[Dịch] Ta Là Tiểu Lang Trung
Tập 1: Chớ có chửi ông trời (c1-c10)
❮tiếp ❯Chương 1: Chớ có chửi ông trời
Núi non trập trùng, tuyết trắng phau phau, vách núi dựng đứng như đao gọt rìu bổ, ở chỗ lõm vào dãy núi là rừng tùng bách xanh được phủ lên lớp tuyết trắng, trắng xanh đan xen tạo thành cảnh đẹp vô ngần.
Trong khung cảnh đó có bóng người đứng trơ trọi giữa đại ngàn, đầu đội chiếc mũ rộng vành che tuyết cũng che đi phần nào khuôn mặt tuy nhợt nhạt nhưng vẫn thấy rõ được đường nét thanh thoát cùng kiên nghị, vai đeo gùi mây, mắt dõi đằng xa, nhìn mà như không nhìn, hoang mang thê lương, quai hàm bành ra cho thấy y đang cắn chặt răng kiềm chế điều gì đó.
Gió núi gào thét thổi qua cuốn theo tuyết với lá rụng bụi bẩn, thổi quần áo y bay phần phật, gió tuyết lạnh như dao xẻo da nhưng thanh niên đó vẫn đứng trơ ra như tượng.
Tả Thiếu Dương thu ánh mắt vô hồn, nhắm lại, hình ảnh cuộc đời chớp lên trước mắt, những thứ vốn rõ ràng bỗng trở nên mờ mịt, lẫn lộn, làm y không phân biệt được cái nào với cái nào, hết thảy như sương khói lơ lửng trước mắt, nhìn thấy đấy, nhưng không nắm bắt được.
Lắc mạnh đầu, y muốn xua đi tất cả.
“Chó chết!”
Một tiếng rống lớn bất thình lình phát ra làm tuyết trĩu nặng trên tàng cây rơi rào rào, con sóc đang ngủ trong tổ giật mình thò cái đầu tròn ra ngoài, đôi mắt dáo dác nhìn quanh đầy cảnh giác.
Người vừa chửi còn ai khác ngoài Tả Thiếu Dương, chỉ có điều xung quanh không một bóng người, chẳng hiểu y nhắm vào ai, chỉ thấy y cúi xuống bốc một nắm tuyết lớn hướng lên trời ném thật mạnh, miệng vẫn rống lên như thú điên: – Lão trời già chó c… á á…
Chửi chưa dứt lời, do động tác ném quá mạnh làm Tả Thiếu Dương mất thăng bằng, người chúi về phía trước, bình thường thì không hề gì, nhưng lúc này y lại đang đứng trên đỉnh núi. Tả Thiếu Dương hết hồn đưa tay quơ loạn lên, nhưng không tóm được bất kỳ một cái gì, tốc độ mỗi lúc một nhanh.
Toi rồi, chuyến này chết chắc rồi, thế nào cũng ngã tan xương nát thịt.
Không cam tâm, mình còn sống chưa đủ.
A ~~~~~~!
Tả Thiếu Dương hét lên, uỵch một cái, mắt tối sầm, không biết gì nữa.
Chẳng biết qua bao lâu.
Tả Thiếu Dương nghe thấy có người khóc lóc kêu gào bên cạnh mình, là tiếng nữ nhân, y biết người đó, muốn đáp lời, nhưng bị cú ngã nặng, cơ thể đang hồi phục, chân tay chưa cử động được, chỉ chắc chắn một điều, mình chưa chết, không lạ, lão trời già đó chơi xỏ mình, làm sao để mình chết dễ như vậy được. Miệng khát khô, như có lửa đốt vậy, Tả Thiếu Dương thều thào khó nhọc: – Nước… Uống nước…
Chốc lát, một thứ gì đó lạnh ngắt đυ.ng phải miệng, dòng nước lạnh như đá chảy ra, Tả Thiếu Dương vội vàng nuốt vào, ực ực, chút lợn cợn ở đầu lưỡi, hình như trong nước có những cục đá nhỏ … là băng.
Nước đá làm đầu óc y tỉnh táo hơn nhiều, cơn khát cũng đỡ hơn, cảm giác quay lại, ngửi thấy một mùi thơm thoang thoảng, đây là mùi cỏ tươi của mùa xuân, y rất giỏi phân biệt mùi vị, Tả Thiếu Dương gắng sức mở mắt ra.
Bầu trời âm u, mây đen như từng đám khói mờ, cổ vừa cứng vừa đau, Tả Thiếu Dương mở mắt, ánh sáng mạnh làm mắt y đau nhói, khép mắt lại, mở từ từ cho mắt dần thích ứng, nhưng khuôn mặt hiện ra trước mắt lại không phải là người y quen, không phải người phát ra tiếng khóc kia.
Chỉ thấy một thiếu nữ, có vẻ chừng mười lăm mười sáu tuổi, mặc y phục bằng vải thô đen, cổ tay cổ chân lấy thừng buộc lại cho gọn gàng để tiện đi núi, đầu đội mũ rộng vành giống y, khuôn mặt trái xoan thanh tú, làn da ngăm đen, mũi lấm chấm mấy nốt tàng nhang, một cái bím tóc dài buông xuống trước ngực, đôi mắt đó đen láy đang nhìn y chằm chằm, vừa quan tâm lại có chút bẽn lẽn, cái mũi nhỏ lạnh đỏ ửng.
Tả Thiếu Dương ngẩn ngơ nhìn nàng, thiếu nữ bị y nhìn tới đỏ mặt, quay đầu đi.
– Tỉnh rồi, nó tỉnh rồi. Một giọng nói khác ở phía bên kia vang lên, đó là thiếu phụ tuổi trên 20, khuôn mặt khá giống với Tả Thiếu Dương, gò má cao môi mỏng rất ưa nhìn, tóc búi gọn gàng, gài trâm gỗ to, mặc cái áo ngắn vải gai thô, một cái váy kéo cao tới tận ngực, lúc này từ lo âu chuyển thành mừng rỡ, sau đó òa khoác: – Đệ, đệ làm ta lo chết mất.
Thân thể vẫn còn yếu ớt, Tả Thiếu Dương vẫn gắng gượng đưa tay làm dấu hiệu mình không sao. Thiếu phụ đưa tay đỡ vai Tả Thiếu Dương, từ từ nâng y ngồi dậy, mồm nói tía lia: – Đệ đệ, cảm giác thế nào? Có chỗ nào không thoải mái không? Có đau đầu không? Có buồn nôn không?
– Đệ… Tả Thiếu Dương đầu óc vẫn váng vất, cổ ran rát, nói chuyện vẫn khó khăn, chỉ có mắt là linh động, đảo mắt nhìn xung quanh, đây là một cái khe núi, bốn phía là vách núi dứng đứng, tuyết trắng trải đầy đất, trong tuyết trắng loáng thoáng nhìn thấy một con đường nhỏ bùn đất ngoằn ngoèo từ xe chạy tới, qua người, rồi lại chạy đi xa. Bên đường có bó củi đổ, hai cái gùi chứa ít thảo dược, bên cạnh có hai cái cuốc nhỏ, một cái gùi đã bẹp dí, chính là cái của y.
Gió lạnh thổi qua, Tả Thiếu Dương rùng mình.
Phụ nhân thấy Tả Thiếu Dương ngơ ngơ ngác ngác không trả lời mình thì lo lắng sờ nắn nhìn kiểm tra khắp thân thể y, vui mừng lại chuyển thành lo sợ, nói đứt quãng trong nước mắt: – Bảo đệ rồi mới ốm dậy thì đừng cố gắng, đệ cứ ương bướng cơ … đệ mà có bề gì thì tỷ chỉ có chết tạ tội, cha mẹ cũng không sống nổi … nhà chỉ còn đệ là nam đinh thôi …
Tả Thiếu Dương đưa tay sờ gáy, có lẽ vì di chứng của cú ngã, phản ứng còn chậm chạp, không thấy đau, nhưng lòng bàn tay dính máu khô trộn lẫn bùn tuyết, y nhắm mắt lại cảm nhận vết thương, còn may tuy đầu hơi choáng, nhưng không có hiện tượng buồn nôn, xem ra chỉ trầy da thôi, không chấn động mạnh, chắc là nhờ lớp tuyết dầy.
Thiếu phụ giúp Tả Thiếu Dương kiểm tra gáy, tuy có vết thương nhưng không sâu, đã khép miệng không có máu chảy ra nữa, hơi yên lòng, thấy đệ đệ không nói mà nhắm mắt lại cũng hiểu y đang tự xem xét thương tích, không nói nữa, chỉ lặng lẽ chu đáo phủi tuyết trên người y, tới khi Tả Thiếu Dương mở mắt ra lần nữa mới hỏi: – Đệ, cảm giác thế nào rồi, có gì bất thường không?
Tả Thiếu Dương lắc đầu khe khẽ: – Đệ không sao đâu… sao đệ nằm đây, nếu ngã từ trên núi xuống tới tận chỗ này thì thương tích không thể nhẹ như thế mới đúng…
– Không sao là tốt ra, đã dặn đệ vừa mới ốm dậy chưa lâu, dù có phát hiện ra thuốc quý chăng nữa cũng không nên cố leo núi làm gì, lúc nãy nhìn đệ ngã xuống, tỷ tưởng đệ chết… Phì phì! Tưởng đệ ngã xuống rồi, may mà chạm vào một cái cây nên dừng lại, tỷ không biết leo núi, đều nhờ cô nương này đi qua, cứu đệ xuống đấy!
– Ồ! Tả Thiếu Dương nghĩ ngã không chết chưa chắc đã là may, lão trời già hẹp hòi nhỏ nhen mới chửi có một câu thôi mà, được rồi sau này khinh bỉ trong lòng là đủ, không chửi ra ngoài nữa loạng quạng mang họa, quay sang nhìn thiếu nữ khẽ gật đầu, làm gò má của nàng ửng đỏ, nãy giờ vẫn len lén nhìn trộm y, y biết, y cũng biết mình rất tuấn tú.
– Đệ đệ, đừng cố quá, để tỷ đỡ, chúng ta về nhà để cha xem sao.
– Đệ không sao. Tả Thiếu Dương trở mình bò dậy, do hơi cố quá làm người lảo đảo, nhìn khung cảnh rừng núi hoang sơ, chả hiểu đang nghĩ gì lại ngẩn ra.
Thiếu phụ có hơi sợ hãi, chẳng lẽ ngã một cái làm bệnh cũ lại tái phát rồi, hỏi vội: – Đệ đệ, còn nhớ năm nay là năm nào không?
Tả Thiếu Dương ngáo ngơ trả lời: – Năm Trinh Quan đầu tiên, triều Đường..
– Đúng rồi.
Thiếu phụ chưa kịp thở phào Tả Thiếu Dương đã nói tiếp: – Hoàng thượng là Lý Thế Dân.
– Ối dời ơi là dời, tên húy của hoàng thượng không được gọi tùy tiện, đi đi, chúng ta về thôi, về thôi…
Thiếu phụ hết hồn hết vía tay bịt mồm Tả Thiếu Dương lại, tay nắm tay y kéo đi, chỉ sợ đệ đệ mình lại nói năng linh tinh.
Chương 2: Thiếu nữ gánh củi
Thấy thiếu phụ sợ hãi như thế, Tả Thiếu Dương hơi buồn cười, phát tiết được ấm ức trong lòng, cảm thấy đỡ hơn một chút, năm nay là năm đầu Trinh Quan, Lý Thế Dân vừa mới phát động sự biến Huyền Vũ Môn, lên làm hoàng đế được một năm. Y tên là Tả Trung, phụ nhân kia là chị ruột của y, nhũ danh Hồi Hương, khi nhỏ y thích gọi là Đậu Hương tỷ tỷ, sau gả đi rồi không cho y gọi thế nữa. Cha y là Tả Quý làm lang trung, vì khi kê đơn thuốc thích cho vị đầu tiên là cành quế, nên dùng từ đồng âm đặt cho cửa hiệu nhà mình là “Quý Chi Đường”, người quen hay gọi ông là Quế Chi lang trung. Mẹ y họ Lương, giúp cha y trông hiệu thuốc, cái hiệu thuốc đó làm ăn không được tốt…
***Hồi hương 茴香 cây hồi hương hoa có tám cánh, mùi thơm lạ, hoặc dùng ép dầu để xoa, hoặc dùng làm thuốc, hoặc nấu đồ ăn.
Hồi Hương nãy giờ luôn chú ý tới nhất cử nhất động của đệ đệ, thấy mặt y thê lương chua xót, mắt đỏ hoe, nắm lấy tay áo y an ủi: – Không sao, không sao đâu, cha là lang trung mà, sẽ chưa cho đệ khỏe mạnh trở lại như xưa, mọi thứ rồi sẽ tốt hơn.
Tả Thiếu Dương cố kìm không cho nước mắt chảy ra, y cũng không phải là người đa sầu đa cảm, ngược lại, tuy hay bị người ta gọi là con mọt sách, suốt ngày vùi đầu vào đống sách y học, ngoài thuốc men chỉ biết y dược, nhưng ý chí của y lại cực kỳ kiên cường, tại hoàn cảnh biến đổi quá lớn làm y chưa thể thích ứng được không khỏi có chút yếu đuối thôi.
Chuyện này mình cắn răng chịu là đủ rồi, không nên để người khác đau lòng theo, càng không thể để lão trời già đắc ý, lão muốn chơi mình, mình càng sống tốt cho lão ta tức hộc máu.
Hồi Hương đỡ đệ đệ đi mấy bước mới sực nhớ ra một chuyện, tháo túi tiền đeo bên hông, đổ cả ra tay đưa cho thiếu nữ: – Cô nương, cám ơn cô cứu đệ đệ ta, ta có chút tiền, không nhiều lắm, tỏ chút tâm ý thôi.
Thiếu nữ mỉm cười lắc đầu không đáp, quay trở lại bên đường, dựng gánh củi đổ lên, đeo trên lưng, nghiêng đầu nhìn trộm Tả Thiếu Dương một cái nữa, gò mà ngăm đen lại thoáng hồng, cúi đầu gánh củi đi.
Hồi Hương nói với theo: – Tạ ơn cô nương đại nhân đại nghĩa, sau này có vào thành, mời tới “Quý Chi Đường” uống chén trà nhé.
Tả Thiếu Dương lắc mạnh đầu một cái, thiếu nữ này cứu mình, vậy mà nãy giờ không nói được một lời cám ơn, đơ ra như thằng ngốc, gọi: – Cô nương, đợi chút.
Thiếu nữ đứng lại, quay người nhìn y, má đỏ hây hây, chẳng biết là vì gió lạnh hay vì thẹn thùng.
Tả Thiếu Dương đi nhanh tới: – Cám ơn cô nương cứu giúp, không biết cô nương xưng hô thế nào?
Thiếu nữ lắc đầu, chuẩn bị gánh bó củi lên rời đi.
Tả Thiếu Dương thấy vóc người nàng nhỏ nhắn, cao chỉ qua vai y một chút, chắc khoảng 1m 50 tới 1m55 là cùng, cái bó củi để đứng còn cao hơn nàng một đoạn, hai sợi dây thừng dùng để buộc bó củi còn to hơn cả miệng chén, đeo trên vai nhìn vừa tức cười lại khiến người ta đau lòng, hiên ngang vỗ ngực: – Cô nương, để ta gánh giúp cho.
Nói là làm ngay cầm lấy sợi dây thừng, tới gần thiếu nữ, Tả Thiếu Dương liền ngửi thấy mùi cỏ thơm thấm tận ruột gan kia, lòng tức thì hiểu ra, cái mùi cỏ khi nãy là ở trên người thiếu nữ.
Thiếu nữ thấy y tới bên cạnh rồi tuy không cần y giúp, nhưng nam nữ hữu biệt, không dám dây dưa, vội buông tay, tránh sang một bên.
Tạ Thiếu Dương đứng tấn dồn sức, nhưng không đứng lên nổi, giờ mới phát hiện ra cái bó củi này nặng kinh hồn, không khác gì tạ sắt, mặt nóng rang, lúc nãy thiếu nữ đeo nhẹ nhàng, ai mà ngờ… Cắn chặt răng nín hơi, năm đầu ngón chân bấu xuống đất, eo hông phát lực, cuối cùng loạng choạng đứng lên được, chân bước trên đường bùn tuyết, lảo đảo như người say đi về phía trước.
– Đệ đệ, mau bỏ xuống. Hồi Hương nhặt cuốc trên mặt đất ném vào gùi thuốc, một tay cầm gùi đuổi theo Tả Thiếu Dương: – Bỏ xuống, mau bỏ xuống, đệ ốm dậy chưa lâu, lại vừa bị thương, không nên cố sức.
Tả Thiếu Dương không dám mở miệng trả lời, sợ hàm răng nghiến chặt mà lỏng ra thì sức lực cũng thoát ra hết, vừa rồi đã hùng hồn nói gánh giúp người ta, giờ đặt xuống thì dấu cái mặt vào đâu, mặc dù đi vài bước đã thở như kéo bễ, nhưng vẫn cứng đầu gánh bó củi loạng choạng bước đi.
Thiếu nữ thấy Tả Thiếu Dương gánh củi khổ sở như vậy thì che miệng cười khúc khích, cũng không định làm khó y, nhanh nhẹn bước đến lấy bó củi trên vai y, nhẹ nhàng đặt lên vai mình, nhoẻn miệng cười với y, hàm răng trắng được khuôn mặt đen làm càng thêm trắng, cả mấy tàn nhang trên cánh mũi cũng được nụ cười làm sáng lên, khuôn mặt nhỏ đôi mắt to đáng yêu, vòng eo nhỏ yển chuyển, bước chân đi thoăn thoắt.
Tả Thiếu Dương chống hai tay lên đầu gối thở hồng hộc, đầu ngẩng lên nhìn thiếu gánh bó củi nhẹ như không, trong khi y thiếu chút nữa thì xụn lưng, tiểu cô nương này người nhỏ nhắn xinh xinh, không ngờ sức lực lớn như vậy, đúng là trẻ nhà nghèo sớm đảm việc nhà. Lúc này trong mắt y chỉ toàn nụ cười như hoa nở của thiếu nữ đó, trời băng tuyết thế này mà lên núi lấy củi, lại còn bó củi lớn như thế, chắc chắn cuộc sống vô cùng gian khổ, vậy mà nụ cười vẫn rạng ngời, đây là thiếu nữ tâm địa thiện lương, lạc quan.
Hồi Hương thì tâm tư hoàn toàn đặt lên người đệ đệ, trách: – Sao đệ lại bất cẩn như thế? Đệ vốn xương cốt mỏng manh, gánh thế nào được bó củi lớn như vậy, cho dù là một tráng hán cũng rất cật lực, huống hồ vừa ốm, lại vừa bị thương, không tự lượng sức, chẳng may trật lưng hoặc nội thương thì làm sao?
Tả Thiếu Dương nhe răng cười, đón lấy gùi thuốc của tỷ tỷ, cái gùi thuốc của y tan nát rồi, may cái này nhẹ, y gánh được: – Tỷ, đệ rút kinh nghiệm, đi thôi.
– Này, nhà chúng ta phía này cơ mà. Hồi Hương thấy đệ đệ chạy theo hướng khác thì ngạc nhiên lắm:
– Cô nương, đợi ta một chút. Tả Thiếu Dương chạy theo bóng lưng thiếu nữ, cao giọng hô:
Thiếu nữ đứng lại đợi, tò mò nhìn y nhưng không nói gì.
Tả Thiếu Dương chỉ vào con xạ treo ở trên bó củi: – Cô nương, con xạ này do cô bắt được à?
Lúc đầu bó củi đổ trên mặt đất tuyết không nhìn thấy, Tả Thiếu Dương giúp thiếu nữ gánh củi, con xạ ở sau bó củi dính đầy tuyết không nhìn rõ là cái gì, mà lúc đó y cũng không để ý. Đợi khi thiếu nữ gánh củi đi, tuyết rơi xuống, y liền phát hiện ra là con xạ rừng.
Xạ là giống thú giống như con hươu mà bé, không có sừng, lông đen, bụng có một cái bọng da to bằng cái trứng gà, gọi là xạ hương dùng để làm thuốc, rất quý. Tả Thiếu Dương trước kia chỉ thấy hợp chất thay thế hoặc hình vẽ, chưa bao giờ thấy xạ hương nguyên sinh thế này, không kích động mới là lạ.
Thiếu nữ nhìn con xạ treo lửng lẳng, gật đầu, đôi mắt to tỏ ra nghi hoặc.
– Ta xem được không?
Thiếu nữ gật đầu, đặt bó củi xuống đất. Tả Thiếu Dương đi tới sờ bụng con xạ, quả nhiêu có túi thơm, hỏi: – Cô nương, bán cho ta con xạ này được không?
Thiếu nữ hơi mím môi cỏ vẻ khó xử lắm, vẫn không nói gì cả.
Tả Thiếu Dương thoáng nghĩ là hiểu, thiếu nữ này chắc chắn là muốn đem con xạ về làm thức ăn đây, sắp Tết rồi, có con xạ này có một năm mới no đủ, nói ngay: – Không phải ta muốn mua con xạ này, không dấu cô nương, nhà ta mở hiệu thuốc, có thể cô không biết, trong bụng con xạ này có một cái túi, dùng để làm thuốc chữa bệnh, ta chỉ mua nó thôi, được không?
Thiếu nữ hiểu ra, vui vẻ gật đầu ngay, rút từ thắt lưng con dao bổ bủi đưa cho Tả Thiếu Dương, ý bảo y tự cắt. Tả Thiếu Dương mừng lắm, nhận lấy dao, nhấc con xạ lên, cẩn thận cắt túi của nó, đúng thứ y cần, đưa tay sờ người, nhưng sờ từ trên xuống dưới không thấy có đồng nào, quay lại bảo Hồi Hương: – Tỷ, tỷ có tiền không? Đệ muốn mua cái này.
– Có, nhưng chỉ có ba mấy đồng thôi, đệ mua làm gì?
– Đây là một dược liệu rất tốt, đưa tiền cho đệ đi.
Hồi Hương không được cha dạy nghề thuốc, hiển nhiên là vì không muốn nàng xuất giả mang nghề trong nhà theo, cho nên nàng cũng chỉ biết qua loa vài vị thuốc mà thôi, tháo túi tiền xuống, đưa cho Tả Thiếu Dương.
Chương 3: Dòng dõi thư hương
Tả Thiếu Dương ướm túi tiền, quả nhiên chẳng có mấy mà xạ hương là thứ rất quý, ngượng ngùng nói với thiếu nữ: – Tỷ đệ ta đi hái thuốc không mang nhiều tiền, chỗ này không đủ, hay là khi nào cô nương tới Quý Chi Đường, ta trả bù, được không?
Hồi Hương lén đá đệ đệ mình một cái, cẩn thận nói: – Cô nương, túi xạ hương này cô định bán bao nhiêu tiền? Đắt quá ta không mua đâu.
– Tỷ!
– Nghe tỷ đi! Hồi Hương trừng mắt lên:
Thiếu nữ nhoẻn miệng cười, mở túi ra, đếm lấy chín đồng, sau đó trả số còn lại cho Tả Thiếu Dương.
Tả Thiếu Dương mặc dù không có khái niệm lắm 9 đồng này giá trị ra sao, nhưng chắc chắn là không đủ, nhét cả túi tiền vào tay thiếu nữ: – Không được, toàn bộ chỗ này còn chưa đủ đâu, cô nương cứ lấy cả đi.
Thiếu nữ khẽ lắc đầu, cho chín đồng tiền vào lòng, nhấc bó củi lên, xoay lưng bước đi, để lại một mùi thơm cỏ tươi mà chỉ mùa xuân mới có.
Hồi Hương thấy thiếu nữ không tùy tiện lấy tiền mới thở phào, lấy lại túi tiền từ tay Tả Thiếu Dương: – Đệ đệ, mặt trời sắp xuống núi rồi, còn không về là không nhìn thấy đường mà đi đâu.
Tả Thiếu Dương cầm túi xạ hương lật qua lật lại xem một lúc, thích lắm, đeo gùi vừa đi vừa cảm thán: – Cô nương ấy vừa xinh xắn lại tốt bụng, đáng tiếc là bị câm, ông trời thật bất công.
– Câm cái gì mà câm, người ta vừa nãy còn nói chuyện với tỷ, hẳn là con nông gia, sợ người lạ, thấy chàng trai tuấn tú như đệ nên xấu hổ thôi.
Dường như chứng minh lời Hồi Hương nói, xa xa truyền tới tiếng sơn ca trong trẻo, nghe hướng âm thanh là phía cô nương lấy củi phát ra.
Tả Thiếu Dương bị lời ca mộc mạc thu hút, quay đầu nhìn, không còn thấy bóng dáng cô nương lấy củi đâu nữa, bên tai vẫn văng vẳng tiếng sơn ca, bất giác có chút si dại, lẩm bẩm vài lượt trong miệng: – Bài sơn ca hay quá!.. Tỷ, cô nương ấy tên là gì?
– Cô ấy không nói, tỷ ở dưới thấy đệ bị ngã, suýt chút nữa là rơi xuống vách núi rồi, muốn leo lên mà không leo được, sợ phát khóc luôn. Cô nương ấy gánh củi đi qua, hỏi tỷ chuyện gì, nghe tỷ kể liền leo lên cứu đệ xuống, chỉ nói đúng mấy câu.
Tả Thiếu Dương nuối tiếc nói: – Tỷ cũng thật là, người ta cứu đệ mà không hỏi tên.
– Đệ lúc đó hôn mê, tỷ sợ hết hồn hết vía rồi, làm gì để ý tới chuyện đó. Sao? Thấy cô nương người ta xinh xắn nên động lòng rồi à? Hi hi..
– Làm gì có, nhưng người ta cứu đệ thế nào cũng phải hỏi tên tuổi chứ.
Hồi Hương liếc đệ đệ mình một cái, cười tủm tỉm: – Tỷ biết tâm tư của đệ, có gì mà xấu hổ, đệ cũng đến tuổi thành gia lập thất rồi, có điều nói câu này đệ không thích nghe, nhà ta bây giờ gia cảnh tuy không tốt, nhưng cha luôn tự cho mình là dòng dõi thư hương, tầm mắt cao lắm, đệ lại là nam đinh độc nhất kế thừa hương hỏa của Tả gia, cô nương nông gia như vậy không hi vọng gì lọt vào mắt cha đâu, đệ quên đi thì hơn, đừng làm khổ mình.
Người đọc sách cho dù có nghèo túng đến mấy cũng xem thường người chân lấm tay bùn, trừ một số dị loại cực ít như Đào Uyên Minh bỏ quan về làm ruộng, đến Mạnh Tử từng nói “lao tâm giả trì nhân, lao lực giả trì vu nhân”, Đại văn học gia Lưu Vũ Tích triều Đường cho dù ở nhà cỏ sống nghèo đói, nhưng không thèm làm bạn với bách tính bình dân, trong ( Lậu Thất Minh) thanh cao nói:” Trò chuyện có hồng nho, qua lại không bạch đinh.”. Từ xưa tới nay người làm y đa phần là theo học vấn không thành nên mới chuyển thành y, đó gọi là ” không thể làm lương tướng, nguyện làm lương y”. Tư tưởng này thể hiện rõ ràng ở Tả Quý cha y.
*** Người lao động đầu óc thống trị người khác, kẻ lao động chân tay bị người khác thống trị.
Tả Thiếu Dương vừa đi vừa quay đầu lại: – Tỷ nói gì thế, đệ vội gì chứ .. Á..
Tại vừa đi vừa nói không để ý, đường thì trơn trượt, thiếu chút nữa bị ngã, may mắn Hồi Hương đi bên cạnh luôn để ý chăm sóc ý, nhanh tay lẹ mắt vươn tay ra giữ lấy: – Cẩn thận chút, đường toàn tuyết, chú ý đi đi, đừng nghĩ tới cô nương nhà người ta nữa, đi chậm chút, tránh tuyết, dẫm lên bùn ấy, giày bẩn còn giặt được, dẫm lên tuyết để bị lạnh cẩn thận bị cảm.
Tả Thiếu Dương nghe Hồi Hương lải nhải không khác gì dặn trẻ con lên ba, trong lòng không thấy phiền, ngược lại còn thấy ấm áp.
Rốt cuộc đã rời khỏi núi, hai chân Tả Thiếu Dương khá mỏi rồi, ngọn núi này tên là Thiên Nhận Sơn, vì nhiều đỉnh núi, hơn nữa lại cao vυ”t tận mây, vách đá cheo leo, cho nên được gọi bằng tên này. Nhà bọn họ ở huyện Thạch Kính, thuộc Hợp Châu, là nơi đặt châu phủ.
Dọc đường đi Tả Thiếu Dương thấy rất nhiều ruộng bằng phẳng nhưng mọc đầy cây gai, cỏ dại, hẳn là bỏ hoang nhiều năm rồi, hỏi: – Tỷ, sao không ai cày ruộng, để hoang tiếc quá.
Hồi Hương nghe đệ đệ hỏi chuyện rất ấu trĩ thì thở dài, lần trước đệ đệ cũng đi leo núi hái thuốc sau đó chẳng biết ngã hay làm sao, đến khi tìm ra thì đang nằm trên đống tuyết lớn, bị nhiễm lạnh sốt cao liên miên, sau đó đầu óc cũng bị ảnh hưởng, nhiều chuyện nhớ nhớ quên quên, thi thoảng hỏi nàng toàn câu ngớ ngẩn như thân thích bằng hữu có ai, châu huyện bao nhiêu người. Hồi Hương thương lắm, lo vô kể, nhưng sợ đệ đệ buồn, không thể hiện ra, kiên nhẫn trả lời từng câu một.
– Muốn cày ruộng thì cũng phải có trâu cày mới được chứ, bao năm qua chiến hỏa liên miên, trai tráng đều bị bắt đi lính đánh trận hết rồi, còn chết bao nhiêu là bao nhiêu, đến xương cốt không còn chỗ mà chôn, mà người chết toàn là con cái nông gia. Còn sống đại đa số là người già phụ nữ trẻ em, làm sao mà trồng cấy được nhiều ruộng đất như thế chứ? Đành bỏ hoang thôi.
Tả Thiếu Dương nhớ đại khái đoạn lịch sử này, sau khi nhà Tấn sụp đổ, tiếp đó hai ba trăm năm là cục diện quần hùng cát cứ, chiến loạn quanh năm suốt tháng, ngày tháng bình yên chẳng có mấy, nhân khẩu tất nhiên sụt giảm, ở thời đại công việc đồng áng hoàn toàn dựa vào sức lao động này, thiếu đi trai tráng, đất đai hoang vu không có gì là lạ, nhìn bốn xung quanh đồng ruộng chỉ có cỏ dại là cỏ dại, thi thoảng mới thấy một hai ông già ngoài đồng, không khỏi thầm buông tiếng thở dài.
Khi mặt trời chỉ còn leo lét ánh sáng đằng xa, hai tỷ đệ Tả gia về kịp huyện Thạch Kính trước khi thành đóng cửa.
Nhìn tòa thành từ xa cũng chẳng cao lớn vững trãi gì cho lắm, vài cái tháp canh vẫn còn chưa tu sửa hoàn thiện, hoặc là chẳng buồn tu sửa gì nữa, vẫn cứ nguyên dấu vết cháy xém sứt xẹo. Bao quanh có một con sông hộ thành, không biết khi kháng địch có ăn thua gì không, Tả Thiếu Dương ước chừng mình nhảy hai bước là qua, được cái trong xanh biêng biếc, cái cầu treo thì trông rất thiếu an toàn, móc bởi cái xích sắt to bằng cổ tay, rỉ sét hết cả chẳng biết trải nắng dầm mưa bao lâu rồi, cầu rộng đủ cho hai cái xe ngựa đi qua, gỗ thì rõ ràng là chắp vá.
Cổng thành có mấy binh sĩ mặc khải giáp nặng trịch, tay cầm trường mâu, hông dắt loan đao, cảnh giác nhìn dòng người đi qua đi lại, cứ thấy ai nghi ngờ là kéo sang bên tra hỏi ngay, chiến tranh chưa qua bao lâu, tính cảnh giác vẫn rất cao.
Lúc rời thành chẳng có tâm trạng nào nên chẳng chú ý, bây giờ quay về với tâm thái thoáng đạt cởi mở hơn, Tả Thiếu Dương hiếu kỳ ngó nghiêng xung quanh, còn chăm chú nhìn mấy binh sĩ, mặt mày phong sương, không cao lớn lừng lững oai phong lẫm liệt, có vẻ còi cọc như không đủ dinh dưỡng, nhưng trông người nào người nấy rất có tinh thần, ánh mắt đó nhìn là biết không nên trêu trọc vào họ. Những binh sĩ này chỉ lướt qua tỷ đệ họ một cái không hỏi han gì, cả hai thuận lợi vào thành.
Chương 4: Chủ nhà đòi nợ
Cho dù Lý Thế Dân đã lên ngôi, đại cục thiên hạ cơ bản đã định, nhưng bây giờ mới chỉ là năm đầu, ân trạch của thời Trinh Quan chưa tưới lên người bách tính, chiến tranh chưa qua bao lâu, nhà cửa lụp xụp, mùa đông gió rét làm khung cảnh càng thêm tiêu điều, vết thương chiến tranh còn xa mới lành miệng. Bách tính ăn mặc đơn sơ, mùa đông khắc nghiệt mà nhiều người ăn mặc mỏng manh, độc có một cái áo, lạnh tới chân tay tím tái, run cầm cập.
Hai bên đường đi ăn mày đứng lố nhố trông càng thảm thương, quần áo rách nát, nam có nữ có, ai cũng gầy khô như que củi, túm tụm với nhau vào một chỗ để sưởi ấm, tay run run cầm cái bát sứt mẻ, mắt trống rống thất thần nhìn dòng người qua lại, chẳng còn sức lực để lên tiếng xin xỏ nữa.
Tả Thiếu Dương thực sự không muốn nhìn cảnh tượng này, Hồi Hương thì thản nhiên như không, vừa đi vừa tíu tít kể chuyện làng chuyện xóm với đệ đệ, rõ ràng là nàng đã quá quen rồi. Thi thoảng mới thấy được một người trông hồng hào béo tốt thong thả ngâm nga bài hát nào đó, nhưng ăn mặc cũng một màu xám xịt.
Tuy thế không phải mọi thứ đều tệ, đường xá làm rất tốt, rộng rãi còn lát đá, trên đường cũng không có mấy rước rưởi, rất sạch sẽ, tất nhiên chỉ giới hạn ở mấy con đường chính thông tới cổng thành thôi, có điều cũng đáng quý rồi.
Xuyên qua đường lớn ngõ nhỏ, chóng hết cả mặt, khi Tả Thiếu Dương cảm giác sắp không nhớ nổi đường nữa thì Hồi Hương đứng lại trước căn nhà gỗ cũ kỹ gọi: – Đệ đệ, tới nhà rồi, còn định đi đâu?
Tả Thiếu Dương cười trừ, đây là một căn nhà hai tầng ba gian, chính giữa là đại sảnh, bốn cánh cửa gỗ mở rộng, hai bên treo câu đối khắc gỗ, mặc dù rất đơn giản, nhưng gỗ được bào rất phẳng, chữ bên trên cổ kính cứng cỏi, trông có nghề lắm. Cửa chính treo một tấm biển gỗ đào, ba chữ “Quý Chi Đường” này rõ ràng cũng cùng một người viết câu đối. Tấm biển cũ không biết thời nào, chỉ cần đứng xa một chút thôi là không đọc được bên trên viết cái gì, Tả Thiếu Dương nghĩ có lẽ cũng không ảnh hưởng mấy, cái thời này trong 100 người có nổi một người biết chữ là giỏi lắm rồi.
Hai bên đại sảnh có dãy ghế dài, nhìn sâu vào bên trong nữa là cái bàn gỗ, trông không còn ra màu sơn, nhìn tiếp thì chịu, vì bây giờ là chập tối, lại chẳng có điện, tù mà tù mù không thấy rõ.
Ngưỡng cửa lõm xuống hình cánh cung, bên trên toàn là vết chém, chắc là bình thường chặt cái gì đó tiện tay kê lên đây nên thành ra như vậy.
Tả Thiếu Dương theo sau lưng Hồi Hương bước vào đại sảnh, thấy một lão giả ngồi sau cái bàn gỗ dài, người gầy khô, đội khăn chít đầu, da mặt nhăn nheo như táo tàu, để chòm râu dê, mặc trường bào đen, cái áo này quá rộng, bốn phía còn xòe ra, trông như kim tự tháp màu xám xịt, đỉnh mọc ra cái đầu nhỏ tang thương.
Tả Thiếu Dương chưa thích ứng được với tình trạng ánh sáng tồi tệ này, nhìn không rõ tình hình, Hồi Hương lớn tiếng nói: – Cha! Mẹ! Bọn con về rồi.
Lão giả gầy gò chính là Tả Quý, lang trung thích dùng quế, ông ta chỉ “ừm” một tiếng, trong bóng tối có phụ nhân nói vọng ra: – Hồi Hương, đi làm cơm đi.
Đó là Lương thị, mẹ của tỷ đệ họ.
Tiếp ngay đó trong bóng tối có giọng the thé xen vào: – Úi dà, còn có cơm mà ăn đấy, có cơm ăn sao không trả tiền thuê phòng đi? Tả gia các người đừng đùa với ta nhé, ta đợi ở đây nửa ngày rồi, không trả tiền thuê nhà thì cũng đừng ăn cơm.
Lương thị thở dài: – Tam Nương, đâu phải là chúng tôi không trả, nửa ngày rồi cô cũng thấy đấy, tổng cổng chỉ có hai người bệnh, tiền thuốc hơn mười đồng, đều đưa cô cả rồi, không còn đồng nào nữa. Cái thời buổi loạn lạc này, đến mạng còn chẳng để ý được, tiền đâu ra mà khám bệnh, nên mở hiệu thuốc có kiếm được gì đâu, kiếm cái ăn thôi đã là khó lắm rồi, cô cho hoãn…
– Kiếm được tiền hay không là chuyện của các người! Nói cho bà biết, sắp tới năm mới rồi, người xưa nói rồi đấy, năm mới không nợ nần. Làm gì có nợ qua năm, nợ năm nào thu năm đấy. Nếu nợ có vài trăm đồng thôi thì ta cũng không dồn ép các người, nhưng tiền thuê nhà các người nợ suốt từ năm trước tích góp lại, lại còn nhập thuốc, gả khuê nữ linh tinh vay tiền của ta, cộng cả lại đã là chín nghìn linh bảy mươi đồng rồi. Được, ta nhượng bộ một bước, coi như ta xui xẻo, trừ đi 70 đồng, không cần số lẻ nữa, 9000 thì phải trả không thiếu một xu.
Năm đầu thời Đường, một lượng vàng bằng 10 lượng bạc trắng, bằng một xâu tiền, một xâu tiền là 1.000 đồng.
Quý Chi Đường thiếu nợ tiền thuê nhà, tiền vay mượn tới 9.000 đồng, với hiệu thuốc ế ẩm này mà nói là con số kinh khủng.
Lương thị tiếp tục nài nỉ, giọng có chút thút thít: – Tam Nương, nhà chúng tôi không có tiền thật mà, đừng nói 9.000 đồng mà 9 đồng cũng không có, nói ăn cơm chứ cơm đâu ra, trong nồi là bột mì đen trộng với rau dại, bột mì đen còn là nhà Hồi Hương cho nửa cân để ăn Tết, rau là Hồi Hương và đệ đệ nó lên núi hái thuốc mang về… Thật.. Thật.. Không sống được nữa mà…
Lời chua xót của Lương thị làm Tả Thiếu Dương đứng đờ ra giữa đại sảnh không tiến thêm được bước nào.
– Được được rồi, đừng than nghèo kể khổ với ta nữa, thời buổi này ai chả khó khăn? Bà khóc ta còn muốn khóc to hơn, nam nhân của ta chỉ để lại cái nhà này thôi, đạp chân một cái thế là đi, mấy mẹ con ta dựa vào thuê nhà mà ăn, không thu được tiền phòng thì uống gió tây bắc mà sống à? Tả gia, ta cầu xin các người đấy, trả tiền cho ta sống với.
Dần dần mắt Tả Thiếu Dương cũng thích ứng được với bóng tối, nhìn thấy được rõ cảnh trong nhà, một thiếu phụ ngồi trên cái ghế tròn cao gần tường, tóc búi cao, chưa thấy rõ mặt nhưng tuổi không hơn tỷ tỷ y là bao, chân vắt chéo, một cái tay không ngừng ném đồ ăn từ trong cái ống đồng vào mồm, cái cằm nhọn lên xuống liên hồi, nuốt xuống cổ, đều đặn như máy, có điều không nhìn rõ được là ăn cái gì.
Mẹ y Lương thị thì ngồi phía trước, hai tay cho vào ống tay áo, đứng phía trước thiếu phụ, người hơi khom xuống, trông rất tội nghiệp.
Cha y thì từ đầu tới cuối vẫn ngồi sau cái bàn dài đó, không nói không rằng, mặt cúi xuống, chẳng biết là có tâm sự, hay là bản tinh thanh cao bị người ta tới nhà đòi nợ không còn mặt mũi thấy ai.
Hồi Hương cứ việc mình mình làm, nàng đi cất gùi thuốc hai tỷ đệ hái được vào sương phòng bên cạnh, đi ra, qua đại sảnh, tới sương phòng khác, chẳng mấy chóc sương phòng đó sáng đèn, một ngọn đèn dầu leo lét từ phía sương phòng đó trôi ra như lửa ma chơi. Hồi Hương đi tới bàn dài, đặt đèn lên: – Cha, đệ đệ hôm nay leo núi trượt chân ngã, đầu bị chảy máu, cha xem cho đệ ấy.
Tả Quý còn chưa nói gì thì Lương thị đã hét lên, cuống quýt chạy tới, vịn vai Tả Thiêu Dương, ngẩng đầu nhìn: – Trung Nhi, lại ngã nữa à? Bảo con mà, mới ôm dậy đợi thêm một hai ngày nữa đã, có đau không? Để mẹ xem nào.
Nương ánh đèn tờ mờ, Tả Thiếu Dương nhìn khuôn mặt già nua nếp nhăn chằng chịt như mặt đất nắng hạn lâu ngày, đôi mắt mờ đυ.c cố gắng mở thật lớn, chứa đầy vẻ kinh hoàng.
Tả Thiếu Dương rất muốn gọi một tiếng mẹ, nhưng khó khăn hơn gọi “tỷ” nhiều lắm, tới giờ không quen, cố lắm mới hàm hồ nói được một câu: – Con không sao, rách chút da thôi.
Tả Quý nhìn con một lượt, mặt vẫn lạnh, gọi: – Ngồi xuống, để cha xem bị thương ở đâu.
Tả Thiếu Dương ngồi xuống cái ghế gỗ tròn bên bàn dài, cúi đầu xuống cho cha mình xem vết thương: – Chỉ có gáy bị cành cây hay gờ đá làm xước da chảy máu thôi ạ, không sau đâu. Bản thân y cũng không ngờ tình huống mười phần chết chín đó kết cục chỉ có rách chút da như vậy, người ngợm ê ẩm một chút, bẩn thỉu một chút, đến thâm tím cũng không, đúng là kỳ tích.
Chương 5: Sơn trà hại người
Tả Quý đưa hai bàn tay gầy khô ra nâng đầu Tả Thiếu Dương, nheo mắt lại nhìn ngó: – Ừ! Có vết rách đấy, nhưng không dài, đã khép miệng, không chảy máu nữa rồi, cảm giác thế nào? Đầu có nhức không? Có thấy buồn nôn không?
– Không ạ, con không sao thật mà, lúc đấy con cũng tự kiểm tra rồi.
– Đưa tay ra đây cho cha xem.
Tả Quý cầm cổ tay con, tay kia vuốt chòm râu dê lưa thưa, ngưng thần bắt mạch, từ từ gật đầu: – Ừ, mạch bình ổn, không có việc gì đâu.
– Tạ ơn trời đất, khổ thân con tôi vừa mới ốm dậy. Lương thị chắp tay hướng lên trời lẩm nhẩm khấn bái:
Thiếu phụ chủ nhà đứng dậy đi tới: – Các người trả tiền thuê nhà đi rồi từ từ tán gẫu với nhau, còn để người ta về chứ.
Lương thị mặt mày khổ sở: – Tam Nương, chúng tôi thật sự không có tiền mà.
Thiếu phụ này là người cho Quý Chi Đường thuê nhà mở hiệu, họ Triệu, là con thứ ba trong nhà, mọi người gọi là Triệu Tam Nương, tuổi mới qua ba mươi, trượng phu chết bệnh, nhà có hai đứa con nhỏ và cha mẹ già, nguồn sống đều dựa hết vào cho thuê cửa hiệu.
– Tà cho nhà các người thuê căn nhà ba gian này mở hiệu thuốc, tiền thuê rẻ nhất khu rồi, điều này trong lòng các người cũng hiểu đúng không? Bao nhiêu năm rồi, trước kia các người nợ tiền thuê nhà, ta có mặt nặng mày nhẹ không? Tả gia các người nợ hết năm này tới năm khác, năm nay vài trăm, năm sau vài trăm, ta có giận thì cùng lắm cũng chỉ nói vài lời nóng nảy là hết, chưa bao giờ dồn ép quá mức nhé, thế là tình nghĩa quá mức rồi, đúng không? Tiền nhà không trả, có khó khăn ta còn cho vay thêm. Nhưng bây giờ tiền tiền nọ tiền kia cộng lại đã tới 9.000! 9.000 mua được bao nhiêu trâu cày, nuôi sống được bao nhiêu người? Triệu Tam Nương nói văng nước bọt, còn lấy tay đấm ngực: – Là các người dồn ta tới mức này, không phải là ta bất lương, các người phải tự thấy thẹn với lòng chứ? Có phải ta hiền lành, hay vì ta mẹ góa con côi nên các người bắt nạt không? Vậy được, nói tử tế xem ra không xong rồi, nếu thế đừng trách ta không khách khí nhé, kết quả này ta cũng dự liệu được rồi, tối nay các người chuyển nhà, lập tức.
Câu này phát ra, ngay Tả Quý nãy giờ làm ra vẻ không quan tâm tới sự đời cũng run người, Lương thị không kịp để ý tới con làm sao, tái mặt đi: – Chuyển nhà? Đêm đông rét mướt thế này cô bảo chúng tôi đi đâu bây giờ, Quý Chi Đường thuê nhà của cô bao năm rồi, có khách quen thường xuyên tới, nếu chuyển đi, một là không tìm được chỗ thích hợp, hai là không còn cả khách quen, chúng tôi sống thế nào? – Cái đó ý mặc, các người muốn có cơm ăn, ts cũng phải ăn cơm. Chẳng lẽ muốn ta chết đói cùng các người à? Các người không có tiền, vậy dùng thuốc trả nợ.
Tả Quý giật mình, rời chỗ ngồi: – Tam Nương, còn lại đây đều là thuốc đặc trị bệnh mùa đông, khách hàng quen của lão phu có bệnh kinh niên, cô mang đi, họ phát bệnh phải làm sao?
Tả Thiếu Dương chưa hiểu được nhiều tình thế, lúc này chỉ biết ngồi nghe, Hồi Hương không dám nói, Lương thị gần như khóc tới nơi: – Thuốc men chúng tôi vay tiền để mua đấy, cô mang đi thì biết làm thế nào? Cô xem, con lão thân vừa mới ốm dậy, hôm nay còn phải liều mình đi hái thuốc, ngã thành ra thế này…
Triệu Tam Nương chẳng động lòng, hừ một tiếng: – Các người nợ người khác tiền, còn nợ ta là đất à? Ta kệ các người mượn tiền hay xin tiền mua thuốc, còn nữa, số thuốc này mang hết đi cũng chẳng đủ 9.000 đồng, vốn cũng định lấy luôn đồ đạc nhà các người gán nợ, nhưng ta rõ nhà các người quá mà, chẳng đáng nổi mấy đồng. Thôi, cũng sắp cuối năm rồi, ta cũng giữ lại chút tình nghĩa, để lại cho các người mang đi. Ài, ai bảo ta hay mềm lòng chứ, số tiền còn thiếu thôi thì ta coi như nó rơi xuống cống rồi. Cho các người một canh giờ thu dọn đấy, một canh giờ sau ta dẫn người tới thu nhà. Khi đó các người còn chưa đi, họ sẽ giúp các người chuyển đồ, người ta không nhẹ nhàng như ta đâu… À phải, có câu này ” người chết nợ không chết”, dù các người có chuyển đi thì tiền nợ vẫn phải trả. Ta sẽ cho người đòi, thôi, nói thế đủ rồi, ta còn về ăn cơm.
Lương thị và Hồi Hương chạy theo Triệu Tam Nương nài nỉ, Triệu Tam Nam hạ quyết tâm nói, dứt khoát một câu dẫn người tới thu nhà.
Tả Thiếu Dương chần chừ một lúc đi tới trước, nói: – Triệu a di, không phải… Triệu thẩm… À, Triệu Tam thẩm đợi chút, cháu có lời muốn nói.
Triệu Tam Nương quay đầu, tay vẫn cứ cho đồ ăn vặt vào miệng, giọng nhẹ đi đôi phần: – Tả Đại Lang, chẳng lẽ cậu có tiền trả cho thẩm à?
Tả Thiếu Dương suýt ngã cắm mặt xuống đất, Tả đại lang? Nghe sao giống gã Võ đại lang xúi quẩy bán bánh kia vậy? Cách xưng hô này không lọt tai tí nào.
Cách xưng hồ thời Đường Tống là vậy, với nam tử đầu tiên là gọi họ, tiếp đó là thứ bậc trong nhà, sau đó thêm vào chữ lang, ví như thất lang bát hổ của Dương gia tướng, hay là Võ Tòng Võ Nhị Lang trong Thủy Hử đều như thế. Mà nam nữ phân chia nhau tính, nên dù Tả Thiếu Dương có tỷ tỷ là Hồi Hương, nhưng trong số nam đinh thì y đứng đầu – Dù có một mình y cũng xếp hạng – Cho nên Triệu Tam Nương mới gọi là Tả Đại Lang chứ không phải là Tả Nhị Lang.
Tả Thiếu Dương nhìn thứ Triệu Tam Nương lấy từ ống đồng ra ăn, xác nhận chắc chắn rồi mới vững tâm nói tiếp: – Tam thẩm ăn sơn trà phải không?
Tuy hơi gầy gò, da tai tái, trông hơi thư sinh yếu ớt, nhưng mặt mũi Tả Thiếu Dương thực sự có thể nói là tuấn tú, có sức sát thương nhất định với nữ nhân, chí ít cũng khiến người ta thiện cảm, thế nên Triệu Tam Nương nhoẻn miệng đưa ống đồng tới: – Đúng, cậu muốn ăn à?
– Không không. Tả Thiếu Dương xua tay: – Hình như thẩm rất thích ăn sơn trà, cũng thường xuyên ăn phải không?
– Đúng thế. Thái độ của Triệu Tam Nương với Tả Thiếu Dương rất ôn hòa, hỏi gì đáp nấy: – Tam thẩm thích nhất cái vị ngọt ngọt chua chua của sơn trà, thường ngày thẩm không muốn ăn gì, sau khi ăn sơn trà vào mới ăn được.
– Vậy có phải tam thẩm hay bị đau dạ dày, miệng cũng thường cảm thấy chua phải không?
Triệu Tam Nương hơi sửng sốt: – Đúng rối, ấy, mà sao cậu lại biết, tam thẩm đâu có tới hiệu thuốc nhà cậu xem bệnh chứ?
– Tam thẩm phải uống thuốc không ít, nhưng không hiệu quả phải không?
Thấy Tả Thiếu Dương nói đâu trúng đó, Triệu Tam Nương sốt sắng hỏi ngay: – Phải rồi! Tả Đại Lang, cậu chữa được không?
Tả Thiếu Dương nhíu mày: – Tam thẩm, nói câu này không phải dọa thẩm đâu nhé, thẩm bị sơn trà hại rồi, giờ bệnh đã thành, bệnh này mà không chữa sớm sẽ càng ngày càng tệ, để muộn là hết cách đấy.
Triệu Tam Nương không phật ý, là người từng trải rồi, cũng hiểu sự đời: – Thôi, đừng dọa thẩm nữa, trình độ cha cậu chừng đó, cậu có giỏi hơn cũng được là bao? Có điều cậu nhìn ra bệnh của thẩm, xưa nay là đứa thật thà, vậy thẩm tin cậu một lần, nói đi, chữa bệnh này tốn kém thế nào?
Tả Thiếu Dương nào biết bao nhiêu mà tính, Tả Quý nói vào: – Theo thông lệ Quý Chi Đường mà tính, khám bệnh kê đơn hai đồng, còn thuốc theo giá thực mà tính, tóm lại hết bao nhiêu tính bấy nhiêu.
– Vậy nếu cháu chữa miễn phí, tam thẩm hoãn cho nhà cháu trả tiền phòng mấy ngày được không? Tả Thiếu Dương nói thêm:
– Coi như cậu có lương tâm, không lợi dụng bệnh tật ép người ta. Triệu Tam Nương vẫn vừa nhai sơn trà vừa nói rất cương quyết: – Tam thẩm đây không phải là người chiếm lợi của kẻ khác, Tả Đại Lang, cậu chữa khỏi cho ta, ta trả cho cậu thêm mấy chục đồng cũng được. Có điều tiền thuê nhà không trì hoãn được nữa, nhà cậu đã nợ mấy năm rồi, cậu không trị bệnh cho ta cũng được, đau dạ dày này chẳng thể chết ngay, ta không tin không chữa nổi. Nhưng không thu được tiền nhà, mấy mẹ con ta chết đói hết. Vẫn câu nói đó, tối nay không trả tiền không được, không thương lượng.
Vừa có chút hi vọng le lói bị dập tắt, cả nhà họ Tả trầm xuống, Tả Thiếu Dương cố nói: – Tam thẩm, mấy ngày cũng không được sao?
– Không được!… Hả? Mấy ngày cậu có thể kiếm được 9.000 à?
Tả Thiếu Dương chẳng có suy tính gì, cơ mà lúc này không thể trả lời khác, tay vô tình sơ lên ngực tự tin gật đầu: – Được! Nhất định được.
Chương 6: Tả lang trung xem bệnh
Lương thị và Hồi Hương kinh ngạc nhìn Tả Thiếu Dương, không biết y dựa vào cái gì mà khẳng định chắc chắn như thế, Tả Quý thì nghĩ đây là kế hoãn binh, dù sao có vài ngày trì hoãn tính kế cũng hơn là bị đuổi đi trong đêm.
Triệu Tam Nương nhìn Tả Thiếu Dương từ trên xuống dưới một lượt: – Cậu thực sự gom được tiền à?
– Biện pháp không phải do người nghĩ ra sao, nếu như không có gì bất ngờ thì hẳn là được, có điều tam thẩm cho thêm vài ngày, dù sao 9.000 không phải là con số nhỏ.
– Không được, thời gian quá lâu không được.
– Tam thẩm, cháu cầu xin thẩm được không? Qua cuộc nói chuyện nãy giờ Tả Thiếu Dương nhìn ra Triệu Tam Nương mồm miệng ngoa ngoắt sắt đá nhưng lòng dạ lại mềm nhũn, nên mặt dầy van nài:
Triệu Tam Nương lườm y một cái, thở dài: – Thôi được…! Tam thẩm sợ cậu rồi đấy, tin cậu một lần, là lần cuối cùng đấy. Thế này đi, trưa 30 Tết ta tới thu tiền, các người nghe cho rõ, đúng 30 Tết, ta cũng không muốn hai nhà trở mặt với nhau, các người chừng không có tiền thì tự đi, thuốc men để lại. Thế nào?
– Không thành vấn đề. Tả Thiếu Dương sờ xạ hương trong lòng, hơi vững lòng đáp:
Triệu Tam Nương nhìn phu thê Tả Quý, hai người họ chỉ có thể gật đầu, chuyện tới nước này còn cách nào khác đâu.
– Được rồi, cứ quyết định như vậy. Triệu Tam Nương đi tới bên bàn dài ngồi xuống, đưa tay ra: – Được, xem bệnh cho ta đi.
Tả Thiếu Dương đang định đi tới xem bệnh cho Triệu Tam Nương thì Tả Quý đã vén trường bào ngồi xuống, định thần, đưa ba ngón tay gầy khô như củ ra đặt lên cổ tay Triệu Tam Nương, lát sau nhíu mày: – Mời đổi tay khác.
Nhìn Lương thị và Hồi Hương thấp thỏm là Tả Thiếu Dương hiểu, có lẽ bọn họ chỉ nghĩ vừa rồi thấy cả nhà sắp bị đuổi ra đường, nên y cấp sinh trí, kiếm bừa cớ mà thôi, coi bệnh bốc thuốc thì đương nhiên chưa đủ tư cách. Tả Thiếu Dương hiểu nghề y thời xưa nghiêm khắc vô cùng, nếu chưa học thành tài thì không được phép xem bệnh tùy tiện, đương nhiên đám lang băm không kể.
Triệu Tam Nương đổi hũ sơn trà sang tay kia, đặt lên bàn. Tả Quý cũng đổi tay bắt mạch, chốc lát sau thu tay lại, cầm bút nghĩ một lúc, bắt đầu kê đơn, vị đầu tiên là quế chi.
Có người từng hỏi ông ta vì sao kê đơn luôn vị đầu tiên là quế chi? Tả Quý cười mà không đáp, người thân thiết lắm mới biết sư phụ ông, cũng chính là cha ông dạy thế, nói là dùng quế nhiều cái lợi, rốt cuộc là lợi thế nào thì Tả Quý cũng nhận là không biết hết, dù sao chỉ cần biết có lợi là được, lâu dần thành thói quen.
Thực sự là vậy, trong 112 đơn thuốc của ( Thương hàn luận) có tới 42 đơn là dùng quế, chiếm tới hơn 1/3, quế chi có thể thông dương, điều khí, giảm ứ bổ trung, thông kinh mạch, tán phong hàn, là vị thuốc quan trọng hàng đầu để trị cảm.
Trong trăm thứ bệnh gấp, không cái nào bằng thương hàn, cổ kim trung ngoại đều thế cả, dù người khỏe mạnh đến đâu cũng có ít nhiều mầm bệnh cảm như sốt, ho. Người đi khám bệnh bị nhiều nhất luôn là cảm mạo phong hàn, dẫn tới bệnh khác. Cho nên cha Tả Quý để lại phương thuốc dùng quế chi, cho dù không nói ra được toàn bộ lợi ích của nó, nhưng phân tích kỹ càng thì rất có lý, đây cũng là một loại phản ánh y học theo chủ nghĩa kinh nghiệm của dân gian xưa.
Tả Quý kê đơn xong đưa cho Tả Thiếu Dương: – Theo đó mà bốc thuốc.
Triệu Tam Nương hỏi: – Ta bị bệnh gì thế?
– Hèm… Tả Quý trầm ngâm chốc lát nói: – Đau dạ dày, ợ chua, không muốn ăn, buồn nôn, đây là chứng ăn khó tiêu.
– Nhưng ông còn chưa xem lưỡi mà, cũng không hỏi ta đau bệnh thế nào đã kê đơn rồi. Triệu Tam Nương tỏ ra thiếu tin tưởng, nàng cũng có thể coi là bệnh lâu thành y, hiểu biết đôi chút:
May mà trời tối không ai thấy rõ cái mặt già của Tả Quý đỏ lên, vừa rồi chuyện tiền thuê nhà làm lòng ông ta loạn cực độ, nên vừa rồi khám bệnh quên không xem kỹ, có điều trước mặt người bệnh không thể thừa nhận, càng không thể khám lại nếu không mất lòng tin của người ta, lắc đầu tỉnh bơ đáp: – Bệnh của cô không có gì đáng ngại, đến Trung Nhi còn nhìn ra được nữa là, lão phu chỉ cần xem qua là đoán định được rồi.
Triệu Tam Nương vẫn nửa tin nửa ngờ: – Thật không?
– Yên tâm đi, uống thuốc của lão phu, nhất định trúng bệnh, chẳng phải cô thích ăn sơn trà sao?
– Đúng thế, ta thích nhất là sơn trà đấy, buồn mồm là ăn, nghe người ta bảo thứ này chữa đầy bụng, tôi thường chán ăn, ăn sơn trà vào mới ăn được cơm.
Tả Quý vuốt râu ung dung phán: – Vậy thì đúng rồi, trong đơn thuốc này vị thứ hai là sơn trà, là vị điều hòa, chắc chắn cô thích uống.
– Vậy tốt quá, bốc thuốc đi, ta còn về ăn cơm.
– Bệnh phải này phải điều dưỡng từ từ, uống thuốc một thời gian mới thấy hiệu quả.
Triệu Tam Nương trí nhớ rất tốt không dễ qua mặt: – Được, bốc mười mấy thang luôn đi, ta cũng lười chạy đi chạy lại. Vả lại, tới 30 nhà ông không không trả nổi tiền thì ta cũng đỡ phải tìm người khác bốc thuốc, phiền toái. Để Tả gia ông kiếm thêm chút tiền, bốc một lần nhiều thuốc chút cũng tốt.
Trong lúc bọn họ nói chuyện thì Tả Thiếu Dương cầm đơn đi bốc thuốc, cười méo miệng, giờ thì y đã hiểu vì sao cái hiệu thuốc này làm ăn kém như vậy, cho dù chưa khám cho Triệu Tam Nương thì Tả Thiếu Dương khẳng định được nguồn gây bệnh chính là do thích ăn sơn trà linh tinh, hại dạ dày, bất kể cuối cùng xem bệnh thế nào, trước tiên phải điều dưỡng dạ dày rồi hẵng tính, nhưng cha y kê đơn lại dùng sơn trà, chẳng phải làm bệnh tình càng trầm trọng thêm sao, nói rõ cha y chẳng biết bệnh nhân bị bệnh gì.
Tả Thiếu Dương chẳng thể nói đơn thuốc này chẳng những không đúng, lại còn làm bệnh nặng thêm, như thế cha y sẽ mất hết thể diện, cái chiêu bài Quý Chi Đường này cũng xong luôn.
Tả Quý thấy Tả Thiếu Dương cứ lần khân ở đó thì quát: – Sao còn chưa đi bốc thuốc?
– Dạ. Tả Thiếu Dương cầm đơn đi về phía quầy:
Giọng Tả Quý lại cao lên: – Không cầm đèn theo thì lấy thuốc thế nào, hồn vía để đâu vậy?
Tả Thiếu Dương quay lại lấy cái đèn dầu, suy nghĩ một lúc vẫn quyết định bốc thuốc theo đơn của mình, dù sao thì đơn thuốc cũng không đưa cho người bệnh, Triệu Tam Nương cũng chẳng biết rốt cuộc Tả Quý kê đơn gì.
Bốc thuốc xong, gói cẩn thận đưa cho Triệu Tam Nương, Triệu Tam Nương hỏi: – Bao nhiêu tiền?
Tả Thiếu Dương nhìn Tả Quý, bị Tả Quý từng mắt lên: – Vừa rồi không tính à?
– Con tính? Ở phòng bệnh trước kia Tả Thiếu Dương làm việc, nơi thu phí và phòng thuốc là tách bạch, Tả Thiếu Dương chỉ lo bốc thuốc, không để ý tới tính tiến nên không có thói quen này.
– Thừa lời! Không phải ngươi tính thì vi phụ tính thay cho hay sao? Tả Quý nóng máu rồi:
– Dạ. Tả Thiếu Dương lại quay về quầy, cầm đơn thuốc lên, thuốc không ghi giá, tính toán thế nào bây giờ?
Hồi Hương thấy đệ đệ lúng ta lúng túng thì đi tới hỏi nhỏ: – Làm sao vậy?
– Đệ không biết giá. Tả Thiếu Dương nhỏ giọng đáp lại:
Hồi Hương cho rằng chứng mất trí của đệ đệ chưa khôi phục hoàn toàn, lo lắm, quay đầu nhìn Tả Quý, thấy Tả Quý cũng đang nhìn bọn họ, nói nhỏ hơn không để cha mình nghe thấy: – Giá thuốc viết ở trên quầy, sổ sách ở trong ngăn kéo cũng có.
Tả Thiếu Dương cầm đèn soi, quả nhiên mỗi ngăn kéo đều có dán nhãn nhỏ ghi giá, thế này không thể tính theo đơn của mình rồi, nếu không cha mình biết ngay là không phải đơn thuốc của ông ấy. Cầm lấy đơn của Tả Quý lên, đọc được hai vị thuốc liền mắc kẹt, có một vị không biết là cái gì, phải biết rằng Trung y có vài vạn loại, bình thường nhớ được mấy trăm thứ là giỏi rồi, chẳng ai nhớ hết được. Y cầm đơn hoang mang nhìn lên nhìn xuống tủ thuốc tìm kiếm, nhưng trăm cái ngăn kéo thuốc lớn nhỏ thế kia tìm sao được ngay.
Chương 7: Bệnh do sơn trà
– Lại làm sao thế? Tả Quý ngồi phía kia thấy nhi tử loay hoa loay hay thì lớn tiếng hỏi:
– Không… Không có gì ạ. Tả Thiếu Dương cuống quít, nên tìm kiếm càng chậm:
Hồi Hương cũng nóng ruột hỏi: – Sao vậy?
Tả Thiếu Dương mới đưa đơn thuốc cho Hồi Hương, chỉ: – Tỷ tỷ, “kỳ cô” ở đâu?
Hồi Hương chỉ: – Kia kìa.
Tả Thiếu Dương nhìn theo, đúng là hai chữ “kỳ cô”, rút ngăn kéo ra, không ngờ lại là “hòa cô”.
Trung dược thời xưa gọi tên hỗn loạn, một loại thuốc có mấy chục cách gọi khác nhau là bình thường, đó là do giao lưu thông tin bị hạn chế, không thể quy chuẩn thống nhất với nhau được.
Tìm được hết giá rồi, Tả Thiếu Dương lấy bút lông tính tiền, nhưng bút đặt trên nghiên mực đã đông cứng, không viết được nữa.
Tả Quý nhìn thấy rất không hài lòng: – Lấy bút làm cái gì?
– Tính tiền ạ.
– Tính tiền mà dùng bút? Dùng bút thì tính thế nào? Tả Quý mất kiên nhẫn:
Người thời Đường tính toán cộng trừ nhân chia dựa vào thẻ tính, tức là dùng những cái que nhỏ xếp thành các hình số quy định, dựa theo quy tắc tính, người hay tính toán lúc nào cũng mang theo một cái túi đựng que để tính toán. Bàn tính mặc dù phát minh từ thời Đông Hán, nhưng phương pháp tính toán này tới thời Đường còn chưa hoàn thiện, vả lại mang theo một cái bàn tính lớn thì bất tiện, nên thời Đường chưa phổ cập.
Hồi Hương chạy tới cứu nguy: – Để tỷ tính cho.
– Không sao, đệ tính được mà. Tả Thiếu Dương cầm bút lên tính, Hồi Hương sợ đệ đệ tính sai bị cha mắng, cũng lấy thẻ tính ra xếp trên bàn, nhưng nàng còn chưa xếp xong thì Tả Thiếu Dương nói: – Tổng cổng là 96 đồng.
Mọi người tất nhiên không tin kết quả tính toán bằng bút của Tả Thiếu Dương, cho nên lờ y đi, đợi Hồi Hương tính toán, một lúc sau hồi hương mới kinh ngạc thốt lên: – Đúng 96 đồng.
Mọi người đều ngớ người, mấy loại thuốc khác nhau, cân nặng khác nhau, đơn giá khác nhau, không thể nhẩm tính mà phải dùng thẻ tính, không ngờ Tả Thiếu Dương dùng bút mà tính được kết quả phức tạp như vậy.
– Đại lang giỏi tính toàn thế này không lo thiếu cơm ăn rồi, có thể đi làm trướng phòng cho người ta làm tốt có thể lên tới quản sự, không phải tệ đâu. Triệu Tam Nương đứng dậy, nàng không tin Tả Quý có thể truyền lại cho nhi tử được y thuật xuất sắc gì, bám vào nghề này có mà chết đói, có điều chuyện này chỉ thuận mồm nói một câu thế thôi: – Được rồi, ta về đây, muộn lắm rồi, không ngồi nữa đâu.
Tả Thiếu Dương nhiệt tình xách túi thuốc, cười nói: – Tam thẩm, thuốc hơi nhiều, để cháu mang giúp tam thẩm về nhà.
– Được, Tả đại lang lúc nào cũng chu đáo, hiểu chuyện tam thẩm thích, ngoan, tới nhà tam thẩm lấy sơn trà cho ăn. Triệu Tam Nương híp mắt nhìn Tả Thiếu Dương:
– Cám ơn Tam thẩm. Tả Thiếu Dương bị nàng coi như trẻ còn thì không tự nhiên, y hai mấy tuổi đầu rồi, gọi nàng là tam thẩm theo phép tắc thôi chứ Triệu Tam Nương chỉ đáng gọi bằng tỷ, nếu gặp ở quán bar lả lơi gọi một tiếng em gái cũng thùa sức, cơ mà nói không phải khoe, y cũng chưa đi bar bao giờ. Ngập ngừng nhìn Tả Quý, y biết cha mình khó tính: – À, con đem thuốc tới nhà cho tam thẩm.
Tả Quý không phản đối: – Đi nhanh về nhanh, mọi người đợi cơm đấy.
– Dạ.
Tả Thiếu Dương xách thuốc theo Triệu Tam Nương ra ngoài, Hồi Hương không yên lòng đuổi theo: – Để tỷ đi cho, đệ chưa khỏe, nên nghỉ ngơi.
– Đệ không sao đâu mà, tỷ, tỷ về làm cơm đi, đệ đói bụng lắm rồi, à phải, trời lạnh thế này làm cái gì đó uống rượu là tuyệt nhất.
– Nhắm rượu. Hồi Hương thương hại nhìn đệ đệ: – Nhà sắp chẳng còn cái gì cho vào miệng rồi, đâu ra rượu?
Tả Thiếu Dương áy náy lắm, gãi đầu đầu nói: – À, vậy thôi, đệ đi. Tửu lượng của y không tốt, cơ mà cái miệng thì hay thèm rượu.
Ra tới ngoài cửa thì trời đã tối hẳn, có điều chưa tới giờ gõ trống canh, triều Đường thực hành lệnh giới nghiêm ban đêm, tức là bắt đầu vào canh thứ hai buổi tối, tương đương với 9 giờ. Người xưa không có hoạt động gì vào buổi tối, gần như sinh hoạt theo mặt trời, mặt trời lặn ăn cơm, đi ngủ, mặt trời lên thức dậy làm việc. Lúc này người trên phố ít lắm rồi, tuyết chất thành đống hai bên đường lát đá, dưới ánh đèn phản xạ ánh sáng trắng bạc lờ mờ nên dù không có đèn đường cao áp, dựa vào ít đống lửa bập bùng đốt ngoài phố hay từ căn nhà nào đó hắt đèn ra cũng đủ nhìn thấy đường.
Trời lạnh, rất lạnh, Tả Thiếu Dương không chịu nổi, gió cứ như bọn yêu ma quỷ quái khôn ranh, nhè chỗ hở mà vào, luồn qua cổ áo, ống tay áo, thứ vải cát làm bằng dây sắn dầy thì dầy đấy, nhưng chỉ tổ nặng thôi, chẳng giữ ấm được gì cả, gió đua nhau cắt vào thân hình có phần mảnh khảnh của y.
Triệu Tam Nương thì mặc áo kép tơ tằm, hai tay cho vào trong ống tay áo, nhìn dáng đi ung dung thế kia là đủ biết gió lạnh không xâm nhập nổi, vừa đi vừa luôn mồm quở trách phu thê Tả Quý, nói Lương thị chất phác, Tả Quý cổ hủ làm cao, bảo Tả Thiếu Dương sau này cơ trí một chút mới sống được, thời buổi khó khăn này người hiền lành quá chỉ có chết thôi, đừng ôm cái nghề không có tương lai của cha y, hoàn toàn không nói tới chuyện tiền thuê nhà, có vẻ cho rằng đây là cách cách trì hoãn của Tả Thiếu Dương.
Nhà Triệu Tam Nương không ở khu này, mà cách đó hai con phố.
Trên đường đi Tả Thiếu Dương cố gắng nói những điều lấy lòng dễ nghe, dù y cũng phải là người khéo nói lời ngon ngọt, song chính bởi lời có phần ngượng ngịu đó lại khiến Triệu Tam Nương vui vẻ.
Đi tới trước ngôi nhà gạch ngói tường bao, trời tối nhìn không rõ, trước cánh cổng treo cái đèn l*иg nhỏ màu trắng, phần còn lại chìm trong bóng tối, nhưng sơ qua quy mô đã đủ ăn đứt nhà Tả Thiếu Dương.
=Triệu Tam Nương bước lên thềm đá, gõ vòng cửa vài cái, nói với Tả Thiếu Dương: – Tả Đại Lang, đừng trách tam thẩm, thực lòng ta đâu nỡ đuổi nhà cậu đi. Thật đấy, cha mẹ cậu đều là người thành thật, trong lòng ta biết, cho nên dù nhà cậu nợ tiền nhiều năm ta cũng đâu ép uổng gì, nhưng bây giờ thực khó sống quá rồi, ta phải ăn cơm chứ, đâu thể chịu khổ cùng nhà cậu được! Mà xem cha cậu đó, ông ấy hầm hầm hừ hừ, ta cũng đau lòng lắm, trước kia ta giúp nhà cậu nhiều như vậy mà ông ấy coi ta như đám thương nhân bất nghĩa chỉ biết tới tiền vậy, ta là nữ nhân, nếu không phải không còn cách nào cũng chả muốn ra ngoài làm mấy việc này… Thôi thôi, đó là bệnh chung của người có học rồi, nếu ông ấy biết nói vài câu có lương tâm như cậu thì ta cho thêm vài ngày, ài đại lang, sau này đừng giống tính ông ấy mà khổ.
– Cái đó cháu biết, tam thẩm gia hạn cho nhà cháu nhiều rồi, lần này dù đập nồi bán sát cũng phải trả hết tiền cho thẩm. Tả Thiếu Dương cam đoan, y có bảo bối trong tay nên không sợ.
Triệu Tam Nương nghe y nói khảng khái như vậy có đôi phần ngạc nhiên: – Được, thẩm thẩm tin cậu, đúng ba mươi đợi tin tức tốt lành.
Lúc này cửa lớn mở ra, một ông già lom khom đi tới vái Triệu Tam Nương: – Nãi nãi đã về. Rồi đứng qua một bên nhường đường, có vẻ là lão bộc trong nhà.
Triệu Tam Nương “ừm” một tiếng, mắng: – Còn không nhận lấy thuốc trong tay Tả thiếu gia, không có mắt à?
Tả Thiếu Dương vội vàng đi tới, hai tay cẩn thận đưa thuốc của ông già, chi tiết nhỏ này làm Triệu Tam Nương khẽ gật đầu.
Ngần ngừ một chút, Tả Thiếu Dương quyết định nói: – Thực ra tam thẩm, bệnh đau dạ dày của thẩm là do sơn trà hại đấy.
Chương 8: Huệ dân đường
– Hả? Sơn trà? Triệu Tam Nương dừng bước:
– Đúng, sơn trà có tác dụng chữa đầy bụng khó tiêu, đặc biệt giảm tích mỡ, nói cách khác nó chuyên tiêu hóa vật ứ tích do thức ăn tạo ra. Nếu như sau bữa cơm no, đặc biệt là ăn nhiều cá thịt, ăn ít sơn trà có lợi tiêu hóa, nhưng nếu lấy sơn trà làm đồ ăn vặt thì phiền rồi.
– Phiền thế nào?
– Thẩm nghĩ mà xem, lúc đó bụng chúng ta rỗng không, sơn trà vào bụng không có thứ gì cho nó tiêu hóa, vậy nó tiêu hóa cái gì?
– Cái gì? Tả Thiếu Dương giảng giải dễ hiểu như thế Triệu Tam Nương hiểu ra rồi, nhưng sợ không dám nghĩ tới hậu quả:
– Nó sẽ tiêu hóa thịt. Tả Thiếu Dương không cố tình làm nghiêm trọng, nhưng nói tới thuốc men là y nghiêm túc hẳn: – Cho nên tam thẩm quanh năm suốt tháng lấy nó làm đồ ăn vặt, dạ dày bị sơn trà làm hỏng rồi, trong y học gọi đây là chứng loét dạ dày. Hình dung đơn giản giống như chúng ta bị loét miệng vậy. Nên thẩm đau rát dạ dày, ợ chua buồn nôn là hậu quả của ăn sơn trà mà ra.
– Loét dạ dày? Triệu Tam Nương hãi hùng: – Cậu đừng dọa thẩm thẩm.
– Thẩm thẩm, không phải dọa đâu, bệnh hiện mới ở giai đoạn đầu thôi, có điều vì ở trong bụng khó trị, nên chẳng bao lâu dạ dày không dùng được nữa, lúc đó thì hết cứu rồi.
Triệu Tam Nương mặt biến đổi không ngừng, mắt hơi nheo lại nhìn Tả Thiếu Dương, nhưng thần thái ngữ điệu của y không có vẻ gì là lừa dối, nghĩ kỹ chính bản thân thấy có lý: – Vậy thẩm phải làm sao?
– Đơn giản lắm, thẩm thẩm muốn trị dứt bệnh, trước tiên bỏ ngay thói quen dùng sơn trà làm đồ ăn vặt, ít nhất trước khi bệnh khỏi không được ăn nữa, khỏi rồi cũng không được ăn tùy tiện, nhất là khi bụng rỗng. Đó chỉ là cách làm bệnh không trầm trọng thêm, còn muốn khỏi bệnh phải dùng thuốc mà cha cháu kê.
Triệu Tam Nương luyến tiếc nhìn hũ sơn trà, cắn răng rào một cái hất hết vào góc tường: – Được, thẩm tử tin cậu, đảm bảo trong thời gian trị bệnh không ăn sơn trà nữa.
– Cũng không cần thiết tới mức sợ nghẹn mà không ăn như thế, chỉ cần không coi nó là đồ ăn vặt là được. Tả Thiếu Dương nhìn thân hình có phần phốp pháp nảy nở của Triệu Tam Thẩm, dặn lại lần nữa: – Ăn nhiều cá thịt có thể ăn vài lát cho dễ tiêu.
– Thẩm nhớ rồi, mà đúng, trong đơn thuốc cha cậu kê có sơn trà, vậy là sao?
Lúc nãy tráo thuốc là Tả Thiếu Dương đã nghĩ sẵn câu trả lời: – Sơn trà này là thuốc dẫn, lượng rất nhỏ, lại nghiền thành bột rồi, không sao cả. Sở dĩ phải nói thế là sợ Triệu Tam Nương chuyên gia ăn sơn trà phát hiện ra không có sơn trà trong đó, nghi ngờ chạy đi hỏi cha y thì lộ hết.
– Thẩm hiểu rồi, Tả Đại Lang, cậu mau về nhanh ăn cơm đi, bên ngoài lạnh lắm.
Tả Thiếu Dương ghét cái cách xưng hô này vô kể, gọi một tiếng Tả thiếu gia, Tả công tử có phải dễ nghe không, cũng biết chừng nào còn ở triều Đường còn phải nghe cái cách xưng hô xúi quẩy này, thôi thì chuyện khó chấp nhận hơn đã chấp nhận rồi, nề hà gì cách xưng hô.
– Tam thẩm, còn chuyện nữa, gần đây có hiệu thuốc lớn nào không?
Triệu Tam Nương bước ra đường chỉ: – Có đấy, rẽ phải lối này là “Huệ Dân Đường”, cửa hiệu của bọn họ lớn nhất Hợp Châu! Nhà cậu cũng mở hiệu thuốc, còn tìm họ làm gì?
Tả Thiếu Dương cười vẫy tay: – Không có gì, cháu đi đây, tam thẩm, hẹn gặp lại.
Tả Thiếu Dương đi về phía nhà mình, đến khi nghe thấy tiếng cửa nhà Triệu Tam Nương đóng lại mới xoay người vừa chà tay vừa suýt xoa đi về phía nàng chỉ.
Rẽ qua đầu phố liền thấy ngay bên kia đường hai cái đèn l*иg lớn sáng choang, cho dù sắp tới giờ gõ trống canh rồi, nhưng vẫn người ra người vào, đa phần mang vẻ bệnh tật, chưa nhìn rõ biển, nhưng Tả Thiếu Dương đã biết đây là chỗ Triệu Tam Nương nói rồi.
Tả Thiếu đi nhanh về phía căn nhà sáng đèn cao ba tầng đó, nhà năm gian, cổng chính treo một tấm biển gỗ đàn rìa khắc hoa, sơn đen, chữ vàng, mặc dù là buổi tối, nhờ ánh đèn càng sáng rực bắt mắt, chính là “Huệ Dân Đường”.
Đại môn có sáu cánh cửa mở rộng, đằng sau treo rèm dầy đỏ chót, có điều ở cửa không có hỏa kế chào mời khách, đây là quy của của người mở hiệu thuốc, không được chào khách ở cửa, càng không được phép la lối lớn tiếng.
Tả Thiếu Dương thấy tấm rèm rất dày, đưa tay sờ thử, mềm mại hết sức, là tơ, thứ này đắt lắm, người thường chẳng dùng nổi vậy mà họ lấy dùng làm rèm cửa, chỉ từ cái này đã nhìn ra Huệ Dân Đường gia nghiệp lớn hơn Quý Chi Đường nhà y tới trăm lần.
Mặc dù đã nắm được ít thông tin về thời Đường, có cách ứng phó với hoàn cảnh xa lạ, Tả Thiếu Dương vẫn có chút căng thẳng, sờ sờ ngực một cái, hít sâu lấy dũng khí, vén rèm bước vào, tức thì hơi ấm ập tới như gió mùa xuân, bên trong đại sảnh có đặt mấy chậu than lớn, đang chiếu ánh lửa đỏ rực mê người, chiếu mặt y đỏ rực. Đằng sau mấy cái bàn gỗ đàn là mấy lão lang trung râu trắng đang chẩn bệnh, có người còn đặt trên bàn cái lò đầu giữ ấm tay.
Hai bên đại sảnh kê bốn hàng ghế dài, phải gần hai mươi người đang chờ khám bệnh, cảnh tượng này không khác gì bệnh viện nổi tiếng thời hiện đại, không nghĩ thời Đường cũng có cảnh xếp hàng khám bệnh, có thể thấy người ta mê tín vào chuyên gia có tiếng là không phân triều đại.
Tả Thiếu Dương đang không biết bắt chuyện với ai thì một hóa kế đi tới: – Xin hỏi ngài tới xem bệnh hay… Ấy, không phải Tả thiếu gia của Quý Chi Đường sao?
Không ngờ người này nhận ra bản thiếu gia, đấy gọi Tả thiếu gia có phải vừa tai không, Tả Thiếu Dương ưỡn ngực lên giọng đại thiếu gia: – Đúng, đi ngang qua tạt vào nhìn một cái, không hoan nghênh à?
– Nào dám ạ, mời còn không được ấy chứ. Hóa kế này rất khéo ăn nói: – Ngài tới xem bệnh… Phì phì, tiểu nhân nói sai rồi, Tả lang trung là danh y của Hợp Châu, thiếu gia sao cần tới đây xem bệnh. Hì hì, không biết Tả thiếu gia tới có việc gì?
– Ta tìm chưởng quầy. Muộn rồi Tả Thiếu Dương không vòng vo với hắn:
– Đại chưởng quầy đang ở trong hoa sảnh khám bệnh cho khách quý, Nhị chưởng quầy đang ngồi ở quầy, mời thiếu gia. Hỏa kế đưa tay mời:
Huệ Dân Đường này có hai chưởng quầy, Đại chưởng quầy là danh y Nghê đại phu, Nhị chưởng quầy là đệ đệ ông ta, phụ trách chăm lo làm ăn của hiệu thuốc. Tả Thiếu Dương bước vào trong, người bệnh và hòa kế khác không có mấy ai chú ý tới y, hiển nhiên chỉ người trong nghề mới biết cha y mở hiệu thuốc.
Nhị chưởng quầy tuổi chắc khoảng chừng tuổi Tả Quý có điều trông hồng hào có da có thịt hơn nhiều, mặc áo lụa cao cấp, ông ta nhướng mắt nhìn Tả Thiếu Dương đi tới, lại cúi đầu tiếp tục xem sổ sách, giọng kéo dài lạnh nhạt hòi: – Là thiếu gia Quý Chi Đường à, tới đây có chuyện gì?
Không được tỏ ra kém khí thế, như thế mới không bị ép giá, kinh nghiệm thời sinh viên đi cầm đồ bảo Tả Thiếu Dương như vậy, ung dung lấy xạ hương đặt lên bàn, hất hàm nói: – Ta muốn bán thứ này, hiệu ông mua không?
Nhị chưởng quầy “ồ” một tiếng, khóe mắt đưa một cái, giọng càng nhạt hơn nước lã: – Tả thiếu gia tới hiệu chúng tơi chơi đùa đấy à?
Tả Thiếu Dương thầm nhủ lão già này bản lĩnh ép giá quá cao đi, diễn như thật ấy: – Không đùa, đùa làm gì, ta muốn bán thật.
Nhị chưởng quầy lúc này mới ngồi thẳng dậy: – Tả thiếu gia thiếu tiền tiêu vặt nên lấy trộm của hiệu thuốc trong nhà ra hả?
– Ông nói thế là ý gì? Tả Thiếu Dương nói dối không chớp mắt: – Cho ông biết, thiếu gia ta lên núi hái thuốc săn được đấy.
Nhị chưởng quầy cũng ngớ người trông Tả Thiếu Dương cũng không giống đùa, nhìn hỏa kế, hỏa kế lắc lắc đầu, ý nói không biết gì, ông ta: – Lão phu nói thế này nhé, Tả thiếu gia có muốn chút tiền tiêu cũng nên lấy nhân sâm gì đó mà đem bán chứ, có điều thứ đó trông tuy giống củ cải, nhưng quý đường chắc không có nổi đâu.
Chương 9: Kiếm tiền không phải dễ
Tả Thiếu Dương nghe ra ý mỉa mai trong đó, có hơi nghi hoặc: – Nói vào chuyện chính đi, rốt cuộc có mua không?
– Mua chứ, mở hiệu thuốc thì tất nhiên mua thuốc, dù đắt hay rẻ, chỉ cần thuốc là mua. Nhị chưởng quầy đủng đỉnh nói: – Thứ này Tả thiếu gia định bán bao nhiêu?
– Ông ra giá đi.
Nhị chưởng quầy hơi nhếch mép cười, mang vài phần chế nhạo, đặt bút lên giá, xòe mười ngón tay ra: – Bằng này.
– 10 lượng bạc? Tả Thiếu Dương lúc nãy tính tiền dược liệu cho Triệu Tam Nương thầm so với giá cả vị thuốc tương ứng thời hiện đại, hiện giờ nắm được phần nào vật giá thời này, 10 lượng bạc tính qua có thể tương đương với 50.000 NDT, mà xạ hương hoang dã đáng giá 100.000 NDT, tức là phải được 20 lượng. Đương nhiên chỉ là ước chừng vì giá cả phụ thuộc vào nhiều yếu tố nữa, tạm thời chấp nhận vậy đã, giải quyết mối lo tiền thuê nhà rồi tính sau.
Nghĩ như vậy Tả Thiếu Dương vờ vịt thở dài: – Các người cũng quá bất nhân rồi, xạ hương tốt thế này mà mua 10 lượng, thôi 10 lượng thì 10 lượng, đưa tiền đây. Xòe tay ra hướng về phía trước, lòng nghĩ tới thiếu nữ lấy củi có khuôn mặt ngăm đen với hàm răng trắng kia, ân tình này ghi nhớ rồi, khi nào có cơ hội sẽ báo đáp đầy đủ.
Nhị chưởng quầy ngớ ra một lúc rồi phì cười: – Tả thiếu gia, cậu chưa tỉnh ngủ à? Ở đâu ra xạ hương giá 10 lượng?
– Vậy thì bao nhiêu, chẳng lẽ định mua 1.000 đồng, các người ép giá khϊếp quá đấy. Tả Thiếu Dương hết sức bất mãn:
– Hừ, cái gì mà 1.000 đồng, nghèo tới điên rồi à? Là 10 đồng. Nhị chưởng quầy không giữ được bình tĩnh cười nhạo nữa: – Là mười đồng, mười đồng tiền ấy.
– Sao? Tả Thiếu Dương đứng bật dậy, giọng hơi lớn làm không ít người bệnh nhìn y, vội áp giọng xuống: – 10 đồng? Ông có nhầm không? Đây là xạ hương, xạ hương hoang dã chính tông đấy.
Nhị chưởng quầy nhìn y với vẻ hết sức ngán ngẩm không biết nói gì: – Cậu đùa vui quá đấy, xạ hương không phải hoang dã thì đâu ra, trừ khu săn bắn của hoàng gia chứ thiên hạ làm gì có ai đi nuôi xạ hương.
– Đã biết thế mà ông còn trả 10 đồng, ông không thấy thẹn với lòng à? Tả Thiếu Dương đỏ mặt tía tai nói:
Nhị chưởng quầy lắc đầu thương hại, rời ghế rút một cái ngăn kéo ra, nắm một nắm đặt lên bàn: – Đây, xạ hương đây, Tả thiếu gia nếu trả 12 đồng một cái thì lão phu bán hết cho cậu.
Tả Thiếu Dương choáng váng, cầm lên xem, đúng là xạ hương, nhìn kỹ, thật sự là xạ hương chính tông, mấy cái khác đều thế, lắp ba lắp bắp: – Thực sự.. chỉ… có có 10 đồng thôi à?
– Phải, nếu Tả thiếu gia cần, 11 đồng lão phu cũng bán, chúng tôi bán buôn đấy, nói thực nhé, hiệu này nhập xạ hương với giá 9 đồng, tính ra là giá cao nhất toàn Hợp Châu này rồi. Hôm nay nếu không phải Tả thiếu gia đích thân tới nơi thì lão phu không trả giá 10 đồng đâu, nếu là người khác, dứt khoát 9 đồng, không hơn không kém.
Tả Thiếu Dương gian nan ngồi xuống, không ngờ xạ hương ở triều Đường có giá rẻ mạt thế này, chả trách cô nương ấy chỉ lấy đúng chín đồng không hơn.
Thoáng nghĩ một chút là Tả Thiếu Dương hiểu ngay được mình nhầm lẫn ở đâu rồi, thời này người thưa, rừng nhiều, đương nhiên không lo vấn đề bảo tồn động vật hoang dã, nhân loại tác động tới tự nhiên rất ít, cô nương lấy củi kia cũng bắt được xạ, chứng tỏ nó là động vật thường thấy, có lẽ chẳng khác gì chồn thỏ, cho nên giá cả lại chênh lệch tới mức này.
Bởi vì Tả Thiếu Dương không biết rằng, ngoại trừ những loại động vật hoang dã nhiều ra, đầu thời Đường, vật tư sinh hoạt cực kỳ thiếu thốn, trừ giá gạo ra thì cái gì cũng rẻ mạt, xạ hương bán được 10 đồng là cao rồi.
Chênh lệnh quá lớn so với tưởng tượng, Tả Thiếu Dương chẳng còn hứng thú nào nữa, nhớ lại khi đó mình còn tưởng chiếm lợi của cô nương ấy, té ra người ta bán với đúng giá, chắc là đã vào thành bán rồi, cho nên mới bán giá đó cho mình, không biết lúc đó người ta có nghĩ mình là thằng ngốc không, hay là nghĩ mình có ý đồ khác? Có ví dụ này chứng thực, liền biết vị Nhị chưởng quầy kia không lừa mình, tâm tình Tả Thiếu Dương càng thêm sa sút, không bán được xạ hương trả tiền nợ hộ cha mẹ, kiếm đâu ra tiền bây giờ?
Tâm tình như vậy nên Tả Thiếu Dương chẳng để ý mình vừa làm chuyện hết sức mất mặt nữa, lấy xạ hương cho vào lòng, xoay người rời Huệ Dân Đường. Ra tới cửa gió lạnh thổi qua, rùng mình một cái, lòng tỉnh táo hơn, nhưng vẫn không có chút chủ ý nào.
Đúng thế, Tả Thiếu Dương không phải người thời đại này, y vốn là sinh viên tốt nghiệp loại ưu của trường đại học y, đã thi lấy được giấy chứng nhận bác sĩ cấp quốc gia, thế rồi bỗng nhiên y bị kéo tới thời Đường này, vì sao, thế nào, muôn vàn câu hỏi mà y không giải thích được, lúc này đây y cũng không lòng dạ nào truy cứu nữa, chuyện đó y chỉ muốn vùi sâu chôn chặt. Tả Thiếu Dương chỉ biết, mình không về được nữa rồi, vật lộn trên giường cả tâm bệnh lẫn thân bệnh suốt một tuần, cuối cùng y cũng phải chấp nhận hiện thực, thử tiếp nhận cuộc sống này.
Vốn tưởng rằng bằng vào tri thức vượt bậc mình nắm giữ, có thể sống nhàn nhã ở thời lạc hậu này, thậm chí còn có hưng phấn nho nhỏ, không ngờ mới đánh trận đầu đã thua, còn thua thảm, thua bẽ mặt. Giờ mới hiểu ra, dù thời đại nào, kiếm tiền không phải dễ.
Đương nhiên bản tính kiên cường, Tả Thiếu Dương không phải vì một thân bại mà buông bỏ, y tính bước tiếp theo làm sao?
Mình có cái gì hơn được người triều Đường chứ, từ nhỏ tới lớn chỉ biết học và học, biết nhiều nhưng chỉ là trên sách vở thôi, làm xi măng, thủy tinh, thuốc nổ, súng ống, y đều không làm được, chỉ có mỗi một sở trường, đó là một bụng kiến thức Trung y.
Phải rồi, cho dù người xưa tuy am hiểu Trung y, nhưng mình hơn họ cả nghìn năm kinh nghiệm bao nhiêu danh y các đời tích lũy được, đặc biệt lại còn có kiến thức tây y hiện đại để biện chứng, tuyệt đối có kiến thức y học hơn bất kỳ vị thần y nào thời này! Dựa vào nó, hẳn cũng sống được, không những thế còn sống đoàng hoàng thể diện, cứ nhìn Huệ Dân Đường giàu có xa hoa thế nào thì biết cái nghề này tuyệt đối là có tương lai.
Suy nghĩ này làm Tả Thiếu Dương tràn trề hi vọng, nhưng nghĩ tới cảnh hẩm hiu của Quý Chi Đường lại thấy tương lai mù mịt, chẳng lẽ chạy ra đường lôi kéo người ta vào khám bệnh, nói mình rất giỏi, có thể chữa được rất nhiều bệnh mà người khác không chữa được, người ta không tóm vào nha môn mới là lạ.
Đang ngơ ngơ ngác ngác đứng ở cửa suy nghĩ lung tung, lúc thì vui lúc thì buồn, đột nhiên bị tiếng bước chân gấp gáp làm sực tỉnh, chỉ thấy đằng xa có một đám người dùng ván cửa khiêng một phụ nhân, bụng nhô cao, giọng yếu ớt rên siết đau đớn, hán tử bên cạnh không ngừng an ủi: – Lão bà, cố lên, sắp tới Huệ Dân Đường rồi.
Tả Thiếu Dương vội nhảy sang một bên nhường đường, lão giả đi đầu vẫy tay loạn lên: – Nhường đường, phiền mọi người nhường đường cho! Lang trung, Nghê lang trung! Cứu mang, mau cứu nhi tức phụ của lão.
Đám người đó khiêng người vào đại sảnh, Tả Thiếu Dương nhờ ánh đèn l*иg nhìn sàn đá, từng giọt máu lưu lại trên đó, lòng trầm xuống, sản phụ này lành ít dữ nhiều mất rồi.
Mấy hỏa kế của Huệ Dân Đường xúm cả lại tới đón lấy càng của phụ nhân khiêng vào sương phòng bên cạnh, một vị lão giả tóc bạc lơ phơ ở phía khác bước nhanh theo, có vẻ là Nghê lang trung rồi.
Tả Thiếu Dương cũng lo lắng đi theo sau, nhưng người chờ khém bệnh trong phòng nhớn nhác nhìn về phía cửa phòng đóng chặt, không có động tĩnh nào trong đó từ tiếng hô hoán cổ vũ của hán tử kia, mấy phụ nhân cao tuổi ghé tai bàn luận với nhau.
– Hình như là khó đẻ.
– Hẳn là thế, bà nhìn máu dưới sàn, băng huyết rồi.
– Vậy còn mạng nữa sao, chậc, còn trẻ như thế mà, tiếc quá.
– Đứng nói như thế, y thuật Nghê lang trung cao lắm, nói không chừng cứu được tính mạng người ta.
– Nói thì nói thế, nhưng người chết chắc thì sao cứu nổi, đâu phải là thần tiên…
Chương 10: Bữa cơm đạm bạc
Bên trong hỗn loạn, chẳng ai quản tới Tả Thiếu Dương, y liền tới bên cửa sổ, muốn nghe xem lang trung bên trong nghị luận chẩn đoán thế nào, nhưng bên ngoài phụ nhân kia mồm năm miệng mười bàn tán, không nghe rõ được, liền đặt ngón chỏ lên môi, suỵt nhỏ: – Các vị, bên trong đang cứu người, đừng quấy nhiễu.
Hỏa kế cũng chắp tay nói: – Đúng vậy, các vị lão thiếu gia, các vị đại nương đại thẩm, mọi người đừng nói chuyện nữa, đa tạ.
Thoáng cái trong phòng tĩnh hẳn xuống, Huệ Dân Đường có mấy lang trung tọa đường ( ngồi ở đại sảnh khám bệnh), vừa yên tĩnh lại tiếp tục công việc. Giọng già nua trong phòng truyền ra: – Ôi, tới muộn quá, thai chết trong bụng rồi.
– Con tôi…!
Tiếng khóc vang vọng khắp đại sảnh.
Giọng già nua kia quát: – Đừng khóc, lão hủ đang nghĩ cách lấy cái thai ra đây, nếu không là hai mạng người đấy.
Tiếng khóc càng lớn hơn, cầu khẩn lang trung mau cứu người.
Kết quả chưa biết thế nào thì bên ngoài có tiếng gõ chiêng, tới canh một rồi.
Luật Đại Đường là canh một đóng cửa hàng quán, hiệu thuốc cũng là thế. Nghe thấy tiếng chiêng báo giờ của binh sĩ, người bệnh chưa kịp xem bệnh trong hiệu tự giác đứng dậy đi về, hỏa kế đi ra đóng cửa. Trừ sáu cánh cửa của đại môn, bên cạnh còn có cửa nhỏ để dùng lúc khẩn cấp. Quy định từ canh hai tới canh năm toàn thành giới nghiêm, tất cả người không phận sự cấm chỉ đi lại. Nhưng cũng có ngoại lệ là người bệnh nguy cấp có thể đi tới hiệu thuốc, đương nhiên phải được binh giáp trực đêm đồng ý. Hiệu thuốc gặp tình huống bệnh khẩn cấp cũng được phép mở cửa cứu người, cửa nhỏ là để dùng cho trường hợp đó.
Hỏa kế lúc trước cười bồi với Tả Thiếu Dương: – Tả thiếu gia, chúng tôi sắp đóng cửa, thiếu gia có việc gì, mai lại tới được không.
Tả Thiếu Dương rời khỏi đại sảnh, ra ngoài không nghe thấy được gì bên trong nữa, chỉ biết lắc đầu, hai tay cho vào ống tay áo, cổ rụt lại, xông pha gió lạnh cắt da, rảo bước thật nhanh về nhà.
Cho dù cách thời gian giới nghiêm những một canh giờ nữa, nhưng sau khi chiêng báo canh gõ là trên phố chẳng còn người đi lại nữa rồi. Hàng quán hai bên đường đã đóng cửa, đèn đường đương nhiên chẳng có, chỉ có thể dựa vào ánh sáng leo lét từ ngọn đèn dầu hắt qua khe cửa để tìm đường, cửa sổ dán dấy hoặc dùng đủ thứ chỉ cần chắn được gió là đủ, mỹ quan à? Ai mà cần.
Trời lại bắt đầu có tuyết rơi, từng bông từng bông lác đác rơi xuống, được ánh đèn mờ làm chớp sáng chớp tối, giống như tiểu tinh linh bay múa khắp bầu trời đêm, rơi lên đầu, lên vai Tả Thiếu Dương, chẳng mấy chốc trắng xóa rồi.
Tả Thiếu Dương không rũ bông tuyết rơi xuống, cho dù lạnh tới hai răng đánh nhau, tai thì lạnh tới đau nhức, y vẫn không chạy, thậm chí là không đi nhanh, vẫn cứ cho tay vào ống tay áo, mắt nhìn bốn phía, ngắm thành trấn trong cảnh đêm, trong cảnh tuyết hoa đầy trời, mọi thứ với y đều đầy mới lạ.
Cuối cùng thì cũng về tới Quý Chi Đường, vừa mới gõ cửa một cái là cửa mở ra rồi, Hồi Hương lo lắng trách móc: – Sao giờ đệ mới về, chẳng biết nghĩ tới sức khỏe, đệ đi đâu? Vừa nói vừa phủi tuyết trên người y.
– Đệ nằm suốt mấy ngày rồi, nên đi dạo cho dưỡng gân cốt. Tả Thiếu Dương đứng ở bậc thềm, tay xoa xoa đưa lên miệng thổi hơi, cười toe toét:
– Hôm nay đệ bị ngã nữa đấy, nếu vết thương phát tác ngã xuống thì sao! Vào nhà mau.
Tả Thiếu Dương vào đại sảnh, vẫn chỉ có một cái đèn dầu leo lắt chập chờn phát ánh sáng tù mù, một cái bàn tròn đặt chính giữa, bên trên có bốn cái bát, một cái đĩa gốm lớn, một cái bát tô, trong đĩa là rau muối, còn trong bát là canh, lưa thưa mấy lá xanh nổi bồng bềnh.
Tả Quý vẫn ngồi sau cái bàn dài kia, đầu cúi xuống không biết nghĩ cái gì. Lương thị ngồi ở bên bàn tròn đang lau nước mắt, thấy con vào, đứng dậy: – Trung Nhi, tắt lửa tối đèn còn đi dạo lung tung cái gì hả! Ăn cơm đi, lão gia tới ăn cơm.
Cho dù hiệu thuốc hẩm hiu, cuộc sống gian nan, nhưng Tả Quý kiêu hãnh bởi dòng dõi thư hương, cho nên Lương thị lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi cung kính gọi lão gia.
Tả Quý lúc này mới ngẩng đầu, đủng đà đủng đỉnh đi tới bàn cơm.
Tả Thiếu Dương chú ý trong bát, hai cái bánh bao đen xì xì, đưa tay bóp, hơi cứng, cầm lên định ăn thì “chát” một cái, trời lạnh tay đau rụng rời, cái bánh rơi bộp xuống, chỉ thấy Lương thị nghiêm mặt mắng: – Trung Nhi, con làm cái gì? Cha con chưa đυ.ng đũa, còn vội gì chứ?
– Dạ. Tả Thiếu Dương ngoan ngoãn rụt tay lại:
Tả Quý cũng nhìn y, chậm rãi nói: – Ra ngoài thế nào, đi quanh phố xá có nhớ thêm được gì không?
Tả Thiếu Dương trả lời qua loa: – Một số chuyện còn nhớ ạ, một số thì không.
Tả Quý đưa tay bắt mạch cho y: – Mạch rất bình thường.
Lương thị nói vào: – Thong thả nó sẽ nhớ ra thôi, sức khỏe không sao là tốt rồi. Ăn đi, không nguội cả.
Tả Quý thong thả cầm lấy một cái bánh bao, cho lên miệng cắn một miếng nhỏ, lại gắp một miếng dưa cho vào mồm, nhai rất tư văn nho nhã.
Thấy trượng phu động đũa rồi, Lương thị mới bảo Hồi Hương và Tả Thiếu Dương: – Ăn đi, ăn đi.
Tả Thiếu Dương cầm bánh bao lên cắn một cái, có vị gì đó đăng đắng, lại còn có sạn nhỏ như cát, mặt nhăn như khỉ ăn ớt cố nhai, kín đáo cầm nửa cái bánh bao soi dưới ánh đèn, phát hiện bên trong thêm vào một ít sợi nhỏ màu vàng, rút một sợi ra đặt lên đầu ngón tay nhìn, dễ dàng nhận ra được đó là vỏ cây dâu cùng tỷ tỷ mang về từ Thiên Nhận Sơn.
Cái loại vỏ dâu này lột đi phần dầy bên ngoài, phần non bên trong phơi khô, thái thành sợi, là thứ thuốc dùng để giảm ho. Chuyện thời đói kém lột vỏ cây để ăn thì Tả Thiếu Dương nghe kể, đọc được nhiều lắm rồi, không ngờ tới một ngày được thưởng thức.
Giờ thì y hiểu rồi, vì sao trong gùi của Hồi Hương quá nửa là vỏ dâu, thì ra là Hồi Hương hái thuốc chỉ là thứ yếu, chủ yếu là lấy vỏ dâu làm thức ăn.
Tả Thiếu Dương ba người trong nhà, không ai thấy khó nuốt, ngược lại còn ăn có vẻ ngon lành, ai nấy đã ăn sắp hết cái bánh thứ hai rồi mà Tả Thiếu Dương còn nguyên một cái trong bát, tay còn già nửa bánh.
Lương thị thấy y ăn vất vả, thương xót nói: – Trung Nhi, uống chút canh đi. Rồi múc cho y một thìa canh lớn đổ vào bát: – Chấm bánh vào canh, như thế dễ ăn hơn.
Bụng Tả Thiếu Dương đã biểu tình ầm ầm rồi, chỉ là cái bánh bao nhân vỏ dâu này quá khó ăn, mấy ngày qua bị ốm được húp cháo loãng, chẳng có trứng hay thịt gì còn nghĩ rằng họ sợ y ốm không tiêu hóa được mới cho ăn thanh đạm, ai dè đó là hưởng thụ rất cao rồi, chỉ sợ cuộc sống về sau cái bánh bao đen này sẽ là thức ăn chính, không ngon cũng phải ăn, nghĩ thôi mà nản lòng. Cho bánh bao vào nước canh, dùng đũa nguấy nát ra, coi như bịt mũi đổ vào miệng như uống thuốc.
Quả nhiên là cho thêm nước dễ nuốt hơn nhiều, y cắm đầu làm liền một hơi hết sạch hai cái bánh bao, bụng coi như được lấp đầy, dù mùi vị vẫn chẳng ra làm sao.
Lương thị hỏi: – Trung Nhi, trước đó con nói với Tam Nương để cô ấy khoan hạn cho vài ngày kiếm tiền, con kiếm đâu ra tiền?
Suy tính lúc đó của Tả Thiếu Dương là bán xạ hương đi kiếm tiến, bây giờ mộng đẹp tan vỡ rồi, y cũng không biết kiếm tiền đâu ra, ỉu xìu xìu nói: – Con.. Con cũng chỉ dùng kế hoãn binh thôi, chẳng phải có câu xe tới trước núi ắt có đường sao?
Lương thị vốn chỉ ôm hi vọng nhỏ nhoi mà thôi, quay sang hỏi Tả Trung: – Lão gia, làm sao bây giờ, hay là thuê ruộng trồng cấy? Nếu không khai hoang cũng được, nghe Hầu Phổ nói, triều đình khuyến khích khai hoang, giảm thuế ba năm, ba năm sau giảm một nửa.