rượt đâu, dhung cho người sống mà ra khỏi trận”. Nam Cực chẳng dám đáp lại, giục nai chạy dài.

Nói về Đông Phương Sóc, phá đài đông phương Giáp ất, đi vừa đến nơi, Đông Ba đến quân ở trên đài nghe sấm sét vang rền, mây đen bủa khắp, thì biết có người phá trận lôi oanh, tính đến nơi tiếp cứu, bèn cởi thanh loan chạy tới trận Lôi oanh, gặp một vị thầy tu, chân đi giày gai, mặc áo đạo bào, tay cầm trà điều trượng, chạy tới như baỵ Đông Ba nhìn biết Đông Phương Sóc thì nạt rằng:

“Đông Phương Sóc ngươi dám phá đài ta sao?” Liền hươi như ý đánh xuống, Đông Phương Sóc cử trượng rước đánh, đánh hơn mười hiệp Đông Ba vỗ thanh loan bay tuốt lên đài. Đông Phương Sóc cười nói:

“Đông Ba! Mi chạy đâu?” Liền đạp bộ chạy theo lên đài. Đông Ba lấy củi đòn liệng xuống, tức thì một biến trăm, trăm biến ngàn. Đông Phương Sóc lật đật giở miệng cái tiên bửu hồ lô, xông ra hai lằn bạch quang gom hết củi đòn, cột lại một bó, rồi nổ lên một tiếng, củi ấy gẫy làm hai đoạn. Đông Ba đế quân thấy phá mất phép hậu thiên bèn liệng tiên thiên gáp ất mộc châu, tức thì những củi đòn nằm gây dưới đất bay lên đánh Đông Phương Sóc. Đông Phương Sóc giở miệng hồ lô, bạch quang xông ra muôn đường, củi ấy đều biết ra lửa, vốn là mộc năng sanh hỏađó. Đông Phương Sóc thấy lửa dữ tợn bèn bất ấn vẹt lửa, xông tới đánh Đông Ba, không dè trong lửa gươm đao vô số. Đông Phương Sóc là:

“Không xong”. Liền quay mình bỏ chạy. Đông Ba xem thấy, xuống đài rượt theo, miệng kêu:

“Thằng ăn trộm đào, chạy đâu”. Đông Phương Sóc chạy qua phía đông, xảy gặp một viên tướng oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, tay cầm hai cây đao ba mũi, cỡi ngựa bạch long câu, kêu:

“Đông Phương Sóc chớ đến chỗ ta”. Đông phương Sóc nhìn biết Dương soái, nơi trận ngũ lôi bị con chó Hạo thiên khuyển của va mà đui mắt, thì thất kinh chạy vào trong. Đông Ba ngó thấy, liều cưỡi thanh loan bay giữa không trung nhắm ngay đầu Đông Phương Sóc đánh xuống một cây như ý. Đông Phương Sóc hồn bất phụ thể, nói:

“Ta chết rồi!” Liền bị như ý đánh xuống, té nhào xuống đất. Đông Ba nhảy xuống thanh loan, một tay nắm đầu, một tay nắm dây tư điều, giơ lên khỏi đầu, dùng thế lý ngư đả đĩnh, hai tay vật xuống chết tươi, song chẳng bể đầu. Đông Ba thấy Phương Sóc mặt như giấy vàng, chết nằm dưới đất, trong lòng than thở, nói:

“Không phải tại ta muốn giết ngươi đâu, bởi người tìm chỗ chết, nếu người có núi Đô.

Sóc tu hành, không lòng sanh sự, thì đâu có họa hôm nay như vậy!” Nói rồi cỡi thanh loan lên đài.

Nói về Vương Thuyền phá đài bình linh, đài ấy về phần Nam Ba trấn giữ. Nam Ba tánh như lửa đốt, thấy Vương Thuyền lên đài thì giận lắm, phất cờ chậu trước, tức thì lửa cháy đỏ trời, lại lấy mình châu cầm nơi tay, kêu bảo mau hiện thần thông.

Tức thì châu ấy cấm nơi tay, kêu bảo mau hiện thần thông. Tức thì châu ấy xẹt ra muôn đường kim quang (vốn Nam Cực làm đầu các tiên, còn phá chẳng được phép tiên thiên hay, huống gì ngươi khác). Vương Thuyền biết phép lợi hại, liệu không phá được, lật đật quày nai chạy vào trung ương, xảy gặp Vương Ngao, mặt mày thất sắc, cỡi nai chạy bay vào troung ương, bàn kêu:

“Hiền đệ”. Hai người dừng lại hỏi:

“Công việc của em thế nào?” Vương Ngao nói:

“Chớ nhắc đến làm chi, chẳng những không phá được đài Nhâm quý mà thôi, lại bị Bắc Ba phá hết phép tôi, tôi thấy trên đài phất cờ huyền võ, trận đấu biến, tôi tinh xuống tay trước hay hơn nên tội liệng cái thấu linh bài đánh nó, không dè nước biến ra lửa, thiệt là phép tiên thiên rất báu, đốt tiêu cái thấu linh bài của tôi, liệu không phá đặng nên thua chạy tới đây, còn đại ca chắc cũng hơn đặng phải không?” Vương Thuyền nói:

“Phép tiên thiên của nó phá sao đặng”. Rồi kế Tây phương Sóc cỡi con giao một sừng chạy tới, ba người gặp nhau đều nói:

“Phép tiên thiên dữ lắm”. Vương Thuyền nói:

“Chưởng giáo đạo phép vô cùng, hoặc người phá được đài mồ kỷ, cũng chưa biết chừng, chúng ta đến đó xem coi”. Vừa muốn đi, kế Nam Cực chạy tới. Các tiên đều tới trước mặt. Nam Cực hỏi:

“Các vị phá trận thế nào?” Các tiên nói:

“Phép tiên thiên rất báu, không hơn nó được”. Nam Cực nói:

“Tôi cũng không phá được phép Trung Ba” Các tiên chuyện vãn một hồi. Tây Phương Sóc thấy anh mình không tới đó, thì trong bụng hồ nghi, bèn nói với các tiên rằng:

“Anh tôi phá đài đông phương thế nào, đến bây giờ không thấy tới”. Các tiên đang hồ nghi, kế tám táng tiên đều tới, bèn đem việc phá trận mà thuật lại cho Nam Cực nghe. Tây Phương Sóc hỏi:

Các đạo hữu có gặp anh tôi không?” Các tiên đều nói:

“Không thấy”. Tây Phương Sóc chẳng an lòng, nói:

“Vậy các vị Ở đây chờ, tôi đi theo dọc đừng tìm coi thế nào?”

Chương 57 : Tây Phương Sóc giữa trận cướp thây anh, Quán Thế Âm cho linh đơn cứu mạng

Nói về Tây Phương Sóc muốn tìm thây anh, Nam Cực biết được, nói:

“Đạo hữu đi tìm một mình chẳng đặng đâu, phải có vài người tiên trưởng đi cùng, dẫu phép tiên thiên lợi hại, thì các người đông, nó cũng khó làm chi đặng”. Tây Phương Sóc nghe nói, bèn hỏi các vị tiên rằng:

“Chẳng biết có vị đạo hữu nào, khứng đi cùng tôi chăng?” Các tiên nghe rồi nói:

“Chúng tôi đều xin đi hết”, Tây Phương Sóc nói:

“Chẳng cần đi nhiều, phải ở lại, để Văn Xương, Liên Huê, đi với tôi mà thôi”. Nam Cực nói:

“Tốt lắm”. Rồi thò trong túi lấy ra một phong thơ đưa cho Tây Phương Sóc, dặn rằng:

“Đạo huynh đem cái thơ đưa cho Tây Phương Sóc, dặn rằng:

“Đạo huynh đem cái thơ này theo mình, đặng mà tình huynh trưởng; hễ có việc chi khó, thì giơ?

thở này ra xem, tự nhiên có chỗ diệu”. Tây Phương Sóc tiếp thơ, bỏ vào túi, cùng Văn Xương, Liên Huê, cỡi thú chạy bay tới đài giáp dất, đi chừng một dỗi, xa xa thấy có một người nằm dưới đất, ba người xem thấy, trong bụng cả kinh, nói:

“Không xong”. Bèn chạy bay tới trước, Tây Phương Sóc đem thấy, hét lên một tiếng, tế nhào xuống đất (vốn cái thây Đông Phương Sóc bỏ tại đó, vì trong trận tinh những thần kỳ, sợ đồ ô uế, nên phải đem ra ngoài trận mà bỏ) hai tiên lật đật đỡ Tây Phương Sóc dậy, giây lâu buông tiếng khóc rống lên. Đông Ba ở ngoài đại giáp ất, xem thấy rõ ràng, giận lắm, nói:

“Yêu đạo! Cả gan dám đến giựt thây, để ta coi người làm làm sao ra được”. Bèn cỡi thanh loan bay xuống nạt rằng:

“Yêu đạo! Chớ chạy”. Liền múa như ý đánh tới. Văn Xương nói:

“Không xong, Đông Ba tới đó, vậy Liên Huê đạo hữu, phải phoè nhị tổ sư, đặng tôi ngăn nó”. Nói rồi hươi lượng thiên xích rước đánh, Liên Huê tiên nói với Tây Phương Sóc rằng:

“Nhị tổ sư mau mau vất thây, phá cửa đông mà chạy, để tôi tiếp với Văn Xương, đặng ngăn Đông Ba lại”. Tây Phương Sóc nghe nói, lật đật ôm thây Đông Phương Sóc, xách trượng thót lên lưng giao, nói:

“Hai vị ráng mà cự với Đông Ba, đặng cho tôi chạy”. Nói rồi hai chân thúc con giao chạy như tên bắn. Đế quân ngó thấy giận lắm, nói:

“Yêu đạo! Mi giựt thây chạy đâu?” Liền bỏ Văn Xương rượt theo Tây Phương Sóc, Liên Huê tiên hươi gươm đón lại, nói:

“Đế quân chớ khi bọn ta, lời xưa có nói:

“Rượt người chẳng khác rượt cùng, người đã bị mi giết chết, thì cái công trăm năm tu luyện của người thả trôi theo dòng nước, mà lòng ngươi có chưa hả, còn muốn điều chi nữa sao?” Nói dứt lời, hươi gươm chém nhàu, Đông Ba rước đánh, Bỗng Văn Xương cỡi kỳ lân chạy tới. Liên Huê nói:

“Nhị tổ sư phép lực cao cường, chúng ta chẳng cần chạy theo, ở đây ngăn nó, đừng cho rượt theo nhị tổ sư”. Văn Xương nói:

“Tôi ở ngoài biển, nghe tiếng thằng già này, hôm nay gặp được, thử cho biết sức”. Nói rồi áp đánh Đông Bạ Đông Ba chạy lên đài phất cờ, trong trận tối đen, gió đen, gió nghe vụt vụt, hai tiên thất kinh, rồi nghe trên đài nói:

“Yêu đạo! Chớ chạy, hãy coi phép ta…. ” Tức thì trên không, cây gỗ đánh xuống tưng bừng. Văn Xương liệng lượng thiên xích cản ngăn, cây không rớt được, bỗng chốt trận gió nổi lên, cây đều hóa ra lửa hết. Văn Xương la:

“Dữ thiệt!” Liền quày kỳ lân bỏ chạy, Liên Huê tiên lấy một cái bửu bối kêu là hoán kích đồng giơ ra, nước tuôn trắng dã, ngăn lửa thối lui, không dè trong lửa lại có gươm đao bay tới. Hai tiên cự không lại bỏ chạy.

Nói về Tây Phương Sóc chở thây chạy bay như chớp nhoánh tới cửa phía đông, nghe trước mặt có tiếng kêu nói:

“Đạo sĩ xứ nào chớ đến, có ta giữ đây”. Tây Phương Sóc nhìn biết thần Nhị Lang, thì nói:

“Không xong, chỗ này có Nhị Lang thần trấn giữ, ta biết làm sao ra được”. Bỗng nhớ trực lại cái thơ của Nam Cực, bèn thò trong túi lấy ra xem coi, thấy trong thơ biên rằng:

“Muốn ra cửa động thì phải đội cái thây của lệnh huynh trên đâu, các thần sợ đồ ô uế thì ra khỏi được chớ lo, chớ chạy”. Tây Phương Sóc coi rồi, nghĩ thầm rằng:

“Nam Cực đã biết trước được, liệu có khi kế này cứu ra khỏi được”. Vốn Đông Phương Sóc là người tiên đắc đạo, nên chết mà thây hãy còn mềm, Tây Phương Sóc vác thây lên vai còn e người lên giựt, bèn thò trong túi lấy đâu tiên võng quấn cái thây vào mình, cầm trượng giục giao chạy tới, kêu nói:

“Tôi là Tây Phương Sóc, ở núi Đô Sóc, vì anh của tôi là Đông Phương Sóc bị Đông Ba đánh chết trong trận Sum La, nay tôi đem thây anh tôi ra, cầungười cao nhơn cứu sống, vậy xin thượng thánh thương xót mà nhượng cho tôi ra khỏi, ngày sau tôi sẽ đến tạ Ơn, như thượng thánh chấp ý chẳng cho, thì tôi cũng liều cái thây chết không sống lại được mà quơ đánh nhầu tới, sợ em thượng thánh vấy đồ dơ mà không về chầu nơi kim khuyết được, chừng ấy chớ trách tôi sao dám mạo phạm”. Nhị Lang thần thấy Tây Phương Sóc vách thây Đông Phương Sóc tới thì trong lòng thất kinh, nghĩ thầm rằng:

“Nó đem đồ ô uế, làm sao mà đánh nó được.

Nếu để nó chạy ra thì phụ lời Hải Triều cùng Trung Ba gởi gắm, còn đánh với nó vấy đồ ô uế, làm sao về chầu kim khuyết cho được, chi bằng để cho nó chạy ra, một là nó được trọn tình anh, hai là nó lại cám ơn ta, ba nữa chẳng vấy đồ dơ đến mình, như vậy mới lưỡng toàn kỳ mỹ”. Nghĩ rồi tránh ra khỏi cửa. Tây Phương Sòc đem thấy cả mừng, nói:

“Lúc này không chạy, còn đợi chừng nào?” Bèn giục giao bay bổng trên không, tuốt về dinh Tề, quân sĩ nhìn biết Tây Phương Sóc, Quan Huỳnh lật đật vào báo cung vua Tề rằng:

“Tây Phương lão tổ vác một cái thấy chết trên vai, về đến cửa đông, tôi đã mở cửa cho người vào thành rồi, nên phải đến tâu cùng bệ hạ”.

Tương vương người thất kinh hỏi:

“Các tiên đều về hết, hay là một mình Tây Phương Sóc?” Quan huỳnh môn tâu rằng:

“Thấy có một mình người vác thây chết mà thôi, chớ không thấy ai nữa”. Tương Vương lòng rất hồ nghi, nghĩ thầm rằng:

“Có khi các tiên đều chết hết, nên có một người về đây”. Kế thấy Tây Phương Sóc vào đến trước điện, có vài mươi quân ngự lâm khiêng một cái thây chết, nằm trên giường Tương Vương cả kinh, hỏi rằng:

“Nhị tổ sư ra trận, lấy đặng cái thấy đó, là thây của vị tiên nào vậy?” Hỏi chưa dứt lời Tây Phương Sóc khóc rống lên, bèn đem việc Đông Phương Sóc vào trận mà chết, và cứu ra thế nào, thuật lại một hồi. Tương Vương cũng sa nước mắt, nói:

“Thảm thương cho Đông Phương lão tổ, tu luyện mấy trăm năm, một mai mà tử vu phi mạng, thiệt là tội của tiểu vương nay, xin Nhị tổ tạm bớt lòng sầu, để mà liệu tính, hoặc tới danh sơn, hỏi thăm người cao nhân, cầu thuốc linh đơn cứu sống lại được cũng không biết chừng”. Tây Phương Sóc lau nước mắt, bước tới giường, cởi áo Đông Phương Sóc, xem coi một hồi rồi mặc vào, nói với Tương Vương rằng:

“Anh của tôi không phải bị phép bửu chi làm hại, tôi xem cùng mình không có dấu vết, duy nơi xương sống, có môt dấu bầm xanh, chắc bị Đông Ba vật chết, như vậy càng dễ cứu trị, xin bệ hạ sai người đem ảng đựng nước, để vòng theo cái thây, còn ngoài đốt một cái lư hương, và phải lặng lẽ, chớ cho kinh động, để tôi đến ba non năm núi, kiếm người cao nhân, tìm thuốc linh đơn về cứu”. Nói rồi nhảy lên lưng giao, bay bổng lên không đi tuốt. Tương Vương y theo lời Tây Phương Sóc dặn, làm xong cái việc dời thây Đông Phương Sóc, qua nơi điện thứ, rồi ngồi trong điện chờ tin.

Nói về Tây Phương Sóc cỡi giao nhắm biển tây bay tới, trong bụng nghĩ rằng:

“Các tiên ngoài biển người nào giỏi, thì đến đây hết, tuy còn lại bao nhiêu, không tài chi giỏi, dầu đến đó cũng vô dụng, chi bằng ta tới Ngũ hành sơn hỏi Tôn đại thánh.

Vì lúc trước người tiến cửa anh của ta cứu giúp Tôn Tẫn, nay bị chết, coi va tính lẽ sao? Vả lại va thần thông quảng đại, ắt có phép cứu được cũng chưa biết chừng, hoặc là người bạn thiết nào của va có tiên đơn thì va chỉ bảo, khỏi tìm đông kiếm tây ngăn trở thì giờ”. Tính rồi bay tới núi Ngũ hành. Ngộ không nhìn thấy nói:

“Tốt dữ a!

Ngươi đến ra mắt ta, có việc gì không?” Tây Phương Sóc nghe nói, bước xuống giao, lại gần lạy ra mắt Đại Thánh, đại thánh hỏi:

“Anh của ngươi xuống giúp Tôn Tẫn, đánh với Hải Triều có hơn được không? Hôm nay ngươi đến có việc chỉ” Tây Phương Sóc nghe hỏi, sa nước mắt khóc ròng nói:

“Anh của tôi bị Đông Ba đánh chết”. Rồi đem việc lúc Bạch Viên thỉnh xuống, bị chó Hạo Thiên của Nhị Lang thần cắn đui mắt, rồi bị chết trong trận Sum La cướp thây về, mà thuật lại hết, Đại thánh nghe nói giận lắm, hét lên như sấm, lam cho Lục đình, Lục giáp, Yết đết, Thần kỳ ở trên đỉnh núi nghe Đại thánh la hét thì thất kinh, nói:

“Không biết con khi?

này vì việc chi mà giận dữ như vậy, chúng ta mau xuống đó xem coi”. Nói rồi đều bay xuống hết, thấy một đạo nhân đang đứng cùng Đại thành nói chuyện, thì lòng bớt lo sợ. Đại Thánh nói:

“Tức chết lão Tôn đi, năm thằng già dám lớn mật, đánh người bạn thân thiết của lão Tôn chết, nếu ta ra được, ta chẳng nuốt ấy cái xương đầu chúng bay vào bụng ra, thì đừng kêu ta là Tề thiên đại thánh”. Tây Phương Sóc nói:

“Đại thánh! Nếu ông nói, mà có làm hại nó được thì nói, bằng không thì thôi, xin cứu anh tôi cho khẩn cấp, vậy chớ đại thánh có biết người tiên trưởng nào có linh đơn cứu được anh tôi chăng?” Đại thánh nói:

“Lão Tôn đâu biết được, nếu có Lão Tôn ra khỏi, thì ta đến cung Đâu suất, có lẽ nào Lý lão chẳng đưa cho ta chín, mười viên linh đơn, mà cứu anh người sao?” Tây Phương Sóc nói:

“Đại thánh không biết động nào có tiên đơn, vậy Đại thánh có biết động nào có người tiên, đạo phép cao cường, hay cải tử hoàn sanh được, xin Đại thánh chỉ giùm cho tôi đến đó thỉnh người?” Đại thánh nói:

“Lão Tôn bình sanh, không hiểu biết người nào, duy chỉ phục một mình Nam Hải bồ tát, thật ngươi đạo pháp vô biên, ngươi đến cầu người, ắt cứu được lịnh huynh”. Tây Phương Sóc nói:

“Bồ tát sẵn sàng cấp cứu những việc tai nạn, nếu tôi đến đó thì chắc cứu được, ngặt không biết đường qua Nam Hải mà đi”. Bỗng nghe có tiếng người nói:

“Ngươi không biết, ta sẽ đưa giùm”. Tây Phương Sóc nghe nói thất kinh lật đật hỏi Đại Thánh rằng:

“Người nào ở đâu mà nói vậy?” Ngộ Không cười nói:

“Chúng ngươi mun bị đòn hay sao mà chẳng hiện hình ra”. Tức thì vài người Lục đinh, Lục giáp, vài mươi Yết đế, Thần kỳ đều hiện nguyên hình nói:

“Ngươi muốn qua Nam Hải đi với chúng nó thì xong”. Tây Phương Sóc cả mừng, lật đất từ biệt Đại thánh. Đại thánh dặn rằng:

“Chừng cứu đặng huynh trưởng rồi, phải nói cho lão Tôn hay, để khỏi nhọc lòng trông đợi”. Tây Phương Sóc gật đầu vâng chịu rồi lên lưng giao. Yết đế thần khoát tay áo nổi trận gió lớn, bay bổng trên không, giây phút đến Nam Hải, núi Lạc đà bay xuống. Tây Phương Sóc xem coi cảnh Phật thật là mười phần xinh tốt hơn các nơi hết, liền bước xuống giao cùng bốn vị yết để chậm rãi đi đến cửa núi, thấy bốn vi.

kim cang ngồi nơi cửa, yết đế bước tới làm lễ, rồi chỉ Tây Phương Sóc mà nói rằng:

Vị này là táng tiên ngoài biển, tên TâyPhương Sóc, vì anh của ngươi là Đông Phương Sóc phá trận Sum La, bị Đông Ba vật chết, người mới đến núi Ngũ hành hỏi Tôn Đại thánh, Đại thánh chỉ cho người đến núi báu này cầu Phật Bồ Tát, nên người mượn tiểu thần dẫn đường tới đây, xin phiền Kim cang vào liên đài bẩm giùm”. Kim cang nói:

“Vậy Tây Phương Sóc phảivào đây chờ, đặng ta vào báo”. Tâp Phương Sóc vâng lời, đứng ngoài cửa núi. Bốn vị Yết đế nói với Tây Phương Sóc rằng:

“Chúng tôi đưa tiên trưởng đến đây, thì tiên trưởng đã biết đường rồi, vậy chúng tôi xin về trước báo tin cho Đại thành hay”. Nói rồi hóa gió bay mất, kế thấy một vị Kim Cang bước ra nói:

“Bồ tác cho Tây Phương Sóc vào cửa sơn môn, đi tới đại điện, nơi dưới liên đài. Tây Phương Sóc chẳng dám ngó lên, cúi lạy nói:

“Tôi là Tây Phương Sóc, lạy xin ra mắt, chúc Bồ tát thành thọ vô cương”.

Bồ Tát hỏi:

“Tây Phương Sóc, có phải là Tôn Ngộ Không chỉ cho ngươi đến đây chăng? Ngươi đến có việc chi ta đẽ biết rồi, trời đất sanh dân tuy có đức báo sanh, song năm trăm năm một cái tiểu kiếp, tám trăm năm một cái kiếp đại kiếp, vì vậy nên xuống tai phong, hỏa, bình, ách, nay thấy hùng (là bảy người) chiếm giữ bảy nơi, lòng người gian trá, có kẻ thì tôi giết vua, ngược trái đạo thường; vả lại hôm nay, đương lúc sát vận, Vương Tiễn vâng sắc chỉ điệp văn, giúp Tân Thủy Hoàng bình thâu sáu nước, trên ứng thời trời, dưới theo kiếp số, Tôn Tẫn tuy có tài trái trời, đổi mặt nhựt, cũng không hơn được nay ta vì Tôn Ngô Không và thương cái công tu luyện trăm năm khó nhọc, nên ta sai Mộc Ngạn tôn giả cầm nhánh dương liễu và nước cam lồ cứu anh ngươi, thôi hãy đi đi”. Tây Phương Sóc lại nói:

“Nay Chưởng giáo cùng Hải Triều đánh nhau. Ngũ lão bảy trận Sum La, vậy Nam Cực cùng các tiên, phá không nổi phép tiên thiên, xin bồ tát tưởng tình đồng đạo, cả ra phép Phật, cứu giùm khỏi trận”. Bồ tát nói:

“Khi số đất Lâm Tri duy lại sớm tối đây, ta không phải người ở nơi kiếp số, để ta chỉ cho ngươi đi thỉnh ít người đến phá trận, chẳng cần dùng phép, tự nhiên phá được. Ngũ lão cũng phải về núi”. Tây Phương Sóc hỏi:

“Chẳng hay thần tiên động nào, xin Bồ tát ra ơn chỉ bảo”. Bồ tát nói:

“Người đi với Mộc Ngạn tôn giả về trước mà cứu anh của ngươi sống dậy, rồi sẽ tới núi Ngũ hành, đi qua phía tây tám trăm dặm có một hòn núi kêu là Tạo hóa sơn, là nơi tiểu chùa tây thiên ở, ngươi phải thành tam vái lạy, thì tự nhiên tiểu chùa hay biết, dưới tòa ấy có năm vị tiểu tôn, thỉnh được người xuống, thì phép tiên thiên ắt phá trận liền, song con giao của ngươi tuy đi trên mây được, song chẳng mau lẹ, để ta cho người xuống, thì phép tiên thiên ắg phá đặng liền, song con giao của ngươi tuy đi trên mây được, song chẳng mau lẹ, để ta cho ngươi bốn câu thần chú phong, vân, điên đi lẹ như gió chớp”. Bèn đem phù chú truyền dạy, Tây Phương Sóc học thuộc rồi, bồ tát dạy Mộc Ngạn tôn giả đem bình nước cam lồ và nhánh dương liễu đến Lâm Tri cứu sống Đông Phương Sóc và kêu Tôn giả lại gần dặn bảo ít lời. Tôn giả lãnh mạng cầm nhánh dương liễu và bình nước am lồ, cùng Tây Phương Sóc từ biệt Bồ tất ra khỏi động Phổ đà, rừng Tử trước, rồi cỡi mây bay tới Lâm Trị Giây phút đến nơi bay xuống, quan trước điện xem thấy, vào báo cùng vua Tề. Tương Vương vội vàng ra trước. Mộc Ngạn tôn giả vào tới thiên điện, xem thấy Đông Phương Sóc:

Khá thương một đạo linh hồ, thẳm thẳm xa chơi miền địa chủ, nói:

“Đạo hữu, phải ngươi an ẩn trong động tu hành thì đâu có cái ách như vậy?” Nói rồi miệng niệm chơn ngôn, lấy nhánh dương liễu nhúng trong bình nước cam lồ, rưới trên mặt Đông Phương Sóc, chưa đầy nửa khắc, nghe Đông Phương Sóc, kêu lớn lên một tiếng rằng:

“Đông Ba vật chết ta rồi!” Vùng ngồi dậy, định tĩnh nguyên thần, thấy mình đương ở trong điện thành Lâm Tri, lại thấy Mộc Ngạn tôn giả bèn lật đật bước tới, làm lễ ra mắt, hỏi rằng:

“Tôn giả đến có việc chi chăng?” Tôn giả đem việc Tây Phương Sóc đến Nam Hải cầu cứu mà thuật lại, và kêu Tây Phương Sóc, nói:

“Đạo hữu, mau tới núi tọa hóa, chớ khá trì diên”. Tây Phương Sóc nói:

“Phải”. Bèn từ biệt chúng nhân ra khỏi điện, thót lên giao long bay bổng trên không, đọc bốn câu chú bồ tát cho, tức thì dưới bốn chân giao đều sanh mây gió, đi nhanh như chớp.

Nói về Mộc Ngạn tôn giả kề bên tai Đông Phương Sóc nói nhỏ ít lời. Đông Phương Sóc cả mừng, cùng Tôn giả từ biệt Tương Vương Bay bổng lên mây, thẳng tới trận Sum Lạ Tôn giả dùng mây che mình, Đông Phương Sóc đứng trên mây ngó xuống đài giáp ất, nạt rằng:

“Đông Ba đế quân, ngươi lên đây cùng ta định quyết thư hùng, ngươi dám đánh cùng ta chăng?” Lúc ấy Đông Ba đang ngồi trên đài, phòng giữ Nam Cực tới phá, xảy nghe tiếng nói, bèn ngước lên ngó thấy Đông Phương Sóc đứng trên mây, thì giận lắm nói:

“Thằng ăn trộm đào, ngươi sống lại đặng là may, còn dám tới đánh với ta sao? Chớ chạy, phen này ta bắt đặng đập chết chẳng dung”.

Nói dứt lời, giục thanh loan bay lên, vừa muốn tới đánh, Tôn giả hiện hình cười nói:

“Đông Ba đế quân, ngươi chớ hung hăng, có ta đây”. Đông Ba biết Ngạn Tôn giả thì thất kinh nói thầm rằng:

“Tân giả bên Nam Hải đến đây chắc trận này khó giữ”. Vội vàng hỏi rằng:

“Chẳng hay Tôn giả đến có việc chỉ” Tôn giả nói:

“Vì ngươi đánh chết Đông Phương Sóc nên em của người đến Nam Hải cầu cứu, Bồ Tát không nỡ ngồi xem, thương công người vài trăm năm khổ luyện, nên cho nước cam lồ, sai ta đến cứu, lúc đi Bồ Tát có dạy rằng:

“Chúng ngươi phải vị cái tình đồng đạo, không nên dùng phép giết nhau, mà sanh điều hờn giận. Bồ Tát nay đến cung Đâu suất, thỉnh tam giáo cùng chúng ngươi giảng hòa”. Nói rồi hóa kim quang đi mất. Đông Ba cười nói với Đông Phương Sóc rằng:

“Đạo hữu! Tôi cũng chẳng tranh hơn thua với ngươi làm gì, vậy ngươi về Lâm Tri, ta về nói lại với các Đế quân hay biết, thôi ta vi.

lòng Bồ Tát mà về trận, dung cho ngươi giây lát”. Đông Phương Sóc nói:

“Đông Ba! Ta cùng ngươi cái cừu một trời hai đất, bốn biển ba sông, ngày sau gặp nhau phải giữ gìn cho lắm”. Đông Ba cười lớn:

“Đạo hữu! Ngươi ngồi an trong động, không lẽ ta đến đó mà giết ngươi sao, việc ấy cũng bởi số kiếp của ngươi, chớ mao chơn nhơn kia, không phải tu thành chánh quả sao?” Làm cho Đông Phương Sóc không lời chi đáp lại. Đông Ba bèn cỡi loan bay xuống trận, đem việc ấy nói lại với các vị Đế quân cùng Hải Triều nghe.

Chương 58 : Tiểu chúa phá trận giảng hòa, Nam Cực mở ngục giải oán

Nói về Đông Phương Sóc thấy Đông Ba bay xuống trận rồi, cùng trở về Lâm Tri.

Nói về Tây Phương Sóc bay tới thấy một tòa núi cao vọi tột mây, trong bụng nghĩ chắc chỗ này là núi Tạo hóa đó, bèn bay xuống thấy cả núi cỏ thơm bông lạ rất nhiều, không lòng ngoạn thương, vội vàng bước xuống, quỳ trên đất chắp tay, đem công việc khẩn vái một hồi, bỗng nghe giữa núi có người cười lớn nói:

“Đạo hữu đứng dậy, có chúng ta tới đây”. Tây Phương Sóc nghe nói ngước mặt xem thấy năm vầng mây bay xuống, có năm người còn nhỏ, mỗi người chừa hai mái tóc, phía trước tới may, phía sau tới vai, mặt khác năm sắc, mình mặc áo bát quái, chân đi giày rơm, bề cao không đầy ba thước, giống như con nít, rồi thấy đi giày rơm, bề cao không đầy ba thước, giống như con nít, rồi thấy người mặt vàng, bước lại đỡ đứng dậy, cười nói:

“Đạo hữu đứng dậy, chúng ta vâng ngự chỉ của ông Bàn cổ, qua Đông Tề, không nên chậm trễ, vậy đạo hữu lên yên về nước, chúng ta theo sau tới liền”.

Tây Phương Sóc lật đật thót lên lưng giao, cỡi mây bay về Lâm Trị Lúc ấy Tương Vương cùng Đông Phương Sóc đang ngồi nơi điện, bàn luận việc trận Sum la, bỗng thấy Tây Phương Sóc về tới cả mừng, hỏi rằng:

“Công việc thế nào?” Tây Phương Sóc nói:

“Đến rồi, đến rồi, Bệ hạ mau truyền chỉ, nhứt điện dạy sắm hương án, bổn thân dẫn bá quan, cùng anh em Đông Phương Sóc, Bạch Viên, Bạch Hạc đều ra nghinh tiếp, thấy năm vầng mây trên không bay xuống, gió phất mùi thơm nực mũi, hiện ra năm vị Tôn giả. Tương Vương thấy năm vị Tôn giả cười ha hả, như đứa con nít, chừng sáu bảy tuổi, thì trong lòng hồ nghi, nói thầm rằng:

“Năm đứa con nít này làm chi nên việc, mà bảo trẫm phải bổn thân nghinh tiếp”. Nên có sắc chẳng đẹp. Tây Phương Sóc xem thấy thì biết ý, nói:

“Năm vị này là Tôn giả chẳng nên khi dễ,người của ông Bồ tát tiến cử, và vâng mạng Bàn Cổ đến đây, giải ách cho nước Tề”.

Tương Vương túng phải xuống xe đi tới, xá nói:

“Tôi chẳng hy Tôn giả đến, lỗi không ra tiếp, cầu xin rộng lượng thứ dung”. Năm vị Tôn giả đáp lễ nói:

“Chúng tôi có tài đức gì, dám nhọfc hiền vương nghinh tiếp” Rồi năm vị Tôn giả, cùng Tương Vương đi bộ, vào đến trong năm lớp cửa, thấy nhà dọn bày hương án, sắp đặt bông hoa tiếp rước. Năm vị Tôn giả than thở nói:

“Trời đất có đức háo sanh, xem chúng dân này, có gì mắc lấy ách nạn, thiệt khá thảm thương”. Giây phút đi đến đại điện, phân chủ khách mời ngồi. Anh em Đông Phương Sóc, cùng Bạch Viên, Bạch Hạch đồng tử, tới ra mắt, thông bày tên học, rồi ngồi hai bên. Tương Vương nói:

“Pháp Chương này là (là tên vua) bất tiếu, chẳng hay vâng nói tổ tông, khiến nên ngoài dấy can qua, làm cho trăm họ đồ thán, lòng nhiệt chẳng an, nay Nam Cực cùng các tiên,bị ngũ lão bày trận Sum la, giết lui binh Tần, thì Pháp Chương này, cảm đức vô cùng, đến chết không quên”. Nói rồi bước tới xá năm vị Tôn giả, năm vị Tôn giả vội vàng đáp lễ nói:

“Chúng tôi mong nhờ Nam Hải tiến dẫn và vâng chỉ ông Bàn cổ, xuống nơi sát giới, còn những việc ngăn giặc lui binh, thiệt bọn tôi không làm đặng”.

Tương Vương nói:

“Như phá đặng trận Sum la, thì binh Tần chẳng đánh tự nhiên phải lui”. Tôn giả cười nói:

“Việc ấy rất khó”. Người mặt xanh nói:

“Chúng ta phải mau tới hội với mấy vị đế quân, đặng có vè cho sớm, mà phục chỉ, chớ nơi hồng trần sát giời, không phải ở lâu được đâu”. Người mặt vàng cười nói:

“Đạo hữu đã sợ, sao còn lãnh chỉ, mà đi đây”. Rồi vòng tay nói với Tương Vương rằng “Trận Sum La phải sai người tới đánh, chờ Ngũ lão liệng phép ngũ hành, chúng tôi mới phá đặng, chẳng hay Bệ hạ có người nào quen việc chinh chiến chăng?” Tương Vương nói:

“Tri.

nước an nhà, nếu không có tướng giỏi thì làm sao đặng”. Bèn ngó xuống, kêu các vi.

hoàng huynh, ngự đệ, tới đáy ra mắt Tôn giả, đứng phân hai hàng, năm vị Tôn gia?

xem coi nhìn biết là sao ái sát, trên thượng giới xuống phàm. Bèn dạy Viên Cang dẫn binh tới cửa nam trận Sum la, quân sĩ phải mặc đồ đen, lén tới đài ly minh chặt cây cờ đỏ ở giữa, rồi đốt pháp la hét lên, thì tướng quân không mê loạn, và để một lá bùa trong mãoViên Cang, dặn rằng:

“Như có gặp thần thánh, thì cứ việc đánh chớ sợ”. Rồi kêu Điền Anh, Độc Cô Giao, Mã Lân, ba người cùng dạy làm một cách như Viên Cang, dặn đến canh ba đêm nay cơm nước xong rồi, tới trận Sum La, án theo sắc phục đứng chờ, hễ nghe giữa không trung pháo nổ, thì đánh vào. Chúng tướng lãnh mạng, lui ra sắm sửa, Tôn giả nói với Đông Phương Sóc rằng:

“Đạo hữu tới đánh phía đông, như gặp tiên thiên, thì kêu Quản Hậu tử ba tiếng:

Tây phương đạo hữu, đánh phía tây, gặp phép tiên thiên, thì kêu Kim Cang tử; Bạch Viên đánh phía nam, gặp phép tiên thiên thì kêu Nguyên Lưu tử”. Bốn người lãnh mạng xong rồi, Tôn giả nói với vua Tề rằng:

“Hiều vương còn người tiên trưởng nào nữa không?” Tương Vương nói:

“Tiên trưởng đều bị vây trong trận hết, duy còn có bốn vị Tôn gia?

sai đó mà thôi”. Tôn giả nói:

“Không có tiên trưởng, thì chiến tướng cũng đặng”.

Tương Vương nói:

“Mấy người Tôn giả xem coi khi nãy đó còn vài mươi tên nữa, mắc giữ các nơi, song chẳng bằng mấy người đó, xin Tôn giả lựa trong ấy lại một người”. Tôn giả lắc đầu, nói:

“Đài trung ương, phải có một vị thiên la đại tiên hay là người có phước lớn đi được, mấy tướng đó, tuy có sức mạnh mặc dầu, song không phải là người phá trận. Xin hiền vương nhớ lại cho kỹ càng”. Tương Vương nghe nói, bèn truyền chỉ đòi hết thiên tướng, chánh tướng nơi bốn cửa về, đặng Tôn giả xem coi. Năm vị Tôn giả xem rồi nói:

“Đi không được hết, phải kiếm một người đại phước mới được”. Tương Vương ngẫm nghĩ một hồi, nói:

“Có khi Tôn giả muốn cho ta đem binh, đánh cửa thiên môn chăng?” Bèn cười nói:

“Trong nước Tề duy có mấy người tướng đó mà thôi, hôm nay vì xã tắc nhân dân nước Tề, nên Chưởng giáo cùng bổn thân xông tên đạn, muôn chết cũng chẳng chối từ”. Tôn giả cười nói:

“Đi thì được rồi, song rồng không ra khỏi chắm, cọp chẳng lìa khỏi núi, thành Lâm Tri có nhờ oai hiền vương trấn giư, làm sao đi được”. Tương vương nghe nói làm thinh, bỗng nhớ lại, nói:

“Có rồi, có rồi, cái người mà tướng Tần ngh danh vỡ mật, Hải Triều thấy bóng kinh tâm, vốn cháu của Tôn Tẫn là Tôn Yên, đi được hay chăng, bây giờ đang ở trong phủ cư tang thủ hiếu, để tiểu vương kêu tới cho Tôn giả xem coi, như đi không được, thì không có người nào nữa”. Tôi giả nói:

“Nếu có người ấy, xin mới đến đây ra mắt”. Tương Vương dạy thừa phụng quan mời Tôn Yên đến.

Nói về Tôn Yên từ lúc đến nước Tề, ở trong phủ thủ hiếu, chưa từng gặp được nào, ngày kia đang ngồi trong phủ buồn rầu, nghĩ rằng:

“Nước Tề cùng Tần giao chiến, mấy bữa rày không biết thắng bại lẽ nào, vả lại chú ta không cho ra trận, thì cái cừu của tổ phụ, chẳng biết ngày nào trả được”. Bỗng thấy quan huỳnh môn bước vào nói:

“Có chỉ đòi thiếu gia vào triều”. Tôn Yên nghe nói, lật đật mặc áo tang ra cửa, cùng quan thừa phụng vào triều. Đi tới đại diện, thấy ở giữa có để năm cái ghế vàng, ngồi năm đứa con nít, mặt khác năm sắc, còn bọn Nam Cực, chẳng thấy một người, trong lòng hoảng kinh, vội vàng làm lễ ra mắt Tương Vương lật đật đỡ dậy nói:

“Ngự đệ, thôi chớ làm lễ”. Bèn dạy ngồi trên đôn gấm, Tôn Yên ngồi rồi hỏi rằng:

“Chẳng hay lão tổ cùng chú tôi và các tiên hiện ở chỗ nào?” Tương Vương đem việc bị vây, và cầu cứu mà thuật lại một hồi. Tôn Yên mới hay rằng năm vị tiên nhỏ này, là thỉnh đến phá trận, thì trong bụng nghĩ thầm rằng:

“Năm vị này, tướng mạo cổ quái, thân thể, nhỏ nhoi làm sao mà phá được cái trận dữ này”. Túng phải bước tới làm lễ ra mắt. Năm vị Tôn giả xem thấy cả mừng, nói:

“Vị tướng thiếu niên này là cháu của Liễu Nhứt chơn nhơn đi được, vậy tướng quân đến canh ba đêm nay, một mình tới phía tây trận Sum la, nghe giữa không trung sấm nổ, thì tướng quân the sau mà vào phá đài trung ương”. Nói rồi, Tôn giả lấy một đạo linh phù để trước bụng Tôn Yên, va lật khăn tang xuống, lấy tay đèn tên nên hườn cung, nói:

“Tướng quân chẳng cần mang giáp, mặc đồ tang này vào trận càng hay, song trận Thiên môn này không phải như các trận khác, tướng quân trước lên đài, nhổ cây cờ lớn, vốn cờ ấy là câu trận tinh trấn giữ, ắt hiện hình ra ngăn đó, thì tướng quân chớ sợ, ráng tinh thần đánh tới, tự nhiên gặp tam thúc ngươi, như gặp phép tiên thiên, thì kêu lên ba tiếng:

Trường sang Tử, có ta đến tiếp”. Tôn Yên nghe nói cả mừng, rồi ở đó chờ đến canh ba phá trận.

Năm Vị Tôn giả sai khiến xong rồi, cất mìn vừa muốn đi. Tương Vương lật đật cản lại nói:

“Xin Tôn giả ở lại phá trùm trận, cùng Chưởng giáo gặp mặt rồi sẽ về núi, tiều vương có sắp sẵn một tiệc, xin uống rượi chơi cho vui”. Tôn giả cười nói:

“Cám ơn hiền vương có lòng tốt, song chúng tôi không hưởng đồ khói lửa đã lâu, còn trận Sum La thì phải có chúng tôi đi mới được, Chưởng giáo ở trong trận, ắt gặp nhau, xin hiền vương chớ lo”. Nói rồi bay bổng trên không nhắm trận Sum La thẳng tới.

Nói về Nam Cực, ở trong trận, chờ đợi hồi lâu không thấy Tây Phương Sóc trơ?

lại, các tiên hỏi Nam Cực rằng:

“Vì sao Tây Phương Sóc cùng hai vị đạo hữu, đi đã lâu mà không thấy về”. Nam Cực nói:

“Các ngươi chưa rõ, Đông Phương đạo hữu đã bị Đông Ba đánh chết, Tây Phương Sóc đi đây, không biết có cướp được thây, ra khỏi trận không? Nếu ra khỏi trận, thì có người cứu, không hại gì?” Các tiên nghe nói thảy đều kinh sợ. Kế thấy Liên Huê tiên, cùng với Văn Xương, đi bộ trở về. Các tiên lật đật chạy tới hỏi thăm. Hai tiên đem việc cướp thây ra trận mà thuật lại. Liên Huê tiên nói:

“Tiếc tahy con mai huê lộc của tôi, bị chết nơi tay Đông Ba”. Các tiên thấy đều than thở, kế nghe sấm nổ. Nam Cực nói:

“Không xong, thằng già nó tới đánh nữa rồi, chúng ta phải giữ gìn phòng bị”.

Nói về chúng tướng bên Lâm Tri, đến canh ba lén ra khỏi thành, chia nhau tới trận, chờ nghe sấm nổ đánh vào. Giây lâu giữa không trung có tiếng sấm nổ, các tướng chạy vào bốn cửa, rượt tan vòng binh Tần ở ngoài, án theo phương hướng phá vào.

Nói về Tôn Tẫn cùng Mao Toại, bị Hải Triều vây giữa trận, bỗng nghe sấm nổ, ngước mặt lên, xem thấy sao trên trời chói xuống. Vốn năm vị tiểu chúa đến canh ba, tới trận Sum la, thấy thiên la thần giăng bít, năm vị Tiểu chúa nạt rằng:

“Thiên la thần sao chẳng trở về, còn đợi chừng nào?” Thiên la thần thấy năm vị Tiểu chúa, lật đật cúi mình nói:

“Tiểu thần đâu dám chẳng vâng, vì có pháp chỉ năm vị đế quân thỉnh đến, nên chẳng dấm riêng dẹp thiên la”. Năm vị Tiểu chúa nói:

“Không hề chi, thượng thánh hãy lui về trời, có chúng ta ở đây”. Thiên la thần nghe nói, thâu hết thiên la, mà bay về trời, nên chẳng có thiên la, sao đều sáng chiếu trong trận. Tôn Tẫn ngó thấy nói:

“Mao chơn nhơn hãy dậy cho mau, có người phá trận, chúng ta mau tới tiếp người”. Mao Toại nói:

“Tam ca! Anh khéo gạt tôi, làm sao mà anh chết biết được?” Tôn Tẫn nói:

“Tam ca! Anh khéo gạt tôi, làm sao mà anh biết được?” Tôn Tẫn nói:

“Ngươi hãy ngước lên mà coi thiên la đã tan hết rồi”. Mao Toại ngó lên thấy sao trên trời, cả mừng nói:

“Quả thiệt đó chớ, chúng ta mau mau đi tiếp ứng”. Tôn Tẫn thót lên lưng trâu chạy tới đài. Hải Triều vội vàng ngăn đánh. Ba người đánh nhau một chỗ, năm vị đế quân ở trên đài nghe sấm nổ, thì tưởng là chưởng tâm lôi của ông Nam Cực, đều lên phi cầm, xuống đài trợ chiến, bỗng nghe trong trận la ó chiêng trống vang rần, thì nói:

“Không xong, có người tới phá trận đó”. Bèn liệng chưởng tâm lôi, các tiên đều tới ngăn đánh.

Nói về Tây Ba đế quân xuống đài Canh tân, thấy Tây Phương Sóc cỡi giáo chạy tới như bay thì giận lắm nạt rằng:

“Yêu đạo, mi có tài chi giỏi đến phá trận ta” Bèn giục bạch lộc tay múa như ý xông tới trước đánh. Tôn Yên theo sau thấy Tây Phưoyng Sóc đánh với Tây Ba, bèn giục ngựa bạch long, nhờ có lá bùa trước ngực, hào quang xông ra chiếu sáng, tuốt lên đài Thiên Môn gặp Vương Tiễn, Tử Lăng ngăn đón, nạt rằng:

“Tôn Yên chớ chạy”. Tôn Yên chẳng thèm đáp lại, giục ngựa múa thương tới đánh hai người. Vương Tiễn liệng gươm tru tiên kiếm chém Tôn Yân, thấy trên đầu Tôn Yân hồng quang xông lên đỡ cây tru tiên kiếm. Vương Tiễn lật đật thâu gươm về rồi cùng Tử Lăng thua chạy lê đài (Nguyên trên đầu Tôn Yên, nhờ có ngũ tiểu chúa đè nơi nê hườn cung, nên hồng quang xông lên) Tôn Yên thấy Vương Tiễn thua chạy lên đài thì cả mừng nói:

“Vương Tiễn chớ chạy”. Bèn giục ngực đuổi theo. Thủy Hoàng xem thấy rõ ràng lật đật lấy bửu châu liệng xuống xẹt ra một đường lửa sáng. Tôn Yên lấy ta chà nơi lá bùa trước bụng, châu ất rớt xuống đất. Tôn Yên không rảng đặng mà lấy châu, Vương Tiễn giục ngựa hươi mâu tới đâm. Tôn Yên hét lên một tiếng hươi thương đâm lại. Vương Tiễn thất kinh lật đật tránh qua, bị thương đâm đứt giáp, Vương Tiễn hoảng kinh quày ngựa chạy qua phía đông. Tử Lăng thấy bửu châu không đánh đặng Tôn Yên, liền phò Thủy Hoàng chạy qua phía sau đài, cùng Vương Tiễn xông ra cửa đông, vì trên đầu Thủy Hoàng có bùa của ngũ lão nên ra được, chạy tuốt về dinh. Tôn Yên tuốt lên đài chẳng có một người, thấy cây cờ lớn bàn hươi đánh cầy cờ ấy, gãy là hai đoạn tức thì nổi một trận gió hiện ra thiên thần mình cao vài trượng, mặc giáp vàng, tay cầm thương đứng trên đài. Tôn Yên nhờ có linh phù nên trên đầu xông ra hào quang, thiên thần biết người đại phước chẳng đánh lại hóa gió đi mất. Tôn Yên chẳng thấy thiên thần thì rất mừng, quày ngựa xuống đài, đánh tới trung ương. Lúc ấy ba tướng ba phía, cũng nhờ có linh phù, chặt ngã cờ tới trung ương, chiên trống vang trời dội đất. Ngũ lão nghe sấm nổ, tưởng là Nam Cực làm sấm, sai chúng tướng vào trận, không dè có người đến phá. Còn Nam Cực nghe sấm nổ thì tưởng ngũ lão đánh Tôn Tẫn với Mao Toại.

Ngũ lão ngước mặt lên, chẳng thấy thiên la thì giận lắm, áp lại phủ vây Nam Cực.

Nói về Tôn Yên giực ngựa chạy tớio, thấy một người mặt trắng, râu bạc đang đánh với Tôn Tẫn và anh em Vương Thuyền thì giận lắm, nạt lên một tiếng, hươi thương nhắm lưng Tây Ba đâm tới. Để quân nghe có tiếng ngựa chạy, liền quay lại thấy mũi thương Tôn Yên đâm tới, giận lắm nói:

“Vì sao thằng phàm phu dám lén đâm tả” Liền giục lộc bay tránh khỏi cây thương. Tôn Yên đâm trật qua, vừa lấy thương lại thi nghe nạt một tiềng, bị như ý đánh xuống. Tôn Yên lật đật cử thương lên đỡ, hai tay rúng động, liền giục long mã qua khỏi. Tôn Tẫn xem thấy, la lên rằng:

“Tây Ba không được hại cháu ta” Bèn hươi gậy rước đánh. Tây Phương Sóc cũng chạy tới tiếp đánh. Ngũ lão bị bọn Nam Cực vây phủ thì cười nói:

“Hay cho bọn Nam Cực, ta vây bọn ngươi, sao bọn ngươi trở lại vây ta, khách mà làm chu?

vậy?” Bèn liệng chưởng tâm lôi, miệng niệm thần chú, tức thì bốn phía hào quang chớp nháng, thần bình thần tướng áp lại chẳng biết bao nhiêu, những người ngựa phàm gian thấy binh thần đều hãi kinh té hết, kêu khóc vang trời. Bọn Nam Cực thấy vậy liền hóa phép thần thông, những là:

Quạt long tu, đả tiên bài, đâu tiên võng, đả tiên thiên, hạnh huỳnh kỳ, kiết long thằng, rần rần rớt xuống. Đông Ba liệng hỏa, Trung Ba liệng thổ; đỏ trắng, vàng, xanh, đen, năm sắc; thủy qua đông, mộc qua nam, thô?

qua tây, kim qua bắc, hỏa ở trung ương; tương sanh tương khắc, tương khắc tương sanh, biến hóa vô cùng, thiệt tiên thiên phép bửu rất diệu. Nam Cực nói:

“Năm thằng già nó làm phép bổn mạng của nó đó!” Anh em Đông Phương Sóc, Bạch Viên, Bạch Hạc, Tôn Yên xem thấy lật đật đứng theo phương hướng, trong miệng niệm thầm ba tiếng:

Bửu hiệu, bỗng thấy năm vầng mây trên không rớt xuống:

Kim cang tử rớt xuống phía tây, Quản Hậu tử rới xuống phía đông, Nguyên Lưu Tử rớt xuống phía bắc, Thượng lưu tử rớt xuống phía nam, Trường Sanh tử rớt xuống trung ương; tức thì nước không sóng dợn, lửa chẳng cháy lên, núi đều tan hết, gươm đao không thấy, cây gỗ chẳng còn. Năm vị đế quân trông thấy năm vị Tôn giả đứng phân năm phía, trong lòng cả kinh. Năm vị Tôn giả kêu nói:

“Các động đạo hữu chớ đánh, chúng tôi có lời tỏ cáo”. Nam Cực thấy có năm vị tôn giả đến thì rất mừng, liền dạy các tiên thâu phép về, bước tới cúi đầu nói:

“Rất cám ơn Tôn giả, đến giải nạn cho chúng tôi”. Tôn giả nói:

“Lão tổ xuống chốn hồng trần, không dè chúng tôi cũng phải tới nơi sát giới, chỗ này không phải là chỗ chúng ta ở đặng, xin các vị hãy đi về núi. Tôi vâng mạng Bàn Cổ tới đây vây giảng hòa” Nam Cực nghe rồi nói:

“Tôi xin vâng theo pháp chỉ”. Tôn giả hỏi năm vị đế quân rằng:

“Vì sao giận dỗi, bày ra trận lợn hại này mà vây các tiên, là chớ chi vậy?” Ngũ lão nói:

“Không phải chúng tôi giận hờn chi mà sanh ra chuyện này, vì Nam Cực binh vực học trò, trái trời làm nghịch, Hải Triều cùng bọn tôi xuống núi, chẳng qua vì tình đồng đạo, chẳng phải có lòng chí quấy”. Năm vị tiểu chúa nói:

“Đế quân lòng hay háo thắng, hôm nay sao chẳng khứng về non”. Ngũ lão nói:

“Nam Cực bắt hết mười hai tên học trò của ông Hải Triều mà giam tại tỏa tiên lao, nếu chịu thả ra, thì ai về núi nấy, chúng tôi mới hết giận, ba lượt cướp tỏa tiên lao, nay bọn Nam Cực chẳng chịu thả về, mà Tôn gia?

lại phá mất phép bửu của chúng tôi thì Nam Cực làm chi chúng tôi được, chúng tôi cũng tình nguyện bỏ chức của trời, cùng với Nam Cực định phân cao thấp” Ngũ tiểu chúa cười nói:

“Đế quân là người đao đức thề nào mà nói ra như vậy, thì hai bên há chẳng nín sao, nay Nam Cực ở đây, vậy nói với người mau về Lâm Tri, thả các tiên động Vân Quang, bằng quả thiệt chẳng thả ra, chừng ấy các đế quân sẽ xuống; thôi, hãy theo chúng tôi mà trở về phục chỉ”. Nói rồi dẫn năm vị ngũ lão bay tuốt lên mây. Lúc ấy còn có một mình Hải Triều, cô chưởng nam minh, bèn dẫn các học trò tới đài Thiên môn, trong bụng tính tới đó cùng vua tôi Thủy Hoàng ra trận, không dè vua Tần cùng Vương Tiễng, Tử Lăng trốn đâu bao giờ rồi bao giờ rồi. Hải Triều dẫn các tiên về dinh.

Nói về Nam Cực thấy năm vị tiểu chúa, cùng ngũ lão về núi rồi, trong trận chẳng có binh tần, bèn niệm chú đưa thần về hết. Dạy binh Tề đập phá đài dất nát tan, giây phút Sum la thóa ra đất bằng, rồi cùng các tiên cỡi mây về thành Lâm Tri.

Tương vương truyền chỉ bày yến chay, cùng Nam Cực, các tiên ăn mừng. Nam Cực dạy Tôn Tẫn, đến tỏa tiên lao dạy quân khiêng các tiên tới điện bỏ xuống, người người như hình cây người đất. Nam Cực than thở nói:

“Không phải ta chẳng có lòng từ bi, chẳng qua là kiếp số các ngươi như vậy”. Bèn dạy Tôn Tẫn gỡ hết bùa, kêu cho tỉnh lại. Tôn Tẫn vâng mạnh, dạy đem nước lạnh, lấy gươm nga my, họa phu?

niệm chú, phun nước lên mặt các tiên, giây phút người người say mới tỉnh, chà mày dụi mắt, đứng dậy, ngó thấy Nam Cực ngồi giữa, các tiên ngồi hai hàng. Tôn Tẫn cầm gươm đứng một bên, thì không rõ cớ gì lại bị Nam Cực bắt, mà ngồi tại chỗ này, rồi nghe Nam Cực nói:

“Hôm qua có năm tiểu chúa, xuống cùng ngũ lão giảng hòa về núi, nay Hải Triều ở trong dinh tần, ta tha chúng ngươi về thấy nhau, lẽ thì đánh chúng ngươi ít gậy, song ta vị Hải Triều cùng ngũ lão, nhiêu dung lỗi mọn cho chúng ngươi, nếu còn tái phạm, thì ta đánh một trăm, thôi mau mau về động Vân Quang”.

Bèn lấy bửu bối của Hải Triều, mà đưa cho các tiên đem về và dạy Bạch Viên đưa các tiên ra khỏi thành. Các tiên túng phái cáo từ, cỡi mây về dinh.

Nói về Hải Triều cùng các tiên và Thủy Hoàng đang bàn luận việc trận Sum La, Thủy Hoàng cúi đầu chẳng nói tiếng chị Kế quan giữ cửa vào báo nói:

“Có các tiên động Vân Quang đứng ngoài cửa dinh, xin vào ra mắt”. Thủy Hoàng nghe nói thấy kinh, nói:

“Có họa tới rồi, đừng cho chúng nó vào mà khốn”. Quan giữ cửa bẩm rằng:

“Chúng tôi dạy quân cung tên bắn nó, mà chúng nó nói:

“Xin vào dinh ra mắt bệ hạ”. Lúc ấy vua Tần hồn bất phụ thể, lật đật đứng dậy hỏi Kim Tử Lăng rằng:

“Chẳng biết yêu đạo xứ nào, giả mạo học trò lão tổ, e việc này cũng là phép Tôn Tẫn đó”. Hải Triều nói:

“Dẫu thiệt Tôn Tẫn đi nữa, có tôi đây, không hề gì, xin bê.

hạ chớ lo”. Thủy Hoàng nói:

“Lão tổ chẳng rõ, lúc trước bị nó mấy lần làm rối loạn, dường như nghiêng sóng đổ biển, nhơn dân đồ thán, huống chi nó phép thuật vô biên, trong dinh ta không có ai mà cự lại nó. Lão tổ chớ chọc đến nó thì xong hơn”.

Chương 59 : Cửa Nam thiên, lão tổ gặp chánh thần, Văn Ba điện Nam Cực từ Tề chúa

Nói về Hải Triều thánh nhơn bị vua Tần cười chê, thì hổ thẹn mặt đỏ phừng phừng, trong bụng nghĩ rằng:

“Ta chẳng qua vì Nam Cực mà xuống đây, nay bị thua Nam Cực, cũng vì nước Tần nếu ta về núi, ngặt vì ta xuống từ đó đến nay không làm được chuyện gì, bây giờ trở về há chẳng bị ngươi chê, muốn nói xóc với vua Tần ít điều, ngặt mình không hơn Nam Cực được, biết nói làm sao?” Nghĩ đi nghĩ lại rất khó, túng phải gượng cười nói:

“Khí sống Đông Tề đã hết, nay mà lui binh, thì chẳng những uổng phí tiền lương, tổ binh chết tướng, và lại sái mất thời tiết, xin hiền vương tạm dừng đại binh, nếu như giả, tôi tuy không hơn được Nam Cực, song cũng khá ngăn phép ma nó đặng, chẳng biết ý bệ hạ thế nào?” Thủy Hoàng thấy Hải Triều mặt đỏ thẹn thùa, nghĩ biết mình lớ lời, bèn gượng cười mà nói rằng:

“Lão tổ phép lạ vô cùng, nếu không có lão tổ, thì vua tôi nước Tần này đã sớm bị Tôn Tẫn giết chết, đâu có còn đến naỵ Lão tổ muốn tạm dừng đại binh, trẫm phải kính vâng theo ý, chẳng luận các động chơn nhơn thiệt giả, đến sáng ngày trẫm quyết lui binh mà thôi”. Hải Triều nghe nói cả mừng, cùng Kim Tử Lăng, Vương Tiễng ra dinh, thấy mười ba vị chơn nhơn đều đứng ngoài cửa. Lão tổ kêu lớn hởi rằng:

“Các trò! Vì sao hôm nay về được?” Các chơn nhơn thấy Hải Triều đều bước tới ra mắt, đem việc Nam Cực tha về, mà thuật hết lại và lấy mấy pháp bửu bi.

mất trong trận khi trước, dâng cho Hải Triều. Hải Triều nửa mừng nửa giận, mừng là mừng học trò đã về, bửu bối đã lấy đặng, giận là giận Nam Cực đã thả học trò trơ?

về, còn nhiều lời khi dễ, rồi dẫn học trò vào dinh ra mắt Thủy Hoàng, phân ngồi hai bên. Thủy Hoàng thấy các tiên đi đứng chuyện vãn không phải là hình giả, thì hết lo sợ, truyền bày yến ăn mừng. Đang uống rượu, Thủy Hoàng, dặn học trò giữ dinh, ta đi giây lát sẽ về. Dặn rồi cỡi mây bay qua phía nam, xa xa xem thấy năm vừng mây có năm vị thần thánh; vị Ở giữa ba đầu sáu tay, mặt vàng ba con mắt, mặc áo bát quái, vị bên tả mặt đỏ, râu đỏ, bốn cái răng đều lộ; vị phía bên hữu, mặt xanh, tóc đó, đầu đội kim niếp, tay cầm kim tinh; một người râu dài năm chòm, mặt như thoa phấn, một nười đầu beo, mắt tròn, mặt như lọ chảo, tay bước tới cúi đầu hỏi rằng:

“Tôn thần xuống phàm gian có việc chi chăng?” Người ba con mắt đáp rằng:

“Chúng ta vâng sắc chỉ, đến thành Lâm Tri, Đông Tề”. Hải Triều tưởng là Nam Cực thỉnh đến, bèn nói:

“Chẳng hay vị đạo hữu nào cầu thỉnh tôn tần xuống đó?” Năm vị tôn thần đều cười nói:

“Có đạo hữu nào thỉnh đâu?” Chúng ta là ôn bộ chánh thần vâng sắc chỉ tới Lâm Tri rải an (dịch khí) hạn sáu ngày, bá vạn sanh linh phải chế”.

Hải Triều nghe nói thất kinh nói:

“Dám hỏi tôn thần, rải một chỗ Lâm Tri mà thôi, hay là chỗ khách cũng đều có nữa?” Tôn thần nói:

“Duy có một chỗ Lâm Tri mà thôi, cách thành ba mươi dặm thì chẳng có, vậy chớ đạo hữu lên thiên môn có việc chi đại sự không?” Hải Triều nói:

“Tôi là người ở Đông Hải, động Vân Quang, Hải Triều thánh nhơn, vâng sắc chỉ sai lôi bộ xuống phàm, gồm thâu sáu nước ứng theo kiếp số, học trò tôi đánh tới Lâm Tri, bị Nam Cực cùng Tôn Tẫn dẫn táng tiên ngoài biển ngăn đánh binh Tần, bất đắt dĩ tôi phải xuống núi, bị Nam Cực vây trong trận tụ tiên, may nhờ năm vị đế quân cứu ra khỏi trận, rất giận Nam Cực, trái trời, giúp Tề đánh Tần, vốn bọn nó là Thái ất kim tiên, tôi không trị được, nay tôi lên thiên đình tâu cùng Ngọc đế, rồi đến cung Đâu suất nói với thầy nói, coi ai phải ai quấy”. Năm vị tôn thần cười nói:

“Té ra Hải Triều lão tổ, nghe tiếng đã lâu, hôm nay được gặp thật ra may lắm, theo ý tôi, lão tổ chẳng cần lên tấu thiên đình làm chi, thành Lâm Tri bị tai trướng mắt, bọn Nam Cục dễ chẵng biết ý trời sao? Chắc va khng hơn ba mươi dậm, một là khỏi nhiễu ôn dịch, haio nữa Nam Cực thấy binh Tần đã lui thì tự nhiên về núi, ngoài sáu ngày chẳng cần động binh, đất Đông Tề giũ tay cũng khá lấy được, thì chẳng hai hơn sao?” Hải Triều nghe nói, rồi nghĩ rằng:

“Ta lên tâu thiên đình, là việc bất đắc dĩ, chớ lòng ta không muốn, hôm nay công việc như vậy, chi bằng ta để cái tình, ngày sau còn gặp nhau được”. Bèn nói:

“Lời của chánh thần phân rất phải, tôi xin trở lại”. Liền từ biệt năm vị Ôn thần, cỡi mây trở về dinh.

Nói về Nam Cực cùng chúng tiên, và vua tôi nước tề cười nói một hồi. Nam Cực cùng chúng tiên từ biệt Tương Vương, lui vê Vân Ba Điện. Nam Cực nói với Tôn Tẫn rằng:

“Sáng ngày ta về núi, vậy ngươi phải lên Ngô kiều mà chôn mẹ, rồi về Thiên Thai, chớ khí số Lâm Tri đã hết, cái đạo làm tôi đã đủ rồi, nếu còn tham luyến, thì trái nghịch lòng trời, chẳng những ngươi mà thôi, ta cũng không khỏi bi.

trách”. Tôn Tẫn sa nước mắt nói:

“Đệ tử há chẳng biết vượng khí đất Lâm Tri đã hết sao, cái cừa cha, anh, chú nơi thiên mạng, song nơi hội bình linh, tam thanh có nói:

“Ở nước Yên tận hiếu, ở nước Tề tận trung, nay còn một giờ chống lại một giờ, làm cho binh Tần thấy bóng kinh lòng, nghe danh rụng mật, chừng ấy tôi sẽ lên Ngô Kiều chôn mẹ”. Đông Phương Sóc cười nói:

“Cờ gặp xứng tay mới sướng, nay Ngũ Lão về núi, trong dinh Tần bất quá còn lại Hải Triều mà thôi, làm chi cho sanh dân đồ thán, chi bằng nhơn lúc này về núi thì hơn”. Tôn Tẫn nói:

“Tôi là người tu hành, lấy việc từ bi làm gốc, đâu có lòng sát sanh mà tranh thắng bại, song mấy người đó thiệt khó thương được, nên muốn làm cho biết lợn hại”. Tây Phương Sóc cười nói:

“Liễu nhứt chơn nhơn, ngươi đã hiểu được đất Lâm Tri gần mất, thì Hải Triều va dễ chẳng biết xem khí tượng hay sao, thi va cũng làm thế khác, không lẽ chịu thôi, va?

lại binh Tần chẳng lui, thì vui Tề đâu cho chưởng giáo cùng chúng ta về núi, ngươi hãy ra xem coi, còn có mấy ngày nữa đâu”. Tôn Tẫn nghe nói, chạy ra khỏi điện ngước mặt lên xem, thấy khí đen mù mịt, lúc ấy đã đến canh bạ, bỗng thấy năm vầng mây qua lại trên không vẫn năm vị Ôn thần bay đến Lâm Tri, vì trong ấy có bọn Nam Cực, đều có tham huê tụ đính, hồng quang muôn đạo xông thấu trên mây, ôn thần sợ phạm đến mình tiên, nên còn đang qua lại muốn xuống, xảy gặp Tôn Tẫn chạy ra. Tôn Tẫn thấy năm vầng mây qua lại bèn rút cờ hạnh huỳnh chỉ lên, nạt rằng:

“Thần xứ nào? Sao chẳng rớt xuống cho tả” Năm vị Ôn thần liền bay xuống.

Tôn Tẫn nhìn biết ngũ ôn chánh thần, thì thất kinh, lật đật vòng tay thưa:

“Chẳng hay tôn thần đến đây có việc gì?” Năm vị tôn thần vội vàng đáp lễ:

“Chúng tôi vâng sắc chỉ xuống tại đất Lâm Tri”. Tôn Tẫn hỏi:

“Ngự chỉ hạn mấy này?” Tôn thần nói:

“Hạ từ bữa nay cho đến sáu ngày”. Tôn Tẫn nói:

“Vì tôi có quan tài của mẹ, còn ơ?

trong thành, đi chôn chưa kịp, xin Tôn thần hoãn lại ba ngày chẳng biết đặng chăng?” Tôn thần nói:

“Chỉ vua sai khiến, đâu dám vị tình, song trước hưỡng sau gấp thì khá lâu đặng ít ngày”. Tôn Tẫn hỏi:

“Trước hưỡn sau gấp là thế nào?” Ôn thần nói:

“Chứng ôn ấy gfấp thì trong nháy mắt bỏ mình, còn hưỡn thì ba ngày phải chết ngay, nay tôi rưới mạng ôn (là ôn hưỡn a ngày mới chết) dặng hưỡn cho ngươi ít ngày”. Tôn Tẫn nghe rồi cám ơn, ôn thần đem việc gặp Hải Triều lên thiên môn tâu cáo, mà thuật lại một hồi, Tôn Tẫn thất sắc nói:

“Nếu không có tôn thần khuyên cản, thì chưởng giáo cùng tôi ắt bị quở trách, ngày sau rảng việc, tôi sẽ đến lạy tạ Ơn”.

Nói rồi từ biệt ôn thần, về điện Văn Ba, đem việc ấy thuật hết lại. Nam Cực nói:

“Như vậy mai sớm ta phải lui binh, cách ngoài ba mươi dặm, mà tránh tai nạn, rồi chúng ta giết cho nó trở tay không kịp, ngươi tính thế nào?” Tôn Tẫn nói:

“Lời tổ sư phân nhằm ý tôi lắm”. Bèn kêu Tôn Yên, nói:

“Ta trao cho ngươi một phong thơ, một đạo linh phù dẫn hai trăm gia tướng, ra cửa đông ba mươi dặm, sẽ giở thơ coi theo đó mà làm, như gặp người Tần chạy tới, thì đốt bùa, đánh nhầu có một trận, song chẳng khá rượt theo, ra đóng đinh ngoài cửa tây, ba mươi dặm chờ đó”. Tôn Yên lãnh mệnh đi liền. Tôn Tẫn sai Viên Cang, Độc Cô Giao, dẫn một ngàn binh mã ra cửa đông ba mươi dặm, đào hầm bốn phía, trên đậy cỏ lại, chờ binh Tần tới, đón mà giết nó, rồi có ta đến tiếp. Hai người lãnh mệnh ra đi.

Nói về Hải Triều về tới dinh Tần bay xuống. Lúc ấy vua tôi nhà Tần đang ở nơi trướng bàn luận lăng xăng, bỗng thấy lão tổ trên không bay xuống. Vua Tần cùng các tiên xuống thành nghinh tiếp, vào điện mời ngồi. Thủy Hoàng hỏi:

“Lão tổ lên thiên môn, xảy gặp ngũ ôn thần khuyên cản nói:

“Chảng cần vào tâu ngọc đện, xin bệ hạ lui binh, đóng ngoài ba mươi dặm, chờ quá sáu ngày, đất Đông Tề giũ tay cũng lấy đặng”. Thủy Hoàng nghe nói cả mừng, truyền bày tiệc ăn uống, rồi dạy Vương Tiễn dẫn mười viên đại tướng đi trước, Tư Mã Hân, Đổng Ế đi sau! Trẫm và lão tổ hưỡn ra đi, đi hơn hai mươi dặm, xa xa xem thấy cụm rừng, e có binh Tề mai phục, bèn đóng dinh nơi ấy.

Nói về đội trước, vâng mệnh Vương Tiễng phi báo, đội giữa nghe báo thất kinh, nói:

“Có binh Tề ngăn trở, phải mau đòi đội sau tới tiếp” Hải Triều lật đật nói với Thủy Hoàng rằng:

“Xin bệ hạ chớ lo, để tôi tới trước xem coi thế nào?” Rồi dẫn học trò đi tới đội trước, tướng đội trước vào bẩm rằng:

“Vương tướng quân dẫn vài mươi quân vào trong cụm rừng ấy, đến bây giờ không thấy ra, nên tôi phải bẩm cùng lão tổ định phân”.

Hải Triều hỏi:

“Rừng ấy ở đâu?” Chúng tướng lấy tay chỉ nói:

“Cụm rừng trước”.

Xem coi, không thấy rừng bụi chi hết, duy thấy vài mươi cây lớn cắm nơi mé lộ thì nói:

“Không xong, Điện tây hầu trúng kế Tôn Tẫn rồi, các học trò không nên tới trước, để ta coi thử”. Bèn cỡi hẩu tới trước lùm cây, thấy cắm bày thứ lớp, bố theo bát quát, thì biết là phép ngũ độn, bèn niệm chú lấy gươm chỉ tới, cây đều ngã hết, binh Tần ngó thấy đường lộ chẳng có cây cồi chi thì thất kinh, phi báo vuạ Lúc ấy Hải Triều phá phép mộc độn rồi cỡi hẫu rượt tới chưa nửa dặm đường, xa xa ngó thấy Vương Tiễn cùng mươi quân đi vòng vòng một chỗ như đứa mất hồn, thì kêu lớn rằng:

“Hiều đồ chạy ra, có ta đây”. Bỗng thấy một cây lớn, gió thổi phất phơ lại có lá cờ dán trên cán cờ, trong bụng nghĩ rằng:

“Vật này là phép của Nam Cực và Tôn Tẫn đó, vậy ta gỡ lá bùa này trước, thì phá phép dễ hơn”. Rồi chẳng cứu Vương Tiễn, giục ngựa chạy bay tới cờ, thình lình bị sụp một cái như trời nghiêng đất lở, lúc Hải Triều sụp rớt dưới hầm thì quân Tề núp trong cỏ cầm câu móc áp lại giựt bắt Hải Triều. Hải Triều la:

“Không xong”. Liền hươi gươm đánh dỡ. Vốn Hải Triều phép lực tuy giỏi, gặp việc bất cập, trong lòng rối loạn, cứ đỡ đánh với quân câu móc, mồ hôi ướt dầm. Vốn con hẩu của Hải Triều là thú linh đặc đạo, thấy chủ nó bi.

nguy cấp, rống lên một tiếng bay bổng lên. Hải Triều múa gươm cù long đánh đỡ câu lóc, lên đặng khỏi hầm thấy tiên y rách ít chổ thì giận lắm liệng gươm cù long chém vào tên quân rớt xuống hầm Viên Cang, Độc Cô Giao áp tới vây đánh Hải Triều. Các chơn nhơn ngó thấy cũng hươu binh khí tới đánh. Hải Triều nói:

“Các trò chớ cho hai viên tướng Tề chạy thoát, để ta đi cứu Vương Tiễn”. Nói rồi giục hẩu chạy đi. Viên Cang, Độc Cô Giao không dám đánh nữa, giục ngựa phá vây bỏ chạy.

Các tiên chẳng rượt, bèn theo Hải Triều.

Nói về Hải Triều đương đi thấy có đống đất giăng ngang trước mặt thì biết là phép ngũ độn lật đật liệng chưởng tâm lôi nổ lên, đất đều tan hết. Bọn Vương Tiễn nghe sấm nổ như say mới tỉnh, xim coi bốn phía không núi đết chi cả, lại thấy Hải Triều cùng các tiên. Vương Tiễn hỏi rằng:

“Đất núi giăng đây khi nãy đâu mất hết rồi”. Hải Triều nói:

“Phép ngũ độn ta phá rồi, mau theo ta kẻo bị kết Tôn Tẫn đánh phá trong dinh”. Nói rồi đều bay về đột giữa. Lúc ấy vua Thủy Hoàng nghe cùng các tiên đi hết, lật đật thúc đội quân sau kéo tới. Đang đi bỗng nghe quân sĩ la ó lên rằng:

“Có binh Tề đánh tới”. Chương Hàng lật đật theo phò vua Tần. Nguyên Tôn Yên lãnh thơ Tôn Tẫn dẫn hai trăm gia tướng, một cự với trăm, binh Tần tuy nhiều, bị Tôn Yên đánh giết kêu khóc vang trời. Đội sau Tư Mã Hân, Đổng Ế, chạy tới vây Tôn Yên ở giữa. Binh Tần người đông thế mạnh, bỗng thấy binh Tần lại không rối loạn té nhào xuống ngựa, rồi xông tới một đạo binh Tề, Viên Cang, Độc Cô Giao đi trước, cùng Tôn Yên hiệp binh một chỗ. Vẫn trong thơ Tôn Tẫn dạy Tôn Yên rằng:

“Chừng gặp Viên Cang, Độc Cô Giao thì ba người ở trên ngựa đốt bùa, binh Tần chạy chẳng nên rượt theo, rồi Viên Cang, Độc Cô Giao về thành, còn Tôn Yên dẫn gia tướng qua cửa tây ngoài hai mươi dặm đóng dinh chờ đó”. Lúc ấy Tôn Yên, Viên Cang cùng Độc Cô Giao, liền đốt bùa, tức thì cuồng phong cả dấy, cát đá liệng giải binh Tần. Binh Tần bị bụi cát vào mắt, mở ra không đặng, phần thì cây đá liệng quăng, lỗ đầu phung máu, người ngựa thảy đều hãi kinh, cứ phò Thủy Hoàng thua chạy, cát đá theo sau đánh tới, mạnh ai nấy lo chạy nhầu tới trước, Hải Triều ngăn cản không lại, quày hẩu tránh ra, để cho quân binh qua khỏi, rồi thấy ở sau dông gió, đá cát rượt tới, bèn lấy gươm cù long vẽ bùa nạt lớn rằng:

“Cát đá sao không trơ?

lại?” Tức thì gió đá thối lui xa hơn bảy mươi dặm. Lúc ấy binh Tần chẳng thấy cát đá rượt theo, trong lòng bớt sợ. Còn Hải Triều thấy vua Tần thở chưa hết mệt. Vua Tần thấy Hải Triều áo tiên bị rách, thì nói:

“Giỏi lui binh chưa thiếtu chút nữa ta đã bị đá đánh chết còn gì, ông là người phép lực, sao còn thua vậy?” Hải Triều nói:

“Vì tôi tham cứu Vương Tiễn, thiếu chút nữa phảt bị tay Tôn Tản”. Bèn đem việc rớt xuống hầm mà thuật lại. Thủy Hoàng hỏi:

“Gió, đá vì sao mất vậy?” Hải Triều nói:

“Ấy là phép thuật của Tôn Tẫn. Bị tôi phá rồi, xin bệ hạ chớ lo, hãy gom binh mã mà đóng dinh lại”. Thủy Hoàng hỏi:

“Chỗ này cách thành Lâm Tri bao xả” Các quan tâu rằng:

“Chỗ này cách thành Lâm Tri hơn tám chục dặm”. Thủy Hoàng truyền chỉ đóng binh tạm nghỉ.

Nói về bọn Viên Cang thâu binh về thành, qua ngày thứ, Tương Vương lên điện.

Quân tam kỳ tâu rằng:

“Đêm hôm qua, tướng giử cửa đông là Vương Đạt đến báo nói:

“Lúc canh năm binh Tần nhổ binh, chẳng biết đi đâu, xin bệ hạ định đoạt”.

Tương Vương nghe nói, vội gát xe đến điện Văn Bạ Nam Cực cùng các tiên đứng dậy rước vào. Tương Vương nói:

“Lúc canh năm hôm qua, binh Tần nhổ dinh, chẳng biết đi đâu, xin lão tổ đoán coi nó lui đi chỗ nào, và có làm kế chi chăng?” Tôn Tẫn nói:

“Bệ hạ chớ lo, hôm nay phá trận Sum la, binh Tần thảy đều vỡ mật, tôi đoán chắt nó lén lui về nước, nên khi hôm, tôi sai Viên Cang dẫn binh chận mà đánh nó, đã đặng toàn thắng. Binh Tần chẳng dám dừng lại, thua chạy về nước hết rồi”.

Tương Vương nghe nói rất mừng, nói:

“Cũng nhờ sức lão tổ cùng á phụ, xã tắc mới còn đặng, thiệt rất may lắm”. Nam Cực nói:

“Binh Tần đã lui rồi, liệu không dám trở lại nữa, bần đạo hôm nay xin cáo từ về núi”. Tương Vương hoảng kinh nói:

“Binh Tần tuy lui, song không biết giả thiệt, muôn cần lão tổ tạm ở ít ngày, mà trừ hết cái điều lo cho tiểu vương, chừng ấy lão tổ sẽ về, cũng chẳng muộn chi”. Nam Cực nói:

“Vâng cảm ý tốt của hiền vương, chỗ này không phải là chỗ tôi ở lâu được, xin từ biệt, ngày sau cũng còn gặp nữa” Bèn nói với các tiên rằng:

“Các đạo hữu còn ở, ta xin về trước”. Nói rồi đứng dậy muốn đi. Tương Vương cản lại nói:

“Lão tổ! Xin hãy chậm chậm, lão tổ đã quyết lòng về núi, thì tiểu vương chẳng dám ngăn gượng cầm, nên có bày một tiệc, cho thỏa tấm lòng, xin lão tổ dùng rồi sẽ đi!” Nam Cực nói:

“Bần đạo bấy lâu chẳng hưởng đồ khỏi lửa, xin dụng lòng thì đủ”. Bèn nói với Tôn Tẫn rằng:

“Công việc của ngươi xong rồi, phải về núi cho sớm, nếu còn gậy họa nữa, ngươi làm ngươi chịu, chớ ta chẳng dám trái trời, không cứu ngươi được”. Tôn Tẫn sa nước mắt, nói:

“Ơn tổ sư như núi, vì quan cứu mẹ tôi chưa chôn vào đất, để sáng ngày lên Ngô Kiều mai táng mẹ tôi, công việc xong rồi, đâu dám vọng động, mà mắc tội trời”. Nam Cực nói:

“Ngươi là người đắc đạo, chẳng cần dặn bảo hết lời”.

Rồi nói với anh em Đông Phương Sóc rằng:

“Mang ơn đạo hữu, trượng nghĩa đến đây phò giúp, làm cho đạo tôi càng thêm tỏ rạng, ngày sau có kỳ gặp nhau nữa” Nói rồi xách gậy long đầu đứng dậy. Bạch Hạc đồng tử lăn xuống đất hiện nguyên hình, kêu lên một tiếng, bay tuốt lên mây. Nam Cực cỡi nai bổng trên không, đi tuốt. Các tiên đưa ra khỏi điện, coi chừng Nam Cực bay khuất mây rồi trở vào điện. Anh em Đông Phương Sóc đứng dậy nói:

“Nay Chưởng giáo về núi, binh Tần đã lui, tôi xin trở về Độ Sóc, vì Tôn đại thánh tiến cử cho tôi đến đây, thật cũng tức cười, nay về Độ Sóc, còn để lại một cái tròng ở đất Lâm Tri, ấy cũng tại kiếp số của bần đạo, rất đỗi Phật từ bi là may mắn lắm, anh em tôi về núi Ngũ Hành trước, còn các tiên trở về Tây Hải”. Tương Vương thấy Đông Phương Sóc muốn về, trong lòng rất khó nổi buông đi, nói:

“Chưởng giáo không phải như các tiên, nên tiểu vương chẳng dám cầm lại, còn hại vị tổ sư dạo chơi chỗ nào không được, xin tạm ở ít ngày, cho tiểu vương hết lòng gặp gỡ”. Đông Phương Sóc cười nói:

“Tôi dạo khắp hồng trần, ngao du nhiều chỗ, nay đã đủ rồi, nếu còn tham luyến, xin hiền vương chớ cầm chi lắm”. Tương Vương biết cầm không được, bèn dâng cho anh em Đông Phương Sóc mỗi người một ly rượi. Anh em Đông Phương Sóc tạ Ơn, uống rồi cỡi thú bay lên núi Ngũ Hành ra mắt Tề Thiên đại thánh, rồi trở về núi Độ Sóc. Kế đó Liên Huê, Hạo Phát, Văn Xương, Trường Tiếu, Giánh Long, Phục Hổ, Trường My và Đại Đầu các tiên cũng đều từ biệt, kẻ thì cỡi rồng, người cỡi cọp ai về động nấy. Trong Văn Ba điện, các tiên về hơn phân nửa, còn lại Bạch Viên, Mao Toại anh em Vương Thuyền và Tôn Tẫn là năm người mà thôi. Vương Thuyền nói với Tương Vương rằng:

“Không phải anh em tôi bắt chước theo mấy người kia mà về núi, anh em tôi ở đây cũng không việc gì, xin cáo từ về núi”. Tương Vương nghe nói hoảng kinh, nói:

“Hai vị tổ sư vì muốn bỏ quả nhân mà về núi cho đành, nếu binh Tần trở lại thì quả nhân biết đâu mà thỉnh được, vậy xin lựa một chỗ đất tốt ngoài thành Lâm Tri, tạo lập vài chỗ đơn phòng, mời nhị vị tổ sư ở đó, được sớm tối cho gần với trẫm, chẳng là hay hơn”.

Vương Thuyền cười nói:

“Hiền vương chớ nên cầm anh em tôi nữa, nay hiền vương muốn lựa một chỗ đất tốt, xây cất đơn phòng mà cầm anh em tôi ở lại, thì cũng đủ rõ hiền vương có lòng tốt, song chốn này chẳng có chổ nào được hết, nếu như có được thì anh em tôi chẳng cần về núi”. Tương Vương cả mừng nói:

“Tổ sư lựa chọn chỗ nào, thì tiểu vương xin lập nơi phụng dưỡng”.

Vương Thuyền thấy Tương Vương hỏi, tự ý muốn chỗ nào cũng được, thì tức cười, nói:

“Cách thành Lâm Tri bốn tram dặm, có hòn núi Vân Tịch, chỗ ấy ở được, lời xưa nói:

“Hễ có tụ thì phải có tan, hiền vương chớ ép cầm”. Rồi nói với Tôn Tẫn rằng:

“Ngươi có đại sự nơi mình, song mỗi việc phải do nơi số trời, quyết chẳng nên tham luyến hồng trần, nếucòn gây sự thì ta e cho chức tiên núi Thiên Thai không giữ được”. Tôn Tẫn nói:

“Xin vâng lời thầy dạy, đệ tử lên Ngô Kiều chôn mẹ xong rồi liền về Thiên Thai chẳng dám trái lời thầy dạy hôm nay”. Tương Vương truyền bày tiệc chay, cùng hai vị tổ sư ăn uống. Anh em Vương Thuyền nói:

“Bệ hạ chớ nhọc lòng, tôi xin uống sơ ít chén cho rõ tấm lòng”. Tương Vương nghe nói rót ba chung rượi dâng trước cho Vương Thuyền, rồi rót đưa cho Vương Ngao.

Chương 60 : Tôn Tẫn chôn mẹ đền lòng thảo, Thủy Hoàng đặng nước ứng thời trời

Hồi kết

Hai người uống rồi từ biệt Tương Vương cùng Mao Toại, Bạch Viên, người lên nai, người cỡi cọp, bay tuốt lên mây. Các tiên đưa rồi vào điện, Mao Toại nói với Tương Vương cùng Tôn Tẫn rằng:

“Tôi ở đây cũng vô dụng, xin cho tôi vào núi”.

Tôn Tẫn sa nước mắt nói:

“Hiều đệ, vì sao bỏ tôi mà đi cho đành, hãy tạm ở ít ngày, chôn mẹ tôi rồi sẽ về, cũng chẳng muộn chi”. Bạch Viên nói:

“Tôi cũng muốn về Nhạn Sầu giảng đó chút, song thấy các tiên về hết, còn lại một mình tam ca, nên khó mở miệng nói được, tôi nghĩ lại tôi với chơn nhơn cùng tam ca có tình bái ái chi giao, lẽ thì ở lại đưa bác lên đường, cho hết tấm lòng, chừng ấy sẽ về”.

Tôn Tẫn nghe rồi, nói:

“Hiền đệ phân như vậy rất phải, xin hai em ở lại cùng ta, mà lên Ngô Kiều”. Mao Toại nói:

“Thôi phen này đừng bắt tôi cầm phướn nữa, và đừng có làm cái tang xa trận gì hết không nên, vậy chớ chừng nào đi chôn bác?” Tôn Tẫn nói:

“Tôi tính đến giờ ngọ ngày mai thì chôn”. Tương Vương thất kinh nói:

“Á phụ tính mai lên Ngô Kiều táng quý nhơn, trẫm tưởng binh Tần đi chưa được ba ngày, nếu nó dùng kế hoãn binh, thì trẫm biết cậy ai, chi bằng á phụ chờ qua mùa thu sẽ lên Ngô Kiều”. Tôn Tẫn nói:

“Bệ hạ chớ lo, tôi tưởng chắc binh Tần phen này không dám tới nữa, hoặc về nước chỉnh tu binh mã, nếu chờ đến mùa thu, e nó tới nữa cũng chưa biết chừng, chi bằng nhân lúc này tôi lên Ngô Kiều chôn mẹ tôi cho rồi, e để lâu ngày, binh Tần đến nữa, thì không rảng được mà lên Ngô Kiều, mẹ tôi một ngày chưa vào đất, thì lòng tôi một ngày chẳng được an, vả lại đường sá xa xôi, nếu xe tang chưa đến Ngô Kiều, mà binh Tần tới nữa, thì có ai bảo hộ linh cửu, chừng ấy lòng tôi mắc lo hai phía, thì hóa ra việc chẳng tốt”.

Tôn Tẫn kiếm lời dối gạt một hồi. Tương Vương không nói lại được ngồi giây lâu rồi nói:

“Á phụ phân như vậy cũng phải, đến mai trẫm cùng á phụ đưa lên Ngô Kiều”. Tôn Tẫn biết Tương Vương đi không được, nên chẳng chối từ, nói:

“Tôi mang ơn bệ hạ, dẫu nát mình cũng không trả được, lại ban ơn đến người chín suối, thiệt là cái đức như trời cao, đất này”. Nói rồi, kế đến yến diên dọn lên. Vua tôi ăn uống, chuyện vãn, Tôn Tẫn ăn rồi, lạy từ vua đi với Mao Toại, Bạch Viên về phủ, lạy linh cửu, khóc tế một hồi. Mạo Toại nói:

“Tôi không nói láo được, nay tam ca nói láo giỏi thiệt gạt cho Tương Vương không hiểu biết chút nào”. Bèn ngó lại không thấy Tôn Yên ở trước linh cữu, thì hỏi:

“Tôn tiểu diệt không có đây, mà anh tính sang ngày đi chôn sao được?” Tôn Tẫn nói:

“Tôn Yên ta đã sai nó ra thành hai mươi dặm mà chờ, nếu chậm một ngày, nhân dân trong thành đều bệnh hết, thì lấy ai mà khiêng quan cứu”.

Bèn dạy ngươi tới phủ Khai quốc hầu mà kêu Viên Cang. Giây phút Viên Cang tới phủ ra mắt Tôn Tẫn và hai tên. Tôn Tẫn nói:

“Đến mai tôi lên Ngô Kiều chôn mẹ tôi, ngươi nói lại với các vương hầu chẳng cần đưa đón làm chi, vì đến canh ba đêm nay trong phủ Nam phụng vương có người đến báo việc hung, thì ngươi nói lại với người ấy rằng ta đã biết trước rồi, chẳng cần tới báo, vốn bởi số trời như vậy, chẳng cần lo rầu làm chi”. Nói rồi sa nước mắt, lòng thiệt chẳng an. Bèn dạy Viên Cang về phủ. Viên Cang nghe nói, lật đật từ biệt các tiên. Về đến phủ, trong bụng ngẫm nghĩ rằng:

“Lão già này nói ra những lời bất tường, ắt có duyên cớ chi đây”.

Trong lòng buồn bực chẳng vui, Mao toại hỏi Tôn Tẫn rằng:

“Khi nãy anh nói cái chi mà sa nước mắt vậy?” Tôn Tẫn nói:

“Hiền đệ, bởi em chưa rõ, Nam Cực cùng các tiên đi rồi thì Ngũ ôn thần bay xuống rưới ôn, ta đoán vợ Nam Phụng vương nội canh ba đêm nay phải chết, còn Chánh cung Củng quốc mẫu đến giờ tỵ ngày sau thì băng, các học trò cũng không khỏi nạn ấy, ta tuy có lòng thương song chẳng dám cãi trời, thấy chúng nó chết mà chẳng đau lòng sao được, và mấy muôn sanh linh cùng mấy trăm năm cơ nghiệp nhà Tề, đều về tay người khác, như vậy ngươi có thương hay chăng?” Mao Toại nói:

“Tam ca, việc chẳng ca chi đến mình, thì mình chẳng cần nhọc bụng, tôi không can đến thì than thở làm gì, tôi từ đây không tới chỗ phiền ba thế giới nữa” Tôn Tẫn nói:

“Đời loạn đồ thàn, thiên hạ đao binh, có ai dám đánh tới động Nhàn âm của ngươi đâu, mà biểu ngươi than thở”. Mao Toại nói:

“Tuy không ai đánh tới động Nhàn âm của tôi,song tôi về đây cũng mây che bít cửa động, kẻo lòng tôi từ thiện, thoảng có việc chi, nín không được thì sanh ra lòng vọng động”.

Tôn Tẫn gật đầu, chuyện vãn cho đến canh năm, chờ đến giờ dần. Tôn Tẫn dạy sửa soạn xe tang, rồi vào triều, chờ Tương Vương lên điện để lạy từ. Lúc ấy các quan văn võ đều cùng ra mắt Tôn Tẫn. Tôn Tẫn đáp lễ lại. Đang chuyện vãn cùng nhau, bỗng nghe trống long phụng đánh, Tương Vương ra khách, Tôn Tẫn lạy ra mắt.

Tương Vương sa nước mắt nói:

“Khi hôm, Vương phi của Nam Phụng vương lâm bịnh ngặt mà thác, trẫm thương người tuổi trẻ và tưởng công lao của ngươi, như mất hết một cánh tay nước Tề, thiệt khá thương tiếc, và khi hôm trẫm không hề nhắm mắt, vì Quốc mẫu lâm bệnh dịch rất trọng, bất tĩnh nhân sự; nay trẫm muốn đưa quý nhơn lên Ngô Kiều, ngặt vì nương nương bệnh nặng, trẫm thiệt khó mà bỏ đi cho được; xin á phụ trước linh cửu bẩm rõ tội ấy, chẳng phải là cái lỗi của trẫm”.

Tôn Tẫn nói: [Audio] Tham Thiên(dịch)

“Tôi mang ơn bệ hạ, nát mình không tra được. Quốc Mẫu nay tuy bệnh trọng, lời xưa có nói:

“Hễ người có phước, thì trời giúp cho, liệu không hề chi, còn Vương phi của Nam Phụng vương, ấy là đại số như vậy, xin bệ hạ nguôn bớt lòng sầu, lấy việc xã tắc nhân dân làm trọng, tôi lên Ngô Kiều, chẳng quá năm ngày thì ắt trở về, việc binh Tần chẳng cần lo sợ”. Tương Vương nói:

“Trẫm cũng y như lời á phụ phân”. Bỗng thấy thái giám vào triều tâu rằng:

“Quốc mẫu đã tỉnh lại, xin mời bệ hạ vào cung, có việc tâu cùng”. Tương Vương nói:

“Trẫm tính đưa quan cữu quý nhơn ra khỏi thành mười dặm, rồi sẽ trở về, ngươi nói lại với nương nương chờ trẫm về, sẽ vào cung”.

Tôn Tẫn nghe rồi, lật đật tâu rằng:

“Quốc mẫu đã vời chúa thượng vào cung, vậy xin bệ hạ lui về”. Rồi Tôn Tẫn lạy từ vua, ra cửa ngọ môn, thấy sáu vị tuôn ra cuồn cuộn, nói:

“Các vị hiền đồ của ta mà ta không đặng trọn thủy chung như vậy!” Nói rồi khóc rống lên, làm cho sáu vị hầu gia cung đều sa nước mắt, nói:

“Lão tô?

chẳng qua tạm lên thanh ngưu về phủ, sáu vị môn đồ cùng mười hai vị ấm tập đều mặc đồ trắng, còn Bạch Viên, Mao Toại hai người đi theo hai bên Tôn Tẫn, năm trăm gia đình thảy mặc đồ trắng để tang. Tôn Tẫn cầm phướn dẫn đường, cả triệu văn võ từ nhỏ chí lớn, không người nào mà chẳng đưa ra khỏi cửa, có hai ngàn binh Tề, ngựa trắng giáp trắng đi từ cặp, cờ xí trống nhạc rần rộ theo sau.

Từ cửa phủ Nam quận cho đến cửa tây thành Lâm Tri, trăm họ nhà treo đèn kết tuội, đầu đội hương huê quỳ rước nơi đường, chờ cho linh cữu qua khỏi mới dám đứng dậy, dọc đường một khúc thì tế, một khúc thì đi, tới thập lý trường đình. Tôn Yên dẫn hai trăm gia tướng, mặc đồ tang, quỳ rước, rồi thay đổi xe ngựa. Tôn Tẫn lạy tạ các quan văn võ và quay qua phía bắc, lạy tạ Tương Vương. Dặn dò học trò, phải hết lòng trung quân ái quố, rồi cùng Tôn Yên, Mao Toại, Bạch Viên, ba người nhắm Ngô Kiều thẳng tới.

Nói về các quan văn võ, đưa Tôn Yên đi rồi, kẻ lên yên người ngồi kiệu, trở về ngọ môn, tới cửa tây thành Lâm Tri có gia tướng các phủ đến báo với nói:

“Quốc mẫu đã băng rồi”. Các quan nghe nói thất kinh bay ngựa tới triều. Vốn quốc mẫu là vì sao trên trời xuống phàm, và có học với người tiên, lẽ nào không biết đặng cái đại hạn của mình, vì bị cảm phong hàn, nhiễm bệnh ôn dịch, cho nên hôn mê bất tỉnh, đến lúc hồn dương lại, trong lòng rõ biết đại hạn không khỏi đặng, thì than thở rằng:

“Ta nay ngôi đến Quốc mẫu, quý tộc bực rồi, vả lại từng ra giặc lớn vài trận vì khí số Lâm Tri, mấy trăm năm công phu tổ tông mai một khó giữ”. Nhớ đến chỗ ấy, nên sai giám quan lên điện, thỉnh Tương Vương vào dặn dò việc sau. Tương Vương nghe Quốc Mẫu tỉnh lại cả mừng, lật đật gát xe về đến cửa cung, gặp Tẫn phi quỳ rước.

Tương vương xuống xe, lật đật hỏi:

“Nương nương quả thiệt khá chăng?” Tẫn phi tâu rằng:

“Quốc mẫu khi nãy tỉnh lại nói đặng vài lời, bây giờ coi càng không khá, sợ e nương nương thác trong giây phút”. Tương vương cả kinh chạy tới long sàng, thấy Củng quốc mẫu mặt như giấy vàng, thở ra một tiếng, hồn đã về trời.

Lầu rồng các phụng nay đâu mất, Phú quý vinh huê một buột rồi Nói về Củng quốc mẫu thác rồi, tam cung lục viện để tang lúc ấy văn vỏ về đến triều, thấy thái giám bước ra đứng giữa nói rằng:

“Củng quốc mẫu ngày nay, tháng này, giờ này giá băng, các quan vào cung đặng ban hành cho quan viên nhơn mã, thảy đều quái hiếu cư tang”. Các quan vâng chỉ vào cung ra mắt Tương Vương, bèn đem việc đưa Tôn Tẫn lên Ngô Kiều táng mẹ, ra khỏi thập lý trường đình, trơ?

về phục chỉ. Tương Vương sa nước mắt gật đầu. Các quan lui chầu ai về phủ nấy.

Khá thương chưa hơn nửa ngày, tiếng khóc rúng động, trên đường kẻ để tang người sắm sửa lăng xăng không dứt, chết nơi đường không xiết kể, các quan bị bệnh rất nhiều, qua ngày thứ, Tương Vương lâm điện, chẳng thấy văn võ đến chầu thì than dài nói:

“Trẫm tưởng tam cung lục viện bị tai mà thôi, té ra trăm họ cũng đều mang hại; từ lúc Quốc mẫu băng rồi, chưa đầy vài giờ mà trong cung bệnh chết luôn hết hai người, có khi vượng khí đất Lâm Tri này đã hết, nên Á phụ lên Ngô Kiều chôn mẹ, rồi trời xuống tai lạ ấy”. Túng không biết làm sao truyền quan Thái y, phát thuốc khắp cho bốn cửa thành, song cũng vô hiệu.

Nói về năm vị Ôn thần ở giữa không trung giương lọng ôn hoàng, phất phướn ôn hoàng, liệng gươm thôi ôn hoàng, liệng gươm thôi ôm kim (là gươm thúc làm bệnh ôn) trong thành Lâm Tri chẳng đầy ba bữa, trên đường người đi lần lần thứa bớt. Lúc mới chết ban đầu thì có hòm rương đến sau quấn chiếu, bó ván mà chôn không xiết kể. Trong triều các quan văn võ mười người chẳng còn đặng ba, làm cho Tương Vương hoảng kinh, đứng ngồi chẳng đặng.

Nói về vua tôi nhà Tần cách vài ngày lén sai quân đến Lâm Tri thám thính, qua?

thiệt tai trời cả đấy, lật đật chạy về phi báo, vua Tần cả mừng dẫn ba quân cùng Hải Triều đánh tới thành Lâm Trì, dọc đường thây chết vô số, đi tới cửa đông, đốt pháo an dinh. Thủy Hoàng cùng Hải Triều ra dinh xem coi, khí đen mù mịt, Hải Triều than nói:

“Sinh linh này mắc tai đồ thán, cũng vì mạng trời”. Than thở một hồi rồi trơ?

về dinh. Hải Triều dạy Vương Tiễn dẫn ba ngàn binh đánh cửa đông, Chương Hàn dẫn ba ngàn binh đánh cửa tây; Tư Mã Hân dẫn ba ngàn quân đánh cửa bắc, còn bao nhiêu ở lại giữ dinh.

Lúc ấy quan binh bốn cửa thành chạy vào phi báo. Tương Vương nghe báo hồn bay khỏi xác, phách tán vào mây, lật đật lên điện. Lúc ấy tướng võ thì còn có Viên Cang, Độc Cô Giao, còn quan văn thì có Cao Hiền, nịnh trung vài người mà thôi, mà bộ tịch lại chao vao, mặt như sắc đất, có xác không hồn, đứng chầu hai bên. Tương Vương nói:

“Khi nãy quân giữ thành tâu nói:

“Binh Tần trở lại vây bít bốn phía cửa thành, biết làm sao bây giờ?” Viên Cang tâu rằng:

“Chúng tôi khá ra ngăn được, ngặt vì mang bệnh, cả mình mệt mỏi, làm sao ra trận cho nổi”. Tương Vương nghe rồi cúi đầu, chẳng nói tiếng chi, nước mắt nhỏ sạ Cao Hiề tâu rằng:

“Binh Tần rất mạnh, và nay binh mã của ta cũng không cự đặng, xin bệ hạ liệu tính lẽ nào”. Tương Vương khóc nói:

“Trẫm nay có một kiếp chết mà trả ơn tiên đế, có lẽ nào đứa nô tì mà đi thờ nó sao?” Nói rồi khóc rống lên. Các quan cũng đều khóc vùi.

Tương Vương nói:

“Các khanh hãy về mà giữ gia quyến của các khanh, trẫm cũng chết liền bây giờ”. Bốn tôi nghe nói đều quỳ xuống tâu rằng:

“Chúng tôi cả đời chịu ơn nhà nước, đâu dám tiếc mình này, vì hôm nay thế ngặt sức cùng, xin theo bê.

hạ dặng thấy tiên vương nơi dưới đất”. Nói rồi cúi mọp xuống mà khóc vùi. Tương Vương nói:

“Các khanh hãy đứng dậy, các khanh đã có chí ấy, thiệt mười phần khá khen”. Bèn dạy nội thi đem đô gấm cho bốn tôi ngồi, và truyền dạy quan cận thị, nơi trong điện trước sau, tả hữu, chất củi cho đầy, rồi đất lửa lên. Giây phút lửa khói tột trời, năm vua tôi ở trong điện đều hóa ra tro tà. Nội thị trong cung đều nhảy vào lửa mà chết không xiết kể, ở ngoài đều ra sức phá thành. Quân sĩ nước Tề không chúa, liền mở cửa thành ra đầu. Vương Tiễn chẳng dám tự chuyên, phi báo; vua Tần Thủy Hoàng dẫn văn võ đến cửa đông thành Lâm Tri, thấy cửa thành mở hoác, bá tánh bịnh thôi mặt bàng mình ốm, người người đi té lên té xuống, đầu đội lư hương quỳ trước Thủy Hoàng, nói rằng:

“Vì ôn dịch cả đấy, người ngựa không ra đánh được, nên vua tôi đóng điện đốt mình mà chế, nay chúng tôi mở cửa rước binh vua vào, xin tha tội chết”. Thủy Hoàng mừng thầm, vì rõ biết công việ, liền dạy treo bảng an dân, rồi cho nổi trống chiêng, ngự giá tới cửa ngọ môn, thấy ba tòa đại điện đều cháy thành tro, duy còn một cái điện ngánh chưa cháy. Thủy Hoàng truyền chỉ tới điện tạm nghỉ.

Lúc ấy có mấy thằng nịnh không biết hổ thẹn, mặc đồ triều phục, tới chầu Thủy Hoàng. Thủy Hoàng phong theo chức cũ, truyền chỉ bày yến ăn mừng, và khao thưởng ba quân. Giây phút diên yến dọn rồi, nhường cho Hải Triều ngồi giữ. Thủy Hoàng ngồi một bên. Hai bên dọn ra sáu tiệc, mười hai vị chơn nhơn ngồi trước, kế đó Kim Tử Lăng, Vương Tiễn, văn thần võ tướng cứ theo thứ tự mà ngồi.

Thủy Hoàng bưng chén rượi nói với Hải Triều rằng:

“Từ lúc trẫm dấy binh đến nay, đánh hơn vài trăm trận, khó nhọc gian nan nhiều bề, nếu không có phép thần thông của lão tổ, thì tiểu vương này đâu đặng cái đức lớn như hôm nay, xin khính lão tổ chén rượu này, cho rõ tấm lòng”. Hải Triều đứng dậy, tiếp lấy chén rượu, nói:

“Ấy là tại phước lớn của hiền vương, chớ bần đạo có tài chi, mà khen cho quá lắm, đã mang ơn ban thường, thì bần đạo xin uống hết chén rượu này, và có một lời xin tỏ”.

Nói rồi, hai tay bưng chén rượu uống liền. Thủy Hoàng hỏi:

“Lão tổ có lời chi xin dạy biểu”. Hải Triều nói:

“Lúc trước Nam Cực cùng Tôn Tẫn trái trời làm bậy, vì vậy nên tôi xuống núi phò giúp bệ hạ, bữa trước bày trận Sum la, có năm vị tiểu chúa đến giản hòa. Nam Cực cùng các tiên đã về núi hết, còn Tôn Tẫn thì lên Ngô Kiều chôn mẹ, chẳng bao lâu nó cũng về núi Thiên Thai, nay tôi xin cùng các học trò về núi tu luyện, chẳng có phạm chốn hồng trần sát giới nữa, nên trước mặt hiền vương tôi xin cáo biệt”.

Thủy Hoàng nói:

“Lão tổ muốn về núi làm chi gấy vậy. Trẫm nghĩ lại từ lúc dấy binh đến nay, mới lấy được hai nước, còn bốn nước nữa, chẳng biết ngày nào bình phục cho nên được nghiệp lớn. Xin nhờ phép lực lão tổ cùng trẫm mà bình nước Sở, Hàng, Triệu, Ngụy cho xong rồi sẽ về núi, cũng chẳng muộn gì; muôn cầu lão tô?

cùng các chơn nhơn, tạm dừng tiên giá ít ngày, thì trẫm cảm ơn chẳng xiết”. Lão tô?

nói:

“Hiền vương từ đây về sau, nhứt lộ hanh thông, không có điều chi lo lắng nữa; muốn bình bốn nước, thì có học trò nhỏ của tôi là Kim Tử Lăng cùng Vương Tiễn thì cũng đủ rồi, bần đạo ở đây không làm gì, quyết xin về núi”.

Thủy Hoàng thấy Hải Triều nói như vậy thì liệu không cầm lại được, bèn dạy nội thị rót một chung rượu đầy, trẫm xin đưa đi, chúc cho lão tổ phước thọ vô cương”.

Hải Triều uống luôn một hơi cạn chén. Kim Tử Lăng, Vương Tiễn hay được dâng rượu. Hải Triều đều tiếp mỗi người mà uống hết. Thủy Hoàng bước tới các chơn nhơn, kỉnh rượu tiễn biệt, rồi kế Tử Lăng, Vương Tiễn đều cùng các chơn nhơn nâng chén. Chuyện vãn vui cười, uống vùi một hồi tiệc tan, Hải Triều cùng các chơn nhơn đứng dậy cúi mình nói với Thủy Hoàng rằng:

“Bệ hạ chớ lo, cứ việc thẳng tới, ứng theo trời, chẳng mấy ngày thì được thành công, làm nên nghiệp đế, bần đạo xin từ biệt về núi”. Thủy Hoàng nói:

“Tôi xin vâng lời dạy”. Lúc ấy Tử Lăng, Vương Tiễn dẫn thanh mao hẩu đứng sẵn trước thềm chờ đó. Hải Triều lên lưng hẩu, bay bổng lên mây, các tiên cũng đều về hết.

Nói về Tôn Tẫn, Mao Toại, Bạch Viên, ba người theo phò xe tang, nhắm Ngô Kiều tấn phát, ngày kia đang đi, Tôn Tẫn vùng qùy xuống, khóc rống lên, nói:

“Không phải tôi chẳng muốn hết trung đền nợ nước, ngặt số trời đã định, tôi không dám cãi!” Mao Toại, Bạch Viên lật đật đỡ dậy, nói:

“Tam ca, anh làm cái chi như vậy?” Tôn Tẫn nói:

“Lúc này vua Tề đóng cửa điện mà đốt mình, lòng ta chẳng thương xót sao được”. Mao Toại, Bạch Viên nghe nói, cũng đều thê thảm. Mao Toại nói:

“Cũng bởi số trười, không cứu được, thôi chúng ta lo việc của chúng ta cho rồi”.

Đoạn kéo nhau đi nữa.

Ngày kia, phút đến Ngô Kiều. Tôn Tẫn lựa một chỗ đất tốt, dạy quân cất lều tranh, rồi để quan cửa chôn xuống. Tôn Tẫn cùng Tôn Yên, chú cháu Tôn Tẫn lau nước mắt, dạy quân lấp đất lại xong rồi, dọn bày lễ vật, hương đăng tế điện. Tôn Tẫn, Tôn Yên cởi hết đồ tang, để nơi một mà đốt, rồi cùng Mao Toại, Bạch Viên vào lều tranh mà ngồi. Tôn Tẫn nói:

“Hôm nay an táng tiên linh, thì lòng ta sơ?

nguyện, công việc đủ chẳng dám xuống hồng trần phạm sát giới mà nghịch lòng trời nữa; còn hệu điệt, cháu phải chạy qua nước Triệu cho sớm mà an thân lạc nghiệp”.

Tôn Yên nghe rồi đau lòng xót dạ nói:

“Nay chú bỏ cháu mà đi, tưởng cháu mồ côi một mình, chẳng có thân thích chi cả, không biết ngày sau có làm nên việc được chăng, xin chú dắt cháu cùng đi”. Tôn Tẫn nói:

“Chú là người tu hành, dứt không tưởng đến phàm tục, cháu phải nghe theo mạng trời, tùy thời an thân, chú không có lời chi mà dặn nữa”. Đoạn Bạch Viện, Mao Toại cùng với Tôn Yên cáo biệt. Tôn Tẫn thót lên thanh ngưu, vỗ sừng con trâu cái, tức thị bay bổng trên không. Mao Toại, Bạch Viên đều lui hết. Tôn Yên quỳ lạy giữa trời, thấy các tiên đi xa rồi, bèn đứng dậy dẫn gia tướng tuốt qua nước Triệu. Tôn Tẫn về núi Thiên Thai, Mao Toại về động Nhàn Âm, Bạch Viên về Nhạn sầu giảng. Từ đó đến sau, tu thành tiên hết.

Nói về vua Tần kéo binh đánh nước Hàng, dứt nước Ngụy, lấy nước Triệu, phá nước Sở, tới đâu không ai dám cự, thế tợ chẻ tre, gồm nên một mối. Thiên hạ tuy rộn rực tranh giành, song những kẻ phàm tục tử, cự sao cho lại cây gươm của Vương Tiễn, cho nên không có ai là tay đối thủ với y đặng.

Thế là Tần Thủy Hoàng đã gồm thâu sáu nước làm một vậy.

Hết

❮ sau

Avatar

Các bạn đăng ký thành viên hội nhé…!
→Free vip→Đọc và nghe audio truyện/ 0 quảng cáo→Yêu cầu truyện / Ưu Tiên♥Ngoài ra AudioSite là Website do hội Mê Đọc Truyện thành lập – chính vì vậy Đọc Truyện trên website giảm 90% xuất hiện quảng cáo nhé !