Say Mộng Giang Sơn (dịch)
Tập 1: Người trong chốn đào nguyên (c1-c10)
❮tiếp ❯Chương 1: Người trong chốn đào nguyên
Có một sơn cốc vô danh nằm cách Thiệu Châu vùng Lĩnh Nam hai mươi dặm về phía đông bắc, bao quanh sơn cốc bốn bề toàn là núi, ngay cả lối ra vào chật hẹp duy nhất ở trước sơn cốc cũng có một quả núi thấp chắn ngang, phải trèo qua mới giật mình phát hiện ra một thế giới thần tiên ở bên trong.
Năm Hàm Hanh thứ ba thời Đại Đường, có mười một hộ gia đình tổng cộng hơn trăm người đột nhiên được quan phủ sai đến sơn cốc bí mật này khai hoang, phát cỏ đốn rừng dựng nhà, trong vòng mấy ngày dựng lên một thôn trang nhỏ đặt tên là thôn Đào Nguyên.
Bởi vì địa thế bí mật của thôn Đào Nguyên, người trong thôn ít qua lại tiếp xúc với người dân miền núi xung quanh. Cư dân trong thôn đa phần là người nho nhã lịch sự, hiểu biết lễ nghĩa. Tuy rằng họ cũng chân lấm tay bùn cày cấy, gieo trồng, canh cửi, nhưng vẫn thường nghe tiếng ê a đọc sách, đôi khi còn có tiếng đàn, tiếng sáo vang ra từ trong thôn.
Lúc đầu người dân miền núi xung quanh cảm thấy kỳ lạ, thường xì xào bàn tán với nhau, nhưng lâu ngày họ không thấy gì kỳ quái nữa.
Mười một năm sau. Vào một ngày cuối xuân năm Vĩnh Thuần thứ hai thời Đại Đường.
Cây cối xum xuê tươi tốt phủ lên sơn cốc một màu xanh ngắt, vài cây táo chua nằm rải rác lẫn trong vài mảnh ruộng trên sườn núi. Trong cốc hơn mười căn nhà với hàng rào trúc bao quanh nằm đan xen vào nhau, mái nhà lợp gỗ thô thấp thoáng ẩn hiện trong rừng cây xanh biếc tạo nên khung cảnh đẹp như vẽ như thơ.
Một thiếu nữ đeo giỏ trúc sau lưng dẫn theo một cậu bé trông có vẻ bướng bỉnh khoảng mười tuổi đang đi về phía sườn núi thấp ngoài cửa cốc. Thiếu nữ mặc một bộ quần áo gọn gàng của dân miền núi, cái áo ngắn màu xanh biếc, quần dài màu hồng cánh sen, khuôn mặt nàng cháy nắng với gò má ửng hồng của người làm việc đồng áng, nhưng lạ là toàn bộ người nàng toát ra một khí chất đặc thù mà một sơn nữ bình thường không thể có được.
Thiếu nữ khoảng mười bốn mười lăm tuổi. Nàng đang ở độ tuổi chớm nở xuân thì với vóc người thon thả, khỏe mạnh, vòng eo nhỏ gọn, dáng đi giống như ngọn trúc xanh mềm mại đong đưa theo gió. Đôi mắt nàng sáng ngời, mũi thẳng như dọc dừa, miệng nhỏ nhắn với đôi môi mọng đỏ hơi trề ra, khuôn mặt thật thanh tú xinh đẹp.
Đi bên cạnh thiếu nữ là một cậu bé tám chín tuổi trông có vẻ ương bướng, hình như là em trai của nàng. Cậu bé mặc dù có nước da ngăm đen như những đứa bé sống trong vùng núi rừng hoang dã khác, nhưng cậu bé lại không có vóc người khỏe mạnh chắc chắn như chúng. Nhìn kỹ lại, thân thể của cậu bé đơn bạc hơn rất nhiều, khuôn mặt trái xoan có bảy tám phần giống như chị, lông mày cao và sắc thanh tú, đôi mắt thật to, cái cằm kiên nghị.
Cô gái tên là Nguyệt Dung, cậu bé bên cạnh là em ruột của nàng, tên gọi thân mật ở nhà là A Sửu. A Sửu năm nay vừa đúng chín tuổi, cậu bé hoạt bát hiếu động từ tấm bé nên thật khó trông nom coi chừng, cậu leo trèo nghịch ngợm như khỉ như vượn, cây cổ thụ cao vài chục trượng không nhằm nhò gì với cậu, đám trẻ trong thôn tôn cậu làm đệ nhất cao thủ trèo cây leo núi.
Người xưa có câu “bơi giỏi cho lắm cũng có lúc chết chìm, cưỡi ngựa hay bao nhiêu cũng có lúc té ngựa” quả thật đúng. Ba tháng trước A Sửu trèo lên một cây cổ thụ tìm trứng chim bị té từ trên cao năm sáu trượng xuống đất, mặc dù có những nhánh cây cản lại, hơn nữa mặt đất rất xốp mềm, tuy không bị bể đầu sứt trán nhưng A Sửu cũng bị gãy một chân.
Cậu bé như hòn ngọc quý trong nhà, chuyện cậu bị té làm cha mẹ cậu kinh hãi quá mức. Là chị cả lại trông nom em không cẩn thận, Nguyệt Dung bị cha mẹ đánh cho một trận. A Sửu bị bắt ở trong nhà dưỡng thương hơn ba tháng, gần đây thân thể dần dần khỏe lại, đi tới đi lui tuy không có vấn đề nhưng cha mẹ cậu vẫn cấm ngặt không cho ra khỏi nhà.
Hôm nay Nguyệt Dung lên núi hái rau dại, thấy em trai từ lúc gãy chân bị cấm rịt ở trong nhà, tù túng ủ rũ kém vui, tính tình so với lúc trước khác xa một trời một vực, nàng lo lắng nếu em rầu rĩ mãi sẽ có ảnh hưởng xấu, do vậy liền năn nỉ xin phép cha mẹ dẫn em ra ngoài cho bớt buồn. Cha mẹ nàng mãi mới đáp ứng với điều kiện A Sửu không được rời khỏi nàng nửa bước.
Trong một căn nhà có hàng rào trúc bao quanh, một thiếu nữ lớn hơn Nguyệt Dung khoảng hai ba tuổi đang ngồi thêu thùa, trông thấy hai chị em đi tới liền cười chào:
– Nguyệt Dung muội, tiểu A Sửu, hai đứa lên núi à?
– Dạ, muội dẫn tiểu đệ lên núi hái nấm và một chút rau, Tú Tú tỷ đang chuẩn bị đồ cưới phải không?
– Nói bậy gì đó, ta đang thêu thùa bậy bạ cho vui thôi.
Tú Tú mặt đỏ lựng giấu vội cái khăn đang thêu gì đó ra sau lưng, Nguyệt Dung được một trận cười nắc nẻ.
Một cụ già ngồi đánh cờ dưới gốc cây du cách đó không xa nghe tiếng cười nhìn sang, cao giọng cười nói:
– Tiểu A Sửu, chân cháu lành rồi à, ha ha, từ nay về sau đừng nghịch ngợm phá phách như vậy nữa nghe không.
Nguyệt Dung lễ phép chào hỏi:
– Cháu chào Cừu bá bá, Phương bá bá.
Một cụ khác ở bên kia bàn cờ muốn đánh bàn cờ cho nhanh nên mặt mày nhăn nhó thúc giục, cụ già vừa chào hai chị em Nguyệt Dung lúc này mới vuốt chòm râu quay lại.
Được xưng làm đệ nhất cao thủ leo núi trèo cây lại bị cụ già vừa rồi nhắc khéo, mặt mày A Sửu cau có tức tối, cậu nhóc tức giận co chân sút một cục đá nhỏ, chẳng may cục đá bay đập trúng một con ngỗng trắng lớn.
Chị ngỗng nhà ta đang ngẩng đầu ưỡn ngực, dáng dấp phảng phất giống như một vị đại tướng quân kiểm binh trước tam quân, uy phong lẫm lẫm nện bước chân trên con đường mòn đi tới, đột nhiên bị cục đá đập một phát, không khỏi giận tím mặt lập tức giương cánh vươn cổ kêu quang quác nhắm hướng A Sửu xông tới.
– A Sửu, em lại phá phách!
Nguyệt Dung vừa mắng vừa kéo em bỏ chạy. Chị ngỗng nhà ta nhất định không chịu buông tha cho hai chị em, vỗ hai cánh, cổ vươn dài đuổi theo ở đằng sau. Một cậu bé chăn dê ở trong lùm cỏ trông thấy cảnh này chịu không nổi cười bò lăn bò càng.
– Ái da! Chị, chân của em vẫn còn đau.
A Sửu ba chân bốn cẳng chạy ở đằng trước kêu đau, Nguyệt Dung tức giận mắng:
– Tiểu tử thúi, con ngỗng tướng quân nhà Lưu thẩm là con hung dữ nhất, khi không em đi trêu chọc nó.
Nói xong nàng cởi giỏ trúc ngồi chồm hổm xuống rồi ra lệnh:
– Leo lên, chị cõng em.
A Sửu từ chối:
– Không cần, em lớn rồi, nặng lắm, lưng chị chịu không nổi đâu.
– Thôi đi cậu nhóc, lông măng còn chưa rụng mà lớn nỗi gì, hồi nhỏ không phải chị vẫn cõng em trên lưng trèo vượt qua dãy núi lớn sao.
Nguyệt Dung phản bác lại, sau đó đỡ em lên lưng, cầm lấy giỏ trúc rồi chạy lên núi. Con ngỗng trắng vẫn kêu quang quác kiên trì ra sức đuổi theo.
Ở trên lưng bằng phẳng mềm mại có lấm chút mồ hôi nhưng hương vị rất dễ chịu của chị, A Sửu giãy giụa hai ba lần, nhưng lại bị chị vỗ vào mông một cái nên đành ngồi yên.
Con ngỗng tướng quân sau một hồi rượt đuổi rốt cục khải hoàn quay về, kiêu hãnh bước trở lại thôn. Khi không thấy con ngỗng đuổi theo nữa, Nguyệt Dung lúc này mới chạy chậm lại, miệng thở hồng hộc nhưng vẫn không thả em xuống.
– A Sửu, một hồi lên tới trên em đừng chạy loạn để cha mẹ miễn phải lo lắng cho em. Chị hái chút rau rồi cõng em về. Mẹ ở nhà hầm xương nấu súp cho em, em ăn vào nhân lúc còn nóng cho chân chóng khỏi. Em không phải thích ăn rau muối tương nhất sao, một chốc chị hái ít rau rồi trở về nấu cho em ăn.
– … rau muối tương phải dùng mỡ chiên sơ qua.
– Được rồi, nghe lời A Sửu, chiên sơ qua.
– Hơn nữa phải thả một cái trứng gà vào.
Nguyệt Dung cười khanh khách:
– Xong luôn, bỏ vào một cái trứng gà, em đúng là một tên chết thèm.
Hai chị em bò lên trên ngọn núi thấp, Nguyệt Dung thả A Sửu xuống:
– Em ngồi yên ở đây, chị đi hái… a!
Nguyệt Dung nhìn ra phía ngoài cốc giật mình thốt:
– Sao có nhiều quan binh tới đây vậy trời?
A Sửu nghe vậy lật đật đứng lên ngó ra phía trước. Đứng trong đám cỏ dại, đám đậu tía cao hơn đầu người, cậu bé thấp quá nên phải kiễng chân ngóng nhìn ra ngoài. Trước sơn cốc có một đám quân lính tập trung ở đó. Đây là quân lính Đại Đường, đám binh lính mặc áo giáp, cưỡi chiến mã, lưng đeo túi tên, cung khoác chéo vai, tay cầm ngang thanh đao.
Hơn ban trăm người cộng thêm ba trăm thớt ngựa chỉnh tề đứng đó, lặng ngắt không một tiếng động.
Lính thì mặc áo giáp, còn tướng khoác bào. Có hai con ngựa ở phía trước đám quân lính, trên một trong hai con ngựa có một viên tướng mặc giáp khoác trường bào trên vẽ hoa văn hình hổ và sư tử, còn trên con ngựa kia là một tên quan văn mặc áo bào màu xanh. Tên quan văn ghìm ngựa quay đầu lại nói với đám quân lính điều gì đó, chỉ thấy cả đám đều rút đao khỏi vỏ, ánh mặt trời phản chiếu trên lưỡi đao lấp lóa lạnh người.
A Sửu hơi thắc mắc, hồi trước khi đến thành Thiệu Châu với cha, cậu bé đã từng nhìn thấy đám quân lính ở đó, chỉ có dăm ba tên lính già đứng đứng gác trên tường thành, nào có loại lính đằng đằng sát khí như ở đây, hơn nữa quần áo của bọn chúng cũng không thật sự giống nhau.
– Chị, đây là quan binh ở đâu vậy? Bọn chúng đang định làm gì?
– Không xong rồi!
Nguyệt Dung tuy không biết rõ ý đồ của đám quan binh kia, nhưng nàng cảm thấy nguy hiểm. Nàng căn dặn em:
– Chị sợ đám lính này sẽ gây bất lợi cho chúng ta, A Sửu, em đi lại không tiện, trốn tạm ở đây để chị về thôn báo tin, bất kể chuyện gì xảy ra em nhất định không được xuất hiện, biết không!
Nguyệt Dung giấu A Sửu vào trong bụi cỏ, đeo giỏ trúc lên rồi chạy đi, vừa chạy được vài bước vội lộn ngược trở lại, thuận tay kéo ít cỏ dại che trên người em.
Đây là giang sơn Đại Đường, là con dân Đại Đường, quân lính Đại Đường tại sao phải gây hại cho dân chúng ở đây? Người trong thôn cũng không phải sơn tặc hay thổ phỉ. Trăm mối tơ vò không có câu trả lời, A Sửu đành theo lời chị dặn dò ngồi chồm hổm ở đằng kia không dám động đậy.
Gót sắt của ngựa đạp đá vụn trong khe núi bay loạn xạ, hai con tuấn mã dẫn đầu phóng lên sườn núi thấp. Từ chỗ ẩn mình A Sửu chỉ có thể nhìn thấy thớt ngựa đen của tên quan văn áo bào xanh, viên võ tướng ở bên cạnh bị tên quan văn che khuất, A Sửu chỉ có thể nhìn thấy áo bào đỏ tươi của y thỉnh thoảng gió núi thổi bay lên.
Nguyệt Dung chạy về thôn vừa vẫy cái khăn cột tóc màu xanh vừa la:
– Cha! Mẹ! có quân lính tới đây, có quân lính tới đây!
– Giết! Giết sạch! Một tên cũng không tha!
Tiếng ra lệnh lạnh lùng làm người không rét mà run vang lên bên tai A Sửu, cậu bé dời ánh mắt đang dõi nhìn theo chị sang bên cạnh, người phát ra mệnh lệnh chính là tên quan văn đang ngồi thẳng tắp trên lưng ngựa. Gã có dáng người cao cao, gầy nhom, khuôn mặt hẹp dài như mặt ngựa, mắt lõm vào, mũi dài nhọn cong quặp xuống như mỏ chim ưng, nhìn quả đáng sợ.
Sau khi ra lệnh cho đám binh sĩ ở đàng sau, gã quan văn vô tình quay đầu sang một bên, cả khuôn mặt lọt vào tầm mắt của A Sửu. A Sửu có thể thấy rõ mồn một khuôn mặt của gã, mũi quặp như mỏ chim ưng, hai đường nếp nhăn sâu hoắm như vết dao cắt từ hai cánh mũi kéo dài xuống miệng bao lấy đôi môi mỏng, thanh âm đằng đằng sát khí đúng là từ miệng gã phát ra.
Người đi cùng ở bên cạnh gã, viên tướng quân mặc chiến bào có hình sư tử và hổ chậm rãi rút đao ra khỏi vỏ, thân đao cọ vào vỏ phát ra tiếng ma sát rợn tóc gáy. A Sửu nghe thấy khắp người nổi da gà lúc nào không hay. Viên tướng quân giơ cao thanh đao phóng ngựa về phía trước quát gọn:
– Giết!
Vó ngựa phóng như bay xuống dưới.
A Sửu thấy chị đang chạy thục mạng ở trên đường mòn, hắn nhảy dựng lên, cả người giống như con nai cái chạy nhảy giữa rừng núi. Viên tướng quân thúc ngựa chạy như bay, nhìn y giống như tay thợ săn đang ra sức đuổi theo con mồi. Chiến mã phi như bay chẳng mấy chốc đuổi kịp Nguyệt Dung, trong bụng A Sửu phập phồng lo sợ.
– Phụp!
Đao giơ lên, chém xuống như chớp, máu đổ.
– Mẹ, có quân lính…
Tiếng la của Nguyệt Dung ngưng bặt, ánh đao lướt qua, máu bắn tung tóe như mưa sa, một vầng trăng rụng rơi.
Viên tướng quân vung thanh đao nhuốm máu phóng qua người nàng. Ngay sau đó, vô số chiến mã giày xéo lên thân thể mềm mại của người thôn nữ, tranh nhau tiến vào thôn nhỏ.
– Chị…!
A Sửu mắt tối sầm, tức thì té xuống bất tỉnh nhân sự.
Mấy trăm tên quân lính từ đường mòn trên núi phóng nhanh xuống, tiếng ngựa phi, tiếng đá vụn bay rầm rầm làm át đi tiếng thét thảm thiết nghẹn ngào của cậu bé.
Tên quan văn dừng ngựa trên triền núi, lạnh lùng nhìn chăm chăm vào thôn trang ở trong cốc, khóe miệng nhếch nở một nụ cười ác nghiệt, gã vung roi chỉ về phía trước lặp lại mệnh lệnh:
– Giết! Giết sạch! Một mống cũng không tha!
Ngày hôm sau, trước cửa phủ thành Thiệu Châu có dán một bảng cáo thị, tuyên bố một cơn đại ôn dịch phát sinh ở thôn Đào Nguyên giết chết toàn bộ dân trong thôn, để đề phòng nạn ôn dịch lây lan, quan phủ ra lệnh thiêu rụi toàn bộ thôn trang, đồng thời cũng nghiêm cấm dân chúng khắp nơi không được xâm nhập vào thôn phòng nhiễm phải ôn dịch. Thôn Đào Nguyên ly kỳ xuất hiện cũng ly kỳ biến mất.
Kể từ đó không một ai dám tiến vào sơn cốc này.
Sau đó vài năm, cũng không còn ai nhớ tới một cái thôn mang tên Đào Nguyên, mọi người chỉ nhớ được cách thành Thiệu Châu hai mươi dặm về phía đông bắc có một sơn cốc của ôn thần, người ta biết sự tồn tại của nó nhưng không biết tên nó là gì…
Chú thích của tác giả:
Xin được nói rõ một chút. Trước khi viết truyện này, Quan Quan nghiên cứu rất nhiều tư liệu lịch sử và phát hiện một số điều không thể nghiêm ngặt chiếu theo lịch sử thời đó mà viết lại y như vậy, vì làm như thế, nếu ai đọc không quen sẽ cảm thấy vô cùng hụt hẫng. Ví dụ như lúc ấy cha được gọi là anh, ngôi thứ hai không có ngươi/anh, cũng không có cách xưng hô trang trọng như ngài mà gọi là mày, anh kia, ngôi thứ ba gọi là kia, ấy. Vẫn có chuyện người nữ thường dùng một chữ tự xưng là “nhi” (trẻ con), tương đương người nam tự xưng là “mỗ” (một người một vật có tên nhưng không nói ra); gọi quan viên phải gọi tên dòng họ với quan chức, đại nhân chỉ dùng để gọi người lớn thân thiết trong nhà; tiểu thư con nhà giàu sang được gọi là nương tử, gặp người con gái xa lạ trên đường cũng gọi là nương tử, vợ mình cũng gọi là nương tử; những chuyện như thế, nếu dùng y như thời xưa sẽ rất mất tự nhiên, cho nên đổi thành cách xưng hô của thời hiện đại mà độc giả quen dùng.
Chương 2: Thằng bé ăn xin trong hẻm Ba Tiêu
Tháng bảy năm Vĩnh Thuần thứ hai, phủ Quảng Châu.
Trên con phố lớn người qua lại đông đúc, thương khách và những gánh hàng rong làm con phố vốn rộng rãi trở nên chật chội.
Người kẻ sĩ mặc áo bào tay rộng, người Hồ mặc áo cổ bẻ, tay chật, người bình dân mặc áo ngắn vải thô, giòng người qua lại vô cùng náo nhiệt.
Hai bên phố, có người Thiên Trúc khoác túi vải, đeo khuyên tai cao giọng rao bán đàn hương với tiếng Đại Đường lơ lớ. Có những đứa trẻ từ vùng Côn Luân Nam Dương đi chân trần trên phố rao bán cao giảm đau chế từ nha đam, còn có người thì không ngừng khoe miếng đinh hương của mình có thể làm hơi thở thơm mát như thế nào.
Có người Ba Tư mặc áo ống tay nhỏ, đầu đội nón da, bán đồ hóa trang, trang điểm như táo Ba Tư, nước hoa làm từ phấn hoa hồng ở vùng ngoại biên. Đương nhiên không thể thiếu những gánh hàng rong bán gia vị như hồ tiêu đen và mù tạt nguyên chất rất được người Đại Đường hoan nghênh.
Còn đám tiểu thương bán hạt quả hồ trăn (hạt dẻ cười) đẩy xe liên tục lớn giọng rao, quảng cáo công năng của hạt quả hồ trăn có thể giúp nam tráng dương bổ thận, nữ đạt được cao triều rên lên vì sung sướng, lời quảng cáo ngay lập tức hấp dẫn vô số chị em phụ nữ, ai mà lại không muốn đàn ông của mình to lớn dũng mãnh chứ, bất kể là ở ngoài đời hay ở trên giường.
Phía sau những gánh hàng rong có một con sông nhỏ nước trong vắt, một cây cầu nhỏ làm bằng đá và gỗ vắt ngang sông. Bước lên cầu qua sông, bên bờ sông trồng đầy chuối ba tiêu (hay còn gọi chuối tây, chuối sứ), sau hàng chuối là một tửu quán, mùi rượu từ quán tỏa ra xung quanh rất nồng, hòa nhập vào bức ảnh phồn hoa trên con phố lớn.
Nhưng thế giới phồn hoa sinh động trước mắt cuối cùng cũng không thể so sánh được với hình ảnh thế giới phồn hoa trên sách vở. Hình ảnh vẽ trong sách, ngươi có thể xóa đi tất cả những thứ ngươi không cần, nhưng trong thế giới hiện thực lại không thể, bất cứ lúc nào, ở đâu cũng có người nghèo. Ngay lúc đó, một thằng bé ăn xin quần áo tả tơi, đi chân đất đang tháo chạy thục mạng, phía sau có hai người đàn ông trung niên hùng hổ đuổi theo.
Thằng bé ăn xin trốn vào trong một con hẻm nhỏ, cuối cùng kiệt sức bị hai người đàn ông đuổi kịp. Dưới trận đòn tay đấm chân đạp tới tấp, thằng bé ôm đầu cuộn mình lại như một con chó nhỏ. Người của nó bị đá hết phát này đến phát khác bay bổng lên nhưng nó không xin tha, cũng không than đau, mãi đến khi bị đá một cái rơi vào trong rãnh nước bên cạnh con hẻm, nó mới la lên một tiếng đau đớn rồi ngất lịm đi.
Hai người đàn ông trung niên phất tay áo bỏ đi miệng còn rủa xả:
– Thằng ăn mày chết bầm dám ăn trộm đồ ăn của tao, để tao bắt được lần nữa đánh cho mày chết luôn!
Người trên phố qua lại như mắc cửi nhưng không một ai để ý tới.
Cũng không biết trải qua bao lâu, có một người đàn bà mặc váy và cái áo đơn cũ nát dắt theo một cô bé từ trong con hẻm nhỏ tối tăm lủi thủi đi đến, cô gái nhỏ thấy thằng bé ăn xin nằm vật ra bên rãnh nước, cô bé dừng bước. Hình như xảy ra một cuộc tranh chấp nhỏ giữa hai mẹ con, cô bé rút cục thắng. Cô bé vén cái váy rách rưới nhanh chân chạy đến bên rãnh nước.
Cô gái nhỏ ngồi xổm xuống nhìn thằng bé đang bị ngất, sau đó cầm cái bình vỡ từ trong tay mẹ cẩn thận đút cháo cho thằng bé. Thằng bé ăn xin rõ ràng đói bụng lắm, mặc dù đang trong hôn mê nhưng khi cháo đút đến miệng nó vẫn vô ý thức vội vàng nuốt xuống.
Thằng bé ăn xin từ từ tỉnh lại, khi mở mắt ra nó cảm thấy đau nhói. Một mắt của nó bị đánh thâm tím, xưng vù lên nhìn chỉ còn thấy một đường như sợi chỉ. Sau một hồi choáng váng, nó khẽ hí mắt nhìn cô gái nhỏ trước mặt.
Cô bé khoảng sáu bảy tuổi, người gầy trơ xương, khuôn mặt nhỏ bẩn thỉu, mái tóc rối tung có lẽ vì thiếu dinh dưỡng nên hơi khô vàng, chỉ có cặp lông mày là vừa đen vừa rậm. Đàn ông con trai mà có cặp lông mày như thế nhất định trông rất khí phách hào hùng, nhưng với đàn bà phụ nữ thì hình như nó hơi đậm quá.
Cô gái nhỏ mặc một chiếc áo ngắn màu xanh nhạt, chỗ đầu vai áo bị rách mờ mờ thấy cả da thịt, phía dưới cô bé mặc cái váy hình lá trúc kéo cao tới ngực. Lúc này cô bé đang ngồi xổm trước mặt thằng bé ăn xin, vì vậy chỗ rách của váy lộ ra hai cái đầu gối trắng trẻo.
Thằng bé nhanh chóng hiểu rõ tình cảnh của mình, cũng nhìn ra thân phận của hai mẹ con kia, nó không nói lời cảm ơn, chỉ kinh ngạc nhìn cô gái nhỏ. Cô bé toét miệng cười với nó, có lẽ là do đang thay răng, hàm răng cô bé bị sún thoạt trông rất buồn cười.
Cô bé nghiêng đầu suy nghĩ rồi móc từ trong người ra một cái bánh bao không nhân, cẩn thận bẻ thành hai nửa, so sánh một hồi mới để một nửa lớn hơn vào lòng thằng bé. Cô bé lại toét miệng cười với nó, sau đó cầm cái bình vỡ đứng lên. Người mẹ bước tới dắt tay con, thản nhiên nhìn thằng bé ăn xin một cái rồi hai mẹ con men theo con hẻm nhỏ âm u bỏ đi.
Thằng bé ăn xin gắng gượng nặng nề đứng lên, xương cốt cả người nó đau nhức. Nó kéo kéo lại bộ quần áo rách như tổ đỉa của mình, ngỡ ngàng nhìn xung quanh rồi vô ý thức đi theo sau hai mẹ con kia.
Cô gái nhỏ cầm tay mẹ, thỉnh thoảng quay đầu lại nhìn. Cô bé nghĩ hoàn cảnh của thằng bé ăn xin cách đó không xa xem ra còn trắc trở khó khăn hơn hai mẹ con họ. Quần áo thằng bé rách tươm chỉ đủ tạm che đậy thân thể, cổ áo hở toang lộ ra bộ ngực gầy trơ xương, gương mặt nó gầy guộc xanh xao, trên mặt bầm tím, vết thương mới chồng lên vết thương cũ.
Cô bé lại toét miệng cười với nó.
Dần dần con đường càng lúc càng hẻo lánh, một ngôi miếu đổ nát xuất hiện ở phía trước, nửa ngôi miếu còn có tường bao quanh, nửa kia đổ ngã xiêu vẹo.
Người phụ nữ dắt con đi vào trong miếu. Thằng bé ăn xin đứng ngoài một lát rồi cũng vào theo.
Trong ngôi miếu đổ nát không chỉ có mỗi một tên ăn mày, một lão ăn mày già ngồi dưới ánh mặt trời, cởi tấm áo rách trên người lộ ra thân thể chỉ còn da bọc xương bắt bọ chét. Một tên ăn mày khác có da có thịt hơn một tí đang nằm trên đống cỏ khô, chân bắt chéo miệng khẽ ca hát.
Người đàn bà dẫn con gái tìm một chỗ ngồi trong miếu, cô gái nhỏ bắt đầu ăn, còn người đàn bà lấy một nắm cỏ dại dai bền ra bện tết cái gì đó.
Thằng bé giống như con thú nhỏ đang hoảng sợ đề phòng đánh giá xung quanh miếu, nhưng nó vẫn một mực như trước bước lại gần chỗ hai mẹ con. Nó rất ít khi được đối đãi tử tế, lòng tốt của cô bé khiến nó cảm thấy rất thân thiết, nó không nơi nương tựa, theo bản năng sẽ muốn gần gũi với thứ mà nó cảm thấy thân thiết.
Cô gái nhỏ bị mất hai cái răng cửa nên vất vả gặm cái bánh bao không nhân, gặm thật lâu cho đến khi nước bọt thấm ướt bánh bao rồi mới dùng hết sức cắn một miếng. Cô bé vui vẻ nuốt bánh bao, nhìn thằng bé nhỏ giọng hỏi:
– Ta tên Nữu Nữu, ngươi tên gì?
Thằng bé hình như có vẻ ngỡ ngàng, hồi lâu, có cái gì đó chua xót trào lên khóe mắt, nó nhẹ nhàng đáp:
– Ta. . . tên A Sửu.
– A Sửu, ngươi ngồi xuống đây!
Nữu Nữu vỗ vỗ đống rơm bên cạnh, A Sửu nhìn nhìn rồi ngồi xuống bên cạnh cô bé.
Nữu Nữu cắn bánh bao, nghiêng đầu nhìn nó hỏi nhỏ:
– Sao ngươi bị người ta đánh vậy?
A Sửu đáp:
– Bởi vì ta trộm đồ ăn của họ.
– A! Thế thì không tốt đâu, đi xin cơm ăn được cơ mà, cuối cùng rồi cũng sẽ gặp được người thiện tâm thôi.
A Sửu trầm mặc một hồi mới khẽ nói:
– Ăn xin, ta làm không được, ta…không thò tay ra được…
Hai chiếc răng cửa của Nữu Nữu bị gãy, cái bánh bao cũng không biết đã để mấy ngày nên cứng như đá, gặm cả buổi, gặm cho ướt nhẹp toàn nước bọt mà cô bé vẫn chưa cắn được miếng tiếp theo. Nghe A Sửu trả lời, cô bé ngừng gặm, ngạc nhiên mở to miệng hỏi:
– Tại sao thế? Chẳng lẽ trộm đồ không mất mặt à?
A Sửu nghiêm túc suy nghĩ một chút rồi đáp:
– Ta không biết, mặc dù trộm cũng thò tay, nhưng. . . cảm giác hình như không giống ăn xin. Ăn trộm ta chỉ cẩn chuẩn bị tốt tư tưởng là sẽ bị đánh, còn ăn xin, ta không thò tay ra được, cũng không nói ra được lời xin xỏ…
Nữu Nữu chớp chớp mắt, hoang mang suy nghĩ hồi lâu mới lắc đầu nói:
– Ta không hiểu!
A Sửu cười cay đắng, nó chậm rãi ngẩng đầu, nhìn chùm ánh nắng rọi xuống từ lỗ thủng trên nóc miếu cùng bụi bặm bay lượn trong ánh nắng, nó buồn bã nói:
– Thật ra bản thân ta cũng không hiểu. . .
Nữu Nữu cười khúc khích:
– A Sửu, ngươi đúng là một tên ăn mày kỳ lạ.
A Sửu bướng bỉnh nhấn mạnh:
– Ta không phải tên ăn mày! Cho tới bây giờ ta chưa từng ăn xin!
Tính tình Nữu Nữu rất tốt, cô bé nhượng bộ:
– Được rồi được rồi, ngươi không phải ăn mày, ngươi là một tên trộm kỳ lạ, như vậy được chưa? Hì hì.
– Ừ!
A Sửu suy nghĩ một chút mới trịnh trọng gật đầu, chấp nhận lời đánh giá này của cô bé.
Nữu Nữu quay đầu kéo ống tay áo mẹ cất giọng năn nỉ:
– Mẹ, mẹ bện cho A Sửu một đôi giày được không?
Cô bé lại quay đầu qua nháy mắt mấy cái rồi hỏi:
– A Sửu, ngươi chịu ở lại đây không?
. . .
– Chịu không?
– Ừ!
Nữu Nữu lại nhe hàm răng sún cười rộ lên, trông rất buồn cười.
Lúc này, một đôi giầy rơm đang dần dần thành hình trong tay mẹ Nữu Nữu. . .
A Sửu đúng là một đứa bè kỳ lạ.
Nó trước sau ương bướng không chịu đi ăn xin, thà rằng đi trộm.
Bởi vì không phải dân trộm chuyên nghiệp, A Sửu thường bị người ta đánh cho mặt mũi bầm dập, nếu không phải được mẹ Nữu Nữu giúp đỡ, có thể nó đã chết đói từ lâu.
Trong ngôi miếu đổ nát tổng cộng có hơn mười người ăn xin sinh sống, họ nhất trí cho rằng A Sửu nên gọi là A Ngốc, nó khẳng định là một thằng ngốc, chỉ có Nữu Nữu không nghĩ như vậy.
Khi A Sửu ăn no xong, nó chưa bao giờ cùng với mấy tên ăn mày khác ngồi dưới ánh mặt trời, vừa cởi áo bắt bọ chét vừa nói chuyện phiếm với nhau, nó luôn ngồi một mình trên nửa tảng đá to ở sân sau miếu, tay chống cằm ngây người nhìn bầu trời. Nữu Nữu cảm thấy A Sửu nhất định đang suy tư gì đó.
Người khác có biết A Sửu biết suy nghĩ không?
Còn có một lần, Nữu Nữu len lén thấy A Sửu cầm trong tay một cành cây, vẽ gì đó trên mặt cát. Sau khi A Sửu bỏ đi, Nữu Nữu chạy qua nhìn rồi so sánh với nửa tấm bia đá cả buổi mới nhận ra thứ A Sửu viết là chữ trên nửa tấm bia đá, nhớ tới lúc hắn viết động tác lưu loát như nước chảy, Nữu Nữu cực kỳ hâm mộ.
Người khác có biết A Sửu biết viết chữ không?
A Sửu còn biết leo cây lấy trứng chim, biết dùng cành cây đập chuồn chuồn, biết xuống sông bắt cá, bất kể là trứng chim, chuồn chuồn hay là cá, cuối cùng đều không ngoại lệ biến thành thức ăn thơm ngon, mặc dù chúng nó vẫn thường bị nướng cháy khét, nhưng Nữu Nữu ăn rất ngon miệng.
Trong khoảng thời gian đó, mặt mũi A Sửu luôn bầm tím, còn môi Nữu Nữu thì luôn đen sì sì.
Trong quãng đời tuổi thơ Nữu Nữu ăn xin để sống, Nữu Nữu nhận đủ ánh mắt ghẻ lạnh và những chuỗi ngày đói khổ lạnh lẽo, nhưng mấy ngày làm bạn với A Sửu trở thành hồi ức đẹp nhất của cô bé.
Chương 3: A Sửu và Nữu Nữu
Mùa đông năm đó mẹ của Nữu Nữu mắc bệnh. Những lần bị bệnh trước đó bà thường gắng gượng vượt qua, nhưng lần này thì không thể, bệnh tình của bà cực kỳ nghiêm trọng. Bà càng ngày càng tiều tụy, đến nỗi không thể nhấc nổi thân đi ăn xin.
Có một hôm, ánh nắng chiếu lên thân xác ốm o gầy gò của bà đang nằm trong ngôi miếu đổ nát, ánh dương quang vẫn rực rỡ như thường lệ, và cũng như thế sắc mặt bà xám ngắt như cũ.
Nữu Nữu nằm sấp trên người mẹ bất lực khóc, A Sửu ở bên kia nước mắt lưng tròng nhưng nó cố nén không để nước mắt rơi xuống. Từ sau khi ở thôn nhà khóc suốt một buổi chiều, khóc đến nỗi mắt sưng vù, cổ họng đau rát, nó gần như không còn khóc nữa, nước mắt dường như đã bị khô cạn.
Mẹ của Nữu Nữu một tay nắm lấy bàn tay gầy nhỏ bé của con, tay kia kéo A Sửu, ánh mắt bà ẩn chứa bao cảm xúc: bi thương, cam chịu, thê lương, nhung nhớ, quyến luyến và thống khổ, ai trông thấy cũng phải tan nát cõi lòng.
– A Sửu, Nữu Nữu… bác xin nhờ cháu…
Bà biết rõ A Sửu còn nhỏ, cũng rõ tánh khí quật cường một mực nhất định không chịu đi ăn xin của nó, ngay cả nuôi sống bản thân nó còn lo không xong, nhưng bà không còn ai khác để phó thác, những tên ăn mày khác ở trong miếu đều lẩn tránh, nhìn bà chuẩn bị chết với ánh mắt thờ ơ lạnh nhạt, bà tìm không thấy một tí cảm thông hay thương xót nào trong ánh mắt của những tâm hồn chai cứng kia.
– Nữu Nữu con…
Bà bùi ngùi thở dài, bàn tay gầy yếu vô lực đặt trên đầu con nhẹ nhàng vuốt, rồi bà đột ngột ra đi, mắt không kịp nhắm lại, một giọt lệ từ khóe mắt khẽ khàng trượt xuống bên má.
– Mẹ ơi! Mẹ ơi…
Nữu Nữu ôm xác mẹ khóc rống lên.
A Sửu mắt vằn đỏ, đầu óc mụ đi. Nó cắn răng cố không rơi nước mắt, tay nhẹ nhàng vuốt mắt mẹ Nữu Nữu rồi đứng dậy đi ra ngoài.
Nữu Nữu phục trên thân thể mẹ khóc ròng, khóc đến độ không còn sức để khóc thành tiếng, lúc này, A Sửu quay trở lại.
Hình ảnh A Sửu giống như con chó nhỏ bị vùi dập trong vũng bùn, cả người dơ dáy bẩn thỉu vô cùng. Nó uể oải lết về ngôi miêu đổ nát, ngồi xuống bên cạnh Nữu Nữu thở dốc. Sau đó nó lấy ra hơn nửa cái chiếu trúc, đẩy mẹ Nữu Nữu lên chiếu bó chặt lại rồi kéo ra ngoài miếu.
Trên bãi cỏ cạnh bờ sông, có một cái hố do A Sửu cố gắng dùng gậy, dùng tay đào bới.
Người đã chết dù gì cũng phải được chôn cất cho an lành.
Những người thân yêu nhất của nó, cha mẹ, chị đều bị hỏa táng trong biển lửa, thi thể họ chỉ còn là một đống tro tàn. Khi đó nó cũng giống như Nữu Nữu hiện giờ, tràn ngập trong kinh hoàng, không biết làm gì hơn chỉ biết khóc, khi tinh thần tỉnh táo được một chút liền bỏ trốn ra khỏi thôn. Bây giờ nó ít ra còn có khả năng chôn cất mẹ Nữu Nữu cho đàng hoàng, không để cho bà thành cái xác trôi sông.
A Sửu đẩy mẹ Nữu Nữu xuống hố, vùi đất với hai bàn tay rướm máu vì cào bới, sau đó cắm một miếng gỗ nhỏ trước mộ phần làm bia, làm xong nó nằm vật ra, không còn tí sức lực nào để nhấc tay nhấc chân.
Từ đó trở đi, A Sửu và Nữu Nữu sống nương tựa vào nhau như hai anh em.
Cô bé không còn gọi nó là A Sửu mà gọi là anh, còn nó vẫn gọi cô bé là Nữu Nữu.
A Sửu vẫn như cũ đi ăn trộm, vẫn thường bị đánh đập cho nên hai đứa luôn bị đói.
Nữu Nữu được mẹ chăm sóc từ nhỏ nên không rành việc đi ăn xin, thường thường khi cô bé có thể xin được gì thì lại bị đám ăn mày ở địa bàn đó lấy mất, còn không thì xin cũng không đủ để mà ăn. Có một lần cô bé bị chó dữ của một gia đình cắn bị thương nằm liệt mấy ngày liền, A Sửu lại ăn trộm không được gì, cô bé nằm chờ chết vì đói.
A Sửu giống như một con sói tuyệt vọng ngồi bên cạnh Nữu Nữu đang hấp hối, sâu lắng nhìn cô bé. Nữu Nữu không biết anh đang suy nghĩ gì, thật ra cô bé từ trước đến giờ cũng không hiểu anh, cô bé chỉ biết anh thương mình, từ lúc mẹ qua đời anh là người thân duy nhất trên nhân thế.
A Sửu vẫn nhìn cô bé như thế, nhìn hồi lâu liền đứng dậy lấy dây thừng bện bằng rạ bó chặt cái bụng lép kẹp vì đói rồi uể oải bước ra ngoài.
Những tên ăn mày khác ở trong miếu lòng đầy căm phẫn, bọn chúng nói mẹ Nữu Nữu nuôi phải một đứa vô ơn, lúc khó khăn thì bỏ mặc Nữu Nữu tự sanh tự diệt, thế nhưng bọn chúng có chia xẻ cho cô bé một tí thức ăn nào mà bọn chúng xin được đâu.
Nữu Nữu không tin lời bọn chúng, cô bé không tin người đã từng trèo lên cây cao thật cao lấy trứng chim, xuống sông bắt cá bột, dùng cành cây đánh bắt chuồn chuồn cho mình ăn, lại sẽ bỏ rơi mình. Cô bé tin tưởng anh sẽ trở về, có lẽ… anh đang đào phần mộ cho mình giống như anh đã làm để chôn cất mẹ lúc trước.
Cô bé nghĩ, chẳng bao lâu nữa sẽ được nhìn thấy mẹ, trong lòng liền cảm thấy vui sướng thanh thản, nhưng khi nghĩ đến sẽ phải xa anh liền cảm thấy không thoải mái, muộn phiền. Cô bé không biết thế giới của người chết sẽ như thế nào. Theo bản năng, cô bé cảm thấy lưu luyến cuộc sống, đối với cái chết tràn ngập sợ hãi.
Nữu Nữu đợi thật lâu, suy nghĩ thật nhiều, cho đến khi không còn chút hơi sức nào, khi tiếng xỉ vả đầy căm phẫn của những tên ăn mày trong miếu ngừng lại, cô bé thấy anh trở về, dáng đi thật uể oải nhưng hai tay của anh không bị trầy xướt rướm máu, người cũng không lấm bùn đất, tay bưng một cái bình sứt mẻ, trong cái bình đựng nửa bát cháo nóng.
A Sửu đút cho Nữu Nữu ăn từng miếng từng miếng một.
Mạng của hai đứa giống như cỏ dại trên bờ ruộng, cho dù có nhiều người qua lại chà đạp đi nữa, nó vẫn kiên cường sống sót.
Nữu Nữu sống lại.
Mùa đông năm đó, những chỗ gần đống lửa đều bị đám ăn mày kia chiếm cứ, chỗ của hai đứa ở xa đống lửa nhất, đỉnh đầu chính là lỗ hổng trên nóc miếu, bông tuyết lất phất bay xuống. Hai đứa trên người đắp rơm rạ, ôm nhau thật chặt, dùng hơi ấm thân thể để chống lại cơn giá buốt.
Đông qua xuân tới, A Sửu từ một người cảm thấy khó khăn, ngượng ngùng lắp ba lắp bắp khi đi ăn xin biến thành một tên ăn mày nhỏ rất lanh lợi, rất cừ.
Cái tính khí quật cường ngày xưa thà rằng đi ăn trộm bị bắt bị đánh đập, hiện giờ trở thành một tên ăn mày, có lẽ cái tính khí đó vẫn như trước, có một chút quật cường, một chút kiêu ngạo, một chút kiên định, nhưng vì Nữu Nữu, A Sửu cất giấu tất cả thật sâu tận đáy lòng.
Đang giữa mùa xuân mưa như mắc cửi, giăng mắc một màn võng giữa đất trời.
A Sửu và Nữu Nữu chân trần chạy vui đùa tung tăng trong mưa như đôi cá trong nước.
Giày của hai đứa đã hư nát hết chỗ nói, mẹ Nữu Nữu đã thành một nắm đất vàng, không thể bện giày rơm cho hai đứa nữa.
A Sửu và Nữu Nữu chạy đến dưới một lùm chuối ba tiêu, tán lá chuối dài rộng tạo thành cái ô, tuy nhiên mưa vẫn theo lá cây chảy xuống thành dòng tưới thẳng vào mặt, hai đứa cảm thấy khoan khoái dễ chịu hơn nhiều.
A Sửu lấy từ trong ngực ra một cái bánh bao không nhân giống như lấy ra một bảo bối, có lẽ nó đã bị nước mưa ngấm mềm nát, A Sửu khổ ra mặt. Nữu Nữu khôn khéo vội an ủi anh:
– Anh, không sao đâu, hôm nay ăn dâu chua nhiều quá răng muốn rụng mất, bánh bao không nhân cứng ngắc cắn cũng chẳng mẻ miếng nào.
Cô bé vừa nói vừa ráng nhìn anh nở nụ cười, lộ ra một hàm răng nhỏ xinh đẹp như răng mèo.
A Sửu xoa xoa đầu cô bé, tóc cô bé rối tung như cái tổ chim.
Hai đứa mỗi đứa một nửa cái bánh bao mềm nát, lấy lá chuối non làm chén hứng nước mưa, uống một ngụm nước mưa, cắn một miếng bánh bao lấp đầy cái bụng đói.
Mưa vẫn rơi, mưa như tơ giăng mắc…
Giữa mùa hè xảy ra một chuyện, vì chuyện này A Sửu và Nữu Nữu quyết định rời khỏi ngôi miếu hoang đổ nát, hai đứa trở thành tứ cố vô thân không nơi trú ngụ.
Vào một đêm hè ánh trăng tròn vằng vặc.
Một loạt tiếng la khóc làm A Sửu bừng tỉnh, nó phát hiện một tên ăn mày đứng tuổi ở chung trong miếu có biệt hiệu Tiểu Lang đang nhào vào người Nữu Nữu, ra sức xé quần áo vốn đã rách bươm của cô bé, miệng hôn loạn xạ khắp người cô bé.
Nữu Nữu còn nhỏ nên không biết tên Tiểu Lang muốn làm gì với mình, có lẽ do trực giác của con gái, cô bé biết mình đang gặp phải một chuyện hết sức đáng sợ, vì vậy cô bé khóc rống lên.
Mấy tên ăn mày khác ở trong miếu hoang cũng bị đánh thức, bọn chúng nhìn chuyện đang xảy ra cho hai đứa với ánh mắt kỳ lạ đầy ám muội, cả đám không một ai lên tiếng ngăn cản, chỉ chực nhìn xem sự việc xảy ra, ánh mắt bọn chúng hau háu, trông rất lạ lẫm, rất đáng sợ.
A Sửu sau khi tỉnh giấc thấy chuyện xảy ra trước mắt, bỗng chốc nó biến thành một con người khác, một con người đã tiềm ẩn rất sâu trong nó, do cừu hận và sỉ nhục giày vò, hun đúc, đó chính là một con dã thú hung dữ giờ phút này bị kích thích bộc phát ra.
Hai con mắt A Sửu đỏ sọc, trán nổi gân xanh, nó phẫn nộ gào rú, phóng lên người tên Tiểu Lang, dùng cả người làm vũ khí cào cấu, cắn xé tên kia.
A Sửu giờ phút này hóa thân thành một con sói thực sự, chớ không phải một con sói nhỏ với biệt hiệu Tiểu Lang.
Tên Tiểu Lang khỏe như vâm chỉ cần hất tay, thân thể yếu ớt của A Sửu sẽ bị ném bay dập vào tường như cục thịt. Nhưng không biết sức lực từ đâu ra, A Sửu liều chết bám dính cứng lấy tên kia, điên cuồng cào cấu cắn xé. Đầu tiên nó cắn đứt nửa cái lỗ tai tên Tiểu Lang, ngay sau đó cắn lên vai tên nọ dứt ra một miếng thịt.
Tên Tiểu Lang đau quá đấm thùm thụp vào người A Sửu. A Sửu phun một búng máu vào mặt tên Tiểu Lang, cậu nhóc có chăng chỉ còn hàm răng sắc bén làm vũ khí. Gã ăn mày kia nhìn thấy ánh mắt tàn khốc như con sói hoang của A Sửu, gã đột nhiên ý thức được thằng nhóc thường ngày ngơ ngơ ngẩn ngẩn đã nổi cơn điên, mạng gã chắc tiêu mất, gã lập tức bỏ chạy, vừa chạy vừa rống lên.
Mặt, mũi, miệng A Sửu đầy máu, mắt sưng vù, cậu bé lết tới bên cạnh Nữu Nữu đang khóc thút thít ôm chặt lấy cô bé.
Từ lỗ hổng trên nóc miếu hoang, ánh trăng sáng tỏ chiếu lên người A Sửu, mặt mày cậu bé đầy máu tươi, ánh mắt dữ tợn liếc qua mặt mấy tên ăn mày còn lại trong miếu, như con sói bị thương bảo vệ chủ quyền của mình nó gằn từng tiếng:
– Ai muốn ăn hiếp con bé, trước hết bước qua xác tao!
Mấy tên ăn mày quay người lại ngủ tiếp, coi như hoàn toàn chưa có chuyện gì xảy ra, trong miếu hoang đổ nát chỉ còn tiếng khóc của Nữu Nữu. A Sửu ôm chặt cô bé, ánh trăng mờ ảo chiếu lên trên người hai đứa, một lúc sau, A Sửu đột nhiên lặng lẽ chảy nước mắt giàn dụa, đây là lần đầu tiên Nữu Nữu thấy anh khóc.
Trong lòng Nữu Nữu bấn loạn sợ hãi, cô bé nghĩ anh chắc đau lắm. Cô bé hiểu chuyện nên ngừng khóc, ghé sát lại gần thổi nhè nhẹ lên cặp mắt sưng vù, bàn tay nhỏ bé gầy khẳng kheo xoa xoa chỗ máu ứ trên má của anh. Cô bé thầm ước anh ngừng khóc, trông thấy anh rơi lệ lòng cô bé quặn thắt, nỗi đau này lấn át cơn sợ hãi.
Nhưng anh càng lúc càng khóc nhiều hơn vì vậy Nữu Nữu cũng khóc theo anh.
A Sửu ôm chặt cô bé nghẹn ngào thốt:
– Nữu Nữu, anh thật sự lo sợ, sợ rằng mình sẽ biến thành một tên ăn mày! Sợ rằng… sẽ có một ngày anh cũng giống như bọn chúng, biết thành một cái xác không hồn, Nữu Nữu, anh thật sự đã trở thành một tên ăn mày!
Nữu Nữu không hiểu anh đang nói gì, anh thường xuyên nói chuyện rất khó hiểu, nhưng cô bé biết anh rất thương mình, từ khi mẹ mất anh chính là người thân duy nhất trên thế gian, có hiểu anh nói gì hay không không quan trọng, quan trọng là anh thương yêu mình, như vậy đủ rồi.
Cô bé ngước khuôn mặt nhỏ nhắn lên nhìn vào đôi mắt đẫm lệ của anh, đôi mắt của anh sao bi thương quá, giống hệt như ánh mắt của mẹ trước khi mất, cam chịu, thê lương, đau khổ, làm người tan nát lòng.
Nữu Nữu rất sợ sẽ mất anh giống như đã mất đi người mẹ hiền, cô bé ôm anh thật chặt, nói:
– Anh muốn làm cái gì thì làm cái đó. Mặc kệ anh làm cái gì, Nữu Nữu sẽ luôn ở bên cạnh anh, cho dù anh là tên ăn trộm hay thằng ăn mày, chỉ cần được ở cùng với anh, tất cả mọi thứ không quan trọng!
A Sửu và Nữu Nữu suốt đêm đó rời khỏi ngôi miếu hoang đổ nát, hai đứa lo sợ tên Tiểu Lang sẽ trở lại, chỉ dựa vào lòng can đảm hai đứa không thể bảo vệ bản thân. Hai đứa sẽ đi ăn xin như trước, bởi vì đây là phương pháp duy nhất để sinh sống, nhưng A Sửu cũng quyết tâm sẽ làm chuyện gì đó, nó phải sống, giống như một người bình thường tiếp tục tồn tại.
Hai đứa bỏ đi, một câu truyện truyền kỳ bắt đầu.
Từ trước đến nay truyện truyền kỳ là do những kỳ tích, kỳ công tạo thành.
Kỳ tích là gì?
Kỳ tích có thể là do người phi phàm làm chuyện phi phàm, cũng có thể là do nhiều điều ngẫu nhiên kết hợp với nhau tạo thành một sự trùng hợp kỳ diệu.
Kỳ tích của A Sửu và Nữu Nữu vừa có sự trùng hợp, cũng có người phi phàm, và những sự việc phi phàm!
Chương 4: Trâm cài hình bướm
Bến cảng Quảng Châu, thuyền của Ba Tư, Bà La Môn (Ấn Độ hiện giờ), đảo quốc Sư Tử (Singapore hiện giờ), Hồi Cốt (Đế quốc Uyghur – 744-847), của người da trắng, da đỏ man dã, của người Đại Đường ra vào tấp nập.
Những chiếc tàu thật lớn, ngàn vạn thuyền bè lớn nhỏ tấp nập rộn ràng lên xuống hàng.
Trong những đội tàu thuyền của người nước ngoài, tàu thuyền của đảo quốc Sư Tử là lớn nhất, cầu thang từ bờ lên tới mạn thuyền cao mấy trượng, nhưng loại thuyền lớn nhất phải là loại thuyền “Du Đại Nương” của người Đại Đường.
Người bấy giờ có câu: “Thủy bất tải vạn!” Ý nói thuyền bè vận tải hàng hóa không thể vượt quá một vạn thạch (đơn vị dung tích khoảng 100 lít), nhưng loại thuyền “Du Đại Nương” lại có thể chở trên vạn thạch, thuyền hoạt động rất chắc chắn bền bỉ, chống được sóng to gió lớn. Ở bến cảng trông thấy loại thuyền này cũng chưa chắc nó đã là thuyền của người Đại Đường, bởi vì rất nhiều thương nhân hàng hải ngoại quốc mua hoặc thuê nó từ người Đại Đường.
Trên bến tàu, hàng hóa như hoa quả, rau xanh, lúa mạch, lúa mì, mía, vải vóc lụa là, đồ sứ… mới được dỡ xuống hay chuẩn bị được bốc lên chồng chất như núi.
Một con thuyền cỡ trung vừa mới cập bến, một thương nhân buôn bán thực phẩm lớn bước ra nghênh đón, niềm nở bắt chuyện với một người Côn Luân ăn mặc kiểu nhà đò đang đứng ở đầu thuyền, hai người như bạn bè lâu ngày không gặp.
– Ha ha, lâu quá không gặp A Cáp Nỗ Bỉ nhà ngươi, chắc ngươi không thể ngờ được trong vòng một năm Đại Đường đế quốc thay đổi tới ba vị hoàng đế, phải không?
Viên thuyền trưởng người Côn Luân có làn da ngăm đem và người thương nhân kia nói chuyện với nhau bằng tiếng Đại Đường, loại ngôn ngữ rất phổ biến thông dụng thời đó.
Viên thuyền trưởng nói:
– Đúng rồi, ta nghe kể thiên hoàng bệ hạ của Đại Đường sức khỏe không được tốt, thiên hoàng băng hà, thái tử đăng cơ, nhưng tại sao thái tử vừa mới đăng cơ lại thay đổi hoàng đế mới?
Người thương nhân đáp:
– Phải kể lại chuyện xảy ra lúc đầu năm, thiên hoàng băng hà, thái tử đăng cơ xưng đế, thay đổi niên hiệu thừa kế ngôi vua. Nhưng vừa đăng cơ hôm trước hôm sau tân hoàng đế đã sắc phong đề bạt cha vợ của mình là Vi Huyền Trinh từ một chức tham quân nho nhỏ lên chức thứ sử Dự Châu, cái này cũng không sao, dù gì cũng là bố vợ của vua, nhưng ai nào biết vẻn vẹn chỉ một ngày sau đó, hoàng đế lại sắc phong đề bạt ông ta lên chức Thị Trung.
Ái chà chà, nghĩ đến chuyện hoàng hậu không hài lòng với chức quan nho nhỏ của cha, đầu ấp tay gối, nỉ non tỉ tê với vua thật lợi hại quá chừng! Thị Trung chớ giỡn sao? Là đương triều tể tướng đó! Vi Huyền Trinh vốn chỉ là một tên nịnh bợ vô lại, tài đức đâu là giữ chức vị cao như vậy? Chuyện này chưa thấm tháp gì, hoàng đế còn có ý định đề bạt con trai vú em của mình làm quan ngũ phẩm, cái này thật đúng là một người đắc đạo thành tiên, gà chó cũng lên trời.
Trung thư lệnh Bùi Viêm hết sức can ngăn rồi phản đối không chịu tuân chỉ. Hoàng đế giận tím mặt, chỉ mặt Bùi trung thư mắng: “Trẫm giao cả thiên hạ cho Vi Huyền Trinh còn được, sá gì một chức thị trung!”. Bùi trung thư nghe vậy hãi quá sức, lật đật đi bẩm báo với Thiên Hậu, Thiên Hậu nghe xong cả giận liền triệu tập bá quan văn võ phế truất đương kim hoàng đế, lập Dự vương Lý Đán làm tân thiên tử.
Hai người đang nói chuyện với nhau, một đại hán mình cao tám thước từ trong khoang thuyền bước ra. Đại hán khoảng trên dưới ba mươi tuổi, hai hàng lông mày rậm như vẩy mực, hai gò má cao, râu quai nón chạy dọc hai bên gò má xoăn lại, hàng râu hùm thật ngang tàng, nhìn rất oai phong. Y uể oải vặn eo giống như một con mãnh hổ ngái ngủ vừa tỉnh lại.
Nhìn quang cảnh náo nhiệt trên bến tàu, đại hán mày rậm bỗng nhiên cười nói:
– Tổ phụ đại nhân nói sai quá chừng chừng, hoàn cảnh cuộc sống ở Đại Đường thực không chê vào đâu được, đông đúc và nhộn nhịp, sầm uất phồn thịnh thiên hạ có một không hai! Mỗ muốn vào thành tham quan.
Đại hán vừa dứt lời liền nhảy thẳng lên bờ, viên thuyền trưởng cuống quít bỏ mặc người thương nhân bước ra cản lại. Đại hán nghe y nói nhỏ vài câu, có vẻ không kiên nhẫn nói:
– Mặc dù mỗ mới tới, quang cảnh, con người, cuộc sống ở đây cái gì cũng không rành, nhưng được cái mỗ thông thạo tiếng Đại Đường, ngươi đi lo làm công việc buôn bán của ngươi, còn mỗ, mỗ muốn đi dạo chơi đây đó mở mang kiến thức, tìm hiểu phong thổ, con người Đại Đường một phen.
Y vỗ bội kiếm ở bên hông cất cao giọng nói:
– Mỗ chỉ một thân một kiếm đi lại tự do thoải mái, ngươi quay lại tiếp tục trò chuyện. Mỗ đi đây.
A Sửu và Nữu Nữu đang đứng ăn xin cách cửa phủ đô đốc Quảng Châu không xa. Ở những chỗ như vầy rất khó xin ăn, nhưng vì để trốn tránh tên Tiểu Lang báo thù, hai đứa phải tránh đi ăn xin những chỗ mà tên Tiểu Lang có thể tìm được hai đứa.
A Sửu một đằng đi ăn xin để sống qua ngày, đằng khác cố gắng tìm kiếm một công việc gì đó để làm, nó không muốn suốt đời làm một tên ăn mày, nó muốn tự mình tay làm hàm nhai nuôi sống bản thân. Chỉ tội cái ước mơ nhỏ nhoi đó cũng khó thực hiện, không ai dại gì đi thuê mướn một đứa nhóc mới mười tuổi đầu, lại là một tên ăn mày, hơn nữa còn cưu mang thêm một đứa em gái nhỏ.
Cửa phủ đô đốc Quảng Châu đột nhiên mở toang, một người đàn ông trung niên trong áo bào rộng khoan thai, dáng người thẳng tắp cùng một văn sĩ trung niên mặt mày thanh tú, tác phong tiêu sái bước ra khỏi cửa, đi bên cạnh hai người có rất nhiều người hầu, hộ vệ tiền hô hậu ủng cực kỳ khoa trương.
Người đi qua đường nhìn thấy xì xào bàn tán:
– Mau nhìn kìa, người có bộ râu cong như móc câu kia chính là đô đốc Quảng Châu Lộ Nguyên Duệ của chúng ta! Người khách được ông ta đưa ra tới tận cửa ắt là một đại quý nhân.
A Sửu ngước lên thấy người đàn ông trung niên kia mày rậm như kiếm, chòm râu như móc câu, cử chỉ phong thái ung dung, mang vẻ uy nghiêm có pha chút kiêu ngạo nhìn đời bằng nửa con mắt. Nó liếc nhìn sang vị văn sĩ thanh tú bên cạnh, mặt mày đột nhiên trở nên tươi tỉnh.
Đô đốc Quảng Châu nắm trong tay sáu đạo kỳ, một đạo kỳ tượng trưng cho một đạo quân, chính là nhất phương chư hầu của triều đình, ông hoàng của đất Quảng Châu, thế mà để cho đô đốc Quảng Châu phải mặt mày hớn hở tự mình đưa tiễn ra tới tận cửa, thân phận vị khách này ắt không thể thấp hèn cho được.
Khách là một văn sĩ trên dưới ba mươi tuổi, đầu quấn khăn, mặc áo trường bào cổ tròn tay áo may sát, eo thắt dây đeo một cây kiếm nhỏ dài khoảng trên một xích, trên vạt và tay áo bào lác đác điểm vài bông hoa mai làm tăng vẻ thanh tú tiêu sái của y, nhưng chú ý nhìn kỹ có thể nhận ra văn sĩ là nữ giả nam.
Không cần quan sát xem cổ y có trái cấm hay không, cũng không cần ngạc nhiên vì sao cằm y lại không mọc râu, chỉ cần nhìn dung mạo, ngũ quan trên mặt: lông mày và tóc mái được chải chuốt, má thoa phấn thì có thể biết chắc y là gái giả trai.
Con gái thời Đại Đường có tục lệ mặc quần áo đàn ông khi ra ngoài, tuy các nàng mặc quần áo khác phái, nhưng nhìn khuôn mặt và cách ăn mặc có thể nhận ra ngay.
Đứng bên cạnh vị văn sĩ phu nhân còn có một cô gái nhỏ độ chừng sáu bảy tuổi. Phu nhân đeo bên hông một thanh kiếm nhỏ dài khoảng hơn một xích, nhưng cô bé lại đeo một thanh kiếm dài vắt chéo sau lưng, thanh trường kiếm còn muốn dài hơn cả chiều cao của cô bé, đầu vỏ kiếm gần chạm đất, còn chuôi kiếm thì cao hơn vai một khúc, cái tua màu đỏ vàng ở chuôi kiếm rủ xuống vai hắt lên khuôn mặt ngây thơ xinh xắn của cô bé.
Hình ảnh khập khễnh kỳ lạ của hai người họ cực kỳ hấp dẫn sự chú ý của A Sửu và Nữu Nữu.
– Đi thôi, Nữu Nữu.
A Sửu thấy đám thị vệ tùy tùng bắt đầu xua đuổi những người xung quanh, hơn nữa thân phận lúc này của nó thuộc hạng người sẽ bị xua đuổi trước tiên, nó liền kéo Nữu Nữu bỏ đi, nhưng Nữu Nữu đột nhiên nắm chặt bàn tay nhỏ, ánh mắt nhìn chăm chăm vào cô bé đeo trường kiếm kia hưng phấn nói:
– Anh, mau, mau nhìn kìa, trên đầu cô bé có cài cây trâm.
– Cài trâm?
A Sửu quay lại nhìn, lúc này mới chú ý tới búi tóc của cô bé đeo trường kiếm có cài một cây trâm hình bướm màu sắc sặc sỡ trông rất sống động.
A Sửu lòng quặn thắt khi nhìn lại mái tóc cháy xém khô vàng rối tung như tổ quạ của Nữu Nữu. Nó theo thói quen xoa xoa đầu Nữu Nữu rồi nói thầm:
– Ngốc ạ! Ngoan, chúng ta đi thôi.
– Dạ
Nữu Nữu gật đầu đồng ý đi theo anh nhưng vẫn cứ lưu luyến mãi không thôi, đi đôi ba bước lại quay đầu nhìn đứa bé gái trạc tuổi mình trên đầu có cài cái trâm hình bướm kia. Nữu Nữu có thể cũng biết bản thân không thích hợp để cài một cái trâm như thế nhưng vẫn cứ muốn ngắm nhìn. Đang định ngắm thêm một lần nữa thì đám quan sai phủ đô đốc bắt đầu xua đuổi người, cái nguyện vọng được nhìn ngắm cũng trở thành xa vời.
A Sửu nhìn thấy ánh mắt lấp lánh của Nữu Nữu, cắn cắn nhẹ môi nói:
– Nữu Nữu, anh sẽ làm cho em một cây trâm, so với cái trâm của cô bé kia còn đẹp hơn!
Nữu Nữu ánh mắt sáng rỡ sung sướng hói:
– Thật không anh?
A Sửu cười tươi rói đáp:
– Ngốc, anh có gạt em bao giờ chưa?
Dừng lại ở một chỗ bên đường trồng toàn chuối ba tiêu, A Sửu dặn Nữu Nữu:
– Nữu Nữu, em đợi ở chỗ này, đừng chạy loạn nếu không tên Tiểu Lang nó bắt được, hiểu chưa?
– Dạ, Nữu Nữu ở đây chờ anh.
Nữu Nữu ngoan ngoãn ngồi xổm xuống dưới một gốc chuối, lỗ rách trên váy lộ ra đôi đầu gối trơn bóng. Chỉ một lát không lâu sau, A Sửu quay lại, hai tay giấu sau lưng, mặt tươi cười ra vẻ thần bí. Nữu Nữu đứng bật dậy ríu rít như chim sẻ:
– Anh, anh làm xong cây trâm rồi à?
A Sửu đắc ý cười nói:
– Đó là chuyện đương nhiên, anh hứa với em có bao giờ không làm được không. Em đoán thử xem anh làm cho em cây trâm hình gì?
– Đoán không được, anh mau lấy ra cho em xem.
Nữu Nữu nhao nhao đòi xem, A Sửu vừa chạy trốn vừa cười to, hai đứa cười đùa ầm ĩ một hồi, Nữu Nữu cuối cùng chộp được tay A Sửu.
– Úi cha, đẹp… con bươm bướm này đẹp quá!
Nữu Nữu há hốc mồm ngạc nhiên, sau đó khen lấy khen để.
A Sửu nói:
– Anh bắt nó làm trâm cho em cài.
Nữu Nữu thắc mắc:
– Con bướm này còn sống làm sao làm được cây trâm?
A Sửu mỉm cười một cách thần bí:
– Ai nói bươm bướm sống không làm được trâm? Em tới đây.
Nó nắm tay Nữu Nữu chạy đến một chỗ vắng rồi ngồi thụp xuống, rút một sợi chỉ từ lỗ rách trên áo rồi cẩn thận cột một đầu vào chân con bươm bướm, sau đó nói:
– Cúi đầu xuống.
– A!
Nữu Nữu cúi đầu. A Sửu kéo một chùm tóc trên đầu cô bé, cột đầu kia của sợi chỉ vào đó rồi buông tay ra. Con bướm trên tóc Nữu Nữu cố hết sức bay lên.
– Anh, có đẹp không?
Nữu Nữu vẻ mặt mong đợi nhìn anh.
A Sửu gật mạnh đầu:
– Đẹp lắm! Đẹp cực kỳ! Nữu Nữu cài trâm con bướm lên tóc đẹp chẳng hề thua kém bất cứ ai!
Nữu Nữu mỉm cười sung sướng, cô bé giằng khỏi tay anh chạy đến khe suối nhỏ bên đường soi mặt xuống nước, trên mái tóc rối bời như tổ quạ, một sợi chỉ cột dính một con bướm vào một nhúm tóc, con bướm ra sức đập cánh kéo thẳng nhúm tóc lên.
Nữu Nữu nhìn bóng mình trong nước, hé nở nụ cười trên môi. Đây có phải là một cô bé xấu xí, khuôn mặt nhỏ nhắn vô cùng bẩn thỉu, miệng sún mất mấy cái răng…
A Sửu nhìn cái bóng phản chiếu trong nước, một khuôn mặt tươi rói hạnh phúc, âu yếm vuốt vuốt đầu Nữu Nữu…
– Ọt, ọt…
Sau một hồi vui vẻ qua đi, bụng lại đói như trước, Nữu Nữu hai tay che cây trâm bươm bướm của mình như bảo bối, quay sang A Sửu nói:
– Anh, em đói bụng…
A Sửu đứng lên nhìn quanh quất khắp nơi:
– Nữu Nữu, em ở chỗ này chờ anh, anh đi kiếm chút gì bỏ bụng.
A Sửu đi qua cây cầu nhỏ, băng qua vườn chuối ba tiêu đến một cái sân, bầu không khí ở chỗ này thanh nhã yên tĩnh hơn hẳn so với vẻ náo nhiệt xô bồ của phố xá ngoài kia. Hai hàng rào giậu bao quanh cái sân nhỏ và tiệm rượu, trong sân dựng một cây “cờ vọng” (cờ hiệu cửa hàng)
Cao chót vót trên cọc gỗ treo một cái môi múc rượu lớn, phía dưới có buộc cái tua bằng vải xanh dài. Cây cọc gỗ phơi nắng dầm sương nhiều năm, sơn tróc ra từng mảng, mặt vân của gỗ nứt lộ ra cái già cỗi của mình, cái “nét mặt già cỗi” này như muốn khoe sự tồn tại lâu đời của căn tửu điếm.
Gió hiu hiu thổi, cái môi múc rượu lẳng lặng nằm yên trên đỉnh cột, chỉ có cái tua vải màu xanh phía dưới lười lẫm phất qua phất lại vài cái.
Cậu bé với cái bụng đói thất thểu đi đến, tướng đi so với cái cờ hiệu bằng vải màu xanh kia còn muốn uể oải hơn. Nó cố sốc lại tinh thần, lấy cánh tay áo hết sức lau chùi khuôn mặt, vuốt vuốt lại mái tóc, cố gắng chuẩn bị bản thân nhìn sao cho gọn gàng sạch sẽ, xong đâu đó nó mới bước vào căn tửu điếm.
Chương 5: Ngày kỳ tích (1)
Theo lẽ thường, ăn xin trong tửu quán tương đối dễ dàng hơn, vì chưởng quỹ muốn đuổi ăn mày đi cho mau thường ít nhiều gì cũng sẽ cho một chút đồ ăn, nhưng nếu ***ng phải những tay chưởng quỹ keo đến vắt chày ra nước thì cũng chả xin được gì. A Sửu hy vọng chưởng quỹ của tửu quán này không phải là người quá keo kiệt.
Bước vào tửu quán nó nhìn thấy mấy ả vũ cơ người Hồ trẻ đẹp múa hát theo tiếng nhạc ở ngoài hành lang.
Ngực nở, eo thon, mông tròn đầy đặn…
Trang phục hở hang của mấy ả vũ cơ để lộ ra một khoảng da thịt bên hông đầy khêu gợi, váy rủ xuống được thắt lại ngay hai bên eo khiến người ta khéo tưởng tượng không biết nó có rớt xuống theo động tác uốn éo như rắn của họ hay không.
Vũ điệu khoan thai cộng thên thân hình gợi cảm làm cho cánh đàn ông nhìn mà thèm nhỏ dãi.
A Sửu vẫn còn con nít chưa phải là đàn ông, do đó nó hoàn toàn không có tí hứng thú nào với những ả vũ cơ người Hồ ngực nở eo thon đầy quyến rũ kia, mắt nó chỉ dán chặt lên người viên chưởng quỹ để râu dê đang cúi xuống tính toán sổ sách phía sau quầy.
Trong tửu điếm, ở hai bên có rất nhiều sạp ngồi, khách ngồi chồm hỗm hoặc ngồi xếp bằng trên chiếu, trước mặt đặt một cái bàn con thấp bày đồ ăn và rượu, họ vừa nói chuyện vừa thưởng thức ca vũ.
Đi ngang qua trước mặt người khác đang ăn uống thì không được lịch sự cho lắm, cho nên thằng bé lách người đi vòng ra phía sau chỗ khách ngồi đến trước mặt chưởng quỹ.
Nó cẩn thận từng li từng tí, cố gắng hết sức tạo ấn tượng tốt cho chủ nhân của tửu điếm.
– Chưởng quỹ!
Thằng bé chắp tay trước ngực rất lễ phép chào hỏi:
– Chưởng quỹ làm ăn phát đạt, tiền vào như nước, xin bố thí cho tiểu nhân…
Ánh mắt của lão chưởng quỹ râu dê dời khỏi quyển sổ lạnh lùng quét qua người thằng bé, mặt vẫn lạnh như tiền, lão nhấc bàn tay gầy đét lão luyện khỏi bàn tính đưa lên vuốt vuốt chòm râu dê thưa thớt, sau đó khẽ búng đầu ngón tay ra phía ngoài như thể phủi bay một con ruồi.
Nữu Nữu ngồi xổm dưới gốc chuối ôm cái bụng đói meo, mắt dõi mong đợi tin tốt lành của anh.
Con bươm bướm mỏi cánh đậu xuống vai cô bé.
Cô bé mừng rỡ đứng lên khi thấy anh đi về từ cây cầu nhỏ phía đối diện. Con bươm bướm bị kinh động lại bay lên. Một cỗ xe ngựa từ từ chạy tới ngay chính giữa cô bé và anh, chắn ngang tầm mắt của cô bé.
Cô bé ngẩng đầu lên liền thấy tiểu tiên nữ xinh đẹp đầu cài cây trâm hình bướm đang nằm trên cỗ xe ngựa lộng lẫy, ánh mắt hiếu kỳ nhìn mình, nhìn con bươm bướm trên đầu…
A Sửu đi vòng qua phía sau chiếc xe, thấy Nữu Nữu đang nói chuyện với một vị quý nhân từ trên xe bước xuống. A Sửu hoảng hốt tưởng Nữu Nữu gây ra họa, nó liền bước tới cười giả lả với người đó:
– Xá muội trẻ người non dạ, nếu có chỗ nào mạo phạm xin quý nhân thứ tội.
Nhìn lại vị quý nhân, A Sửu nhận ra đó chính là vị văn sĩ phu nhân được đô đốc Quảng Châu Lộ Nguyên Duệ tự mình tiễn ra tới tận cửa phủ mà nó nhìn thấy trước đó, nó càng thêm thấp thỏm trong lòng.
A Sửu vừa dứt lời, cô bé đầu cài trâm hình bướm liền lách ra từ phía sau vị phu nhân mặc giả nam trang, tinh nghịch nghiêng nghiêng đầu với hai búi tóc hình con ốc, đôi mắt trong veo lườm nó, cười nói:
– Ơ ơ, thiệt không tưởng tượng được, một đứa bé ăn mày mà ăn nói văn vẻ như thế, hì hì, ta tên Công Tôn Lan Chỉ, ngươi tên gì?
– Lan Chỉ! Không biết phép tắc gì cả!
Vị phu nhân xụ mặt răn dạy con rồi quay sang hỏi A Sửu:
– Ngươi là anh ruột vị cô nương này à?
A Sửu vội đáp:
– Công Tôn đại nương, tiểu tử và Nữu Nữu không phải anh em ruột, nhưng sống nương tựa vào nhau như anh em, chuyện của Nữu Nữu, tiểu tử đương nhiên có thể gánh vác thay.
Vị phu nhân mỉm cười:
– Chồng của ta họ Công Tôn, ta không phải họ Công Tôn, ta họ Bùi. Ngươi gọi ta là Bùi đại nương được rồi.
A Sửu vội vàng sửa lời:
– Vâng, Bùi đại nương, không biết xá muội có chỗ nào làm mất lòng đại nương.
Bùi đại nương mỉm cười:
– Không có chỗ nào làm mất lòng hết, đứa con gái bướng bỉnh này của ta cứ một mực đòi cho bằng được một đứa bạn gái cùng tuổi với nó. Vừa rồi thấy vị cô nương này ở ven đường, trông lanh lợi, lại xinh xắn, con gái ta rất thích. Lúc nãy ta đã hỏi qua, cô bé chỉ là một bé gái ăn xin mồ côi, không bằng như vầy đi, để cô bé vào trong nhà làm bạn với con gái ta, nhân đó cô bé cũng có một chốn nương thân.
Nói đúng ra, chính vì cây trâm bươm bướm khác người của A Sửu đã làm cho Công Tôn Lan Chỉ thích thú, bằng không cô bé sao lại có thể để mắt tới một đứa bé gái ăn xin bên đường. Sau khi nói chuyện với nhau vài câu, ngay cả Nữu Nữu cũng cảm thấy ưa thích đối phương, lúc này Công Tôn Lan Chỉ mới động lòng liền năn nỉ mẹ thu Nữu Nữu làm thị nữ.
Nữu Nữu thích cái trâm hình bướm của Công Tôn Lan Chỉ, A Sửu vì thế làm cho em một “cây trâm hình bướm”, rồi Công Tôn Lan Chỉ vì “cây trâm hình bướm” này nên mới có ý định thu Nữu Nữu làm thị nữ để làm bạn chơi cùng, cái nào là nhân, cái nào là quả, thật sự khó mà phân biệt rõ ràng.
A Sửu nghe thế đương nhiên vui mừng quá đỗi, thân phận vị phu nhân khiến cho ông hoàng đất Quảng Châu đối đãi như khách quý sao có thể bình thường được, nếu Nữu Nữu được quý nhân như thế thu nhận, đó là phúc của cô bé, nếu không, chưa nói tới chuyện hiện tại nó chẳng thể lo cho em ấm bụng, đợi Nữu Nữu lớn lên một chút, gặp phải những kẻ xấu xa như tên Tiểu Lang, chỉ sợ bản thân nó cũng không thể may mắn bảo vệ em như lần trước.
A Sửu vui vẻ nói:
– Cha mẹ của Nữu Nữu đều đã qua đời, Nữu Nữu cơ cực không nơi nương tựa, nếu đại nương đồng ý thu nhận, điều này thật tốt quá, phần ân đức này tiểu tử không biết…
Nữu Nữu ở bên cạnh sợ hãi kéo góc áo anh:
– Anh, Bùi đại nương nói chỉ đồng ý dẫn một mình em đi thôi.
– Cái gì?
A Sửu chết lặng người, do dự một lát mới nói với Bùi đại nương:
– Bùi đại nương, tiểu tử rất chịu khó, làm công việc lặt vặt hay làm đầy tớ hầu hạ đều được, cũng không cần tiền công, chỉ cần có cơm ăn, có một chỗ ở…
Bùi đại nương mỉm cười lắc đầu, nụ nười như gió xuân phơi phới, nhưng câu nói tiếp theo của bà lại như cây chùy nặng nề nện vào lòng nó:
– Này cậu bé, tuy em cậu rất tốt, nhưng cũng chỉ vì con gái của ta đang muốn tìm người làm bạn, bằng không sao ta lại thu nhận một con bé ăn xin vào nhà, ta cũng không phải làm việc thiện!
A Sửu đỏ ửng mặt, nó cố gắng chịu đựng cái cảm giác nhục nhã ê chề, quay đầu nhìn Nữu Nữu:
– Nữu Nữu, em… nói đi?
– Em…
Nữu Nữu nhìn Bùi đại nương, nhìn con gái bà ta trong trang phục lộng lẫy, lại nhìn cỗ xe ngựa đẹp đẽ, đôi mắt toát ra một cơn khát vọng, nhưng khi nghĩ đến người anh cùng mình sống nương tựa lẫn nhau, ánh mắt của cô bé lại trở nên u ám, Nữu Nữu dứt khoát quay đầu lại, cúi đầu nói với A Sửu:
– Em… đi theo anh!
Bùi đại nương cười cười, dắt tay con nói:
– Lan Chỉ, chúng ta đi thôi!
– A, mẹ!
Công Tôn Lan Chỉ không bằng lòng bị mẹ kéo đi, miệng chu lên.
A Sửu thở phào một hơi nhẹ nhõm, cũng dắt tay Nữu Nữu, nhẹ nhàng nói với em:
– Chúng ta đi!
Công Tôn cô nương đi tới bên cạnh xe, kéo váy bước lên bậc để chân, ngoái đầu nhìn lại, đột nhiên oán hận giậm chân lớn tiếng nói:
– Thằng ăn mày, ngươi muốn nó đi theo ngươi làm ăn mày cả đời sao?
Tiếng nói của con bé theo chiều gió lọt vào tai, nụ cười chợt tắt trên môi A Sửu.
– Anh?
Nữu Nữu lo lắng gọi khi thấy nụ cười đông cứng trên mặt anh. A Sửu vẫn đứng như trời trồng ở đó.
“Ngươi có thể cho nó cuộc sống như thế nào? Ngươi muốn nó làm ăn mày cả đời sao?”
Lời chất vấn giống như cây chùy sắt phá thành nặng nề, từng chùy từng chùy giã vào lòng, đập tan nát cõi lòng nó.
Đột nhiên nó nắm lấy cổ tay gầy teo của Nữu Nữu quay người chạy trở lại, cao giọng gọi:
– Bùi đại nương, chờ một chút! Chờ một chút!
Xe ngựa dừng lại, Bùi đại nương nhô đầu ra ngoài cửa sổ thản nhiên hỏi:
– Chuyện gì?
– Nữu Nữu, em đi cùng Bùi đại nương đi!
Nữu Nữu giật mình nhìn anh, lắp bắp nói:
– Anh, em…
A Sửu sợ Bùi đại nương không hài lòng vội vàng nói với Nữu Nữu:
– Nghe lời! Em ở lại bên anh, anh làm sao chăm sóc cho em đây? Em đi với Bùi đại nương, tương lai nếu anh làm nên đại nghiệp, anh sẽ đi tìm em, nếu như em có bản lĩnh, em cũng có thể giúp đỡ anh. Chúng ta thỏa thuận với nhau, nếu như ai thành công thì phải đi tìm người kia, nhất định phải tìm cho bằng được! Có được không?
– Dạ! Nhưng mà…
– Vậy lên xe, nhanh lên xe!
A Sửu không cho em phân trần, ôm Nữu Nữu đặt lên càng xe, rồi lui ra sau ba bước vái lạy Bùi đại nương:
– Bùi đại nương, Nữu Nữu xin nhờ đại nương chăm sóc!
Công Tôn cô nương mừng rỡ gọi:
– Nữu Nữu, tới ngồi cạnh ta!
Bùi đại nương thản nhiên ra lệnh:
– Đi!
Két két két két, tiếng trục xe vặn vẹo cót két vang lên.
A Sửu vái lạy sát đất, từ đầu đến cuối vẫn không ngẩng đầu lên.
– Đừng quên lời anh vừa nói, những gì anh hứa, anh không được gạt em! Thật đấy…
Tiếng nói kèm tiếng khóc nức nở của Nữu Nữu càng ngày càng xa, A Sửu vẫn cúi đầu không chịu ngẩng lên.
Đến khi nó từ từ đứng thẳng lên, buồn bã nhìn về phương xa, trên phố dòng người vẫn vội vã ngược xuôi, cuối phố đã không còn thấy chiếc xe ngựa kia.
A Sửu cảm thấy chua xót, lòng quặn thắt như trục xe vặn vẹo, thầm nghĩ: “Trục xe này chắc phải bôi dầu rồi…”
…
“Mình làm thị nữ của người ta, chắc sẽ có tiền công, mình còn có thể học thêu thùa may vá, chờ khi cóp nhặt đủ tiền, mình sẽ trở lại tìm anh. Nếu lúc đó anh còn chưa có việc làm, mình sẽ làm thợ may nuôi anh!”
Những thảm cỏ xanh và những ngọn cây cao vụt qua hai bên, xe đã chạy xa từ lâu.
Nữu Nữu vẫn dựa vào cửa sổ, bên má còn lấm lem nước mắt chưa khô, thầm tính toán cho tương lai.
Đột nhiên cô bé thảng thốt khi nghĩ đến một vấn đề: “Khi đó, anh có còn ở phủ Quảng Châu không?”
Rồi cô bé chợt nghĩ lại: “Anh không ở phủ Quảng Châu thì có thể đi đâu chứ?” Tâm hồn bé nhỏ lúc này mới bình an đôi chút.
A Sửu đứng ở giao lộ, cố mở đôi mắt sưng húp thẫn thờ nhìn về hướng xe ngựa đi xa.
Nó biết lựa chọn của mình là chính xác, nó còn quá nhỏ, không có khả năng để bảo vệ Nữu Nữu, cũng giống như nó chỉ biết trơ mắt nhìn chị bị người ta chém đầu mà không có khả năng để báo thù. Nếu như tên Tiểu Lang tìm được nó, chưa chắc nó sẽ gặp may như lần trước, đây chính là một cơ hội tốt để Nữu Nữu thay đổi số phận của mình.
Nhưng Nữu Nữu đi rồi, trong lòng nó trở nên trống vắng, nó không còn người thân nào nữa. Nó không biết con đường kế tiếp của mình sẽ đi như thế nào, có thể mấy năm sau nó vẫn là một thằng ăn xin, nếu như vậy, nó còn muốn đi tìm Nữu Nữu nữa không?
“Khoan đã…”
A Sửu đột nhiên tỉnh táo lại, nó biết vị phu nhân mặc giả nam trang kia nhất định là một người có thân phận cao quý, nó không lo lắng em sẽ bị người bắt cóc lừa bán, nhưng trong lúc vội vàng nó quên hỏi thân phận và nơi ở của đối phương, tương lai nếu có thể làm nên sự nghiệp, nó sẽ đi tìm em như thế nào?
Trong lúc cấp bách, A Sửu vô ý thức đuổi theo hướng chiếc xe đã đi khuất…
Tại ngã tư phố, A Sửu ngỡ ngàng đứng lại, nó thật sự không biết chiếc xe đó đã đi về hướng nào. A Sửu thầm nghĩ: “Nếu như mình vẫn là một thằng ăn mày không có tương lai, vậy còn đi làm phiền bà ta làm gì? Nếu như có sự nghiệp có tương lai rồi, dù không xứng để nói chuyện với Lộ đô đốc, nhưng hỏi thăm phủ đệ của một vị quý nhân ông ta quen biết, chắc cũng được thôi?”
A Sửu còn đang nghĩ ngợi, một giọng nói như sấm vang lên bên tai:
– Cậu bé, có biết phủ đệ của đô đốc Quảng Châu ở đâu không?
Chương 6: Ngày kỳ tích (2)
A Sửu hoảng sợ quay đầu lại nhìn liền thấy một đại hán mình cao tám thước đang đứng ngay trước mặt, đôi mắt y như mắt báo, hàm râu quai nón như kích, khí thế oai phong làm người khiếp đảm đến tận tâm phế! Y ăn mặc như người Côn Luân.
Đại hán thấy nó đứng ngẩn ra đó liền lớn tiếng hỏi:
– Này cậu bé, cậu có biết đường đến phủ đô đốc hay không?
A Sửu nảy ra một ý vội vàng gật đầu nói:
– Biết, mười đồng tiền lớn! (thời xưa dùng loại tiền đồng, to hơn tiền bình thường)
Đại hán trừng mắt:
– Cái gì?
A Sửu vội sửa giọng:
– Tôi biết đường đến phủ đô đốc, nhưng tiền thù lao… hai đồng tiền lớn!
Đại hán kia giờ mới hiểu ý của nó, cười lớn nói:
– Ngươi, nhóc con này, quả thú vị, thú vị lắm, được rồi, mỗ trả cho ngươi mười đồng tiền lớn, mau mau dẫn đường!
A Sửu vui vẻ đáp:
– Tốt! Mời đi theo tôi!
A Sửu dẫn đường cho đại hán, sải chân của nó nhỏ, đại hán kia vừa sải một bước đã bỏ xa nó tới năm bước. Đại hán không thể kiên nhẫn chờ nó, một tay nhấc nó đặt lên trên vai, lớn tiếng nói:
– Chạy đi hướng nào? Ngươi mau chỉ đường.
Hành động của đại hán làm A Sửu giật mình, nhưng ngồi trên đôi vai rộng của y lại cực kỳ vững chắc. A Sửu ổn định tâm tình chỉ đường cho y. Đại hán tuy vác A Sửu trên vai nhưng bước như bay, một lát sau liền chạy tới trước cửa phủ đô đốc Quảng Châu.
Trước cửa phủ, một đám người Côn Luân tụm năm tụm ba lớn tiếng hò hét ẫm ĩ.
“Nô bộc Côn Luân, nô tì Tân La”
(Tân La là một nước nằm trong bán đảo Triều Tiên từ công nguyên năm 503 – 935)
Cũng nổi danh giống như người làm công Philipine ở đời sau, tỳ nữ người Tân La khôn khéo lanh lợi giỏi giang, nô bộc người Côn Luân tính tình ôn hòa thiện lương, người Đường mua nô bộc thường chọn người Côn Luân trước tiên. Những người nô bộc Côn Luân này không phải người da đen ở Phi Châu, mà là người ở vùng Mã Lai, Nam Dương. Người ở vùng Nam Dương có làn da ngăm đen, tất cả đều bị người Đường gọi chung là người Côn Luân.
Người Côn Luân mặc dù có nhiều người làm nô bộc, nhưng cũng có người làm thương nhân, có người giàu có, những người Côn Luân tụ tập ở đây là loại thương nhân giàu có.
Đại hán chạy tới cửa phủ đô đốc liền đặt A Sửu xuống đất, chen vào giữa đám đông quát to:
– Mỗ vừa trở về thuyền nghe nói có chuyện lớn xảy ra, mọi người đều kéo đến phủ đô đốc kêu oan, sự thể như thế nào? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?
Đám người Côn Luân nhìn thấy y giống như thấy được người tâm phúc, lập tức bu quanh, mặt đầy bi phẫn khóc lóc kể lể:
– Thiếu chủ, bọn ta bị vu oan!
A Sửu đứng ở bên cạnh nghe bọn họ mồm năm miệng mười kể lể mơ hồ hiểu được một ít.
Chuyện là mấy người Côn Luân này lần đầu tới Đại Đường buôn bán, sau khi thuyền cập bến thì cho rằng chiếu theo luật pháp sau khi nộp thuế liền có thể tự do mậu dịch, nào ngờ đám quan lại ở bến cảng muốn kiếm chút cháo tìm cách làm khó làm dễ. Bọn họ cũng muốn nhân nhượng cho khỏi phiền hà liền biếu xén đám quan lại ít hàng hóa.
Có thể đám quan lại thấy bọn họ lần đầu tiên cập bến cảng, chân ướt chân ráo không nắm rõ tình hình Đại Đường, lại không chủ động biếu xén câu thông cho nên trong bụng không vui, nhân đó ra tay ăn hiếp bóc lột, yêu sách đòi hỏi quà cáp một cách quá đáng.
Đội thuyền của những người Côn Luân này cũng không thật sự lớn, chở theo hàng hóa giá trị có hạn, sau một chuyến mua bán lời cũng không bao nhiêu, bọn họ sao có thể đáp ứng những yêu sách quá đáng kia. Đám quan lại bị cự tuyệt liền nổi giận, xúi bẩy đám thủ hạ của mình cố ý khiêu khích gây ra tranh chấp, rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh chết một thương nhân Côn Luân. Đám thương nhân Côn Luân cực kỳ bất mãn liền khiêng thi thể người chết đến phủ đô đốc dâng cáo trạng.
Đại hán sau khi nghe đám thương nhân kể lại đầu đuôi, lại thấy cái xác chết bọc vải trắng đang nằm trên mặt đất, đùng đùng nổi giận quát:
– Quan lại nhà Đường khinh người quá đáng! Phủ đô đốc có nói gì không?
Một thương nhân đáp:
– Chúng tôi đã đâm đơn kiện, đang chờ đô đốc trả lời.
Khi còn đang nói, cửa chính của phủ đô đốc mở toang, một viên quan mặc áo bào xanh nhạt bước ra, đứng lại trên bậc thang, một đám thị vệ của phủ đô đốc đi theo cũng dừng lại hai bên trái phải phía sau viên quan kia.
Đám thương nhân thấy vậy liền tiến tới bu quanh, mồm năm miệng mười hỏi:
– Cầu nha thôi (nha thôi là một chức quan thời Đường quản lý quân lương, quan sát, huấn luyện các quan viên cấp dưới), không biết Lộ đô đốc xử trí đơn cáo trạng của chúng tôi ra sao?
Viên quan mặc thanh bào khoảng trên dưới ba mươi tuổi, gò má hóp lại, cặp mắt góc cạnh hình tam giác, y vân vê chòm râu thưa thớt, lạnh lùng cười, rồi ngạo mạn nói:
– Lộ đô đốc truyền lệnh, đám điêu dân các ngươi không chịu giao nạp thuế má, mượn cớ say rượu ẩu đả chết người, vu cáo quan sai, lại đến trước cửa phủ đô đốc gây rối ầm ĩ, đáng giận cực kỳ! Bay đâu mau tới bắt bọn chúng nhốt vào đại lao!
Đám thương nhân Côn Luân nghe vậy vừa sợ vừa tức liền nhao nhao lên, đại hán cao lớn đứng lẫn trong đám người ở đàng sau nghe được rõ ràng rành mạch, vội vẹt đám đông bước tới lạnh lùng quát:
– Cẩu quan! Ngươi cố tình nói sai sự thật, đổi trắng thay đen!
Cầu nha thôi nổi giận chỉ mặt đại hán quát:
– Ở trước cửa phủ đô đốc, ngươi còn dám làm càn vừa ăn cướp vừa la làng? Bay đâu, bắt hắn tra tấn thật nặng cho bổn quan!
– Bọn chuột nhắt, đứa nào dám!
Đại hán hét to một tiếng như sét đánh, không lùi mà còn tiến tới ưỡn ngực nghênh đón.
Vài tên nha sai ở phía trước giương nanh múa vuốt xông tới, trong đó có hai tên, một tên cầm xích sắt còn tên kia cầm cái gông. Đầu sợi xích sắt nện xuống cái rầm, tên nha sai chụp sợi xích lên đầu đại hán, xiết sợi xích lại rồi kéo. Đại hán giống như mọc rễ dưới chân, đứng vững không hề nhúc nhích tí nào.
Đại hán không thèm né tránh, khi xích sắt quấn trên đầu tay phải của y đấm nhanh ra, “bụp!” một phát đấm vào cổ tên nha sai đang cầm gông. Chỉ nghe “rắc” một tiếng, đầu tên nha sai ngoẻo qua một bên, cổ của gã bị cú đấm của đại hán đánh gãy. Đại hán vói tay đoạt lấy cái gông, bẻ cái gông làm hai đập vào đầu tên nha sai cầm xích sắt.
Hai nửa của cái gông gộp lại nặng trên ba mươi cân, đại hán đập chúng vào đầu gã kia giống như đập nát trái dưa hấu. “Phụp” một tiếng, chất nhầy gì đó màu đỏ lẫn trắng bắn ra tung tóe.
Máu bắn tóe lên mặt đại hán trông y càng dữ tợn, Cầu nha thôi kinh hãi liên tiếp lùi về phía sau hét toáng lên:
– Có cường đạo hành hung giết người, mau, mau chém chết nó!
Đại hán nhe răng cười nói:
– Đến đây, coi xem ai giết ai!
Hai tay đại hán ép mạnh, đầu tên nha sai bị dập ép thành bánh tráng, cả người mềm oặt té xuống. Đại hán quay đầu lại trợn mắt nhìn đám thương nhân Côn Luân mặt mày đang kinh hãi quát to:
– Bọn ngươi mau chóng quay trở lại thuyền chờ, đô đốc Quảng Châu không cho mỗ một lời giải thích, mỗ đi kiếm y lấy một lời giải thích!
Đám thương nhân nghe xong vội khiêng thi thể của đồng bọn nhanh chóng rút lui, bọn họ chỉ là những thương nhân bình thường, tuy có phẫn nộ vì đám quan phủ Quảng Châu bất công, nhưng họ nào dám hành hung giết người. Hôm nay thấy đại hán này vừa giơ tay nhấc chân liền đập chết hai tên nha sai, bọn họ sợ tới mức hồn phi phách tán, lập tức bỏ chạy trối chết.
Sau khi thấy đám thương nhân đã rút lui hết, đại hán cầm hai nửa cái gông dính bê bết máu trên tay hét lớn một tiếng rồi phóng vào phủ. Đám nha sai, thị vệ đang trong phủ đô đốc thấy một tên đại hán người Côn Luân dám cả gan giết chết người của nha môn, cả đám mắt vằn đỏ vì tức giận, tay vung đao múa thương gào thét liều mạng đâm tới.
Đô đốc Quảng Châu Lộ Nguyên Duệ chính là người nắm toàn bộ quân quyền vùng Quảng Châu của Đại Đường, thị vệ trong phủ của y há phải dạng tầm thường, mỗi một tên đều là cao thủ quyền thuật, bản lĩnh vô cùng cao, hơn nữa bọn họ xuất thân là quân lính nên rất giỏi phối hợp lẫn nhau, nhìn thì giống như cả đám hỗn loạn xông bừa vào, nhưng thật ra tiến thối công thủ đều có trình tự quy tắc chặt chẽ.
Ngay trong lúc đó, bóng đao ánh kiếm lập lòe phủ quanh người đại hán, quả thực nhìn không biết chỗ nào để công chỗ nào để thủ, ai ngờ đại hán cầm trên tay hai mảnh gông dính đầy máu cứ xông thẳng tới, nhìn y như lang như hổ giữa bầy cừu, hay tay vung lên tức thì kiếm gãy thương bay, rất nhiều tên thị vệ bị gông đánh trúng xác bay loạn giữa không trung đập vào tường, vào cửa, hay bay qua đầu đồng bọn văng vào trong sân.
Đại hán dốc hết sức bình sinh sải bước một đường đánh thẳng tới, nói chung chả cần để ý gì đến chiêu thức xảo diệu hay không, thế công dồn dập, bẻ gãy nghiền nát bất cứ chướng ngại vật nào.
Cầu nha thôi sợ hãi mặt cắt không còn hột máu, chân vấp một cái té ngã lăn quay. Gã vội bò lùi lại phía sau, được vài cái liền xoay người tiếp tục bò trốn vào phía bên trong cửa, vừa bò vừa hét toáng lên:
– Có ai không! Nhanh có ai không! Cường đạo hành…
Chữ “hung” chưa kịp thoát ra khỏi miệng gã đã bị đại hán giẫm một cước ngay giữa lưng. Gã khó khăn lắm mới bò tới ngay bậc cửa cao ngang đầu gối,
không biết cú giẫm của đại hán mạnh hay nhẹ, chỉ thấy gã hét lên một tiếng đau đớn, phần ngang eo mềm oặt ra, quan bào rũ xuống vắt ngang bậc cửa.
Cầu nha thôi hai tay bám xuống đất ráng tiếp tục bò vào bên trong, chợt nghe một tiếng “toẹt”, phía dưới quan bào của gã hơi lộ ra một chút da giống như tróc ra từ trên người, máu thịt lẫn lộn với tim gan phèo phổi bày dài ra đầy mặt đất, nửa phần trên tiếp tục bò vào trong, nửa dưới với cái quần lót và hai chân nằm ở bên ngoài bậc cửa.
Thật không ngờ cú giẫm của đại hán cộng thêm hai bên mép của bậc cửa có bọc sắt đã “chém ngang lưng” gã nha thôi họ Cầu. (chém ngang lưng là hình phạt tàn khốc thời xưa, chém ngang lưng thành hai đoạn)
A Sửu ở ngoài phố trông thấy cảnh tượng trước mắt ngẩn người giương mắt mà nhìn. Nó từng nghe bạn của cha kể những cố sự của anh hùng hiệp khách, nhưng dù sao đó cũng chỉ là những mẩu chuyện, những cố sự mà nó chưa bao giờ nhớ tới, bây giờ tận mắt chứng kiến với thực lực của một người, vì tinh thần hiệp nghĩa chống lại với bất công, đường đường coi phủ đô đốc như chỗ không người.
“Tại sao lại có thể như thế? Tại sao lại có thể như thế?”
Trong tâm hồn bé nhỏ của A Sửu, một cánh cửa sơn son thếp vàng to lớn ầm ầm mở rộng, mở ra cho nó thấy một thế giới hoàn toàn mới.
Mối huyết hải thâm thù toàn thôn bị tàn sát, mối hận cha mẹ bị giết, nỗi đau mất chị, A Sửu chưa bao giờ quên. Nhưng nó biết rõ, với thực lực bản thân nó không thể nào báo thù. Những kẻ giết người chính là quan quân. Nó từng dò la nghe ngóng được quân binh mặc chiến bào giống như vậy chỉ có Long Vũ quân ở kinh đô, là cận vệ của thiên tử, một cánh kỵ binh duy nhất trong cấm vệ quân.
Nó từng có ý định báo quan, nhưng hành động kỳ lạ của quan phủ Thiệu Châu rõ ràng chứng minh quan phủ là cùng một bọn với đám hung thủ giết người, chỉ sợ vừa bước vào cửa chính của phủ Thiệu Châu, nó đã thành một cái xác nằm trong cống. Nó còn có thể làm gì được? Nó tưởng tượng, muốn sống cho có nhân cách như một người bình thường, sống cho ra sống không để tổ tông hổ thẹn nó còn làm không được, làm sao có thể báo thù?
Cho nên nó giấu kín mối huyết thù trong lòng, cũng không dám nghĩ tới. Nó không có khả năng báo thù nên chỉ còn cách nhịn xuống, nhưng lửa cừu hận nhức nhối đốt cháy tâm can. Ngay lúc này, đại hán người Côn Luân mở ra cho nó thấy một thế giới hoàn toàn mới.
Đám thị vệ từ trong nội viện xông ra, nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng của Cầu nha thôi liền vội vã lui bước, tạo thành một nửa vòng tròn xung quanh trước mặt gã. Cầu nha thôi phát giác ra tình huống lạ vội quay lại nhìn, khi thấy nửa phần dưới của mình còn nằm ở ngoài cửa, chỉ có nửa phần trên trốn thoát vào trong, gã thét lên một tiếng kinh hãi, thất khiếu chảy máu, đang còn sống nhưng vì sợ quá chết ngay tại chỗ.
Đại hán quát lên một tiếng chói tai, cả người phóng lên không trung như diều hâu tung cánh, khi người đang còn ở trên không, y ném vút hai mảnh gông vào đầu thương mũi đao của đám thị vệ rồi lập tức rút trường kiếm ra khỏi vỏ.
Cú nhảy của y vút lên như rồng, nhanh như chim nhạn, tay cầm kiếm vẩy ra, một chùm hào quang như ánh mặt trời, lốm đốm những tia sáng đâm thẳng vào mắt người ta.
A Sửu đứng ở bên ngoài ngây người ra nhìn, đại hán vung kiếm, một chùm hào quang như ánh mặt trời đập vào mắt khiến hai mắt nó tối sầm, nó vội nhắm mắt lại, nhưng khi mở mắt ra chỉ thấy đại đa số đám quan binh đã ngã nằm la liệt ngổn ngang đầy mặt đất kêu la rên xiết, còn một số ít thì vung đao thương xông vào phía trong nha môn. Thì ra đại hán từng bước từng bước đánh thẳng vào công đường phủ đô đốc.
Ở cửa nha môn một đống thi thể hình thù quái dị nằm la liệt, mùi máu tanh thoang thoảng tỏa ra xung quanh. Đám người ở ngoài phố có người vừa chạy trốn vừa kêu gào, cũng có người vẫn đứng ở đó tần ngần quan sát. A Sửu đứng đó mà lòng dậy sóng, hai chân run lẩy bẩy, ánh dương quang rực rỡ chói chang chiếu lên người thế mà nó vẫn rét run từng hồi.
Nó thật sự không ngờ đại hán người Côn Luân kia lại hung hãn quá sức như thế, nó lại càng không tưởng tượng nổi giết người lại đơn giản như vậy.
Đúng thế, đại hán người Côn Luân một mạch tiến thẳng vào phủ đô đốc chém giết tạo cho nó một cảm giác duy nhất: đơn giản! Cực kỳ đơn giản!
Chương 7: Ngày kỳ tích (3)
A Sửu đứng như trời trồng ở đó, cũng không biết đứng như vậy bao lâu cho tới khi cơn ớn lạnh rùng mình dần dần biến mất và một lần nữa nó cảm giác được sự ấm áp từ ánh mặt trời chiếu lên người. Đại hán kia đột ngột xuất hiện ở cửa phủ, một đám quan binh ùn ùn đuổi theo phía sau y, đao thương tua tủa như rừng.
Đám quan binh bám đuổi theo phía sau đại hán, khi còn cách hai ba trượng thì lập tức dừng lại, tập trung chỉnh đốn theo đội hình như lâm phải đại địch.
Đại hán một chân đã bước ra khỏi cửa liền quay đầu lại trừng mắt nhìn, ngay lập tức một loạt tiếng hét sợ hãi vang lên, đám quan binh không hẹn mà cùng lùi lại sau mấy bước.
Đại hán cười rộ lên một tràng dài, đột nhiên tung cước đá mạnh vào nửa cái cửa đang đóng. “Bùng” một tiếng vang lên thật lớn, bụi đất bay tứ tung, khung cửa vỡ nát vụn, nửa cánh cửa bay vùn vụt về phía đám quan binh.
Đại hán sau khi đá ra một cước liền sải chân bước xuống bậc thềm, không hề ngó nhìn người xung quanh, chuẩn bị cất bước rời khỏi phủ đô đốc. A Sửu đột nhiên thu hết dũng khí vọt tới trước mặt y giơ tay cản lại.
Đại hán thấy A Sửu thì ngạc nhiên hỏi:
– Chàng trai trẻ, cậu chưa đi à?
A Sửu trong lòng bồn chồn lo lắng, nhưng tình thế cấp bách liền buột miệng nói:
– Chưa, vì ông chưa trả tiền!
Đại hán sững sờ, ngay lập tức cười rộ lên:
– Thú vị! Thật thú vị! Tổ phụ đại nhân nói không sai, Trung Nguyên quả nhiên có rất nhiều người kỳ lạ!
Nửa cánh cửa bay đập vào đám quan binh làm chết và bị thương thêm mười mấy tên, những tên quan binh còn lại gom hết dũng khí, một chút dũng khí còn sót lại khi bị dồn tới đường cùng lúc trước khi bị giết, cố đuổi theo phía sau. Đại hán nghe một loạt tiếng chân chạy rầm rập đàng sau, đột nhiên phi thân tung người về phía trước, tay quơ ôm lấy A Sửu, cười ha hả nói:
– Khá lắm tiểu oa nhi, muốn tiền đến mạng cũng không cần, đi, đi đến bến tàu, mỗ sẽ thanh toán nợ nần cho ngươi.
A Sửu bị đại hán kẹp ngang hông chỉ cảm thấy cảnh vật bay qua vùn vụt. Đại hán sải hai chân chạy còn nhanh hơn ngựa phi. A Sửu bị xóc lên xóc xuống nói không ra lời, chỉ cảm thấy tiếng gió rít đập vào mặt. Nó phải nín thở, miệng ngậm chặt lại, cho dù làm như thế mùi máu tươi dính đầy trên quần áo của đại hán vẫn không ngừng lọt vào mũi.
Đại hán chạy như bay thẳng một mạch về bến tàu. Đám thương nhân Côn Luân đã sớm trở lại tập trung trên thuyền, ngóng ra ngoài chờ tin, khi vừa thấy bóng dáng của đại hán, cả đám reo hò không ngớt.
Đại hán thả A Sửu xuống, liếc nhìn nó cười nói:
– Đã biết mỗ ra tay giết người, còn dám ngang nhiên đòi tiền, chàng trai trẻ, can đảm lắm đó!
A Sửu thêm lòng can đảm nói:
– Thấy chuyện bất công, nổi giận giết người, đó là hành vi của anh hùng, nếu chỉ vì nợ mười đồng tiền lớn mà ra tay giết người, coi như tôi nhìn lầm.
Đại hán cười sằng sặc, thò tay vào trong ngực:
– Việc buôn bán mỗ còn chưa làm xong, lấy đâu ra tiền trả ngươi, chỉ có thỏi vàng ròng này, tặng cho ngươi!
Đại hán lấy ra một thỏi vàng ròng đặt vào tay A Sửu, cười to:
– Chàng trai trẻ, tiền tài không nên để lộ ra ngoài, mau mau đi đi!
Nói vừa dứt lời, đại hán tung người nhảy lên, giống như một con ếch khổng lồ, hô một tiếng cả người bắn lên không cao hơn hai trượng, “bình”, thoáng cái đã rơi xuống đầu thuyền.
Người trên thuyền đã chuẩn bị sẵn sàng, đại hán vừa đáp xuống thủy thủ liền kéo buồm, nhổ neo. Lúc này người ở bến tàu còn chưa biết chuyện xảy ra ở phủ đô đốc, mọi người đang bận rộn bốc dỡ hàng hóa, chỉ có một vài thương nhân đứng gần đó nhìn thấy đại hán người dính đầy máu, mặc dù kinh ngạc nhưng không đến nỗi kinh hoàng mà hô hoán lên.
A Sửu cực kỳ nôn nóng, nó vốn muốn chuyện phiếm vài câu với đại hán, kéo gần quan hệ với y rồi đi vào chính sự, không ngờ đại hán râu quai nón tính nóng như lửa, hành động cực kỳ dứt khoát mau chóng, nó không có một tí cơ hội nào để nói chuyện với y. A Sửu vội vàng quỳ rạp xuống bến tàu, nâng cao thỏi vàng ròng lớn tiếng nói:
– Tráng sĩ, tiểu tử muốn bái ngài làm sư phụ, học tập võ nghệ.
Đại hán đứng ở mũi thuyền cười to, cao giọng nói:
– Tiểu tử nhà ngươi, không cần suy nghĩ viển vông, mau mau rời đi, đỡ phải gặp thêm rắc rối phiền hà.
– Tráng sĩ, xin thu nhận tiểu tử.
A Sửu vội dập đầu xuống đất, nhưng đại hán không để ý tới nó. Lúc này, thuyền từ từ rời bến cách xa bờ bốn năm trượng, xa xa vẳng đến một loạt tiếng kêu giết.
Đại hán đứng ở mũi thuyền phóng tầm mắt ra quan sát, thấy xa xa tinh kỳ tung bay, tiếng người, tiếng ngựa hí tạo thành một dải bụi mù. Y cũng không biết có bao nhiêu quân sĩ kéo đến, lớn giọng quát to:
– Ngươi còn không đi mau! Quan lại ở đây tham tài háo của, coi chừng giết ngươi biến thành oan hồn!
A Sửu càng nôn nóng, tim như thắt lại, banh họng gào lên:
– Tráng sĩ đã muốn đến phủ đô đốc trả thù, sao lại chọn tiểu tử dẫn đường? Trong thành biết bao người tận mắt thấy tiểu tử dẫn đường cho tráng sĩ, giờ ép tiểu ở lại thật quá lắm, tráng sĩ bỏ đi, giết người tội lớn rớt xuống đầu tiểu tử, tráng sĩ không giết tiểu tử, nhưng tiểu tử lại bị giết vì tráng sĩ!
Đại hán chau mày làu bàu:
– Đúng là một tên tiểu tử vô lại, thật phiền phức!
Y giương mắt nhìn lại, đám quan binh xông đến cuốn theo một cơn lốc bụi mù, càng ngày càng tiến đến gần, y lẩm bẩm:
– Mỗ suốt đời coi tổ phụ đại nhân là anh hùng, tổ phụ cả đời chưa từng hại một người vô tội nào, chẳng lẽ mỗ hại tánh mạng tiểu tử nhà ngươi, làm bẩn thanh danh một đời?
Khi thấy truy binh càng đuổi đến gần, y không còn kịp suy nghĩ gì thêm, nhún người nhảy lên, tay áo bay phần phật như diều hâu bổ nhào về phía bến tàu. Trên bến tàu rất nhiều thương nhân, thủy thủ trông thấy uy thế của y liền kinh hãi trầm trồ.
A Sửu vụt thấy đại hán xuất hiện trước mặt, ngay sau đó cảm thấy bên hông bị xiết chặt, cả người bị đại hán cặp trong tay, gió biển thổi táp vào mặt mát lạnh, ngay sau đó, “bình” một tiếng, đầu thuyền hơi tròng trành, đại hán cắp theo nó rớt xuống đầu thuyền.
A Sửu lấy lại bình tĩnh, mừng rỡ quỳ gối, dập đầu nói:
– Đệ tử ra mắt sư phụ!
Đại hán hừ một tiếng:
– Tiểu tử vô lại, đứng dậy cút đi!
Y khoanh tay đứng ở đầu thuyền nhìn đám quan binh, không thèm nhìn mặt A Sửu một cái. Đám quan binh đuổi đến bến tàu, vội trưng dụng thuyền bè của các thương nhân để đuổi theo. A Sửu thấy đại hán không cự tuyệt mình lòng mừng khấp khởi, dập đầu ba cái rồi đứng dậy, khi thấy đám quan binh đều lên thuyền chuẩn bị đuổi theo liền lo lắng nói:
– Sư phụ, Lộ đô đốc phái người đuổi theo.
Đại hán cười nói:
– Ngươi nói là Lộ cẩu quan ư? Mỗ đã chém cái đầu trên cổ hắn! Hắn dám đuổi theo, mỗ chém thêm hồn phách của hắn! Hừ, đám phế vật như rắn mất đầu này, đuổi theo không được bao xa.
A Sửu nghe xong kinh hãi vô cùng, nó tuy biết đại hán tiến vào phủ đô đốc đánh giết như chỗ không người, nhưng cũng không tưởng tượng nổi y chỉ đánh thốc vào phủ trong khoảng khắc liền chém bay đầu đô đốc Quảng Châu, trong khi đó lại không bị tổn hại đến một sợi lông một cọng tóc nào. Vô tình may mắn có được một vị sư phụ bản lĩnh lợi hại như thế, quả thực có thể so sánh với vị hiệp khách Kiếm Tiên độc nhất vô nhị trong truyền thuyết, nó thật sự không ngờ…
Nghĩ đến đó, A Sửu mừng như mở cờ trong bụng, lật đật kính cẩn lễ phép thưa:
– Đệ tự còn chưa thỉnh giáo tôn tính đại danh của ân sư, võ nghệ của ân sư xuất thân từ môn phái nào?
Đại hán bật cười:
– Tên tiểu tử nhà ngươi, không biết đã đọc bao nhiêu truyện tiểu thuyết, hay nghe kể bao nhiêu truyện huyễn hoặc thần thoại, cái gì mà môn phái nào, mỗ họ Trương, tên chỉ có một chữ Bạo, công phu võ nghệ là gia truyền.
A Sửu cung kính nói:
– Sư phụ có võ công kinh người như thế, sư tổ nhất định là đại anh hùng cái thế danh rền thiên hạ.
A Sửu nếu nói khác đi, Trương Bạo chưa chắc đã để ý đến, nhưng có thể trong lòng y, người y sùng bái nhất từ trước đến nay chính là gia gia của y, lời A Sửu như gãi đúng chỗ ngứa, Trương Bạo cười ha hả nói:
– Ha ha! Nói về cha của ta chắc ngươi không biết, nhưng nếu nói về vị tổ sư lập nhà họ Trương, câu “anh hùng cái thế danh rền thiên hạ” quả rất đúng, thanh danh của lão nhân gia chắc đám tiểu oa nhi như ngươi có nghe nói qua.
A Sửu vội sán lại hứng thú hỏi:
– Không biết sư tổ là vị nào mà danh rền thiên hạ.
Trương Bạo dương dương đắc ý khoe:
– Thời Tùy mạt, thiên hạ đại loạn, quần hùng nổi dậy, ông tổ từng có ý định mưu đoạt thiên hạ, nhưng về sau nhường cho nghĩa đệ phụ tá Lý Thế Dân, ngài bỏ ra nước ngoài tự lập làm vua, khi đó có biệt hiệu là “Cầu Nhiêm Khách”!
(Thời Tùy Văn đế, có chàng trai Trương Tam Lang – biệt hiệu Cầu Nhiêm Khách, là một khách giang hồ nổi tiếng hành hiệp trượng nghĩa)
A Sửu thật sự chấn động trong lòng, thất thanh la lên:
– Cầu Nhiêm Khách!
A Sửu giống như Tôn hầu tử bị Bồ Đề tổ sư gõ ba cái thước vào lòng bàn tay, ba vạn sáu ngàn lỗ chân lông trên người đều mở ra, cả người tràn ngập vui mừng.
[CENTER] [ /CENTER]
Thuyền đi giữa biển rộng, giữa trời đêm tối bao la mênh mang
A Sửu lần đầu tiên đi thuyền, nằm trằn trọc suy nghĩ vẩn vơ trong khoang, dỗ giấc ngủ không biết bao lâu vẫn không chợp mắt được. Nó nhớ Nữu Nữu, không biết bao lâu sau mới có thể trở về, Nữu Nữu có thể sẽ không tìm được nó. Nếu sau này trở lại Quảng Châu, Lộ đô đốc đã bị giết, nó không biết hỏi thăm ai để tìm Bùi đại nương.
Đồng thời trong lòng nó cũng ngập tràn vui sướng, nó có thể bái cháu ruột Cầu Nhiêm Khách làm sư phụ, học được một thân võ nghệ cao cường, có thể báo thù cho cha mẹ và chị bị chết thảm. Mối huyết hải thâm cừu bao lâu nay giấu tận đáy lòng không dám nghĩ tới giờ cuồn cuộn tuôn ra, nó vĩnh viễn không thể quên được cảnh chị bị chém bay đầu, không thể quên được nỗi đau thấu tâm can này!
Những cảm xúc lẫn lộn, vừa mừng vừa lo, vừa sầu vừa hận, cứ trào dâng cuộn xiết. Lật qua lật lại mãi mà vẫn không thể chìm vào giấc ngủ, nó dứt khoát đứng dậy ra khỏi khoang thuyền. Bầu trời đầy sao, thuyền lênh đênh trên sóng nước giữa trời đêm mênh mang, tiếng sóng vỗ rì rào, thuyền nhấp nhô theo con sóng như những suy nghĩ cảm xúc gợn sóng trong lòng nó.
A Sửu đi đến đầu thuyền đón gió đêm thì thấy một thân ảnh cao lớn đứng đó, bóng dáng đó như một tảng đá đen kịt vững vàng sừng sững giữa trời đêm.
– Tại sao còn chưa đi ngủ?
Trương Bạo vẫn không quay đầu thản nhiên hỏi.
A Sửu dừng lại khom người nói:
– Đệ tử ngủ không được, định lên đầu thuyền giải sầu, không ngờ lại quấy rầy sư phụ.
Nó quay lại nhìn mặt biển tối đen như mực đàng sau, Trương Bạo vẫn không quay đầu nhưng dường như nhìn thấy hết mọi hành động của nó, y nói:
– Yên tâm đi, khi đêm vừa xuống, truy binh đã quay trở lại, không đuổi nữa.
A Sửu nhẹ nhõm thở ra:
– Dạ.
Trương Bạo đừng sững ở mũi thuyền, ngẩng đầu lên nhìn trời, A Sửu nhịn không được hỏi:
– Sư phụ đang nhìn gì vậy?
Trương Bạo vẫn không quay đầu lại trả lời:
– Quan sát những vì sao. Hiện tượng thiên văn tối nay thật kỳ lạ!
A Sửu ngẩng đầu lên nhìn theo ánh mắt của Trương Bạo, quan sát những chòm sao rực sáng trên bầu trời, thình lình phát hiện một ngôi sao lớn sáng chói ở chân trời phía đông, hạch tâm của ngôi sao màu trắng, chung quanh lấp lánh một vầng sáng màu xanh lam, ngôi sao nhìn như viên trân châu. Viên trân châu lớn và sáng vụt qua giữa tinh không, phía sau kéo theo một cái đuôi màu xanh lam thật dài, vầng sáng màu xanh lam của đuôi mờ nhạt dần đến khi hoàn toàn tan biến trong bầu trời.
A Sửu trầm trồ thốt:
– Một ngôi sao thật lớn.
Trương Bạo cười nói:
– Một ngôi sao chổi mà thôi, có gì lạ đâu?
Nói xong y xoa cằm, xoắn chòm râu bù xù lẩm bẩm:
– Nhưng một ngôi sao chổi lớn và sáng như vậy thật sự hiếm thấy, quả có chút kỳ lạ…
Y trầm ngâm một lát đột nhiên quay đầu cười nói:
– Còn chưa hỏi tên họ của ngươi, tên ngươi là gì?
A Sửu cung kính thưa:
– Đệ tử không dám giấu sư phụ, đệ tử không có tên chính thức, chỉ có tên tục ở nhà gọi là A Sửu. Đệ tử gia đình thanh bạch, hôm nay phải lưu lạc làm tên ăn mày, trên mình mang huyết hải thâm cừu, lại không thể rửa thù báo hận, đệ tử một ngày không thể trả được thù này, thật xấu hổ với tổ tông dòng họ, sư phụ cứ gọi đệ tử là A Sửu thì được rồi.
– A Sửu, A Sửu, ngươi là đệ tử của mỗ, nên có một cái tên chính thức mới tốt. Tối nay trời có sao băng, khí tượng hiếm thấy, mỗ nhân sự kiện này đặt cho ngươi cái tên, gọi là Tinh Trì, được không?
A Sửu trầm ngâm nói:
– Tinh Trì… là một cái tên rất hay. Chỉ là sư phụ dùng sao chổi đặt tên cho đệ tử, lỡ đệ tử thành một cái chổi lớn thì sao?
Trương Bạo bật cười lớn:
– Mỗ lần đầu tới Đại Đường, công việc làm ăn không thành, đi chơi đây đó cho biết phong thổ con người Đại Đường cũng chưa làm được, lại còn xảy ra án mạng, xui xẻo như thế ngươi còn không phải là một cái chổi lớn sao?
(Tại Trung Quốc, khi nói người nào đó có mệnh “sao chổi” nghĩa là người đó thường mang đến phiền toái, nhưng cái này không có căn cứ, chỉ là dân gian truyền miệng)
A Sửu nhớ tới hơn một trăm thôn dân Đào Nguyên oan mạng mà chết, liên tưởng đến cái mạng sao chổi thì cảm thấy bất an vội giải thích:
– Sư phụ nói oan cho đệ tử, đệ tử khi gặp được sư phụ, chuyện vốn đã xảy ra rồi!
Trương Bạo cười nói:
– Ngươi nói cái tên Tinh Trì không tốt, nhưng cuối cùng vẫn phải có một cái tên, hắc hắc, đệ tử của mỗ sao để cho người ta một tiếng A Sửu, hai tiếng A Sửu cứ thế mà gọi cho được, nếu vậy ngươi chọn một cái tên nói cho mỗ nghe.
A Sửu nhìn mũi thuyền đang nhấp nhô lên xuống theo con sóng, ẩn ẩn hiện hiện giữa đám bọt nước trắng xóa, lại quay đầu nhìn vào bóng đêm đen kịt, giữa cơn sóng lớn một cánh buồm lớn căng gió tung bay phần phật như mang đến một niềm hy vọng, phá tan bóng đêm đen của biển khơi, nó phấn chấn nói:
– Đệ tử nghĩ ra được một cái tên! Sư phụ, đệ tử gọi… Dương Phàm được không?
(Phàm là cánh buồm)
Đông đô Lạc Dương, ban đêm.
Ở trên cung điện cao cao, một vị phu nhân họ Võ đang dựa vào lan can trông về phía xa, ngắm nhìn thật lâu một ngôi sao chổi màu xanh lam sáng chói đuôi kéo dài đến hai trượng bay thẳng về phía đông, trong lòng lấy làm kỳ. Sự xuất hiện đột ngột của ngôi sao sáng chói vắt ngang bầu trời, suốt bảy bảy bốn mươi chín ngày vừa rồi mới biến mất khiến thiên hạ kinh hoàng!
Vị phu nhân họ Võ vừa ở trên cung điện ngắm nhìn ngôi sao sáng kia nhìn thấy đại cát điềm lành, tuyên bố sửa đổi niên hiệu thành Quang Trạch, đại xá thiên hạ, sửa đông đô Lạc Dương thành thần đô, sửa tên tam tỉnh lục bộ, Trung Thư tỉnh thành Phượng Các, Môn Hạ tỉnh thành Loan Đài, Thượng Thư tỉnh thành Văn Xương đài. Lục bộ “Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công” đổi tên thành “Thiên, Địa, Xuân, Hạ, Thu, Đông”
Đó là năm Quang Trạch nguyên niên!
Chương 8: Dương Phàm
Tiếng trống thùng thùng dồn dập từ cổng chính hoàng cung vang ra bốn phương tám hướng, sau đó tất cả các chòi canh trên các con phố lớn từ bốn phía đông tây nam bắc lần lượt thi nhau điểm canh, năm tiếng trống canh rõ ràng, tổng cộng gần tám trăm tiếng. Trong tiếng trống canh dồn dập, cổng chính của hoàng cung, cổng chính của hoàng thành, cửa các nhà trên các con phố lục tục mở ra.
Tất cả chùa lớn miếu nhỏ trong thành Lạc Dương cũng tham gia náo nhiệt, các tăng lữ sư sãi gõ mõ tụng kinh buổi sáng, tiếng trống dồn quyện lẫn trong tiếng chuông trầm lắng xa xăm thức tỉnh toàn thần đô Lạc Dương, trăm vạn dân chúng cùng chào đón mặt trời từ từ ló dạng ở phương đông.
Trên các phố phường, các tiệm ăn bình dân nhỏ cũng lục tục mở cửa buôn bán sau tiếng trống canh từ Tắc Thiên môn.
Trong phường Tu Văn, những hàng quán bình dân khắp nơi bắt đầu khơi bếp nhóm củi đốt lửa.
Viên sư phó người Hồ mình trần trùng trục đang đập bột làm bánh nướng “bộp bộp”…
Mạnh sư phó của tiệm Giao Đông Lai nhấc cái ***g hấp, một luồng hơi nước trắng xóa tỏa ra, mùi bột bay tứ phía…
Một lão nhân để hai hàng ria mép uốn cong như cái móc rề rà lấy cái kẹp bằng trúc gắp từng cái bánh vừng nướng vừa chín tới bày ra cái sọt bằng trúc, bánh vừng nướng kiểu người Hồ màu vàng óng, giòn tan, mùi thơm ngào ngạt xộc vào mũi…
Ở góc con phố lớn số mười và ngõ hẻm thứ hai, có dựng một căn lều nhỏ, căn lều đủ che một cái nồi lớn, bên cạnh kê một cái mặt bàn dài dài, một cô nương khoảng mười sáu mười bảy tuổi đeo cái tạp dề bằng vải xanh, tay áo xắn lên lộ ra hai cánh tay trắng như tuyết, một tay vừa làm vừa đon đả chào khách.
Cô chủ quán cũng có chút nhan sắc, nhất là đôi môi mọng hơi dẩu ra, nhìn thật tươi tắn.
Đừng trông thấy quán này của nàng nho nhỏ mà lầm, trong nồi nước súp sôi sùng sục có đủ tim gan tì phế thận các loại, dưới lò đốt củi, trên cái thớt bên cạnh có một khối bột mì nhào kỹ. Cái chày cán bột trong tay nàng thoăn thoắt tới lui, chẳng mấy chốc cán ra một tấm bánh mỏng. Nàng nhanh tay gấp nó thành nhiều lớp, lấy dao cắt ra nhiều sợi mì nhỏ.
Quán đông khách, công việc dồn dập túi bụi, nào là nhào bột, cán cho mỏng, cắt thành sợi, canh lửa nồi súp, chào mời khách… một mình nàng làm mọi thứ một cách gọn gàng đâu vào đó.
Một hán tử cao gầy mặc áo bào rộng, chân đi guốc gỗ già lâu năm, rất có phong thái cổ xưa của người thời Hán, thời Tấn, phơi phới đi đến trước quán, ngắn gọn gọi:
– Một tô mì!
Quán bán mì tàu, không cần gọi cũng biết là ăn cái gì, chẳng qua hán tử kia muốn chào cô chủ quán.
Cô chủ quán họ Giang, vì nàng là con một được cha mẹ cưng nên đặt cho nàng một cái tên là Giang Húc Ninh. Mì tàu của Giang cô nương là ngon nhất trong phường Tu Văn, sáng sớm thức dậy làm tô mì bụng vừa ấm lại vừa no, dân cư quanh vùng cũng quan tâm nên thường ghé quán ăn mì, sau một thời gian, mọi người đều gọi nàng là cô chủ quán mì mà không gọi tên.
– Có ngay!
Giang cô nương trả lời, cầm một cái tô lớn, gắp một vắt mì trong nồi nước sôi, múc thêm hai muôi nước súp. Vì là khách quen, nàng không cần hỏi cũng biết rõ khẩu vị của khách, nàng mau mắn bỏ vào tô một chút hành thái nhỏ, chút gừng và hẹ. Hán tử cao gầy ăn mặc theo phong thái cổ thời Hán Tấn trả nàng ba văn tiền, sắn một tay áo lên bưng tô mì rồi ngồi xổm xuống ven đường húp xì xụp.
“Người cổ xưa thời Hán Tấn” vừa rời khỏi, một người khách khác đã tới, vị khách này có vóc người nhỏ thó, chỉ cao nhỉnh hơn cái nồi súp lớn một chút xíu, trên đầu quấn một cái khăn kiểu cổ đại, tuy vậy đầu tóc vẫn bù xù như không quấn. Y ra chiều lịch sự khom người chào Giang cô nương bằng cái giọng Đại Đường cứng ngắc:
– Phần tôi, một tô, cảm ơn.
Đó là một người Oa (người Nhật Bản, theo cách gọi của người Trung Quốc thời xưa), tuy là người nước khác nhưng y vẫn chỉ phải trả bằng giá tiền, thái độ của y đối với cô chủ vô cùng khách sáo. Trước kia người Oa cũng không có thái độ khiêm nhường như vậy, nhưng sau “chiến dịch Bạch Giang” hồi mấy năm trước, quân Đại Đường tiêu diệt toàn bộ quân đội người Oa, từ đó người Oa không còn dám ra vẻ trịch thượng cuồng ngạo kiểu “Đông thiên hoàng ở trên Tây thiên hoàng” như cũ.
(Trận chiến Bạnh Giang khẩu nổi tiếng năm Long Sóc thứ ba thời Đường – năm 663. Lực lượng phục quốc Bách Tế – một nước thuộc bán đảo Triều Tiên – và một hạm đội hải quân Nhật Bản đã tập hợp tại miền nam Bách Tế để đương đầu với lực lượng Tân La và nhà Đường trong Trận Bạch Giang (Baekgang). Nhà Đường cử đến 7.000 binh lính và 170 tàu. Sau 5 trận hải chiến vào tháng 8 năm 663 tại Bạch Giang, được coi là khu vực hạ lưu của sông m hay sông Dongjin, lực lượng Tân La-Đường đã giành được chiến thắng)
Ở cái cổng chính lớn ra vào phường Tu Văn, một đám đông dân chúng đứng tụ tập chờ cổng mở để đi ra ngoài, bởi vì đám tránh đinh chậm chạp chưa mở cổng phường, có người nhịn không được chạy tới cái đình treo trống canh gõ trống thùng thùng liên hồi. Hai tên tráng đinh trực phường hôm đó lúc này đang khoan thai chậm rãi sóng vai trên con phố lớn số mười đi tới.
Tên tráng đinh đi bên trái khoảng chừng mười tám mười chín tuổi, vừa đi vừa ngoác miệng ngáp như hà mã ngáp. Gã vừa ngáp vừa lấy một tay dụi mắt, còn tay kia thò sang hông sờ tìm chìa khóa, quần của gã trễ xuống tới thắt lưng, khăn vấn đầu thì xộc xệch, bàn chân như có gắn lò xo, bước đi trên đường rầm rập rầm rập, đúng là hình tượng của một tên bất lương đầu đường xó chợ.
Chức năng của đám tráng đinh làm việc cho phường này (gọi tắt là phường đinh) cũng giống như bảo vệ khu phố thời hiện đại, phường thuê mướn bọn họ, tiêu chuẩn lựa chọn chủ yếu là giỏi đánh đấm, dữ dằn, có thể dùng vũ lực duy trì trật tự. Thời đó, những người làm công việc như bọn họ được gọi là “thành phần bất lương”, mà với cái kiểu du côn du đãng đàn áp người như thế, cũng không uổng khi bọn họ bị thiên hạ gọi như vậy.
Tráng đinh đi bên cạnh gã “bất lương” kia trông nhỏ hơn khoảng hai tuổi, rất ưa nhìn, eo nhỏ vai rộng, dáng người cao và thẳng tắp như cây thước, cả người toát ra vẻ hoạt bát lanh lợi.
Thiếu niên này nhìn khôi ngô tuấn tú, hai hàng lông mày sáng, mũi thẳng tắp, môi dày viền rõ nét, khuôn mặt có pha một chút thanh tú của con gái, khi cười lộ ra hai cái lúm đồng tiền nhỏ. Dáng đi của thiếu niên khác xa tên phường đinh kia, khi đi vai không rung, người thẳng tắp, bước vững vàng.
Tên phường đinh mặt mày ngái ngủ tên là Mã Kiều, là con một trong nhà nhưng có rất nhiều anh em họ, trong đám anh em họ gã đứng hàng thứ sáu cho nên người trong phường quen gọi gã là Mã Lục.
Người thiếu niên đi bên phải của gã tên là Dương Phàm, dọn đến thành Lạc Dương khoảng nửa năm trước, nghe nói là người ở vùng Giao Chỉ, ở quê nhà còn có một anh trai cho nên mọi người thường gọi chàng là Dương Nhị hay Nhị lang.
Các cô nương, các thiếu phụ lớn nhỏ trong phường khi rảnh thường tụ tập nhiều chuyện với nhau đều công nhận Dương Phàm là người tuấn tú đẹp trai nhất trong một trăm tám mươi bảy phường đinh của phường Tu Văn, hơn nữa tính tình chàng hoà đồng, thật thà chất phác, lại còn hay thẹn thùng xấu hổ khi gặp người khác phái, đó là một cái duyên – cái duyên với phụ nữ.
Lúc này, chàng đang mỉm cười gật đầu chào hỏi bà con láng giềng xung quanh, làn da màu lúa mì mạnh khỏe, hàm răng trắng bóng. Chàng thuộc mẫu người rất được phái đẹp ưa thích, nhất là khi chàng cười, nụ cười có chút bẽn lẽn, có chút thẹn thùng, ***ng phải cô gái tinh nghịch nào đó liếc mắt đưa tình, mặt chàng liền đỏ tới mang tai. Điều này càng làm cho các cô nàng nổi lên tính thích trêu chọc.
Phụ nữ là một loại sinh vật kỳ lạ, giống như cái lò xo, ngươi tấn công mạnh nàng giãn ra, ngươi thờ ơ nàng sáp lại. Gặp phải một người trẻ tuổi tuấn tú đẹp trai, chưa nói tiếng nào mặt mày đã đỏ lựng, những cô nương thiếu phụ vô công rỗi nghề trong phường thường thích trêu chọc, trêu cho tới khi mặt chàng đỏ lên vì xấu hổ, nhân đó các nàng được một cơ hội cười vui vẻ thoải mái buổi sớm mai.
Mã Kiều đi tới trước cổng phường, lại nghe tiếng trống thùnh thùng liên hồi, tức mình gắt:
– Gọi cái gì mà gọi, gõ cái gì mà gõ, có phải kíp về chịu tang nhà đâu mà làm gì gấp thế!
Một lão nhân vỗ vào đầu của gã quát:
– Cút đi thằng của nợ, coi chừng tao về mách với mẹ mày! Học theo Nhị lang kìa, con người ta lễ phép, ngoan ngoãn, nhỏ hơn mày hai tuổi mà chững chạc hơn nhiều!
Mã Kiều bị bà con cô bác chòm xóm, những người biết gã từ tấm bé mắng cho một trận liền ngậm bồ hòn, nhủi như chuột cống, chen đám đông tới trước cổng phường móc chìa khóa ra mở, Dương Nhị cũng lấy chìa khóa của mình ra mở một cái khóa khác.
Cổng phường vừa mở ra, đám đông dân chúng chờ sẵn người xách giỏ, kẻ quang gánh, người đẩy xe, dắt lừa… cùng chen chúc ùa ra.
Mã Lục và Dương Nhị đang mở cửa không kịp tránh qua một bên, hai người bị đẩy tới đẩy lui như ngọn cỏ lau đung đưa trước gió. Mã Lục đang ngái ngủ, lại bị đẩy nghiêng ngả đầu óc quay cuồng, còn Dương Nhị thì… hì hì! Không biết là con gái nhà nào cố tình trong lúc chen lấn sờ mông chàng. Phụ nữ thời Đường của chúng ta rất can đảm, thưởng thức cái đẹp không chỉ là đặc quyền của cánh đàn ông, nếu các nàng thấy người khác phái nào đẹp trai ưa nhìn, hợp khẩu vị, các nàng sẵn sàng lợi dụng cơ hội để sờ mó.
Đợi cho đám đông trước cổng phường đi hết sạch, Mã Kiều và Dương Phàm bị quay mòng mòng như con vụ lúc này mới dừng lại, Dương Phàm quay sang rủ Mã Kiều:
– Kiều ca, đi ăn mì không?
Mã Kiều ngáp một cái dài, khoát tay nói:
– Không được, mẹ ta đã nấu cơm xong, ta về nhà ăn.
Mã Kiều nổi danh có hiếu trong phường, người trong phường thậm chí còn muốn tiến cử gã làm nhân tuyển cho danh hiệu hiếu thảo liêm khiết báo danh về triều. Đáng tiếc “danh hiệu hiếu liêm” điều đầu tiên phải hiếu thảo với cha mẹ, hơn nữa còn phải bác học đa tài, hành vi thanh liêm.
Mã Kiều chỉ được cái hiếu thảo với cha mẹ, đừng nói tới học rộng tài cao, tên đầu đất này ngay cả một chữ bẻ đôi cũng không biết, còn hành vi thanh liêm của gã thì… khỏi phải bàn tới!
Dương Phàm gật đầu đáp ứng, Mã Kiều với dáng đi của “phường đinh bất lương” rầm rập bỏ đi trên con phố lớn số mười. Gã đi được vài bước đột nhiên nhớ ra điều gì đó vội vàng xoay người dừng lại nói to với Dương Phàm:
– Tiểu Phàm, tối nay, chỗ cũ.
Mã Kiều đánh mắt hai lần với Dương Phàm trong lúc nói, Dương Phàm hiểu ý gật đầu cười đáp:
– Hiểu rồi! Kiều ca yên tâm, ta nhất định tới đúng giờ.
Mã Kiều gật gật đầu, ngáp thêm một cái rồi mới xoay người bỏ đi. Dương Phàm chợt gọi với theo, ngó trước ngó sau một phen rồi hồ nghi hỏi:
– Tối hôm qua chúng ta cũng không làm gì, ngươi vì sao lại mệt mỏi buồn ngủ như vậy?
Mã Kiều lập tức đứng lại, mặt tái xanh không còn hột máu trợn mắt quát:
– Mỗi ngày đều dậy sớm như vậy, ngươi không mệt mỏi buồn ngủ à?
Dương Phàm nhìn bóng lưng của Mã Kiều, lắc lắc đầu rồi đi về phía quán mì của Giang Húc Ninh.
Các thực khách đang ngồi xổm ven đường bưng tô mì thấy chàng đi đến đều nhiệt tình chào hỏi:
– Dương Nhị, dậy sớm ha!
– Nhị Lang, chào buổi sáng!
Thời gian thoi đưa, đó là năm Vĩnh Xương nguyên niên.
Đây là một buổi sáng ở đông đô Lạc Dương, cũng là một buổi sáng ở phường Tu Văn Lạc Dương!
Chương 9: Diện Phiến Nhi
Giang cô nương nhanh nhẹn làm thêm một tô đầy nữa cho người Oa kia, còn chưa kịp để gia vị vào đã nghe một âm thanh trong trẻo cất lên:
– Ninh tỷ, cho tiểu đệ một tô lớn nha, cho thêm nhiều dầu cay, tiểu đệ đói bụng lắm rồi.
Giang đại cô nương vừa nghe tiếng thì đã biết là ai đến, nàng cũng không ngẩng đầu lên, gắt giọng:
– Tên tiểu tử thúi nhà ngươi, chờ một chút ngươi cũng không đói chết được, ngay lúc đông khách lại tới hối tỷ tỷ, đúng là quỷ chết đói đầu thai mà.
Nói thì nói vậy, nàng vẫn gắp một gắp mì lớn cho vào trong bát, thêm chút hành thái, hoa hẹ, chế thêm mấy giọt dầu cay làm từ cây thù du, lén nhìn mẹ đang nhóm lửa lò xem có chú ý hay không, rồi thật nhanh lấy một cái hồ lô nhỏ từ trong cái tạp dề màu xanh, mở nắp ra, bỏ chút tiêu vào.
Tiêu ở thời điểm này vẫn còn là thứ tương đối hiếm, giá cũng hơi đắt, ở nơi này những quán ăn bình dân trên phố không phải ai cũng có thể được ăn, tên người Oa bên cạnh nhìn sang với ánh mắt thèm thuồng.
Diện Phiến Nhi và Mã Kiều là hai người mà Dương Phàm quen biết đầu tiên kể từ khi đến Lạc Dương. Hắn ở lại Lạc Dương, tìm một chỗ ở, tham gia ứng tuyển vào phường đinh, đều dựa vào sự giúp đỡ của hai người này, cho nên quan hệ giữa Dương Phàm với hai người rất tốt. Diện Phiến Nhi xem hắn như em ruột của mình, hết sức yêu thương, Dương Phàm thì như thấy ở Diện Phiến Nhi có vài phần giống như người chị đã mất của mình, nên cũng thật lòng coi nàng như chị ruột.
Diện Phiến Nhi sau khi nhanh chóng rắc tiêu vào tô, thấy mẹ vẫn đang mải miết thêm củi, không có chú ý tới việc làm lén lút của mình, liền thè lưỡi cười dí dỏm với Dương Phàm, đưa tới một tô lớn. Dương Phàm đón lấy, nói tiếng cám ơn với Giang cô nương, cầm ba miếng đồng tiền lớn vỗ mạnh lên bàn, lớn tiếng nói:
– Ba đồng tiền!
Khuôn mặt xinh đẹp sa sầm, trừng mắt nhìn hắn ra vẻ oán trách.
Dương Phàm làm phường đinh tiền lương không nhiều, một người đàn ông độc thân cuộc sống không ai lo liệu, chi tiêu không có kế hoạch, khó khăn lắm mới không lâm vào cảnh túng thiếu, bởi vậy Giang Húc Ninh vẫn hay ưu ái cho hắn, chuyện ăn uống của Dương Phàm có thể giúp được là giúp, những khi đến quán của nàng ăn mì, Giang Húc Ninh chỉ cần thấy mẹ không chú ý là không lấy tiền của hắn.
Dương Phàm cũng không coi Diện Phiến Nhi là người ngoài, tấm lòng của tỷ tỷ, hắn cũng vui vẻ nhận. Nhưng gần đây nhất hắn mới được Mã Kiều cho hay, hoá ra Ninh tỷ vất vả như vậy, mỗi ngày đều thức khuya dậy sớm, chính là vì để dành dụm của hồi môn.
Theo tập tục của thời Đường, khi nhà gái thành thân của hồi môn phải thật hậu hĩnh, con gái con nhà nghèo rất khó gả, cho dù nàng ta có xinh đẹp, trừ khi gả cho người đàn ông quê mùa cục mịch nghèo rớt mồng tơi, nếu không thì với của hồi môn quá ít, khó tránh khỏi cảnh bị nhà chồng xem thường, từ đó sẽ bị gây khó dễ.
Ninh tỷ từ sau khi cha mất, cuộc sống của hai mẹ con khá chật vật, gia cảnh cũng sa sút, cuối năm nay nàng sẽ kết hôn rồi, nhà chồng là Liễu gia ở phường Vĩnh Khang, mặc dù không có công danh, nhưng cũng là người ăn học.
Hai mẹ con sợ đồ cưới ít quá sẽ bị nhà chồng khinh thường, cho nên ngay từ ba năm trước đã bắt đầu lo mua bán kiếm tiền, tất cả đều là vì của hồi môn dành cho nàng khi xuất giá được dễ coi một chút, buôn bán nhỏ, lời cũng không có bao nhiêu, Dương Phàm sao có thể ăn không mãi được. Hắn cố ý lớn tiếng nói ra, chính là muốn cho Giang mẫu chú ý, tránh cho Diện Phiến Nhi tỷ tỷ phải đưa lại tiền.
Dương Phàm thấy tỷ tỷ có ý tốt, cho nên cười cười đầy ái ngại với Giang Húc Ninh, lúc này mới bưng lên tô mì thơm ngào ngạt nóng hổi kia, đi lại dưới tàng cây, ngồi ở trên một tảng đá bắt đầu ăn mì.
Dưới tàng cây đặt một vài tảng đá, quán ăn bình dân không có chỗ để kê bàn, mọi người ăn mì ở đây mang đi đâu ăn là tùy ý. Khách ăn đều là hàng xóm láng giềng, mọi người vừa ăn, vừa nói chuyện trên trời dưới đất, Dương Phàm rất ít nói, chỉ chú ý nghe, hắn là một người rất chịu khó nghe.
Lúc trước, Trương Bạo, cháu của Cầu Nhiêm Khách trong cơn giận dữ một mình xông vào phủ đô đốc, nhanh như chớp lấy đầu của đô đốc Quảng Châu là Lộ Nguyên Duệ, rồi ung dung cắp kiếm lên thuyền rời bến, tiếng tăm vang dội một thời, trở thành một trong những hiệp khách nổi tiếng trong lịch sử của Đại Đường. Chỉ có điều không ai biết tên họ của y, sau này phần lớn sách sử ghi lại việc này, cũng chỉ gọi là người Côn Luân vô danh.
Trương Bạo đi lại không hình không bóng, tự do, phóng khoáng, nhưng lại bị một tên ăn xin nho nhỏ là Dương Phàm làm vướng bận, tuy nhiên Trương Bạo là người hào hiệp trượng nghĩa, rộng rãi cởi mở, cả đời xem trọng nhất là thanh danh, không muốn bởi vì chuyện của mình mà hại tính mạng của tiểu tử này, đành phải đem hắn mang đến Nam Dương. Dương Phàm ở Nam Dương vài năm, theo sư phụ học tập võ nghệ, khi đã học thành tài, hắn liền nhanh chóng từ biệt sư phụ về lại Đại Đường.
Sau khi Dương Phàm trở lại Đại Đường trước tiên đi một chuyến đến phủ Quảng Châu, tìm một vài viên quan nhỏ làm việc trong phủ đô đốc ở Quảng Châu năm đó. Đáng tiếc thân phận của vị Bùi đại nương kia quá mức thần bí, mặc dù năm đó vào cái ngày mà Lộ đô đốc đích thân tiễnvị Bùi đại nương ra khỏi phủ cũng chính là ngày mà y bị người Côn Luân lấy đầu, bởi vậy cũng có một số người còn nhớ rõ vị phu nhân ấy, nhưng cũng không biết rõ thân phận của bà ta.
Dương Phàm không biết làm sao, đành phải từ bỏ việc tìm kiếm Nữu Nữu, bèn đi phủ Thiệu Châu.
Nữu Nữu đang ở nhà quyền quý, áo cơm không lo, tuy là làm nô tỳ, nhưng nhìn mẹ con của Bùi đại nương không giống dạng chủ nhân bạc đãi tôi tớ, có lẽ là nhất thời không có việc gì, tạm thời không tìm nàng nữa, vừa vặn hắn không phải vướng tay vướng chân, bởi vì hắn còn có một chuyện khác phải làm, đó là món nợ máu tàn sát thôn vào năm Vĩnh Thuần thứ hai!
Chuyện xảy ra vào năm đó, manh mối duy nhất của hắn chỉ có diện mạo của tên quan ác ôn cưỡi ngựa đứng im lặng rất lâu trên sườn núi, lạnh lùng ra lệnh tàn sát thôn. Tên kia có cái mũi quặp như mũi chim ưng với nếp hằn thật sâu bên cánh mũi.
Ở Thiệu Châu, hắn vẫn như cũ không có thu hoạch gì. Những năm gần đây trong triều đình thế lực khắp nơi đấu đá lẫn nhau, khi thì thất thế, khi thì đắc thế, bọn quan viên mất chức bãi chức thậm chí bỏ mạng rất nhiều. Tên Thứ sử Thiệu Châu, người đã công bố thôn bị phát sinh ôn dịch đã bị chém đầu do liên can với việc mưu phản của Từ Kính Nghiệp.
Lúc đó Thông phán của phủ Thiệu Châu cũng bị liên lụy, từ chức trở về quê. Dương Phàm lại tìm tới quê nhà của tên Thông phán đó, nhưng tên Thông phán này đối với nội tình của việc này lại hoàn toàn không biết gì cả, tin tức duy nhất y biết được đó là: những người đó đến từ Lạc Dương, lai lịch quá lớn, đến nỗi năm đó Thứ sử đại nhân cũng phải che dấu cho bọn họ, biết rõ huyết án những người chết ở trong thôn đều là bị tàn sát, cũng chỉ có thể lấy cớ là ôn dịch bùng phát để che dấu, không dám báo cáo rõ ràng với triều đình.
Về phần lai lịch của mười một hộ trong thôn, khi còn bé người nhà của Dương Phàm chưa bao giờ nói với hắn, hắn cũng không hề hoài nghi, hắn chưa bao giờ rời đi thôn nhỏ của mình, cho nên không cảm giác thôn của mình có gì khác so với những thôn khác, hắn cứ đinh ninh cho là mình chỉ là một người miền núi bình thường.
Nhưng sau này lớn lên từng trải nhiều, Dương Phàm dần dần phát giác, tiểu sơn thôn nơi mình sống và lớn lên quả thật có rất nhiều chỗ đáng ngờ, không chỉ vì huyết án tàn sát thôn thình lình xảy ra, mà là bởi vì chỗ ở của hắn, cư dân nơi sơn thôn không giống với phần lớn những cư dân sơn thôn bình thường khác.
Sơn cốc vô danh kia dường như chôn dấu rất nhiều bí mật, cha mẹ hắn, hàng xóm láng giềng của hắn, lai lịch của mỗi người đều rất bí ẩn. Điều đáng tiếc chính là, dường như mỗi một hộ tịch ở trong thôn đều đã được sửa đổi, Dương Phàm dựa vào những điều ghi chép trong những hộ tịch này căn bản tra không được lai lịch trước kia của bọn họ. Mà thân phận của bọn họ, lai lịch bao gồm cả tên họ tất cả đều là giả.
Đối với việc tiếp nhận bọn họ, năm ấy cũng đều là do Thứ sử đại nhân một tay xử lý, thậm chí ngay cả vị Thông phán mà Dương Phàm tìm được cũng không biết rõ ràng, việc sắp xếp cho hơn mười hộ thôn dân lại chỉ cần một vị Thứ sử tự mình xử lý, thậm chí không dám mượn tay người khác, việc này cho thấy có quá nhiều chỗ đáng ngờ.
Đã là người trong chốn quan trường, theo cách nghĩ thêm một chuyện chi bằng bớt đi một chuyện, không ai chủ động đi hỏi thăm việc này, Dương Phàm không hỏi được gì từ viên Thông phán kia. Tin tức có ích duy nhất nghe được từ miệng của viên Thông phán kia chính là lai lịch của đội quân này, đó là Long Võ Quân, cánh kỵ binh duy nhất trong cấm quân của Đại Đường.
Vì thế, hắn đến đây. Hắn bỏ tiền mua được một hộ tịch chuyển vào phường Tu Văn, nơi có rất nhiều quan viên triều đình, trở thành một phường đinh. Sau hơn nửa năm, hắn đã quen với thân phận của mình, quen với hoàn cảnh ở Lạc Dương, nhưng việc thăm dò tin tức của hắn vẫn không có kết quả.
Ấn tượng sâu nhất của hắn chính là tên quan mặc áo bào xanh nọ, nhưng người mà hắn có thể tiếp xúc có hạn, địa vị của người mà hắn có thể tiếp xúc cũng không cao, hắn cũng không thể dựa vào trí nhớ, vẽ ra tướng mạo của tên quan kia đã làm cho hắn khắc cốt ghi tâm để dò hỏi khắp nơi. Dường như manh mối đáng tin nhất, ngược lại chính là cánh quân kia mà lúc ấy hắn hoàn toàn không biết gì, Long Võ Quân.
Một cánh quân từ Đông đô Lạc Dương được phái đi, xa xôi ngàn dặm chạy đến Thiệu Châu chỉ để tàn sát một thôn, nhất định có một nguyên nhân rất lớn, một mục đích mà không thể cho ai biết, sau lưng nhất định có một kẻ chủ mưu có thân phận, chức vị rất cao. Nhưng kỳ quái là, sau hơn nửa năm điều tra nghe ngóng, hắn không ngờ lại không tìm thêm được một chút manh mối nào nữa, giống như chưa từng có một đám người đã từng làm một chuyện tán tận lương tâm như thế.
Hắn từng hoài nghi, huyết án này có phải là do triều đình gây nên không, nhưng theo từng bước một mà hắn đã điều tra được, nghi ngờ này dần dần được loại bỏ. Tất cả dấu vết đều không có, bất luận manh mối nào cũng đều được xóa sạch, với sự quyết đoán của Võ hậu đương triều, hoàng tộc Lý Đường có nhiều Vương gia như vậy, bà ta nói giết là giết, giết kẻ phạm tội, tịch thu tài sản cả nhà, phụ nữ và trẻ em cũng đều giết, cũng chưa từng nhăn mặt làm ra vẻ ta chưa từng giết người, không cần che giấu như thế?
Mấy ngày nay, hắn vừa bắt tay vào điều tra từ phía các quan viên, vừa điều tra trong dân gian. Có rất nhiều chuyện tra không được từ bọn quan viên, nhưng trên phố lại biết rất tường tận, đừng nhìn những thường dân này có thân phận thấp kém, nhưng trong số bọn họ có vài người là người hầu trong các nhà quyền quý, có người thì trông coi nhà cho quan, có người làm quản sự ở phòng kế toán của nhà quan quyền quý, hoặc là có vợ làm đầu bếp nữ, làm bà mụ của nhà giàu có, cho nên biết rất nhiều chuyện mà người ngoài không biết, nghe không được gì từ chỗ quan viên, nhưng lại có thể nghe được từ miệng của bọn họ.
Hứa Tiểu Kiệt, người dắt lừa thuê gõ hai cái “ Coong coong “ vào bát rồi bắt đầu hắng giọng
Hứa Tiểu Kiệt là “ Người dắt lừa thuê “ , trong nhà nuôi một con lừa đực. Ngày ngày dắt lừa đến nơi phồn hoa náo nhiệt hoặc tới cửa thành mà chờ, có người thuê con lừa của y, người thuê liền cưỡi lên con lừa, hoặc là dùng con lừa của y mà vận chuyển hàng hóa, hành lý, y liền đi bộ theo phía sau, cho nên gọi là “ Người dắt lừa thuê “ .
Bởi vì người dắt lừa thuê mỗi ngày tiếp xúc với đủ dạng khách khác nhau, kiến thức rộng rãi, cho nên mỗi ngày Hứa Tiểu Kiệt luôn luôn có một chuyện mới để kể cho mọi người nghe, mỗi ngày y đều là người đầu tiên kể đủ loại chuyện mà y nghe được trong ngày hôm qua:
– Khụ! Hôm qua, khi ta dắt lừa thuê, có nghe nói một chuyện lý thú…
Chương 10: Thiếu nữ yêu thầm.
Hứa Tiểu Kiệt thấy mọi người ai cũng nhìn về phía y, liền cười hì hì nói:
– Chuyện này xảy ra vào mấy hôm trước ở phường Quy Nhơn, chuyện là ở phường Quy Nhơn có một nhà họ Hạ, cô con gái nhà họ Hạ thích một người họ Tôn cùng phường nhưng lại ngại ngùng không dám thổ lộ, cô gái này lại không biết chữ, sau khi nghĩ tới nghĩ lui, liền tặng chàng ta một cái khăn lụa.
Chàng trai kia nhận lấy khăn tay của nàng, nhưng lại không biết ý tứ của người ta, bèn đi hỏi một người có học ở trong phường, người này cầm lấy khăn lụa, lật qua lật lại hai lần, bên trên một chữ cũng không có, cũng không thêu cái gì, ông ta cũng lấy làm khó hiểu. Tuy nhiên, sau khi ông ta ngẫm nghĩ hồi lâu, liền nói với chàng trai:
– Chúc mừng, chúc mừng, cô nương ấy là có tình ý với ngươi rồi.
Những người đàn ông đang sì sụp ăn mì cũng mồm năm miệng mười mà nói:
– Chỉ dựa vào một tấm khăn lụa trắng, người có học kia làm sao mà biết được?
Hứa Tiểu Kiệt đắc ý nói:
– Vậy mới nói, người có học đúng là người có học, rất thông minh lanh lợi, ông ta nói: “ Ngươi xem, khăn lụa này trống trơn, nhìn ngang nhìn dọc, lật qua lật lại, bất kể nhìn như thế nào, cũng chỉ có tơ. “Tơ”, cũng chính là “tư”. Như vậy chẳng phải cô nương người ta thích ngươi sao? Kết quả là, chuyện tình của hai người cứ như vậy mà tiến tới”.
Một người đàn ông vỗ đùi nói:
– A! Sao ta lại không nghĩ tới nhỉ, không sai chút nào, khăn tay bằng lụa không phải chỉ sự vương vấn sao?
Hứa Tiểu Kiệt hôm nay chỉ nói chuyện nam nữ, không hề nói đến chuyện của các quan lại, nếu để mặc cho bọn họ cứ nói mãi về cái đề tài này, nội dung nói chuyện phiếm sáng nay chỉ sợ cũng xoay quanh đề tài về chuyện tình nam nữ thôi.
Dương Phàm cố ý làm cho bọn họ chấm dứt đề tài này, ngược lại thảo luận về bọn quan viên nghe lý thú hơn, bèn nói:
– Theo như ta thấy, chỉ sợ vị cô nương tặng khăn kia, bản thân cũng không nghĩ nhiều như vậy. Nàng là một người con gái, chịu đem khăn tay của mình tặng cho chàng trai kia, tình ý đã quá rõ ràng rồi.
Chỉ có điều chàng trai mà nàng thích cũng hơi thật thà chất phác, không thể hiểu được điều này. Mà người có học kia lại phức tạp hóa vấn đề, may mà cũng không sai, suy nghĩ ấy của ông ta cũng phù hợp với chuyện tình nam nữ, không có làm lỡ chuyện tốt của người ta. Trần Nhị thúc, thúc hầu hạ ở phủ Thị lang, gần đây nhất có chuyện gì lý thú không?
Vị Trần Nhị thúc kia đang vùi đầu ăn mì, nghe vậy liền ngẩng đầu cười, vừa muốn mở miệng nói chuyện, một thiếu nữ mặc váy ngắn liền eo màu xanh, áo khoác màu trắng với hai tay áo rộng vẻ mặt “ Không coi ai ra gì “ đi về phía bọn họ.
Vị cô nương này bước chân nhẹ nhàng, đi giống như mèo con, dọc đường nếu như gặp người quen chào hỏi nàng, nàng mới lộ ra vẻ mặt rất “ Kinh ngạc “ , nghiêm túc nhìn sang, sau đó chợt như bừng tỉnh, rồi mới lễ phép ân cần thăm hỏi một câu với người ấy.
– Trần Nhị thúc có ở đây không?
Thiếu nữ đến gần, nheo mắt hỏi mọi người, ngay tại chỗ đối diện với nàng năm thước, một người thô kệch có râu quai nón đang ngồi dựa vào gốc cây, người này chính là người mà Dương Phàm mới vừa gọi là Trần Nhị thúc, Trần Nhị thúc đứng lên, chào hỏi cô nương kia, cười vang nói:
– Tiểu Đông cô nương, cô nương đã đến rồi sao, ta ở chỗ này đây.
– Ồ, Trần Nhị thúc, áo của thúc cháu đã làm xong.
Tiểu Đông cô nương mắt đang dáo dác dường như đã tìm được mục tiêu, bước về phía lão, một người đàn ông ngồi ở trên đá bên cạnh ăn mì vội rút chân lại, sợ nàng vấp ngã.
Tiểu Đông cô nương cười híp mắt đến gần Trần Nhị thúc, lấy cái áo đang cầm trên tay đưa tới, nhỏ nhẹ nói:
– Nhị thúc, áo của thúc đã làm xong.
Người thiếu nữ này chẳng những tiếng nói nhỏ nhẹ, thân hình cũng khá mảnh mai, dung mạo của nàng cũng rất xinh đẹp, trên mũi, trên mặt có mấy nốt tàn nhang mờ mờ, nhìn cũng không rõ lắm.
Trần Nhị thúc đặt cái tô xuống, đưa tay xoa xoa ở trên người, cầm lấy bộ áo mới kia, nhìn đường may khéo léo, tỉ mỉ, vui vẻ nói:
– Ha ha, Tiểu Đông à, cháu may y phục này thật sự là vừa nhanh lại vừa đẹp.
Tiểu Đông cười cười mà nói:
– Nhị thúc khách sáo rồi, nếu Nhị thúc thích, sau này nếu có may áo hãy đến nhà cháu, mọi người đều là láng giềng, nhất định giá cả sẽ lấy rẻ một chút.
Trần Nhị thúc liên tục gật đầu nói:
– Đó là đương nhiên, đó là đương nhiên.
Tiểu Đông do dự một chút, trên mặt liền thoáng một chút đỏ, nhỏ giọng nói:
– Vừa rồi cháu… hình như nghe thấy tiếng của Nhị Lang, Nhị Lang… có ở đây ư?
Tiểu Đông nói xong, liền nheo mắt lại, nhìn về phía những người khác đang ngồi vây quanh dưới tàng cây, thị lực của nàng bẩm sinh đã không tốt, nói theo cách nói hiện đại chính là thị lực bị cận nặng, khi muốn nhìn ai, theo bản năng mắt phải nheo lại.
Dương Phàm một thân một mình, trong nhà không có ai nấu ăn, mỗi ngày đều đến đây ăn cơm, sao lại không có ở đây chứ? Tiểu Đông cô nương biết rõ còn cố giả vờ hỏi.
Dương Phàm lúc này đang bưng chén canh, nghe vậy vội lủi ra sau lưng người khác trốn.
Từ dạo Tiểu Đông cô nương bị té ngã, đúng lúc hắn nhìn thấy, nhào về phía trước đỡ dậy, cô nương Tiểu Đông này dường như liền có tình ý với hắn, chỉ muốn gặp được hắn, dù không có việc gì cũng tìm cớ mà bám dính lấy hắn. Mặc dù Dương Phàm cũng mơ hồ đoán được tâm tư của nàng, nhưng vì người ta cũng chưa từng thổ lộ, hắn cũng không thể sỗ sàng cự tuyệt, chỉ có thể cố sức trốn tránh nàng.
Ngờ đâu một người đàn ông bên cạnh giở trò xấu, thừa dịp hắn không chú ý, đẩy hắn về phía trước, Dương Phàm “ Ôi “ một tiếng, lảo đảo một cái, trong tay đang cầm bát cơm chỉ còn lại có một ít súp còn chưa uống hết, lập tức tạt tràn ra ngoài, chẳng những đổ lên tay, còn văng đến váy của Tiểu Đông cô nương.
– Xin lỗi, xin lỗi! Tiểu Đông cô nương, ta không cẩn thận…
Dương Phàm quay đầu lại trừng mắt nhìn gã đàn ông kia liếc mắt một cái, quay đầu hướng về phía Tiểu Đông xin lỗi, Tiểu Đông cô nương bước tới gần, thấy rõ hình dạng của hắn, liền vui mừng mà nói:
– Không sao đâu, cũng không phải do Nhị Lang cố ý, đừng có khách sáo như thế, ngươi có bị bỏng hay không?
Tiểu Đông nói xong, liền lấy từ trong tay áo ra một chiếc khăn tay, lau dầu mỡ dính trên tay và trên quần áo của hắn.
Dương Phàm lúng túng nói:
– Ôi… , Tiểu Đông cô nương, ta không sao. Nước canh đã nguội rồi, cô nương không cần… Này… Ha ha ha…
Tiểu Đông cô nương bắt lấy tay của hắn để ở trong tay mình, cẩn thận lau sạch cho hắn, nhỏ giọng từ tốn nói:
– Nhị Lang sống một mình, mọi việc đều phải cẩn thận mới được, không nên hấp tấp. Y phục của ngươi bị bẩn rồi, hay là cởi ra, ta mang về giặt cho ngươi.
Nói xong, lại định cởi áo ngoài của hắn. Dương Phàm kinh hãi, vội vàng khoát tay:
– A, không sao, không sao! Tiểu Đông cô nương, cô nương không cần phải như thế, ta… Lúc này ta chỉ có một bộ quần áo mà thôi, nếu cởi ra thì lấy cái gì mà mặc.
Tiểu Đông khẽ thở dài, ân cần dặn dò:
– Đàn ông phải ra ngoài xã giao, không thể chi có một bộ quần áo được, đó chính là thể diện của đàn ông. Nhị Lang, huynh theo ta về nhà một chuyến, ta giúp huynhđo kích cỡ rồi may cho huynh một bộ y phục mới.
Dương Phàm cười gượng nói:
– Không cần, ta… rất ngại vì trong túi đã không còn tiền, bây giờ không thể đặt may áo mới đâu.
Tiểu Đông cô nương dịu dàng nói:
– Vậy thì có sao đâu, khi nào huynh có tiền thì trả cũng được, cho dù mãi vẫn không có tiền,… cũng không …có vấn đề gì.
Nói đến đây, Tiểu Đông cô nương liền hơi cúi đầu, trên mặt thoáng vẻ xấu hổ.
Dương Phàm bối rối nói:
– Đa tạ ý tốt của Tiểu Đông cô nương, tạm thời… ta chưa cần áo mới, khi nào ta muốn may quần áo, nhất định sẽ tìm cô nương may hộ. Ôi, ở phường đang gọi ta, chắc là có chuyện bảo ta làm, vậy… Tiểu Đông cô nương, ta đi trước, chúng ta gặp lại sau.
Dương Phàm cầm lấy bát cơm chạy trối chết, phía sau lập tức vang lên tiếng cười trêu cợt của mấy người đàn ông:
– Dương nhị thật là không có đạo lý gì cả, tình ý này so với ‘Tơ chính là tư’ còn rõ ràng hơn nhiều, sao cứ giả vờ ngây ngốc mãi thế.
– Đúng đấy, đúng đấy, Dương nhị à, Hoa đại nương ở phường Châm Chức có rất nhiều tiền, Hoa đại nương chỉ có một cô con gái bảo bối, người ta đối với ngươi tình thâm ý trọng, chi bằng ngươi tới nhà ở rể đi, từ nay về sau ăn sung mặc sướng, lại còn được một cô vợ nhỏ vừa thương ngươi vừa hiểu ý ngươi.
Mọi người bật cười ha hả, trên mặt Tiểu Đông liền đỏ ửng giống như hoa đào, vô cùng xấu hổ dậm chân nói:
– Ôi chao, mọi người nói bậy gì đó, người ta không thèm để ý tới các ngươi nữa.
Nói xong liền vén váy bỏ chạy, mắt của nàng tuy nhìn kém, nhưng phường này nàng quá quen thuộc đường đi, bình thường sẽ không gặp phải vấn đề gì.
Nhìn bóng dáng cô nương đang bỏ chạy, tiếng cười dưới tàng cây càng thêm vang dội.
Phường đinh làm việc mỗi người một nơi, không có việc gì cố định. Dương Phàm làm việc mỗi nơi một ít, nhàn nhã thoải mái là hết một ngày, và khi bóng đêm phủ xuống, liền cùng với Mã Kiều đi khóa cửa phường.
Thành Lạc Dương thực hiện việc cấm đi lại ban đêm, đến tối chỉ có những người có giấy phép đặc biệt mới được xuất hành, còn những người khác thì không được ra đường, tất cả dân chúng đều ở trong từng phường, phường này tương đương với một khu, bên ngoài đều có xây tường cao gần hai trượng, tối cổng cũng phải được khóa.
Cổng phường khi đã khóa, tất cả đường phố đều trở nên vắng ngắt, khi màn đêm hoàn toàn bao trùm vạn vật, trên đường phố tối đen như mực, ngay cả bóng quỷ cũng không có, mỗi nhà đều sáng lên ánh đèn, giống như sao lốm đốm trên bầu trời. Võ hầu (lực lượng canh gác) thỉnh thoảng đi tuần tra trên con phố số mười, nếu có người đi ra đường vào buổi tối, một khi bị bọn họ bắt được, chắc chắn sẽ phải chịu một bữa đau khổ.
Muốn nói nơi có đèn đuốc sáng như ban ngày thì cũng có đấy. Những người quyền quý giàu có sắp đặt yến tiệc đãi khách tại nhà, hoặc uống rượu mua vui ca múa trợ hứng, hoặc có tiểu mỹ nữ ở thanh lâu kỹ phường vừa múa vừa hát, đàn sáo ngân nga, oanh oanh yến yến, căn bản cũng không ai quản, cấm đi lại ban đêm chỉ là cấm ở trên đường phố, ở trong nhà náo nhiệt như thế nào cũng không quan hệ với ai ở bên ngoài.
Tuy nhiên, quy định là do người đặt ra, có người đặt ra quy định, đương nhiên là sẽ có người làm trái quy định. Người ở trong phường này ngoại trừ không được đi lại trên con đường lớn số mười hay các con phố, con hẻm thuộc các tuyến đường chính, còn lại thì nếu như các cư dân đi lại vào ban đêm, phần lớn thời gian các Võ hầu đều là mở một mắt nhắm một mắt, cũng chẳng muốn quản làm gì.
Nhà của Dương Phàm ở phường Tu Văn là căn cuối cùng của lý thứ nhất hẻm thứ bảy, trong bóng đêm âm trầm, hắn lặng lẽ hiện ra ở sân nhà, lẳng lặng đứng yên trong hẻm một lúc lâu, thấy trên đường vô cùng yên ắng, lúc này mới lén lút lần mò đi về phía trước, cùng lúc đó, ở trong hẻm thứ tám cũng có một bóng đen bí ẩn đang lần mò đi ra.
– Kiều ca!
– Tiểu Phàm!
Hai người tiến đến gặp nhau, cẩn thận quan sát khắp nơi, Mã Kiều vỗ vai Dương Phàm, nói:
– Đi, làm việc thôi!